Lời Giới thiệu Kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20-8-1888 - 20-8-2013), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách quý: Tôn Đức Thắng - Một con người bình thường - Vĩ đại. Với hệ thống tư liệu phong phú và các bài viết sâu sắc, cuốn sách đã làm nổi bật cuộc đời và sự nghiệp cao cả của Tôn Đức Thắng - một chiến sĩ cách mạng kiên cường, mẫu mực, một người lãnh đạo kính mến và thân thiết.
Xuất thân từ một gia đình, một miền quê giàu truyền thống yêu nước, từ một người thợ thực thụ, Tôn Đức Thắng trở thành chiến sĩ cách mạng. Năm 1920, Tôn Đức Thắng thành lập tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn và liên tục lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, góp phần vào sự phát triển của phong trào công nhân cả nước. Đó là một trong những điều kiện cơ bản để mùa Xuân năm 1930 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Nhiều năm bị đế quốc, thực dân giam cầm ở nhà tù Côn Đảo, Tôn Đức Thắng tỏ rõ ý chí, niềm tin và phẩm chất của một người cộng sản kiên cường. Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ nhà tù Côn Đảo trở về, Tôn Đức Thắng tham gia Xứ ủy Nam Bộ, lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ. Đầu năm 1946, Tôn Đức Thắng được điều động ra Hà Nội làm việc cùng với Trung ương Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với tư cách cán bộ của Đảng, Tôn Đức Thắng được phân công tổ chức và lãnh đạo Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt) từ tháng 5-1946. Từ năm 1948 Tôn Đức Thắng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tháng 3-1951, thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt, Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt. Năm 1955, Tôn Đức Thắng là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Là người lãnh đạo Mặt trận trong nhiều năm, Tôn Đức Thắng đã thực hiện đúng đắn sự lãnh đạo của Đảng với Mặt trận, phát huy vai trò của Mặt trận trong đại đoàn kết toàn dân tộc - một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
Tôn Đức Thắng là người có đóng góp lớn trong xây dựng, củng cố và lãnh đạo Nhà nước. Là đại biểu Quốc hội liên tục từ khóa I (l-1946), Phó Trưởng ban thường trực Quốc hội trong suốt những năm kháng chiến và từ năm 1955 là Trưởng ban thường trực Quốc hội. Tháng 7-1960, Tôn Đức Thắng được bầu làm Phó Chủ tịch nước và tháng 9-1969 được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau ngày đất nước thống nhất, từ tháng 7-1960, Tôn Đức Thắng là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong hoạt động và lãnh đạo Nhà nước, Tôn Đức Thắng đã tăng cường và củng cố vững chắc sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đồng thời phát huy có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ quản lý, điều hành của Nhà nước, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Cùng với sự nghiệp cách mạng lớn lao, Tôn Đức Thắng là một người bình thường vì chính điều đó trở thành vĩ đại. Gắn bó với quê hương An Giang, mảnh đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh và Nam Bộ, Tôn Đức Thắng còn sống mãi trong lòng đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong những năm kháng chiến, để lại hình ảnh kính yêu, thần tượng của Bác Tôn trong đồng bào, đồng chí Thủ đô Hà Nội, của miền Bắc và cả nước.
Tôn Đức Thắng cũng tiêu biểu cho tình cảm hữu nghị cao đẹp trong sáng của dân tộc Việt Nam với đồng bào, bạn bè quốc tế bắt đầu từ sự kiện phản chiến năm 1919 để bảo vệ cách mạng Tháng Mười Nga và nhiều hoạt động quốc tế khác, nhất là trên cương vị Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Đồng chí Tôn Đức Thắng là người con ưu tú của Tổ quốc, là một gương mẫu đạo đức cách mạng suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân; là chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tình cảm đặc biệt đã gắn bó hai con người, hai vị lãnh tụ - Bác Hồ, Bác Tôn - như một tình đồng chí, tình bạn vĩ đại và cảm động. Chắc chắn khi đọc cuốn sách này, mọi người Việt Nam hiểu sâu sắc hơn cuộc đời và sự nghiệp của nhà cách mạng Tôn Đức Thắng, kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang và học tập, làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ và Bác Tôn kính yêu.
Hà Nội, ngày 20-8-2013
PGS, TS. NGUYỄN TRỌNC PHÚC
NGUYÊN VIỆN TRƯỞNG VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG
Lời Nhà xuất bản Chủ tịch Tôn Đức Thắng là chiến sĩ cách mạng kiên cường, mẫu mực, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam, người bạn chiến đấu gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã vượt qua nhiều gian nan, thử thách ác liệt, bị kẻ thù giam cầm, tra tấn dã man nhưng vẫn nêu cao tinh thần cách mạng kiên cường và niềm tin vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và dân tộc.
Là chiến sĩ cộng sản lớp đầu tiên của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, đồng chí đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta giao phó. Ở bất cứ cương vị nào, đồng chí cũng nêu cao tấm gương sáng ngời về lòng trung thành, tận tụy, về tinh thần anh dũng bất khuất, đạo đức khiêm tốn và giản dị, mãi mãi để các thế hệ sau noi theo. Cuộc đời của đồng chí là tấm gương sáng ngời về nhân sinh quan và đạo đức cách mạng…
Nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20-8-1888 - 20-8-2013) nhằm ôn lại lịch sử, truyền thống cách mạng vẻ vang của dân tộc, qua đó góp phần tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ về chủ nghĩa yêu nước, tinh thần kiên cường bất khuất đấu tranh chống ngoại xâm, và phẩm chất đạo đức cách mạng của thế hệ cha ông, đồng thời, tỏ lòng biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta đối với Cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng, người con yêu quý của dân tộc, người cộng sản chân chính, mẫu mực, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp với tập thể tác giả do TS. Ngô Quang Láng (Chủ biên) tổ chức sưu tầm, tuyển chọn và xuất bản cuốn sách: Tôn Đức Thắng - Một con người bình thường - vĩ đại. Cuốn sách chọn lọc từ các tác phẩm đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - xuất bản từ trước đến nay. Phần lớn là các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các bậc lão thành cách mạng, các bạn chiến đấu, các cộng sự, những người thân trong gia đình, các cán bộ phục vụ và bảo vệ đồng chí Tôn Đức Thắng lúc hoạt động bí mật cũng như công khai. Đây cũng là những nhân chứng lịch sử đã dành những tình cảm sâu sắc và chân thành, kính mến đối với đồng chí Tôn Đức Thắng. Bên cạnh đó còn có ca những bài viết của các nhà nghiên cứu, các nhà văn hóa và các nhà hoạt đông thực tiễn.
Nội dung cuốn sách gồm ba phần:
- Phần thứ nhất: Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam, tuyển chọn nội dung đã in trong cuốn sách Tôn Đức Thắng - tiểu sử do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật ấn hành năm 2007.
- Phần thứ hai: Tôn Đức Thắng, biểu tượng của đại đoàn kết, tuyển chọn nôi dung đã in trong cuốn sách Tôn Đức Thắng - Người cộng sự mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký) do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật ấn hành năm 2003.
- Phần thứ ba: Tôn Đức Thắng - Một số bài viết chọn lọc, tuyển chọn nội dung đã in trong cuốn sách Tôn Đức Thắng - Những bài nói và viết chọn lọc do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật ấn hành năm 2005.
Những nội dung được sưu tầm, chọn lựa thể hiện trong từng phần cuốn sách đã phản ánh một cách sinh động và chân thành về tài năng, đức độ và cống hiến lớn lao của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Hy vọng cuốn sách đáp ứng phần nào lòng mong mỏi tìm hiểu và học tập tấm gương “Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết"- Tôn Đức Thắng.
Mặc dù trong quá trình sưu tầm, biên soạn và biên tập đã có nhiều cố gắng nhưng khó tránh khỏi sơ suất thiếu sót. Rất mong quý độc giả chia sẻ, góp ý để hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 8 năm 2013
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT
Phần thứ nhất: TÔN ĐỨC THẮNG VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM I. THỜI NIÊN THIẾU VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC ĐẦU TIÊN
(1888-1916)
1. Sớm có lòng yêu nước, giải phóng đồng bào (1888-1906)
Tôn Đức Thắng (ở quê hương quen gọi là Hai Thắng) sinh ngày 20-8-1888 tại quê nội là Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay thuộc thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Quê ngoại của Tôn Đức Thắng là rạch Cái Sơn, xã Mỹ Phước, cũng thuộc tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên1.
Cù lao Ông Hổ là một cù lao nhỏ nằm giữa chia dòng Cửu Long khi chảy vào Việt Nam thành sông Hậu và sông Tiền, có chiều dài 3km, chiều ngang nơi rộng nhất 5 km, nằm chếch 4km về hướng Tây - Bắc thành phố Long Xuyên. Cù lao Ông Hổ nằm song song với Cù lao Ông Chưởng, cũng ở giữa dòng Cửu Long tạo nên cảnh thơ mộng cho vùng đất phù sa màu mỡ, trù phú. Đất trên Cù lao Ông Hổ là loại đất phù sa được bồi hằng năm, khi nước sông Hậu chảy tràn vào đưa đến cho vùng đất này lớp phù sa mới vào mỗi mùa nước nổi kéo dài nửa năm một kỳ. Ở đây, nông dân thường sau mỗi mùa sạ cấy xong, lại bắt tay vào chuẩn bị ghe xuồng, câu lưới, đặt lờ, lợp, trùm, v.v. đánh bắt cá tôm ngay trên những con rạch từ sông Hậu chảy vào. Nông dân cù lao thường có những câu dân ca khi đưa xuồng ra sông rạch:
“Bao phen quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng thiệt nhiều cá tôm”…
Thiên nhiên dành cho Cù lao Ông Hổ thật nhiều ưu đãi, nhưng cũng kèm theo những thử thách khắc nghiệt vào mùa lũ hằng năm, thường từ tháng 7 đến tháng 9. Chính vì thế, người dân cù lao phóng khoáng, hiền lành, chịu thương, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, và cũng rất táo bạo, dũng cảm trước thiên tai, chống chọi được với mỗi con lũ lên hằng năm.
Nơi sinh ra Tôn Đức Thắng là một ngôi nhà sàn, vách ván, lợp ngói âm dương được dựng lên trước lúc Tôn Đức Thắng chào đời bốn năm. Ngôi nhà có một khoảng sân rộng chừng 10 thước rợp bóng xoài, mận và một hàng rào dâm bụt cùng dãy khóm hoa mẫu đơn, bây giờ còn giữ lại2 tại khu di tích Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Cách bài trí bên trong theo kiểu nhà Nam Bộ xưa: Có hàng hiên rộng gần nửa lòng nhà, bộ tràng kỷ và hai bộ ván ngựa hai bên, bên trong hàng cửa chính giữa là bàn thờ ông bà; phía bên trái có căn chái dùng làm bếp, và là nơi chứa lúa. Ngôi nhà nằm trước mặt dòng sông Hậu, giữa một khu vườn khá rộng, bao quanh bởi một lũy tre dày đặc như để ngăn gió bão, lũ lụt hằng năm cho cả nhà.
Tôn Đức Thắng sinh ra trong một gia đình nông dân tương đối khá giả. Thân phụ của Tôn Đức Thắng là Tôn Văn Đề và thân mẫu là Nguyễn Thị Dị đều là những người nông dân hiền lành, cần cù, chịu khó, chất phác như bao người nông dân Cù lao Ông Hổ. Khi hai vợ chồng được ông bà ngoại giúp đỡ cất xong nhà, bốn năm sau con trai đầu lòng là Tôn Đức Thắng ra đời và sau đó là ba người em ruột. Cả bốn anh em, hai trai, hai gái đều khỏe mạnh, lớn lên ai cũng cần cù, chịu khó nên bà con, cô bác ở cù lao đều thương mến.
Khi Tôn Đức Thắng sinh ra thì chợ Long Xuyên đã khá đông đúc. Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, cuối thế kỷ XIX, Long Xuyên được tách ra thành một tỉnh gồm ba quận: Châu Thành, Thốt Nốt, Chợ Mới. Chợ Long Xuyên là một điểm hội tụ ghe xuồng đông đảo từ quận Thốt Nốt lên, Châu Đốc xuống, Chợ Mới qua, Rạch Giá lên nên thường rất đông đúc, nhộn nhịp bốn mùa. Trước và sau mỗi dịp Tết Nguyên đán ở đây là nơi hội tụ của cả vùng rộng lớn đầu dòng sông Hậu, vệ sông Tiền trước khi đổ về các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Năm 1894, khi Tôn Đức Thắng sáu tuổi, cha mẹ gửi ông về quê ngoại ở rạch Cái Sơn, xã Mỹ Phước để theo học chữ. Ông Nguyễn Thượng Khách (Năm Khách), một thầy giáo làng đáng kính là thầy giáo đầu tiên của Hai Thắng. Ông Nguyễn Thượng Khách là một nhà Nho yêu nước, sau này có tham gia nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục do cụ cử Vũ Hoành3 phụ trách. Nhà ông ở Đường Ngang gần rạch Cái Sơn, quê ngoại của Hai Thắng. Ông Năm Khách mở tiệm thuốc Bắc, bắt mạch, hốt thuốc để sinh sống. Tiệm thuốc của ông Năm Khách cũng là nơi tụ họp của các cụ đồ, ông tú, ông cử cùng chí hướng trong vùng Long Xuyên xướng họa thơ văn yêu nước với nhau.
Có một lần trong khi các bạn nhà Nho yêu nước đang bình thơ văn yêu nước, thầy Năm Khách bắt gặp Tôn Đức Thắng đứng suy tư nghe trộm. Thấy Tôn Đức Thắng là một đứa trẻ thông minh, thầy giáo đã không la rầy mà sau những giờ học, hoặc lúc Tôn Đức Thắng sang nhà ông chơi, ông thường kể cho Thắng nghe về những tấm gương yêu nước: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Dương, v.v. nhiều lúc ông còn đọc cho trò Thắng nghe những đoạn thơ của những nghĩa sĩ trong nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục.
Lớp học của thầy Nguyễn Thượng Khách (Năm Khách) là một căn nhà ngang, sát ngay nhà thầy giáo và kề bên con lạch Cái Sơn, Cù lao Ông Hổ. Từ nhà ngoại, Tôn Đức Thắng chỉ cần qua con lộ xuyên qua đường, đi một lối ngắn, dưới những rặng xoài, vú sữa của đất cù lao ngay bên dòng sông Hậu, con sông lớn nhất của sông Mê Kông chảy qua quê hương ông là có thể đến được lớp học.
Thầy giáo làng Năm Khách là người có tinh thần yêu nước, những lúc rảnh rang, ông thường kể cho người học trò Hai Thắng ham học, ham hiểu biết về những sự kiện đã xảy ra tại quê hương, khi ông chưa ra đời. Khi học Hai Thắng thường nêu nhiều câu hỏi với thầy, chẳng hạn tại sao đất nước mình lại có những người nơi khác đến mà họ lắm quyền hành thế. Tại sao họ muốn giết người mình lúc nào cũng được? Thuế mình nộp để người Pháp làm gì? Tại sao mình phải đi xâu? Khi chết cũng không được đền mạng? Nước Pháp ở tận đâu? Nước bên cạnh có người nước ngoài đến cai trị như nước mình không? Họ có làm ruộng, làm thợ như mình không? Những câu hỏi của người học trò được thầy giáo Năm Khách giải đáp, và nhờ trí thông minh, đức hiếu học, cậu học trò Hai Thắng đã chắp nối và dần dần hiểu ra thời cuộc Tôn Đức Thắng được học thật ra không lâu, nhưng cái chính là ông đã được dạy cách làm người, biết yêu cái đúng, ghét cái sai, lòng say mê thiên nhiên đất nước, trung thành với sự nghiệp của cha ông.
