LỜI NHÀ XUẤT BẢN Công tác dân vận được xác định là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, là một trong những công tác cơ bản, có tính chiến lược, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những truyền thống tốt đẹp và nguồn gốc sức mạnh của Đảng là mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt công tác dân vận trong thời kỳ mới.
Ngay từ năm 1949, khẳng định ý nghĩa to lớn của công tác dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về "Tăng cường đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới", trong đó khẳng định mục tiêu: Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhằm cung cấp thêm tư liệu về những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực hiện công tác dân vận trong thời gian qua, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân vận. Với hơn 30 bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo bộ, ban, ngành, các nhà khoa học, nội dung cuốn sách đã đưa ra những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nổi bật cơ sở lý luận, thực tiễn và những kinh nghiệm của công tác dân vận trong thời gian qua. Từ đó, chúng ta càng nhận thức sâu sắc rằng: Dân vận là công việc rất quan trọng, phải làm thường xuyên, làm hằng ngày, hằng giờ, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi, không phô trương hình thức, nhằm phát huy cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các bài viết trong cuốn sách cho thấy rõ hơn dân vận là công tác rộng lớn, nhạy cảm bao trùm mọi mặt của đời sống, do đó luôn phải đúc rút từ hoạt động thực tiễn để kịp thời định ra chủ trương, chính sách hợp lòng dân, thể hiện đúng tư tưởng "lấy dân làm gốc" của Đảng ta. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất bản sau cuốn sách sẽ hoàn thiện hơn.
Tháng 11 năm 2013
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
DÂN VẬN* HỒ CHÍ MINH
Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại.
I- NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
II- DÂN VẬN LÀ GÌ?
Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho.
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng.
III- AI PHỤ TRÁCH DÂN VẬN?
Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận. Thí dụ trong phong trào thi đua cho đủ ăn, đủ mặc.
- Cán bộ chính quyền và cán bộ Đoàn thể địa phương phải cùng nhau bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức nhân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn...
- Cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách chọn giống, ủ phân, làm cỏ, v.v..
Những hội viên các đoàn thể thì phải xung phong thi đua làm, để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm.
IV- DÂN VẬN PHẢI THẾ NÀO?
Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc.
Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại.
Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
__________________
*Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.698-700.
ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG* NGUYỄN VĂN LINH**
(...) Đáng lẽ ra Nghị quyết về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân" đã được ra sớm hơn một, hai năm. Nhưng sau Đại hội VI, những vấn đề về kinh tế, xã hội quá bức bách, nên Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư phải tập trung sức để xác định nội dung bước đi và biện pháp đổi mới. Đó là một việc rất khó khăn vì chưa có sẵn những bài bản và kinh nghiệm, chúng ta phải vừa làm, vừa tìm tòi, sáng tạo. Những năm 1987 - 1988 cứ loay hoay xung quanh các vấn đề kinh tế - xã hội và phải tập trung sức chỉ đạo thực hiện những nghị quyết đó. Vì thế không có thì giờ đi sâu vào công tác quần chúng. Mãi đến tháng 3 vừa rồi Trung ương mới họp Hội nghị lần thứ tám, ra Nghị quyết về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân". Thế là chậm. Nhưng chậm mà có được nghị quyết còn hơn là để hết nhiệm kỳ Đại hội VI này Trung ương không có nghị quyết về công tác quần chúng của Đảng thì khuyết điểm còn to hơn nhiều. Nhân dịp này, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị và Trung ương nhận lỗi với các đồng chí và đồng bào.
Bây giờ kiểm điểm lại thì thấy rằng, lãnh đạo từ Trung ương trở xuống đã lơi lỏng công tác quần chúng nhiều chục năm rồi. Tôi lấy ví dụ: Trong Bộ Chính trị khóa VI này có tới bốn đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị lo công tác chính quyền, còn công tác dân vận, mặt trận lại không có đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị nào. Như vậy, chỉ việc phân công trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tỏ ra công tác dân vận bị lơi lỏng ngay từ cấp Trung ương.
(...) Còn bên chính quyền, tôi cũng được biết nhiều cán bộ, nhiều cấp và ngành từ Trung ương đến cơ sở không quan tâm và coi thường công tác quần chúng. Đây là một sai lầm nghiêm trọng cần phải sửa chữa ngay.
Các cấp ủy đảng phải thường xuyên kiểm tra và định kỳ có chương trình bàn về công tác quần chúng. Hiện nay có Nghị quyết về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân", các cấp ủy từ trung ương phải có chương trình kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện Nghị quyết. Hôm nay các đồng chí tổ chức hội nghị có tính chất kiểm tra này là đúng. Tôi hoan nghênh các đồng chí. Cần cố gắng sáu tháng một lần tổ chức hội nghị có tính chất kiểm tra thì mới mong chuyển biến công tác quần chúng của Đảng đúng như Nghị quyết Trung ương 8 đã đề ra. Muốn thế đề nghị đồng chí Vũ Oanh và Ban Dân vận Trung ương cũng như các cấp ủy tăng cường công tác kiểm tra thực hiện Nghị quyết của Trung ương về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân".
Để giúp Trung ương và các cấp ủy tỉnh, thành phố, đặc khu và huyện, quận làm tốt công tác quần chúng, theo tôi cần phải có ban dân vận ở các tỉnh, thành phố, đặc khu và huyện, quận. Ở tỉnh, thành phố nào đã giải thể ban dân vận, nay cần lập lại. Phải củng cố và tăng cường ban dân vận ở Trung ương và các tỉnh, thành phố, đặc khu, huyện, quận, theo hướng gọn nhẹ nhưng có chất lượng và có phong cách làm việc tốt. Ở trung ương phải có Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác dân vận, tôn giáo và dân tộc. Các cấp ủy cần phân công một ủy viên thường vụ phụ trách công tác dân vận; nơi nào có tôn giáo và dân tộc thì đồng chí này phụ trách luôn. Ở cơ sở cần có một đồng chí thường vụ cấp ủy phụ trách công tác quần chúng của Đảng. Ở các tỉnh, thành phố công nghiệp cần có một đồng chí tỉnh ủy, hoặc thành ủy chuyên trách công tác công đoàn, đồng chí này có thể là ủy viên ban thường vụ nếu đủ tiêu chuẩn; một đồng chí cấp ủy chuyên trách công tác thanh niên và nếu đủ tiêu chuẩn thì ở trong thường vụ cấp ủy. Ở nơi nào có nhiều tôn giáo cần có một cấp ủy viên phụ trách tôn giáo... Ở miền núi và những vùng có nhiều đồng bào dân tộc cần có một đồng chí cấp ủy đi sâu vào công tác dân tộc. Ban Dân vận Trung ương cùng với Ban Tổ chức Trung ương cần có dự thảo quy định về những vấn đề tổ chức mà tôi đã nêu trên đây để trình Ban Bí thư có quyết định sớm.
Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân như thế nào đã được nêu ra trong Nghị quyết Trung ương 8, tôi xin nhấn mạnh một số điểm.
Đảng ta là một đảng của giai cấp công nhân. Đảng chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, ngoài ra không có một lợi ích nào khác. Công tác cách mạng nói chung, công tác quần chúng do Đảng lãnh đạo nói riêng, khi chưa có chính quyền cũng như khi đã có chính quyền luôn luôn chăm lo lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, v.v. của nhân dân. Nhưng cách lo quyền lợi cho nhân dân lúc chưa có chính quyền hoàn toàn khác với khi đã có chính quyền. Khi chưa có chính quyền, chúng ta vận động quần chúng tổ chức nhau lại, dùng các hình thức đình công, bãi thị, bãi khóa... đấu tranh bảo vệ những quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội của quần chúng. Bây giờ có chính quyền thì trước hết các đoàn thể và tổ chức quần chúng phải vận động các giai cấp, tầng lớp quần chúng góp ý kiến xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật và xem xét các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đã thể hiện được lợi ích của quần chúng hay chưa; đã kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân hay chưa. Những quy định nào, chính sách, đạo luật nào còn vi phạm quyền lợi về kinh tế, chính trị, xã hội... của nhân dân thì kiến nghị với Nhà nước để sửa đổi. Đồng thời vận động nhân dân thực hiện và kiểm tra sự thực hiện của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức kinh tế, xã hội... Nếu một cơ quan, một tổ chức hay một cá nhân nào đó làm sai, thiệt hại đến lợi ích của nhân dân thì các đoàn thể, các tổ chức phải nhân danh quần chúng mà đấu tranh, tố cáo với các cơ quan quản lý của Nhà nước. Đấu tranh một lần chưa được, phải đấu tranh nhiều lần, đấu tranh với cơ quan hành pháp chưa được thì các đoàn thể và tổ chức quần chúng vận động nhân dân đưa yêu cầu, yêu sách cho đại biểu của mình trong hội đồng nhân dân các cấp, trong Quốc hội để đặt ra trong các tổ chức đó giải quyết. Cũng có lúc, có những yêu sách, kiến nghị của các đoàn thể hay của đại biểu nhân dân nêu lên nhưng không đúng hoặc chưa có điều kiện để thực hiện thì các cơ quan nhà nước phải giải thích cho rõ ràng. Cũng vì lợi ích của nhân dân nên phải áp dụng những hình thức đấu tranh như thế. Nếu không muốn dùng những hình thức đó thì có thể đưa công khai trên các báo, hoặc có thể kết hợp các hình thức đấu tranh vừa nêu ở trên để bảo vệ quyền lợi cho các tầng lớp nhân dân. Lâu nay một số nơi không dùng những hình thức ấy, trái lại một số đồng bào kéo nhau lên Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh đòi gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, gặp Tổng Bí thư đòi giải quyết. Nhưng Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Tổng Bí thư không có thì giờ giải quyết nên phải cử cán bộ ra tiếp đồng bào. Rút cuộc vẫn phải đưa về các cấp bộ đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể quần chúng ở địa phương hữu quan mới có điều kiện trực tiếp với dân, bàn bạc với dân để giải quyết cho thích hợp.
Các đoàn thể phải nhanh chóng đổi mới phương thức hoạt động, giảm bớt những cuộc họp để ra nghị quyết, chỉ thị, thông báo, hay để phổ biến nghị quyết của cấp trên; phải giảm bớt những cuộc họp chỉ để lạc quyên làm cho quần chúng chán ngán. Trái lại, phải biết tổ chức những cuộc họp để cùng nhau bàn bạc giải quyết những vấn đề bức bách do đoàn viên, hội viên, quần chúng tại chỗ đặt ra; những cuộc họp thảo luận về sản xuất kinh doanh thế nào cho tốt, giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội, an ninh, trật tự xã hội thế nào cho phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng của quần chúng tại chỗ, v.v.. Nếu có những cuộc họp như thế thì chắc đoàn viên, hội viên đến họp rất đông đủ, không cần phải nhờ đến công an đi "mời họp" mà quần chúng cũng không đi như đã diễn ra ở một vài nơi.
Các đoàn thể quần chúng bây giờ không phải chỉ nói chính trị suông mà phải đi vào những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Cán bộ đoàn thể phải đi sâu vào lĩnh vực kinh tế, phải có ít nhiều kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý công nghiệp, nông nghiệp; phải hiểu chính sách, luật pháp để chính mình thực hiện và tuyên truyền, phổ biến cho đoàn viên, hội viên và quần chúng thực hiện. Trước đây, khi lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hiểu nỗi thống khổ của nhân dân, giáo dục, giác ngộ nhân dân đấu tranh. Bây giờ xây dựng chủ nghĩa xã hội, cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể phải làm cho nhân dân hiểu muốn phát triển kinh tế, chống lạm phát, ổn định giá cả, ổn định thị trường... phải làm gì.
(...) Trên đây tôi mới nói về một số điểm chủ yếu của đoàn thể và tổ chức quần chúng trong đồng bào Kinh. Còn ở những nơi có đồng bào dân tộc thì đoàn thể và hội quần chúng phức tạp hơn nhiều. Đoàn thể và hội quần chúng ở vùng đồng bào dân tộc phải khác nơi vùng đồng bào Kinh và trong mỗi dân tộc cũng phải tổ chức khác nhau. Bởi vì có những dân tộc đã định canh định cư, đã ăn ở tập trung thành làng bản, nhưng cũng có những dân tộc còn du canh, du cư, ở phân tán. Các tổ chức kinh tế như hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán... trong vùng đồng bào dân tộc cũng không giống trong vùng đồng bào Kinh. Ở đồng bào dân tộc nên lập các đoàn thể như thế nào? Có thể có các đoàn thể và tổ chức quần chúng như trong đồng bào Kinh, nhưng cũng có dân tộc chưa thể tổ chức như thế được. Có dân tộc phải chú ý đến "già làng" là những người có uy tín trong đồng bào. Không tranh thủ "già làng" thì không thể vận động người dân tộc được. Phải từng bước tranh thủ "già làng", làm cho "già làng" hiểu và phân biệt con đường lạc hậu và tiến bộ của dân tộc mà đưa dân tộc đi theo con đường tiến bộ. Như vậy là công tác tổ chức, vận động quần chúng trong đồng bào dân tộc về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội... phải khác đồng bào Kinh và trong mỗi vùng đồng bào dân tộc cũng không giống nhau. Để giúp Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư giải quyết tốt những vấn đề ấy phải củng cố Ban Dân tộc Trung ương và Ban Dân tộc phải ở trong khối dân vận. Ban Dân vận và Ban Dân tộc Trung ương phải đi sâu nghiên cứu những vấn đề nêu ra trên đây giúp Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện.
(...) Như tôi đã nói ở trên, lâu nay do ít quan tâm đến công tác vận động quần chúng nên chất lượng cán bộ của các đoàn thể xuống cấp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, lương và phụ cấp thấp, kinh phí hoạt động rất khó khăn, phương tiện làm việc và đi công tác thiếu thốn. Nhiều nơi bố trí những cán bộ năng lực yếu, phẩm chất kém, sức khỏe yếu làm công tác đoàn thể và mặt trận. Cán bộ đoàn thể ít được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, về quản lý kinh tế và về các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ khác để đáp ứng nhu cầu công tác trong tình hình mới. Về mặt tổ chức, nhiều nơi cho rằng đoàn thể, mặt trận là "phòng chờ" của những cán bộ yếu sức khỏe, chuẩn bị về hưu. Trong cán bộ cũng lưu truyền quan niệm như thế. Hễ ai được bố trí về công tác ở các đoàn thể, mặt trận coi như "đã tàn". Đây là những vấn đề nghiêm trọng. Các đồng chí băn khoăn, lo lắng và đặt ra với Đảng, với Nhà nước là rất đúng đắn. Để giải quyết vấn đề này một cách cơ bản và lâu dài phải có sự đổi mới mạnh mẽ và trước hết từ trong nhận thức của toàn Đảng và các tổ chức của Nhà nước về tầm quan trọng của công tác dân vận, mặt trận và các đoàn thể. Trên cơ sở ấy mà đặt đúng vai trò, vị trí, tầm quan trọng của các đoàn thể và mặt trận trong thời kỳ cách mạng hiện nay; có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công tác các đoàn thể và mặt trận; có chính sách về lương và phụ cấp đúng đắn; có kinh phí hoạt động và điều kiện làm việc như các ngành khác. Đó là phần việc của các tổ chức Đảng và Nhà nước phải làm để tạo thuận lợi cho các đoàn thể và mặt trận hoạt động.
Về phần mình, các đoàn thể và mặt trận từ trung ương đến cơ sở cần nhanh chóng sửa đổi lề lối làm việc, chống bệnh quan liêu bàn giấy. Ngày nay lối làm việc này không chỉ nặng nề ở các cơ quan của Đảng, của Nhà nước, mà cũng rất nặng nề ở các đoàn thể và mặt trận. Đó là lối làm việc bằng nghị quyết, chỉ thị dội từ trên xuống.
Cuối cùng tôi đề nghị các đồng chí báo cáo nội dung cuộc họp này với cấp ủy để đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết tám của Trung ương. Thắng lợi của việc đổi mới công tác quần chúng của Đảng sẽ tác động mạnh mẽ đến sản xuất, đời sống và công tác xã hội; góp phần quan trọng ổn định chính trị, chuẩn bị tốt cho Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội VII của Đảng.
______________
* Bài đăng trên Tập chí Dân vận số tháng 8-2009.
** Nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG LÀ CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN* Đỗ Mười**
Thưa các đồng chí,
Tôi hoan nghênh Ban Dân vận Trung ương đã tổ chức Hội nghị Dân vận toàn quốc có đông đủ đại biểu các tỉnh, thành ủy, và đại diện các ban, ngành toàn thể ở Trung ương để sơ kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII.
Hội nghị đã kiểm điểm những công việc đã làm và bàn sâu các mặt công tác quần chúng trong những năm tới. Tôi chỉ đề cập một số ý kiến.
Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII đi vào cuộc sống đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng. Không có công tác vận động quần chúng thì không thể đạt được kết quả như vậy. Thành tựu của công cuộc đổi mới chính là sự nghiệp của dân, do dân làm ra dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phải nói rằng đạt được các thành tựu trong công cuộc đổi mới vừa qua là cuộc phấn đấu rất gian khổ và ta càng thấy hết công sức của nhân dân.
Sự nghiệp đổi mới của chúng ta có nhiều tiến bộ, nhưng còn chậm. Nếu Đảng lãnh đạo tốt hơn, Nhà nước quản lý tốt hơn, công tác vận động quần chúng của Mặt trận và các đoàn thể tốt hơn thì những thành tựu trong công cuộc đổi mới của chúng ta còn lớn hơn nữa. Đổi mới công tác quần chúng cũng chỉ là bước đầu, còn nhiều khó khăn, lúng túng. Công tác xây dựng Đảng, công việc xây dựng chính quyền cũng vậy, còn nhiều việc làm, còn bê bối lắm. Sự nghiệp đổi mới còn rất nhiều việc phải làm. Phải tập trung sức xây dựng Đảng, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là khâu có tính chất quyết định. Xây dựng Đảng thế nào cho vững mạnh, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng thế nào cho tốt, còn nhiều việc phải làm lắm. Đổi mới chính quyền cũng không giản đơn, nhiều việc lắm. Làm sao pháp luật phải thể thế hóa đồng bộ các quan điểm, đường lối của Đảng để giải phóng sức sản xuất trong nước, động viên nguồn lực bên ngoài, xây dựng đất nước tiến nhanh, tiến mạnh. Đó không phải là việc đơn giản. Đổi mới công tác quần chúng cũng vậy. Phải đổi mới công tác Mặt trận, công tác công đoàn, công tác thanh niên, công tác phụ nữ, công tác đối với trí thức, với công thương, với cựu chiến binh, với các tôn giáo, các dân tộc... Đi vào từng đối tượng, còn bao nhiêu việc phải lo, phải làm.
Phải tiếp tục sự nghiệp đổi mới, để xây dựng đất nước đạt kết quả to lớn hơn, chúng ta đứng trước những thử thách, nhưng đây cũng là thời cơ, không thể bỏ lỡ. Vì vậy, đổi mới phải khẩn trương lắm. Đổi mới là gì? Đó chính là tiếp tục tiến hành cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, là cuộc cách mạng để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong hoàn cảnh mới. Đây là cuộc đấu tranh long trời lở đất để đưa Tổ quốc ta quá độ lên xã hội chủ nghĩa và bảo vệ thành công Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phải ý thức được rằng, đây là cuộc cách mạng đầy gian nan thử thách không thể thực hiện bằng phương pháp hành chính. Phải là cuộc cách mạng của nhân dân với tinh thần cách mạng tiến công. Sinh thời, Bác Hồ đề ra phải đánh thắng ba loại kẻ thù, đó là giặc ngoại xâm, giặc đói và giặc dốt. Bây giờ, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cũng vẫn là nhằm đánh ba kẻ thù đó.
Về giặc ngoại xâm thì như Nghị quyết Trung ương 3 đã đề ra, kẻ thù vẫn không để cho chúng ta yên, cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc vẫn là công việc hằng ngày, hằng giờ, muốn xây dựng đất nước phải bảo vệ Tổ quốc, xây dựng phải đi đôi với bảo vệ. Bác Hồ đã đề ra phải đánh thắng giặc ngoại xâm thì chúng ta đã đánh thắng. Ngày nay chúng ta còn phải tiếp tục đấu tranh đánh thắng âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới, không thể chủ quan, lơi là.
Thứ hai, Bác nói phải đánh thắng giặc đói. Nước ta là một trong những nước nghèo nhất thế giới, vậy làm sao để đánh thắng được nghèo đói? Diện nghèo đói vẫn còn rất lớn ở nông thôn và thành thị. Nông thôn còn nghèo, nhất là vùng núi, vùng dân tộc thiểu số, không cẩn thận diện đói còn mở rộng. Trong Đảng cũng còn nhiều đảng viên nghèo, đói. Đây thực sự là một cuộc đấu tranh quyết liệt. Kinh tế thị trường sẽ phân hóa hai đầu giàu nghèo trong xã hội ta. Chúng ta khuyến khích làm giàu hợp pháp, nhưng phải khóa cái nghèo lại, phải thu hẹp rồi đi đến thanh toán diện đói nghèo. Thanh toán đói nghèo trong từng hộ, từng xóm, từng ấp, từng phường. Đây là một khẩu hiệu cách mạng, và đây chính là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phải làm sao khẩu hiệu đấu tranh này thấm vào cả Đảng, chính quyền, đoàn thể. Phải có chương trình sát thực từng nơi, tự giải quyết là chính, trước hết từng đảng viên phải tự giải quyết, từng thôn ấp, phường xã phải tự giải quyết. Tôi đến một xã ở tỉnh Hòa Bình còn 15 hộ nghèo đói, hỏi bao giờ mới thanh toán xong? Lúc đầu các đồng chí trả lời đến năm 1995. Tôi đề nghị các đồng chí tính toán xem tại sao có 15 hộ nghèo mà phải đến năm 1995 mới giải quyết xong. Các đồng chí bàn bạc lại và trả lời chỉ sau một năm là có thể giải quyết được. Biện pháp là động viên bà con giúp hỗ trợ vốn, giống... để các gia đình sản xuất thêm nông sản, tăng thêm thu nhập. Để xóa đói, giảm nghèo, mỗi gia đình, mỗi địa phương phải tự giải quyết là chính, nhưng Nhà nước phải hỗ trợ, như giải quyết tín dụng, cho nông dân vay vốn sản xuất. Năm qua ngân hàng đã cho nông dân vay mấy trăm tỷ đồng, và nông dân rất sòng phẳng trong việc trả nợ. Thanh toán đói nghèo là một cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ từ nông thôn đến miền núi, miền biển, đô thị. Phải là cuộc đấu tranh sôi sục, thực sự là một cuộc cách mạng. Trong cuộc đấu tranh này, công tác vận động quần chúng của các đoàn thể rất quan trọng, rất phong phú.
Còn vấn đề chống giặc dốt. Thời đại này mà dốt thì không thể làm ăn được. Xây dựng xã hội mới đòi hỏi người dân phải có trình độ văn hóa, phải có hiểu biết. Phải thanh toán nạn mù chữ ngay trong thôn, từng bản, từng nhà, người biết chữ dạy người chưa biết chữ. Trước đây, trong chiến tranh chúng ta đã xóa được nạn mù chữ, 90-95% dân số biết chữ, ngày nay không thể để nhân dân không biết chữ, phải làm sao để nhân dân biết chữ hết. Có như vậy mới tiếp thu được khoa học kỹ thuật, mới nâng cao trình độ quản lý. Chống giặc dốt bây giờ có nội dung rộng hơn trước, không phải chỉ là xóa nạn mù chữ. Biết chữ là cái tối thiểu, còn phải phổ cập giáo dục tiểu học, rồi nâng lên trình độ trung học và trình độ cao hơn. Thời kỳ điện tử, hậu công nghiệp mà không chịu học thì không làm ăn được. Ngoài việc nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý còn phải biết ngoại ngữ mới tiếp nhận được thông tin mới. Nếu không có hiểu biết thì không được hưởng thụ. Bây giờ không nâng cao trình độ văn hóa, trình độ hiểu biết lên thì bước vào thế kỷ XXI sẽ khó khăn, mà bây giờ cũng đã khó khăn rồi.
Ngày nay, với kinh tế thị trường, kinh tế nhiều thành phần thì phải cạnh tranh. Ông Chatichai, Thủ tướng Thái Lan trước đây đã đề ra mục tiêu: “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường". Như vậy, đây là cuộc đấu tranh ai thắng ai trên thị trường. Hàng nội thắng hay hàng ngoại thắng? Đây là cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt. Nếu hàng ta sản xuất chất lượng kém thì không thể cạnh tranh nổi, kể cả trên thị trường trong nước và quốc tế. Ví dụ sản xuất một cái cốc, trong đó có phần giá trị lao động cũ (c); có phần giá trị mới sáng tạo ra; trong đó có phần tiền công (v) và phần lợi nhuận (m). Nếu không bán được cốc thì không có v mà cũng không có m. Thế thì thợ ta thất nghiệp và cũng không có lợi nhuận để tái sản xuất. Như vậy là đói, mà đói là mất máu. Trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta phải đổ máu. Trong cuộc chiến tranh trên thương trường này, hoặc là hàng ta thắng hoặc là hàng ta thua, mà thua thì đói, thì mất máu. Ở ta hàng Nhật ngập tràn, như vậy là các công ty Nhật vớ bẫm lợi nhuận, trong khi đó hàng ta không bán được, công nhân không có việc làm thì phải thấy ai thắng ai trên thị trường là một cuộc đấu tranh quyết liệt. Muốn thắng thì hàng phải tốt, phải đẹp, phải bền, phải rẻ, phải đa dạng, phong phú. Phải thắng từng mặt hàng, thắng cả trên thị trường trong nước, thị trường khu vực. Chúng ta thắng thì mới có việc làm cho nhiều người, cả công nhân, trí thức, cán bộ quản lý. Và như thế, thu nhập quốc dân sẽ cao, mới có thêm tích lũy và mới cải thiện được đời sống của nhân dân. Như vậy, đây là một cuộc đấu tranh quyết liệt, không thể mất máu trên thị trường thì dân mới giàu, nước mới mạnh.
Cơ chế thị trường có nhiều tích cực nhưng cũng lắm tiêu cực. Tham nhũng, buôn lậu là vấn đề nhức nhối, là một vấn đề “quốc nạn". Lênin nói rằng, muốn xây dựng phải có vốn và vốn phải tự thân làm ra; khi đã có vốn rồi thì phải bảo toàn vốn không để mất cắp, sử dụng vốn phải tính toán làm sao cho có hiệu quả. Bây giờ, nạn tham nhũng diễn ra kinh khủng, buôn lậu kinh khủng. Chống tham nhũng, chống buôn lậu cũng là cuộc đấu tranh gay gắt, gian khổ. Đây là thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phải triệt để tiết kiệm để có tích lũy, để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Nhưng lại để ăn mất cả vốn, để tình trạng lấy ngược, lấy xuôi thì còn đâu mà tích lũy. Tham nhũng, hối lộ, tiêu cực là cả vấn đề xã hội nhức nhối, phải đấu tranh quyết liệt.
Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, đánh thắng ba kẻ thù, giành thắng lợi trên thị trường, đấu tranh có hiệu quả với tệ tham nhũng thì Đảng phải mạnh, chính quyền phải mạnh, Mặt trận và các đoàn thể phải mạnh, công tác dân vận phải rất giỏi.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là vấn đề bức bách có tính quyết liệt phải tập trung làm từ trung ương đến cơ sở. Đảng mạnh mới giữ được chính quyền, mới động viên được toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới.
Nhà nước phải thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chúng ta đã có một bước đổi mới, đã sửa đổi Hiến pháp, bầu Quốc hội mới, còn phải tiếp tục đổi mới để Nhà nước chúng ta quản lý thật giỏi, quản lý có hiệu lực, có hiệu quả. Cán bộ chính quyền như Bác Hồ đã nói, phải là người đầy tớ của nhân dân, phải có năng lực và trí tuệ.
Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhưng dân phải làm chủ. Chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng thắng lợi là do dân, thành công hay thất bại là có phát động được phong trào cách mạng của nhân dân không. Phải phát động cho được phong trào hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân, công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, công thương và các tầng lớp khác... phấn đấu cho sự nghiệp đổi mới.
Sự nghiệp đổi mới là cách mạng và khoa học. Muốn có cách mạng và khoa học thì phải phát động quần chúng nhân dân hành động cách mạng. Chính sách và cơ chế quản lý phải phù hợp quy luật, phải chính xác thì mới vận động được quần chúng. Đảng lãnh đạo là làm cho cơ chế, chính sách đúng, các phương án phải rất khoa học, phải tạo được sức mạnh tổng hợp của sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ phong trào cách mạng của nhân dân. Như cái thang ba chân, có như vậy chúng ta mới tiến mạnh được. Rồi đây, việc mở cửa làm ăn với nước ngoài nhiều vấn đề đặt ra cho chúng ta phải tính toán, phải dự báo, phải có các dự án đúng đắn. Nhưng dù sự lãnh đạo của Đảng; hiệu lực quản lý của Nhà nước có đổi mới như thế nào thì sự nghiệp cách mạng vẫn là của dân, do dân, vì dân, sức mạnh là ở nơi dân. Bác Hồ đã nói một câu rất hay "khó vạn lần dân liệu cũng xong". Trong chiến tranh, việc chiến thắng mọi kẻ thù là do dân ta quyết định. Ngày nay sự nghiệp đổi mới muốn giành được thắng lợi cũng phải dựa vào công sức của dân. Nhân dân ta đã chịu đựng nhiều khó khăn, chiến đấu rất gian khổ nhưng đã vượt lên. Nhiều cái lạ lắm, nhiều hoàn cảnh rất khó khăn nhưng có dân đều giải quyết được. Lúc này, công tác dân vận có tầm quan trọng đặc biệt. Tại sao ở nhiều nơi, nhiều cấp lại coi nhẹ công tác dân vận? Thử hỏi, không có dân thì làm sao tiến hành cách mạng được? Vấn đề là phải có cơ chế, chính sách thỏa đáng đối với cán bộ làm công tác dân vận. Có tình hình thực tế là vị trí cán bộ dân vận bị coi nhẹ, lương bổng không tương xứng, điều kiện, phương tiện làm việc khó khăn, làm cho anh chị em không yên tâm, thiếu phấn khởi. Cán bộ Đảng cũng vậy thôi, nói chung là nghèo. Đây là vấn đề phải sửa.
Dù khó khăn đến đâu chúng ta cũng không thể không tiến hành cách mạng. Như Cuba đã nêu khẩu hiệu: "Chủ nghĩa xã hội hay là chết". Chúng ta cũng vậy, có đánh thắng ba kẻ thù không, không đánh thắng thì chết. Có giành thắng lợi trên thị trường không, không thắng cũng chết. Có thắng tham nhũng không, không thắng cũng chết. Rồi đây mở rộng cửa, nước ngoài sẽ đầu tư vào nước ta nhiều hơn, nếu để tình trạng quản lý như thế này thì thật đáng lo. Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn, phức tạp hiện nay phải dựa vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Đấu tranh chống tham nhũng phải là dân quyết định. Chống buôn lậu cũng là dân quyết định. Thắng trên thị trường cũng phải do dân. Như vậy, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ mới là phải bằng tài dân, sức dân, trí tuệ của dân. Thế thì làm sao coi nhẹ công tác dân vận được? Lúc này việc mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc là quan trọng lắm. Khẩu hiệu Bác Hồ đề ra "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” trước đây có giá trị rất to lớn thì ngày nay vẫn có sức mạnh rất to lớn để giành thắng lợi cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Khẩu hiệu bây giờ là: Tất cả do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo là đề ra đường lối với dân. Chính quyền quản lý và định các chính sách cũng phải do dân và vì dân. Dân vận ngày nay phải sát lợi ích và nguyện vọng của dân, thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân. Không thể dân nhìn một đường, mình lại vận động một nẻo thế thì chả ai sinh hoạt với mình cả. Phải xuất phát từ lợi ích của mỗi giai cấp, tầng lớp nhân dân mà tập hợp, đoàn kết họ lại thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân. Tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân đã có các đoàn thể Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh... Nhưng các nhà công thương và các tầng lớp khác thì ai tập hợp? Ngày nay, phát triển kinh tế nhiều thành phần, tầng lớp công thương gia phát triển, vậy ai lo tổ chức. Ngân hàng có phục vụ không? Hay chỉ là ngân hàng cho quốc doanh? Nay phải giúp đỡ đối với công thương nữa. Giai cấp công nhân phải đoàn kết với các tầng lớp công thương trên cơ sở chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xây dựng và bảo vệ đất nước. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài cũng phải tập hợp, đoàn kết kiều bào để cùng nhau xây dựng đất nước. Chính sách của chúng ta là chính sách đại đoàn kết, xóa bỏ mọi hận thù, mặc cảm, nhìn về tương lai, vì Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh. Nhiều vết thương do đế quốc gây ra, nay thắng giặc rồi, phải xóa bỏ mọi hận thù, nhìn về tương lai. Đó là quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải đoàn kết mọi người Việt Nam lại, tôn giáo cũng vậy, dân tộc cũng vậy, Việt kiều cũng vậy. Do đó, công tác dân vận, mặt trận quan trọng lắm.
Thưa các đồng chí,
Cuộc chiến đấu mới đòi hỏi chúng ta phải thắng trong hòa bình xây dựng, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu, nhiệm vụ nghị quyết Đại hội VII đã đề ra rồi, vấn đề là tổ chức thực hiện, phải tạo thành cao trào quần chúng hành động cách mạng. Từng thời kỳ phải có khẩu hiệu động viên sát hợp với từng giới, từng ngành, từng địa phương để tạo ra động lực của phong trào cách mạng quần chúng. Công tác vận động nhân dân phải thật sát dân, nếu xa dân thì không thể vận động được. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư sắp tới sẽ bàn những vấn đề xã hội, như sự nghiệp y tế, làm sao cho dân ta khỏe, có nòi giống tốt, đó là một mục tiêu của cách mạng. Thế mà ở tuyến xã lại không có bác sĩ. Phải đào tạo bác sĩ để đưa về tuyến xã. Không thể để con suy dinh dưỡng, vợ gầy yếu mà chồng lại nghiện hút tràn lan thế này. Vì giống nòi Việt Nam, phải vận động không hút thuốc lá, không say nghiện rượu. Dân vận phải đi vào cuộc sống của dân, phải chăm lo những vấn đề thiết thực của nhân dân. Không vận động chính trị chung chung, phải đi vào từng đối tượng vận động, bàn thực hiện những việc làm đem lại lợi ích thiết thực cho dân.
Các nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội đề ra đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân. Việc quan trọng cần phải đưa ra dân bàn, tham gia ý kiến rồi mới quyết. Việc nước là việc dân, đó là dân chủ. Chúng ta thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Mong rằng chúng ta sẽ có nhiều thành công trong việc đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân.
__________________
*Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 12-1993.
**Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
NHỚ NGÀY 15 THÁNG 10* LÊ KHẢ PHIÊU**
Ngày 15-10-1949, báo Sự thật đăng bài Dân vận của Bác Hồ, Bác viết:
“Bao nhiều lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"1.
Để ghi nhớ những lời căn dặn của Bác về công tác dân vận, Ban Dân vận Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương2 có đề nghị tôi viết bài báo Hồ Chí Minh, chỉ rõ những thiếu sót trong nhận thức tư tưởng, trong bộ máy và tác phong dân vận, chỉ ra những nhiệm vụ công tác dân vận của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể xã hội trong thời kỳ mới...
Tôi ngồi đọc lại bài Dân vận của Bác Hồ và nghĩ rằng: Những điều Bác căn dặn rất dễ hiểu, dễ nhớ, sâu sắc và đầy đủ.
Làm theo tư tưởng của Bác, Đảng ta có Nghị quyết về công tác dân vận, đề ra phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Cho nên vấn đề hiện nay là cố gắng làm cho đúng những lời Bác dạy và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bằng những việc thiết thực.
Tôi đề nghị tập trung làm đến nơi đến chốn mấy việc sau đây:
Một: Cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể bàn bạc với dân để cùng dân đặt kế hoạch xây dựng xã, phường, khu dân cư, làm cho đời sống mọi mặt cả về kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương và từng hộ gia đình khá hơn, mọi người được sống bình yên, đoàn kết, tình làng nghĩa xóm. Trong các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp thì bàn bạc dân chủ với cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ.
Hai: Báo cáo công khai cho dân biết những công việc của địa phương, nhất là những vấn đề liên quan đến lợi ích trực tiếp của người dân, thực hiện công khai minh bạch tài chính, thu chi...
Đó là Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Ba: Tổ chức tốt cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp thật dân chủ và đúng pháp luật.
Để nhân dân có điều kiện kiểm tra, giám sát, chọn lựa những người đại biểu xứng đáng, đề nghị các ứng cử có sự trình bày với cử tri về quá trình phục vụ nhân dân của mình. Có gì cử tri chưa rõ, chất vấn thì trả lời với cử tri để cử tri được thỏa lòng cân nhắc.
Không được áp đặt, bảo đảm cho cử tri quyền chọn lựa đại biểu, một quyền lợi xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước thiêng liêng của nhân dân.
Bốn: Các cơ quan có trách nhiệm giải quyết các đơn thư khiếu nại cố gắng tập trung thời gian và sức lực để sớm có kết luận và thông báo cho người khiếu nại. Những việc gì đã có kết luận thì các cơ quan liên quan phải chấp hành đúng theo luật định, không được chậm trễ, ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân.
Hằng ngày, chúng ta vẫn sống chung với cộng đồng xã hội. Nhưng chỉ với tấm lòng vì dân, vì nước, yêu thương giai cấp cần lao thì mới hiểu thấu đời sống, vui buồn, đau khổ, ước ao nguyện vọng, ý kiến và những vấn đề bức thiết đang đặt ra hằng ngày của nhân dân.
Tôi nghĩ rằng, các cán bộ, đảng viên ở tất cả các cấp, các ngành, trong các cơ quan nhà nước, cơ quan công tác Đảng, cơ quan lập pháp, tư pháp, tòa án, viện kiểm sát, thanh tra, kiểm tra, quân đội, công an, ngân hàng, y tế, giáo dục, các vị thay mặt cho nhân dân... nên dành thì giờ ngồi ôn lại lời Bác dạy về dân và công tác dân vận, dũng cảm và trung thực soát xét lại mình, công việc của cơ quan, đơn vị mình, dành thì giờ gặp dân, gặp người lao động, gặp cán bộ, nhân viên trong cơ quan đơn vị, gặp các cụ lão thành, các cựu chiến binh, những người có việc khiếu nại, gặp cử tri, gặp những người đang muốn trình bày ý kiến, nguyện vọng, lắng nghe họ với tâm huyết của những người con trung hiếu, yêu nước, thương dân, chắc chắn sẽ rút ra được nhiều điều bổ ích.
Có khi bao nhiêu giấy mực cũng không thay thế được lòng trung thực và dũng cảm.
Tôi cũng nghĩ rằng: suy nghĩ về dân và làm công tác dân vận là công việc thường xuyên, phải làm hằng ngày, hằng giờ không ngừng nghỉ, không mệt mỏi, không phô trương, hình thức theo vụ, theo mùa, theo lễ kỷ niệm. Nhưng để cùng nhau ghi lời Bác dạy có thể hằng năm chúng ta lấy ngày 15-10 làm ngày ôn lại những gì chúng ta đã làm đối với dân và công tác dân vận để động viên nhau cố gắng hơn nữa.
Ngày 15-10 cũng là ngày giỗ anh hùng Nguyễn Văn Trỗi.
Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng liệt sĩ đã từng đổ máu hy sinh trọn đời vì độc lập và thống nhất của Tổ quốc, vì nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân để xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân, một xã hội công bằng và văn minh.
Chúng ta không bao giờ quên ngày 15-10. Tất cả các chi bộ và đảng viên chúng ta sẽ làm những việc thiết thực khi nhớ đến ngày đó.