Sau khi học chữ quốc ngữ ở trường tiểu học tại làng, Hai Thắng vẫn thường tìm về thầy giáo Năm Khách và coi thầy giáo như người cậu trong nhà, nên ông gọi là cậu Năm. Thầy Năm Khách là người nhớ kỹ, lại chăm đọc sách báo nên biết rất tường tận nhiều chuyện trong làng, chuyện thiên hạ, ông thường chỉ cho Hai Thắng những loại sách cần đọc, từ đó càng nung nấu thêm lòng ham hiểu biết, ham học của một người trẻ tuổi. Từ những mẩu chuyện và những cuốn sách mà thầy Năm Khách cho mượn, Hai Thắng hiểu được thêm vì sao miền Nam sớm rơi vào tay thực dân Pháp, và họ đến xâm chiếm cả nước ta để làm gì.
Học hết lớp ba trường tiểu học, Tôn Đức Thắng đi thị xã Long Xuyên để học hết bậc tiểu học. Học với trò Hai Thắng có bốn người bạn thân. Nhóm năm cậu “nhứt Thắng, nhì Lạc, tam Vinh, tứ Mẹo, ngũ Sung” là những anh em thân thiết nhất, tuy khác tuổi khác họ, nhưng là những bạn học giỏi, lễ phép với thầy cô giáo, tốt bụng với bạn bè. Cả nhóm năm người vừa thông minh ham học và thích bênh vực người yếu thế, kể cả việc ra tay trị những kẻ lớn tuổi, ỷ thế ăn hiếp người khác. Có lúc những người trong nhóm của Hai Thắng đã trị những người ăn hiếp bạn bè lớn hơn mình cả chục tuổi. Những năm học tiểu học ở thị xã Long Xuyên, Hai Thắng thường ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, tóc để dài, chải ngược, lộ rõ vầng trán cao sáng sủa.
Từ quê ngoại, những lúc nghỉ học, được về thăm nhà ở Cù lao Ông Hổ, Tôn Đức Thắng thường chống xuồng để dỡ lợp, dỡ lờ theo các xuồng chài trên dòng sông quê hương. Mùa nước lên, anh chống xuồng đi hái rau muống, nhổ bông súng về làm dưa chấm với mắm kho sả ớt. Mùa nước xuống, anh vẫn thích có cá linh kho hầm, chấm với đọt xoài, đọt bằng lăng, đọt lá lụa. Đặc biệt, Tôn Đức Thắng thích nhất cá rô kho tộ, bỏ thật nhiều tiêu, ăn ngon đậm, sau này khi là Chủ tịch nước, về thăm quê hương, ông vẫn mang theo món ăn quê hương mình ra tận Hà Nội4.
Đốc học trường tiểu học lúc đó là Pơledơ người Pháp, phụ việc cho đốc học là một người Việt tên là Phan Văn Ngân, thầy giáo dạy lớp nhất. Hai Thắng là học trò ham hiểu biết, ham học nhưng không chịu tư tưởng coi thường người bản xứ của đốc học người Pháp. Có những lần đốc học nhắc Hai Thắng cắt tóc, trái với những thư sinh Hán học thời ấy, tan học về Hai Thắng đã ra tiệm cạo trọc đầu ngay, rồi nói với chúng bạn: “Tao cạo rồi, tụi bay có cạo thì cạo”. Thế là từ đó Hai Thắng nổi tiếng là cứng cỏi, bướng bỉnh nhất lớp và dám bênh cả những bạn học bị đốc học người Pháp phạt không có căn cứ, kể cả việc vận động cả lớp nhất của trường phản đối đốc học vô lý phạt hai học trò lớp nhất, bắt ra đứng phơi nắng ngoài sân trường.
Khoảng 12 tuổi, Tôn Đức Thắng thường tìm thầy Năm Khách để hỏi và nghe kể về những chí sĩ yêu nước như Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Thông, Nguyễn Đình Chiểu v.v. và khi nghe tin Phan Bội Châu sắp vào Nam thì Hai Thắng đã dò tìm cách gặp được như chí sĩ họ Phan để hiểu biết thêm về những hành động yêu nước của cụ.
Ý định ấy của Tôn Đức Thắng đã dẫn anh đi tìm phương hướng mới mà sau này lịch sử đã chứng minh đó là “phương hướng tốt, hợp thời đại”.5
2. Những hoạt động yêu nước đầu tiên (1906-1916)
Năm 1906, Tôn Đức Thắng học xong bậc tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên. Không có điều kiện tiếp tục học bậc trung học, nhưng qua những điều tiếp nhận được từ lời giảng của thầy, qua kiến thức sách vở, theo nhận thức cảm tính ban đầu, Tôn Đức Thắng quyết định rời quê hương và hành động theo tiếng gọi của trái tim mình. Vào một ngày đầu Xuân năm 1907, với tuổi thanh niên rực lửa, trong lòng mang nặng truyền thống yêu nước, thương nòi, nhân nghĩa, hiếu lễ, khoan dung của quê hương và nỗi nhục, nỗi đau của người dân nô lệ bị mất nước, mất độc lập tự do, Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn sinh sống.
Việc Tôn Đức Thắng chọn đường đi riêng cho cuộc đời mình thể hiện khát vọng và ý chí tự lập lớn. Ý chí tự lập ngay từ tuổi trẻ là một nét độc đáo trong tính cách của Tôn Đức Thắng, là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên nhân cách toàn diện của Tôn Đức Thắng sau này.
Chọn Sài Gòn để đến tìm việc và sinh sống, Tôn Đức Thắng đã đặt chân lên một trong hai trung tâm kinh tế - chính trị lớn nhất nước ta hồi đó.
Sài Gòn trong những năm đầu thế kỷ XX đã sầm uất. Dân số đã lên trên 100.000 người. Nếu tính cả Chợ Lớn thì dân số lên tới 300.000 người. Thành phố còn rất trẻ nhưng sự phát triển khá nhanh. Vào thế kỷ XVIII, Nguyễn Ánh xây dựng thành Gia Định gọi là thành Quy. Vì Lê Văn Khôi khởi binh cố thủ ở thành Quy mà thành này to lớn, kiên cố nên sau khi đánh bại Khôi, Minh Mạng ra lệnh triệt hạ, xây lại một thành nhỏ hơn gọi là thành Phụng hay là thành Gia Định. Thành Gia Định bị quân Pháp chiếm năm 1859. Từ thế kỷ XIX, Sài Gòn (thành Gia Định) đã là một thị trấn thương mại quan trọng. Sau khi Pháp chiếm, Sài Gòn càng phát đạt vì chính quyền thực dân mở cảng buôn bán rộng lớn hơn với các nước, đặc biệt là vơ vét xuất cảng lúa gạo, lập xưởng sửa chữa tàu lớn, đóng tàu nhỏ và biến Sài Gòn thành bàn đạp để xâm lược cả Đông Dương. Phong trào Cần Vương ở hai miền Trung và Bắc chấm dứt, thực dân Pháp bắt đầu chương trình “khai thác lần thứ nhất” thì Sài Gòn - Chợ Lớn đã trở thành thành phố tương đối lớn, nhộn nhịp nhất nước ta về kinh tế.
Công cuộc mở mang kỹ nghệ và thương mại tại Sài Gòn - Chợ Lớn ngày càng phát triển. Tư sản Pháp, tư sản Hoa kiều rồi tư sản người Việt bỏ vốn ra kinh doanh sản xuất, dịch vụ. Tiệm buôn, tiệm ăn mở ra ngày càng nhiều. Ngành điện, nước đã được phát triển trước tiên để phục vụ cho các công sở, cơ quan, nhà máy, nhà ở của bọn thống trị và một phần phục vụ cho sinh hoạt dân dụng của thành phố. Cuối thế kỷ XIX, tuyến đường sắt đầu tiên trên đất nước Việt Nam từ Sài Gòn đi Mỹ Tho được xây dựng và đưa vào khai thác để vơ vét lúa gạo vùng Cửu Long về Sài Gòn xuất khẩu. Trong những năm đầu thế kỷ XX, nhiều cầu cống, đường sá được xây dựng như cầu Bình Lợi, đường Sài Gòn - Bà Rịa, đường sắt Sài Gòn - Nha Trang. Ngành xay xát lúa gạo là một ngành được quan tâm phát triển nhằm vơ vét lúa gạo xuất khẩu. Năm 1905, Sài Gòn - Chợ Lớn có tới chín nhà, máy bay, máy động lực mỗi cái tới bảy, tám trăm mã lực, vốn mỗi cái từ 1,2 đến 1,5 triệu Franc, xây được hàng triệu tấn thóc và ba phần tư số thóc được xay ở các nhà máy này. Lúc đầu thực dân Pháp không chú ý nên các nhà máy xay phần lớn nằm trong tay tư sản Hoa kiều. Về sau thấy dễ ăn, tư sản Pháp cũng lao vào ngành xay xát. Năm 1912, thành lập Công ty Pháp - Đông Dương mua bán và xay xát lúa gạo, có chi nhánh tại Sài Gòn là Hãng Denis Frères. Các ngành chế biến đường, rượu, giấy, xà bông, dệt nhuộm, v v… cũng lần lượt ra đời.
Sự phát triển công nghiệp và thương mại tại Sài Gòn - Chợ Lớn kéo theo sự xuất hiện của các lớp dân cư mới. Đó là lực lượng thợ thuyền. Theo sự tính toán của Liên hiệp Công đoàn Thành phố Hồ Chí Minh thì số công nhân doanh nghiệp ở Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1929 có khoảng trên 25.000 người so với dân số Sài Gòn - Chợ Lớn khoảng 317.000 người, chiếm tỷ lệ 7% dân số, một tỷ lệ khá cao lúc đó6. Nguồn gốc của những người thợ rất khác nhau. Một số ít là dân nghèo thành thị, số ít hơn được đào tạo trong các trường dạy nghề của thực dân Pháp, còn lại phần lớn là nông dân mất đất từ lục tỉnh lên. Thời đó, thực dân Pháp không đầu tư kỹ thuật hiện đại, vẫn sử dụng lao động thủ công vốn rẻ mạt ở thuộc địa. Tuy vậy, đối với các ngành cơ, điện thì một phần chúng phải đào tạo thợ, nhân viên kỹ thuật người bản xứ. Họ đi làm công cho các hãng, xưởng lớn với lương bổng đủ bảo đảm nếu không thì hành nghề tự do bằng dịch vụ sửa chữa, lắp ráp, chế tạo phụ tùng, v v.. Nhiều garage, đềpô mọc lên. Nhiều người từ đó ngoi lên thành chủ và trở thành tư sản bản xứ7.
Lên Sài Gòn hơn một năm, Tôn Đức Thắng đi lại quan sát, tìm hiểu khá nhiều nơi. Nhờ vậy, anh phân biệt và đánh giá Sài Gòn có bốn hạng người:
- Sài Gòn của bọn thống trị người Pháp. Bọn này có nhà cao cửa rộng, có đủ mọi tiện nghi sinh hoạt. Kể cả chơi bời, ăn uống, giải trí cũng có nơi riêng. Những nơi đó có lính canh phòng cẩn mật, cấm người bản xứ ra vào, kể cả đi ngang, ngó lâu cũng bị theo dõi. Kiểu cách đó cũng không khác gì ở Long Xuyên quê anh, khu bănggali, bể bơi, sân tennít dành riêng cho người Pháp ở bên Bình Đức cũng không ai được bén mảng tới.
- Sài Gòn của giới công chức, thầy chủ. Đây là thế giới mà anh chú ý nhiều nhất. Bởi vì, theo thói thường mọi người đều khuyên anh đi vào thế giới đó. Thực ra, nếu muốn, anh cũng gia nhập vào thế giới đó không khó mấy. Sức học sẵn có, vào Trường Chasseloup Laubat ít năm thì trở nên “thầy” ngay. Vốn đã không thích nên càng quan sát anh càng thấy đa số hạng người này có nhiều cái khó ưa. Ngoài sự luồn cúi, nịnh bợ của họ, anh thấy thêm họ là lớp người lai căng, nói thì nửa Tây nửa ta, với dân lành họ cũng hống hách hơn cả chủ Tây. Tuy vậy, họ cũng là những người đáng thương. Cũng có lúc họ bị chủ bợp tai, đá đít, bị chửi những câu rất thô tục. Vậy mà họ vẫn chịu được sao? Sau những ngày suy nghĩ, Tôn Đức Thắng dứt khoát không đi theo con đường “nhàn nhã, ấm thân” đó.
- Sài Gòn thương mại với những tiệm tạp hóa tiệm ăn, nhà ngủ, tiệm rượu, tiệm hát, v.v.. Đó là một thế giới ồn ào, náo nhiệt, hoạt động suốt ngày đêm. Nhất là trong Chợ Lớn, các tiệm buôn, tiệm ăn của người Hoa thì lại càng ồn ào hơn. Nhưng Tôn Đức Thắng đi học không phải để đi vào con đường thương mại. Anh quan sát, nhưng không bao giờ có ý nghĩ nào muốn vào con đường đi buôn để kiếm sống cả.
- Sài Gòn của người lao động. Đây là một thế giới đa dạng rất phức tạp. Đâu cũng thấy những người lao động gánh thuê, vác mướn không có việc nhất định, những người làm phu xe kéo, xe lôi, xe ba gác, v.v. quanh năm làm cật lực mà vẫn không đủ ăn. Trong xã hội của những người lao động này, có những tay “anh chị” ngang tàng, bướng bỉnh, nói năng thô tục, sống nay không biết mai. Anh suy nghĩ mãi về hạng người này. Họ tập hợp em út lại, đành rằng có bênh vực nhau khi bị lính tráng ức hiếp nhưng rồi chính họ cũng bắt nạt lẫn nhau. Như vậy, ngẫm ra tập hợp để làm gì? Xét ra trong hạng người này, cuối cùng hay nhất là cuộc sống của người thợ. Thợ máy, thợ điện, thợ mộc, thợ hồ, v.v. mỗi người có một nghề, sinh sống bằng chính nghề của mình. Người thợ làm ra cái gì cũng đều phải có đầu óc suy nghĩ, sáng chế các dụng cụ theo ý muốn của mình. Trong các nghề thợ, Tôn Đức Thắng thích nhất là nghề thợ máy và thợ điện. Vậy là, Tôn Đức Thắng quyết tâm vào học nghề làm thợ.