______________________
* Bài viết đăng trên báo Nhân dân, số ra ngày 30-9-1999, nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày Bác Hồ viết bài báo Dân vận.
** Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.698.
2. Nay là Ban Tuyên giáo Trung ương.
CÔNG TÁC DÂN VẬN PHẢI LÀ NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG, XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN, CỦNG CỐ, XÂY DỰNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ TOÀN THỂ NHÂN DÂN* NÔNG ĐỨC MẠNH**
Hội nghị Tổng kết công tác dân vận toàn quốc được tổ chức vào thời điểm chúng ta đã và đang thực hiện Nghị quyết Đại hội X và bước vào thực hiện nhiệm vụ năm 2008. Năm 2007 với những cơ hội, thuận lợi và rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng bằng sự nỗ lực, quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, chúng ta đã đạt được các thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế vẫn tiếp tục giữ được nhịp độ tăng trưởng cao trong nhiều năm, năm 2007 là năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Cùng với các thành tựu về kinh tế, các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Sự ổn định về chính trị của đất nước chúng ta tiếp tục được giữ vững. Công tác đối ngoại có bước tiến bộ vượt bậc, trong đó sự kiện nổi bật là nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Đó là những điều kiện rất quan trọng, cơ bản để chúng ta thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X.
Năm 2008 là năm bản lề thực hiện các mục tiêu của Đại hội X của Đảng, trong đó có nhiệm vụ rất lớn là phải đưa đất nước chúng ta thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển. Chúng ta phải thực hiện sớm hơn phần lớn các mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm trong năm 2008. Ba yếu tố là động lực, ổn định chính trị và phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó yếu tố ổn định chính trị là rất quan trọng. Tuy nhiên, ổn định mà không phát triển thì cũng không thể ổn định lâu dài được. Ngược lại, nếu muốn phát triển mà không ổn định được thì cũng không sao phát triển được. Phát triển của chúng ta là phát triển nhanh nhưng bền vững, không phát triển bằng bất kỳ giá nào. Mục tiêu phát triển của chúng ta không phải chỉ có kinh tế mà đồng thời cũng phải quan tâm để giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm công bằng xã hội ngay trong cả quá trình và từng bước, trong từng chương trình, dự án. Thành quả của công cuộc đổi mới mọi người dân đều phải được thụ hưởng. Bước vào năm 2008 đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ hết sức lớn lao, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải có sự đồng thuận, quyết tâm rất lớn để tiếp tục phát huy những cơ hội, thuận lợi, thành tựu đã có mấy chục năm qua, đồng thời tiếp tục chủ động đối mặt, vượt qua được những khó khăn, thách thức để đi lên. Vào đầu năm 2008 cũng là lúc chúng ta gặp phải trận rét kéo dài chưa từng có, trâu bò, cây trồng chết rất nhiều, do nhiều nguyên nhân khiến giá cả tăng cao. Nhưng chúng ta phải bình tĩnh để vượt qua, với thế và lực hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể đưa ra những giải pháp khắc phục từng bước một để chống lại lạm phát. Trước mắt, tập trung cho đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nỗ lực vượt qua khó khăn hoàn thành mục tiêu tăng trưởng của đất nước, tập trung kìm hãm lạm phát, tốc độ tăng giá phải thấp hơn tốc độ tăng trưởng. Điều đó đòi hỏi nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và tất cả mọi người, phải có ý thức trách nhiệm cộng đồng, phải có sự điều hành đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, các cấp, các ngành, địa phương, các thành phần kinh tế phối hợp lực với nhau để vượt qua khó khăn.
Năm qua, công tác dân vận của hệ thống chính trị nói chung, trực tiếp là những người làm công tác dân vận, đã có những chuyển biến tích cực, đạt được thành tích quan trọng. Hệ thống dân vận tiếp tục được củng cố, tăng cường. Qua thực tiễn xuất hiện những cách làm hay, kinh nghiệm mới, quan điểm chỉ đạo đúng đắn trong việc phát huy vai trò của nhân dân theo hướng trọng dân, gần dân hơn, có trách nhiệm với dân. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, của hệ thống chính trị có những chuyển biến rõ rệt. Tổ chức, bộ máy dân vận các cấp được kiện toàn, củng cố, có nhiều đổi mới cả về nội dung, phương thức, tác phong công tác. Đặc biệt, các địa phương, các ngành, các lĩnh vực khác nhau đã chủ động đề xuất được các chủ trương, giải pháp phù hợp hơn, giải quyết kịp thời những bức xúc của nhân dân. Hệ thống dân vận cả nước đã theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và các vấn đề liên quan đến công tác vận động quần chúng. Chính quyền các cấp đã quan tâm nhiều hơn đến công tác dân vận. Sự phối hợp của chính quyền, các cơ quan, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong công tác dân vận gắn bó hơn, chặt chẽ hơn. Vì vậy, công tác dân vận thực sự góp phần vào giải quyết những bức xúc ở từng địa phương, cơ sở. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, lực lượng vũ trang, nhất là lực lượng bộ đội biên phòng, công an, đã có rất nhiều cố gắng, đổi mới cả về nội dung, phương thức hoạt động, bám sát địa bàn, vận động, hướng dẫn đồng bào sản xuất, kinh doanh, xây dựng cuộc sống mới, góp phần làm tăng niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Điểm nổi bật trong năm qua là tổ chức thành công Đại hội của một số đoàn thể, tăng cường công tác vận động quần chúng, động viên mọi người cùng làm, trong đó đoàn viên, hội viên, nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn có ý nghĩa quan trọng như: xóa đói, giảm nghèo; làm giàu chính đáng; xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phát huy truyền thống đại đoàn kết của toàn dân tộc... Đây là điều hết sức quan trọng. Tinh thần tương thân, tương ái, động viên, giúp đỡ nhau góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Các cuộc vận động này thực sự góp phần vào xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, đồng thời góp phần làm cho mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân ngày càng bền chặt. Trong thời gian tới, cần phát huy những mặt tích cực, cái tốt, khắc phục yếu kém, cái chưa tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2008. Những thành tích đã đạt được của các đồng chí trong công tác dân vận năm vừa qua đã góp phần rất tích cực vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước ta. Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi xin nhiệt liệt biểu dương hệ thống dân vận, đội ngũ những người làm công tác dân vận của cả nước về những thành tích trong thời gian qua.
Tuy nhiên, công tác dân vận cũng còn bộc lộ những yếu kém, những khuyết điểm. Hệ thống dân vận còn chậm đổi mới cả về nội dung, phương thức hoạt động. So với yêu cầu phát triển về mọi mặt của đất nước thì công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức tập hợp quần chúng vẫn còn hạn chế, nhất là đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng đồng bào có đạo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng hải đảo, các đối tượng thanh niên, người già, học sinh, sinh viên... Ở nhiều nơi còn chưa nhạy bén, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân từ cơ sở. Những vấn đề bức xúc trong cuộc sống vẫn chưa chủ động nắm bắt kịp thời và chưa chủ động nghiên cứu, dự báo tình hình, tham mưu để có những biện pháp giải quyết phù hợp, nhất là chính sách về đất đai. Ở một số nơi, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân chưa làm tốt việc giám sát các cấp chính quyền, các ngành trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm sâu sắc đến công tác dân vận, còn xem nhẹ công tác dân vận, thậm chí còn mệnh lệnh trong công tác vận động quần chúng. Đội ngũ cán bộ của hệ thống dân vận còn nhiều bất cập.
Tôi rất đồng tình với báo cáo đã được trình bày tại Hội nghị này, nhất là các nhiệm vụ, giải pháp của công tác dân vận năm 2008. Nhân đây tôi xin nhấn mạnh một số nhiệm vụ, nội dung để các đồng chí nghiên cứu, tham khảo.
Trước hết, phải tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân về công tác dân vận. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong các mối quan hệ của Đảng thì mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là cơ bản và quan trọng nhất, có ý nghĩa sống còn. Sức mạnh mà chúng ta có được là do Đảng ta xây dựng được mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Bước sang giai đoạn hiện nay, do tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, của hội nhập kinh tế thế giới, do các thế lực thù địch tiếp tục chống phá chúng ta bằng "diễn biến hòa bình", do cả những thiếu sót, khuyết điểm của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý, trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, do một bộ phận cán bộ, Đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là tệ quan liêu, cho nên tác động xấu về nhiều mặt đến đời sống, xã hội trong đó có công tác dân vận. Đặc biệt, hiện nay, tệ quan liêu trong công tác dân vận cần hết sức quan tâm ngăn chặn. Những người làm công tác dân vận phải quyết liệt, chống những biểu hiện tiêu cực nói trên. Vì những biểu hiện tiêu cực này đang làm cho mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân bị suy giảm. Do đó, một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng là tiếp tục chỉnh đốn Đảng, xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Cần quan tâm gắn công tác dân vận với thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cán bộ, đảng viên, công chức nói chung, trong đó có những người làm công tác dân vận, phải luôn luôn suy nghĩ, học tập, làm theo cách nói, cách làm, cuộc sống của Bác Hồ.
Bác Hồ đã nói: "Việc dân vận là rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Một chủ trương, nghị quyết rất đúng và hay nhưng phải làm cho nhân dân hiểu, thấm nhuần, biến thành ý chí, thành hành động thì chủ trương, nghị quyết ấy mới thành công và đi vào cuộc sống. Do đó, các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, công tác tuyên giáo cũng làm dân vận. Quần chúng, nhân dân đọc báo chí và làm theo các mô hình mà báo chí, truyền hình đã nêu. Đó cũng là một cách dân vận rất tốt. Do vậy, ai cũng phải làm dân vận, ai cũng biết làm dân vận và ai cũng được làm dân vận chứ không chỉ có các đồng chí cán bộ trực tiếp làm công tác dân vận. Yếu tố mang tính quyết định thành công trong công tác dân vận, trong sự nghiệp cách mạng là nhân dân. Do đó, chúng ta phải tôn trọng quyền làm chủ nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể phải luôn luôn gương mẫu làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, thực hiện gương mẫu trước dân. Người làm công tác dân vận phải khéo. Nói khéo là quan trọng và cần thiết nhưng quan trọng hơn là phải gương mẫu. Tất cả cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị phải gương mẫu, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Những người làm công tác dân vận nhất thiết phải có phẩm chất này. Bác Hồ đã nói: "Dân là chủ", "Bao quyền hạn đều của dân", "Lực lượng của dân rất to lớn". Do đó, phải làm cho dân tin yêu, dân mến, dân thương. Bác cũng nhắc nhở cán bộ, đảng viên "chớ vác mặt làm quan cách mạng". Được sự tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng. Đây cũng là cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội X về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Thứ hai, công tác dân vận phải góp phần động viên, cổ vũ, tổ chức phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cơ quan, địa phương, đơn vị, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực trong cuộc sống. Trên cơ sở hướng dẫn của Trung ương, của đảng đoàn, ban cán sự đảng các tỉnh, thành ủy và thực tiễn của từng ngành, địa phương, cần quan tâm xây dựng tiêu chuẩn, nội dung thi đua cho phù hợp, từ đó làm tốt công tác dân vận. Không thể máy móc, rập khuôn, giáo điều khi thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Người làm công tác dân vận phải nắm chắc chủ trương, nghị quyết của Đảng để vận động, phổ biến nghị quyết bằng tâm huyết của mình. Cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng sao cho phù hợp, hiệu quả. Phải bám sát đối tượng, địa bàn, nắm chắc tâm tư, tình cảm của nhân dân, đối thoại trực tiếp với dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, lợi ích của nhân dân. Đồng thời, thông qua việc triển khai nghị quyết mà lắng nghe phản hồi từ cuộc sống, trả lời câu hỏi tại sao cũng chủ trương, nghị quyết ấy mà ở nơi này thực hiện tốt, nơi kia lại chưa tốt. Cũng thông qua việc triển khai nghị quyết mà tổng kết những sáng kiến của nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của chủ trương, nghị quyết sát với nguyện vọng của nhân dân và nhu cầu của cuộc sống. Cần có sự phối hợp giữa các cấp, các ngành để giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của nhân dân, vận động nhân dân góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, hoàn thành xuất sắc các mục tiêu năm 2008 và mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm như đã đề ra.
Thứ ba, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao chất lượng công tác dân vận của các cấp ủy đảng. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nhất là khối dân vận cơ sở, các ban công tác mặt trận, các chi đoàn, chi hội theo hướng thiết thực cụ thể, hiệu quả hơn. Phải tiếp tục nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc đối với cán bộ, đảng viên ở nơi cư trú. Tiếp tục làm tốt công tác tôn giáo, dân tộc. Đây là một công tác rất quan trọng vì đất nước ta có nhiều dân tộc anh em, nhiều tôn giáo. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, trước hết là tuyên truyền, vận động thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, mở rộng thực hiện quy chế dân chủ trong các loại hình cơ sở mới, góp phần ngăn ngừa, đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Công tác dân vận trong tình hình hiện nay không thể tiến hành theo kiểu phong trào, theo mùa, theo ngày kỷ niệm mà phải thực hiện thường xuyên, bền bỉ, không mệt mỏi; cương quyết chấm dứt tệ quan liêu, bệnh phô trương, hình thức, chạy theo thành tích, hành chính hóa mà phải cụ thể, thiết thực theo phong cách gần dân, trọng dân, có trách nhiệm với dân.
Thứ tư, công tác dân vận cần tập trung kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết thực hiện các chủ trương của các cấp ủy đảng, các ngành, các cấp được cụ thể hóa từ Nghị quyết Đại hội X, đẩy mạnh việc nghiên cứu chiến lược công tác dân vận trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ của các ban dân vận là tham mưu cho các cấp ủy đảng về công tác vận động quần chúng. Qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, qua thực tiễn cách mạng, cần tổng kết thành lý luận về công tác dân vận của Đảng qua các thời kỳ, những vấn đề gì đặt ra trong công tác dân vận hiện nay, dự báo tình hình quần chúng, nhân dân nhằm tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương đề ra những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải nhận thức sâu sắc hơn nữa về công tác dân vận trong tình hình hiện nay. Phải xác định công tác dân vận là một nhiệm vụ chiến lược rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng, nhân dân. Phải nắm vững quan điểm công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Phải quán triệt quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh: "Dân là gốc của nước". Thường xuyên chăm lo, củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thường xuyên quan tâm kiện toàn tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận. Rà soát chức năng, nhiệm vụ của cả hệ thống dân vận. Bố trí đủ cán bộ có phẩm chất đạo đức, uy tín, năng lực, kinh nghiệm, có phong cách tốt làm công tác dân vận. Gắn kết quả vận động quần chúng với công tác xem xét, đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X. Có cơ chế, chính sách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ dân vận phát huy hết trách nhiệm, trí tuệ, kinh nghiệm, nâng cao chất lượng công tác, nghiên cứu phát triển những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, nhu cầu mới xuất hiện trong phong trào quần chúng, từ đó tham mưu đúng đắn, kịp thời cho các cấp ủy đảng, chính quyền với những chủ trương, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Bác Hồ đã dạy "Dân là chủ", "nuôi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Công tác dân vận hiện nay đang đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận phải vươn lên để lãnh trách nhiệm trước Đảng, trước dân, khắc phục mọi khó khăn, yếu kém, nhạy bén, tham mưu giải quyết một cách kịp thời, có hiệu quả những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, góp phần thiết thực vào việc củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Với bề dày và truyền thống lịch sử vẻ vang, với những kinh nghiệm quý báu và thành quả đạt được trong 78 năm qua, tôi tin tưởng rằng, công tác dân vận của Đảng ta sẽ không ngừng phát triển vững chắc, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ theo yêu cầu mới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
______________
* Bài phát biểu tại Hội nghị Tổng kết công tác dân vận toàn quốc năm 2007 và triển khai nhiệm vụ năm 2008, ngày 3-3-2008.
** Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN* VÕ NGUYÊN GIÁP**
Từ khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, thì Ban Dân vận là ban đầu tiên của Đảng tổ chức cuộc hội thảo như thế này. Nên chăng các ban, các tổ chức khác của Đảng, các bộ của Chính phủ cũng tổ chức những cuộc hội thảo khoa học để quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào công việc của mình, ngành mình thì chắc là tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ đi sâu vào cuộc sống hơn nữa.
Bài báo Dân vận của Bác về công tác dân vận hay quá, đến nay vẫn còn có tính thời sự đối với chúng ta.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tất cả vì dân, tất cả do dân, có dân là có tất cả. "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"1, không có gì cao cả hơn là phục vụ dân. Quan niệm của Bác Hồ về dân là như thế. Cho nên, bài Dân vận tuy ngắn nhưng nội dung và ý nghĩa của nó lại rất lớn và rất quan trọng.
Trong lịch sử cổ, trung, cận, hiện đại người ta cũng đã bàn tới chữ dân. Thời kỳ trước đây ở Liên Xô nếu nói đến chữ "Dân" sẽ bị quy kết là phái "Dân túy". Nhưng ở Việt Nam, Bác Hồ nói đến "Dân" thì tất cả chúng ta ở trong Đảng cũng như ngoài Đảng đều chấp nhận. Vậy phải chăng Bác xem nhẹ vấn đề giai cấp. Không, hoàn toàn không phải như vậy. Nghiên cứu quan niệm về "Dân" của Hồ Chí Minh cần có quan điểm lịch sử cụ thể xuất phát từ yếu tố đặc thù trong truyền thống của dân tộc ta. Bởi vì, trong xã hội ta, từ xưa đến nay, người ta thường phân biệt "quan và dân”. Thời kỳ Bác ra đi tìm đường cứu nước, hay thời Bác thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong xã hội ta, sự phân hóa giai cấp cũng chưa sâu sắc như ở các xã hội tư bản phương Tây. Giai cấp công nhân Việt Nam lúc đó số lượng còn nhỏ, tuyệt đại bộ phận là nông dân. Tư bản bản xứ mới hình thành. Năm 1929, tôi viết một bài nghiên cứu về giai cấp tư sản ở nước ta, thống kê các công ty tư bản ở Đông Dương có vốn trên một triệu đồng có 29 công ty, trong đó chỉ có một công ty là của người Việt Nam thôi. Như thế, rõ ràng trong xã hội ta lúc đó phân hóa giai cấp chưa sâu sắc.
Rõ ràng, không phải Bác Hồ khi nói đến "Dân" là không có quan điểm giai cấp, mà trái lại, ta thấy nhiều bài nói và viết khi xác định lực lượng của cách mạng Bác vẫn lấy "dân chúng với công nông là nòng cốt". Người còn nói: "muốn cách mệnh thành công thì phải có đảng cách mệnh". Đảng phải tập hợp những phần tử ưu tú của công nhân, nông dân và trí thức. Như thế là "Dân" ở Việt Nam là một phạm trù rất rộng mà vẫn bao hàm tính giai cấp.
Nhìn lại lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, "Dân" là tất cả con cháu Lạc Hồng. Bác cho rằng, hễ ai là người Việt Nam thì ít nhiều đều có ý thức dân tộc và lòng yêu Tổ quốc, chỉ trừ một số ít bọn phản quốc, bọn phản bội. Do vậy, theo tư tưởng của Bác, đoàn kết là điểm "Mẹ". Cho nên, phải làm dân vận đối với tất cả mọi người, khơi dậy lòng yêu nước trong mỗi con người và tất cả mọi người, không để sót một ai, người nào cũng là đối tượng tranh thủ. Điều này thể hiện trong chính sách "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”, mà bây giờ ta đang thực hiện.
Nếu như hiện nay nói đến công tác dân vận mà không nói đến đại đoàn kết, không nói đến mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất để xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội là không thực hiện đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. Có lẽ, chỉ Hồ Chí Minh mới nói được câu bất hủ và độc đáo là: Mặt trận dân tộc thống nhất là một lực lượng cách mạng to lớn không những trong cách mạng giải phóng dân tộc mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Mặt trận vừa mới thông qua Cương lĩnh mà nội dung chủ yếu là làm sao đoàn kết tất cả mọi người dân vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Điều đó là cực kỳ quan trọng, là trở lại một trong những tư tưởng chiến lược rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Vai trò của người dân qua các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc
Ba lần chống quân Mông - Nguyên vào thế kỷ XIII, dân tộc ta hưởng ứng lời hịch của Trần Hưng Đạo, phần lớn dân ta lúc ấy đều khắc hai chữ "Sát Thát” vào cánh tay để thể hiện ý chí quyết tâm đánh giặc và thắng giặc. Sức mạnh của trăm họ, của mọi người dân thật là to lớn. Lời hịch nổi tiếng đã động viên, vận động trăm họ vùng lên quyết chiến. Đó quả là một hình thức "dân vận" rất giỏi của cha ông lúc bấy giờ.
Vào thế kỷ XIII, xã hội ta là một xã hội phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu; còn kẻ địch Mông - Nguyên tuy nước lớn, quân đông, nhưng về kinh tế - xã hội thì cũng vẫn còn phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Quân Mông - Nguyên xâm chiếm nước ta, dân tộc ta nhất tề đứng lên chống giặc ngoại xâm. Cả hai bên đánh nhau cũng chỉ với vũ khí thô sơ... Kết cục, ta đã chiến thắng, bởi dân tộc ta có sức mạnh vô biên đó là sức dân, lòng dân.
Bước vào thời kỳ lịch sử cận, hiện đại từ giữa thế kỷ XIX trở đi, cục diện thế giới đã đổi thay. Khi thực dân Pháp đến xâm lược nước ta thì Pháp đã là một nước tư bản chủ nghĩa, với nền công nghiệp bước đầu phát triển, quân đội được trang bị tương đối hiện đại. Trong lúc đó thì Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến, kinh tế lạc hậu, quân đội trang bị rất kém cỏi. Do vậy, phong trào kháng Pháp nổ ra ở khắp nơi, nhưng đều thất bại. Vấn đề đặt ra là, trong điều kiện so sánh lực lượng chênh lệch như vậy, làm thế nào để đánh thắng được kẻ địch tư bản đế quốc lớn mạnh. Điều đó không chỉ đặt ra cho nước ta mà còn cho nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Tiếp nối truyền thống từ thời hai Bà Trưng, đến các thời đại sau này, ta đều tìm sức mạnh ở "Dân". Trong cục diện mới, phải làm sao phát động được sức mạnh mới của dân, một sức mạnh to lớn hơn nhiều lần thì mới thắng được kẻ thù. Phải đợi đến khi Đảng ta ra đời mới tìm ra được con đường cứu nước đúng đắn. Đảng ta và Bác Hồ đã đề ra được đường lối kháng chiến toàn dân, vũ trang toàn dân, kế tục và nâng cao truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước của mỗi một người dân và của toàn thể nhân dân. Đoàn kết tạo nên một sức mạnh mới, sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thế kỷ XX.
Lời hịch kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ đã nêu rõ: Hỡi đồng bào toàn quốc, bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ... hễ là người Việt Nam thì đều phải đứng lên giết giặc cứu nước. Thử hỏi, trên thế giới đã có nước nào lại kêu gọi cả đàn bà, cả người già, người trẻ ra đánh giặc như Việt Nam. Mỗi một người dân phải là một chiến sĩ, mỗi một làng xóm phải là một pháo đài.
Sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kẻ thù là một nước đế quốc đầu sỏ, với tiềm lực kinh tế quân sự cực kỳ to lớn, Bác lại kêu gọi: 31 triệu đồng bào phải là 31 triệu dũng sĩ diệt Mỹ. Thực tế đã diễn ra như thế, chứ không phải nói văn chương, và ta đã chiến thắng.
Cho nên, Bác đã nói: cuộc chiến tranh của ta là một cuộc chiến tranh thực sự của nhân dân, nó là một cuộc chiến tranh toàn dân. Tư tưởng toàn dân đã tạo nên sức mạnh vô địch chiến thắng mọi kẻ thù. Nói như vậy, cũng có nghĩa là trong 30 năm chiến tranh, Đảng ta luôn xác định đúng đối tượng của công tác dân vận là mỗi một người dân, là toàn dân. Tổng kết công tác dân vận trong kháng chiến sẽ đưa lại những kinh nghiệm vô cùng quý giá. Toàn dân đoàn kết kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã đưa lại kết quả hào hùng: là một nước nhỏ mà lại là nước đầu tiên trên thế giới đánh thắng hai đế quốc to là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
3. Ai làm công tác dân vận?
Đảng ta có Ban Dân vận, có các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa, văn nghệ, khoa học, công nghệ, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội khoa học và nghệ thuật..., đều có nhiệm vụ vận động nhân dân. Các tổ chức ấy đã làm dân vận và đang làm dân vận. Có tổ chức làm tốt, có tổ chức làm chưa tốt, thậm chí cũng còn có tổ chức chưa làm. Vì vậy, nên tìm hiểu cho rõ nguyên nhân vì sao lại có tình hình đó? Từ khi có Nghị quyết Trung ương lần thứ tám đến nay, công tác dân vận của chúng ta đã có nhiều khởi sắc, tạo ra những phong trào tốt. Nhưng các báo cáo thường mới phản ánh mặt làm được, ít nói đến mặt chưa làm được. Thực tế, có những nơi vẫn còn là "vùng trắng" về công tác dân vận. Vậy ở những nơi đó ai sẽ đảm nhiệm công tác này.
Bác chỉ rõ: "Tất cả các cán bộ chính quyền, tất cả các cán bộ đoàn thể, tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân... đều phải phụ trách dân vận". Bác nói đến cán bộ chính quyền trước, vì Đảng ta là đảng cầm quyền; cán bộ chính quyền có chức năng ra quyết định về chính sách, về nhân sự, và thực hiện chính sách ấy. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, chính quyền làm công tác dân vận bằng cách đề ra những chính sách đúng đắn hợp với lòng dân. Đương nhiên, không phải là mị dân, theo đuôi dân hay mệnh lệnh quan liêu. Trên cơ sở phát huy dân chủ, phát huy sáng kiến của dân, kết hợp thực tiễn với lý luận, thì chúng ta sẽ xây dựng được chính sách đúng đắn. Chính quyền còn có trách nhiệm tạo điều kiện và phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội để làm tốt công tác dân vận. Đáng chú ý là hiện nay còn không ít trường hợp không chịu lắng nghe dân, hoặc vì thiếu dân chủ nên dân không dám nói; hoặc có nghe dân nói nhưng rồi cứ để đấy, thậm chí có khi làm ngược lại.
Đảng có làm công tác dân vận không? Bác nói: "Tất cả cán bộ Đoàn thể... đều phải phụ trách dân vận". Đoàn thể đây là Đảng, bởi vì lúc bấy giờ Đảng chưa ra công khai. Dân vận là vận động nhân dân làm theo đường lối của Đảng. Khi mới thành lập, Đảng ta đã có đường lối hợp với lòng dân, hợp với xu thế của thời đại. Những năm 40, Đảng đã đề ra Mười chính sách lớn của Việt Minh được mọi tầng lớp nhân dân tin tưởng và hưởng ứng. Do làm tốt công tác dân vận nên đường lối và chính sách của Đảng đã biến thành sức mạnh phi thường; đảng viên lại gương mẫu, đi đầu trong sự nghiệp cứu nước, cho nên tuy số lượng đảng viên hồi đó chỉ mới có mấy ngàn mà đã phát động được cao trào cách mạng, cùng toàn dân đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công. Tiếp đó, trong suốt ba mươi năm kháng chiến, với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy được tiềm lực sáng tạo của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã động viên, tổ chức toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại.
Đảng ta, Nhà nước ta và các tổ chức xã hội có nhiều kinh nghiệm và cách làm dân vận thật phong phú. Hồi còn hoạt động bí mật thì người này rỉ tai người kia, tranh thủ từng người, từng nhà, từng lúc để vận động; tổ chức các hội cứu quốc; ra lời kêu gọi đồng bào... Chúng ta cũng đã từng chứng kiến tác dụng to lớn của lời hịch - một phương thức làm công tác dân vận của Bác Hồ trong ngày toàn quốc kháng chiến. Phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, của chính quyền cũng là một hình thức làm dân vận. Cách này ta làm đã nhiều và tương đối có nền nếp. Cái tốt là có nhiều trường hợp Đảng, Nhà nước đã tổ chức lấy ý kiến của dân trước khi quyết định chủ trương, chính sách. Tiếc rằng, có nơi, có lúc vẫn còn tình trạng ý kiến của dân, của cơ sở chưa được phản ánh kịp thời, đầy đủ lên đến cấp có thẩm quyền quyết định.
Học tập để quán triệt nghị quyết là cần, nói chung là tốt. Nhưng cũng phải nói rằng, nghị quyết đã nhiều, học tập lại kéo dài ngày, có khi người phổ biến trình độ lại không bằng người nghe, nên thường mất nhiều thời gian mà lại chậm được triển khai vào cuộc sống.
Ngày nay, các phương tiện thông tin đại chúng phát triển cực kỳ nhanh: báo chí, phát thanh, truyền hình... Năm trước, trong dịp đi thăm Trung Quốc, Trưởng ban Tuyên huấn của bạn cho tôi biết lượng thông tin về các mặt đến với người dân có đến 80% là do các phương tiện thông tin đại chúng, trong đó một phần khá quan trọng là của nước ngoài; 10% là do trong nhân dân truyền miệng với nhau; phần do các cơ quan có thẩm quyền phổ biến chỉ chiếm 10%. Chúng ta cần thấy vai trò hết sức quan trọng của các phương tiện thông tin đại chúng để có chủ trương, kế hoạch phát triển, quản lý và sử dụng phục vụ tốt công tác dân vận.
4. Công tác dân vận trong tình hình hiện nay
Cục diện thế giới đã và đang trải qua những đảo lộn chưa từng thấy. Ở trong nước, Đảng ta đang thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chính sách mở cửa, thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hoá... Đường lối đổi mới của Đảng đã giành được những thắng lợi to lớn. Vấn đề đặt ra cho công tác dân vận là: trong khi kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phải đổi mới nội dung và hình thức để kịp thời đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Cơ chế thị trường mở cửa, với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã tỏ ra có những mặt tích cực rõ rệt: thu hút nguồn vốn từ nước ngoài, tiếp thu những công nghệ mới, những kiến thức quản lý mới, những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đồng thời nó cũng bộc lộ nhiều mặt tiêu cực: tệ nạn xã hội phát triển, xu hướng chạy theo lối sống thực dụng của một xã hội tiêu thụ, sự xâm nhập của văn hóa không lành mạnh từ bên ngoài...
Trước những lời ca ngợi với động cơ khác nhau của dư luận thế giới đối với những thành tựu đổi mới của Việt Nam, chúng ta càng thêm phấn khởi tin tưởng, năng động và sáng tạo vững bước tiến lên trong vận hội mới; đồng thời không mảy may chủ quan tự mãn, mà phải thấy hết những khó khăn thử thách để vượt qua. Chúng ta đang hòa bình xây dựng trên đất nước độc lập, thống nhất, vấn đề bảo vệ hòa bình, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ chế độ vẫn là một nhiệm vụ chiến lược hết sức quan trọng. Chúng ta phải luôn cảnh giác đối với những mưu đồ đen tối muốn thực hiện "diễn biến hòa bình", hòng thủ tiêu những thành quả vĩ đại của cách mạng mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Công tác dân vận hiện nay cần làm cho mỗi một người dân, nhất là thế hệ trẻ, nhận rõ những thuận lợi và khó khăn nói trên, đoàn kết phấn đấu giữ vững ổn định chính trị - xã hội và bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh với một chiến lược tổng hợp: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, ngoại giao... Hơn lúc nào hết, con người Việt Nam cần sống, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, không chỉ vì lợi ích chính đáng của bản thân và gia đình mà còn vì lợi ích cao cả của đất nước, của dân tộc.
Chúng ta đang thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, nhanh chóng mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế. Chúng ta cần coi trọng hơn nữa mở rộng quan hệ hữu nghị với nhân dân bè bạn, với các lực lượng hòa bình và tiến bộ trên thế giới, đẩy mạnh công tác ngoại giao nhân dân. Đây cũng là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác dân vận trong tình hình mới.
Vừa qua trong dịp đi thăm Italia, các bạn Italia có nói với tôi, họ đã từng có một "thế hệ Việt Nam". Thế hệ ấy đã hết lòng ủng hộ Việt Nam trong kháng chiến. Hiện nay, có những người thuộc thế hệ ấy đang giữ những vị trí quan trọng trong xã hội, nhưng các bạn Việt Nam hình như đã quên họ, trong khi họ vẫn nhớ và sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam. Suy cho cùng, thực chất của công tác dân vận là xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Từ thực tiễn hoạt động sản xuất và chiến đấu của dân và góp phần xây dựng thành chính sách, đường lối của Đảng. Khi đã có đường lối, chính sách thì công tác dân vận lại có nhiệm vụ quán triệt và vận động nhân dân thực hiện.
Cho đến nay, công tác dân vận đã có những thành tựu lớn, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Nguyên nhân chủ yếu là do Đảng ta có đường lối đúng đắn và sáng tạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Bác Hồ nói: "Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động".
Chúng ta phấn khởi thấy Trung ương Đảng ta coi công tác lý luận là một vấn đề quan trọng hàng đầu. Chúng ta hiện đang đi vào thực tiễn nước ta và thực tiễn thế giới để sơ kết, tổng kết, đề ra đường lối đổi mới. Chúng ta đang tiếp tục nghiên cứu để phát hiện những bước đi thích hợp, tìm ra và hoàn thiện dần con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đây là một nhiệm vụ lớn lao, đòi hỏi trí tuệ của đông đảo quần chúng nhân dân, của các nhà khoa học.
Muốn đi đến thành công, một tiền đề và điều kiện không thể thiếu là phải phát huy dân chủ. Bác Hồ dạy: "Nước ta là nước dân chủ...". Dân chủ để khơi dậy sáng kiến của người dân; trong lãnh đạo công tác lý luận lại càng phải dân chủ. Đồng chí Luyxiêng Xevơ, nhà triết học lớn của Đảng Cộng sản Pháp viết: "Cái bi kịch lớn nhất của cuộc đời Xtalin là triệt tiêu dân chủ trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận". Phải thực sự dân chủ, lắng nghe những ý kiến khác nhau, có như vậy mới tìm ra chân lý. Tất nhiên ta phải biết phân biệt dân chủ chân chính, dân chủ có kỷ cương, có lãnh đạo, khác hẳn với dân chủ cực đoan, vô chính phủ.
Rất đáng tiếc là hiện nay có một bộ phận cán bộ và nhân dân không quan tâm đến lý luận, thậm chí không muốn nói đến lý tưởng, đến chính trị. Hiện tượng "phi chính trị" chẳng khác gì một hội chứng mất khả năng miễn dịch về chính trị, chẳng khác gì một thứ bệnh AIDS chính trị cực kỳ nguy hiểm. Công tác dân vận có nhiệm vụ chống lại hiện tượng ấy.
Bác Hồ nói: "Dân vận kém thì việc gì cũng kém; dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Trong tình hình mới, nhiệm vụ của dân vận càng hết sức nặng nề, đòi hỏi ở cán bộ dân vận những phẩm chất và năng lực mới.
Hy vọng rằng, sau cuộc hội thảo này, công tác dân vận của chúng ta sẽ có một bước phát triển mạnh mẽ, thực hiện bằng được lời dạy của Bác Hồ và các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận.
____________________
* Bài phát biểu tại Hội thảo Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 12-11-1994.
** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.276.
CÔNG TÁC DÂN VẬN GÓP PHẦN THIẾT THỰC CỦNG CỐ VÀ TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ BỀN VỮNG, MẬT THIẾT GIỮA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỚI NHÂN DÂN* TRẦN ĐỨC LƯƠNG**
Hôm nay, nhân Lễ kỷ niệm 72 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng, 3 năm Ngày dân vận cả nước, 58 năm ngày Bác Hồ viết bài báo Dân vận và đón nhận Huân chương Sao Vàng, phần thưởng cao quý nhất của Đảng và Nhà nước trao tặng Ban Dân vận Trung ương Đảng, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi xin gửi tới các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng, các đồng chí là cán bộ dân vận qua các thời kỳ cách mạng trong cả nước, các vị đại biểu, các đồng chí và các bạn lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Trong suốt chặng đường 72 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định mọi thành tựu vĩ đại của Đảng, của dân tộc ta đều bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, được nhân dân đồng tình ủng hộ và một lòng đi theo Đảng làm cách mạng. Với tầm cao trí tuệ, vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng trong từng giai đoạn lịch sử, Đảng, Bác Hồ đã thường xuyên quan tâm, bồi đắp mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Đây chính là nguồn sức mạnh và truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường vẻ vang của Đảng, chúng ta ghi nhớ công ơn to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã dày công tìm tòi và chỉ dẫn từng bước đi cho cách mạng Việt Nam, xây dựng Nhà nước cách mạng của dân, do dân và vì dân với tư tưởng dân là chủ và dân làm chủ. Chúng ta xúc động biết ơn các anh hùng, liệt sĩ, các đồng chí cán bộ, đảng viên đã tận tụy suốt cuộc đời vì sự nghiệp công tác dân vận của Đảng, góp phần làm nên những thành tích to lớn, để đến hôm nay chúng ta có niềm vinh dự và tự hào về công tác dân vận của Đảng đã trưởng thành không ngừng.
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc - nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc ta, với tầm nhìn chiến lược sâu sắc, đã sớm nhận thấy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng. Người viết: "Cách mạng trước hết phải làm cho dân giác ngộ"1 và phải "làm thức tỉnh sự đồng tình của quần chúng"2.
Tư tưởng và lý luận về "Dân vận" của Người là một tài sản vô cùng quý báu, không những cho ngày nay mà còn cho các thế hệ mai sau. Bằng những lời lẽ ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, Người luôn căn dặn chúng ta: "Nước lấy dân làm gốc. Trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc lực lượng chính là ở dân", "Thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu hy sinh và trí thông minh sáng tạo của hàng triệu nhân dân"3, "Có dân là có tất cả", "Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân", "Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"4.
Những lời dạy của Bác cách đây đã hơn nửa thế kỷ vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự nóng hổi trong cuộc sống của chúng ta. Bài học lịch sử của đất nước đã chỉ ra: mỗi khi nhân dân ta đoàn kết thống nhất, trên dưới một lòng thì chiến thắng được thiên tai, địch họa, giữ yên bờ cõi, đất nước được thái bình, thịnh vượng.
Ngay từ buổi đầu của cách mạng, Đảng ta đã khẳng định: công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng nước ta. Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên của Đảng đã không quản gian lao, thực hiện chủ trương "vô sản hóa", tiến hành "ba cùng" với dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lao động và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh và động lực cho cách mạng theo tư tưởng của Bác Hồ: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã nhất tề đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ địa vị người nô lệ, nhân dân ta đã trở thành người làm chủ nước nhà.
Tiếp đó, trong những năm kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng ta đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận luôn gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi miền của đất nước. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã chịu đựng hy sinh gian khổ, kiên cường bám dân để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin tưởng và che chở cho cán bộ khi bị địch truy lùng, chăm sóc chạy chữa khi đau yếu, móc nối khi mất liên lạc và đùm bọc, chia ngọt sẻ bùi như con em trong gia đình. Trong những năm tháng đó, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, các phong trào "Ba sẵn sàng", "Ba đảm đang", "Năm xung phong"... đã rầm rộ phát triển, tạo nên bầu nhiệt huyết cách mạng sôi động trong nhân dân cả nước, tất cả vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Công tác dân vận đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ với tấm lòng son sắt và thủy chung, không gì lay chuyển được.
Khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, tổng kết từ thực tiễn, với sự đóng góp trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, Đảng ta đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước. Đường lối đổi mới đã thể hiện rõ ý Đảng hợp với lòng dân, được nhân dân đồng tình hưởng ứng và sáng tạo thực hiện trong cuộc sống. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã có Nghị quyết quan trọng về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Đây là định hướng quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng ở thời kỳ mới. Hệ thống tổ chức công tác dân vận từ Trung ương đến cơ sở với một đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân đầy tâm huyết, giàu kinh nghiệm, đã sáng tạo nên nhiều hình thức và biện pháp để chuyển tải kịp thời đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân. Nhiều phong trào thi đua yêu nước đã nhanh chóng lan tỏa khắp nơi, đến được với từng gia đình, thôn, xóm, bản, làng, nổi bật là phong trào thi đua sản xuất giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Khi tinh thần làm chủ được phát huy, nhân dân ta với ý thức trách nhiệm và lòng tin yêu Đảng đã phát hiện kịp thời, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; góp phần đấu tranh, ngăn chặn âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, nhiều nhân tố mới và thông qua kết quả các phong trào của quần chúng đã giúp cho Đảng ta có cơ sở tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, có những quyết sách đúng đắn và phù hợp với tình hình mới của đất nước. Nhờ đó, chúng ta đã vượt qua biết bao khó khăn, thử thách, đưa công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay, tạo nên thế và lực mới cho đất nước. Thành quả mà Đảng và nhân dân ta đạt được có nhiều nguyên nhân, nhưng một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sự gắn bó chặt chẽ với dân, quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân, biết phát huy và khai thác sức mạnh to lớn của nhân dân.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nghiêm túc nhận thấy, trong những năm gần đây, công tác dân vận của Đảng bộc lộ nhiều hạn chế. Tệ quan liêu, bệnh thành tích và hình thức còn khá phổ biến từ nhiều ngành ở Trung ương đến cơ sở khiến cho phong trào nhiều nơi có bề nổi nhưng chưa có bề sâu, chưa thật ăn sâu, bám rễ vào nhân dân, nhất là với đồng bào vùng sâu, vùng xa đời sống còn nhiều khó khăn. Một tồn tại nữa là khuynh hướng "hành chính hóa" các tổ chức quần chúng và công tác vận động quần chúng đường có xu hướng phát triển. Tệ cửa quyền, tham nhũng của không ít cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã làm cho nhân dân bất bình, dư luận xã hội phê phán nghiêm khắc. Đây thực sự là những vấn đề bức xúc cần được xem xét nghiêm túc và có biện pháp giải quyết hữu hiệu để giữ vững và phát huy được bản chất tốt đẹp trong công tác dân vận của Đảng.
Đại đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: "Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia"5.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần tham gia, lợi ích của các tầng lớp nhân dân được thể hiện rất đa dạng. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thường xuyên chăm lo vun đắp và thực hiện tốt tình đoàn kết keo sơn trong các tầng lớp nhân dân, trong nội bộ từng cơ quan, doanh nghiệp và từ các cộng đồng dân cư đến mỗi gia đình. Tập trung giải quyết hài hòa về lợi ích giữa các tầng lớp nhân dân, đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân ngay từ cơ sở. Đồng thời xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, xây dựng tấm lòng yêu nước, tin cậy lẫn nhau, cùng chung sức, chung lòng xây dựng quê hương, đất nước. Nhà nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Các cấp chính quyền cần tăng cường công tác dân vận, đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến xác đáng của nhân dân khi xây dựng các chủ trương, chính sách, làm cho chính sách sát hợp với lòng dân, tác động tích cực vào sản xuất và đời sống nhân dân.
Người dân tiếp xúc với các cơ quan Đảng, Nhà nước chủ yếu là qua những người cán bộ cụ thể, vì vậy xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh vững vàng, năng lực tốt, thạo nghiệp vụ, có tác phong làm việc sát dân, tôn trọng dân, tận tụy phục vụ nhân dân, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến xác đáng của các tầng lớp nhân dân, hướng dẫn nhân dân khi họ có yêu cầu để được giải quyết công việc một cách thuận lợi và làm gương để dân tin là điều hết sức quan trọng đồng thời cũng đang là đòi hỏi của nhân dân.
Công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới đang đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Đảng phải tiếp tục vươn lên lãnh nhận trách nhiệm trước Đảng, trước dân, khắc phục khó khăn và những mặt yếu kém, nhạy cảm, nắm bắt và tham gia giải quyết hiệu quả những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống đặt ra, góp phần thiết thực củng cố và tăng cường mối quan hệ bền vững, mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Một yếu tố quan trọng có tính quyết định để nâng cao hiệu quả của công tác dân vận là phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân vận của Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách, sống hòa đồng với mọi người là thiết thực làm tốt công tác dân vận. Cấp ủy đảng phân công những cán bộ có uy tín với dân, có kinh nghiệm và năng lực trực tiếp phụ trách công tác dân vận. Tôn trọng và tiếp thu ý kiến đóng góp của Mặt trận, đoàn thể; tôn trọng tính độc lập và sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của từng tổ chức. Quan tâm lãnh đạo về đổi mới các hoạt động đối ngoại nhân dân, không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, có chính sách phù hợp và biết cách thu hút kiều bào ta ở nước ngoài và các nước trên thế giới ủng hộ, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới của dân tộc ta.
Sự đóng góp sức lực và trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, chiến sĩ về công tác dân vận của Đảng là làm tăng thêm sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, là góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là cơ sở cho sự ổn định và phát triển bền vững, tạo thế và lực mới của dân tộc ta vững bước tiến lên trong những thập kỷ tới.
Với truyền thống vẻ vang này, tôi tin tưởng sâu sắc rằng: dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, với những kinh nghiệm quý báu và thành quả có được trong 72 năm qua, công tác dân vận của Đảng sẽ tiếp tục hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mới, góp phần xứng đáng vào sự thành công của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
_____________
* Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 72 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam và đón nhận Huân chương Sao Vàng.
** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm cách mạng.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.267; t.l, tr.278.
3,4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.266; t.5, tr.700.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.81.
XÂY DỰNG MỐI LIÊN HỆ MẬT THIẾT GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN: NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH SỰ VỮNG MẠNH CỦA ĐẢNG, LÀM NÊN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM* TRƯƠNG TẤN SANG**
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là người làm nên lịch sử, gắn bó mật thiết với nhân dân là bản chất của Đảng Cộng sản. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, ông cha ta cũng đã xác định nhân dân là gốc của nước, "chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân". Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị truyền thống của dân tộc, luôn luôn nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân, Người cho rằng: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"1. Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng trong suốt 80 năm qua, ở tất cả các giai đoạn cách mạng, Đảng ta đều gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong 80 năm qua rất đa dạng, phong phú, thể hiện ở một số nội dung, phương thức sau đây:
Thứ nhất, mọi hoạt động của Đảng đều nhằm mục đích phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Từ khi ra đời đến nay, trong Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối của mình, Đảng ta luôn xác định Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng, khẳng định toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân, sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác"2. "Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân..."3. Người nói: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC"4. Sự thống nhất giữa mục tiêu và lợi ích của Đảng với mục tiêu, lợi ích, nguyện vọng của nhân dân là cơ sở nền tảng vững chắc của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Bằng việc đoàn kết, tập hợp, tổ chức và lãnh đạo toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, Đảng ta đã từng bước thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình: giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Những chiến thắng vĩ đại và thành tựu to lớn của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm cho quần chúng nhân dân càng thêm tin yêu, gắn bó với Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng - lãnh tụ duy nhất, đáng tin cậy của mình. Vì vậy mà toàn thể nhân dân Việt Nam đã gọi Đảng Cộng sản Việt Nam bằng hai tiếng gần gũi, tin yêu: "Đảng ta".
Thứ hai, sau khi giành được chính quyền, Đảng chăm lo xây dựng chính quyền thực sự "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"; xây dựng mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân thông qua mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân.
Sau khi được thành lập, để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, Đảng ta đề ra mục tiêu, nhiệm vụ đầu tiên là phải giành được chính quyền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đổ chính quyền thực dân và phong kiến, xây dựng chính quyền của nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta được làm chủ đất nước. Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên ngày 6-1-1946 và việc nhân dân tham gia xây dựng Hiến pháp năm 1946 là biểu hiện tập trung nhất quyền làm chủ đất nước của nhân dân ta. Hiến pháp năm 1946 và trong các bản Hiến pháp tiếp theo đều quán triệt quan điểm: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo"5.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền thì một trong những kênh liên hệ quan trọng nhất giữa Đảng với nhân dân là thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân. Vì vậy Đảng ta luôn luôn coi việc lãnh đạo, xây dựng, tăng cường, kiện toàn Nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, để Nhà nước là cơ quan quyền lực của nhân dân, để phục vụ lợi ích của nhân dân, tất cả mọi cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước là "đầy tớ, công bộc" của dân... Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì"6, Đảng ta đã lãnh đạo Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật, đề ra và thực hiện có hiệu quả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, bảo đảm an ninh, quốc phòng, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, phát huy quyền làm chủ, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực, toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận của các cấp chính quyền có nhiều chuyển biến tích cực. Cán bộ, công chức, viên chức ngày càng sâu sát cơ sở, gần dân, đổi mới tác phong công tác, phục vụ nhân dân. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức giữ mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Đồng thời, Đảng lãnh đạo Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm hại tới lợi ích của đất nước, của nhân dân... Nhờ đó, quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân được củng cố tăng cường.
Thứ ba, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở mối quan hệ giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở nước ta đóng vai trò hết sức quan trọng trong đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, đối tượng xã hội, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Chính vì nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cho nên ngay sau khi ra đời, Đảng đã đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp vào các tổ chức như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Tương tế, Ái hữu để xây dựng lực lượng cách mạng cho nên cao trào cách mạng Xô viết Nghệ - Tĩnh; xây dựng các tổ chức công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc... tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, phát triển lực lượng chính trị hùng mạnh, kết hợp với lực lượng vũ trang, khi thời cơ đến, đứng lên lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, xây dựng chính quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong suốt 30 năm tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã đưa công tác vận động quần chúng lên tầm cao mới, động viên được toàn dân tích cực tham gia vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Với nhận thức sâu sắc "dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong", Đảng đã lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể tập hợp, đoàn kết các tầng lớp xã hội công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, thanh niên, phụ lão, đồng bào các dân tộc, tôn giáo trên khắp mọi miền của Tổ quốc, người Việt Nam định cư ở nước ngoài... gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ, ủng hộ. Bằng phương thức này, Đảng đã động viên được sức người, sức của, huy động cả nước đồng lòng đánh giặc, quyết đánh và quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Trong hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta đã không ngừng củng cố, mở rộng, đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, đổi mới công tác vận động quần chúng của Đảng. Nhiều chủ trương, đường lối, chính sách cơ bản về Mặt trận Tổ quốc, xây dựng các giai cấp, tầng lớp, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài... của Đảng, Nhà nước được ban hành, hoàn thiện, thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng làm tốt hơn vai trò phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ Đảng, chính quyền. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và nhân dân đã từng bước phát huy vai trò, chức năng trong phản biện xã hội đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân ngày càng mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao vị trí, vai trò, tinh thần năng động, hướng hoạt động về cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, do đó đã góp phần tăng cường mối quan hệ, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Thứ tư, mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được thể hiện ở sự liên hệ giữa cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân.
Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân phải được thông qua quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, hoạt động của các tổ chức trong cả hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, qua sự liên hệ, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tính tiền phong, gương mẫu và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tạo được sự tin yêu, mến phục của nhân dân. Chủ tịch Hồ chí Minh nhiều lần căn dặn: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, làm cán bộ tức là suốt đời làm "công bộc", "đầy tớ" thật trung thành của nhân dân. Trong bài báo Dân vận viết cách đây hơn 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v.) đều phải phụ trách dân vận"7; Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong Điều lệ, quy chế, quy định của mình đều đề ra tiêu chuẩn bắt buộc cán bộ, đảng viên phải vừa là người lãnh đạo, vừa là "đầy tớ", "công bộc" của dân; không ngừng rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống; gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân.
Thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành Quy định những điều đảng viên không được làm, Quy định về đảng viên công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) yêu cầu cán bộ, công chức xây dựng và thực hành phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân"; "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Pháp lệnh, và gần đây là Luật Cán bộ, công chức, đặc biệt chú ý phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" những năm qua đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách gần dân, tăng cường hiệu quả công tác giám sát của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức, đảng viên. Những điều này đã tăng cường mối liên hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
Thực tiễn lịch sử 80 năm qua của cách mạng nước ta đã khẳng định mối liên hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn với Đảng và cách mạng Việt Nam, mối liên hệ đó đã không ngừng được củng cố, tăng cường qua mọi giai đoạn của cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vô cùng to lớn, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử chính là nhờ gắn bó máu thịt với nhân dân, đoàn kết, tập hợp, phát huy được sức mạnh của toàn dân. Đây là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam 80 năm qua.
Tuy nhiên, với tinh thần nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật, cũng cần thấy rằng việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng sự gắn bó, liên hệ mật thiết của Đảng với nhân dân vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém; nhiều nội dung trong chính sách xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được thực hiện đầy đủ. Việc cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo, chính sách đối với công nhân, nông dân, trí thức... trên một số mặt còn chậm và thiếu đồng bộ; ở không ít nơi, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm; tâm trạng của một bộ phận nhân dân, cán bộ, công chức, công nhân, nông dân, lao động, trí thức chưa phấn khởi. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là của đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, một số đối tượng chính sách xã hội còn nhiều khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số còn cao; khoảng cách giàu nghèo giữa miền núi và đồng bằng, thành thị và nông thôn còn xa, có xu hướng ngày càng tăng. Công tác vận động quần chúng, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới còn chậm, vẫn còn biểu hiện hành chính hóa và hình thức. Việc sâu sát cơ sở, nắm bắt tư tưởng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên, của các tầng lớp nhân dân còn hạn chế. Công tác dân vận của chính quyền ở nhiều nơi còn yếu. Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà gây khó khăn, phiền phức cho người dân nhưng chậm được sửa chữa, khắc phục. Một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa dân... làm giảm sút vai trò hạt nhân lãnh đạo và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống phá, xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta trên những vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc để chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, phá hoại khối đại đoàn kết của nhân dân ta.
Ngày nay, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng 80 năm qua cần phải tiếp tục xây dựng, củng cố vững chắc mối liên hệ mật thiết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, tập hợp, đoàn kết, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện thắng lợi mục tiêu này là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong cả hệ thống chính trị, trong đó, đặc biệt quan trọng là cần phải làm tốt những vấn đề sau:
1. Đảng phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bởi chủ nghĩa Mác - Lênin mới có quan điểm nhân dân là người làm nên lịch sử, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là mục tiêu cao nhất của cách mạng và chỉ có độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mới thực sự đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trên cơ sở đó, bám sát thực tiễn đất nước và thời đại, Đảng cần phải tiếp tục làm rõ về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta cần xây dựng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, được nhân dân tin cậy; xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất và năng lực, tận tụy, gần gũi, gắn bó với nhân dân, được nhân dân yêu mến, có đủ sức thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng nước ta dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
2. Tiếp tục đổi mới, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện tốt cải cách hành chính; giải quyết kịp thời, đúng luật pháp đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như những phản ánh của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân về những tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu bức xúc, chính đáng của nhân dân.
3. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần hướng mạnh về cơ sở, đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, của đoàn viên, hội viên; tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng để thực sự là hạt nhân lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
4. Tiếp tục quán triệt đường lối của Đảng, nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò của công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới. Trước hết, quan tâm, tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị (khóa XI) về giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, về thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài... Tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo tinh thần Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII); tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tạo động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước.
5. Động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sự thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước...
___________________
*Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng l+2-2010.
*Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.276.
2,3,4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.555; t.10, tr.380; t.6, tr.183.
5. Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.8.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.56.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.699.
GẮN VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VỚI CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ* PHAN VĂN KHẢI**
Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra những chuyển biến bước đầu trong lề lối làm việc của chính quyền cơ sở và cán bộ, công chức nhà nước từ quan liêu, mệnh lệnh sang dân chủ hóa, sát dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Nhiều vấn đề liên quan thiết thực tới đời sống của nhân dân như: Chuyển đổi hợp tác xã, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển ngành nghề, quy hoạch, sử dụng đất đai, quy hoạch dãn dân, kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, công tác cán bộ trong cơ quan... được đưa ra thảo luận dân chủ, rộng rãi trong nhân dân; ở nhiều cơ quan, công tác cán bộ được đưa ra thảo luận dân chủ, rộng rãi trong công chức. Trước đây, việc huy động dân đóng góp để xây dựng kết cấu hạ tầng được làm theo quy trình: Đảng có chủ trương, Hội đồng nhân dân ra nghị quyết, ủy ban nhân dân ra phương án phân bổ đóng góp, tổ chức thu tiền và triển khai xây dựng công trình; thì nay đã giao về cho thôn, làng, ấp, bản để dân bàn, dân quyết định, dân làm, dân kiểm tra, chính quyền hướng dẫn, hỗ trợ nhờ đó công trình hoàn thành nhanh gọn, bảo đảm chất lượng, chống được tham ô, lãng phí. Các văn bản pháp luật của nhà nước có liên quan đến dân, các hồ sơ, thủ tục hành chính, lệ phí và thời gian giải quyết từng công việc được công khai ở trụ sở, nơi tập trung đông dân cư và trên hệ thống truyền thanh để dân biết. Nhiều nơi đã công khai với dân về thu chi ngân sách, sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân, công khai mức thu thuế của các hộ sản xuất, kinh doanh, công khai quy hoạch xây dựng, phương án đền bù, di dời, giải phóng mặt bằng, đưa ra dân bình xét các hộ được vay vốn xóa đói, giảm nghèo, công khai các công trình, dự án của Nhà nước đầu tư cho cơ sở... nhân dân thấy quyền làm chủ của mình được coi trọng nên gắn bó, tin tưởng ở chính quyền, tự giác và có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Một số nơi đã gắn Quy chế dân chủ ở cơ sở với cải cách hành chính, rà soát, bãi bỏ những vấn đề văn bản, quy định trái pháp luật, đơn giản thủ tục hành chính, thực hiện mô hình "một cửa" giải quyết kịp thời đơn thư, khiếu kiện của dân, được dân hoan nghênh.
Kết quả triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có tác động tích cực đến phẩm chất và tác phong của cán bộ cơ sở và công chức nhà nước, giảm bớt quan liêu, hách dịch, sách nhiễu, cửa quyền, có tiến bộ trong gần dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của dân, tự khép mình trong kỷ luật, chịu khó học tập, nâng cao trình độ. Ở một số nơi, bản kiểm điểm công tác cuối năm của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân được gửi đến các cuộc họp thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố để nhân dân đóng góp ý kiến; cán bộ chủ chốt có lịch tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và trả lời phỏng vấn công khai trên hệ thống truyền thanh của địa phương. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng được đưa về cộng đồng dân cư tổ chức thực hiện, có sự giám sát của dân nên đã góp phần ngăn chặn tích cực tệ tham nhũng, lãng phí, bảo vệ được cán bộ và tiền của, tài sản của tập thể. Thực tế ở nhiều nơi chứng minh rằng, nhân dân ta rất giàu lòng nhân ái và vị tha. Những cán bộ sai lầm, mắc khuyết điểm, thành khẩn kiểm điểm, nhận lỗi trước dân thì nhân dân thông cảm, tha thứ; cán bộ một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, trong sạch, giản dị, hòa mình với nhân dân thì được nhân dân quý mến, tín nhiệm.
Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra một bước tiến mới về xây dựng cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố. Vai trò tự quản của thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố ngày càng được thể hiện rõ và được khẳng định, khắc phục dần thói quen bao cấp, ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước.
Nhân dân cùng nhau bàn bạc, quyết định những công việc hằng ngày của cộng đồng, xây dựng hương ước, quy ước hòa giải những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, giữ gìn trật tự, an ninh, phát huy phong tục thẩm mỹ, tăng cường tình làng nghĩa xóm. Dân bầu trực tiếp trưởng thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố thay cho chỉ định của ủy ban nhân dân huyện là một hình thức dân chủ trực tiếp được nhân dân rất đồng tình, tỷ lệ tham gia bầu cử cao. Dân phấn khởi, người được dân bầu nêu cao tinh thần trách nhiệm trước dân.
Thực tiễn triển khai dân chủ ở cơ sở trong những năm qua cho thấy nơi nào thực hiện tốt quy chế thì ở đó chính quyền vững mạnh, dân tin tưởng ở chính quyền, cùng chính quyền tháo gỡ khó khăn, cùng bàn "việc làng, việc nước", hiệu quả hoạt động và hiệu lực quản lý của chính quyền nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, đó mới là kết quả bước đầu, tỷ lệ cơ sở thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở còn thấp, nhiều cơ sở triển khai chưa tốt, làm hình thức “đầu voi đuôi chuột", bởi một số ít cơ sở tình hình phức tạp, cán bộ có sai phạm, chưa triển khai quy chế. Có một số cán bộ chưa nhất trí với chủ trương của Đảng, cho rằng việc ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở làm chậm tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng và giảm hiệu quả quản lý của chính quyền nên chần chừ, ngần ngại, không muốn triển khai quy chế. Vẫn còn những cán bộ hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, sống xa dân, tham nhũng, lãng phí. Trình độ của cán bộ cơ sở còn bất cập nhiều. Còn tình trạng thiếu trật tự, kỷ cương, một số người lợi dụng dân chủ để gây rối làm hạn chế kết quả thực hiện quy chế.
Để quy chế thực sự đi vào cuộc sống, trở thành nếp làm việc thường xuyên, lâu dài của các cấp, các ngành, nhất là đối với chính quyền cơ sở trong thời gian tới, Chính phủ yêu cầu các bộ và các cấp chính quyền địa phương tập trung làm tốt những việc sau đây:
Một là, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở".
Nghị quyết đã vạch ra phương hướng, chủ trương và một loạt biện pháp về từng bộ phận của hệ thống chính trị, về việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Nghị quyết này, cùng với những nghị quyết khác của Trung ương trong Hội nghị Trung ương 5 vừa qua và mấy Hội nghị Trung ương trước đó đã soi sáng và tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Về việc xác định chức năng và nhiệm vụ của chính quyền cơ sở bảo đảm thực quyền của Hội đồng nhân dân, nâng cao hiệu quả của cơ quan hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, tất cả theo tinh thần thực hiện rộng rãi quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền đại diện dân chủ với nâng cao kỷ luật. Có những việc Chính phủ sẽ phấn đấu thể chế hóa và trình Quốc hội thể chế hóa kịp thời, có nhiều việc Chính phủ và chính quyền các cấp cho đến chính quyền cơ sở cần làm khẩn trương, bền bỉ, bảo đảm kết quả tốt.
Chính phủ sẽ ban hành nghị quyết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, trên cơ sở đó, các bộ và các cấp chính quyền địa phương cụ thể hóa và tổ chức thực hiện.
Hai là, phải quán triệt nội dung của Quy chế dân chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động của chính quyền các cấp, cụ thể là:
+ Khi soạn thảo các văn bản pháp luật, các chính sách, khi triển khai các chương trình, dự án, phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, tiếp thu ý kiến đóng góp của nhân dân, làm cho các văn bản pháp luật, các chính sách, chương trình, dự án phù hợp với lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ.
+ Sửa đổi lề lối làm việc theo hướng sát dân, dân chủ hóa và công khai hóa, thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ: mọi việc đều phải dựa vào quần chúng nhân dân, "có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong"1. Không hành chính hóa công việc của cộng đồng dân cư, có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ, mở rộng các hoạt động tự quản lý của dân. Chính quyền cơ sở bảo đảm quyền giám sát của nhân dân trong hoạt động, nhất là trong việc thu, chi ngân sách, các khoản đóng góp của dân, quy hoạch sử dụng đất đai phương án đền bù, di dân, giải phóng mặt bằng, hồ sơ, thủ tục, lệ phí, thời gian giải quyết các vấn đề hành chính và các chương trình dự án đầu tư cho cơ sở.
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát, bãi bỏ những quy định trái pháp luật, không đúng thẩm quyền, những thủ tục hành chính rườm rà, gây phiền hà cho dân, tập trung đầu mối, rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục hành chính.
+ Chính quyền cơ sở, thủ trưởng các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước hằng tháng phải có lịch tiếp dân, phát hiện và giải quyết kịp thời các khiếu kiện của dân, không để khiếu kiện vượt cấp, không để xảy ra điểm nóng, coi đây là một tiêu chuẩn đánh giá chính quyền vững mạnh.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, sửa đổi những quy định không phù hợp, bổ sung những quy định cần thiết tiến tới nâng quy chế dân chủ từ Nghị định thành Pháp lệnh, sửa đổi Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo hướng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân trong việc nhận xét, đánh giá, lựa chọn xứng đáng là đại biểu Hội đồng nhân dân, giám sát hoạt động của các tổ chức bầu cử, bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp thực sự dân chủ. Trước mắt, chính quyền cơ sở thực hiện thật tốt nhiệm vụ quy định trong Luật bầu cử Quốc hội (sửa đổi), bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI thực sự dân chủ, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có đủ phẩm chất, năng lực tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và triển khai tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, biết làm và dám làm giàu chính đáng, biết hướng dẫn và phát huy quyền làm chủ, tính tự chủ của dân. Một mặt, Chính phủ, chính quyền các cấp phải thường xuyên chăm lo, đào tạo cán bộ cơ sở, bảo đảm năm 2005 có khoảng 70% cán bộ chuyên trách được đào tạo theo một chương trình thống nhất, mặt khác phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc nhận xét, đánh giá cán bộ cơ sở. Kiểm điểm công tác cuối năm của cán bộ chủ chốt phải công khai để dân biết, góp ý phê bình. Hàng năm lấy phiếu tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ cơ sở.
_________________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 3-2002.
** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.295.
CÔNG TÁC DÂN VẬN PHẢI THAM MƯU CHO ĐẢNG ĐƯA CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG ĐẮN VÀO CUỘC SỐNG* PHẠM THẾ DUYỆT**
Năm 1996, Đảng ta đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B về tăng cường công tác quần chúng của Đảng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Chúng ta có dịp xem xét công tác dân vận một cách toàn diện và sâu sắc đã góp phần cho chuẩn bị Đại hội lần thứ VIII của Đảng, giúp Đảng đề ra các chính sách nhằm phát huy sức dân, tiếp tục công tác đổi mới của đất nước, đẩy tới công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
Định hướng đúng đắn của Đại hội VIII đã cổ vũ nhân dân ta tiếp tục phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế khá cao. Năm 1997, tuy bị ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 5 gây ra những tác động của sự biến động về tài chính - tiền tệ của khu vực Đông Nam Á, nhưng đất nước ta vẫn đạt sản lượng lương thực cao nhất so với những năm qua.
Tuy nhiên, trên góc độ công tác dân vận, ta càng có thêm thực tiễn để thấy rõ sự cần thiết phải giải quyết đồng bộ những vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng về kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế nhiều thành phần, còn nhiều điều với ta là rất mới mẻ. Trong cuộc sống của nhân dân nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, ví dụ:
Do vốn ta ít, tích lũy của ta còn hạn hẹp mà yêu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lại lớn, do vậy chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm là rất đúng. Nhưng bên cạnh đó, việc huy động sức dân thế nào cho hợp lý, cách làm thế nào cho nhân dân đồng tình đã trở thành vấn đề rất lớn, có ý nghĩa rộng trong xã hội ta (nhất là ở nông thôn).
Quá trình ra đời và mở rộng các đô thị, các khu công nghiệp, các con đường lớn, sân bay, bến cảng, v.v. ta phải giải tỏa, đền bù, có thể thực hiện được các mục tiêu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng, chính các điểm đền bù, giải tỏa đã sinh ra các "điểm nóng". Ta phải làm sao cho các vùng chuyển đổi, nhân dân có việc làm, có cuộc sống ổn định để đi lên, dân có quyền lợi khi đất nước đổi thay, nhân dân tham gia và bảo vệ cho các dự án xây dựng của Nhà nước triển khai thuận lợi.
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng là phù hợp lợi ích đất nước và hợp lòng người dân. Vừa qua chúng ta đã có nhiều mô hình tốt ở các vùng, các miền, do có chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mà thu nhập của người dân khá lên, giảm bớt đói nghèo. Đảng bộ cơ sở và các đoàn thể gắn với dân. Tuy vậy, ở nhiều nơi vẫn còn xảy ra tình trạng ứ đọng sản phẩm, bị thất thu, dịch bệnh, thiên tai làm cho nhân dân băn khoăn, lo lắng. Ngày nay, các vấn đề kinh tế luôn luôn phải gắn với các vấn đề xã hội. Công tác dân vận phải tham mưu cho Đảng đưa chủ trương, đường lối đúng đắn vào cuộc sống, góp phần tháo gỡ những bức xúc của nhân dân như:
+ Vừa có việc làm, có cuộc sống tốt, bảo vệ lợi ích của công nhân lao động, vừa bảo đảm lợi ích của các doanh nghiệp (trong nước, nước ngoài), khuyến khích các nguồn đầu tư nước ngoài;
+ Vừa khuyến khích người có tài năng, có vốn đầu tư canh tác để tạo nên các vùng sản phẩm có giá trị, đồng thời không để cho nông dân "trắng tay" về ruộng đất trong khi chưa chuyển sang nghề khác một cách hợp lý;
+ Làm sao cho việc di chuyển dân cư có sự chỉ đạo, không thành các đợt sóng, tự phát, để lại hậu quả xã hội cả ở địa phương có người ra đi và địa phương có người tới;
+ Làm sao anh chị em trí thức, công chức, viên chức phát huy được tài năng và kinh nghiệm; say sưa với nghề nghiệp và công tác của mình... đều là công tác dân vận phải rất quan tâm. Chúng ta rất mừng là năm qua, trong cuộc sống thực tế, không chỉ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể có nhiều nhận thức mới về vai trò công tác quần chúng của Đảng mà trong nhiều cấp ủy Đảng, nhiều cấp chính quyền đã có thực tế để hiểu sâu sắc hơn những vấn đề bức xúc của các tầng lớp nhân dân và công tác dân vận của Đảng.
Bài học từ Thái Bình có ý nghĩa rất sâu sắc cho công tác dân vận. Thái Bình từ một tỉnh giàu truyền thống cách mạng nhưng trong 237 xã đã bùng lên tình trạng khiếu kiện tập thể của đông đảo nhân dân, mà nội dung khiếu kiện nói chung là đúng và có lý, phản ánh đòi hỏi chính đáng của nhân dân. Tình trạng này không chỉ có ở Thái Bình mà cũng còn xảy ra ở nhiều địa phương khác. Nỗi bất bình của nhân dân bắt nguồn trước hết từ tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ của nhiều cấp ủy, chính quyền các cấp, mà trực tiếp là ở các xã.
Huy động sức dân quá mức mà dân không được bàn bạc kỹ.
Nhiều việc làm trái với quy định của Nhà nước, như việc cấp đất, bán đất sai và tùy tiện.
Quản lý tiền thu của dân bị thất thoát, nhiều nơi cán bộ lợi dụng để tham ô, tiêu xài hoang phí, coi thường quần chúng, đặc quyền, đặc lợi, quy chụp những người đấu tranh đúng đắn.
Thắc mắc của dân để tồn đọng lâu dài, không thanh tra, xử lý nghiêm minh, cán bộ bao che cho nhau. Tệ nạn tham nhũng đã trở thành phổ biến.
Nhiều chính sách đối với người dân, đối với nông nghiệp và nông thôn không còn phù hợp nhưng chưa được kịp thời điều chỉnh, bổ sung. Chính phủ, cơ quan Đảng ở cấp Trung ương quan liêu, không đánh giá đúng tình hình của địa phương, chỉ khen mà không thấy tình hình yếu kém... Khi sự việc xảy ra, cấp ủy địa phương không nhận thức đúng nguyên nhân, không đề ra được các giải pháp thỏa đáng, đã để xảy ra tình trạng bức xúc kéo dài. Tư tưởng thành tích, chủ quan, thỏa mãn cùng với bệnh quan liêu, không nhìn thẳng vào sự thật, để buông trôi, né tránh đã làm cho Đảng xa dân, mất vai trò lãnh đạo, mất lòng tin trong dân. Thực chất, hệ thống chính trị ở những nơi này đã rất yếu kém, hoạt động theo kiểu hành chính, để mất dân mà không biết, khi sự việc xảy ra thì thụ động, bất lực.
Trong tình hình ấy, người xấu đã bị lợi dụng để kích động dân gây rối, đặt ra những yêu sách vô lý với chính quyền. Kẻ địch từ ngoài công kích Đảng, Nhà nước, xúi giục nhân dân đúng lên chống lại chế độ.
Đây là bài học cho sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của các cấp chính quyền về vai trò của mặt trận và các đoàn thể.
Bộ Chính trị đã chỉ đạo để từng bước ổn định lại tình hình ở Thái Bình, ra chỉ thị về các vấn đề cấp bách ở nông thôn, chỉ đạo xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở là giải pháp cơ bản để ổn định công tác quần chúng.
Ở nhiều địa phương, các ban dân vận có tham mưu cho cấp ủy đi kiểm tra, khảo sát thực tế, điều chỉnh lại các biện pháp chỉ đạo, làm giảm bớt những bức xúc của nhân dân. Tuy vậy, kiểm điểm cho thật nghiêm khắc, đội ngũ công tác dân vận của ta cũng còn mặt yếu kém, không kịp thời kiến nghị với Trung ương các giải pháp sắc bén để có thể sớm ổn định tình hình. Khi có diễn biến phức tạp, thấy rõ cơ sở của ta có nhiều yếu kém (mặc dù bình thường đã được phân loại tốt, vững mạnh), vai trò của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, mặt trận, đoàn thể rất lúng túng, bị động, nhiều nơi đã bị tê liệt, không còn tác dụng lãnh đạo. Mong rằng, dịp tổng kết công tác dân vận năm 1997, bàn phương hướng năm 1998, chúng ta thảo luận kỹ, rút được bài học cần thiết, tạo ra chuyển biến cho công tác dân vận trong thời gian tới.
Về chăm lo đội ngũ công tác dân vận
Chúng ta rất mừng về việc nhiều cấp ủy dã chăm lo cho công tác dân vận. Năm qua, nhiều vấn đề của dân đã được cấp ủy, chính quyền bàn bạc, giải quyết. Nhiều ý kiến nhân dân đã được góp ý cho chủ trương, chính sách, hoàn chỉnh các dự thảo luật và sửa đổi bổ sung các đạo luật và các nghị quyết của Đảng. Đội ngũ công tác dân vận, mặt trận, đoàn thể được củng cố, nhiều đồng chí thường vụ trực tiếp phụ trách kiện toàn thêm, dành nhiều công sức cho công tác này. Sự phối hợp của mặt trận, các đoàn thể với nhiều ngành chuyên môn có kết quả. Khối công tác dân vận gắn bó với nhau, trao đổi kinh nghiệm với nhau, có quy chế phối hợp hoạt động, hoạt động đều tay và có hiệu quả hơn. Việc chăm lo và bồi dưỡng cho cán bộ tỉnh, huyện, cơ sở được các ban dân vận và các tổ chức mặt trận, đoàn thể chăm lo tốt hơn. Bốn quan điểm lớn về công tác dân vận theo Nghị quyết Trung ương 8B được trên 5.000 cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước quán triệt ở hơn 10 lớp học Nghị quyết Đại hội VIII ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đội ngũ cán bộ cơ sở xã được chăm lo, động viên tốt hơn theo nghị định mới của chính phủ. Xã hội ngày càng có nhận thức đúng hơn về công tác quần chúng, vì thế công tác dân vận được nâng cao hơn.
Từ phía nhân dân, từ các cấp ủy đòi hỏi chúng ta phải nâng cao trình độ và chất lượng tham mưu, đề xuất, nhạy bén và kịp thời giúp Trung ương, giúp các cấp ủy làm tốt công tác dân vận trước tác động đa dạng và phức tạp từ tác động của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập với cộng đồng thế giới đang đặt ra nhiều vấn đề mới.
Quá trình theo dõi công tác dân vận, công tác tôn giáo, tôi tin rằng đội ngũ của chúng ta với nhiệt tình và trách nhiệm có thể nâng cao dần trình độ của mình, làm tốt hơn những yêu cầu mà Đảng đặt ra.
Về nhiệm vụ dân vận năm 1998, bản báo cáo đã đề cập khá đầy đủ, tôi đề nghị một số vấn đề quan tâm hơn:
a) Cấp ủy, chính quyền và đoàn thể nhân dân phải nhận thức sâu sắc hơn nữa về công tác vận động quần chúng; làm tốt hơn nữa việc lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội 1998 - 2000: Nâng cao hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; làm cho nhân dân mà trước hết là công - nông - trí và đội ngũ về hưu phấn khởi, tin tưởng, hăng hái thực hiện mọi nhiệm vụ quan trọng của Đảng đề ra.
b) Khối dân vận hãy làm cho các nghị quyết Trung ương 2, Trung ương 3, Trung ương 4; các chỉ thị quan trọng của Đảng đi vào cuộc sống, các nghị định về phát huy quyền làm chủ, thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan, xí nghiệp, các pháp lệnh quan trọng rất phù hợp lòng dân như pháp lệnh chống quan liêu, tham nhũng; pháp lệnh chống lãng phí, thực hành tiết kiệm; pháp lệnh công chức phải được thực hiện có kết quả. Những vấn đề nêu trên thân thiết với chúng ta vì những chính sách, nghị quyết này rất thuận lợi cho những người làm công tác dân vận; vì chúng ta phải chăm lo và bảo vệ quyền lợi cho quần chúng, giúp Đảng giải quyết những vấn đề rất khó khăn mà trong nhiều năm qua chưa làm tốt.
c) Củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, công tác dân vận có chất lượng cao, có uy tín cao; biết vận động các tầng lớp nhân dân, được dân tin yêu, Đảng, đoàn, chính quyền tin cậy. Chúng ta vừa là "cán bộ lãnh đạo của Đảng làm dân vận - vừa là đại biểu cho dân, được dân tin yêu". Công tác dân vận phải tiếp tục quán triệt bốn quan điểm nêu trong Nghị quyết Trung ương 8B, phải thấy dân là gốc; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải tạo động lực cho nhân dân bằng các lợi ích thiết thực; phải tiếp tục đổi mới phương thức vận động quần chúng có hiệu quả, phải làm cho cả hệ thống chính trị đều quan tâm làm tốt công tác dân vận. Hội đồng quần chúng, Đảng ủy khối, Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đều hoạt động tốt thì công tác dân vận sẽ có vị thế cao.
_______________________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân tộc số tháng 4-1998.
** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thường trực Ban Bí thư, nguyên Trưởng ban Dân vận Trung ương.
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI* VŨ OANH **
Từ trước khi thành lập Đảng, các tổ chức tiền thân của Đảng và những nhà hoạt động cách mạng đã sớm đặt ra nhiệm vụ dân vận - vận động, tuyên truyền giác ngộ, tổ chức nhân dân đấu tranh chống áp bức, bóc lột của đế quốc phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Từ khi có Đảng, công tác dân vận gắn liền với quá trình lãnh đạo của Đảng. Từ nuôi, giấu cán bộ, vận động xây dựng chính quyền đến sự nghiệp đổi mới ngày nay đều bắt đầu từ dân vận và dân thực hiện. Công tác dân vận của Đảng quả là một vấn đề có tầm chiến lược cách mạng, một bí quyết của Đảng để giành thắng lợi trong đấu tranh, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua những bước thăng trầm của phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã phát huy vai trò nổi bật của nhân dân trong vượt khó khăn, kêu gọi nhân dân tiến lên khi Tổ quốc lâm nguy: "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!", "Kháng chiến nhất định thắng lợi". Đáp lại lời kêu gọi đó, nhân dân ta đã tầng tầng lớp lớp ra mặt trận, thế hệ này qua đi, thế hệ mới nối tiếp chấp nhận mọi hy sinh, kể cả những cuộc đọ đầu lịch sử không cân sức với đối phương, chỉ bằng một niềm tin: "Dân tin vào Đảng, Đảng tin vào dân" mà không hề tính toán.