Lên Sài Gòn, bắt đầu cuộc đời làm thợ, Tôn Đức Thắng đã đến ngay với giai cấp công nhân Việt Nam, lúc đó đang trong quá trình hình thành. Lúc đầu Tôn Đức Thắng đi làm công cho các garage, đềpô tư nhân. Năm 1910, anh vào làm công nhân cho Xưởng Krupp thuộc Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa Sài Gòn. Với tư cách người thợ, Tôn Đức Thắng đã nhận thấy sức mạnh của thợ thuyền, chứng kiến sự bóc lột của bọn thủ đối với anh em công nhân. Vì vậy anh đã sớm có những hoạt động yêu nước, tham gia vận động anh em học sinh lính thủy bỏ học (năm 1909), anh chị em công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa Sài Gòn chống bọn chủ cai, ký, cúp phạt, đánh đập vô lý và đòi tăng lương (1910). Năm 1912, Tôn Đức Thắng tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son và vận động học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn bãi khóa. Sự kiện lịch sử này in dấu ấn rất sâu đậm trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Đức Thắng. Vào những năm chuẩn bị bước vào cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoảng từ năm 1911-1912 trở đi, để chuẩn bị cho chiến tranh, thực dân Pháp đã ra sức bóc lột tài nguyên, nhân tài vật lực của nước ta và các nước thuộc địa khác. Ở các xí nghiệp công nghiệp, chúng ra sức bóc lột sức lao động của công nhân, buộc công nhân phải sản xuất nhiều hàng hóa, vũ khí và thu nhiều lợi nhuận cho chúng. Từ năm 1911, ở Trường Bá Nghệ Sài Gòn đã áp dụng chế độ học tập và làm việc thực tập 10 giờ một ngày dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của thực dân Pháp. Thực tập thêm giờ, nhưng không được trợ cấp bồi dưỡng, trái lại học sinh làm hỏng sản phẩm lại phải bồi thường. Sự bất công đó đã được một số học sinh kể lại với Tôn Đức Thắng. Sẵn lòng căm ghét bọn thực dân Pháp, anh đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của học sinh Trường Bá Nghệ đòi bọn chỉ huy nhà trường không được bắt làm thêm giờ, không được bóc lột sức lao động của học sinh, đòi phải giữ nguyên chế độ học tập, thực tập tám giờ một ngày như trước. Trước sự đấu tranh của học sinh, bọn chủ không những không sửa đổi “chế độ lao động thực tập” mà còn thẳng tay đàn áp những người chúng nghi cầm đầu, bằng cách báo cho mật thám bắt giam vào xà lim.
Việc đàn áp này đã “đổ thêm dầu vào lửa” làm cho học sinh càng phẫn uất, đồng loạt bỏ học, bỏ thực tập. Bọn thực dân được tin, một mặt lập tức tìm cách đe dọa khủng bố, mặt khác dụ dỗ học sinh không nên có hành động quá khích, nhưng học sinh Trường Bá Nghệ đã được Tôn Đức Thắng hướng dẫn từ trước nên kiên quyết không chịu nếu bọn chỉ huy không chịu chấp nhận yêu sách của anh em và không chịu thả những anh em bị bắt, cho được trở lại nhà trường học tập bình thường.
Trước cuộc đấu tranh của học sinh Trường Bá Nghệ, chính quyền thực dân ở Sài Gòn lệnh cho Giám đốc Xưởng Ba Son đưa công nhân Xưởng Ba Son sang làm thay cho học sinh nhà trường để kịp hoàn thành sản phẩm đúng thời gian. Nhưng công nhân Xưởng Ba Son lúc này cũng đã được Tôn Đức Thắng báo tin và vận động từ trước nên không chịu đi làm thay. Trước hành động chống lệnh của công nhân Xưởng Ba Son, chủ xưởng liền cho bắt một số thợ đấu tranh kiên quyết, đưa vào xà lim giam giữ. Lập tức cuộc đình công ở Xưởng Ba Son nổ ra, toàn thể công nhân ở 11 xưởng trại nhất loạt bỏ việc và đưa ra các yêu sách:
- Phải thả ngay những người bị bắt và gọi công nhân đi làm.
- Không được hành hạ đánh đập công nhân trong khi làm việc.
Cuộc đình công của công nhân Xưởng Ba Son tác động mạnh tới học sinh Trường Bá Nghệ. Trường Bá Nghệ cũng nêu các yêu sách tương tự: Phải thử ngay những người bị bắt để tiếp tục học tập, phải sửa đổi chế độ thực tập mới không được bóc lột sức lao động của học sinh, chế độ mới về thực tập phải được quy định rõ ràng và công bố trước toàn thể học sinh, v.v..
Cuộc đình công của công nhân Xưởng Ba Son và bãi khóa của học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn giành được thắng lợi. Quan chức Pháp ở hai cơ sở này đã phải đáp ứng những đòi hỏi của công nhân và học sinh.
Cuộc đình công năm 1912 là cuộc đấu tranh đầu tiên của công nhân Xưởng Ba Son chống lại sức mạnh cường quyền của bọn tư sản, thực dân, cùng với những cuộc đấu tranh, đình công khác của công nhân Sài Gòn và cả nước vào thời gian này, báo hiệu một thời kỳ mới của giai cấp công nhân Việt Nam, thời kỳ giai cấp công nhân đang chuyển mình từ một giai cấp “tự mình” đến một giai cấp “cho mình”. Riêng với người thợ cơ khí Tôn Đức Thắng, thắng lợi của cuộc đình công - bãi khóa này đã một lần nữa mang đến cho anh một niềm vui, một niềm tin vào sức mạnh của giai cấp thợ thuyền, giai cấp mà anh đã tự nguyện gia nhập ngay từ tuổi thanh niên khi mới bước vào cuộc sống tự lập. Thắng lợi đó đã giúp Tôn Đức Thắng có thêm những kinh nghiệm bước đầu trong việc vận động đoàn kết tập hợp công nhân đấu tranh chống lại bọn tư bản thực dân8.
Những cuộc đấu tranh đầu tiên đó của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi và biểu lộ sức mạnh của lực lượng xã hội mới. Do đó, đã làm cho bọn thống trị phải lo lắng, hoảng sợ, vì đã đến lúc chúng “... phải cuốn gói ra đi, vừa vái chào dân tộc Việt Nam đã được hồi sinh bằng những cuộc bãi công”9.
Như vậy, rời quê hương lên Sài Gòn, Tôn Đức Thắng chọn con đường làm thợ và đến với giai cấp công nhân Việt Nam. Đây là bước ngoặt đầu tiên, kết hợp tư tưởng yêu nước với tư tưởng cách mạng, một kết quả hợp lôgích, phù hợp với sự phát triển thế giới nội tâm của một người thanh niên có học, có khát vọng làm những việc hữu ích cho đất nước, dân tộc và nhân dân, đã có chí hướng thích lao động kỹ thuật, thích hoạt động khám phá, sáng tạo ngay từ thuở nhỏ.
Tuy nhiên, đứng trước một nền công nghiệp mới của tư bản phương Tây, muốn trở thành một người thợ lành nghề, được đào tạo chính quy và có điều kiện thực tập, tiếp xúc với máy móc, phương tiện kỹ thuật của nền công nghiệp tư bản, thì phải được theo học ở một trường cơ bản, chính quy. Với suy nghĩ đó, qua nhiều năm làm nghề tự do với một tay nghề khá thành thạo đã có thể biết nghe, biết nhìn, biết phán đoán những chỗ hư hỏng của máy móc, đạt đến trình độ nghe tiếng máy chạy đã có thể biết máy hỏng hóc ở chỗ nào; cùng với trình độ tay nghề hơn người, Tôn Đức Thắng đã tích lũy cho mình một vốn sống khá toàn diện, phong phú và quyết định vào học tại Trường Cơ khí châu Á ở Sài Gòn (L'école des mécaniciens Asiatiques de Sai Gon), thường được gọi là Trường Bá Nghệ Sài Gòn10.
Trường Bá Nghệ Sài Gòn được thành lập ngày 20-2-1906. Trường có nhiệm vụ đào tạo thợ cơ điện người bản xứ để làm việc cho các công xưởng của thực dân Pháp ở thuộc địa, thực hiện chương trình khai thác thuộc địa mà Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã đề ra. Học sinh tốt nghiệp trường này bắt buộc phải làm việc cho các hãng xưởng của Pháp, trước hết là tuyển vào làm cho Hãng Arsenal de Sai Gon (Xưởng Ba Son), ít nhất là ba năm, sau đó mới có thể tự do tìm chỗ làm khác. Quy định này mang tính bắt buộc. Nhà trường chiêu sinh mỗi khóa không quá 20 học sinh. Hiệu trưởng nhà trường là người Pháp có tên Emmanuel Rosel. Ông này đã giữ chức hiệu trưởng trong vòng hơn 33 năm từ khi thành lập trường. Trong nhà trường bên cạnh các phòng học, lớp học, các mô hình, đồ dùng dạy học, còn có một xưởng máy đủ các ngành: Điện, nguội, hàn, rèn, cơ khí, v.v.. Học sinh, ngoài các buổi học lý thuyết, phải thực tập tại trường theo một chế độ bắt buộc. Trường Bá Nghệ là một kiểu trường vừa học, vừa làm. Vì thế, nhà trường nhận việc sửa chữa, gia công các phụ tùng điện máy của tư nhân, của các hãng xưởng khác và cho học sinh thực tập ngay trên các máy đó. Học sinh có điều kiện thực hành vận dụng lý thuyết, rèn luyện, nâng cao tay nghề. Chế độ lao động của Trường Bá Nghệ hết sức nặng nề. Ngoài thời gian lên lớp nghe giảng, mỗi học sinh mỗi ngày còn phải đứng máy năm, sáu giờ liền. Nếu học sinh nào vô tình hay cố ý làm hư hỏng, chậm trễ thì bị đánh đập chửi mắng, cúp phạt hết sức hà khắc, ngặt nghèo. Cũng vì lý do này mà một số học sinh trong thời gian theo học rơi vào tình trạng thiếu đói, cùng quẫn.
Trong nhà Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ một cuốn sổ ghi chép danh sách những học sinh tốt nghiệp các khóa của Trường Bá Nghệ. Ở trang 20, danh sách học sinh tốt nghiệp niên khóa 1915 - 1917, dòng đầu tiên ghi:
1) Tôn Đức Thắng, Province: Long Xuyên. Date et lieu de naissance: 20 ans, An Hòa, Long Xuyên. Moyenne générale de l'examen: 1611.
Tôn Đức Thắng học ở Trường Bá Nghệ theo chương trình hai năm, bắt đầu từ tháng 3-1915 đến tháng 9-191612.
Trong phòng truyền thống của nhà trường hiện nay còn nhiều hình ảnh, hiện vật giới thiệu một quãng trong cuộc đời thanh niên sôi nổi, đầy ý nghĩa của Tôn Đức Thắng khi anh còn học ở trường. Trong có hiện vật còn lại, đáng quý nhất là một cái rương bằng gỗ đã có vài chỗ bị mọt đục thủng, có dòng chữ nên nói chân phương rõ ràng “Tôn Đức Thắng” trên một miếng kẽm nhỏ gắn vào mặt trước. Đó là cái rương của Tôn Đức Thắng dùng đựng đồ dùng cá nhân thời theo học tại trường.
Trước khi vào học Trường Bá Nghệ, Tôn Đức Thắng đã có một trình độ tay nghề thành thạo. Việc học tập và thực hành đối với anh không có gì khó khăn; anh có điều kiện giúp đỡ nhiều anh em khác trong lớp, trong trường. Khi làm thợ cũng như khi học ở Trường Bá Nghệ, Tôn Đức Thắng đã cảm nhận được sức mạnh của thợ thuyền, nếu họ đồng lòng, dốc sức, liên kết và biết nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau. Chẳng hạn, nếu không đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau thì học sinh Trường Bá Nghệ do Thắng cầm đầu không thể đấu nổi với du côn Đường Mới, Cầu Muối; hoặc không có sự đồng lòng thì Thắng và các bạn học cũng không thể buộc tên Giám đốc Rosel phải xin lỗi vì thái độ hống hách, đánh người vô cớ, v.v... Đứng máy, sản xuất trên dây chuyền công nghệ, Tôn Đức Thắng thấy rõ mọi người có gắn kết chặt chẽ với nhau, việc của người này đều ảnh hưởng tới việc của người khác, một người nghỉ việc thì việc trước còn dở, việc sau khó hoàn thành. Nếu tất cả thợ thuyền đồng lòng trên dưới, nghe theo người cầm đầu, nghỉ việc thì nhà máy ngừng hoạt động. Bọn chủ sợ nhất công nhân đình công, bãi khóa. Ngừng một giờ máy, nhiều sản phẩm không được làm ra, chủ sẽ bị thiệt hại rất nhiều. Vì thế, chủ vừa đánh chửi, đe nẹt, vừa mua chuộc, lấy lòng thợ. Thợ càng giỏi thì chủ càng ưa thích, càng có uy tín và vị trí cao trong anh em. Tôn Đức Thắng khi đó có một thân một mình nhưng lại là thợ giỏi, nên rất được chủ nể sợ, tín nhiệm. Sống gần gũi gắn bó mật thiết với nhau, Tôn Đức Thắng thấy thông cảm với tình cảnh nhiều người quá đói rách, cực khổ. Một số người vợ yếu, con đông, nhà cửa lụp xụp, áo quần rách rưới, họ làm việc cật lực, vất vả suốt ngày mà vẫn không đủ ăn, đủ mặc, không thể nuôi nổi vợ con, khi ốm đau càng túng bấn, quẫn bách. Thương và thông cảm hoàn cảnh gia đình của anh em mỗi khi thấy ai bị đánh chửi, cúp phạt là Tôn Đức Thắng bứt rứt, khó chịu. Ở trường lúc học thực hành, anh tận tâm chỉ vẽ cho anh em từng li từng tí, tránh những sai sót, hư hỏng. Với chủ, cùng lắm, không chịu nổi, anh mới phản đối. Khi đã phản đối thì hết thảy anh em cùng đồng tâm hiệp lực đấu tranh đến cùng đạt được yêu cầu, nguyện vọng mới thôi. Những kết quả thu được qua các lần phản đối hồi học ở Long Xuyên, ở Trường Bá Nghệ đã củng cố thêm cho Tôn Đức Thắng nhận thức về sức mạnh đoàn kết đấu tranh của những người thợ, anh em học sinh.
Học ở Trường Bá Nghệ không lâu, Tôn Đức Thắng đã bộc lộ năng khiếu tổ chức và vai trò của một thủ lĩnh. Về phẩm chất đặc trưng này của Tôn Đức Thắng khi học ở Trường Bá Nghệ, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Lên Sài Gòn, làm một anh học trò nhỏ, nhỏ con và nhỏ tuổi, Tôn Đức Thắng đã tỏ ra ngay là một cậu bé có năng lực tổ chức và tinh thần đấu tranh. Thắng hay bênh vực kẻ yếu, chống mọi sự hiếp đáp, mọi sự bất bình, tính tình hòa nhã vui vẻ, nên được các bạn mến, lại học giỏi... Lúc còn là học trò Trường Bá Nghệ, anh Thắng, người nhỏ thó cúp tóc “cua” (ngắn), nước da ngăm ngăm, biết tổ chức anh em có trật tự để quản lấy mình. Nhỏ nghe lớn, lớp dưới nghe lớp trên, cả trường nghe Thắng…
Tôn Đức Thắng thanh niên là như vậy đó: Tập hợp đứng mũi, chịu sào được tín nhiệm lắm. Khả năng thiên hướng và tài ba nhiều khi xuất hiện từ tuổi trẻ. Chẳng nghe Đinh Bộ Lĩnh tập hợp đám chăn trâu, bẻ bông lau làm cờ, tập đánh trận đó sao?”13.
Bước vào học đường Bá Nghệ với những hoạt động của năm thứ nhất là dấu ấn in đậm song toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Tôn Đức Thắng. Đây có thể được coi là bước ngoặt thứ hai, bắt đầu thể hiện năng lực tổ chức thực tiễn, tinh thần đấu tranh kiên cường, không khoan nhượng chống lại mọi sự đè nén, áp bức cường quyền, bạo hành của người thanh niên yêu nước Tôn Đức Thắng.
II. THAM GIA CUỘC NỔI DẬY CỦA THỦY THỦ PHÁP Ở BIỂN ĐEN, BẢO VỆ CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA (1916-1920)
Tôn Đức Thắng học xong năm thứ nhất, sang năm thứ hai, do nhu cầu của chiến tranh, chính quyền thuộc địa Đông Dương ra lệnh lấy lính thợ. Tôn Đức Thắng bị động viên vào đợt giữa năm 1916, trong đội quân lính thợ, xuống tàu đi Pháp tháng 9-1916. Tháng 10, tàu đến cảng Madeille (Pháp), các tốp lính thợ được lệnh phân tán đi nhiều nơi. Tôn Đức Thắng được điều đến Quân cảng Toulon ở miền Nam nước Pháp, bên bờ Địa Trung Hải, không xa Marseille là mấy, bắt đầu nhận việc trên Chiến hạm France trong hạm đội lênh đênh trên biển. Mọi nhu cầu về vũ khí, lương thực, chất đốt, v.v. đều có tàu từ đất liền tiếp tế ra.
Từ đây, Tôn Đức Thắng bắt đầu sống cuộc đời lính thợ (công nhân quốc phòng), tổ chức và kỷ luật như quân nhân, chỉ có khác người lính chiến là không mang vũ khí, mà làm công việc của người thợ máy.
Cuối năm 1916 trở đi, chiến tranh ngày càng mở rộng, ác liệt đòi hỏi người lính thợ phải làm việc căng thẳng hơn, kỷ luật hơn. Mọi thông tin tới họ đều phải qua kiểm duyệt của cơ quan nhà binh gần như cách biệt với xã hội bên ngoài về mọi biến động chính trị, tư tưởng. Mọi tin tức của quê hương, đất nước đều không đến được với Tôn Đức Thắng.
Là một công nhân người thuộc địa, Tôn Đức Thắng bị phân biệt đối xử của bọn sĩ quan kỳ thị chủng tộc. Trong công nhân quốc phòng không có tổ chức nghiệp đoàn như bên ngoài, nên họ chưa có ý thức giai cấp và đấu tranh chính trị. Nhưng với điều kiện lao động và sinh hoạt chung, trong họ có tinh thần thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau một cách rất tự nhiên như một bản năng xã hội, Tôn Đức Thắng hòa vào cuộc sống cửa những người lao động Pháp trong cùng một công xưởng không phân biệt chủng tộc, quốc gia, thiếu tình cảm quê hương đất nước, nhưng lại được sưởi ấm bằng tình đồng nghiệp mang tính quốc tế.
Chiến sự diễn ra quyết liệt, nhưng không lan đến miền Nam nước Pháp, công xưởng nơi Tôn Đức Thắng làm việc rất ổn định, tuy vẫn mang hơi thở của chiến tranh, bốn bề sóng biển dồn dập ngày đêm.
Tháng 2-1917, chính quyền Nga hoàng sụp đổ, kích thích phong trào cách mạng vô sản trong nước phát triển mạnh mẽ. Ngày 7-11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa bùng nổ, lật đổ chính quyền của giai cấp tư sản và địa chủ, thiết lập chính quyền Xôviết.
Theo đề nghị của V.I.Lênin, Đại hội các Xôviết quyết định ban hành Sắc lệnh hòa bình, xóa bỏ mọi hiệp nghị chiến tranh do Nga hoàng ký, lên án chiến tranh được xem là phương tiện giải quyết các quan hệ phức tạp giữa các quốc gia, tố cáo “tội ác lớn nhất chống lại loài người; đề nghị các dân tộc và Chính phủ trên toàn thể giới mở ngay những cuộc thương thuyết để lập lại một nền hòa bình công bằng và dân chủ không có điều kiện”.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là một nhân tố quan trọng thúc đẩy đấu tranh của quần chúng chống chiến tranh, chống chủ nghĩa tư bản, đẩy Chiến tranh thế giới đi vào thời kỳ cuối, mau kết thúc.
Chính quyền đế quốc hiếu chiến xuyên tạc tính chất và ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười, chống lại Sắc lệnh hòa bình và chính quyền. Nhưng sự thật chính nghĩa dần dần sáng tỏ. Phong trào ủng hộ chính quyền Xôviết của công nhân, nhân dân lao động và binh lính các nước đã hình thành và mở rộng ở Pháp, tâm trạng chán ghét và thù địch với chiến tranh lan rộng. Thư của binh lính thường được đăng trên báo La Vague (Ngọn sóng), tờ báo có xu hướng hòa bình, phát hành với số lượng rất lớn (30 vạn bản), được phổ biến khắp cả nước, kể cả lưu hành bí mật trong quân đội, kích thích những cuộc phản kháng của binh lính, đòi hòa bình, lên án chủ nghĩa tư bản và đặt niềm tin, hy vọng vào chính quyền Xôviết.
Ngày 2-11-1917, những trí thức tiến bộ bậc nhất của nước Pháp lập ra Hội cựu chiến binh (ARAC) tập hợp các cựu chiến binh, những nạn nhân của chiến tranh, cùng với các tổ chức chính trị và nghiệp đoàn chống chiến tranh đế quốc và các phần tử phản động ủng hộ chính quyền theo đuổi chiến tranh.
Đã đến lúc phe chủ chiến đứng đầu là đế quốc Đức thất bại nặng, buộc phải đầu hàng phe Đồng minh không điều kiện, ký Hiệp nghị đình chiến ngày 11-11-1918.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, các đế quốc Anh, Pháp, Mỹ bàn liên minh tiêu diệt nước Nga Xôviết bằng vũ trang can thiệp, ủng hộ các thế lực phản cách mạng tư sản và địa chủ đã bị lật đổ, âm mưu khôi phục lại chính quyền; đồng thời trao đổi ý kiến về việc chia nhau thuộc địa và bồi thường chiến tranh của các nước thua trận cho các nước thắng trận tiến tới Hội nghị Versailles, ký kết Hiệp nghị vào ngày 28-6-1919.
Ngày 27-10-1918, sau ngày bùng nổ Cách mạng Tháng Mười Nga vừa được một năm và những tín hiệu về một cuộc đình chiến sắp tới đã báo, Thủ tướng Pháp Clémenceau ra lệnh điều động chiến hạm phối hợp với các nước đế quốc khác bao vây, bắn phá vào thành thị và làng mạc Nga trên bờ biển Ôđétxa và Xêvaxtôpôn thuộc Ukraina theo thỏa ước ký giữa Clémenceau và Minnơ ở Paris, sáu tuần sau Cách mạng Tháng Mười.
Binh sĩ và công nhân trên các chiến hạm mong chiến tranh kết thúc sẽ sớm được trở về với xưởng máy, đồng ruộng với gia đình. Nhưng cuộc chiến tranh này kết thúc lại bắt đầu một cuộc chiến tranh khác, từ chiến sự diễn ra trên đất Pháp nay lại mang quân đi xa đánh nhau, nhất là nước đó đã tự rút ra khỏi cuộc chiến sớm nhất, làm cách mạng thắng lợi nên mọi người đều chán nản, bất mãn.
Từ cuối tháng 12-1918, những tờ báo theo xu hướng hòa bình, như L’Humanité, Le Populaire, Le Journal du peuple, La Vague, v.v. đăng những bài bình luận thời sự, đưa tin chống chiến tranh và hô các khẩu hiệu: “Đả đảo chiến tranh với Nga”! “Không một xu, một người cho chiến tranh với Nga!”.
Theo mệnh lệnh, các hạm đội Pháp lên đường. Ngày 8-12-1918, Chiến hạm France đi trong đội hình tiến đến Xêvaxtôpôn. Ở đây, ngày 16-12-1917, chính quyền Xôviết đã thành lập; tháng 3-1918, Đức chiếm; đến tháng 11-1918, Anh, Pháp, Hy Lạp chiếm.
Trong hai ngày 27 và 29-12-1918, Nghị viện Pháp họp tranh luận sôi nổi giữa phái chủ trương tiến hành chiến tranh với Nga và phái kịch liệt phản đối (trong đó, hăng hái nhất là M. Cachin, A. Blăng, E. Laphông, Bơridông).
Trong khi xuống tàu viễn chinh, trạng thái tinh thần quân đội các nước đế quốc đã xấu đi nhanh chóng. Nói riêng quân đội Pháp, như Trung đoàn 4 và 8 thuộc địa được lệnh đi Salôníchcơ ở bán đảo Bancăng, trên bờ biển Êgiê đã dự nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh. Thời hạn đi phương Đông là 18 tháng, nghe nói khí hậu nóng lạnh bất thường khác xa Pháp sẽ ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, làm cho những người chỉ huy rất lo; thêm vào đó là những cuộc tuyên truyền miệng và truyền đơn phản chiến, ủng hộ cách mạng Nga. Những người chỉ huy hiếu chiến tuyên truyền xuyên tạc về Đảng Bônsêvích Nga là tổ chức của những tên kẻ cướp, tên tù phạm được phóng thích hoạt động khủng bố, cướp bóc, gây tai họa, cho nên quân đội Pháp và các nước Đồng minh đến sẽ mang lại bình yên cho nhân dân. Đồng thời chúng thẳng tay đàn áp những người không tuân lệnh, cảnh cáo, bắt giam. Báo L’Humanité ngày 22-1-1919 đưa tin: Anh lính bộ binh Giăng Mianlari thuộc Trung đoàn 21 thuộc địa bị bắn chết vì đã dũng cảm chống lệnh.
Hành động phản chiến từ cá nhân, đến nhóm nhỏ và cả một tập thể đông đảo, trước hết là Trung đoàn 58 bộ binh ngày 2-2-1919, vận động được hai trung đoàn sơn pháo cùng đấu tranh. Bộ chỉ huy quân đội Pháp phải hủy bỏ lệnh tiến đánh các đơn vị quân đội Xôviết ở Tiraxpôn, thuộc Mônđavi, theo kế hoạch đã định.
Giữa tháng 3-1919, Ôđétxa và Xêvaxtôpôn bị bọn phản cách mạng chiếm. Ngày 6-4-1919, những người Bônsêvích tổ chức cho Hồng quân tiến vào giải phóng.
Đoàn chiến hạm Pháp có Đô đốc hạm Jean Bart, Chiến hạm France, Duchayla, v.v. vượt qua Địa Trung Hải, biển Êgiê, eo biển Dardanelle nằm giữa lãnh thổ hai nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, tiến vào Biển Đen. Đoàn tàu hướng vào Xêvaxtôpôn, ngày 15-4-1919 đến nơi quy định.
Sang ngày 17-4, qua đêm, đến sáng ngày 18-4, Chiến hạm France nhả những loạt đạn pháo 140 mm và 305 mm xuống nhà cửa, phố xá, nơi Hồng quân chiếm giữ ở Xêvaxtôpôn. Cùng với Chiến hạm France là tàu Jean Bart và Vergniaud cũng phối hợp bắn pháo suốt ngày 17 đến năm giờ sáng ngày 18-4.
Binh sĩ công nhân trên chiến hạm biểu thị sự phẫn nộ trước hành động hiếu chiến điên cuồng, bàn nhau chống lại. Một số người đưa ra ý kiến bắt bọn sĩ quan chỉ huy ném xuống biển. Họ hô các khẩu hiệu: “Ngừng chiến, không can thiệp vào nước Nga!”, “Trở về Pháp!”. Bọn sĩ quan thấy tình hình không bình thường, đã cảnh giác và kiên quyết đối phó. Chúng ra lệnh bắt giam một số người chống đối mạnh mẽ nhất, như Uynlơmăng, Đơlaruy, Côettơ, Xôsu, làm cho không khí bất bình càng tăng.
Ngày thứ bảy 19-4-1919, Chiến hạm France nhận được lệnh vào lúc 15 giờ ngày 20-4-1919 phải xếp lên tàu 700 tấn than, khi đó đang đậu phía sau Đô đốc hạm Jean Bart, bên cạnh các tàu Vergniaud và Duchayla.
Ngày 20-4-1919 là chủ nhật và cũng là ngày lễ phục sinh (Paques) của Đạo Thiên Chúa, theo quy định hằng năm mọi người đề nghị được nghỉ làm việc.
16 giờ 30 phút, sau khi nhận lệnh 1 giờ 30 phút, vào lúc hạ cờ hằng ngày, trong hàng ngũ binh sĩ đang tập hợp có 18 người trên Chiến hạm France từ chối ngả mũ chào cờ và kêu gọi: “Tất cả những ai không muốn vác than ngày mai thì lên bãi biển trước”.
Suốt bữa ăn chiều, binh lính trao đổi sôi nổi.
19 giờ 40 phút, thủy thủ họp mặt trên bãi biển, cất tiếng hát đồng thanh bài Ôđétxa. Tên quan ba rút súng ngắn bắn anh lính Lulenơ làm cho không khí căng thẳng hơn, họ lại đồng thanh hát bài Quốc tế ca. Bọn chỉ huy bất ngờ, hoang mang, sợ bị hành hung, rủ nhau lui về phía sau bãi, tay cầm vũ khí, sẵn sàng đánh trả, nhưng không dám tiến công trước.
Hai bên tranh luận to tiếng. Có tiếng kêu “Hãy cầm vũ khí!”. Số khác kịp thời ngăn lại, nói to: “Chúng ta không muốn đổ máu!”.
Trong lực lượng chống bọn chỉ huy, công nhân quốc phòng tỏ ra mạnh mẽ hơn, nhất trí hơn thủy thủ.
Khoảng 20 giờ 30 phút, một số được cử đi mở cửa các phòng giam cho đồng đội của họ ra, trở về đội ngũ. Những khẩu hiệu phản chiến: “Trở về Toulon tức khắc!”. “Không chiến tranh với Nga!” liên tục vang lên, át cả tiếng sóng biển.
8 giờ sáng ngày 20-4, binh lính và công nhân trên Chiến hạm France và Đô đốc hạm Jean Bart cùng nhau tổ chức một cuộc mít tinh và biểu tình lớn trên bãi biển, ngay trước mũi chiến hạm.
Họ đưa ra bản yêu sách chín điểm:
1. Không khuân vác than ngày 20 và cả ngày 21.
2. Chấm dứt can thiệp vào Nga và trở lại Pháp.
3. Cho thủy thủ nghỉ phép (gần 19 tháng không có phép).
Giảm kỷ luật căng thẳng, cải thiện đời sống, cho nhận thư thường xuyên, v.v..
Họ lên án: Chiến tranh với nước Nga là chống lại Hiến pháp; Thủ tướng Clémenceau vi phạm Hiến pháp!
Giờ này cũng là lúc chào cờ hằng ngày. Nhưng lúc này, không có cờ ba sắc kéo lên như mọi ngày, mà thay vào đó là một lá cờ đỏ cùng với bài Quốc tế ca trầm hùng nổi lên, phá tan không khí nặng nề. Mọi người hướng về lá cờ đỏ, chào mừng những người anh em Nga anh hùng.
Lá cờ đỏ được kéo lên trên Chiến hạm France lúc 8 giờ sáng ngày 20-4-1919 là do Tôn Đức Thắng cùng với những người bạn còn lại trên tàu tiến hành.