Ngày nay, quan hệ giữa Đảng với dân đang đòi hỏi phải được đổi mới, trước thử thách mới do chính những thành tựu mới của cách mạng, của thời đại đặt ra.
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM MỚI
1. Công tác dân vận - Quan hệ giữa Đảng với dân trong giai đoạn mới: Giai đoạn Đảng nắm chính quyền trên phạm vi cả nước, có Nhà nước pháp quyền của nhân dân; đó là một thực thể, là thành quả lâu dài của quá trình đấu tranh cách mạng; là sự hy sinh xương máu của nhân dân; ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng chính quyền và lực lượng an ninh - quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội vẫn là sự nghiệp của nhân dân. Công tác dân vận phải quán triệt nhận thức: vị trí nhân dân không phải chỉ là đối tượng để vận động, để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, càng không thể coi là đối tượng được ban phát, được chỉ bảo, được cai trị, mà phải hiểu rõ mọi quyền lực thuộc về nhân dân - dân là chủ thể.
Trong quan hệ giữa Đảng và dân ta từ trước tới nay, Đảng vẫn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng; Đảng phải có đường lối, chính sách đúng đắn, được nhân dân ủng hộ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong chiến đấu gắn bó chặt chẽ với dân. Quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân vốn đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước lại càng cần tăng cường mối quan hệ đó. Trong quá trình chấn chỉnh, tăng cường vai trò lãnh đạo của mình, Đảng còn phải giải quyết nhiều vấn đề có quan hệ giữa Đảng với dân như tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VII, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: "Có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng và tăng cường mối liên hệ với nhân dân, thông qua hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thông qua bộ máy nhà nước và nhiều tổ chức khác nhau trong hệ thống chính trị. Song bên cạnh những mặt thuận lợi đó, cũng xuất hiện nguy cơ lớn là Đảng cầm quyền bị quan liêu hóa, từ việc đề xuất chủ trương, chính sách không hợp pháp luật, không hợp lòng dân, phương pháp công tác xa rời quần chúng, đến tình trạng tha hóa trong lối sống của một bộ phận cán bộ. Toàn Đảng ta phải đấu tranh loại trừ nguy cơ đó, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của Đảng. Củng cố, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân".
Quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện Đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước và có nhà nước pháp quyền của nhân dân, nên công tác dân vận không chỉ do ngành dân vận (hệ thống các đoàn thể) cùng các cán bộ, đảng viên trực tiếp tuyên truyền vận động nhân dân, mà chủ yếu phải bằng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đúng, hợp lòng dân, đưa lại lợi ích cho nhân dân thì đó là công tác dân vận có hiệu lực nhất, có sức thu phục lòng dân cao nhất. Đương nhiên, để có được đường lối, chính sách đúng, Đảng phải có một đội ngũ cán bộ, đảng viên có tính tiên phong gương mẫu, gắn bó với nhân dân, được dân phục, dân tin, thu hút được nhân dân tham gia quá trình xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, và cùng nhân dân tổ chức thực hiện thắng lợi.
2. Quan hệ quốc tế hiện nay đối với ta vừa là một thời cơ mới, vừa là một thách thức mới
Thế giới của những năm cuối thế kỷ XX, một thế giới đầy biến động làm đảo lộn trật tự thế giới cũ, hình thành một trật tự mới. Từ cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, với quá trình phát triển như vũ bão, với những thành tựu mới: vi tính, điện tử, tin học và sinh học, v.v. đã thúc đẩy nhịp độ phát triển sức sản xuất cao. Tiếp đó là công cuộc cải cách kinh tế - xã hội bùng nổ mạnh mẽ và sâu rộng, làm thay đổi những vấn đề cơ bản của xã hội trong từng nước (đấu tranh cho nâng cao dân trí, dân chủ, công bằng xã hội và cải thiện dân sinh...).
Quan hệ quốc tế đang trong trạng thái vận động phức tạp. Trong khi chiến tranh cục bộ, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, nạn đói, bệnh tật, nhất là căn bệnh AIDS - căn bệnh thế kỷ vẫn tiếp tục gia tăng, quan hệ bình đẳng, chủ quyền dân tộc, đời sống chính trị và sinh mệnh của hàng chục triệu con người bị đe dọa. Đồng thời cũng xuất hiện những xu hướng mới: Đấu tranh về ý thức hệ diễn biến với nhiều hình thức, song nổi lên quan hệ vì lợi ích của mỗi quốc gia, quan hệ có cạnh tranh gay gắt, đi đôi với quan hệ phân công, hợp tác kinh tế trong từng nhóm, từng khu vực, đến cả cộng đồng quốc tế, quan hệ đa phương, đa dạng vì hòa bình, hữu nghị, cùng phát triển. Do đó, muốn hay không các quốc gia phải tự điều chỉnh để thích ứng và hòa nhập; không có một quốc gia nào đứng vững được với một thế bị động, phụ thuộc, hoặc đi ngược lại với phong trào mới trên thế giới.
Đất nước ta đang ở trình độ kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đó là một thực trạng khó khăn. Tuy nhiên, nước ta có lợi thế của một nước đi sau, lại đang đứng trước một cơ hội mở rộng quan hệ quốc tế mới; một trạng thái vừa thách thức, vừa thúc đẩy để đi lên. Vấn đề đặt ra không phải vì khó khăn, phức tạp của thời cuộc, mà chính là tùy thuộc vào sự vận động nỗ lực của ta. Ta phải nắm vững thời cơ, tìm ra đường đi, nước bước của mình để hội nhập cộng đồng với tư thế tự chủ, chủ động và phát triển.
3. Đường lối đổi mới do Đảng ta đề xướng về cơ bản là phù hợp với thực tiễn của đất nước và được lòng dân, phù hợp với xu hướng mới của thế giới, đã và đang được chứng minh bằng thời gian và hiệu quả trên nhiều mặt. Mặt khác cũng còn có khó khăn, nền kinh tế vẫn trong cuộc khủng hoảng, những nhân tố gây mất ổn định vẫn đang tồn tại. Đất nước vẫn đứng trước thách thức lớn: hoặc tạo ra sức mạnh phát triển kinh tế - xã hội mới, nhằm làm cho dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh, đưa dân tộc lên vị trí thích đáng trong cộng đồng quốc tế, hoặc không vươn lên được, dừng lại trong khó khăn, yếu kém, lạc hậu.
Về mặt xã hội, sự nghiệp đổi mới của Đảng đã mở ra quan hệ quốc tế mới, đưa xã hội tiếp cận với thị trường, giành quyền chủ động sáng tạo, tự điều chỉnh, tự thích nghi cho từng người, từng gia đình đến cả cộng đồng xã hội, có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng xuất hiện một đời sống xã hội mất tính bình quân, cào bằng và đồng dạng, thay vào đó là một xã hội phong phú, đa dạng có tính chính kiến, sở trường, trình độ hiểu biết, hoàn cảnh, đời sống khác nhau. Trong đó đông đảo nhân dân vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, có tấm lòng vị tha, nhân ái và từ thiện... có tình làng nghĩa xóm, đồng cảm với nhau, đồng thời phải có trách nhiệm chăm lo lợi ích của chính mình. Nhà nước của dân có trách nhiệm quản lý, điều tiết lợi ích cho toàn xã hội, có trang bị ban đầu và cơ bản để tạo điều kiện, cơ hội cho mọi người làm ăn sinh sống và làm giàu cho bản thân, góp phần làm giàu cho xã hội.
Việc động viên nhân tài vật lực của nhân dân để phục vụ cho việc nước, cho xã hội là cần thiết sẽ được nhân dân đồng tình ủng hộ. Song phải thông qua pháp luật, có tổ chức, sử dụng tài chính cho chặt chẽ, không điều tiết sức người, sức của của dân tràn lan, gây ra lãng phí, tham ô.
Nhân dân ta còn nghèo, thậm chí có bộ phận còn thiếu đói, bệnh tật; mỗi người đều phải tập trung lo cho cuộc sống của mình, của gia đình, đồng thời phải tham gia xóa đói, giảm nghèo, vì thế việc huy động sức dân, kể cả những tổ chức xung quanh, lao động tập thể cũng không thể tùy tiện bất chấp hiệu quả kinh tế chung và lợi ích riêng của từng người lao động.
II. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Từ những đặc điểm và trước thời cuộc mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần 8 khóa VI đã đánh giá sâu sắc những động thái mới, mối quan hệ giữa Đảng với dân, kể từ sau khi Đảng nắm chính quyền trên phạm vi cả nước. Trung ương đã khẳng định các yếu tố hợp thành mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam, là: "bắt nguồn từ chỗ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn được nhân dân ủng hộ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiền phong chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân"1. Tại Hội nghị này, Trung ương đảng cũng nghiêm khắc phê phán tình trạng thoái hóa biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng, làm suy yếu mối quan hệ của Đảng với dân: "Bên cạnh số đông cán bộ, đảng viên vẫn giữ được phẩm chất cách mạng và gắn bó với nhân dân, một bộ phận cán bộ, đảng viên mang nặng bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, chuyên quyền độc đoán, ức hiếp nhân dân, tham ô, hối lộ, sống xa hoa, lãng phí"2.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, số 08B-NQ/HNTW ngày 27-3-1990 đã nêu ra các tư tưởng chủ đạo có tính chất cơ bản và đổi mới công tác dân vận của Đảng: Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; Công tác dân vận phải kết hợp giữa các lợi ích, cần quan tâm đáp ứng lợi ích của từng nguồn. Hình thức sinh hoạt tổ chức phải đa dạng, phong phú với cuộc sống; Công tác dân vận là công tác của Đảng, của Nhà nước và các đoàn thể, không chỉ là của các đoàn thể... Tại Hội nghị dân vận toàn quốc và sơ kết việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8B khóa VI, từ ngày 24 đến 28-11-1992, các ngành, các địa phương đánh giá qua thực hiện phong trào quần chúng hơn hai năm cho thấy, Nghị quyết khá cơ bản, có đổi mới công tác dân vận và khá chính xác. Tư tưởng Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI của Đảng đã thâm nhập thực tiễn, nhất là từ đầu năm 1992 đến nay, công tác dân vận - quan hệ giữa Đảng và nhân dân có chuyển biến theo chiều hướng mới, chiều hướng đó cần được các cấp, các ngành nắm vững và tiếp tục phát huy.
1. Mục tiêu công tác dân vận không chỉ là hô hào hiệu triệu chung chung mà đã bám vào từng nhiệm vụ chính trị của Đảng, chính sách, cơ chế, pháp luật của Nhà nước, đi sâu vào sản xuất kinh doanh, vào giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống nhân dân.
Về quy mô, tính chất của phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, chủ yếu phải đề ra định hướng, khẩu hiệu hành động theo đúng mục tiêu vừa lợi nhà, vừa ích nước và đi vào chiều sâu. Từng người, từng gia đình, từng đơn vị cùng hành động, từ đó "góp gió thành bão". Từ nhiều tính chủ động, sáng tạo nhỏ hợp thành phong trào lớn, không ồn ào nhưng có hiệu quả thiết thực.
Thực tế đã chứng minh, trong những năm qua chúng ta kết hợp quy mô kinh tế: gia đình, hợp tác xã và quốc doanh đã giành được hiệu quả chung cho cả nước: sản lượng lương thực, thực phẩm liên tục tăng; xuất nhập khẩu phát triển; dịch vụ du lịch có nhịp độ phát triển cao... làm cho đời sống nhân dân bớt khó khăn, có mặt ổn định hơn, nền kinh tế - xã hội sống động hơn.
2. Quyền làm chủ của nhân dân được phát triển thêm một bước, nhất là dân chủ trong kinh tế.
Do quan hệ quốc tế được mở rộng, do tiếp cận thị trường, sinh hoạt của Đảng và Nhà nước đã quan tâm lấy ý kiến của nhân dân, cùng với mạng lưới thông tin với nhiều phương tiện, nhiều kênh cho nên dân trí được nâng cao một bước. Từ những chính sách lớn như: giao quyền sử dụng ruộng đất, chủ trương phát triển các công ty, xí nghiệp cổ phần, xây dựng Hiến pháp, bầu cử Quốc hội, v.v. đã dựa vào dân, giải quyết lợi ích cho nhân dân... đến những áp lực (nhất là báo chí) lên án bệnh quan liêu, ức hiếp dân cũng được đề cao.
3. Về mặt xã hội, đã nổi lên hàng loạt phong trào nhân dân đền ơn đáp nghĩa, làm việc thiện, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, những người có công với đất nước, với dân, những người già yếu, các trẻ em không nơi nương tựa. Phong trào xóa đói, giảm nghèo đi đôi với khuyến khích làm giàu chính đáng. Phong trào dân số, kế hoạch hóa gia đình, phòng, chữa bệnh, hạn chế nạn suy dinh dưỡng, nạn bỏ học, mù chữ, chống các tệ nạn xã hội, đã liên tục phát động được nhân dân tham gia rộng rãi.
4. Đi đôi với các tổ chức quần chúng truyền thống, còn phải kể đến sự ra đời của Hội Cựu chiến binh và một loạt các hình thức tổ chức quần chúng làm kinh tế, xã hội theo nghề nghiệp, sở trường, sở thích của nhân dân tích cực mở rộng hoạt động, đó là: các hội làm vườn, hội nuôi ong, hội sinh vật cảnh, hội khoa học - công nghệ, hội bảo thọ, v.v. đã phát huy vai trò rõ rệt. Trong đó có những hội tìm nội dung, phương thức hoạt động đúng, có hiệu quả thiết thực cho hội viên, được nhân dân hưởng ứng và tham gia tích cực. Nhiều hình thức tổ chức và sinh hoạt cộng đồng đáp ứng yêu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần trong nhân dân cũng đang phát triển rộng khắp.
5. Phong trào học và dạy nghề, tuy chưa rộng khắp, nhất là ở nông thôn, nhưng đang có những bước phát triển đáng mừng. Phong trào thanh niên dạy và học nghề: kỹ thuật công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lái xe, quản lý, kế toán, máy tính, ngoại ngữ... đã có tác dụng nâng cao chất lượng lao động, vừa đáp ứng yêu cầu lao động trước mắt, vừa chuẩn bị đáp ứng nhu cầu mở rộng thị trường sắp tới. Đây là một phong trào khá đúng hướng, đáng khích lệ.
Những chuyển biến kể trên đã khắc họa những chiều hướng phát triển mới theo tư tưởng chỉ đạo của Đảng. Trong đó có những mặt đã trở thành chiều hướng thực sự, đồng thời có những mặt mới xuất hiện như những nhân tố mới cần được chú trọng phát huy. Song tất cả ưu điểm đó chưa đủ chứng minh cho công tác dân vận của Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đã hoàn thành tốt.
Từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI đến nay, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân được quan tâm vun đắp hơn. Nhưng nếu đặt công tác dân vận trong thời kỳ mới, thì còn có những khuyết điểm không kém phần gay gắt: Hệ thống các đoàn thể quần chúng tuy đã có nhiều cố gắng chuyển biến, tăng cường quan hệ với nhân dân, song nhìn chung vẫn bất cập so với những chuyển biến và đòi hỏi của quần chúng; Vấn đề mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương xã hội còn bị hạn chế; Vấn đề vai trò, tác dụng của nhân dân trong việc khắc phục sự xuống cấp về văn hóa, y tế, giáo dục, trong việc tham gia chống tiêu cực xã hội, nhất là chống tham nhũng, buôn lậu còn yếu; Vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các tầng lớp, dân tộc, các tôn giáo, vì đại nghĩa xóa bỏ mặc cảm, thiên kiến, kỳ thị lẫn nhau trong quá khứ, hướng về xây dựng tương lai, chân thành, cởi mở, tin cậy lẫn nhau để trở thành một sức mạnh mới, một tổng lực mới của gần 70 triệu khối óc, cánh tay để xây dựng trang sử mới: làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vươn lên có vị trí xứng đáng trong cộng đồng quốc tế là một nhiệm vụ trọng đại, chúng ta cần phải nỗ lực làm tốt.
_______________
* Bài viết năm 1994.
** Nguyên ủy viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác dân vận.
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.50, tr.81, 82.
CÔNG TÁC DÂN VẬN VỚI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA* NGUYỄN MẠNH CẦM*
Trong những năm qua, công tác dân vận đã thực sự trở thành một trong những nội dung hết sức quan trọng của quá trình đổi mới do Đảng ta đề xướng. Phạm vi công tác này ngày càng mở rộng, trước hết đó là việc không ngừng xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; đồng thời công tác dân vận còn liên quan trực tiếp tới cả quá trình trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện rõ trong một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, khi mà mọi chính sách đối nội và đối ngoại đều xuất phát từ lợi ích của dân, dựa vào sức mạnh sáng tạo của quần chúng nhân dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tích cực tham gia thực hiện. Vì vậy, công tác dân vận đã và sẽ đóng góp vai trò quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước.
Cơ sở để xác lập mối quan hệ giữa hai lĩnh vực hoạt động này là tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và tư tưởng hội nhập với cộng đồng quốc tế trong chiến lược đổi mới của Đảng ta. Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng, nêu cao ngọn cờ dân tộc (tức là làm tốt công tác dân vận trong nước), kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại (tức là làm tốt công tác dân vận quốc tế) là những nhân tố gắn bó với nhau và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong mọi thời kỳ.
1. Trong quá trình cách mạng từ trước tới nay, chính sách đối ngoại luôn gắn chặt với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và công tác dân vận
Đại đoàn kết dân tộc vốn là sự đúc kết từ những yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng do quần chúng tiến hành và vì quyền lợi bản thân quần chúng. Do đó, đại đoàn kết dân tộc trở thành mục tiêu lớn nhất, quy định các mối quan hệ phù hợp với chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị và hợp tác của Đảng và Nhà nước. Đó chính là cơ sở để đưa ra các kiến nghị liên quan đến chính sách đối với các tầng lớp nhân dân, trong đó có các cộng đồng người theo các tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc khác nhau ở trong nước và ở nước ngoài. Một chính sách này được đề ra và thực hiện đúng đắn thì lẽ tự nhiên nó sẽ tác động đến hình ảnh của Việt Nam trên thế giới, và có ảnh hưởng lớn đến việc triển khai chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Tính chất lôgích của mối quan hệ giữa công tác dân vận và chính sách đối ngoại của chúng ta xuất phát từ mục tiêu phấn đấu của bao thế hệ tiền nhân trong suốt cả chiều dài lịch sử, muốn tạo dựng một Việt Nam quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh. Quán triệt sâu sắc mối quan hệ này, chúng ta cần nhận thức được tính biện chứng của mối quan hệ tương tác giữa "nội yên" và "ngoại tĩnh" vốn được cha ông ta coi trọng từ xa xưa.
Bài học từ truyền thống đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng ngay khi Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập do Người đứng đầu, đồng thời kiêm Bộ trưởng ngoại giao. Thành phần và cơ cấu của Chính phủ lâm thời lúc đó là sự phản ánh sinh động chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, phục vụ mục tiêu "nội yên", đồng thời có tác động tạo cầu nối với thế giới bên ngoài, phục vụ mục tiêu "ngoại tĩnh".
Truyền thống đó đã được Đảng và Bác Hồ tiếp tục phát huy lên một tầm cao mới trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, mà một trong những biểu hiện nổi bật là sự ra đời và quá trình hoạt động của Mặt trận Việt Minh nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng yêu nước để đánh Pháp, đuổi Nhật, tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, giành độc lập cho đất nước của Mặt trận Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp và của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Vai trò của Mặt trận dân tộc giải phóng trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân miền Nam, cũng như vị trí của Mặt trận, và sau này là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong hình thái đấu tranh ngoại giao "vừa đánh vừa đàm" cho thấy công tác đấu tranh ngoại giao như thế nào.
Một đặc điểm xuyên suốt các giai đoạn cách mạng Việt Nam là trong thời chiến, nhân dân ta phải đối chọi với các địch thủ mạnh hơn mình bội phần; trong thời bình thì sức mạnh vật chất của nước ta so với các đối tác lại yếu hơn nhiều lần. Do đó, chúng ta đã nhân sức mạnh của bản thân lên bằng hai cách: kết hợp đấu tranh trên mặt trận ngoại giao với cuộc đấu tranh trên mặt trận quân sự và mặt trận chính trị, đồng thời chủ động gắn với sức mạnh toàn dân tộc với sức mạnh cả thời đại, tức là mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các mặt trận tạo thành một thể thống nhất liên hoàn là một phát hiện độc đáo của Đảng ta về con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng, chỉ có thực hiện chiến lược tiến công trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, trong đó công tác dân vận là bộ phận quan trọng của đấu tranh chính trị, chúng ta mới có thể phát huy được đầy đủ sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại để chiến thắng.
Trước đây, với tinh thần tiến công, chúng ta đã gắn cuộc đấu tranh của ta với những mục tiêu và xu hướng thời đại, thì ngày nay, trong thế giới đã thay đổi, chúng ta càng phải chủ động đặt sự vận động của xã hội Việt Nam trong sự vận động chung của xã hội toàn cầu. Cũng như trước đây, khi ta tập hợp được lực lượng bên ngoài ủng hộ ta mạnh mẽ, góp phần làm thay đổi lực lượng so với toàn cục có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta, thì ngày nay, khi nền kinh tế thế giới phát triển theo xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa mạnh mẽ, chúng ta càng phải biến những nhân tố thuận lợi bên ngoài thành sức mạnh bên trong cho công cuộc phát triển đất nước.
Có thể nói rằng, khi Đại hội VII, Đảng ta trịnh trọng tuyên bố trước thế giới về chính sách đối ngoại "muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" thì việc triển khai định hướng đối ngoại đó đã được sự hỗ trợ đắc lực của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, số 8B-NQ/HNTW ngày 27-8-1990 về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân".
Một khi mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và công tác dân vận được nhận thức đúng đắn và phối hợp nhịp nhàng thì bất cứ một động thái ngoại giao nào cũng tìm thấy quyết sách đối nội. Bởi vì, chính đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế diễn ra cùng với những chuyển biến mạnh mẽ trong cả công tác dân vận theo hướng đoàn kết, hòa hợp dân tộc đã đi sâu vào cuộc sống, phục vụ đắc lực việc thực hiện các mục tiêu lâu dài và trước mắt của đất nước. Việc Đảng ta đề xướng mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" có thể xem như một định hướng đối nội, tạo tiền đề cho tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển. Hai định hướng này trên thực tế tạo thế cho nhau, làm động lực cho nhau cùng phát triển.
2. Để triển khai thành công chiến lược hội nhập quốc tế và phát triển đất nước, cần tăng cường phối hợp giữa công tác dân vận và hoạt động đối ngoại
Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VII, cũng như những phương châm xử lý mối quan hệ quốc tế của Đảng ta, phát huy những thắng lợi đã đạt được, trong thời gian tới chúng ta sẽ tăng cường hơn nữa quá trình hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế, xây dựng mối quan hệ hữu nghị với tất cả các nước ở khắp năm châu.
Mọi hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước trên bình diện song phương cũng như đa phương nhằm tạo điều kiện bên ngoài thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Công tác dân vận trong thời gian tới, cả ở trong nước và trên trường quốc tế, tiếp tục giữ vị trí hết sức quan trọng đối với việc thực hiện thành công chính sách và các trọng tâm đối ngoại như đã nêu trên. Trên bình diện quốc gia, chúng ta đẩy mạnh tuyên truyền đường lối đối ngoại ngay ở trong nước, làm sao để các tầng lớp nhân dân, các tổ chức đoàn thể trong xã hội hiểu được mục tiêu chủ yếu trong các hoạt động tham gia vào quá trình thực hiện các mục tiêu đó.
Vai trò của công tác dân vận thể hiện ở hai lĩnh vực: Thứ nhất, đối với ngành, các cấp có chức năng tham gia công tác đối ngoại thì phải làm sao để mọi chủ trương và chính sách đối ngoại đều phải ích nước, lợi dân và được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân. Thứ hai, cũng như các giai đoạn trước đây của cách mạng, công tác dân vận thời gian tới cần hướng tới công cuộc vận động đối với bên ngoài nhằm góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững chủ quyền, an ninh, quốc phòng và định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đó, trên bình diện quốc tế, chúng ta tiếp tục nêu bật truyền thống hòa hiếu, lấy "chí nhân thay cường bạo" của nền ngoại giao Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Từ ngàn xưa cha ông ta đã đề cao hòa hiếu và nhận thức sâu sắc rằng "hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động". Chúng ta đồng thời cần làm rõ chế độ chúng ta vốn được tạo dựng và phát triển trên cơ sở chính sách đại đoàn kết dân tộc, trong liên minh cộng đồng và tri thức là nòng cốt, có chính sách đối ngoại đúng đắn, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế thế giới. Phát huy bản chất tốt đẹp đó, chúng ta sẵn sàng "khép lại quá khứ" với những nước đối địch trước đây để hướng tới một tương lai tốt đẹp của mối quan hệ phù hợp với những chuẩn mực mới, văn minh trong quan hệ quốc tế. Đó là nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Đối với các vấn đề tranh chấp, chúng ta luôn chủ trương giải quyết bằng đàm phán hòa bình trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, bảo đảm hòa bình, ổn định để phát triển.
Để không ngừng nâng cao tính hiệu quả trong quá trình phối hợp các hoạt động của công tác dân vận với các hoạt động của công tác đối ngoại, trong những lĩnh vực mà dân vận và ngoại giao có thể tiếp sức cho nhau, chúng ta cần tăng cường hơn nữa sự nhất trí cả về nhận thức lẫn hành động trên một số mặt căn bản:
- Trong công tác đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, chúng ta luôn lấy tình cảm "yêu nước thương nòi" để động viên bà con hướng về cội nguồn, gần gũi với đất nước. Chúng ta luôn nhìn nhận các cộng đồng này như những nhân tố tích cực góp phần củng cố và phát triển quan hệ giữa các nước với nước ta, góp phần và chung sức với đồng bào trong nước xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Một điều đáng chú ý là trong quá trình triển khai đường lối ngoại giao mở rộng của Đảng và Nhà nước, số lượng người Việt Nam đi công tác nước ngoài ngày càng tăng. Do đó việc tăng cường đối ngoại, đổi mới công tác lãnh đạo nhằm kịp thời phục vụ nhu cầu xuất nhập cảnh, giúp đỡ người Việt Nam hiểu biết và tôn trọng luật pháp và phong tục tập quán của nước sở tại, tạo điều kiện cho họ hợp tác, làm ăn có hiệu quả và đặc biệt là coi trọng, bảo vệ lợi ích chính đáng mọi mặt của công dân Việt Nam ở nước ngoài là nhiệm vụ dân vận rất quan trọng của ngành ngoại giao, trước hết là của các cơ quan đại diện Việt Nam ở ngoài nước.
Trong công tác tôn giáo, chúng ta luôn bảo đảm tôn trọng tự do tín ngưỡng, quyền đã được ghi nhận bằng hiến pháp của nhà nước ta. Trên quốc tế, trong hoạt động đối ngoại ta cần làm cho thế giới hiểu rõ chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách đó có tác động tốt tới đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, bảo đảm sự kết hợp giữa người có tín ngưỡng và những người không có tín ngưỡng, cùng nhau thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ đất nước. Cùng với việc tăng cường đoàn kết tôn giáo, chúng ta kiên quyết đấu tranh với các thế lực mưu toan giả danh tôn giáo để có những hành động chống phá chế độ, chống phá sự nghiệp đổi mới đất nước.
Trong chính sách đối với đồng bào các dân tộc, chúng ta không ngừng xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Chỉ có thế mới tạo được sự thống nhất và vững mạnh từ bên trong, chống lại những âm mưu kỳ thị, chia rẽ đồng bào các dân tộc do một số thế lực xấu bên ngoài tiến hành.
Làm tốt công tác dân vận theo các hướng kể trên là chúng ta tiến được một bước dài trong cuộc đấu tranh trên bình diện quốc tế và vấn đề nhân quyền. Nhân quyền của mỗi dân tộc trước hết phải là sự nghiệp của dân tộc đó. Vì vậy, việc bảo đảm nhân quyền của một quốc gia trước hết thuộc về trách nhiệm của quốc gia đó. Trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc trước đây, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân anh dũng chiến đấu và hy sinh xương máu nhằm giành và thực hiện quyền cơ bản nhất là quyền của cả dân tộc và của từng người Việt Nam được sống trong độc lập, tự do. Trong giai đoạn hiện nay, việc Đảng và Nhà nước ta chăm lo thực hiện ngày càng tốt quyền được phát triển của đất nước và của mỗi người dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực làm cho nhân dân ta gắn bó càng chặt chẽ với chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, trên cơ sở đó đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên vững chắc.
Trên cơ sở quán triệt Chỉ thị số 44-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại, nhân dân như là một bộ phận cấu thành của công tác đối ngoại nói chung của nước ta, chúng ta cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phối hợp hoạt động giữa công tác dân vận và công tác đối ngoại. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục triển khai các hoạt động trong nước và quốc tế, cũng như các đoàn thể, tổ chức quần chúng và các tổ chức xã hội, các ngành của Trung ương cũng như các địa phương, thông qua những hình thức phong phú và biện pháp thích hợp, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về chính sách, vừa giữ độc lập tự chủ, vừa thúc đẩy đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời 50 năm trước đây, chính sách đối ngoại và công tác dân vận của Đảng ta có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Mối quan hệ này được quy định bởi một nền tảng chung, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Chính sách cốt lõi này tạo ra sự thống nhất hữu cơ trong mối tương quan giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế.
___________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận số tháng 10-1995.
** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ ngoại giao.
CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN* TRUƠNG QUANG ĐƯỢC**
Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mỗi công dân đều có nghĩa vụ và quyền lợi của mình đối với Nhà nước và xã hội, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân, được ghi trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong Luật khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp luật của Nhà nước, tạo ra cơ sở pháp lý cho công dân, cơ quan nhà nước thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Chăm lo, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là ba nội dung cơ bản, quan trọng nhất trong tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân là một nhiệm vụ dân vận quan trọng của cả hệ thống chính trị. Thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06-3-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, Ban Dân vận Trung ương đã phối hợp với Tỉnh ủy An Giang và Tỉnh ủy Thái Bình tổ chức hai hội nghị trao đổi kinh nghiệm về công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cụm đồng bằng sông Cửu Long và cụm đồng bằng sông Hồng, đã nhận được sự đón nhận nhiệt tình và trách nhiệm của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tại hai hội nghị trên, các ý kiến phát biểu đều hoan nghênh và cho rằng, hội nghị rất bổ ích, có nhiều kinh nghiệm tốt trong khiếu nại, tố cáo của công dân ở các địa phương, cơ sở. Tại Thủ đô Hà Nội, Ban Dân vận Trung ương phối hợp với một số ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và một số tỉnh, thành ủy tiếp tục tổ chức hội nghị thứ ba về công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân nhằm mục đích phối hợp và thống nhất về quan điểm, nhận thức và phương pháp dân vận của hệ thống chính trị các cấp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, thực hiện có kết quả Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng, làm cho mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày càng bền chặt. Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, chúng ta thấy rằng tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn chưa giảm và còn có nhiều nơi diễn biến phức tạp nếu không giải quyết tốt sẽ tiềm ẩn nguy cơ làm mất ổn định chính trị - xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân.
Về khách quan:
Đất nước ta trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, qua nhiều năm chiến tranh, nhiều cuộc cải tạo, nhiều việc tồn đọng do lịch sử để lại đến nay chưa có đủ điều kiện về cơ chế, chính sách nên chưa giai quyết được một cách đồng bộ, toàn diện và bền vững. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đất nông nghiệp ngày càng giảm, giá trị đất đai ngày càng tăng nhanh. Nguồn lợi kinh tế từ đất biến đổi nhanh, song chính sách, pháp luật về đất đai chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tế, phát sinh nhiều mâu thuẫn về lợi ích dẫn đến tranh chấp, khiếu nại tố cáo.
Về chủ quan:
Trong quá trình lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội, một số cán bộ, đảng viên, cấp ủy Đảng, chính quyền xem nhẹ, buông lỏng, chưa thực hiện đúng tư tưởng, quan điểm của Đảng và Bác Hồ về công tác dân vận. Vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, coi nhẹ việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, quan liêu, thích dùng mệnh lệnh hành chính, coi nhẹ giáo dục, thuyết phục dân, có nhiều vi phạm về quản lý nhà nước trong đất đai, tài chính, trong đầu tư xây dựng cơ bản, trong sử dụng các khoản đóng góp của dân, tư lợi, bao che, tham nhũng, vi phạm đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, khiến nhân dân bất bình dẫn đến khiếu kiện đông người tới các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức hiểu biết và chấp hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chưa có sự phối hợp thống nhất trong tiếp dân, tiếp nhận giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Nhiều nơi chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo kịp thời, đùn đẩy, né tránh, không khách quan, v.v. làm giảm lòng tin của dân vào sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương và cơ quan công quyền khiến nhân dân bất bình, khiếu tố gay gắt, việc nhỏ thành việc lớn, đơn giản thành phức tạp. Chưa kiên quyết lên án nghiêm khắc những hành vi kích động, xúi giục của bọn xấu, "cò mồi" đi khiếu kiện; chưa nghiêm trị những kẻ gây rối, coi thường kỷ cương, phép nước. Ở những địa phương có khiếu kiện đông người gay gắt thường do nội bộ mất đoàn kết, sức chiến đấu của tổ chức Đảng giảm sút, vai trò quản lý, điều hành của chính quyền yếu kém, vai trò của mặt trận, đoàn thể không được phát huy đầy đủ, không thực hiện tốt công tác vận động quần chúng. Không ít công dân chưa nắm vững đường lối, chính sách, pháp luật, lại bị một số phần tử lợi dụng, kích động nên có những đòi hỏi vô lý, trái pháp luật, cố tình khiếu kiện kéo dài và không thực hiện những quy định của pháp luật.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Trung ương đã cử nhiều đoàn đi kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đồng thời chỉ đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp thực hiện tốt vấn đề này. Theo tôi, công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân cần quan tâm đến một số kinh nghiệm sau đây:
Phải thật sự học tập, quán triệt tư tưởng, quan điểm của Đảng và Bác Hồ về công tác dân vận trong quá trình giải quyết khiếu tố của dân. Đó là phải gần dân, tin dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân và học dân; chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của dân. Dựa vào lực lượng và trí tuệ của dân để giải quyết những vấn đề bức xúc, vướng mắc trong nội bộ nhân dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Công khai, dân chủ là cách làm dân vận có hiệu quả trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Dân phải được làm chủ trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được thực hiện nhuần nhuyễn, tổng hợp những phương pháp "dân vận khéo" trong: vận động, thuyết phục dân; đối thoại với dân; phát huy tác dụng của tổ hòa giải, các ban thanh tra nhân dân. Thực hiện kiểm tra, thanh tra về kinh tế, hành chính, pháp luật theo một quy trình thống nhất có nguyên tắc, có lý, có tình; phải giải quyết khiếu nại, tố cáo từ cộng đồng dân cư, từ cơ sở nơi người dân sinh sống. Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của tổ chức Đảng, chính quyền, đặc biệt là người đứng đầu và sự phối hợp đồng bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong công tác thuyết phục dân thực hiện đúng pháp luật. Các cơ quan nhà nước nghiên cứu, sửa đổi, hoàn chỉnh Luật khiếu nại, tố cáo của công dân và các văn bản pháp quy có liên quan. Tăng cường hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân và tòa hành chính, chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
_________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận số tháng 12-2002.
** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Dân vận Trung ương.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI CÔNG TÁC QUẦN CHÚNG - THỰC TIỄN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM* ĐINH THẾ HUYNH**
(…)
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vẻ vang.
Với những thành tựu vĩ đại đã giành được trong hơn 80 năm qua, Việt Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; Việt Nam đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Những thắng lợi vẻ vang nói trên bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân đồng tình, ủng hộ; Đảng có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân thật sự đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam.
Cùng với tiến trình cách mạng, trên nguyên tắc khách quan - toàn diện - lịch sử - cụ thể - phát triển, cần khẳng định một thực tế là ngày nay công tác quần chúng cần tiếp tục đổi mới, không chỉ để theo kịp, giải quyết kịp thời những vấn đề mới nảy sinh, mà còn để xác định tầm nhìn có tính chiến lược và lâu dài. Đây không phải là vấn đề ra đời từ ý muốn chủ quan của những người cộng sản, mà xuất phát từ thực tế khách quan của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh và điều kiện đặc thù. Sự đổi mới đó là một trong các cơ sở lý luận - thực tiễn quan trọng để Đảng Cộng sản tiếp tục giữ vững vai trò là hạt nhân lãnh đạo phong trào quần chúng, tiếp tục lãnh đạo quần chúng làm nên những thắng lợi lịch sử mới.
So với những thời kỳ cách mạng trước đây, ngày nay quần chúng ở Việt Nam dã có sự chuyển biến về chất trong ý thức cách mạng, trong nhận thức xã hội và cuộc sống, đặc biệt là với mức sống, tri thức, sự hiểu biết... Đó là kết quả của quá trình giác ngộ cách mạng, của nâng cao dân trí và các lợi ích thiết thực mà xã hội mới đem lại thông qua quá trình giáo dục, đào tạo và rèn luyện, qua trải nghiệm cuộc sống. Nói cách khác, trong giai đoạn hiện nay, quần chúng đã có những bước phát triển quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Đồng thời, nhu cầu, đòi hỏi của quần chúng cũng cao hơn về nhiều mặt. Điều đó đòi hỏi Đảng Cộng sản phải hoạt động sát với dân, phát huy vai trò tiên phong và gương mẫu để tiếp tục xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân, lãnh đạo nhân dân phấn đấu xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng tốt đẹp hơn.
Trong tiến trình tiếp tục đổi mới và phát triển ở Việt Nam, cần phải nghiên cứu và giải quyết thỏa đáng những vấn đề kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp tới quần chúng như: quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với đô thị hóa, là phân bổ, tái cơ cấu lực lượng lao động, giải quyết việc làm và không ngừng nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người lao động, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo... Đây là những công việc cực kỳ phức tạp, nếu không nghiên cứu tìm ra biện pháp giải quyết hợp tình, hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực tới cuộc sống của người dân thì có thể đẩy tới tình trạng suy giảm mềm tin trong nhân dân, làm rạn nứt quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Quán triệt quan điểm này, đứng trước các thách thức do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009, của lạm phát và suy giảm tăng trưởng kinh tế hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nêu cao quan điểm vì dân trong từng chủ trương và chính sách phát triển kinh tế - xã hội; chú trọng thực hiện kiềm chế lạm phát hoặc chống suy giảm kinh tế luôn đi đôi với ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Điều đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, củng cố quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam gắn với quá trình mở cửa, hội nhập và giao lưu quốc tế. Với quần chúng nhân dân, quá trình mở cửa, hội nhập và giao lưu quốc tế tạo ra tiền đề quan trọng để tiếp xúc và học hỏi, mở rộng, nâng cao tri thức... Song mở cửa, hội nhập và giao lưu quốc tế cũng đồng thời phải đối diện với thách thức là sự xâm nhập của lối sống ngoại lai, một số hiện tượng "phản văn hóa", một số quan niệm không phù hợp với văn hóa và đạo đức truyền thống, với chủ nghĩa xã hội, thậm chí chống lại chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, các thế lực thù địch thông qua nhiều phương tiện và dưới nhiều hình thức, hằng ngày hằng giờ gieo rắc các thông tin và luận điệu sai trái nhân danh "dân chủ", "nhân quyền", "tự do tôn giáo" nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; kích động bộ phận nhẹ dạ, thiếu hiểu biết trong nhân dân chống lại Nhà nước.