Về sự kiện này, trong bài Tôi đã tham gia cuộc khởi nghĩa Biển Đen, đăng trên báo Người thủy thủ Xôviết nhân Kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười, Tôn Đức Thắng viết: “Đêm sau đó, tuần dương hạm vượt qua eo biển Đácđanen. Bầu không khí trên tàu căng thẳng hơn. Một vài đồng chí hô hào thủy thủ họp mít tinh để thanh toán bọn chỉ huy. Họ đã bảo tôi: “Họp mít tinh, cậu hãy kéo cờ đỏ lên, để cho người Nga biết rằng chúng ta là bạn, không phải là thù”. Tôi vui vẻ nhận lời. Vào lúc rạng đông, tuần dương hạm tới Biển Đen. Kèn tập hợp vang lên - đó là kèn tập hợp thông thường của thủy thủ. Song lần này, kèn đã vang lên không phải do lệnh của Bộ chỉ huy và giờ đây, cờ đỏ đã được giương lên”14.
Đây là bước ngoặt thứ ba trong cuộc đời cách mạng của Tôn Đức Thắng, thể hiện ý thức và định hướng chính trị trong cuộc đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Các tàu neo đậu gần đó nghe tiếng reo hò và nhìn thấy cờ đỏ từ Chiến hạm France cũng sôi lên. Họ cử đại biểu đến gặp bọn chỉ huy đưa yêu sách đều bị từ chối và nghe lời đe dọa. Tức thì, các đại biểu kêu gọi binh sĩ và công nhân tỏ rõ thái độ. Một lá cờ mới đã được chuẩn bị, liền kéo lên trên cột cờ của Đô đốc hạm Jean Bart, đồng thời với bài Quốc tế ca là những bài hát khác nối tiếp nhau vang lên. 200 người đứng thành hàng rào bảo vệ lá cờ đỏ này, không cho bọn chỉ huy gỡ xuống để mọi người được chiêm ngưỡng thỏa thích, cho những người bạn Nga trên đất của họ nhìn thấy sự ủng hộ của các bạn Pháp từ chiến hạm.
Nguyện vọng hòa bình đã ăn sâu, lan rộng trong binh sĩ và công nhân trên các chiến hạm; noi gương Chiến hạm France phất cờ đầu, các Chiến hạm Vonte ở Bidéctơ, Ngư lôi hạm Ghisen ở Itêa, Chiến hạm Provence và Wandeck Rousseau, v.v. cũng nổi lên phản chiến.
10 giờ ngày 21-4-1919, Chiến hạm France được lệnh rời Xêvaxtôpôn quay mũi trở về Pháp, 16 giờ đến Constantinople, thuộc Thổ Nhĩ Kỳ…
Ngày 19-11-1920 Xêvaxtôpôn được Hồng quân giải phóng, sau hai tháng bị quân bạch vệ chiếm lại.
Các tàu khác cũng nối đuôi nhau ra khỏi Biển Đen, trở về Pháp với sự phá sản của âm mưu bóp chết nước Nga Xôviết của tập đoàn đế quốc chủ nghĩa, trong đó có đế quốc Pháp.
Nguyên nhân của tình hình này, trước hết là bởi tinh thần đấu tranh cho hòa bình, chán ghét chiến tranh của binh sĩ Pháp, dẫn tới những cuộc phản chiến, chống đối mệnh lệnh của bọn chỉ huy hiếu chiến mù quáng; các tổ chức chính trị, xã hội, các báo chí tiến bộ Pháp cổ vũ cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, phản đối chiến tranh với nước Nga cách mạng, được đông đảo nhân dân đồng tình, hưởng ứng, làm hậu thuẫn.
Mặt khác, hoạt động của những người cộng sản Pháp ở Nga và những người Bônsêvích Nga làm công tác binh vận trong quân đội Pháp có một tác dụng lớn. Jeanne Labourbe, người nữ chiến sĩ cộng sản Pháp, sáng lập nhóm cộng sản Pháp ở Mátxcơva từ năm 1918, lãnh đạo công tác binh vận đến công tác ở vùng có quân Pháp, Anh chiếm giữ, bị Pháp bắt ở Ôđétxa cùng với 10 chiến sĩ nữa (5 nam, 5 nữ) đã hy sinh anh dũng trước loạt đạn của bọn sĩ quan Pháp. Đài phát thanh Mátxcơva phát trên làn sóng điện các thứ tiếng Pháp, Đức, Anh vào các buổi sáng đến với các thủy thủ trên Biển Đen. Nội quy cấm ngặt nghe đài phát thanh Nga Xôviết, nhưng không dập tắt được những buổi nghe bí mật, nhờ vậy tin tức lan truyền đi trong nội bộ.
Những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc bất thường trên đường phố giữa những người Bônsêvích Nga và thủy thủ Pháp, từ đó nảy sinh tình anh em hiểu biết lẫn nhau, về nguyện vọng hòa bình, tinh thần ủng hộ cách mạng Nga và Nhà nước Xôviết.
Tất cả những nhân tố trên tác động cùng chiều là nguyên nhân đưa đến phá vỡ cuộc vũ trang can thiệp của đế quốc Pháp vào nước Nga và dẫn tới kết thúc nhanh chóng cuộc tiến công của các nước đế quốc Đồng minh Anh, Pháp vào Nga. Cách mạng Nga kiên cường, quyết bảo vệ mình, chống kẻ thù đến cùng đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của tinh thần quốc tế cao đẹp.
Để trừng phạt những cuộc nổi dậy, Chính Phủ Pháp ra lệnh bắt hàng loạt, đưa ra xét xử trước tòa án quân sự về tội chống mệnh lệnh.
Đô đốc Amê có lần nói: Chiến hạm France có 200 tên hạnh kiểm xấu, khi trở về đến Toulon hắn ra lệnh bắt 33 người, trong đó năm thợ máy, hai công nhân học nghề, một tổ trưởng thợ điện, còn lại là thủy thủ các loại giam và chờ ngày xét xử trước toà án. Ngoài ra, còn một số khác rất đông bị các hình thức kỷ luật khác theo điều lệnh nhà binh.
Những tổ chức tiến bộ, hòa bình và nhân đạo, những trí thức tiêu biểu của nền văn minh Pháp cùng nhau ra lời kêu gọi nhân dân Pháp kịch liệt lên án hành động quân phiệt của Chính phủ và bọn sĩ quan hiếu chiến. Họ tổ chức các Ủy ban bảo vệ những người tham gia cuộc nổi dậy ở Biển Đen làm cho giới cầm quyền phải chùn tay.
André Marty, kỹ sư cơ khí, 34 tuổi, làm trên tàu phóng lôi Frotes chạy từ Galát vào Ôđétxa, bắt tay với Hồng quân. Ngày 28-4-1919, Marty bị bắt, được dư luận tặng danh hiệu “Anh hùng của cuộc nổi dậy ở Biển Đen”. Ra tòa ngày 5-7-1919 bị kết án 20 năm khổ sai nhưng trước dư luận của đông đảo nhân dân Pháp, tòa phải xét lại, giảm án, đến ngày l7-7-1923 Marty được vả lại tự do, sau hơn bốn năm bị cầm tù.
*
* *
Sự kiện cuộc nổi dậy của thủy thủ và công nhân Pháp ở Biển Đen tháng 4-1919 đã đi vào lịch sử nước Pháp, Anh và của cách mạng Nga vĩ đại và dư âm của nó còn vọng mãi với thời gian.
Sự tham gia của Tôn Đức Thắng vào sự kiện kéo cờ đỏ trên Chiến hạm France ở Biển Đen rất có ý nghĩa. Bởi vì ông là người Việt Nam đầu tiên biểu thị tinh thần yêu nước bằng hành động dũng cảm của mình cùng đồng đội trực tiếp tham gia bảo vệ nước Nga Xôviết, con đẻ của Cách mạng Tháng Mười vào thời điểm rất quan trọng làm thất bại âm mưu xóa bỏ nước Nga cách mạng của bọn đế quốc hiếu chiến.
Tuy vậy, lúc bấy giờ một vài tờ báo chữ Pháp và chữ Việt vào hùa với nhau xuyên tạc sự kiện trọng đại đó theo giọng điệu của bọn đế quốc và phản động quốc tế chỉ được lưu hành trong một số công chức, quan lại cao cấp, không có ảnh hưởng gì trong nhân dân, nhất là công nhân và nông dân.
Những tài liệu còn để lại cho biết ngay cả những người tiêu biểu cho tinh thần dân tộc chống chủ nghĩa thực dân như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường khi đó sống ở Pháp, trong không khí đấu tranh chính trị mạnh mẽ như thế, nguồn tin tức nhiều chiều cực kỳ phong phú, cũng không có thái độ, chính kiến của mình.
Vào thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Pháp. Người đã tích cực tham gia quyên tiền, rải truyền đơn lên án sự can thiệp của Chính phủ Pháp vào nước Nga Xôviết hoan nghênh Cách mạng Tháng Mười Nga15.
Việc kéo cờ đỏ chào mừng nước Nga Xôviết của Tôn Đức Thắng trên Chiến hạm France là một vinh dự có ý nghĩa lịch sử quốc tế trong cuộc đời của Người và của nhân dân Việt Nam.
Năm 1957, đồng chí Tôn Đức Thắng viết: “Tôi tin rằng, bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân được tham gia vào những giờ phút lịch sử đó tại Biển Đen (Mer Noire), không thể hành động khác tôi, bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có nghĩa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống lại Cách mạng Tháng Mười”16.
Câu viết thật khiêm tốn bình dị, rất tình cảm như con người của nhà cách mạng Tôn Đức Thắng, nhưng mang tính lý luận sâu sắc như một quy luật tự nhiên. Lịch sử đã sinh ra một con người - người công nhân cơ khí - có những nhân tố chủ quan đáp ứng được yêu cầu khách quan của thời cuộc, đó chính là Tôn Đức Thắng.
Trở lại Quân cảng Toulon một thời gian, Tôn Đức Thắng nhận được quyết định giải ngũ trở về Đông Dương. Anh mang theo tinh thần dân tộc kết hợp với tình cảm quốc tế cao đẹp của đồng đội, đồng nghiệp Pháp và những người Bônsêvích Nga, của Cách mạng Tháng Mười Nga, được hình thành trong thực tiễn sinh hoạt và đấu tranh, tiếp tục cuộc đời làm thợ, nhưng trên quê hương, đất nước mình, điều đó có ý nghĩa quan trọng hướng tới tương lai, trên các chặng đường cách mạng về sau của Người.
III. THÀNH LẬP CÔNG HỘI BÍ MẬT VÀ LÃNH ĐẠO CÁC CUỘC BÃI CÔNG CỦA CÔNG NHÂN SÀI GÒN – CHỢ LỚN
(1920-1930)
1. Xây dựng cơ sở cách mạng và thành lập Công hội bí mật
Sau vụ binh biến ở Hắc Hải ngày 20-4-1919, Tôn Đức Thắng buộc phải rời khỏi Hải quân Pháp, bị trục xuất khỏi nước Pháp và trở lại Sài Gòn - thành phố vốn đã rất quen thuộc với anh. Do vị trí đặc biệt của nó, ngay từ đầu đánh chiếm nước ta, thực dân Pháp đã biến Sài Gòn thành bàn đạp để xâm chiếm toàn bộ miền Nam - bán đảo Đông Dương đồng thời biến nó thành cơ sở để khai thác xứ này. Ngày 13-5-1862, bản đồ Sài Gòn do Đại uý công binh Côffin vẽ đã được công bố. Theo đó, một thành phố cho 50 vạn dân sẽ được xây dựng với các phố rộng 20 mét, cách bến tàu 40 mét. Tiếp đó, ngày 19-5-1862, thực dân Pháp bán đấu giá công cộng 84 lô đất, chiếm 1/20 thành phố cũ (tiền thu được lên tới 102 ngàn đồng (khoảng 550.000 fr)17. Công việc xây dựng thành phố cũng bắt đầu từ đây. Trong hoàn cảnh đó, ở thành phố này, bộ phận công nhân xây dựng ra đời sớm nhất, sau đó là công nhân công nghiệp và công nhân giao thông.
Còn trên quy mô cả nước, một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sớm nhất là ở Sài Gòn. Qua cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, đội ngũ công nhân không những đông đảo thêm về số lượng mà còn tham gia phong trào giải phóng dân tộc với tư cách là một bộ phận của dân tộc. Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, từ năm 1901 đã viết: “Sự phát triển của những đô thị lớn như Sài Gòn, Chợ Lớn làm nảy sinh một thứ vô sản thành thị và ngoại ô mà thái độ và hành động của họ làm cho số người Âu và giai cấp giàu có người bản xứ đều lo sợ một cách nghiêm trọng và có lý”18. Tôn Đức Thắng trở lại Sài Gòn đúng lúc cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp được đẩy mạnh. Nhiều nhà máy cũ được mở rộng về quy mô, nhiều nhà máy mới được xây dựng. Đội ngũ công nhân cũng vì vậy mà đông đảo thêm lên. Phong trào đấu tranh của công nhân trở nên thường xuyên hơn, không còn là một hiện tượng hiếm gặp như trước nữa. Điển hình là cuộc đấu tranh của hơn 600 thợ nhuộm Chợ Lớn (tháng 11-1922). Cuộc đấu tranh này có tiếng vang lớn. Từ Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cho vai trò và lực lượng của giai cấp công nhân Việt Nam: “Ở đây giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về lực lượng và khả năng của mình” và ca ngợi: “Đây là lần đầu tiên, một phong trào như thế nhóm lên ở thuộc địa. Chúng ta hãy ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại”19. Nhưng cũng phải thấy rằng các cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn lúc đó vẫn nằm trong phạm trù “tự phát”, mang nặng tính kinh tế hơn là tính chính trị. Một vấn đề được đặt ra đối với phong trào công nhân Sài Gòn là cần phải có tổ chức. Đồng chí Tôn Đức Thắng, người công nhân ưu tú vừa được trở lại hoạt động trong môi trường cách mạng sôi nổi có nhiều thử thách, sẽ đứng gánh vác trọng trách đó.
Từ nước ngoài trở về, Tôn Đức Thắng đã mang về cho cách mạng Việt Nam nói chung và phong trào đấu tranh của công nhân, nhân dân lao động Sài Gòn nói riêng hai thứ quý giá: Thứ nhất, là tình cảm đối với Cách mạng Tháng Mười, ý thức được sự tồn vong của Tổ quốc mình gắn bó với sự tồn tại của nước Nga Xôviết. Thứ hai, Tôn Đức Thắng tiếp nhận tư tưởng về mặt tổ chức của giai cấp công nhân qua các hình thức công đoàn ở các nước tư bản, đặc biệt là nghiệp đoàn ở Pháp. Mặc dù tình cảm đối với Cách mạng Tháng Mười mới chỉ có tính chất cảm tính, tự nhiên, mặc dù chưa đem về được quan niệm về tổ chức Đảng trong phong trào công nhân, song đó đều là những vốn quý trong bối cảnh phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam vẫn đang trong tình trạng khủng hoảng đường lối.