Thực tế đó đã và đang đòi hỏi, đồng thời với việc khuyến khích, tạo điều kiện cho quá trình mở cửa, hội nhập và giao lưu kinh tế - văn hóa để phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân, chúng ta phải nâng cao khả năng nắm bắt bản chất các xu thế tinh thần của nhân loại và ảnh hưởng của chúng đối với nhân dân, lựa chọn và điều chỉnh, đồng thời cảnh giác, kịp thời đấu tranh với thông tin và các luận điệu sai trái; tuyên truyền, bồi dưỡng, tổ chức quần chúng tự giác hoạt động noi gương người tốt, việc tốt.
Một trong các thủ đoạn mà các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội thường tiến hành để lung lạc quần chúng là sự truyền bá, cổ vũ các quan điểm thực dụng, đặc biệt là thực dụng trong lối sống và sử dụng các phương tiện hiện đại. Nếu quan niệm thực dụng trở thành phổ biến trong sinh hoạt xã hội thì nó sẽ thành một loại công cụ có khả năng làm con người xa rời lý tưởng xã hội, xa rời các giá trị văn hóa mang tính bản sắc và tính cội nguồn. Trong xã hội hiện đại đang tác động tới quần chúng một cách thường xuyên, mạnh mẽ. Đơn cử một vài số liệu về internet ở Việt Nam. Thống kê cho biết, tới cuối tháng 7-2011, Việt Nam đã có hơn 31,1 triệu người dùng internet (tương đương với gần 40% dân số). Và theo kết quả nghiên cứu Net index do Công ty Yahoo và Công ty Nghiên cứu thị trường Kantar Media thực hiện tại bốn thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ gần đây, thì trong hai tháng đầu năm 2011, số người sử dụng internet hằng ngày tại Việt Nam đã vượt qua báo in và báo nói. Cụ thể, số người dùng internet đạt 42% trong khi số người đọc báo in chiếm 40% và nghe đài phát thanh chiếm 23%. Một khảo sát khác của Công ty Nghiên cứu thị trường toàn cầu Nielsen cho biết, có đến 96% số người sử dụng internet tại Việt Nam đều đã từng ghé qua một trang mạng xã hội. Thêm vào đó, họ lại là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các thông tin đăng trên mạng xã hội so với cư dân các nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Mà chúng ta đã biết, internet là một thế giới "gồm cả vàng, lẫn rác", một thế giới rất sinh động và hấp dẫn, đa dạng về tính năng và tính hữu ích, nhưng lại luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm băng hoại đạo đức tinh thần của xã hội và của con người.
Thực tế ở Việt Nam từ nửa cuối những năm 1990 đến nay cho thấy, tính chất phức tạp của quá trình chuyển đổi và các tác động khó lường hết từ mặt trái của cơ chế thị trường, quá trình đô thị hóa, sự du nhập hoặc nảy sinh một số yếu tố không phù hợp với bản chất xã hội đã góp phần làm suy giảm đạo đức xã hội, tác động đến mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, cùng với sự phân hóa giàu nghèo, sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Một số tổ chức Đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa quan tâm đúng mức đến công tác quần chúng. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng vẫn nặng về hành chính... Và tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là làm hạn chế việc phát huy khả năng to lớn, sức mạnh tiềm tàng của nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Đảng chúng tôi cho rằng, những yếu kém, khuyết điểm nói trên do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan. Một mặt, về mặt nhận thức, không ít cán bộ trong các tổ chức của Đảng và cơ quan nhà nước chưa lường hết được tính chất phức tạp của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trên thực tế cũng chưa kiên trì tìm tòi, tổ chức thực hiện các biện pháp và hệ thống chế tài thiết thực, kịp thời để xử lý thật tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; nhất là để chế ước sự phát sinh những vấn đề xã hội có căn nguyên từ một số khuyết tật, mặt trái cố hữu của cơ chế thị trường, từ tác động tiêu cực của một số quan hệ kinh tế, văn hóa với nước ngoài. Mặt khác, công tác vận động quần chúng của các tổ chức Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân chưa thật sự đổi mới phù hợp với yêu cầu của giai đoạn mới; chưa đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, tham nhũng và lãng phí trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
Từ những thành công và chưa thành công trong công tác quần chúng của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, phải quán triệt sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán trong công tác hằng ngày của Đảng và của từng cán bộ, đảng viên quan điểm mấu chốt: sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Hai là, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những phương châm, phương thức cơ bản để đạt được những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Từ thực tiễn sinh động của Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và Người đã tổng kết: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công".
Xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng ở mọi giai đoạn cách mạng. Đảng Cộng sản có sứ mệnh và phải không ngừng nâng cao tầm trí tuệ, sức chiến đấu, không ngừng bồi đắp uy tín, đổi mới phương pháp để giáo dục, tập hợp quần chúng thành những lực lượng tự giác, có tổ chức chặt chẽ trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh ngày càng to lớn và vững chắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân.
Trong xã hội do nhân dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Công tác vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công khi Đảng, Nhà nước cùng các tổ chức khác trong hệ thống chính trị bảo vệ và đáp ứng trên thực tế những lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ công dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, thực hiện tốt phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: "Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng"1. Người cũng nhấn mạnh, Đảng phải tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và lợi ích cho nhân dân: "Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh".
Bốn là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng, phong phú, thiết thực và hữu ích.
Trong xã hội có nhiều giai tầng khác nhau và ngay trong mỗi giai tầng cũng có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Do đó, để tập hợp quần chúng, ngoài các tổ chức chính trị - xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng cần có những hình thức tập hợp quần chúng phù hợp, đáp ứng nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp và đời sống của từng nhóm, từng giai tầng, hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà, tương thân, tương ái, giúp nhau trong cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh để cùng phát triển... Các tổ chức quần chúng được thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải về tài chính được tổ chức trong phạm vi địa phương hoặc có quy mô toàn quốc, không nhất loạt giống nhau, đều được quản lý bằng pháp luật Nhà nước.
Năm là, công tác quần chúng và việc không ngừng nâng cao vai trò, hiệu quả của công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, của toàn bộ hệ thống chính trị.
Công tác quần chúng không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể nhân dân, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, cần phải thường xuyên phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình.
Đây không chỉ là một trong những phương thức cơ bản để đổi mới, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn là phương thức trong cuộc đấu tranh quyết liệt của các lực lượng cách mạng chống lại các thế lực thù địch trên các lĩnh vực để vận động và tổ chức nhân dân tự giác đi theo con đường cách mạng, đập tan những âm mưu và thủ đoạn nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Sáu là, phát huy cao độ tính tích cực xã hội và sức sáng tạo của nhân dân trong các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới, phát triển đất nước gắn với sự kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nét đặc sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác vận động quần chúng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm đã khẳng định điều đó. Trong giai đoạn 2011-2020 và về lâu dài, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới công tác quần chúng theo phương châm cơ bản này, tạo thành những sức mạnh to lớn để xây dựng Việt Nam thành một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng, giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: toàn Đảng, toàn dân quyết tâm phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.
Để lãnh đạo nhân dân đạt được mục tiêu đó, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác quần chúng, giữ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân. Theo đó, chúng tôi đang và sẽ triển khai mạnh mẽ các giải pháp dưới đây.
Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở phải nắm vững và làm đúng chức năng lãnh đạo quần chúng của mình bằng phương pháp vận động, thuyết phục, khắc phục lối làm việc quan liêu, hành chính, mệnh lệnh. Các cấp ủy đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tôn trọng nhân dân; làm tốt công tác dân vận, có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các giai tầng trong xã hội.
Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phát huy vai trò của giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cải thiện điều kiện nhà ở, làm việc... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân - chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả và bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao. Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của đội ngũ doanh nhân trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài; tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, hàng hóa, dịch vụ cho đất nước và xuất khẩu.
Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ và nhân cách cho thế hệ trẻ. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại. Thu hút rộng rãi thanh niên và nhi đồng vào các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ trách.
Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm của phụ nữ. Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân của tổ chức cựu chiến binh các cấp. Động viên cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, tích cực tham gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội; xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người cao tuổi hưởng thụ văn hóa, được tiếp cận thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, hoạt động của người cao tuổi trong xã hội và gia đình. Nghiên cứu xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách mới, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa các vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
_______
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 1-2012.
** Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.290; t.6, tr. 88.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM* PHÙNG QUANG THANH**
Quân đội nhân dân Việt Nam đã được Đảng, Bác Hồ sáng lập, giáo dục và rèn luyện. Ngay từ những ngày đầu, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn mang trong mình nguồn gốc, bản chất, truyền thống là quân đội của dân, do dân và vì dân, gắn bó máu thịt với nhân dân.
Trải qua hơn 62 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, bản chất truyền thống quý báu đó luôn được các thế hệ chiến sĩ, cán bộ giữ gìn và phát huy trong thực hiện nhiệm vụ chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng đất nước và trong thực hiện chức năng là quân đội chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và chức năng trên, công tác dân vận của quân đội có vai trò hết sức quan trọng.
Trong chiến đấu, làm dân vận tốt sẽ được dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở, giúp đỡ sức người, sức của để đánh thắng giặc. Trong xây dựng, làm dân vận tốt sẽ phát huy được sáng kiến, kinh nghiệm, nguồn lực và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân để lao động, sản xuất, công tác đạt hiệu quả. Như vậy, dân vận tốt không chỉ là nội dung, yêu cầu hàng đầu của quân đội trong thực hiện chức năng đội quân công tác mà còn là đòi hỏi tất yếu trong thực hiện chức năng đội quân chiến đấu, đội quân lao động sản xuất.
Từ ý nghĩa to lớn đó, công tác dân vận của quân đội luôn được xác định là một bộ phận trong công tác dân vận của Đảng, một nội dung quan trọng của công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang, được sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chặt chẽ, có hệ thống từ toàn quân đến cơ sở.
Công tác dân vận luôn được đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp, sự chỉ đạo trực tiếp của người chỉ huy, của chính ủy, chính trị viên và cơ quan chính trị. Hệ thống tổ chức lãnh đạo công tác dân vận trong Quân đội nhân dân Việt Nam như sau:
Đối với toàn quân:
- Đảng ủy Quân sự Trung ương lãnh đạo trực tiếp công tác dân vận của lực lượng vũ trang bằng các nghị quyết, chỉ thị trong thời kỳ, giai đoạn, nhiệm vụ.
- Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị chỉ đạo thường xuyên, cụ thể các nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành công tác dân vận trong các nhiệm vụ, loại hình đơn vị quân đội và dân quân tự vệ. Cụ thể là: ở Tổng cục Chính trị có 1 đồng chí Phó Chủ nhiệm, các đơn vị có Phó Chính ủy và Chính ủy viên trực tiếp phụ trách công tác dân vận.
- Cục Dân vận và cơ quan trực thuộc Tổng cục Chính trị có chức năng, nhiệm vụ giúp Tổng cục Chính trị nghiên cứu, tham mưu, đề xuất và hướng dẫn chỉ đạo, quản lý, theo dõi công tác dân vận của toàn quân.
Cục Dân vận được tổ chức các phòng nghiệp vụ: Phòng Dân vận, Phòng Dân tộc - Tôn giáo, Phòng Tuyên truyền đặc biệt và một số ban chuyên môn khác để theo dõi, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Các cấp trực thuộc:
Ở các quân khu, quân đoàn, quân, binh chủng và các đầu mối trực thuộc Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng có các phòng, ban, cán bộ chuyên trách. Một số đầu mối lực lượng ít, nhiệm vụ đặc thù thì bố trí cán bộ kiêm nhiệm về công tác dân vận thuộc cục hoặc phòng chính trị.
- Ở sư đoàn, vùng hải quân, bộ chỉ huy quân sự, bộ chỉ huy biên phòng tỉnh có các ban dân vận trực thuộc phòng chính trị.
- Ở trung đoàn, ban chỉ huy quân sự huyện và tương đương có trợ lý kiêm nhiệm (hoặc trợ lý chuyên trách ở trung đoàn đủ quân).
- Cấp trung đoàn, tiểu đội có hệ thống chiến sĩ dân vận.
Đi sâu vào nội dung, hình thức công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam cho thấy, trong mỗi giai đoạn cách mạng, nội dung công tác dân vận luôn bám sát đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gắn bó máu thịt với nhân dân, góp phần xây dựng bản chất, truyền thống "trung với Đảng, hiếu với dân" của lực lượng vũ trang. Ngay từ lúc ra đời và suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, công tác dân vận đã được hình thành và ngày một phát triển về nội dung, hình thức. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và đề ra những yêu cầu mới đối với công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay, Nghị quyết số 152/NQ-ĐUQSTW ngày 01-8-2003 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về "Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới" xác định công tác dân vận của lực lượng vũ trang có các nội dung chủ yếu sau:
1. Tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân.
2. Thực hiện chức năng tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, góp phần tham gia xây dựng cơ sở, địa phương vững mạnh toàn diện.
3. Tham gia góp phần thực hiện các chức năng phát triển kinh tế - xã hội. Tích cực giúp dân xóa đói, giảm nghèo, phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.
4. Tham gia có hiệu quả các phong trào, cuộc vận động cách mạng ở địa phương và trong phạm vi cả nước.
5. Xây dựng các mô hình kinh tế quốc phòng hiệu quả góp phần phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh trên địa bàn, nhất là các địa bàn trọng điểm, chiến lược. Hiện nay, toàn quân có 19 đoàn kinh tế - quốc phòng, tập trung chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Ngoài các nội dung trên, do yêu cầu nhiệm vụ của quân đội, các cơ quan chuyên trách về công tác dân vận trong quân đội còn đảm nhiệm các mặt công tác sau:
- Tiến hành công tác tuyên truyền đặc biệt, nghiên cứu, nắm chắc tình hình, tuyên truyền, vận động và đấu tranh với các đối tượng thù địch, góp phần bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo và an ninh chính trị nội địa.
- Nghiên cứu, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo trong lực lượng vũ trang và tiến hành công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo.
- Nghiên cứu và tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hình thức công tác dân vận chủ yếu trong Quân đội nhân dân trong các giai đoạn cách mạng và nhất là trong thời kỳ đổi mới đang thực hiện gồm các hình thức dân vận chủ yếu sau:
1. Kết nghĩa giữa đơn vị quân đội với các tổ chức chính quyền, đoàn thể quần chúng địa phương. Thực hiện chủ trương kết nghĩa với các lực lượng vũ trang tại địa bàn đóng quân và mở rộng các hình thức kết nghĩa khác.
2. Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận: đưa bộ đội thoát ly doanh trại, hành quân về các địa bàn có nhiều khó khăn, tuyên truyền vận động, giúp dân lao động sản xuất, tham gia xây dựng, củng cố quốc phòng, an ninh. Hằng năm, đơn vị chủ lực dành 1 tháng, các đơn vị bộ đội địa phương dành 2 tháng để dã ngoại làm công tác dân vận.
3. Cử cán bộ tăng cường cơ sở: cử sĩ quan về tăng cường cho địa phương có nhiều khó khăn, trực tiếp tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ở cơ sở theo Chỉ thị số 133/TV-ĐUQSTW của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương ngày 8-7-1998. Hiện toàn quân đang có 492 cán bộ tăng cường cơ sở, trong đó 429 sĩ quan biên phòng tăng cường ở 368 xã biên giới, vùng sâu, vùng xa. Có 1 đồng chí giữ chức vụ bí thư Đảng ủy xã, 101 phó bí thư đảng ủy, 10 xã đội trưởng, xã đội phó, công an, 2 thư ký thôn bản, 28 đồng chí tham gia Hội đồng nhân dân xã. Ngoài ra, còn có 105 bác sĩ, y sĩ của quân đội tăng cường cho các xã biên giới tại bệnh xá quân dân y kết hợp.
4. Cử tổ, đội công tác chuyên ngành hoặc tham gia liên ngành về các địa phương làm dân vận. Đặc biệt, theo Chỉ thị số 123/2002/CT-BQP ngày 16-9-2002 của Bộ Quốc phòng, toàn quân hiện nay có 224 đội công tác với gần 2.000 cán bộ, chiến sĩ tăng cường cơ sở trên các địa bàn trọng điểm Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo.
Ngoài ra, quân đội còn thực hiện một số hình thức, mô hình công tác dân vận có hiệu quả khác như: Ký kết nghị quyết, chương trình phối hợp hoạt động với các tổ chức chính trị, xã hội từ Trung ương đến cơ sở; thực hiện chương trình quân dân kết hợp, xây dựng 160 bệnh xá, trạm xá quân dân kết hợp, xây dựng mô hình dân quân tự vệ làm dân vận...
Với phương châm hướng mạnh về cơ sở, bám sát đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và nhiệm vụ của quân đội, năm 2007, các đơn vị quân đội đã đẩy mạnh hoạt động dân vận trên các địa bàn và đã thu được một số kết quả như sau:
Duy trì hoạt động kết nghĩa tại 6.672 đầu mối địa phương: tổ chức 8.816 lượt đơn vị từ cấp đại đội đến trung đoàn với hơn 200 ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân về 923 lượt xã, phường làm công tác dân vận; cử 2.774 lượt tổ, đội công tác về các địa phương vận động nhân dân và tham gia giải quyết 227 vụ việc phức tạp. Riêng 224 đội công tác tăng cường cơ sở (đội công tác 123) với gần 2.000 cán bộ, chiến sĩ tham gia xây dựng cơ sở 253 xã trọng điểm thuộc Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, và Tây Quân khu 4, góp phần ổn định tình hình ở địa phương.
Thông qua các hoạt động dân vận ở địa phương, các đơn vị trong toàn quân đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động được 43.696 buổi cho 6,2 triệu lượt người, góp phần củng cố 297 đảng bộ, 34.841 tổ chức đoàn thể quân chủng ở 5.427 lượt xã, phường. Đặc biệt, trong bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, toàn quân đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trên các địa bàn, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho công tác bầu cử. Kết quả đã có 36 đồng chí cán bộ quân đội trúng cử đại biểu Quốc hội. Ngoài ra, ở các cơ sở còn có 429 đồng chí cán bộ quân đội tham gia vào cấp ủy, chính quyền địa phương.
Trong tham gia xóa đói, giảm nghèo, giúp dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quân đội đã huy động 200 ngàn lượt bộ đội với hơn 1 triệu công lao động, tham gia làm mới và tu sửa 2.834 km đường giao thông, 928 km kênh mương, 3.120 phòng học, 226 trạm xá, 73.800 ngôi nhà, xóa đói, giảm nghèo cho 7.753 hộ, khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hơn 123 ngàn lượt người với giá trị thuốc trên 2,4 tỷ đồng. Ngoài ra, các đơn vị quân đội thường xuyên quan tâm tới các đối tượng chính sách trên địa bàn. Trong năm 2006 - 2007, toàn quân đã xây dựng và giao 1.373 căn nhà tình nghĩa, thăm và tặng quà cho các cơ sở chính sách, đối tượng chính sách hơn 11 tỷ đồng, nhận phụng dưỡng 786 bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Trong giúp dân phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích, chẳng quản ngại gian khổ, hy sinh. Trong năm 2007 đã huy động 74.000 lượt bộ đội, quân dân tự vệ với 427.554 ngày công, hàng ngàn phương tiện tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai lũ lụt, cứu hộ cứu nạn, giúp nhân dân dựng lại và sửa chữa hàng ngàn ngôi nhà, kêu gọi, hướng dẫn đưa về nơi an toàn hơn 5.000 lượt tàu thuyền và 203.800 lượt người, quyên góp ủng hộ các địa phương và người thiệt hại do thiên tai, thảm họa gần 6 tỷ đồng; xây dựng 65 ngôi nhà, mỗi nhà 25 triệu đồng, không kể công của bộ đội giúp đỡ nhân dân bị thiệt hại do bão ở Quân khu 9 và Quân khu 7. Điển hình là trong cứu hộ, cứu nạn vụ sập cầu Cần Thơ và phòng, chống, khắc phục hậu quả cơn bão số 2, số 5, toàn quân đã huy động hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ các cấp, các lực lượng, phương tiện tại chỗ và cơ động tham gia ứng cử kịp thời, hiệu quả. Riêng Bộ Quốc phòng đã trích kinh phí hỗ trợ cho các địa phương và người bị nạn hơn 4 tỷ đồng. Trong quá trình giúp dân và làm nhiệm vụ trong bão lụt đã có 2 cán bộ, chiến sĩ hi sinh (Thượng úy Phạm Hữu Huyên, Ban Chấp hành Quân sự Quảng Bình và Binh nhất Rơ Chăm Thuyên, Ban Chấp hành Quân sự Gia Lai); mất tích 1 đồng chí (Binh nhất Nguyễn Đức Tùng, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế bị lũ cuốn trôi).
Trong thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo, quân đội đã thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo trong tuyển quân, bồi dưỡng đào tạo cán bộ là con em đồng bào các dân tộc, tôn giáo, tỷ lệ thanh niên nhập ngũ là người dân tộc thiểu số, người có đạo ngày càng cao, công tác bồi dưỡng tạo nguồn cho địa phương được chú trọng.
Công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, nhất là việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong dân tộc, tôn giáo được tăng cường. Trong năm 2007, các đơn vị tham mưu cho các địa phương mở được 336 lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho 6.219 chức sắc, chức việc và người có uy tín trong đồng bào dân tộc định canh định cư, ngăn chặn 163 vụ truyền đạo trái pháp luật, thu nộp 346 súng tự tạo, triệt phá 64.860 m2 cây thuốc phiện.
Công tác dân vận ở các đoàn kinh tế - quốc phòng ngày càng phát huy hiệu quả. Qua 8 năm, 19 đoàn kinh tế - quốc phòng đã góp phần định cư, ổn định đời sống, việc làm cho 68.000 hộ dân, tạo cơ sở thuận lợi cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội và ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Công tác tuyên truyền đặc biệt được chú trọng thực hiện trên các tuyến biên giới, biển đảo và nội địa, thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc tình hình địa bàn, đối tượng, kịp thời đề xuất và tuyên truyền, vận động, đấu tranh ngăn chặn hoạt động của các thế lực thù địch. Trong năm, các lực lượng quân đội đã tham gia xử lý 659 vụ việc vi phạm quy chế biên giới, biển đảo, đấu tranh ngăn chặn tàu thuyền nước ngoài vi phạm biển Việt Nam 1.900 lần, phối hợp với cơ quan chức năng, vận động nhân dân đấu tranh bốc gỡ hàng chục cơ sở ngầm của lực lượng FULRO, Tin lành Đềga, vận động 689 đối tượng ra đầu thú, đưa 3.185 đối tượng ra kiểm điểm trước dân. Các hoạt động trên đã góp phần cùng các mặt công tác khác giữ vững chủ quyền biên giới, biển đảo và an ninh chính trị các địa bàn chiến lược trọng điểm.
Tóm lại, công tác dân vận của lực lượng vũ trang thời gian qua tiếp tục nhận thức đúng đắn, tiến hành chủ động tích cực, hiệu quả với nội dung, hình thức thiết thực, hướng mạnh vào trọng tâm tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng trận địa lòng dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển đảo, đặc biệt là các địa bàn chiến lược trọng điểm. Thông qua các hoạt động dân vận, nhất là qua hành động giúp dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, chức năng đội quân công tác của quân đội tiếp tục được phát huy. Các đơn vị quân đội thực sự là chỗ dựa tin cậy của cấp ủy chính quyền và nhân dân các địa phương.
Để tăng cường công tác dân vận của lực lượng vũ trang trong tình hình mới, Đảng ủy Quân sự Trung ương chủ trương:
Thường xuyên nắm vững đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội và địa phương, bám sát, nắm chắc các địa bàn, đối tượng, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các lực lượng để tiến hành các nội dung, hình thức, biện pháp công tác dân vận thiết thực, hiệu quả.
Hướng nội dung công tác dân vận vào trọng tâm tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân vững chắc, đặc biệt là trên cơ sở địa bàn chiến lược trọng điểm. Tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ổn định đời sống, xóa đói, giảm nghèo, lực lượng quân đội thực sự là nòng cốt xung kích trong phòng, chống thiên tai, thảm họa và đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, giữ gìn an ninh chính trị nội bộ.
Nội dung chủ yếu của công tác dân vận trong lực lượng vũ trang thời gian tới là:
1. Tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức trách nhiệm cho bộ đội về công tác dân vận của lực lượng vũ trang.
2. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nội dung, hình thức, biện pháp công tác dân vận ở các địa bàn, thời điểm, nhiệm vụ và loại hình đơn vị lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng:
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động kết nghĩa, hành quân, dã ngoại làm công tác dân vận trong điều kiện thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự sửa đổi.
- Đặc biệt chú trọng phát huy hiệu quả công tác dân vận của các đội công tác tăng cường cho cơ sở theo Chỉ thị số 123/BQP và các đoàn kinh tế quốc phòng, các đồn biên phòng, các lực lượng làm nhiệm vụ "C" trên địa bàn chiến lược, trọng điểm.
- Tích cực tham gia xóa đói giảm nghèo, trong phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn và các công cuộc vận động lớn của Đảng, của Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.
3. Tiếp tục rút kinh nghiệm đổi mới và tăng cường công tác dân tộc, tôn giáo, công tác tuyên truyền, đặc biệt trong tình hình mới, thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại và chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng.
4. Tổ chức thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ ở cơ sở trong quân đội, xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện toàn quân một ý chí, quân với dân một ý chí.
Để hoàn thành chủ trương, phương hướng công tác dân vận của lực lượng vũ trang nói trên, Đảng ủy Quân sự Trung ương đề xuất, kiến nghị:
Ban Dân vận Trung ương tiếp tục tăng cường phối hợp với Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị - Quân đội nhân dân Việt Nam theo dõi, chỉ đạo công tác dân vận của lực lượng vũ trang, kịp thời thông báo các nội dung lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nội dung công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh.
Ban Dân vận Trung ương chỉ đạo các tỉnh, thành ủy trực thuộc tổ chức thống nhất việc chỉ đạo hoạt động phối hợp giữa quân đội và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương (đến nay mới có 43/64 tỉnh, thành ủy giao cho Ban Dân vận cấp mình thực hiện nội dung này, các chương trình phối hợp hoạt động hiện nay hiệu quả chưa được cao, còn ít các công trình cụ thể, thiết thực).
________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 12-2007.
** Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
75 NĂM CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG* TÒNG THỊ PHÓNG**
Cách đây 75 năm, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, tại Hương Cảng, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính trị, Điều lệ Đảng và Án nghị quyết về: Công nhân vận động, Nông dân vận động, Cộng sản Thanh niên vận động; Phụ nữ vận động; Quân đội vận; Vấn đề cứu tế và Hội phản đế đồng minh. Trong Nghị quyết của Trung ương chỉ rõ: "Trong các Đảng bộ, (từ Thành ủy và Tỉnh ủy) phải tổ chức ra các Ban chuyên môn về giới vận động". Từ tháng 10-1930, hệ thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng bao gồm: công, nông vận, thanh vận, phụ vận, quân đội vận. Mặt trận phản đế được ra đời làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận đăng trên Báo Sự thật số ra ngày 15-10-1949. Chính vì vậy, tháng 10-1999, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã quyết định lấy ngày 15-10 hàng năm là Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng.
Từ tháng 10-1930 đến nay, trải qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn luôn đặt công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm tập hợp, tuyên truyền, giáo dục quần chúng, nhân dân thành một lực lượng to lớn, đông đảo, đoàn kết chung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia các phong trào cách mạng vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Các phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng, nhân dân ngay sau khi Đảng ta được thành lập và lãnh đạo như: Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh thời kỳ 1930-1931, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương thời kỳ 1936-1939, phong trào Phản đế 1939-1941 và phong trào Mặt trận Việt Minh thời kỳ 1941-1945... đã khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc tập hợp, chuẩn bị lực lượng, phát huy sức mạnh, truyền thống đoàn kết toàn dân tộc thực hiện các mục tiêu cách mạng. Thông qua các phong trào quần chúng, Đảng ta đã xây dựng, phát triển lực lượng chính trị ngày càng đông đảo, hùng hậu với đầy đủ các thành phần, giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng thời kết hợp với việc xây dựng lực lượng vũ trang, chớp thời cơ làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, giành độc lập, xây dựng chính quyền công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Trong suốt 30 năm ròng rã, trường kỳ của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", công tác dân vận của Đảng đã góp phần tuyên truyền, vận động, tổ chức nên những cao trào rộng lớn, động viên sức người, sức của, huy động được sức mạnh của toàn dân, làm nên những chiến thắng vẻ vang, những chiến công hiển hách, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng ta đã rút ra được những bài học lớn, trong đó có hai bài học liên quan trực tiếp, gắn bó mật thiết với công tác dân vận của Đảng. Đó là:
"Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất khôn lường được đối với vận mệnh của đất nước"1.
"Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn hết
Thành công, thành công, đại thành công!"2.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, quyết tâm đổi mới toàn diện, đưa nước ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới và rút ra bốn bài học, trong đó có bài học quan trọng là "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động"3. Đến nay, sau gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo cùng với những thành tựu rất quan trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, công tác dân vận của Đảng cũng có những đổi mới một cách cơ bản, toàn diện cả về quan điểm, nhận thức, nội dung, phương thức hoạt động đến bộ máy, tổ chức, cán bộ, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết Trung ương 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Nghị quyết đã nêu lên 4 điểm chỉ đạo trong công tác vận động quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
Bốn là, công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã rút ra sáu bài học kinh nghiệm chủ yếu, trong đó có bài học liên quan đến việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Đại hội đã xác định phải xây dựng cơ chế để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thực hiện quan điểm, Nghị quyết Đại hội VIII, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X đã ra Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10, Chính phủ ban hành 3 Nghị định số 29, 07 và 71 về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau 7 năm thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã đem lại kết quả đáng phấn khởi, có tác động rất tích cực tới việc củng cố, đổi mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thúc đẩy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, củng cố, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải tiến sự chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền, làm chuyển biến tác phong công tác của cán bộ, đảng viên; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị. Tiếp đó Đảng, Nhà nước ta tiếp tục có những Nghị định, Chỉ thị liên quan đến công tác vận động quần chúng. Ngày 23-11-1998, Thường trực Bộ Chính trị khóa VIII đã có Thông báo số 183/TB-TW về tổng kết việc thực hiện chủ trương, chính sách đại đoàn kết toàn dân. Ngày 06-10-1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Chỉ thị số 42-TC/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần chúng. Cùng với các Nghị định, Chỉ thị của Đảng, ngày 21-9-2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg về tăng cường công tác dân vận của chính quyền. Ngoài ra, trong thời gian qua, Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị nhằm tăng cường sự lãnh đạo các đoàn thể, các thành viên hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Với chủ đề "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo công tác dân vận của Đảng: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây đựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội". Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy đã ban hành ba nghị quyết quan trọng: về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; về công tác dân tộc; về công tác tôn giáo. Đây là những nghị quyết rất quan trọng, thể hiện sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ thể, thiết thực đối với công tác vận động quần chúng của Đảng, đối với từng giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo theo hướng "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân", là một biện pháp quan trọng để khắc phục quan liêu, xa dân. Việc thể chế hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Việc Nhà nước từng bước xây dựng, hoàn thiện một cách đồng bộ các chính sách kinh tế, xã hội đúng đắn đã phát huy mọi khả năng sáng tạo của nhân dân. Việc không ngừng đổi mới, hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, đặc biệt các chính sách về kinh tế - xã hội, phân phối tiêu dùng, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của công dân đã góp phần rất quan trọng vào dân chủ hóa xã hội và thành công của công tác dân vận của Đảng những năm qua.
Đồng thời với việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động quần chúng, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, Đảng ta luôn luôn quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Ngay từ khi mới được thành lập, trong điều kiện hoạt động rất nguy hiểm, khó khăn, thiếu thốn, các đảng viên của Đảng đã lăn lộn trong phong trào quần chúng nhân dân, thực hiện "vô sản hóa", "ba cùng" với nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân bảo vệ, che chở, giúp đỡ. Đảng cử những đồng chí có uy tín, phẩm chất, năng lực, gắn bó với quần chúng nhân dân, trưởng thành từ phong trào quần chúng phụ trách công tác dân vận của Đảng. Hệ thống bộ máy, tổ chức, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, vận động quần chúng ngày càng được hoàn thiện, hoạt động ngày một nền nếp, hiệu quả. Ngày 29-3-1976, sau khi nước nhà được thống nhất, đất nước chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, Bộ Chính trị khóa IV đã ban hành Nghị quyết số 249 về việc thành lập Ban Dân vận và Mặt trận Trung ương. Cơ quan này vừa làm tham mưu cho Trung ương Đảng về công tác dân vận và mặt trận, vừa là Đảng đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngày 8-3-1977, Ban Bí thư Trung ương khóa IV đã có Chỉ thị số 05 về tăng cường công tác dân vận và mặt trận, chỉ đạo các tỉnh, thành ủy cần thành lập các Ban Dân vận, Mặt trận; ở cấp huyện cần phân công ủy viên Ban thường vụ hoặc cấp ủy phụ trách công tác này. Để tiếp tục củng cố, tăng cường công tác vận động quần chúng trong tình hình mới, ngày 17-3-1981, Ban Bí thư Trung ương khóa IV đã quyết định thành lập Ban Dân vận Trung ương và Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó "Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu chiến lược về công tác dân vận". Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã ban hành nghị quyết về một số nhiệm vụ cơ bản, cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, đã quyết định gắn việc sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B khóa VI với công tác xây dựng Đảng, đặt ra nhiệm vụ: Đổi mới và tăng cường công tác vận động nhân dân, củng cố mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân". Thực hiện Nghị quyết nói trên, ngày 9-7-1992, Ban Bí thư Trung ương đã có Quyết định số 82 yêu cầu "phải kiện toàn Ban dân vận ở Trung ương và ở tỉnh, thành phố; ở cấp quận, huyện lập khối dân vận do đồng chí ủy viên Ban thường vụ phụ trách; phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ dân vận và cán bộ đoàn thể". Hướng dẫn số 01 của liên ban Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận trung ương ban hành ngày 25-5-2000 về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, bộ máy và biên chế cán bộ của Ban dân vận địa phương là cơ sở quan trọng để tiếp tục hoàn thiện, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, củng cố, tăng cường bộ máy cán bộ của Ban dân vận cấp ủy các tỉnh, thành phố, huyện thị và Khối dân vận cấp xã. Đến nay, hệ thống dân vận trong cả nước từ Trung ương đến cơ sở đã khá đồng bộ, được kiện toàn, tăng cường cả về tổ chức, bộ máy, biên chế cán bộ, từng bước đáp ứng nhu cầu công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày 15-7-2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Quyết định số 38/QĐTW về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Dân vận Trung ương. Quyết định của Bộ Chính trị khẳng định: Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp và thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, về chủ trương, chính sách và giải pháp lớn về công tác dân vận. Điều này một lần nữa khẳng định sự quan tâm của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình hiện nay và trách nhiệm nặng nề nhưng rất vinh quang của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận trong cả nước.
Kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng, chúng ta tưởng nhớ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, lãnh tụ của Đảng, dân tộc, nhân dân ta, người thầy vĩ đại trong công tác dân vận của Đảng. Cả cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng, tác phong công tác, sinh hoạt hằng ngày của Bác Hồ hết thảy vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, mãi mãi là tấm gương sáng cho cán bộ, đảng viên học tập, noi theo. Đặc biệt, bài báo Dân vận và tư tưởng dân vận của Bác Hồ đã soi sáng con đường chúng ta đi đến với nhân dân và mãi mãi là cẩm nang của những người làm công tác vận động quần chúng.
Điểm lại những mốc chính nhân dịp kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng, chúng ta một lần nữa ôn lại truyền thống vẻ vang, những đóng góp lớn lao của công tác dân vận, những cống hiến không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên trong công tác vận động quần chúng, góp phần vào những thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam 75 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thành tích trong công tác dân vận cũng như những cống hiến của đội ngũ các thế hệ cán bộ công tác trên mặt trận này đã được Đảng, Nhà nước ta ghi nhận bằng phần thưởng cao quý nhất: Huân chương Sao Vàng nhân dịp 72 năm, công tác dân vận của Đảng. Điều quan trọng nữa là trải qua 75 năm công tác dân vận của Đảng đã rút ra và để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu:
Một là, luôn luôn tin tưởng vào lực lượng và sức mạnh của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân.
Hai là, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể của nhân dân trong việc tổ chức, tập hợp, hoạt động và vận động nhân dân phù hợp với chức năng, nhiệm vụ trong từng giai đoạn của cách mạng.
Ba là, có những hình thức đa dạng, phong phú trong việc vận động, tập hợp quần chúng, nhân dân, trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, các phong trào thi đua thực hiện các cuộc vận động cách mạng phù hợp với từng đối tượng, với từng lĩnh vực, ngành, địa phương, cơ sở và trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể.
Bốn là, công tác dân vận phải bám sát đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, gắn với việc chăm lo và bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân; động viên được đông đảo nhân dân tích cực tham gia xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, đối ngoại, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xây dựng đất nước phát triển bền vững.
Năm là, công tác dân vận phải luôn gắn bó mật thiết với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Sáu là, thường xuyên chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dân vận theo phương châm "Trọng dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Quan tâm tới chính sách, chế độ đối với người cán bộ dân vận.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", công tác dân vận của hệ thống chính trị phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy đảng, phản ánh kịp thời những nguyện vọng chính đáng của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng quan liêu, xa dân, tham nhũng, tiêu cực; chủ động góp phần có hiệu quả trong việc chống lại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Giữ mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, về thành phần giai cấp. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. Trước mắt, với quyết tâm cao, chúng ta phải góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Phát huy truyền thống vẻ vang của công tác dân vận 75 năm qua, với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, nhất định chúng ta sẽ vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
_________
* Bài đăng nên Tạp chí Dân vận số tháng 10-2005.
** Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Trưởng Ban Dân vận Trung ương.
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr. 130.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr. 362.
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ MỚI* HÀ THỊ KHIẾT**
Trong những năm qua, được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trực tiếp là cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các lực lượng, tổ chức ở Trung ương và địa phương, công tác dân vận của Đảng đã có những đổi mới cơ bản, toàn diện cả về nhận thức, nội dung, phương thức tiến hành và đạt được những kết quả quan trọng. Công tác dân vận đã trực tiếp tham gia xây dựng tổ chức Đảng và chính quyền vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động các tầng lớp nhân dân tích cực phát triển kinh tế xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tăng cường quốc phòng - an ninh, tạo "thế trận lòng dân" vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương và chức năng, nhiệm vụ của mình, hệ thống dân vận từ Trung ương đến cơ sở đã tích cực tham mưu, triển khai thực hiện có hiệu quả những chủ trương, chính sách của Đảng về công tác vận động quần chúng. Nhiều chủ trương về công tác dân vận, như: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng giai cấp công nhân; về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; về trí thức, thanh niên, phụ nữ và doanh nhân; về công tác dân tộc, tôn giáo; công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài... đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Công tác dân vận của các cơ quan nhà nước và các cấp chính quyền có nhiều chuyển biến, chú trọng xây dựng các cơ quan, đơn vị vững mạnh, tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chăm lo đời sống mọi mặt của nhân dân; việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách thủ tục hành chính... được các cấp thực hiện ngày càng tốt hơn. Công tác dân vận của lực lượng vũ trang đã đi vào chiều sâu, góp phần tích cực xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, làm cho mối quan hệ đoàn kết máu thịt quân - dân thêm bền chặt. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội thường xuyên hướng về cơ sở, bám sát thực tiễn, tích cực đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng hoạt động; chăm lo lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên; tích cực vận động, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước và địa phương, tạo sự đồng thuận trong tư tưởng, nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân tộc, tôn giáo, vận động đồng bào Việt Nam ở nước ngoài có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh trong nước và ngoài nước, dân tộc và thời đại để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đặc biệt, công tác dân vận đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, lực lượng, các cấp, các ngành quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"… Đồng thời, đẩy mạnh các phong trào: Thi đua "Dân vận khéo", "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới"... trong các cấp, các ngành, địa phương; vận động nhân dân thực hiện tốt Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh; phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình", nhất là âm mưu "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của các thế lực thù địch; tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình tiến hành công tác dân vận, tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận của Đảng trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương không ngừng được tăng cường, củng cố, chất lượng, hiệu quả công tác dân vận ngày càng được nâng cao, nhất là trong công tác tham mưu, đề xuất, phối hợp với các tổ chức, lực lượng.
Với những kết quả trên, có thể khẳng định: Công tác dân vận thực sự có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Công tác dân vận từng bước đi sâu vào nhận thức, làm chuyển biến mạnh mẽ ý thức, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Tuy nhiên, công tác dân vận vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm. Công tác tham mưu, triển khai, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết một số chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác vận động quần chúng ở một số ngành, địa phương chưa tích cực, hiệu quả chưa cao. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở một số bộ, ngành, địa phương còn hạn chế, có nơi nặng về hình thức. Việc nắm bắt và tổng hợp tình hình nhân dân để tham mưu cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền, địa phương có lúc chưa kịp thời. Tình trạng quan liêu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn diễn ra; ở một số nơi công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là những vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng hiệu quả còn thấp. Việc phối hợp với các cấp, ngành để thẩm định một số đề án của Mặt trận Tổ quốc, chương trình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh... còn chậm, hiệu quả chưa cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, song chủ yếu vẫn là nhận thức về trách nhiệm công tác dân vận của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên chưa đúng mức. Việc triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận ở một số nơi chưa thường xuyên, lúng túng, bị động, nội dung, hình thức thực hiện chậm đổi mới. Công tác tham mưu, đề xuất, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra của một số ban dân vận cấp ủy còn hạn chế, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả những người làm công tác dân vận thiếu gương mẫu, thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng... làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ban, ngành, tổ chức, lực lượng trong quá trình thực hiện công tác dân vận chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Tình hình suy thoái kinh tế thế giới cùng với những diễn biến bất thường về thiên tai, dịch bệnh, những bức xúc về môi trường, việc làm, tệ nạn xã hội, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch... cũng làm ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của công tác dân vận.
Vì vậy, tiếp tục đổi mới công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước ta trong tình hình hiện nay. Để làm được điều đó, các cấp cần thực hiện tốt những nội dung, giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về dân vận và công tác dân vận. Trong quá trình tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục, cần kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, phương tiện, bằng những hình thức, phương pháp phù hợp với từng địa phương, cơ quan, đơn vị và từng đối tượng. Qua đó, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là cấp ủy, đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp nhận thức sâu sắc rằng: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"; "Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Vì vậy, "Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang". Từ đó, làm chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng, của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong thực hiện công tác dân vận.
Hai là, kết hợp thật tốt việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng với chương trình hành động về công tác dân vận và Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Trong đó, công tác dân vận phải hướng mạnh vào tham gia xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thật sự phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật, kỷ cương; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường đoàn kết, thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Trước mắt, công tác dân vận phải tích cực tham gia cùng với cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thực hiện tốt ba vấn đề trọng tâm mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đã xác định và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Ban Dân vận Trung ương chủ trì phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các bộ, ban, ngành xây dựng Đề án xây dựng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội" và Đề án "Xây dựng cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền" và các đề án được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.
Đồng thời, phải tích cực đóng góp vào quá trình phát triển, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, thực hiện xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; làm tốt công tác dân tộc, tôn giáo, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài; củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức công tác dân vận phù hợp với tình hình mới. Công tác dân vận phải thực hiện tốt phương châm: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Từ đó, hướng mạnh về cơ sở, bám sát địa bàn, bám dân, tăng cường đối thoại trực tiếp với nhân dân để nắm bắt và tổng hợp "trúng và đúng" tâm tư, nguyện vọng và những đề xuất, kiến nghị chính đáng của nhân dân. Trên cơ sở đó, nghiên cứu, tham mưu với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp có những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, nhất là các vấn đề có ảnh hưởng, liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, thu nhập của nhân dân. Cùng với đó, công tác dân vận cần hết sức coi trọng vận động, tập hợp quần chúng công nhân trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp và quần chúng nhân dân trên địa bàn dân cư, hướng họ vào sinh hoạt, hoạt động trong các tổ chức quần chúng, thực hiện các phong trào, các cuộc vận động lớn do Đảng, Nhà nước phát động.
Tăng cường phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác vận động, tập hợp quần chúng. Chú trọng thực hiện có chất lượng, hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Công tác dân vận phải góp phần cùng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm; đấu tranh bác bỏ, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch. Thực hiện tốt chương trình phối hợp giữa Ban Dân vận với các cơ quan, ban, ngành ở Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Coi trọng thực hiện công tác dân vận trong xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, tranh thủ các nhân sĩ, trí thức, chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong tư vấn và tham gia công tác vận động quần chúng. Tập trung tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về công tác dân vận; trước hết là nghiên cứu mối quan hệ Đảng - dân trong tình hình hiện nay; tích cực tổng kết, nhân rộng các mô hình, điển hình "Dân vận khéo" và phong trào "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới" ở các địa phương, các ngành, các lĩnh vực.
Bốn là, tăng cường công tác lãnh đạo và chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp với công tác dân vận. Công tác dân vận là một mặt hoạt động lãnh đạo, một nội dung công tác của cấp ủy, chính quyền các cấp. Bên cạnh việc thường xuyên chăm lo lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, cấp ủy và chính quyền các cấp phải luôn nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng hoạt động, tạo sự đồng thuận cao về thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh; phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Cấp ủy các cấp cần chú ý kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận; cử những cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt, có uy tín cao và có kinh nghiệm làm công tác vận động quần chúng để phụ trách công tác dân vận; kiên quyết không bố trí những người không đủ trình độ, năng lực và uy tín với nhân dân làm công tác dân vận. Cần xác định rõ công tác dân vận là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, có liên quan đến sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.
Công tác vận động quần chúng của Đảng là hoạt động tác động qua lại trực tiếp với những con người cụ thể, với những tập thể, cộng đồng, giai tầng xã hội, vì sự phát triển của đất nước. Đó vừa là khoa học, đồng thời là nghệ thuật của công tác vận động, tập hợp quần chúng của Đảng. Thực chất của công tác dân vận trong thời kỳ mới là xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
__________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 10-2012.
** Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương.
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN NHẰM ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC VÀ TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC* GS. TS. NGUYỄN THỊ DOAN**
V.I.Lênin đã chỉ rõ một trong những nguy cơ lớn nhất, đáng sợ nhất đối với một đảng cầm quyền là đảng đó quan liêu, xa rời, tự cắt đứt mối quan hệ với quần chúng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "...một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối quan hệ giữa ta và dân chúng"1, "Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại"2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"3.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ ngày thành lập và trong hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn luôn quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác quẩn chúng. Theo nghĩa rộng: Công tác quần chúng của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân. Mối quan hệ này được thể hiện ở đường lối, chủ trương, chính sách và việc tổ chức thực hiện các chính sách đó. Còn theo nghĩa hẹp: "Dân vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho"4.
Mỗi giai đoạn cách mạng, công tác dân vận có phương thức, nội dung khác nhau nhưng đều nhằm vận động tất cả các tầng lớp nhân dân, không sót một ai tham gia vào các phong trào cách mạng, thi đua yêu nước. Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác dân vận đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng. Nhờ dân vận tốt mà toàn dân đã tích cực tham gia các phong trào thi đua trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục - đào tạo, quân sự, an ninh tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của cách mạng.
Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, công tác dân vận tập trung vào vận động các tầng lớp nhân dân tham gia và thực hiện các phong trào thi đua: "Diệt giặc đói; diệt giặc dốt; diệt giặc ngoại xâm"... đã góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải rút khỏi nước ta, lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đặc biệt, bộ đội ta đã thực hiện tốt công tác dân vận, nên đến đâu cũng được dân che chở, "nhường cơm, sẻ áo", đã góp phần tạo nên sức mạnh "bách chiến, bách thắng" cho quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau năm 1954, công tác dân vận đã vận động toàn dân hướng vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; Hai là, xây dựng và tạo cơ sở vật chất, chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Nhân dân ta đã hăng hái thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, tiêu biểu là các phong trào thi đua ở miền Nam: "Một tấc không đi, một ly không rời"; "dũng sĩ diệt Mỹ" và "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng"; ở miền Bắc: "Một người làm việc bằng hai"; "Ba sẵn sàng"; "Ba đảm đang"; "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người"... góp phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng hậu phương miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc cho miền Nam kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, hoàn thành thống nhất đất nước.
Sau năm 1975, công tác dân vận đã vận động toàn dân hướng vào thực hiện các nhiệm vụ của thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ dân vận tốt mà toàn dân đã hăng hái thực hiện các phong trào thi đua, tiêu biểu là các phong trào: "Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân", "Tất cả vì hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"... đã góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh tàn phá, nhất là khó khăn về kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác dân vận đã hướng vào vận động mọi tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua mang những nội dung mới, là thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tiêu biểu là các phong trào thi đua: "Đền ơn đáp nghĩa", "Xóa đói giảm nghèo", "Thanh niên tình nguyện", "Tuổi trẻ sáng tạo", "Lao động giỏi, lao động sáng tạo", "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế", "Xây dựng gia đình văn hóa, làng, khu phố văn hóa"... đã góp phần quan trọng vào các thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên tất cả các lĩnh vực.
Trong hai năm gần đây, phong trào thi đua "Dân vận khéo" do Ban Dân vận Trung ương phát động và tổ chức thực hiện đã mang lại những khởi sắc mới trong việc "vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào", kể cả cộng đồng người Việt Nam và kiều bào ta ở nước ngoài vào các phong trào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế để phát triển đất nước theo hướng kinh tế tri thức. Nhờ đó, mặc dù nước ta bị tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới cùng với thiên tai, lũ lụt liên tiếp xảy ra, nhưng kinh tế - xã hội vẫn phát triển ổn định và đạt được những kết quả khả quan. Theo báo cáo của Chính phủ, trong năm 2009, các doanh nghiệp đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất, sản xuất được phục hồi và có bước tăng trưởng, GDP đạt 5,2%, tổng số vốn đầu tư cho phát triển bằng 42,2% GDP, chú trọng mở rộng thị trường trong nước theo hướng "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển. Hệ thống ngân hàng bảo đảm và có bước phát triển, thị trường và giá cả tương đối ổn định; an ninh xã hội được bảo đảm, đã chi cho an sinh xã hội 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so với năm 2008. Đặc biệt, đã quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn như hỗ trợ người nghèo, người mất việc làm, trợ cấp khó khăn cho cán bộ có thu nhập thấp. Nhà nước đã điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp khoảng 36.700 tỷ đồng; trợ cấp cứu đói giáp hạt và thiên tai 41.580 tấn gạo; tổng dư nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 76.000 tỷ đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 1.600 tỷ đồng, đời sống nhân dân được cải thiện. Lĩnh vực văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục có bước phát triển tích cực, quy mô giáo dục - đào tạo các cấp học đều tăng. Hệ thống khoa học và công nghệ được đầu tư đồng bộ hơn. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh và được nâng cấp, phủ sóng đến tất cả các vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới và hải đảo. Điện thoại thuê bao toàn mạng đã đạt 113,6 triệu số. Quan tâm chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm đạt kết quả tích cực. Chương trình cải cách hành chính đã được đẩy mạnh, rà soát loại bỏ những văn bản không cần thiết. Chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước được quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Tích cực và chủ động hội nhập quốc tế đạt kết quả quan trọng. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Với những thành tựu đã đạt được và công tác dân vận tốt, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ năm 2010 mà kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XII đã đề ra là: "Tập trung mọi nỗ lực phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2009; nâng cao chất lượng tăng trưởng, tăng cường sự ổn định của kinh tế vĩ mô và ngăn chặn lạm phát cao trở lại; bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện một bước đời sống nhân dân; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh; phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010"; thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu Đại hội X của Đảng đã đề ra và góp phần thiết thực chào mừng đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XI của Đảng.
Tóm lại, mỗi một giai đoạn cách mạng, không thể thiếu công tác dân vận để tạo nên các phong trào thi đua ái quốc. Lịch sử đấu tranh giữ nước và xây dựng dết nước của dân tộc ta gắn liền với công tác dân vận và phát triển các phong trào thi đua. Điều này, ngay từ xa xưa cha ông ta đã quan niệm "Dân là gốc" và căn dặn "Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ; đó là thượng sách giữ nước", "Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân"... Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc cũng như trong thời bình xây dựng đất nước, công tác dân vận ngày càng có ý nghĩa xã hội to lớn, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp tục kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc ta; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về dân vận, thời gian tới cần thực hiện tốt một số chủ trương, nhiệm vụ chính sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn bốn quan điểm đã ghi rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, số 08B-NQ/HNTW ngày 27-3-1990 về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân", là: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; động lực thúc đẩy phong trào cách mạng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, gắn nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân; hình thức tập hợp quần chúng phải đa dạng và phong phú; trách nhiệm công tác quần chúng là của toàn Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, trong đó Đảng giữ vai trò nòng cốt.
Hai là, công tác quần chúng nói chung, công tác dân vận nói riêng phải hướng vào thúc đẩy, tạo môi trường đoàn kết, tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài, là nguồn sức mạnh và động lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước theo hướng kinh tế tri thức. Thực hiện đoàn kết các giai cấp, tầng lớp xã hội, phát huy sức mạnh của cả cộng đồng, lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" làm điểm tương đồng; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các tầng lớp, các giới, các thành phần xã hội; gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng, hội nghề nghiệp, khắc phục tình trạng hành chính hóa, hình thức. Công tác dân vận phải theo phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân". Vận động các phong trào thi đua ái quốc phù hợp với điều kiện mới theo tinh thần Chỉ thị số 35-CT/TW và Chỉ thị số 39-CT/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn cách mạng mới. Phong trào thi đua phải có nội dung cụ thể, mục tiêu thiết thực gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong lĩnh vực kinh tế, thi đua phải hướng vào nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục giải phóng mạnh mẽ hơn nữa sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế với cơ cấu phù hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng kinh tế tri thức, khuyến khích làm giàu chính đáng và thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, thi đua phải hướng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, phát triển giáo dục toàn diện, tạo động lực tự giác học tập thường xuyên, học tập suốt đời; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo đảm và nâng cao công tác y tế, chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trong lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, thi đua phải hướng vào xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, cải cách tư pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc chủ quyền của quốc gia. Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội phải quan tâm vận động xây dựng phong trào thi đua sâu rộng đến tận cơ sở và người lao động, khơi dậy ý thức tự giác và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân trên các lĩnh vực, các ngành, các cấp, làm cho thi đua trở thành quyền lợi và trách nhiệm của mọi người dân.
Bốn là, xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy công tác quần chúng nói chung, công tác dân vận nói riêng, theo phương châm gọn, nhẹ nhưng hoạt động có hiệu lực và hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu công tác quần chúng, công tác dân vận trong giai đoạn cách mạng mới; bổ sung, bố trí đủ cán bộ có năng lực, có "nghệ thuật" và chuyên môn làm công tác dân vận, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời có khả năng tham mưu, nghiên cứu về lĩnh vực dân vận trong thều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Cần xác định công tác dân vận là một nghề để từ đó có quy hoạch và hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thích hợp.
Năm là, nâng cao nhận thức của toàn xã hội, trước hết là của cấp ủy đảng, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác dân vận, nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân tham gia vào công tác quần chúng, công tác dân vận dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Đồng thời với việc nâng cao nhận thức, phải khẩn trương xây dựng và ban hành hệ thống chính sách cụ thể, phù hợp với các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, dân tộc... và hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các ngành, các cấp, các địa phương, đơn vị triển khai công tác dân vận trong thời gian tới. Tăng cường phối, kết hợp với các ngành, các cấp, các lĩnh vực trong công tác dân vận. Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, nhân rộng các điển hình thi đua tiên tiến...
Sáu là, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phải thực sự "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Chỉ khi nào mọi người Việt Nam, trước hết là các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, thực sự làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hiện tốt quan điểm của Người: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong" thì mới vận động được tất cả mọi người dân, tạo nên các phong trào thi đua ái quốc mới, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc ta, nhất định công tác quần chúng nói chung, công tác dân vận nói riêng sẽ phát triển lên một tầm cao mới "góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn.
_________
* Bài đăng nên Tạp chí Dân vận, số tháng 9-2010.
** Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.285, 286.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.276.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.698.
TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ HỮU CƠ GIỮA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN TẠO CƠ SỞ ĐỂ THỰC HIỆN TỐT QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN* VŨ TRỌNG KIM*
Thấu suốt quan điểm: Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết, là "tối thượng", Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã chỉ rõ: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"1, "...quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân"2. Nước lấy dân làm gốc.
“Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"3.
Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí và vai trò to lớn của nhân dân trong lịch sử. Đảng và Bác Hồ đặt niềm tin trọn vẹn vào nhân dân: "đem sức ta mà giải phóng cho ta". Có dân tộc anh hùng, có Đảng quang vinh mới có Cách mạng Tháng Tám thành công, lần lượt đánh thắng các đế quốc xâm lược và ngày nay vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dân làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong sự nghiệp đổi mới ngày hôm nay nói riêng. Nhưng muốn phát huy được quyền làm chủ của nhân dân thì phải có sự lãnh đạo của Đảng. Đó là tất yếu khách quan. Đó là ý chí và nguyện vọng của nhân dân, mong muốn Đảng ta luôn làm tròn vai trò là "người cầm lái", "người dẫn đường", bởi vì nhân dân hiểu rõ Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền, xác lập và tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo cơ sở thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân.
Trước hết, nói về sự lãnh đạo, Đảng ta phải nâng tầm vai trò chính trị, ưu thế chính trị trong mọi mặt đời sống xã hội, phải chứng tỏ phẩm chất, năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền trong điều kiện mới. Ngày nay, sự phát triển và thay đổi thời đại không ngừng tăng thêm nội dung và yêu cầu mới đối với một chính đảng. Bởi vậy, Đảng phải thật sự trong sạch, thật sự vững mạnh và luôn luôn tìm thấy sức sống mới trong việc kiên trì và kiện toàn chế độ tập trung dân chủ. Đó là điều kiện hoàn toàn đúng đắn. Chế độ tập trung dân chủ của Đảng là sự kết hợp hữu cơ của dân chủ và sự tập trung trong Đảng. Dân chủ là cơ sở khách quan của sự tập trung, tập trung là yêu cầu tất yếu của dân chủ. Cho dù hoàn cảnh nào, dân chủ tách rời tập trung hay tập trung tách rời dân chủ thì chế độ tập trung dân chủ ấy đều gặp phải khó khăn, lệch lạc.
Về sự lãnh đạo của Đảng ta hiện nay - nằm trong đặc thù hệ thống thể chế của hệ thống chính trị một đảng - điều kiện cần là gì? Phải chăng, đã đến lúc có một hệ thống thể chế chung cho cả hệ thống chính trị để điều chỉnh và định hướng hoạt động theo yêu cầu và mục tiêu chung. Điều đáng chú ý là, chúng ta đã có cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Trong hệ thống chính trị, Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo sự phối hợp hài hòa và nhịp nhàng giữa các tổ chức. Sự quan hệ hữu cơ đó thể hiện bằng đường lối, chính sách, bằng việc xây dựng bộ máy, bảo đảm cơ chế làm việc và cơ chế vận hành thông suốt và hiệu quả.
Trong thời kỳ đổi mới, ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã vạch ra lộ trình đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, từ đổi mới tư duy đến đổi mới kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế phải không ngừng từng bước đổi mới chính trị, đổi mới các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, và Đảng chủ trương đổi mới hệ thống chính trị trước hết phải đổi mới bộ máy nhà nước. Khâu mấu chốt cần tập trung chính là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở cấp trung ương và chính quyền ở cấp địa phương.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết các vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh: lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch các chương trình công tác lớn của Nhà nước; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bố trí đúng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ. Trên thực tế, nhờ vào chủ trương đúng đắn đó, bộ máy nhà nước đã có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, đội ngũ nhân sự và hệ thống thể chế. Chính sự đổi mới này làm cho Nhà nước mạnh lên, trở thành nhân tố quan trọng làm nên những thành tựu đổi mới trong 20 năm qua. Bên cạnh đó, cũng trong quá trình đổi mới, bộ máy nhà nước - kể cả bộ máy chính trị cũng bộc lộ không ít tồn tại, yếu kém. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã từng chỉ ra 5 căn bệnh của bộ máy hệ thống chính trị (cồng kềnh, biên chế tiếp tục tăng; chức năng nhiệm vụ chồng chéo; phân công, phân cấp, phân quyền không hợp lý; tính trách nhiệm trước dân trong công việc vừa không rõ ràng, vừa không nghiêm; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí không giảm). Đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân, trong đó đáng chú ý là hai nguyên nhân sau: 1) Việc đổi mới, sắp xếp lại không dựa trên cơ sở khoa học tổ chức, khoa học quản lý, khoa học pháp lý; 2) Chậm nghiên cứu tổ chức bộ máy phù hợp với một đảng cầm quyền...
Để khắc phục tồn tại, hạn chế khuyết điểm nói trên, cũng là khuyết điểm của cơ chế quan hệ phối hợp, cần sớm xây dựng và thực hiện các quy chế về sự phối hợp. Ví dụ, cần làm tốt quy chế phối hợp giữa kiểm tra Đảng với thanh tra Chính phủ để kịp thời phát hiện các vụ việc vi phạm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước; xây dựng quy chế công tác phối hợp giữa các ban tham mưu của cấp ủy đảng và cơ quan nhà nước tương ứng cùng cấp, nhất là giữa Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, giữa văn phòng cấp ủy và văn phòng hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp... Đảng bộ khối cơ quan dân vận có trách nhiệm phối hợp công tác với các ban đảng, đảng đoàn cơ quan Mặt trận, các đoàn thể, hội quần chúng nhằm phát huy vai trò đảng viên tiền phong, gương mẫu trong công tác vận động quần chúng, biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực sinh động, thành hành động tự giác của triệu triệu quần chúng. Là những cán bộ, đảng viên làm công tác vận động quần chúng, chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào tấm lòng thủy chung son sắt của đồng bào đối với Đảng. Sự thật, mỗi khi gặp khó khăn, thử thách, đồng bào ta lại nêu cao khí phách anh hùng, tinh thần cách mạng cao cả. Hơn ai hết, đồng bào luôn tâm niệm: Nhân hòa cao hơn địa lợi, địa lợi cao hơn thiên thời.
Dân là chủ. Từng giờ, từng ngày chúng ta phải quán triệt sâu sắc hơn tinh thần và biện pháp phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Để phát huy quyền dân chủ về kinh tế - xã hội, Chính phủ tác động mạnh mẽ hơn vào quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia phát triển kinh tế, làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội. Các công việc xã hội do Chính phủ quản lý phải nhằm bảo đảm quyền lợi cho công nhân như giữ gìn trật tự xã hội, điều hòa lợi ích xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, giải quyết tình trạng cấp bách xã hội. Chính sách xã hội là một trong những biện pháp cơ bản để chính phủ can thiệp vào xã hội và quyết định các chính sách quản lý xã hội của Chính phủ. Cốt lõi của chính sách xã hội là cung cấp phúc lợi có kết quả trực tiếp cho công dân, chăm lo người nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Cụ thể là các chính sách: bảo hiểm xã hội, cứu trợ công cộng, dịch vụ sức khỏe và phúc lợi, nhà ở, nước sạch, môi trường, v.v.. Mặt khác, cần phát huy vai trò quản lý xã hội của cộng đồng dân cư theo tinh thần vận dụng và nâng cấp Nghị định về Quy chế dân chủ ở cơ sở, đề cao vai trò tự quản lý của nhân dân.
Trong cơ chế phối hợp, phải đề cao chủ thể Quốc hội. Quyền lực cao nhất của Quốc hội do nhân dân trao cho; do đó trong mối quan hệ với Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác, Quốc hội phải có trách nhiệm cao nhất trước nhân dân, và hơn nữa, phải liên đới chịu trách nhiệm trước nhân dân về hoạt động của các cơ quan nhà nước khác mà Quốc hội phê chuẩn hoặc thành lập. Quyền lực tối thượng thuộc về nhân dân phải thực hiện bằng phương thức hiệu quả hơn, ngoài việc cải tiến, hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, cần phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân (như thăm dò dư luận, trưng cầu ý dân...).
Trong mối quan hệ đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất to lớn trong việc tập hợp lực lượng và phát huy sức mạnh sáng tạo của nhân dân. Thông qua tổ chức của mình, nhân dân thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội đối với các vấn đề được nêu ra, theo quy định của pháp luật. Bởi vậy, Đảng cần đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là giúp Mặt trận và các đoàn thể nhân dân xác định đúng mục tiêu, phương hướng phát triển và nội dung hoạt động từng thời kỳ; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể trong xây dựng, đổi mới tổ chức hoạt động của mình. Theo đó, đoàn thể tập hợp đoàn viên, hội viên sinh hoạt tự nguyện, tự chịu trách nhiệm nhằm nâng cao dân trí, mở rộng không gian giao lưu sinh hoạt bổ ích, hòa quyện nhau trong không khí đồng thuận. Đó chính là văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam cần nâng niu, gìn giữ và phát huy.
Mối quan hệ hữu cơ trong hệ thống chính trị được thể hiện bởi các bộ phận cấu thành, có khả năng phối hợp để tạo ra sức mạnh. Một tổ chức mạnh là tổ chức luôn thích ứng với mọi thử thách phức tạp của xã hội. Sự lỗi thời của tổ chức luôn là lực cản sự cải tiến xã hội; ngược lại, tổ chức thúc đẩy xã hội phát triển đi lên, đó chính là lý do tồn tại tổ chức. Vì vậy, khi củng cố xây dựng tổ chức phải tính đến đầy đủ các mối quan hệ, quan hệ giữa tổ chức và các cá nhân thành viên, quan hệ giữa tổ chức với xã hội, với sự vận động và phát triển xã hội. Tất cả những mối quan hệ đó phải được đặt trong khuôn khổ, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức, trong những mục tiêu chung của các tổ chức và phải được cố định trong những khuôn khổ của các thể chế pháp lý. Bảo đảm không một tổ chức nào vượt quá giới hạn thẩm quyền, không một tổ chức nào hoạt động mà không bị giám sát. Giám sát chức năng hoạt động của tổ chức và giám sát hành vi thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức luôn gắn kết với nhau. Từng cá nhân cán bộ, công chức đề cao trách nhiệm được ràng buộc bởi pháp luật, nhất là trách nhiệm với người đứng đầu phải rõ ràng, dứt khoát. Có nhiều vụ tham nhũng như vụ PMU18 - cho thấy cơ chế quản lý, thanh tra, giám sát không chặt chẽ. Kẽ hở để bọn tham nhũng chui lọt chính là những quan chức có thế lực và những kẻ tha hóa, biến chất. Chúng ta lên án và góp phần giải quyết, lập lại trật tự để khôi phục lòng tin của nhân dân.
Thước đo hiệu quả của hệ thống chính trị trong mối quan hệ hữu cơ phải bằng trách nhiệm thực hiện chức năng của từng tổ chức và của cả hệ thống; bằng sự đánh giá của xã hội, không thể kéo dài tình trạng tự đánh giá, tự kiểm điểm, phê bình bằng các báo cáo tổng kết thành tích chung chung, hình thức. Cái cốt lõi là làm cho thể chế có năng lực nội sinh cao nhất, tức là phải cho nó một thể chế tốt nhất, một nguồn nhân lực vận hành thể chế tối ưu, làm cho tổ chức có khả năng tích tụ được năng lực hoạt động mới trong quá trình hoạt động, để thích ứng được với mọi biến đổi của môi trường xung quanh.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo. Sản phẩm bảo đảm chất lượng của cả hệ thống chính trị nằm trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối chính trị của Đảng trên mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua, nhất định nhân dân ta sẽ giành được thắng lợi to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa yêu quý của chúng ta.
_________________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 5-2006
* Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 276.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 698, 410.
MẤY VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC* NGUYỄN THẾ TRUNG**
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động quần chúng, với tinh thần "có dân là có tất cả", "dân ủng hộ ta ít, ta thắng lợi ít, dân ủng hộ ta hoàn toàn, ta thắng lợi hoàn toàn", trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng, Đảng ta luôn luôn xác định công tác vận động quần chúng là vấn đề chiến lược của cách mạng, là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên và lâu dài của từng tổ chức trong hệ thống chính trị của nước ta; là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và của mỗi một người dân. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, có những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và đối tượng của cách mạng khác nhau; vì vậy, công tác vận động quần chúng cũng được thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn của cuộc sống và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta tiếp tục phát huy những bài học kinh nghiệm của công tác vận động quần chúng, khơi dậy các nguồn lực của đất nước nên đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
I. TRONG NHỮNG NĂM QUA, VIỆC ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG CỦA ĐẢNG ĐÃ THỰC SỰ GÓP PHẦN THÚC ĐẨY SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Trước hết, đổi mới về nội dung.
Năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu một mốc son lịch sử trong tiến trình xây dựng và đổi mới đất nước. Để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội, ngày 27-3-1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW về "Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân". Trong gần 30 năm qua, Đảng đã có nhiều chủ trương để đổi mới lĩnh vực công tác dân vận của hệ thống chính trị, thể hiện rõ trên các mặt sau đây:
1. Mục tiêu của công tác dân vận ngày càng rõ hơn. Trước hết, công tác dân vận nhằm tập hợp, giác ngộ, đoàn kết và huy động lực lượng của các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ mà Đảng đề ra là kháng chiến giành độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc (trước đây) và ngày nay là vận động, tập hợp nhân dân xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
2. Chủ trương, chính sách, giải pháp công tác vận động quần chúng ngày càng phong phú, hoàn chỉnh, đi sâu từng lĩnh vực, từng đối tượng nhằm vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ theo nghị quyết của Đảng, đó là:
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, ngày càng được trí thức hóa, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao.
Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở đó: "Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài".
Xây dựng đội ngữ trí thức lớn mạnh, chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam có lòng yêu nước, tự cường dân tộc, kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì cộng đồng, có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế, có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất nước.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, có tinh thần dân tộc, giác ngộ chính trị, văn hóa kinh doanh, có trách nhiệm xã hội cao, có đủ năng lực, trình độ để lãnh đạo, quản lý các doanh nghiệp hoạt động có chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao, liên kết chặt chẽ, tham gia tích cực vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và toàn cầu...
Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ. Nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế...
Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển... Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước...
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và tình hình thực tế trong nước và quốc tế, Đảng ta đã đổi mới nội dung lãnh đạo, định hướng hoạt động cho từng giai cấp, từng tầng lớp nhân dân nên hiệu quả lãnh đạo có những chuyển biến tích cực (đối với mỗi tổ chức chính trị - xã hội, Đảng đều có nghị quyết để lãnh đạo).
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và các hội quần chúng phát triển đa dạng và từng bước đổi mới hoạt động. Trong quá trình đổi mới, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng đã đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và đáp ứng lợi ích của đoàn viên, hội viên và đối tượng vận động, do đó mà tăng được khả năng tập hợp quần chúng vào tổ chức.
4. Các cấp ủy đảng đã tăng cường công tác dân vận, kiện toàn, củng cố các ban dân vận của cấp ủy đảng.
Ở Trung ương, tỉnh, huyện, thị xã đều có ban dân vận; ở xã, phường, thị trấn có khối dân vận. Ngày 25-2-2010, Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Quyết định số 290-QĐ/TW "về việc ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị". Quy chế đã xác định rõ nội dung, phương thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và từng thành viên trong hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương đối với công tác dân vận. Từ khi có Quy chế, quan hệ phối hợp công tác dân vận của hệ thống chính trị chặt chẽ và hiệu quả hơn.
5. Đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng ngày càng được các cấp ủy quan tâm nên chất lượng được nâng lên một bước. Công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ được tăng cường. Nội dung bồi dưỡng được chỉ đạo nghiên cứu, biên soạn có chất lượng tốt hơn.
Về phương thức công tác vận động quần chúng cũng có sự đổi mới theo hướng trực tiếp với cơ sở, gần dân, sát dân hơn, được thể hiện trên mấy vấn đề sau:
1. Nâng cao chất lượng các định hướng của Đảng đối với các tổ chức quần chúng về chính trị, tư tưởng, nội dung và phương thức hoạt động, tổ chức và cán bộ. Các định hướng đó được cụ thể hóa cho từng giai cấp (công nhân, nông dân), từng tầng lớp nhân dân như trí thức, doanh nhân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, người Việt Nam ở nước ngoài. Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục và chứng minh cho nhân dân thấy tính đúng đắn, tính khoa học trong đường lối, quyết sách của mình.
2. Đảng quan tâm hơn trong việc lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác vận động quần chúng thành các văn bản quy phạm pháp luật để tổ chức thực hiện. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và cân đối nguồn lực, kinh phí cho tổ chức và hoạt động của các đoàn thể nhân dân.
3. Đảng quan tâm phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu và có kinh nghiệm, có kỹ năng vận động quần chúng để giới thiệu, phân công phụ trách công tác vận động quần chúng.
4. Coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các nghị quyết của Đảng về công tác vận động quần chúng. Thường xuyên kiểm tra, 5 năm tiến hành sơ kết, 10 năm tổng kết việc thực hiện các nghị quyết theo quy định.
5. Tăng cường lãnh đạo sự phối hợp và thường xuyên đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình phối hợp công tác dân vận giữa các tổ chức, giữa các cơ quan chính quyền với các đoàn thể nhân dân; giữa các lực lượng tham gia làm công tác dân vận trên địa bàn với già làng, trưởng bản, người có uy tín...
6. Đổi mới phương thức, hình thức trực tiếp trao đổi, tiếp xúc với nhân dân; tổ chức đối thoại trực tuyến; tổ chức các diễn đàn trao đổi, chất vấn; xây dựng trang thông tin điện tử với các chuyên mục như: dân hỏi - chính quyền trả lời; dân hỏi - bộ trưởng trả lời... đã thực sự nâng cao hiệu quả về công tác vận động quần chúng và niềm tin của dân đối với Đảng.
Tuy nhiên, công tác vận động quần chúng của hệ thống chính trị cũng còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại, khuyết điểm, nổi lên là:
Cơ chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ đã được xác định từ lâu nhưng chưa được cụ thể hóa đầy đủ và đồng bộ thành một hệ thống quy định, thể chế thích hợp. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương phép nước còn bị xem thường, thậm chí còn có những hành vi lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, mối quan hệ giữa Đảng với dân. Phương thức tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân không ít nơi vẫn còn tình trạng hành chính hóa, chậm đổi mới, một số cán bộ đoàn thể bị "công chức hóa", chưa thật gần với quần chúng nhân dân. Đảng còn lãnh đạo nhân dân bằng sự gương mẫu của đảng viên nhưng một bộ phận cán bộ, đảng viên lại thiếu gương mẫu, vi phạm dân chủ, tham nhũng, làm giàu bất chính gây bức xúc trong các tầng lớp nhân dân.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC ĐỔI MỚI NỘI DUNG, PHƯƠNG THỨC CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền về công tác vận động quần chúng của Đảng trong tình hình mới. Thường xuyên phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào thi đua "Dân vận khéo" trong xây dựng nông thôn mới và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội ở cơ sở. Có nhiều hình thức tuyên truyền về truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc; tăng cường giáo dục lòng yêu nước, ý thức chính trị và trách nhiệm xã hội của công dân.
2. Tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước; ban hành các chủ trương, chính sách hợp lòng dân; khuyến khích nhân dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng, trí tuệ và các lợi thế trong dân, mở rộng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng thu nhập và cải thiện đời sống.
Tiếp tục đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính phục vụ nhân dân và doanh nghiệp. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại, tháo gỡ khó khăn cho nhân dân; hỗ trợ vốn, vật tư... để nhân dân phát triển sản xuất, kinh doanh, ổn định cuộc sống. Giải quyết hài hòa chính sách đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là trong đền bù, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng; thực hiện chính sách công bằng, bảo đảm lợi ích cho các tầng lớp nhân dân khi tham gia vào các chương trình kinh tế, xã hội của đất nước.
Nâng cao vai trò, ý thức và trách nhiệm của cán bộ, công chức, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong công tác dân vận. Phối hợp tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới phong cách dân vận của cán bộ, công chức, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc giao tiếp hành chính và thực hiện tốt trách nhiệm công vụ trong giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân.
Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tiếp dân, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức vi phạm pháp luật, góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng trong thời kỳ mới.
3. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; trách nhiệm của đoàn viên, hội viên; trách nhiệm của già làng, trưởng bản, trưởng dòng họ, người có uy tín trong công tác vận động quần chúng của Đảng.
Tăng cường phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và các lực lượng trên địa bàn về công tác vận động quần chúng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong giám sát, góp ý cho cán bộ, công chức và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh.
4. Thực hiện rộng rãi và có hiệu quả các chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân cho sự nghiệp đổi mới đất nước; tăng cường mối quan hệ máu thịt, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân. Tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các tổ chức và bạn bè quốc tế, góp phần tạo sự đồng thuận và sức mạnh mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
5. Tiếp tục cụ thể hóa phương châm: dựa vào dân để xây dựng Đảng; sớm xây dựng và ban hành các quy chế, quy định về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trước khi ban hành; xây dựng và ban hành cơ chế để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; phát huy trách nhiệm của nhân dân trong xây dựng Đảng và thực hiện các chương trình kinh tế, xã hội của đất nước.
6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng, đối với các tầng lớp nhân dân, tiếp tục huy động, tập hợp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tạo thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, ra sức xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ toàn vẹn, vững chắc chủ quyền biên giới, hải đảo của Tổ quốc.
Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung và kịp thời ban hành các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác vận động quần chúng, về các giai cấp, các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới.
7. Quan tâm xây dựng nguồn, quy hoạch, tuyển chọn, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ vừa có trình độ, năng lực, vừa có kinh nghiệm, kỹ năng vận động quần chúng, gương mẫu, có uy tín để giới thiệu, bố trí công tác ở Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.
Chỉ đạo các trường đào tạo cán bộ đảng, các trung tâm chính trị, các trường đào tạo chuyên ngành về nội dung, chương trình giảng dạy về công tác dân vận, về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, về tăng cường mối quan hệ Đảng và dân, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
____________________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 8-2012
* Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vân Trung ương.
DÂN VẬN KHÉO - GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI NGUYỄN DUY VIỆT*
"Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020" được Thủ tướng Chính phủ phát động thành phong trào thi đua "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới". Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng đối với nhiệm vụ chiến lược của cách mạng và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chương trình đã và đang được đông đảo các tầng lớp nhân dân, các cấp, các ngành, các địa phương trong cả nước hưởng ứng, tích cực triển khai tổ chức thực hiện.