Giữa lúc này, phong trào yêu nước đang diễn ra rất sôi động với nhiều tư tưởng, đảng phái khác nhau. Nhưng với sự hiểu biết ít nhiều lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp, với trải nghiệm qua trường đấu tranh của bản thân, Tôn Đức Thắng quyết định tiếp tục hướng hoạt động mà mình đã chọn từ gần chục năm về trước khi còn là công nhân tham gia ủng hộ cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn năm 1912: Đi vào giai cấp công nhân.
Không được vào làm trong bất kỳ nhà máy, xí nghiệp nào của Pháp, Tôn Đức Thắng vào làm công nhân tại một hãng của người Đức có tên là Kroff trên đường Sampanhơ (nay là đường Lý Chính Thắng). Vừa kiếm sống, Tôn Đức Thắng vừa tìm cách liên lạc với anh em công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp trong thành phố. Cũng vào thời điểm đó có cuộc bãi công, sau đó là mít tinh, biểu tình của thủy thủ mấy chiếc tàu neo đậu tại cảng Sài Gòn là Manvinhem, Ménès, Scharnhorst, Afénas, Néidenfels, Brisgaya, Đô đốc Can Têaum và Buenos Aires đòi tăng lương do giá sinh hoạt đắt đỏ. Chính quyền và chủ tàu không cho những người bãi công ở trên tàu, buộc họ phải mang đồ đạc lên bờ, với tính toán rằng không có chỗ ăn ở thì thủy thủ tất phải khuất phục. Nhưng không, anh em đã mượn được một nhà xe (garage) để ở, Hội viên chức Bưu điện Sài Gòn hô hào nhân dân thành phố quyên tiền cho anh em, lập “Ủy ban bữa cháo cộng sản” (Comité de la soupe communiste). Ngày 18-8-1920, cuộc bãi công hoàn toàn thắng lợi. Những cuộc đấu tranh đó làm cho công nhân Việt Nam hiểu rõ vai trò quan trọng và sự cần thiết phải có tổ chức trong công nhân mới có thể đem lại quyền lợi thiết thực cho mình. Hơn ai hết, Tôn Đức Thắng nhận thức rõ yêu cầu đó. Vấn đề đặt ra là tổ chức công nhân như thế nào, hoạt động của nó ra sao trong điều kiện công nhân không có một chút quyền tự do nào, bất cứ một hoạt động yêu nước nào, một hoạt động chống đối nào bị phát hiện cũng đều bị đàn áp. Chính Tôn Đức Thắng đã là người bị chính quyền thực dân truy nã. Rõ ràng, tổ chức công nhân phải bí mật, thận trọng, hoạt động của tổ chức phải khôn khéo. Với lòng nhiệt thành yêu nước, tình đồng nghiệp và uy tín cao, đồng chí đã dần dần đoàn kết được anh em công nhân vào Công hội bí mật do mình tổ chức và lãnh đạo. Những cơ sở đầu tiên của Công hội được thành lập ở Cảng Sài Gòn, Xưởng Ba Son, Xưởng Faci, Nhà máy đèn Sài Gòn, Nhà máy đèn Chợ Quán, sau phát triển ra các cơ sở khác trong thành phố. Để gây quỹ hoạt động Công hội giao cho Đặng Văn Sâm mở garage sửa chữa máy móc, xe hơi, đào tạo thợ trẻ và tìm hiểu phát triển hội viên trẻ. Công hội không có văn bản, điều lệ. Mục đích chính vẫn chỉ là để công nhân giúp đỡ nhau và đấu tranh bênh vực quyền lợi của người thợ. Việc Tôn Đức Thắng thành lập Công hội vào năm 1920 là một sự kiện rất có ý nghĩa đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí nói riêng và đối với phong trào công nhân cả nước nói chung. Đây là Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều đáng nói là nó rất phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa như nước ta. Ở các nước tư bản phương Tây, khi mọi quyền tự do dân chủ đã được thừa nhận, chỉ có công nhân là bị bóc lột và phải đấu tranh chống lại sự bất công đó thì thường các nghiệp đoàn được thành lập, tiêu biểu là ở Pháp. Các nghiệp đoàn lại thường do những người bên ngoài giai cấp công nhân lập ra, trong số đó có một số đã trở thành “nghiệp đoàn vàng”, phản bội lại quyền lợi của giai cấp công nhân. Phong trào công nhân vì thế mà bị chia rẽ sâu sắc. Trong tình cảnh nước ta, Tôn Đức Thắng không thành lập nghiệp đoàn công khai mà phải bí mật để tránh mọi sự đàn áp, khủng bố của kẻ thù. Công hội lập ra cũng không hoàn toàn chỉ có mục đích tương tế, nó đóng góp tích cực vào phong trào dân tộc và thực sự là một bộ phận của phong trào dân tộc. Tuy tiếp thu các hình thức tổ chức của công nhân từ phương Tây, song Công hội vẫn mang dấu ấn của con người Tôn Đức Thắng rất rõ. Một người cứng cỏi, có nghị lực, kiên quyết và yêu nước như anh không thể bị động bởi môi trường, không thể dễ dàng bị mua chuộc. Do vậy, Công hội bí mật không hề bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lương. Chưa hề được soi sáng bởi hệ tư tưởng của giai cấp công nhân mà chỉ đi lên từ thực tiễn xã hội thuộc địa, nhưng Công hội do Tôn Đức Thắng thành lập và lãnh đạo lại thật trùng hợp với lý luận về tổ chức công hội mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đúc kết:
“Tổ chức công hội để làm gì? Tổ chức công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân; năm là để giúp cho công nhân, giúp cho thế giới…
Cách tổ chức công hội như thế nào? Tổ chức có hai cách, cách nghề nghiệp và cách sản nghiệp. Nghề nghiệp là ai làm nghề gì thì vào hội nghề ấy... Sản nghiệp là bất kỳ nghề gì, hễ làm một chỗ thì vào một hội...
Cách tổ chức bí mật thế nào? Khi hội được công khai, các tiểu tổ cũng phải giữ bí mật. Khi không được công khai, thì phải mượn tiếng hợp tác xã, trường học, hoặc câu lạc bộ (nhà xéc) vân vân, che mắt người ta. Ở Tàu, ở Nhật nhiều nơi thợ thuyền lập nhà bán nước, ngoài thì bán bánh bán nước, trong thì làm việc hội. Thợ thuyền vào uống nước ăn bánh, và bàn việc; cho nên ma tà mật thám không làm gì được. Có nơi lại giả hội cúng tế hoặc hội chơi, vân vân để che cho công hội”20.
Điều này một lần nữa chứng tỏ “thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”. Chính vì vậy, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Công hội vẫn tồn tại và phát triển. Đến năm 1929, số hội viên đã lên đến 300 người, Ban chấp hành gồm có:
1. Tôn Đức Thắng (thợ máy Hãng Kroff), Hội trưởng.
2. Nguyễn Văn Cân (thợ nguội Hãng Faci), Phó hội trưởng.
3. Nguyễn Mạnh (thợ vẽ nhà đèn), thư ký.
4. Đặng Văn Sâm (thợ tiện nhà đèn), thủ quỹ.
5. (Chưa biết tên), kiểm soát viên21.
2. Lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn
Trong những năm tồn tại và hoạt động, Công hội đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng Ba Son (8-1925). Xưởng Ba Son là nhà máy lớn nhất của thực dân Pháp ở Sài Gòn lúc đó, có hơn 1.000 công nhân làm nhiệm vụ sửa chữa tàu chiến và tàu buôn. Thực chất, nó là một công binh xưởng đặt dưới sự chỉ huy của Hải quân Pháp. Xưởng Ba Son chính là một chi nhánh của Nhà máy Arsenal de Toulon thuộc Hải quân Pháp. Tôn Đức Thắng từng làm việc ở cả hai nơi này. Xưởng Ba Son là xưởng duy nhất ở Đông Dương được hưởng chế độ làm ngày 8 tiếng, lương cũng cao hơn các xưởng khác và được nghỉ 30 phút vào ngày lĩnh lương đầu tháng. Nhưng đồng thời thực dân Pháp cũng ràng buộc công nhân bằng những luật lệ nghiêm ngặt như luật chống bãi công. Nhìn chung, vào thời điểm bấy giờ, điều kiện lao động ở Xưởng Ba Son tốt hơn các nhà máy, xí nghiệp, phân xưởng của Pháp trên đất Việt Nam. Vào năm 1925, để đàn áp phong trào cách mạng ở Trung Quốc, thực dân Pháp điều động một đoàn tàu chiến gồm các tàu Michelet, Ferry, Maine sang Trung Quốc. Trên đường đi tàu Michelet bị hỏng và được đưa vào Xưởng Ba Son để sửa chữa.
Là người từng tham gia phản chiến trên Biển Đen để ủng hộ nước Nga Xôviết, Tôn Đức Thắng thấy cần ngăn chặn kế hoạch sửa chữa hoặc ít ra cũng làm chậm lại ngày nhổ neo của tàu Michelet bằng cách vận động công nhân bãi công để ủng hộ phong trào cách mạng và phong trào công nhân Trung Quốc. Thế nhưng Xưởng Ba Son là một nhà máy của quân đội, chế độ quản lý và tổ chức rất nghiêm. Vấn đề là phải tìm được cớ, trước hết là cớ kinh tế cho cuộc bãi công. Công hội Ba Son do Lê Văn Lương phụ trách cho biết Xưởng Ba Son vẫn có lệ là được nghỉ sớm 30 phút vào ngày lĩnh lương, nhưng từ khi kỹ sư Courtial từ Pháp mới sang quản lý nhà máy thể lệ ấy bị rút xuống chỉ còn 15 phút. Công hội quyết định vin vào cớ đó để phát động cuộc bãi công.
Ngày 4-8-1925 là ngày lĩnh lương, công nhân đóng máy phản đối Courtial và đòi vẫn nghỉ 30 phút như trước. Trước sự việc này, viên kỹ sư đã đuổi một số công nhân ra khỏi xưởng. Ngòi nổ đã được châm lửa. Sáng ngày 5-8-1925 công nhân họp mít tinh đề ra ba yêu sách:
- Tăng lương đồng loạt 20%.
- Đưa những người bị sa thải trở lại làm việc.
- Giữ nguyên lệ cũ, nghỉ từ 5 giờ chiều ngày lĩnh lương.
Bọn chỉ huy hăm dọa đuổi hết thợ, đóng cửa nhà máy. Đến ngày 11-8-1925, Thống đốc Nam Kỳ và Tư lệnh Hải quân Pháp gặp 4 đại diện công nhân, đe dọa sẽ đóng xưởng và sa thải toàn bộ, nếu công nhân không trở lại làm việc trong ngày 12-8. Công nhân lại đưa thêm yêu cầu chủ phải trả lương cả trong những ngày nghỉ bãi công. Cuộc bãi công vẫn tiếp tục. Báo chí Pháp đã đăng tải về sự kiện này với nỗi lo ngại sâu sắc. Tờ Impartial (Vô tư) xuất bản ở Sài Gòn, đã viết:
“Chúng ta biết rằng Chiến hạm Michelet phải sang Trung Quốc để giúp việc bảo vệ các tô giới…
Hiện giờ cuộc bãi công Ba Son tiếp tục trong lúc chiến hạm của chúng ta cần được sửa chữa gấp rút.
Cuộc bãi công xảy ra trong lúc mà bạn đồng nghiệp La Quotidien (Nhật báo) bên Pháp báo tin rằng viên Chủ tịch quốc tế cộng sản vừa mới tuyên bố là: Ngày nay Trung Quốc đang nổi dậy, ngày mai tới phiên Đông Dương, Ấn Độ sẽ nổi dậy”.
Nhiều báo thực dân đặt câu hỏi một cách đe dọa, xin chính quyền cứ đàn áp: Hỏi rằng ở đất Sài Gòn đắt đỏ này ai trả tiền, cấp gạo cho hơn 1.000 công nhân bãi công kéo dài? Báo thực dân nói rằng trông thấy bàn tay của Mátxcơva22.
Trong khi đó, Công hội vận động công nhân, viên chức các công sở và các xưởng máy ở Sài Gòn - Chợ Lớn hưởng ứng việc quyên góp tiền, gạo ủng hộ anh em Ba Son. Báo Chuông rè (La clocke fêlée) của Nguyễn An Ninh cũng vào cuộc. Sự ủng hộ đó đã tiếp thêm sức mạnh và cổ vũ tinh thần tranh đấu của những người bãi công Ba Son. Trước tinh thần đấu tranh kiên quyết của anh em công nhân và áp lực của quần chúng, giới chủ phải nhượng bộ và chấp nhận các yêu sách của anh em, chịu tăng lương 10% sau chín ngày đấu tranh. Dưới sự lãnh đạo của Công hội, anh chị em công nhân đã đi làm trở lại nhưng tiếp tục bãi công để kéo dài thời gian sửa chữa tàu. Mãi đến gần 4 tháng sau, ngày 28-11-1925, Chiến hạm Michelet mới được xuất xưởng, khi phong trào đấu tranh của công nhân và thủy thủ Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi.
Cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son do Công hội của Tôn Đức Thắng tổ chức và lãnh đạo, thực sự có ý nghĩa chính trị to lớn. Cuộc đấu tranh đã nổ ra dưới khẩu hiệu kinh tế nhưng nhằm một mục đích chính trị rõ rệt. Nó thể hiện ý thức đoàn kết giai cấp, ý thức đoàn kết quốc tế và tính tổ chức của giai cấp công nhân Việt Nam. Không có ý thức đoàn kết, không có tính tổ chức làm sao có thể lôi kéo hơn 1.000 công nhân đấu tranh trong khi họ đang được hưởng những điều kiện lao động tốt hơn những người khác. Riêng đối với bản thân Tôn Đức Thắng, từ việc tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải năm 1919 đến việc lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son năm 1925, tinh thần quốc tế của đồng chí đã được khẳng định rõ. Tiếng vang của cuộc bãi công đã vượt qua biên giới, đến với Đại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản (1928) khi Đoàn đại biểu của Đông Dương báo cáo trên diễn đàn Đại hội: “Công nhân Ba Son không chịu sửa chữa tàu Misơlê mà bọn đế quốc dùng để tàn sát nhân dân Trung Quốc”23.
Cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng Ba Son không chỉ nói lên trình độ tự giác, trình độ tổ chức, tinh thần quốc tế vô sản của công nhân Việt Nam, uy tín của tổ chức Công hội và vai trò của Tôn Đức Thắng mà còn mở đầu cho một giai đoạn mới, đánh dấu sự chuyển biến của phong trào công nhân từ tự phát đi lên tự giác, từ “giai cấp tự nó” vươn lên trở thành “giai cấp cho nó”. Đóng góp tích cực vào sự chuyển biến đó, không thể không nhắc đến vai trò của Tôn Đức Thắng, người công nhân ưu tú, người hội trưởng và lãnh tụ chân chính của giai cấp công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn lúc bấy giờ. Đánh giá vai trò của Tôn Đức Thắng đối với cuộc bãi công ở Xưởng Ba Son nói riêng và phong trào công nhân đầu những năm 1920 nói chung, lão thành cách mạng - Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định:
“Giai cấp công nhân đã hiện diện trên chính trường, mà lạ thay và đẹp thay không một đảng quốc gia tiểu tư sản hay tư sản nào lôi kéo được, ở Bắc Nam và nhất là Sài Gòn, các cuộc đấu tranh hồi 1924-1925 được ảnh hưởng trực tiếp của những người công nhân Việt Nam đã từng ở Pháp, chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, của phong trào công nhân và công đoàn Pháp, tiêu biểu nhất là anh thợ máy Tôn Đức Thắng - người đã từng tham gia binh biến Biển Đen năm 191924.
Mặt khác, xét trên một ý nghĩa nào đó cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng Ba Son đã vượt ra ngoài khuôn khổ lãnh đạo của một tổ chức công hội mà chức năng chủ yếu chỉ là đấu tranh cho quyền lợi thiết thực hằng ngày của công nhân. Qua phong trào này thấy rõ, công nhân đang muốn vươn tới một tổ chức cách mạng cao hơn. Đó là một đòi hỏi thực tế của phong trào công nhân Sài Gòn đặt ra lúc bấy giờ. Chính Tôn Đức Thắng sau này đã thừa nhận: “Anh em công nhân hồi ấy mong muốn có một tổ chức đấu tranh rộng rãi lôi kéo được đông đảo quần chúng đấu tranh cách mạng”25.
Thế nhưng, vào thời điểm đó, ở trong nước chưa có tổ chức nào có được một cương lĩnh chính trị rõ ràng và đúng đắn, một đường lối cách mạng thực sự chân chính đủ khả năng đưa phong trào giải phóng dân tộc đến thắng lợi cuối cùng. Tuy vậy, từ việc ra đời của Công hội bí mật đến việc Công hội lãnh đạo giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng Ba Son vào tháng 8-1925 đã tạo ra bước ngoặt thứ tư trong cuộc đời cách mạng của Tôn Đức Thắng, làm nảy sinh và tăng cường sức mạnh nhờ tổ chức và tư tưởng chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên trong lịch sử Việt Nam là cũng vào thời gian đó, Nguyễn Ái Quốc sau khi tìm thấy con đường cứu nước đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Để hoàn thành sứ mạng lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc cần một lực lượng có tinh thần cách mạng để “gieo mầm cộng sản” trong quần chúng nhân dân lao động. Tháng 6-1925, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc). Nhiệm vụ hàng đầu của tổ chức này là huấn luyện chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi rồi tung về nước tổ chức nhiều chi bộ theo nguyên tắc “mỗi một hội viên mới được kết nạp vào hội phải trở thành một phần tử mới của một chi hội mới”. Tháng 10-1926, sau khi lớp huấn luyện khóa I kết thúc, một số đồng chí được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, năm người được kết nạp vào Cộng sản Đoàn là Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Phan Trọng Bình, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba. Các học viên được phân công về nước hoạt động. Sẵn có tình cảm tốt đẹp với phong trào công nhân Sài Gòn, nhận định Sài Gòn sẽ là một trong các trung tâm truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản trong nước, Nguyễn Ái Quốc cử Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi về Sài Gòn gây dựng cơ sở.
Trở về nước, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi đã tìm hiểu các tổ chức yêu nước cũng như đời sống của các tầng lớp nhân dân và nhận thấy các tổ chức ở đây phần lớn có tính chất cải lương. Riêng tổ chức của Nguyễn An Ninh là có xu hướng cách mạng, song còn chưa có đường lối, đa số hội viên lại là địa chủ, tư sản và tiểu tư sản, những tay anh chị nghĩa hiệp và một bộ phận quần chúng nông dân nghèo. Tuy nhiên, đầu năm 1927, qua nhóm của Nguyễn An Ninh, các đồng chí đã tiếp xúc được với Tôn Đức Thắng.
Về phía Tôn Đức Thắng và một số anh em đồng chí, đã có cơ hội tiếp xúc với một số báo chí tiến bộ của Đảng Cộng sản và Tổng Công hội Pháp gửi sang như Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền. Từ năm 1922-1925, có các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, bằng nhiều con đường được gửi về nước như Le Paria và Bản án chế độ thực dân Pháp. Tôn Đức Thắng cũng như nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước lúc bấy giờ đều bị sức hấp dẫn mạnh mẽ bởi cái tên Nguyễn Ái Quốc. Theo lời Tôn Đức Thắng thì trong thời gian ở Pháp, đồng chí đã từng tìm gặp Nguyễn Ái Quốc mà không gặp được đồng chí ấy”26. Chỉ đến khi anh bắt liên lạc được với những thành viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thì Công hội bí mật mới có những nội dung, phương hướng mới.
Như vậy, đầu năm 1927, tại Sài Gòn đã diễn ra cuộc hội ngộ giữa những người học trò của Nguyễn Ái Quốc đang đi tìm lực lượng để gây dựng cơ sở ở Nam Kỳ và Tôn Đức Thắng, người lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn đang tìm kiếm đường lối mới. Phan Trọng Bình trong hồi ký của mình đã nhớ lại: “Chúng tôi tìm hiểu Bác Tôn, không dè chúng tôi lại trở thành đối tượng tìm hiểu của Bác”27. Ở Tôn Đức Thắng, Phan Trọng Bình và những người đồng chí của ông đã bắt gặp một người công nhân tiêu biểu cho giai cấp công nhân ở một nước thuộc địa, có ý thức giai cấp công nhân, đồng thời có ý thức dân tộc sâu rộng, có quyết tâm đấu tranh bất khuất, dày kinh nghiệm vận động công nhân, có ảnh hưởng trong giới thợ thuyền. Ngược lại, Tôn Đức Thắng cũng được gặp những thanh niên có hiểu biết nhất định về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, có đường lối cách mạng mà Tôn Đức Thắng đang cần.
Năm 1927, Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đến lượt mình, Tôn Đức Thắng đã giác ngộ hội viên Công hội của mình và kết nạp một số người vào Hội Thanh niên. Đây là bước ngoặt thứ năm trong cuộc đời cách mạng của Tôn Đức Thắng, vì từ đây Tôn Đức Thắng và Công hội bí mật thật sự hoạt động dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, tổ chức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc sáng lập đang cần lực lượng đã gắn được với tổ chức Công hội ở Sài Gòn, tổ chức nghiệp đoàn, một lực lượng xã hội chủ yếu để tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, trong tổ chức Thanh niên ở trong nước lần đầu tiên có công nhân tham dự. Đồng thời Tôn Đức Thắng cùng Phan Trọng Bình lựa chọn người đi Quảng Châu dự các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc mở. Trong lớp huấn luyện chính trị khóa III có chín người từ Sài Gòn sang, thì có năm người là hội viên Công hội: Trần Ngọc Giải (tức Thuận Hòa), quê ở Mỹ Tho; Trần Văn Hoa (tức Hòe), quê ở Mỹ Tho; Bùi Văn Thêm (tức Định), quê ở Tân Định (Sài Gòn) và Đặng Văn Sâm (tức Nhuận) quê ở Phú Nhuận (Sài Gòn). Sau khi học xong, họ đều trở lại Nam Bộ hoạt động. Theo hồi ký của Phan Trọng Bình thì ngoài nhóm công nhân ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng còn giới thiệu một số người khác ở Mỹ Tho có lòng yêu nước như cô Ba Viễn, một cô giáo có uy tín trong tỉnh. Cô Ba Viễn lại giới thiệu một số người, trong đó có chị Nguyễn Trung Nguyệt (tức Bảo Lương) và chị được giới thiệu đi học lớp huấn luyện chính trị khóa IV.
Có thể nói, vào thời kỳ đầu hình thành tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản tại Sài Gòn, những học trò của Nguyễn Ái Quốc đã dựa vào Công hội của Tôn Đức Thắng để gây dựng và phát triển tổ chức của mình. Nói cách khác, Công hội Sài Gòn những năm 1926-1927 thực sự là cơ sở cho sự hình thành và phát triển tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, chẳng những ở Sài Gòn mà còn trên toàn xứ Nam Kỳ. Chính vì vậy, giữa năn 1927, khi số lượng hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Sài Gòn đã tăng lên tương đối (30 người so với số hội viên ở một số địa phương khác như Hà Nội: 40 người, Nam Định: 40 người, Nghệ Tĩnh: 30 người, Thái Bình: 20 người, Quảng Nam: 15 người, Hải Phòng và Hà Bắc: mỗi nơi 10 người)28; một số học viên dự lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu như Phạm Văn Đồng, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba, v.v.. được cử về Nam Bộ tăng cường thêm cho đội ngũ lãnh đạo ở đây thì Kỳ bộ Nam Kỳ đã được thành lập. Buổi đầu tham gia Kỳ bộ gồm các đồng chí Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi, Tôn Đức Thắng, Ngô Thiêm, Nguyễn Văn Pháp, v.v. do Phan Trọng Bình làm Bí thư, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ. Sau đó mới tiến hành thành lập các Tỉnh bộ. Tại Sài Gòn, Thành bộ cũng được ra mắt do Tôn Đức Thắng làm Bí thư. Đến năm 1929, toàn Nam Kỳ đã có 19 cơ sở chi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Từ năm 1927, Kỳ bộ Nam Kỳ đã nhận được báo Thanh niên, cuốn Đường Kách mệnh, cuốn Vỡ lòng chủ nghĩa cộng sản và nhiều tài liệu mácxít khác bằng tiếng Pháp. Đầu năm 1928, dựa vào những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc và các tài liệu mácxít, Kỳ bộ và một vài Tỉnh bộ đã mở các lớp huấn luyện bồi dưỡng chính trị ngắn ngày cho các hội viên mới. Kỳ bộ xuất bản tạp chí Bônsêvích và báo Công nông binh do Phạm Văn Đồng và Nguyễn Kim Cương phụ trách. Từ năm 1929, để thực hiện chủ trương “Vô sản hóa”, Kỳ bộ đã đưa những hội viên của mình vào hoạt động bí mật trong các nhà máy, xí nghiệp như Ngô Gia Tự hoạt động tại bến cảng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt ở Xưởng Faci, Phan Trọng Quảng trong xưởng kéo xe, v.v.. Với những hoạt động tích cực đó, Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã biến tư tưởng cách mạng mới thành một khuynh hướng chủ đạo đối lập với hệ tư tưởng thực dân - phong kiến trong đời sống chính trị, tư tưởng của nhân dân Sài Gòn và Nam Bộ, đẩy phong trào công nhân Sài Gòn tiến lên những bước mới.
Dưới sự lãnh đạo của Kỳ bộ Nam Kỳ, trong đó có sự đóng góp của Tôn Đức Thắng, phong trào công nhân Nam Kỳ phát triển mạnh mẽ. Trong tổng số 57 cuộc đấu tranh của công nhân cả nước trong những năm 1926-1928 thì đa phần là những cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn và các vùng phụ cận. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân Đồn điền Phú Riềng (tháng 8 và tháng 9-1927). Nhà máy nước đá Larue (tháng 2-1928), Nhà máy in Portail Sài Gòn (tháng 5-1928), Đồn điền cao su Cam Tiêm (tháng 9-1928), Hãng dầu Nhà Bè (tháng 11-1928), v.v.. Từ đấu tranh cho các mục tiêu kinh tế đã tiến lên các mục tiêu chính trị, phong trào công nhân đã dần trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta.
Không nghi ngờ gì nữa, ở Sài Gòn, truyền thống đấu tranh quật khởi của công nhân đã xác lập. Do vậy, các tổ chức tiền thân của Đảng như Thanh niên và Tân Việt đã lấy nơi này làm địa bàn chủ yếu để từ đó tỏa đi đồng bằng Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Cũng không ở đâu như Sài Gòn, có mặt đông đủ các tổ chức cộng sản trước ngày hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, từ An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng đến Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930), đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân nước ta khẳng định hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và những học trò của Người trong sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào yêu nước và phong trào công nhân. Tại Sài Gòn, quá trình kết hợp đó diễn ra thuận lợi vì có sự hoạt động tích cực của Công hội do Tôn Đức Thắng sáng lập. Trên một ý nghĩa nào đó Công hội của Tôn Đức Thắng đã bắc nhịp cầu đưa chủ nghĩa Mác - Lênin đến với giai cấp công nhân. Vai trò của Công hội mà Tôn Đức Thắng là người Hội trưởng thật quan trọng trong lịch sử phong trào công nhân Việt Nam vào những năm đầu truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản ở Sài Gòn. Vì vậy, có thể nói Tôn Đức Thắng không chỉ là một chiến sĩ tiên phong của phong trào công nhân, một trong những người sáng lập tổ chức công đoàn của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là một trong những đảng viên lớp tiền bối của Đảng Cộng sản, có công trong cuộc vận động thành lập Đảng.
Trở lại giữa năm 1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị phân liệt trước yêu cầu phải nhanh chóng thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam. Sự phân liệt càng mạnh mẽ hơn khi Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập (tháng 6-1929) và cử cán bộ vào Nam Kỳ xây dựng tổ chức Đảng. Tại đây, các đồng chí lãnh đạo Kỳ bộ Nam Kỳ cũng đang tích cực hoạt động cho việc thành lập Đảng. Khi công việc đang được tiến hành khẩn trương và phong trào cách mạng cũng đang có những chuyển biến mạnh mẽ thì xảy ra một sự kiện đánh dấu một bước ngoặt mới trong đời hoạt động cách mạng của Tôn Đức Thắng: Sự kiện vụ án đường Barbier.
Vụ án đường Barbier xảy ra ngày 8-12-1928. Đây thực chất là vụ trừng phạt nội bộ trong hội viên Kỳ bộ Nam Kỳ. Do một số mâu thuẫn nội bộ cộng với việc hội viên mắc kỷ luật đã dẫn đến án tử hình tại số 7 đường Barbier (sau năm 1954 đổi là đường Lý Trần Quán, Sài Gòn, nay là đường Thạch Thị Thanh, phường Tân Định, quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Sự việc này là một khuyết điểm rất đáng tiếc của Kỳ bộ Nam Kỳ, mà sau này Tổng bộ đã phê phán nghiêm khắc. Chỉ do một sự tình cờ mà cảnh sát phát hiện ra cái xác bị thiêu cháy và tiến hành điều tra truy tìm hung thủ. Sự việc vỡ lở, thực dân Pháp biết rất rõ đây là hành động của một tổ chức chính trị nên vội vin vào cớ này để đàn áp tổ chức. Chúng hình sự hóa vụ án, coi vụ việc không liên can gì đến chính trị để đánh phản ứng của dư luận.
Tháng 7-1929, chúng mở đợt khủng bố bắt bớ hội viên Kỳ bộ tại Sài Gòn và Nam Bộ. Ngày 23-7-1929, chúng vây ráp trụ sở Kỳ bộ tại hẻm đường La Case - nay là đường Nguyễn Tri Phương và một số cơ sở ở đường Frères Louis - nay là đường Nguyễn Trãi bắt các đồng chí Nguyễn Kim Cương, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Thị Nhỏ, v.v.. Đồng chí Phạm Văn Đồng do về Trung Bộ nên thoát khỏi đợt bắt bớ này, nhưng ngày 28-7-1929, khi đồng chí từ miền Trung trở lại, đến ga Sài Gòn lúc 5 giờ chiều ngày 28-7-1929 thì cũng bị bắt. Bọn chúng bố trí lính đón lõng tại Cầu Kiệu, khi đồng chí Tôn Đức Thắng và Trần Trương đi qua cũng bị xích tay, bắt đi.