Ban Dân vận Trung ương đã có Hướng dẫn số 133 ngày 6-5-2011, Hướng dẫn số 43 ngày 10-2-2012 về công tác dân vận và phong trào thi đua "Dân vận khéo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới". Trên cơ sở đó, nhiều ban dân vận tỉnh, thành phố đã tham mưu cho cấp ủy ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, để làm rõ thêm về nhận thức, giải pháp tổ chức thực hiện phong trào "Dân vận khéo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới", cần trao đổi để nắm vững thêm một số nội dung chủ yếu sau đây:
Trước hết, về phong trào Dân vận khéo. Có thể nói phong trào "Dân vận khéo" xuất phát từ sáng kiến của địa phương, cơ sở. Từ năm 1999 đến nay, cứ đến ngày 15/10 hằng năm (Ngày Dân vận của cả nước), các cấp, các ngành lại cùng nhau ôn lại bài báo Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Sự thật ngày 15-10-1949. Kết luận bài báo, Bác viết: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công"1. Với cách diễn đạt đơn giản, dễ hiểu, Bác Hồ đã chỉ rõ: muốn phát huy được lực lượng to lớn của toàn dân thì phải thực hành dân vận khéo. Thấm nhuần lời dạy của Bác, lúc thuận lợi cũng như khi khó khăn, Đảng ta luôn coi trọng công tác dân vận, vận động quần chúng; luôn quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên phải có quan điểm đúng đắn, tôn trọng, gắn bó mật thiết với nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân; đồng thời phải dày công, kiên trì, có nhiều hình thức, phương pháp khéo vận động, tập hợp phát huy sức mạnh của nhân dân. Nhờ vậy, nhân dân ta luôn luôn tin tưởng, đi theo con đường cách mạng do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, không sợ hy sinh, gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, làm nên những thắng lợi to lớn, vĩ đại.
Qua học tập và nhận thức sâu sắc về tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, một số địa phương, cơ sở đã có sáng kiến phát động phong trào thi đua "Dân vận khéo", nhiều nơi còn tổ chức các cuộc thi "Dân vận khéo" và đề ra những tiêu chí để cho công tác dân vận và các phong trào quần chúng phấn đấu, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận. Qua nghiên cứu, tổng kết từ thực tiễn, đầu năm 2009, Ban Dân vận Trung ương đã chính thức phát động phong trào "Dân vận khéo" trên phạm vi toàn quốc. Phong trào được các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân hoan nghênh, hưởng ứng tích cực và có nhiều giải pháp sáng tạo trong tổ chức thực hiện. Đã xuất hiện nhiều mô hình, điển hình được biểu dương, khen thưởng, rút kinh nghiệm để nhân rộng. Phong trào "Dân vận khéo" đã đi vào nền nếp và phát huy hiệu quả ở nhiều địa phương, đơn vị.
Tuy nhiên, cũng cần trao đổi thêm rằng: Dân vận khéo là đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm làm công tác dân vận phải học tập, bồi dưỡng, rèn luyện để có được phương pháp công tác, kỹ năng vận động quần chúng nhuần nhuyễn, phù hợp, hiệu quả nhất. Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị (Ban hành kèm theo Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25-2-2010 của Bộ Chính trị) đã xác định: "Công tác dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức chính trị, của mọi cán bộ, đang viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang". Như vậy, đương nhiên là tất cả mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện công tác dân vận phải phấn đấu để thực hành dược dân vận khéo và phong trào "Dân vận khéo" phải là của các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức; trong đó, ban dân vận các cấp ủy là cơ quan tham mưu đề xuất với cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo phong trào.
Phong trào "Dân vận khéo" phải được thực hiện ở mọi nhiệm vụ chính trị của các địa phương, đơn vị và ở mọi lĩnh vực hoạt động xã hội; nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản của thời kỳ mới và những lĩnh vực có nhiều khó khăn, có nhiều liên quan đến tâm tư, nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân.
Phong trào "Dân vận khéo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới" giai đoạn 2010 - 2020 nằm trong phong trào "Dân vận khéo" nói chung và cụ thể hóa công tác dân vận, thiết thực hưởng ứng phong trào thi đua "Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới" do Thủ tướng Chính phủ phát động. Sau khi có hướng dẫn của Ban Dân vận Trung ương, công tác dân vận trong thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới đã được các tỉnh, thành triển khai thực hiện. Qua khảo sát, nghiên cứu và trao đổi với một số địa phương cho thấy: việc tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia và công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới nói riêng, nhất là ở cơ sở, do thời gian triển khai thực hiện còn ngắn nên còn có những hạn chế cần khắc phục, như: Nhận thức của cán bộ, nhân dân về xây dựng nông thôn mới tuy đã có chuyển biến, nhưng chưa thực sự thấy hết các nội dung, yêu cầu xây dựng nông thôn mới; còn nặng về xây dựng cơ sở vật chất, ỷ lại, chờ đợi vào đầu tư của Nhà nước; chưa thật tích cực trong việc tìm giải pháp để huy động tổng hợp các nguồn lực, các nguồn vốn và bố trí sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả. Trong tổ chức thực hiện, chưa hình dung, hoạch định hết các công việc cần làm, nên còn lúng túng trong việc sắp xếp, điều hành. Mặt trận và các đoàn thể bước đầu tích cực tham gia, song nhìn chung còn lúng túng trong công tác vận động, tổ chức phong trào, phát huy sức mạnh, vai trò của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần quan tâm chú ý một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, nhận thức thấu đáo nội dung của xây dựng nông thôn mới để hoạch định cho hết những công việc cần làm và xác định cách làm phù hợp. Muốn có nông thôn mới phải bảo đảm được ba yêu cầu cơ bản:
- Phải có diện mạo nông thôn xanh - sạch - đẹp, có kết cấu hạ tầng từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu sản xuất phát triển và cuộc sống văn minh, hiện đại của người dân. Chẳng những phải có những công trình điện, đường, trường, trạm, giao thông, thủy lợi, công trình văn hóa, thể thao, vệ sinh môi trường có chất lượng theo tiêu chuẩn, mà trong từng nhà dân cũng phải được chỉnh trang lại tường dậu, nhà ở, công trình vệ sinh, chăn nuôi, chuồng trại, cải tạo vườn tạm, ăn ở gọn gàng, ngăn nắp, sạch đẹp...
- Phải có con người mới: trước hết đòi hỏi đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể phải đổi mới cả tư duy, phong cách, nâng cao năng lực lãnh đạo, chủ động trong tổ chức thực hiện, vận động quần chúng thực hiện có hiệu quả khối lượng công việc đồ sộ của Chương trình xây dựng nông thôn mới. Mặt khác cũng phải làm cho người dân có nhận thức đúng đắn vai trò chủ thể, phải năng động, tránh ỷ lại; đổi mới và thích ứng với cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, mạnh dạn trong đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại, phát triển doanh nghiệp; chủ động trong xây dựng đời sống văn hóa mới.
- Nông thôn mới phải làm cho dân giàu; không ngừng tăng thêm việc làm, thu nhập và có điều kiện để vươn tới một cuộc sống sung túc về cả vật chất và tinh thần; đoàn kết xóm làng, văn minh, hiện đại.
Qua đó thấy rằng, những công việc phải làm để thực sự có được nông thôn mới là một khối lượng công việc rất lớn. Thậm chí có những việc mà trong 19 tiêu chí chưa cụ thể hóa hết được. Song ngược lại, có rất nhiều việc có thể làm được hoặc cần ưu tiên làm trước mà chưa đòi hỏi phải có nhiều kinh phí hoặc thậm chí chưa cần phải có kinh phí, nhưng cần phải kiên trì vận động, hướng dẫn nhân dân, tổ chức thành phong trào quần chúng rộng rãi. Sự chuyển biến về con người trong xây dựng nông thôn mới là yêu cầu cơ bản, sâu sắc về chất, có vai trò quyết định cho sự thành công của Chương trình và sự phát triển bền vững ở nông thôn.
Hai là, việc huy động vốn và bố trí sử dụng vốn. Trong đề án xây dựng nông thôn mới, mỗi xã thường có nhu cầu vốn đến trên dưới hai trăm tỷ đồng; trong đó, có nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn khác. Tuy nhiên hiện nay, phần lớn địa phương dang thiếu vốn đầu tư. Trong điều kiện còn thiếu vốn thì việc lựa chọn sắp xếp, ưu tiên vốn cho những công việc phải đầu tư ít và tạo ra sự chuyển biến lớn là hết sức cần thiết. Kinh nghiệm ở một số xã điểm của cả nước, đã ưu tiên vốn hỗ trợ nhân dân ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển sản xuất; hỗ trợ chỉnh trang cải tạo vườn tạp, du nhập ngành nghề, phát triển kinh tế hộ, phát triển doanh nghiệp... Một đồng vốn bỏ ra thường thu hút hàng chục, vài chục lần các đồng vốn khác của nhân dân huy động vào đầu tư. Mặt khác, nhân dân phấn khởi được hưởng lợi trực tiếp từ Chương trình và hăng hái phát triển sản xuất kinh doanh tăng thêm thu nhập lại càng có điều kiện đóng góp, đầu tư cho Chương trình. Điều quan trọng hơn là nhanh chóng tạo ra phong trào sôi nổi của quần chúng và phát triển nông thôn bền vững từ chính người dân.
Hiện nay cũng có xã đã huy động nguồn vốn tín dụng hàng trăm tỷ đồng cho dân vay chủ yếu là đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Song ngược lại, nhiều nơi chưa tích cực huy động được nguồn vốn này. Để tăng được nguồn vốn vay tín dụng, một mặt phải tháo gỡ về cơ chế, thủ tục cho vay, nhưng rất cần thiết phải hướng dẫn cho nhân dân biết sử dụng và phát triển sản xuất kinh doanh để sinh lời và hoàn trả vốn, lãi cho ngân hàng.
Ba là, việc chọn điểm để chỉ đạo công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới là hết sức cần thiết. Mỗi tỉnh nên chọn một, hai hoặc ba xã nằm trong những xã được tỉnh chọn làm điểm của Chương trình. Yêu cầu của chỉ đạo điểm là để làm rõ những nội dung công tác vận động quần chúng trong xây dựng nông thôn mới. Từ việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ, trách nhiệm tham gia, giám sát của nhân dân trong mọi công việc của Chương trình đến việc xây dựng cơ chế đầu tư hỗ trợ, khuyến khích nhân dân tham gia các công việc và phân công rõ trách nhiệm cho các tổ chức đảng, chính quyền đoàn thể ở xã, thôn để thống nhất, phối hợp đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó, cần thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để chỉ đạo nhân rộng. Ban dân vận các tỉnh, thành ủy nên tổ chức khảo sát cụ thể, xác định những công việc cần làm, chọn khâu đột phá để xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện. Kinh nghiệm ở một số nơi, khi xây dựng kế hoạch, xuống cơ sở thì ban dân vận, Mặt trận, đoàn thể của tỉnh "cùng ngồi một xe" xuống xã để thống nhất xây dựng một kế hoạch thực hiện và hướng dẫn cho mặt trận, đoàn thể ở xã, thôn trực tiếp thực hiện.
________________
* Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.700.
TIẾP TỤC THỰC HIỆN TỐT CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG THỜI KỲ MỚI* TS. NGUYỄN VĂN HÙNG**
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta luôn luôn khẳng định: Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những nguyên tắc cơ bản này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12-8-2003 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về "Công tác dân tộc" và khẳng định rõ trong Kết luận số 57-KL/TW ngày 3-11-2009 của Bộ Chính trị khóa X. Trên cơ sở phân tích, đánh giá nghiêm túc, sâu sắc về những kết quả, thành tựu về công tác dân tộc; đồng thời chỉ rõ những hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân khách quan, chủ quan của công tác dân tộc nói chung và việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc nói riêng, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ hơn một số chủ trương, chính sách lớn về công tác dân tộc, nhằm thúc đẩy nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc. Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiễn có thể thấy những nội dung về chủ trương, chính sách dân tộc được xác định:
Một là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và cho đất nước, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển và hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, trước hết là hoàn thành việc xây dựng các tuyến đường giao thông đến trung tâm các xã, đường điện, trường học, trạm y tế, chợ, các công trình nước sạch, v.v.. Đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, nhất là đồng bào ở các xã đặc biệt khó khăn trong các huyện nghèo nhất hiện nay. Tập trung giải quyết tốt nhu cầu về đất sản xuất, đất ở, nhà ở; giải quyết cơ bản tình trạng du canh, du cư, di dân tự do, nhà ở dột nát, thiếu lương thực, thiếu nước sinh hoạt; ngăn chặn, chấm dứt nạn phá rừng làm nương rẫy. Đầu tư xây dựng khu kinh tế quốc phòng hoặc khu dân cư tập trung cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng miền núi, biên giới, hải đảo. Xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ và phát triển các dân tộc thiểu số còn rất ít người, đang gặp khó khăn.
Phát huy tiềm năng và lợi thế của từng vùng, phát triển đa dạng các mô hình kinh tế hộ gia đình theo hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, phát triển hàng hóa xuất khẩu; có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số, hỗ trợ đồng bào phát triển chăn nuôi, phát triển kinh tế rừng... Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và áp dụng các cơ chế quản lý thích hợp nhằm phát huy sức mạnh nội lực của đồng bào các dân tộc đóng góp vào sự nghiệp xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, chú trọng các chính sách phát triển nguồn nhân lực đối với vùng dân tộc thiểu số. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, củng cố vững chắc chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học; nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, nhất là hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú. Tăng cường đầu tư và nhân rộng mô hình nhà nội trú dân nuôi, các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông có hình thức dân nuôi ở khu vực miền núi. Bổ sung, sửa đổi các chính sách đối với trường phổ thông dân tộc nội trú, chính sách cử tuyển, dự bị đại học, bố trí sử dụng cán bộ dân tộc thiểu số. Phát triển hệ thống trường phổ thông trung học dân tộc nội trú ở cấp huyện; củng cố, tăng cường xây dựng hệ thống trường dự bị đại học, các lớp dự bị đại học để đào tạo nguồn nhân lực cho con em đồng bào vùng dân tộc thiểu số, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số, khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn ưu tiên tuyển dụng lao động là con em dân tộc thiểu số vào làm việc.
Ba là, kế thừa và phát triển những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực hiện chính sách tôn trọng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Không ngừng nâng cao mọi điều kiện để đồng bào các dân tộc hưởng thụ các thành tựu văn hóa tiên tiến của nhân loại, kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp, đồng thời bài trừ những tập tục lạc hậu cản trở sự tiến bộ của các dân tộc. Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% đồng bào được nghe đài phát thanh. Thực hiện có hiệu quả các hoạt động văn hóa, thông tin, tuyên truyền ở cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số. Có chính sách đầu tư thích đáng cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, cho những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật dân tộc. Thực hiện tốt việc sưu tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Bốn là, quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến; tăng cường cơ sở khám chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn, ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chủ trương Nhà nước mua bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn. Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế tại chỗ và cán bộ y tế thôn, bản, người dân tộc thiểu số. Bằng việc ưu tiên đầu tư thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa, dân số - kế hoạch hóa gia đình... từng bước nâng cao đời sống kinh tế và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Giải quyết kịp thời những nhu cầu bức xúc về đời sống, sinh hoạt cho đồng bào các dân tộc thiểu số còn khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới các mặt hàng thiết yếu: dầu thắp, muối ăn, giấy vở học sinh, thuốc chữa bệnh, dịch vụ văn hóa... Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa, thôn, bản, buôn, làng.
Năm là, xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc và miền núi phải gắn chặt với chính sách an ninh quốc phòng ở các địa bàn xung yếu vùng sâu, biên giới, ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội. Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng khó khăn về đời sống, trình độ dân trí thấp của đồng bào và những sai sót của các cấp, các ngành trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta để kích động, chia rẽ các dân tộc nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị. Do đó, trong xây dựng chính sách dân tộc phải xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; Tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vùng dân tộc và miền núi. Tiếp tục xây dựng, phát triển chính sách đối với các khu kinh tế kết hợp quốc phòng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Thông qua các chính sách, biện pháp cụ thể, động viên đồng bào các dân tộc phát huy nội lực, ý chí tự lực tự cường, tinh thần vươn lên trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng quốc phòng, an ninh vững mạnh, xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc chính là thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng - cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc thực hiện chính sách dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay là rất quan trọng; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm vụ trọng tâm của công tác vận động đồng bào các dân tộc thiểu số là làm cho đồng bào hiểu đúng và tự giác thực hiện tốt những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cần nắm được diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng và phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc; giải quyết tốt những vấn đề thực tiễn đặt ra phù hợp với đặc điểm của từng dân tộc, từng vùng, tránh tư tưởng chủ quan, áp đặt, máy móc, hình thức và cách làm không phù hợp. Kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang với các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức vận động đồng bào các dân tộc thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mà trọng tâm là: Xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, sức khỏe cho đồng bào các dân tộc; nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị rộng khắp, vững mạnh ở vùng dân tộc. Phải coi trọng việc đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc; quán triệt phương châm: Chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc; Sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc địa phương. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền núi phải thấm nhuần sâu sắc phong cách công tác dân vận: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân"; "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". Thực hiện "4 cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng nói tiếng dân tộc) và phương thức làm công tác "Dân vận khéo", làm cho đồng bào tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
––––––––––––––––––––––––
* Bài đăng trên Tạp chí Dân số, số tháng 11-2010.
** Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương.
TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỚI CÔNG TÁC TÔN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY* NGUYỄN MẠNH HÙNG**
Là một thực thể và hình thái ý thức xã hội, tôn giáo liên quan mật thiết đến các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, văn hóa, giáo dục, đạo đức, lối sống... Chức năng của tôn giáo không chỉ là nhận thức thế giới mà còn là liên kết cộng đồng, điều chỉnh hành vi của con người. Nắm rõ vai trò và tầm quan trọng của tôn giáo và công tác tôn giáo nên ngay từ khi ra đời cho đến nay, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán trong chủ trương, chính sách tôn giáo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ hệ thống chính trị và công tác quản lý tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận nhân dân; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại các âm mưu lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ ta tuyên bố "Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết". Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc từ lần thứ II cho đến lần thứ V liên tục khẳng định quan điểm cơ bản, mang tính định hướng của Đảng về tự do tôn giáo.
Nhưng, tư duy về tôn giáo và công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta thực sự đổi mới với dấu mốc quan trọng là sự ra đời của Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị. Đảng ta thừa nhận "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài", "tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân lao động có đạo" và "đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã hội mới".
Sự đổi mới tư duy về tôn giáo của Đảng một lần nữa tiếp tục được khẳng định và phát triển cao hơn nữa trong Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 12-3-2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Nếu ở Nghị quyết số 24/NQ-TW, Đảng cho rằng "tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài, thì đến Nghị quyết số 25/NQ-TW, Đảng đã xác định tôn giáo không chỉ tồn tại lâu dài mà sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, đặc biệt là đồng hành với chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Quan điểm "lương giáo đoàn kết" một lần nữa được Đảng ta khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc". Thuật ngữ "đồng bào các tôn giáo" được dùng thay thế cho các thuật ngữ thường dùng trước đây như "tín đồ các tôn giáo", "một bộ phận nhân dân lao động có đạo" là sự phát triển mới trong nhận thức vì hai chữ "đồng bào" thể hiện rằng những người có niềm tin tôn giáo và không có tôn giáo đều chung một "bọc", đều là con em của dân tộc Việt Nam, đều là công dân của nước Việt Nam. Và để tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng chỉ rõ công tác tôn giáo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Nghị quyết cũng nêu rõ các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, nhưng cũng nghiêm cấm việc theo đạo, truyền đạo trái pháp luật.
Để thể chế hóa chủ trương của Đảng, nhiều văn bản chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề tôn giáo đã được ban hành. Nghị định số 69/HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 21-3-1991, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 14-9-1999 của Chính phủ và đặc biệt Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18-6-2004... đã tạo hành lang pháp lý, góp phần quan trọng vào việc giải quyết những vấn đề tôn giáo nảy sinh trong tình hình mới.
Với hệ thống quan điểm, chủ trương và chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, những năm qua, công tác tôn giáo của nước ta đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận:
Một là, bước đầu đã tiến hành xét duyệt và công nhận tư cách pháp nhân tôn giáo theo đúng thẩm quyền pháp lý. Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào có đạo, đáp ứng nhu cầu cần có một tổ chức tôn giáo để chăm lo việc đạo, đồng thời quản lý các tôn giáo theo Hiến pháp, pháp luật, ngăn chặn âm mưu đội lốt, giả danh tổ chức tôn giáo vì mục đích chính trị của các thế lực xấu, Nhà nước đã cấp giấy đăng ký hoạt động và công nhận về mặt tổ chức cho 31 tổ chức của 12 tôn giáo. Trong đó, 10 tôn giáo đã được chính thức thừa nhận tư cách pháp nhân. Đặc biệt, sau khi có Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành, đã có gần 1.000 chi hội Tin Lành ở Tây Nguyên được công nhận và trên 100 điểm nhóm Tin Lành ở khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc được cho phép đăng ký hoạt động. Đa số các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân, đều xây dựng cho mình đường hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc.
Hai là, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo xây, sửa nơi thờ tự theo đúng quy định của pháp luật. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, thánh thất... được xây dựng mới, trùng tu, tôn tạo ngày càng khang trang, tạo điều kiện cho tín đồ sinh hoạt tôn giáo. Từ năm 2005 đến nay, cả nước có tổng cộng 23.464 cơ sở thờ tự của các tôn giáo, trong đó xây dựng mới được trên 242 cơ sở và trùng tu, nâng cấp trên 320 cơ sở...
Ba là, có sự quản lý tương đối chặt chẽ, bảo đảm tuân thủ các quy trình, thủ tục pháp luật trong việc xét duyệt chương trình hành đạo thường xuyên và đột xuất của các tôn giáo, xét duyệt quá trình đào tạo chức sắc tôn giáo, xét duyệt quá trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo và xét duyệt một số việc thuộc hành chính đạo như thuyên chuyển, bổ nhiệm... chức sắc tôn giáo. Nhờ làm tốt công tác quản lý này mà thời gian qua, đa số các tôn giáo đã thực hiện các hoạt động hành đạo, truyền đạo và quản đạo đúng với quy định của Nhà nước. Đội ngũ chức sắc tôn giáo không ngừng tăng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Hiện cả nước có 64.079 chức sắc tôn giáo, trong đó có nhiều vị được đào tạo bậc thạc sĩ, tiến sĩ tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước.
Bốn là, làm tốt công tác vận động quần chúng, giáo dục và động viên các tổ chức tôn giáo tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động từ thiện, xã hội. Đại bộ phận quần chúng tín đồ và chức sắc tôn giáo đã ủng hộ và tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương, các phong trào xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, v.v.. Hầu hết các tôn giáo đều làm tốt công tác từ thiện nhân đạo, tổ chức quyên góp trợ giúp các Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đồng bào bị thiên tai, bão lụt, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người già cô đơn không nơi nương tựa...
Năm là, xử lý tốt các khiếu kiện, tố cáo liên quan đến nguồn gốc tôn giáo và vi phạm chính sách tôn giáo, không ngừng cảnh giác, đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Những năm qua, kẻ địch luôn lợi dụng chiêu bài tôn giáo để can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Nhà nước ta, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và gây mất ổn định chính trị. Nhiều điểm nóng tôn giáo liên quan đến Tin Lành Vàng Chứ và Tin Lành Thìn Hùng ở miền núi phía Bắc, Tin Lành Đê ga ở Tây Nguyên... đã được giải quyết tốt nhờ ý thức cảnh giác và chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Sáu là, thực hiện tốt công tác đối ngoại tôn giáo để giúp bạn bè quốc tế hiểu được thực chất tình hình tự do tôn giáo ở nước ta hiện nay. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã đến thăm và làm việc với các tổ chức tôn giáo Việt Nam, ngược lại nước ta cũng có nhiều phái đoàn tôn giáo sang thăm và làm việc tại nước ngoài. Từ năm 1993 đến năm 2008 có gần 40.000 lượt giáo sĩ Việt Nam ra nước ngoài.
Bên cạnh những thành tựu trên, công tác tôn giáo của ta còn một số yếu kém, bất cập cần được khắc phục trong thời gian sớm nhất:
Một là hoạt động tôn giáo có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội. Các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt là ở những vùng có đông đồng bào tôn giáo là người dân tộc thiểu số và có điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ dân trí thấp kém.
Hai là, còn tồn đọng nhiều vụ việc khiếu kiện liên quan đến tôn giáo. Thời gian qua, các vụ khiếu kiện liên quan đến cơ sở vật chất, đất đai liên quan đến tôn giáo xảy ra theo phản ứng dây chuyền, tạo thành các điểm nóng tôn giáo như vụ số 42 Nhà Chung, vụ Nhà thờ Thái Hà, và gần đây là vụ Nhà thờ Tam Tòa, Loan Lí...
Ba là, một số cá nhân, tổ chức tôn giáo chưa tuân thủ pháp luật, vẫn tổ chức truyền đạo trái pháp luật, xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự không xin phép, hành nghề mê tín dị đoan, lấn lướt chính quyền, tham gia vào chính trị, lôi kéo kích động quần chúng...
Nguyên nhân của những hạn chế trên trước hết là thuộc về nhận thức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức được rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như chưa nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác tôn giáo trong tình hình mới, vì vậy trong giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo thường rơi vào tả khuynh hoặc hữu khuynh. Nòng cốt của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, nhưng phương pháp, cách thức và nội dung vận động quần chúng của các ban, ngành, đoàn thể trong hệ thống chính trị còn thiếu cụ thể, cứng nhắc, xa dân, chậm đổi mới nên không thu hút được tín đồ tôn giáo. Bộ máy làm công tác tôn giáo chưa thực sự được quan tâm, đầu tư đúng mức, còn bất cập, chưa phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp nên giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị còn hiện tượng chồng chéo, lấn sân hoặc bỏ trống khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là ở cấp cơ sở còn thiếu, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới. Và một nguyên nhân quan trọng nữa là các chủ trương, quan điểm của Đảng còn chậm được thể chế hóa, hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng chưa hoàn thiện, thiếu chế tài và còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn của từng vùng, từng địa phương, nên khó đi vào cuộc sống.
Trước thực trạng tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn giáo, trong thời gian tới cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
Một là, Đảng ta cần kiên định tư duy đổi mới về tôn giáo, khẳng định tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân, đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hai là, tăng cường nghiên cứu lý luận chính trị và tổng kết thực tiễn triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Đảng góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và hoạch định chủ trương, chính sách đối với tôn giáo trong tình hình mới.
Ba là, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải thật sự tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời, phát huy tinh thần tự giác đấu tranh của quần chúng có đạo nhằm làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và làm mất ổn định chính trị.
Bốn là, cần tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng và chính quyền cùng các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Kêu gọi đầu tư và tăng cường thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao dân trí; tăng cường củng cố hệ thống chính trị, động viên quần chúng tôn giáo sống "tốt đời đẹp đạo", tích cực tham gia các phong trào cách mạng, các hoạt động từ thiện, nhân đạo...
Năm là, tuyên truyền nâng cao nhận thức về chính sách tôn giáo cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cấp cơ sở, xây dựng được đội ngũ đảng viên trong vùng đồng bào có đạo.
______________________
* Bài đăng nên Tạp chí Dân vận, số tháng 12-2009.
** Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương.
VĂN HÓA DÂN VẬN TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ DÂN* GS. VS. HỒ SĨ VỊNH
Văn hóa dân vận là một khái niệm mới dược hiểu như một thuật ngữ ghép, tức là: Thái độ ứng xử có văn hóa trong việc tuyên truyền, vận động, tiếp xúc, giáo dục nhân dân. Gần đây người ta nói nhiều đến sự hiện diện của các nhân tố văn hóa vào các lĩnh vực đời sống: văn hóa giao thông, văn hóa kinh doanh, văn hóa gia đình, văn hóa công sở, văn hóa phê bình và tự phê bình, văn hóa Đảng, v.v..
Nói là mới, nhưng thực ra bản chất của vấn đề văn hóa dân vận không hoàn toàn mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ năm 1956 trong Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu Chính trị khóa I, Trường Đại học nhân dân Việt Nam có nói: Thời gian lớp học thì ngắn, nên việc nghiên cứu của các bạn ví như một hạt nhân bé nhỏ, có thể tóm tắt trong 11 chữ sau: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân". Minh minh đức tức là chính tâm. Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết1. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã sáng tạo nhiều thành ngữ sống mãi cho đến tận hôm nay: Quân và dân như cá với nước; Đi dân nhớ, ở dân thương, v.v.. Trong quân đội cách mạng của ta ngay từ đầu kháng chiến gian khổ ở cả hai giai đoạn chống Pháp và chống Mỹ đã ban hành điều lệnh: "Không lấy một cây kim sợi chỉ của dân". Với lực lượng công an nhân dân trong sáu điều dạy của Bác Hồ có lời giáo huấn thân ái: Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép.
Nước ta là một nước văn hiến, "đứng hàng đầu Trung Châu, không nhường Hán – Ngụy". Nền văn hiến đó bao chứa nhiều giá trị văn hóa giữ nước - trong đó hàng đầu và trung tâm là văn hóa giữ dân. Nói dân tộc ta có sức sống trường tồn, không bị đồng hóa trước âm mưu thôn tính của kẻ thù, quật cường đứng lên chống ngoại xâm là nói sức mạnh của dân, trách nhiệm của dân và lợi ích vì dân. Điều này thấy rõ dưới thời Trần. Chính sách "khoan sức dân" để làm kế gốc sâu, rễ bền được coi là thượng sách để giữ nước. Thời nhà Trần có lệ đặt chuông ngay trước Cung điện nhà vua để dân có oan ức thì kêu oan bằng những tiếng chuông giục giã, vua sẽ trực tiếp phán xử. Đó là việc làm công bằng, minh bạch. Thấy được nguồn lực to lớn của dân, các vua Lý, Trần đều có chính sách khuyến nông, an dân, dựa vào dân mà giữ nước.
Cảm hứng chủ đạo thương dân, biết ơn dân trong thơ, văn của đại thi hào Nguyễn Trãi rất dạt dào mà những câu thơ sau là tiêu biểu: "Chăn lạnh choàng vai đêm chẳng ngủ. Suốt đời ôm mãi nỗi lo dân"; "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày"... thấy được sức mạnh to lớn của dân: Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp...
Dưới thời đại Quang Trung, người anh hùng áo vải "oai vũ mà nhân hậu", trong nhiều bài thơ, hịch, dụ, chiếu, biểu... vị minh quân nói rõ yêu nước đồng nghĩa với thương dân. Nước với dân có quan hệ khăng khít. Nước một ngày không thể không có vua. Việc Quang Trung xưng Hoàng đế biết là bất đắc dĩ, nhưng vì "ứng mệnh trời, thuận lòng người". "Vua không dân thì cùng ai giữ nước?". Trong Chiếu lên ngôi, đường lối chính trị của Quang Trung thật minh bạch: "Trẫm nay có cả thiên hạ, sẽ dìu dắt dân vào đạo lớn, đem dân lên cõi đài xuân", "để kéo dài phúc lành cho tôn miếu, xã tắc". Hịch Tây Sơn mở đầu: "Sinh dân phải nuôi dân làm trước". Ý nghĩa văn hóa của những tuyên ngôn vừa nói nằm ở đường lối dân vi bản, giữ chặt lòng người.
Trong thời đại chúng ta, nhất là từ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, đồng thời cũng là của văn hóa dân vận. Để xây dựng nước ta từ nền dân chủ cộng hòa thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, giương cao hai ngọn cờ: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Người biết rất sớm, rất rõ sức mạnh, quyền hành, lực lượng ở nơi dân. Tất cả các chính sách dân vận của Người và của Đảng vừa có tiếp thu tự giác truyền thống khoan sức dân, an dân, giữ chặt lòng dân của các vị anh hùng dân tộc, của các vị minh quân, vừa thấm sâu mối quan hệ biện chứng giữa nước và dân, giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, giữa công quyền và dân quyền. Nhưng tất cả và cao hơn cả đều đi đến mục tiêu: Lợi ích vì dân, quyền hạn của dân, trách nhiệm của dân, công việc của dân.
Nói văn hóa dân vận là nói mối quan hệ giữa Đảng, lãnh đạo công quyền và dân quyền. Điều này đòi hỏi mọi chính sách của Đảng, Nhà nước phải thấm nhuần phương châm giữ chặt lòng dân, tức là phải hiểu rõ tâm trạng, nguyện vọng, niềm tin của đối tượng mà mình lãnh đạo. Muốn lãnh đạo có hiệu quả thì cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đã đành, nhưng còn phải có tài năng, cán bộ lãnh đạo càng cao tính gương mẫu càng phải sáng, tài năng phải được phát lộ ở trình độ tổng kết lý luận và phương pháp giải quyết thực tiễn, chứ không nên chỉ nói mà không làm, nói nhiều chuyện không sát thực tế, thiếu lượng thông tin. Bàn về báo chí kiểu mới, V.I. Lênin đã khuyên hãy bớt "nói huyên thuyên về chính trị"2, "hãy bớt nói chính trị, bàn suông tán nhảm về chính trị, hãy bớt lý luận theo kiểu trí thức, hãy gần đời sống dân nhiều hơn nữa"3.
Trong quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân hiện nay có nhiều chuyện đáng bàn, thậm chí có nhiều chuyện hết sức bức xúc, nhạy cảm thật đáng lo ngại. Xin nêu ba hiện tượng:
Một là, hiện tượng xa dân của một số cán bộ: Một bộ phận đảng viên thường ngại sinh hoạt (trong cơ quan thì với cán bộ nhân viên ngoài Đảng; ở khu phố thì với nhân dân nơi cư trú hoặc tổ dân phố). Nếu có sinh hoạt thì thiếu nghiêm túc phê bình và tự phê bình, sợ ý kiến đóng góp của người ngoài Đảng. Trong lúc đó, họ có đủ mánh khóe để chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, v.v.. Không chỉ cho mình mà cho cả "êkíp" của mình. Họ thường ngại xuống cơ sở, nhưng lại đầy nhiệt tình hào hứng xách cặp đi nước ngoài. Họ vừa giấu dốt, không dựa vào chuyên gia, "dị ứng" đối với người tài, vừa ít chịu khó đọc sách, xem báo để nâng cao kiến thức. Một số cấp ủy đảng ở các cơ quan khoa học, văn hóa, giáo dục thường ngại kết nạp những trí thức giỏi, vì họ có cá tính, sợ người ta hơn mình. Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều, nhưng rõ rệt nhất là tâm lý hẹp hòi, đố kỵ, thẻ đảng ở trong túi họ, muốn ban phát cho ai thì người ấy được; còn không, là không; sự quan liêu của thủ trưởng cơ quan trực tiếp; sự trì trệ của không ít các ban bệ thanh tra, kiểm tra cấp trên...
Hai là, để phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đi vào đời sống có hiệu lực, người dân cần được thông tin. Không có thông tin, "nghèo đói thông tin", thông tin không chính xác, thì nói chi đến chuyện bàn, làm, kiểm tra? Không có thông tin, kiến thức, người dân đứng bên lề chính trị. Nhiều năm gần đây, hiện tượng tán phát tài liệu bất hợp pháp, xuất bản nhiều cuốn hồi ký xuyên tạc sự thật, gièm pha, mạt sát đồng nghiệp, thậm chí phản bội sự nghiệp đổi mới, phủ nhận chủ nghĩa Mác, rồi chuyện tiếu lâm lành có, dữ có về các vị lãnh đạo cấp cao, v.v. vẫn trôi nổi trong dòng chảy công luận. Chưa hết, hiện tượng thi hành kỷ luật những cán bộ tham nhũng, hối lộ, tuyên án một số vụ án hình sự, v.v. cũng theo kiểu "giơ cao đánh khẽ", "hôm nay đúng, mai sai, ngày kia lại đúng", v.v. vẫn được bàn tán trong dân. Đã đến lúc cần được giải quyết dứt điểm, không để cho tình trạng dân chủ cực đoan làm vẩn đục dư luận xã hội. Muốn vậy, cần dân chủ hóa, công khai hóa một số thông tin nóng. Việc này hết sức hệ trọng đối với công tác dân vận. Chúng ta không sợ các loại thù địch lợi dụng. Bởi bản chất chúng là lợi dụng, xuyên tạc, mị dân. Chúng ta chỉ sợ dân biết không đến nơi đến chốn, lẫn lộn trắng - đen, đúng - sai, không biết dâu là đúng để mà tin. Trừ một số thông tin tối mật có tính chất quốc gia đại sự để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, còn lại thì thông tin dân biết, mà tin yêu Đảng hơn. Trên thực tế, các cơ quan chức năng không thông tin đầy đủ, có tổ chức, thì người dân sẽ nghe các nguồn thông tin khác qua các kênh truyền thông, qua internet hoặc báo chí nước ngoài. Mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ thì một bộ phận chạy trốn tìm đến tôn giáo và các loại tín ngưỡng si mê, cuồng tín. Như vậy là ta mất dân vì không dựa vào dân. Ở Tây Nguyên có một câu nói của dân thành khẩu hiệu: "Đảng đi xa, đức Cha lại gần".
Ba là, văn hóa dân vận không chỉ bó hẹp trong các phương thức tuyên truyền, vận động người dân thực hiện chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước, mà còn là quá trình giáo dục, thuyết phục để họ có cơ hội nhận thức, tái nhận thức. Tính gương mẫu của cán bộ lãnh đạo được coi là tấm gương soi cho cấp dưới và toàn dân. Đó là dấu hiệu của văn hóa. Tính gương mẫu, uy tín xã hội của đội ngũ lãnh đạo trong thời hiện đại không chỉ được thể hiện ở việc lập đức (lối sống, nếp sống, cách ứng xử, v.v.) mà còn ở lập ngôn (trí tuệ, tài năng, bản lĩnh chính trị...), lập công (hiệu quả xã hội do chức trách đưa lại). Văn hóa dân vận trước hết là phải giáo dục cho mọi người (không trừ ai) hiểu sâu mọi giá trị truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc, những kiến thức dự báo được tình hình và xu thế phát triển của đất nước, động lòng trắc ẩn với mọi số phận và mọi góc cạnh, tâm trạng của con người, làm cho người dân, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù có trình độ hiểu biết như thế nào đều phải vượt qua chính mình. Xét theo nghĩa đó thì dân tộc ta có bề dày văn hóa ứng xử đối với tự nhiên, đối với xã hội và đối với con người. Chỉ xin lấy hai ví dụ: Ví dụ thứ nhất phê bình và tự phê bình là quy luật của phát triển, là sự tự giác trưởng thành của từng cá nhân, bắt đầu từ bước nhỏ cá nhân để đi đến bước lớn xã hội. Không thể một lúc giáo dục, sửa chữa được toàn xã hội, nhưng có thể sửa chữa được lỗi lầm của từng cá nhân. Đó là chuyện của dân vận mà trọng tâm là đối tượng sau: "Cán bộ, đảng viên có chức, có quyền phải biết vượt qua quyền lực và mọi dục vọng, phải biết "tri túc", biết chỗ dừng. Nếu ngược lại, con người bắt đầu sôi sục tham vọng, vơ vét của cải của dân, ham muốn công danh vô độ thì đó là loại người không đủ nhân cách làm công bộc của dân. Ở chỗ này, văn hóa dân vận không chỉ dừng lại ở giáo dục, mà phải nghiêm khắc từ nội bộ Đảng ra ngoài quần chúng, từ trên xuống dưới: yêu cầu xử lý nghiêm khắc, quản lý nghiêm khắc, giám sát nghiêm khắc, kỷ luật và pháp luật được thi hành đến nơi đến chốn, công khai, minh bạch. Ở Trung Quốc, trong quá trình xây dựng Đảng và công tác dân vận, có nêu một thuật ngữ đáng suy nghĩ: "Phong cách Đảng".
Ví dụ thứ hai: Văn hóa dân vận là phải giáo dục cho mọi người dân cần có thái độ văn minh, ứng xử văn hóa đối với thiên nhiên và môi trường tự nhiên. Thiên nhiên là cái nôi của môi trường sống, nguồn cung cấp năng lượng to lớn cho con người. Vì vậy, người dân bao gồm cả các công ty của Nhà nước phải biết khai thác có kế hoạch, không can thiệp tự phát, không làm gì thù địch với thiên nhiên. Con người không chỉ khai thác thiên nhiên, mà phải có thái độ, hành động ứng xử có văn hóa đối với thiên nhiên vì đó là "rừng vàng biển bạc". Phong trào Tết trồng cây do Bác Hồ phát động không chỉ có lợi ích trước mắt: Có gỗ làm nhà, đi đường có cây cao bóng mát nghỉ ngơi, mà xa hơn là cây cối sẽ ảnh hưởng đến khí hậu và sức khỏe của dân. Đó là ý nghĩa nhân văn, biểu tượng văn hóa ứng xử của một phong trào bảo vệ thiên nhiên. Quan điểm xây dựng nông thôn mới của Bác Hồ cũng rất hiện đại, được thể hiện ở chỗ không chỉ xây dựng nhà ở cho đàng hoàng, mà còn cần chiến lược trồng cây gây rừng để có cây ăn quả, cây công nghiệp, hình thành "bức tường" để chống gió cát, bảo vệ ruộng đồng, chống xói mòn, v.v.. Thiên nhiên đang "trả thù" con người. Vì vậy, việc bảo vệ thiên nhiên nhằm khắc phục sự biến đổi khí hậu toàn cầu đang nóng lên là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài của tất cả các nước. Ở nước ta, những hành vi vô luân như phá rừng, đốt rừng, hủy hoại môi trường tự nhiên và môi trường sinh thái của bọn lâm tặc, và gần đây, chính ngay giữa lòng đất Thủ đô, bọn chúng đã ngang nhiên cưa đốt cây xanh; trong đó có nhiều cây sưa quý hiếm, không chỉ phá hủy tài sản quốc gia, mà còn hủy hoại môi trường sống của người dân đô thị. Những hiện tượng đó vượt ra ngoài hình thức giáo dục của văn hóa dân vận, mà đó là hành vi chống đối thiên nhiên, chống đối kỷ cương phép nước cần được trừng trị đích đáng, kịp thời, trong đó có hình phạt bằng kinh tế. Văn hóa dân vận là văn hóa bao dung, thương người, trọng dân. Muốn thương dân, trọng dân không thể dừng lại ở các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, mà cần có trăm phương, nghìn kế tiến hành đấu tranh liên tục, đồng bộ, không khoan nhượng đối với mọi hiện tượng tiêu cực như: tham nhũng, lãng phí, hối lộ, bọn lâm tặc, những kẻ chống người thi hành công vụ, v.v.. Khi các biện pháp giáo dục, thuyết phục hết hiệu lực, dù có gian khổ, phức tạp đến mấy cũng tiến hành đấu tranh quyết liệt. Lòng dân đã quyết, sức dân đã mạnh, chỉ chờ những quyết sách của Đảng, những thực thi công minh của pháp luật, mà trước hết là những kế sách về cơ chế, tổ chức, cán bộ từ trong Đảng ra ngoài quần chúng, từ cấp lãnh đạo cao nhất đến cán bộ cơ sở.
_____________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 11-2009.
1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr. 215.
2,3. V.I.Lênin về vấn đề báo chí, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.225, 226.
DÂN VẬN VÀ THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH: BẮT ĐẦU TỪ ĐẠO ĐỨC* GS.TS. HOÀNG CHÍ BẢO**
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, dân vận và công tác dân vận là một tư tưởng lớn, ở tầm chiến lược cách mạng, là nét đặc sắc về phương pháp cách mạng; hơn nữa, còn thể hiện sâu sắc triết lý và minh triết Hồ Chí Minh về phát triển xã hội, về con người và cuộc sống với biết bao suy tư, hoài bão, khát vọng của Người.
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà tư tưởng mà còn là một con người hành động, quan tâm rất mực tới tính thiết thực và hiệu quả của mỗi công việc thực tế hằng ngày. Người xa lạ với kiểu lý thuyết suông, không biết áp dụng lý luận vào thực tiễn, không biết tổ chức công việc và làm việc với con người, không biết gắn mình với phong trào hoạt động sôi nổi của quần chúng và từ đó học hỏi sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng để phục vụ quần chúng, trở thành người hữu ích, hữu dụng. Phê phán những nhược điểm của hạng người ấy, Người gọi đó mới là trí thức một nửa.
Với Hồ Chí Minh, hành động, hoạt động mới là chủ yếu, căn bản. Phải làm tất cả những gì có lợi cho dân, khó mấy cũng phải làm bằng được. Phải tránh những gì có hại cho dân, dù chỉ là một cái hại nhỏ. Người cách mạng, Đảng cách mạng phải suốt đời vì dân mà hoạt động, cho nên, một phương châm do Người đặt ra và Người theo đuổi suốt đời, thực hành bền bỉ và luôn luôn nêu gương cho mọi người noi theo, đó là nói ít, làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, sao cho phục vụ dân được tốt nhất với tất cả sự tận tụy và trung thành. Đó không chỉ là một tư tưởng cao quý, một tấm lòng “tận trung với nước, tận hiếu với dân" được thúc đẩy bởi một động cơ đạo đức trong sáng, một lẽ sống và lối sống cao thượng mà còn là một bản lĩnh văn hóa. Bản lĩnh ấy trở thành phong cách Hồ Chí Minh. Đó là một mẫu mực về đạo làm người của người cách mạng. Cũng chính vì dân mà Hồ Chí Minh xa lạ với tất cả những gì phù phiếm, khoa trương dẫn tới hình thức, lãng phí, xa dân, không hiểu dân, làm trái những điều mà dân mong đợi. Sao cho được lòng dân, thuận lòng dân, điều ấy phải trở thành tâm niệm hằng ngày của mỗi người, từ những công chức, viên chức trong bộ máy công quyền đến những cán bộ đoàn thể, từ những đảng viên thường không giữ chức vụ đến các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp đang nhận trọng trách do dân ủy thác. Chức vụ càng to, quyền hành càng lớn thì trách nhiệm lại càng nặng nề, mà trách nhiệm cao nhất là trách nhiệm với dân.
Xa lạ với bệnh lý thuyết suông, với thói phù phiếm khoa trương, hình thức, Người cũng đồng thời xa lạ với tính thiển cận, hẹp hòi, sự suy nghĩ nông cạn, hời hợt do bệnh kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm chi phối, bệnh giáo điều, bảo thủ và trì trệ cũng như thói kiêu ngạo, chủ quan, bệnh công thần địa vị, bệnh háo danh hám chức, lối sống vụ lợi và vị kỷ. Tất cả những thói xấu ấy đều do cá nhân chủ nghĩa mà sinh ra, nếu không vượt qua được thì rất dễ hư hỏng, không chỉ hại cho mình mà còn hại cho cả phong trào cách mạng, rốt cuộc không thể vì dân và phục vụ dân được. Thoái hóa và biến dạng ấy, Người đã lường trước, đã cảnh báo từ rất sớm. Người cũng lo lắng, dằn vặt rất nhiều về tình trạng cán bộ không gương mẫu, thậm chí hư hỏng, tổ chức yếu kém do có nguyên tắc mà không tuân theo, có thể chế, kỷ cương, luật lệ mà không thi hành. Nếu đạo đức là gốc của người cán bộ, đảng viên, là gốc của nhân cách, tính cách thì cán bộ và tổ chức cũng là gốc rễ sâu xa, là nhân tố quyết định cho phong trào lớn mạnh và cách mạng thành công. Bởi lẽ, chỉ với chất lượng cán bộ và tổ chức như thế thì mới được dân tin dân theo. Phải suy nghĩ, nghiền ngẫm sâu xa, thấu đáo đến thế nào mà Người mới nhấn mạnh đến đạo đức và văn hóa đạo đức như thế. Đảng phải chăm lo giáo dục rèn luyện cho mỗi cán bộ, đảng viên, còn mỗi người thì phải ra sức thực hành, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Dân chủ mà biến thành "quan" chủ, là đầy tớ, công bộc của dân nhưng lại lên mặt "quan" cách mạng, không yêu dân, thương dân, không kính trọng, lễ phép với dân mà lại hống hách với dân, gây phiền hà, sách nhiễu dân thì theo Hồ Chí Minh dù có viết lên trán hai chữ "cộng sản", dân cũng không tin, không theo. Người đòi hỏi phải nghiêm khắc, có lỗi phải thật thà nhận lỗi và xin lỗi dân. Đó là đối với từng người. Còn đối với tổ chức đảng và với toàn Đảng, phải nêu cao dũng khí, nêu cao trách nhiệm, dũng cảm sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm và có quyết tâm sửa chữa cho bằng được, để Đảng có sức mạnh, luôn luôn chắc chắn, tiến bộ. Cũng theo Hồ Chí Minh, một đảng mà không dũng cảm phê bình, sửa chữa khuyết điểm, lại đi bao che cho nhau, che giấu những chỗ yếu kém, những thói hư tật xấu mắc phải thì sẽ là một đảng hỏng. Tính phê phán đó đã nói lên điều thực chất nhất của vấn đề xây dựng Đảng, phải chú trọng về đạo đức và văn hóa đạo đức trong Đảng.
Người mong muốn và đòi hỏi phải xây dựng Đảng sao cho Đảng là đạo đức, là văn minh.
Với Nhà nước, Người đặc biệt chú trọng tới Chính phủ, tức là tổ chức hành pháp. Phải tỏ rõ cho dân chúng biết, Chính phủ (cũng như Nhà nước nói chung) phải là Chính phủ hành động vì dân, Nhà nước phải thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nếu Chính phủ không làm được những gì dân đã mong đợi khi ủy thác thì dân cũng chẳng cần nữa. Nếu Chính phủ không còn xứng đáng với dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ đi. Đó là sự khẳng định sức mạnh, ý chí và quyền lực của dân, rõ ràng, minh bạch và công tâm.
Một vấn đề nan giải, như một vấn nạn trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan công quyền là tình trạng quan liêu và tham nhũng. Đây là điều gây phản cảm lớn nhất đối với dân chúng và xã hội. Nó đối lập với dân chủ và làm tổn hại tới lợi ích, tới quyền hành của dân chúng, nó cũng làm tổn thương nặng nề nhất tới uy tín, thanh danh của Đảng và Nhà nước. Để chữa căn bệnh trầm kha này, Người đòi hỏi phải dùng luật pháp mà nghiêm trị. Người nói rõ, phải trừng trị tất cả những kẻ bất liêm, bất kể chúng là ai và làm gì. Người viết tác phẩm Quốc lệnh với những điều thưởng phạt rất nghiêm minh. Trong tất cả những điều trừng phạt những kẻ Việt gian phản quốc, hại dân hại nước, Người đều ghi mức cao nhất: tử hình. Quan điểm pháp trị đó là cần thiết tất yếu để bảo vệ dân, gây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền để thực hiện quyền làm chủ của dân. Muốn xây dựng đạo đức cách mạng thì phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính thì phải đầy đủ tất cả, thiếu một đức thì không thành người. Phải đủ cả bốn đức mới là người hoàn toàn. Rõ ràng, Người đòi hỏi rất cao về phẩm chất đạo đức đối với người cán bộ cách mạng. Làm dân vận, theo đó phải là người có đạo đức, đó là điều tiên quyết.
Công tác dân vận là một công tác xã hội, là hoạt động xã hội, đến với dân, tiếp xúc với dân, lắng nghe ý kiến, thấu hiểu tâm trạng của dân, biết rõ cuộc sống và ý nguyện của dân, từ đó mà ý thức được trách nhiệm phải làm cho dân những gì và làm như thế nào. Một điều quan trọng đối với dân vận là biết tiếp thu những ý kiến phê bình của dân, cả những đề xuất kiến nghị mà dân đưa ra, ở đó có biết bao điều hay lẽ phải giúp cho cán bộ trưởng thành. Đó là sự hòa mình vào dân chúng, chân thành, cởi mở, tin cậy để dân tin. Dân có tin thì việc giảng giải, tuyên truyền, thuyết phục, cảm hóa dân mới có tác dụng, mới tổ chức được phong trào, mới tập hợp được lực lượng của dân, tạo ra sự phấn khích, hăng hái nơi dân chúng, dân sẽ hành động tự nguyện, tự giác. Có dân giúp sức thì nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Làm công tác dân vận để thực hành tư tưởng dân vận phải đặc biệt chú trọng tinh thần dân chủ, ý thức dân chủ và phương pháp dân chủ. Tựu trung lại, đó là trọng dân và trọng pháp. Những yêu cầu, đòi hỏi như thế đối với dân vận và công tác dân vận không chỉ là sự am hiểu công việc, tức là phải có tri thức và kinh nghiệm mà còn là tình yêu công việc mình làm với tất cả nhiệt tình, tâm huyết - ở đây chính là tình cảm đối với dân, lòng thương yêu, sự tin cậy và thái độ tôn trọng dân, trong đó cốt yếu và quan trọng nhất là phải có đạo đức trong sáng. Đã có lần Bác khuyên thanh niên, phải ham làm việc lớn ích nước, lợi dân chứ đừng ham làm quan to như Tôn tiên sinh đã dạy (Lời của Bác nói về Tôn Dật Tiên). Bác chỉ dẫn, tuổi trẻ phải có ý chí, hoài bão, khát vọng lớn, xác định cho mình tận tâm tận lực vì dân; tận tụy phục vụ dân là lẽ sống cao thượng nhất, biết quên mình vì người khác (Triết lý nhà Phật là Vô ngã vị tha) như Bác nhiều lần nhấn mạnh. Phải biết tránh xa như tránh lửa ba điều cám dỗ nguy hiểm: tiền bạc, danh vọng, quyền lực, bởi những cái thường tình ấy, nếu không tự chủ và làm chủ được thì rất dễ rơi vào hư hỏng.
Dân vận rất quan trọng nên làm công tác dân vận cần phải bắt đầu từ đạo đức.
Nghe dân, học dân, hỏi dân để hiểu dân, tin dân, từ đó làm tất cả vì dân. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân thì phải thực hành đạo đức cách mạng. Suốt đời gắn bó với dân thì phải suốt đời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, biết rõ rằng, cuộc đấu tranh đó sẽ có không ít sự đau đớn ở trong lòng, bởi đó là chống lại chính mình, gạt bỏ những cái xấu xa, hư hỏng, lỗi thời. Một câu nói của Người, tưởng như nôm na mà hóa ra vô cùng sâu sắc, một đòi hỏi thật lớn lao, nó cũng như một thách thức nghiệt ngã, nguồn cách mệnh, trước hết phải cách mệnh chính mình đi đã, đó là những gì lạc hậu, lỗi thời, xấu xa, hư hỏng trong chính con người mình.
Những điều trình bày ở trên, có thể nói, đó là luân lý đạo đức học của dân vận và công tác dân vận được thể hiện sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nói tới vai trò của đạo đức trong chính trị, Người nhấn mạnh vào hai điểm quan trọng: chính trị cốt ở đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc nhỏ tới việc lớn. Đó là đạo đức, là đạo đức trong chính trị. Chủ nghĩa xã hội cũng được Người tiếp cận từ đạo đức học, "tư tưởng xã hội chủ nghĩa là đối lập với tư tưởng cá nhân chủ nghĩa", "muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân", do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, người có đạo đức thì dễ tiếp thu chân lý hơn vì sẽ vô tư và khách quan, biết trọng lẽ phải, đạo lý và sự thật. Trong đời sống xã hội và trong hoạt động của con người, ở lĩnh vực nào, ở đâu và lúc nào, đạo đức cũng quan trọng và cần thiết. Đạo đức càng quan trọng và cần thiết hơn trong quan hệ với dân, trong công tác dân vận. Trung thực thì sẽ thuyết phục được dân, tận tụy vì dân thì dân sẽ yêu mến, tin cậy. Ngược lại, giả dối và mị dân, lời nói và việc làm trái ngược nhau thì dân sẽ chê trách, phản đối và oán ghét. Đạo đức học trong công tác dân vận là chất nhân văn sâu sắc, mới mẻ và hiện đại, luôn có tính thời sự trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
___________________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 10-2012.
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN VẬN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA THỜI KỲ MỚI* PGS.TS. ĐẶNG ĐÌNH PHÚ**
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã ghi rõ: "...đổi mới và nâng cao chất lượng công tác vận động nhân dân"1. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này có nhiều việc phải làm, trong đó có nội dung quan trọng, quyết định là xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác vận động quần chúng. Khi xây dựng đội ngũ cán bộ này phải đặt trong tổng thể xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, đồng thời cụ thể hóa trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng ở từng cấp, từng ngành, vùng, miền, địa phương cho phù hợp. Nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác vận động quần chúng cần tuân thủ một số khâu chủ yếu sau:
1. Xây dựng và cụ thể hóa tiêu chuẩn, phong cách cán bộ dân vận. Cần xác định rõ tiêu chuẩn cán bộ dân vận nói chung là cán bộ thuộc các ban xây dựng đảng. Do đó họ cần tuân thủ những tiêu chuẩn chung trong chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, phải xác định rõ tiêu chuẩn chính của cán bộ của cả hệ thống dân vận từ trung ương đến cơ sở là công tác tham mưu cho cấp ủy đảng về công tác vận động quần chúng. Muốn vậy, cần xác định cho rõ ràng và trả lời dứt khoát cho được câu hỏi: Công tác dân vận có phải một nghề hay không? Nếu xác định đây là một nghề thì phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản kiến thức lý luận, thực tiễn cũng như bằng cấp, chứng chỉ ra sao?
Trong bài báo Dân vận, Bác Hồ yêu cầu: "Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm"2. Vậy cán bộ làm công tác tham mưu vận động quần chúng hiện nay có cần những phẩm chất đó không? Đây cũng là một vấn đề cần phải nghiên cứu, xem xét để xem có đưa vào tiêu chuẩn cán bộ trong hệ thống dân vận như thế nào? Những tác phong mà Bác Hồ đề ra cách đây hơn 60 năm, khi đó, cán bộ các ngành, các cấp chưa được phân công công tác quá chuyên sâu, lại sống rất gần gũi, gắn bó với dân, được nhân dân đùm bọc, bảo vệ, cho nên tất cả cán bộ đều phải thực hành công tác vận động quần chúng. Ngày nay, trong giai đoạn cách mạng mới, cán bộ làm công tác tham mưu vận động quần chúng thì vận dụng, thực hiện phong cách mà Bác Hồ dạy như thế nào?
Một trong những tiêu chuẩn cán bộ tham mưu công tác vận động quần chúng hiện nay bắt buộc phải có là phong cách quần chúng mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đề ra là: "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin". "Trọng dân" là gốc của phong cách mà cơ sở lý luận của nó xuất phát từ quan điểm "Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân"; "Nước lấy dân làm gốc". Có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân; mới đến với dân như người thầy, người chủ của mình. "Gần dân" là đòi hỏi khách quan của người cán bộ dân vận. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh. Có gần dân thì mới hiểu được cuộc sống, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân và do đó mới tham mưu đúng, tham mưu trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân. Muốn "học dân" thì người cán bộ phải hết sức khiêm tốn, cầu thị, biết lắng nghe, không được tự cho mình cái gì cũng biết. Chính nhân dân là những người sáng suốt, có rất nhiều kinh nghiệm trong đối nhân xử thế, sáng tạo ra cuộc sống, làm nên lịch sử. Cán bộ dân vận muốn thật sự đến với dân, muốn trở thành người đầy tớ của dân thì phải có trách nhiệm với dân, nghĩa là mọi việc đều vì hạnh phúc của nhân dân; việc gì có lợi cho dân thì cương quyết làm; việc gì có hại cho dân thì cương quyết tránh như Bác Hồ đã dạy. "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin” là những đức tính rất quan trọng liên quan mật thiết với những tác phong nói trên. Có gần dân thì mới được dân tin, học được dân và nghe được dân nói thật. Đồng thời, cán bộ dân vận phải tuyên truyền, giải thích cho dân hiểu những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước để dân hiểu và thực hiện. Còn làm để dân tin chính là tác phong gương mẫu trong hành động; nói đi đôi với làm; cán bộ dân vận không thể nói mà không làm hoặc nói một đằng, làm một nẻo.
2. Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận. Trong quy hoạch phải có những tiêu chí về số lượng, chất lượng của đội ngũ cán bộ cũng như từng chức danh cán bộ; định rõ cách thức, các yếu tố và điều kiện cũng như thời gian thực hiện; phân công trách nhiệm đối với lãnh đạo cơ quan, đơn vị và từng thành viên trong thực hiện.
Công tác quy hoạch cán bộ nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của các cấp ủy và của cơ quan làm công tác dân vận; đồng thời phải có sự phân cấp về thẩm quyền quy hoạch cán bộ phù hợp với phân cấp quản lý và sử dụng cán bộ. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; cấp ủy thống nhất lãnh đạo và quản lý đội ngũ cán bộ, bảo đảm vai trò lãnh đạo tập trung đi đôi với việc phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là người đứng đầu; đồng thời mở rộng dân chủ trong việc phát hiện nguồn, phát hiện tài năng.
Quy hoạch phải gắn kết với các khâu khác của công tác cán bộ, trong đó có đánh giá cán bộ. Hằng năm, quy hoạch đó phải được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh. Quy hoạch phải đồng bộ từ trên xuống dưới; cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cấp dưới làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch cấp dưới. Quy hoạch cán bộ phải vừa tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ, vừa tạo động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn kết trong sự phát triển của toàn đội ngũ, đề phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ cần xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ; luân chuyển cán bộ theo tinh thần Nghị quyết của Đảng; sắp xếp, bố trí, điều chuyển cán bộ nguồn quy hoạch vào các vị trí phù hợp để rèn luyện; bổ nhiệm vào các chức danh quy hoạch. Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chương trình, nội dung được Trung ương quy định, trong đó nhất thiết phải có chương trình về công tác vận động quần chúng nằm trong công tác xây dựng Đảng. Những cán bộ công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải được đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận phải thực hiện một cách toàn diện, có phân công phân cấp cụ thể, vừa đào tạo những vấn đề cơ bản, lâu dài, vừa có kế hoạch, chương trình học tập, bồi dưỡng mang tính chuyên đề về những vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác dân vận trong từng năm, từng thời kỳ.
Kết hợp đồng bộ các biện pháp và hình thức: học tập trung, tại chức, tự học, trong đó tự học là quan trọng; không chỉ thông qua trường lớp, sách vở mà còn phải học trong thực tiễn công tác và cuộc sống hằng ngày, qua các chuyên gia có kinh nghiệm.
Đối với tổ chức đảng và các ban dân vận, ngoài việc thực hiện đúng các nội dung công tác cán bộ của Đảng, cần chú ý một số biện pháp như: tạo mọi điều kiện để cán bộ dân vận đủ điều kiện được học tập và tiếp thu các trí thức mới; có chính sách, cơ chế để cán bộ đi học nâng cao trình độ; có chế tài bắt buộc cán bộ phải tự học, tự bồi dưỡng thông qua hoạt động hằng ngày để không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng công tác vận động quần chúng.
Đối với các học viện, nhà trường cần thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và chế độ phụ cấp hợp lý đối với người đi học. Xây dựng, nâng cao chất lượng khoa lý luận và nghiệp vụ công tác dân vận tại Học viện Xây dựng Đảng; mở lớp đại học chuyên ngành công tác dân vận của Đảng; phối kết hợp tốt giữa Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh với Ban Dân vận Trung ương, giữa trường đảng các khu vực, trường cán bộ, tỉnh, thành phố, quận, huyện trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận.
3. Thống nhất quản lý, đánh giá cán bộ. Thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức đảng thống nhất quản lý công tác cán bộ. Đánh giá cán bộ phải lấy tiêu chuẩn và hiệu quả công tác làm thước đo, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và đúng quy trình, tránh cảm tình, nể nang, quen biết hoặc tư tưởng "con ông cháu cha". Việc đánh giá cán bộ cần phải kết hợp tiêu chuẩn và hiệu quả hoạt động thực tiễn trong công tác dân vận, sự tín nhiệm của cán bộ, quần chúng, nhân dân. Trong quá trình đánh giá cán bộ phải bảo đảm dân chủ rộng rãi, công khai, tập trung cao; bản thân người cán bộ phải tự phê bình, tự đánh giá và được biết sự đánh giá của cấp trên đối với mình.
4. Bố trí, sử dụng cán bộ dân vận. Bố trí, sử dụng cán bộ phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và phẩm chất, trình độ, năng lực công tác của từng cán bộ. Đồng thời với ổn định những cán bộ, chuyên viên, chuyên gia có tính chuyên sâu, phải luân chuyển cán bộ có đủ điều kiện, khả năng, tư chất lãnh đạo, quản lý để rèn luyện, thử thách, phát triển. Mạnh dạn sử dụng cán bộ trẻ, theo dõi, nắm chắc từng người, kịp thời phát hiện những cán bộ có triển vọng, làm nguồn dự bị cho các chức danh, bảo đảm đội ngũ cán bộ phát triển liên tục, không bị hụt hẫng.
5. Điều động, luân chuyển cán bộ dân vận. Thực tiễn công tác cho thấy, ở cơ quan, đơn vị nào phát sinh những vấn đề phức tạp về tổ chức đều do bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ chưa hợp lý, nhất là người đứng đầu. Có nơi do bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý không đúng người, không đúng việc hoặc cán bộ chưa ngang tầm nhiệm vụ, có khi vì không xác định rõ tiêu chuẩn cho nên bố trí cán bộ trái với chuyên môn được đào tạo Trong những trường hợp đó, nhất thiết phải điều động, sắp xếp, điều chỉnh cán bộ, nếu không tình trạng mất đoàn kết sẽ kéo dài hoặc trong nội bộ có tình trạng "bằng mặt mà không bằng lòng". Dứt khoát không điều động, luân chuyển cán bộ bị kỷ luật ở một chỗ lại về chỗ khác làm cán bộ lãnh đạo cơ quan làm công tác vận động quần chúng.
Trong quá trình luân chuyển phải tính toán thật kỹ, không nên để xảy ra hiện tượng cán bộ được luân chuyển thực thi những nhiệm vụ quá xa so với kiến thức, năng lực, không có kinh nghiệm làm công tác tham mưu vận động quần chúng. Luân chuyển cán bộ để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của cán bộ và ổn định tổ chức, khi luân chuyển cán bộ về các cơ quan, đơn vị làm công tác vận động quần chúng, cán bộ được luân chuyển phấn khởi làm việc hào hứng, hiệu quả; nơi tiếp nhận cán bộ luân chuyển đến cũng thấy thoải mái, hứng khởi.
6. Thực hiện chính sách đối với cán bộ dân vận. Hệ thống các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước đã ban hành đối với cán bộ, bao gồm cả chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ về vật chất và tinh thần đã và đang ngày càng hoàn thiện. Do đặc thù của công tác dân vận nên ngoài chính sách, chế độ chung đối với cán bộ trong hệ thống chính trị nói chung, cần có chính sách thu hút cán bộ làm công tác vận động quần chúng. Các chính sách đó có thể là phụ cấp lương; sinh hoạt phí; chế độ nhà cửa, nhất là nhà ở cho cán bộ địa phương luân chuyển về trung ương; kinh phí cho công tác dân vận đặc thù, đối tượng đặc biệt, trong đó có chế độ chuyên trách vận động đồng bào dân tộc thiểu số, các chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo, v.v.. Có như vậy, những cán bộ chuyên trách vận động quần chúng mới yên tâm với công việc, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới và thực hiện được lời dạy của Bác Hồ: "Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm".
____________________
* Bài đăng trên Tạp chí Dân vận, số tháng 11-2011.
** Phó Giám đốc Học viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 258.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.699.
XÁC ĐỊNH RÕ MỤC TIÊU ĐỂ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN, NGHIÊN CỨU CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG TÌNH HÌNH MỚI NGUYỄN DUY VIỆT*
Thông thường, trong đời sống xã hội, bất kể một tổ chức hay một cá nhân nào, khi chuẩn bị làm bất cứ một việc gì, dù lớn hay nhỏ, nếu xác định được rõ mục tiêu công việc cần làm thì mới xác định được nội dung công việc cũng như xác định được phương hướng, các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Thực hiện Chương trình làm việc toàn khóa, dựa trên cơ sở tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế yếu kém, nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm của công tác dân vận trong những năm đổi mới vừa qua; đồng thời phân tích những đặc điểm, tình hình quốc tế, trong nước; những yếu tố ảnh hưởng, tác động, dự báo tình hình và những thuận lợi, khó khăn của thời kỳ mới, trong kỳ họp lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã đề ra Nghị quyết về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới". Nghị quyết đã đề ra mục tiêu của công tác dân vận là: "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới để củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
Mục tiêu trên đã đặt ra cho công tác dân vận trong thời kỳ mới phải đạt được hai yêu cầu cơ bản sau:
Một là, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Hai là, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Yêu cầu thứ nhất: Củng cố vững chắc lòng tin và mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng là yêu cầu sống còn của công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác dân vận nói riêng. Mặc dù đã được Đảng luôn luôn coi trọng và đạt nhiều kết quả, song công tác này còn nhiều khuyết điểm hạn chế. Ngay thời kỳ đầu đổi mới, Nghị quyết số 8B-NQ/TW ngày 27-3-1990 của Ban Chấp hành Trung ương đánh giá "Từ khi Đảng lãnh đạo chính quyền trên phạm vi cả nước, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân bị giảm sút, có lúc có nơi khá nghiêm trọng"1. Từ đó đến nay, Đảng đã có nhiều giải pháp và cố gắng khắc phục, tuy nhiên kết quả còn nhiều hạn chế, nên trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI ngày 16-1-2012, Đảng ta tiếp tục đánh giá: Lòng tin của nhân dân đối với Đảng bị giảm sút, "nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ"2. Trong thực tế vừa qua, có lúc, có nơi, có việc, lòng tin của nhân dân bị giảm sút nghiêm trọng.
Lòng tin và mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Lợi ích của từng người dân, của toàn dân; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải đúng đắn, có tính khả thi và hợp với lòng dân, thực sự vì dân; Đảng và Nhà nước phải trong sạch, vững mạnh, cán bộ lãnh đạo, đảng viên, công chức, viên chức của Nhà nước có phẩm chất đạo đức, biết gương mẫu, biết tôn trọng nhân dân. Lòng tin và mối quan hệ xã hội là sự hình thành phát triển tự nhiên của trạng thái tâm lý, tình cảm của mỗi con người, của các giai tầng xã hội và phụ thuộc vào những yếu tố vật chất, tinh thần tác động đến cuộc sống hằng ngày của từng người dân, của toàn xã hội. Cho nên, muốn củng cố vững chắc lòng tin, mối quan hệ bền chặt giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước thì trước hết, phải nhìn nhận và tập trung vào các giải pháp nhằm hoàn thiện quan điểm, đường lối, xây dựng, ban hành cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước sát thực tiễn, hợp lòng dân để nhân dân tin tưởng, tích cực thực hiện. Ngược lại, nếu không hợp lòng dân, quá sức dân thì dân mất lòng tin và không tích cực thực hiện. Rõ ràng, nếu không có quan điểm, đường lối, cơ chế, chính sách đúng đắn thì không có cơ sở để vận động nhân dân, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Thực tiễn trong những năm vừa qua, đã có nhiều chủ trương của Đảng, Nhà nước bắt nguồn từ việc biết lắng nghe, biết tiếp thu ý kiến tham gia của nhân dân nên khi ban hành, tổ chức thực hiện được nhân dân đồng tình cao, nhanh chóng đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả to lớn. Ví dụ như: Chính sách khoán hộ ở thời kỳ đầu của đổi mới đã tháo gỡ căn bản cản trở vướng mắc trong nông nghiệp, giải phóng được tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn, đưa nước ta từ chỗ thiếu lương thực đến chỗ không chỉ bảo đảm đủ lương thực mà hằng năm còn xuất khẩu gạo đứng thứ nhất, thứ nhì trên thế giới. Song ngược lại, cũng không ít những cơ chế, chính sách của địa phương, thậm chí cả ở tầm quốc gia, nhưng khi đưa ra, nhân dân chưa đồng tình và dẫn đến thực hiện hiệu quả thấp hoặc thực hiện được nhưng nhân dân không thực sự hài lòng, sự đồng thuận không cao. Có nhiều nơi vì nôn nóng phát triển kinh tế - xã hội bằng mọi giá như: phát triển hạ tầng, giải tỏa, đền bù thực hiện các dự án phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, làm thủy điện... Chính sách đưa ra chưa hợp lý, cách làm áp đặt, thiếu công khai, thiếu dân chủ, không bàn bạc kỹ với nhân dân nên có thể được việc nhưng chưa được lòng dân; nhân dân khiếu kiện gay gắt trên diện rộng, thậm chí trên quy mô toàn tỉnh, toàn huyện, nhiều nơi đã thành điểm nóng, phức tạp, khó giải quyết, làm mất an ninh trật tự, tổn hại đến uy tín của Đảng, của chính quyền. Để có thể khắc phục được tình trạng này, các cấp, các ngành phải xem xét, sửa đổi phương pháp, quy trình xây dựng cơ chế, chính sách, phải nắm chắc tình hình thực tiễn, ý nguyện của dân, phải có giải pháp lắng nghe, tiếp thu ý kiến tham gia của nhân dân để khi quyết định, ban hành phải được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ.
Lòng tin và mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước còn phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đặc biệt là những người được phân công, được dân bầu vào các chức vụ lãnh đạo. Hiện nay đang có rất nhiều tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ lãnh đạo, thủ trưởng các cơ quan, lãnh đạo chủ chốt các địa phương ngày đêm trăn trở, suy nghĩ tìm tòi đổi mới, tìm mọi giải pháp làm cho địa phương mình, đơn vị mình phát triển đi lên; bản thân họ luôn luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức, không ngừng học tập, rèn luyện, gắn bó với nhân dân, tôn trọng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đến lợi ích của nhân dân và luôn được nhân dân tin yêu, ủng hộ. Hiện nay, nhiều địa phương đang tích cực tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới. Trong điều kiện đầu tư của ngân sách hạn hẹp, ở nhiều nơi, cán bộ lãnh đạo đã trăn trở, năng động, sáng tạo, dựa vào dân, tìm tòi mọi giải pháp để tổ chức thực hiện, mang lại hiệu quả, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình, làm cho nhân dân rất phấn khởi, đồng tình hưởng ứng, tích cực đóng góp trí tuệ, công sức để thực hiện.
Song bên cạnh đó, tình hình cấp bách hiện nay, như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã nêu ra là: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc..."3. Có thể nói, đây là một trong những nguyên nhân cơ bản, chủ yếu dẫn đến giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương với phương châm: Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh đã đề ra các nhóm giải pháp nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng. Điều đó càng khẳng định: công tác dân vận là một nội dung của phương thức lãnh đạo của Đảng, phải đi đôi với xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; mọi quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, của Nhà nước phải vì dân, phải từ dân mà ra; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo. Đồng thời, phải thấy rõ hơn là: Quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp cho công tác dân vận trong thời kỳ mới chủ yếu, trước hết phải tìm trong các giải pháp đồng bộ về xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; cơ chế chính sách phải vì dân và hợp với nguyện vọng của nhân dân; giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thực sự là người công bộc, giữ gìn phẩm chất đạo đức, gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Yêu cầu thứ hai: phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo ra phong trào quần chúng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rõ vai trò của nhân dân trong xã hội: "Sức dân là sức nước"; "Người đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân"; "Sự nghiệp cách mạng là của quần chúng"; "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân"... Cho nên, công tác dân vận không chỉ là việc Đảng, Nhà nước, các cấp ủy chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể ở các cấp quan tâm chăm lo quyền lợi chính đáng của nhân dân, vận động, xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc, mà quan trọng hơn nữa là phải phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, phát huy nguồn sức mạnh, tiềm năng nội lực, vai trò sức mạnh của nhân dân để xây dựng, bảo vệ đất nước, hoàn thành các nhiệm vụ cách mạng đề ra. Chính vì vậy, muốn phát huy được sức mạnh của nhân dân, trước hết phải tìm các giải pháp để xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo môi trường thông thoáng thuận lợi cho mọi người dân đều có cơ hội để phát triển nghề nghiệp, đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu phát triển tài năng xây dựng cuộc sống của chính gia đình mình và đóng góp tích cực cho xã hội. Phải tạo ra các giá trị xã hội tôn trọng người có tài, có nhiều sáng kiến và tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để thu hút đông đảo nhân dân tham gia và thực hiện các giải pháp tuyên truyền, vận động nhân dân.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế, từng bước không ngừng hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng mọi tiềm năng, huy động sức mạnh của nhân dân. Nhờ thế, nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống mọi mặt của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao; tình hình chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; tỷ lệ hộ nghèo giảm, số hộ giàu ngày càng tăng, bộ mặt nông thôn, miền núi ngày càng khởi sắc; quyền làm chủ của nhân dân được tăng cường, mở rộng; cải cách hành chính bước đầu có hiệu quả, làm giảm bớt phiền hà của người dân; các chương trình an sinh xã hội được quan tâm và đạt được kết quả tích cực, lực lượng sản xuất phát triển, các thành phần kinh tế phát triển, đã tạo ra nhiều cơ hội cho dân đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, bảo đảm lợi ích của người lao động.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cơ chế, quy định ràng buộc chưa được đổi mới, hạn chế sự năng động của nhân dân, cần được tháo gỡ để phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Mặt khác khi có chủ trương, cơ chế đúng đắn, còn cần phải tuyên truyền vận động và tổ chức thành các phong trào thi đua yêu nước cho nhân dân, giải quyết những vướng mắc, khiếu tố của nhân dân. Đảng ta đã xác định: "Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt"4. Song cần phải làm rõ hơn trách nhiệm, vai trò của từng tổ chức trong hệ thống chính trị đối với công tác dân vận. Lần này, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương xác định rõ: "Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên, các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng là hạt nhân lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện là chủ yếu, mặt trận, đoàn thể có vai trò quan trọng, nhân dân quyết định".
Tóm lại, Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới lần này có nhiều nội dung tăng cường và đổi mới rất quan trọng. Để có cơ sở nghiên cứu nắm sâu về Nghị quyết, thấy hết những yêu cầu, nội dung tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, trước hết cần đổi mới phương pháp tiếp cận theo hướng: Công tác dân vận phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Nhà nước; gắn với các giải pháp xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương của cấp ủy, cơ chế chính sách của chính quyền các cấp và phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm đối với công tác dân vận của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là vai trò, trách nhiệm; khắc phục căn bản những nhận thức chưa đúng đắn về công tác dân vận của Đảng.
_______________
* Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.50, tr.82.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 21-22.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 22.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới", số 25-NQ/TW ngày 3-6-2013.
MỤC LỤC Lời Nhà xuất bản
- Dân vận
- Đổi mới nội dung, phương thức vận đồng quần chúng
- Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
- Nhớ ngày 15 tháng 10
- Công tác dân vận phải là nhiệm vụ chiến lược trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, củng cố, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận
- Công tác dân vận góp phần thiết thực củng cố và tăng cường mối quan hệ bền vững, mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân
- Xây dựng mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân: Nhân tố quyết định sự vững mạnh của Đảng, làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Gắn việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với củng cố chính quyền cơ sở
- Công tác dân vận phải tham mưu cho Đảng đưa chủ trương, đường lối đúng đắn vào cuộc sống
- Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng trong giai đoạn mới
- Công tác dân vận với chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
- Công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
- Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác quần chúng – thực tiễn và một số kinh nghiệm
- Một số vấn đề về công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam
- 75 năm công tác dân vận của Đảng
- Tiếp tục đổi mới công tác dân vận của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới
- Đổi mới công tác dân vận nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tạo cơ sở để thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân
- Mấy vấn đề về đổi mới nội dung, phương thức vận động quần chúng của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
- Dân vận khéo – Giải pháp quan trọng trong xây dựng nông thôn mới
- Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác tôn giáo trong tình hình hiện nay
- Văn hóa dân vận trong mối quan hệ giữa Đảng và dân
- Dân vận và thực hiện công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Bắt đầu từ đạo đức
- Xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới
- Xác định rõ mục tiêu để đổi mới phương pháp tiếp cận, nghiên cứu công tác dân vận trong tình hình mới
Trụ sở: 1A Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Email:congdcsvn@vptw.dcs.vn