Hơn một năm bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn, Tôn Đức Thắng luôn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng kiên cường chống lại sự khủng bố của địch, không cho chúng moi tin tức về tổ chức. Mặt khác, Tôn Đức Thắng còn động viên anh em vững vàng, tin tưởng vào tương lai tất thắng của cách mạng nước ta. Không khuất phục được các đồng chí, ngày 2-6-1930, Tòa đại hình của Pháp đã kết án:
- Ngô Thiêm: Tử hình
- Trần Văn Phồng: Tử hình
- Tôn Đức Thắng: 20 năm khổ sai
- Phạm Văn Đồng: 10 năm tù giam
- Đặng Văn Sâm: 10 năm tù giam
- Bùi Văn Thêm: 10 năm tù giam.
Ngoài ra, còn một số án tù khác, Tôn Đức Thắng nêu danh nghĩa bị kết án vì tội “đồng lõa giết người”, nhưng thực dân Pháp truy tìm được lý lịch của người từng tham gia kéo cờ đỏ phản chiến ở Hắc Hải để ủng hộ chính quyền Nga Xôviết non trẻ, người tham gia nhiều hoạt động yêu nước trong suốt 10 năm kể từ khi trở về nước. “Tội danh” thực sự của đồng chí đã được chúng xác định là “tham gia với tư cách phụ trách và là thành viên hội kín, hoạt động phá rối an ninh công cộng, gây rối loạn chính trị nghiêm trọng, gây hận thù, chống lại Chính phủ Pháp và Chính phủ bảo hộ... đã đồng lõa với âm mưu chống lại an ninh Nhà nước”29.
Đêm ngày 2 rạng sáng ngày 3-7-1930, con tàu Armand Roussean của thực dân Pháp lặng lẽ rời cảng Sài Gòn đưa Tôn Đức Thắng và một số cán bộ, quần chúng yêu nước ra đày tại Côn Đảo. Kể từ đó cho đến ngày 18-8-1945, khi Côn Đảo được giải phóng, người tù mang số tù 5289-TF cùng với lời ghi chú trong phiếu quản lý Sujet dangereux (phần tử nguy hiểm) đã chứng tỏ nghị lực phi thường, ý chí kiên cường và lòng trung thành vô hạn với cách mạng. Mười lăm năm ở địa ngục trần gian Côn Đảo là quãng thời gian thử thách lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Đức Thắng, nhưng đó cũng là quãng đời đầy vinh quang khi Bác thực sự biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.
Nếu như sự kiện Hắc Hải năm 1919 mở ra một bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của Tôn Đức Thắng khi đồng chí từ Pháp trở về trực tiếp tham gia vào phong trào cách mạng Việt Nam thì 10 năm sau, vụ án đường Barbier lại mở ra một bước ngoặt mới, kết thúc 10 năm hoạt động cách mạng sôi nổi từ 1920-1930. Mười năm không phải là một quãng thời gian quá dài đối với một đời người và lại càng ngắn ngủi so với chiều dài lịch sử nhưng trong khoảng thời gian đó Tôn Đức Thắng đã làm được rất nhiều việc cho giai cấp công nhân, cho nhân dân và dân tộc. Từ việc thành lập Công hội bí mật năm 1920, lãnh đạo cuộc bãi công có tính chất bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến của phong trào công nhân đi từ tự phát sang tự giác của công nhân Xưởng Ba Son tháng 8-1925, đến việc tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và đóng góp vào quá trình vận động thành lập Đảng ở Nam Kỳ, chừng đó việc đã chứng tỏ công lao của Tôn Đức Thắng đối với phong trào giải phóng dân tộc những năm 1920. Điều đó chứng tỏ rằng Tôn Đức Thắng đã lao động, hoạt động không ngừng với tất cả lòng nhiệt thành. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đã nhận định rất chính xác: Tôn Đức Thắng không phải nhà lý luận, nhà tư tưởng hay nhà sáng tác mà là con người của hành động, hành động tiên phong.
Bản thân Tôn Đức Thắng, giai đoạn 1920-1930 đánh dấu bước chuyển biến về mặt tư tưởng có tính chất quyết định đối với toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí, đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Xuất thân trong một gia đình nông dân tương đối khá giả, Tôn Đức Thắng đã tự lựa chọn con đường làm thợ và dần dần trưởng thành trong phong trào công nhân, để rồi trở thành một người cộng sản. Con đường mà Tôn Đức Thắng đã đi là con đường đúng đắn, hợp quy luật lịch sử và yêu cầu của thời đại. Đó là con đường chung tất yếu của tất cả những người Việt Nam yêu nước chân chính. Chỉ khác là trong khi có những người yêu nước khác phải qua nhiều bước trung gian ngoắt ngoéo như vào Việt Nam Quốc dân Đảng hay các tổ chức tiền bối của Đảng rồi mới đến được chủ nghĩa Mác - Lênin, thì Tôn Đức Thắng vinh dự gặp được chủ nghĩa xã hội ngay trong phong trào công nhân mà đồng chí là một trong những người tổ chức và lãnh đạo. Nhưng mặt khác cũng phải nói rằng, trong buổi giao thời của lịch sử, khi phải đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn thì việc chọn con đường thẳng đến với chân lý cứu nước của người thanh niên yêu nước đã khẳng định bản lĩnh và khả năng tư duy độc lập sáng tạo của Tôn Đức Thắng. Cũng như Nguyễn Ái Quốc, Tôn Đức Thắng là một trong số không nhiều thanh niên Việt Nam đương thời đã vượt qua những lối mòn, đi theo con đường thời đại mà dân tộc đang mong đợi, đòi hỏi.
IV- ĐẤU TRANH BẤT KHUẤT TRONG LAO TÙ ĐẾ QUỐC Ở CÔN ĐẢO (1930 - 1945)
Bị đế quốc Pháp bắt ở Sài Gòn với án tù 20 năm khổ sai, Tôn Đức Thắng bị đày ra Côn Đảo. Tính đến cuối năm 1930 số tù nhân ở Côn Đảo lên tới 1.992 người. “Tù chính trị lúc này mới có khoảng hơn 300 người mà phần đông là Việt Nam Quốc dân Đảng bị cấm cố trong Banh II. Hơn 1.600 tù nhân còn lại tập trung ở Banh I và các sở tù khổ sai”30. Nhiều đảng viên cộng sản trong đó có Tôn Đức Thắng bị kết án khổ sai cũng bị giam chung với tù thường phạm ở Banh I, nơi chuyên giam giữ tù lưu manh, trộm cắp, đã nhiều lần mang án. Đây là một thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp mượn bàn tay của những tên tù anh chị nhằm tiêu diệt những người cộng sản.
Tôn Đức Thắng mang số tù 5289-TF (Travaux Forcés)31 một ghi chú trong hồ sơ “phần tử nguy hiểm” (Sujet dangereux). Vì vậy, Tôn Đức Thắng không phải đi làm những công việc khổ sai như những người khác, mà chỉ làm những công việc trong banh. Với bản tính hiền lành, chân chất và khéo léo của một người thợ, với hiểu biết rộng rãi của một người từng trải và thạo tiếng Pháp, Tôn Đức Thắng đã nhanh chóng cảm hóa được các loại tù nhân trong banh. Họ gọi Tôn Đức Thắng bằng một cái tên thân mật: Anh Hai Thắng.
Sau trận bão lớn năm 1930, một số tù cộng sản đã chuyển từ Banh II sang Banh I, trong đó có các đồng chí như Tống Văn Trân, Nguyễn Hới, Tạ Uyên, v.v. Từ đây, Tôn Đức Thắng có thêm các đồng chí của mình. Là một người đã có kinh nghiệm trong tổ chức Công hội bí mật ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã bàn và cùng với những người cộng sản thành lập Hội những người tù đỏ làm hạt nhân lãnh đạo, tập hợp tù nhân, tạo sức mạnh đoàn kết chống lại chế độ lao tù. Lúc đầu Hội có những hạt nhân tích cực như Nguyễn Hới, Tống Văn Trân, Tạ Uyên, Nguyễn Văn Hoan, Trần Văn Sửu (Trần Học Hải), Phan Văn Bảy (Bảy Củi), v.v. tất cả nhất trí đề nghị Tôn Đức Thắng làm Hội trưởng32.
Với bản chất người cộng sản, nhiều tù chính trị - trong số đó có Tôn Đức Thắng, luôn có lập trường chính trị vững vàng, nung nấu ý chí cách mạng, nghĩ tới tổ chức và đấu tranh là một vũ khí sắc bén. Vấn đề thành lập chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo trong nhà tù, được những người cộng sản thảo luận sôi nổi với nhiều vấn đề mới nảy sinh. Nhưng cuối cùng đa số ý kiến đã thống nhất: “Bất cứ ở đâu và trong hoàn cảnh nào người cộng sản cũng phải không ngừng hoạt động cách mạng; nơi nào có người cộng sản là ở đó cần có tổ chức Đảng để giáo dục đảng viên, giác ngộ quần chúng và lãnh đạo đấu tranh; vào tù không phải là nằm im chờ đợi hay bó tay chịu chết; ngay ở Côn Đảo cũng phải tiếp tục đấu tranh cách mạng và cần phải có tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo”33.
Trên cơ sở nhóm hạt nhân đã được hình thành cuối năm 1931, khoảng đầu năm 1932 chi bộ Đảng ở Côn Đảo được thành lập tại Khám Chỉ Tồn, Banh I, lúc đầu có chừng 20 đảng viên do Nguyễn Hội làm Bí thư, chi ủy gồm Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiểu, Tạ Uyên, Tống Văn Trân, v.v.34. Tôn Đức Thắng là một trong số những người sáng lập chi bộ đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo và giữ một địa vị lãnh đạo quan trọng mãi cho đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu:
- Lãnh đạo đấu tranh trong tù;
- Giáo dục, bồi dưỡng lý luận cho nhau;
- Tuyên truyền, giác ngộ binh lính, giám thị;
- Liên hệ với Đảng ở đất liền và tổ chức trốn tù.
Để khẳng định vai trò lãnh đạo, tập hợp đoàn kết lực lượng, chi bộ đã có phân công từng đồng chí trong chi ủy phụ trách các công việc cụ thể. Tôn Đức Thắng được chi ủy cử phụ trách Hội những người tù đỏ và giao thông liên lạc. Tôn Đức Thắng chịu trách nhiệm tổ chức đường dây liên lạc giữa Côn Đảo với đất liền, và trực tiếp phụ trách đường dây liên lạc giữa Banh I và Banh II.
Chi bộ đã xuất bản bí mật và lưu hành tờ báo Ý kiến chung nhằm tuyên truyền, chỉ đạo các hoạt động của những người tù cộng sản, tập hợp quần chúng đoàn kết đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù. Ban biên tập của tờ báo được đặt tại Khám 9 Banh I, nơi Tôn Đức Thắng bị giam giữ. Tôn Đức Thắng đã đóng vai trò quan trọng cho sự ra đời và tồn tại của tờ Ý kiến chung và sau đó là tờ Tiến lên. Anh viết bài, bí mật tiếp xúc, phát hành báo đến các banh khác an toàn, qua đó lắng nghe ý kiến, thu thập bài về cho Ban biên tập. Do đó, báo Ý kiến chung đã phản ánh được nguyện vọng của tù nhân ở Côn Đảo và trở thành tiếng nói chung của họ. Tờ báo đã đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất tư tưởng và hành động của những người tù cộng sản ở nhà tù Côn Đảo.
Trong một lần liên lạc giữa Banh I và Banh II khoảng cuối năm 1932 đầu năm 1933, bọn gác ngục phát hiện được Tôn Đức Thắng và phạt giam ở Hầm xay lúa.
Hầm xay lúa là địa ngục của địa ngục, một hình thức cực hình đối với tù nhân, địch gọi là “Khu trừng giới (quartier diciplinaire). Điều hành trực tiếp trong Hầm xay lúa là một “cặp rằng” (caporal) chính và bốn cặp rằng phụ.
Tôn Đức Thắng vào Hầm xay lúa được ít hôm thì được chỉ định làm cặp rằng chính. Đây là âm mưu thâm độc của bọn gác ngục muốn dùng tay của bọn tù “anh chị” để hành hạ và giết Tôn Đức Thắng. Hiểu được ý đồ thâm độc này, Tôn Đức Thắng đã tập hợp một số đồng chí cộng sản cũng bị đày ở Hầm xay lúa lúc bấy giờ bàn cách nhân dịp này nắm lấy quyền lực để cải thiện đời sống và điều kiện làm việc cho những bạn tù ở Hầm xay lúa.
Bằng những kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình, Tôn Đức Thắng đã cải tạo chế độ và tổ chức lại cách làm việc ở Hầm xay lúa, bỏ lối cai quản người tù bằng roi vọt, sắp xếp, phân công để tất cả mọi người đều làm việc theo điều kiện sức khỏe. Những người yếu được bố trí vào kíp sàng gạo và đóng bao, người khỏe thì xay và khuân vác thóc. Kíp đứng cối nặng nhọc nhất được bố trí thêm người, thay nhau người làm, người nghỉ. Tôn Đức Thắng không bắt tù xay nhiều thóc, không hề đánh tù, mà ôn tồn chỉ bảo cho từng người cách làm việc, cách cư xử với nhau, giác ngộ, giáo dục, cảm hóa tù nhân. Tôn Đức Thắng là một trong những người tổ chức ra Hội cứu tế tù nhân trong Hầm xay lúa. Hội có nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi như chăm sóc người ốm, nấu thêm cơm. Buổi tối tổ chức học văn hóa, nói chuyện truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho tù thường. Không khí thân tình, đoàn kết học tập và giúp đỡ lẫn nhau dần dần thay thế cho bạo lực, thù hằn, chia rẽ. Chính Tôn Đức Thắng và những người tù chính trị trung kiên đã đưa lại sự thay đổi lạ đời trong Hầm xay lúa, cải tạo “địa ngục trần gian”. Nguyễn Duy Trinh kể lại: “Tôi mến phục tinh thần bình đẳng, dân chủ thực sự, tính thật thà cầu chân lý của người đồng chí lớn tuổi. Được gần gũi anh Thắng ở Khám Lớn (Sài Gòn) cũng như sau này ở Hầm xay lúa Côn Đảo, tôi cũng như tất cả mọi anh em bao giờ cũng quý yêu ở đồng chí đức khiêm tốn rất cao, tấm lòng ngay thẳng độ lượng, ý thức tập thể vững chắc”35. Hết hạn ở Hầm xay lúa, Tôn Đức Thắng lại về với Banh I, để lại những dấu ấn sâu đậm về nhân cách của một người cộng sản. Những người cộng sản như Tôn Đức Thắng không chỉ thích nghi với hoàn cảnh mà hơn thế nữa còn cải tạo hoàn cảnh theo những khả năng tốt nhất có thể của mình.
Khoảng tháng 5-1933 gần 100 tù cộng sản từ Khám Lớn (Sài Gòn) bị đày ra Côn Đảo sau vụ án 121 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương gây chấn động dư luận. Tháng 12-1933, thực dân Pháp đày 200 tù chính trị ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo. Khi mới ra, tất cả bị giam ở Banh I. Từ đó chi bộ Chỉ Tồn, Banh I có thêm nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Nguyễn Công Khương (Lê Văn Lương), Lê Quang Sung, Nguyễn Chí Diểu, Trần Quang Tặng, Nguyễn Văn Nguyễn, v.v. Ngô Gia Tự được cử làm Bí thư chi bộ36.
Tôn Đức Thắng tích cực tham gia những cuộc thảo luận, tranh luận về vấn đề đấu tranh trong tù. Cuối cùng những người cộng sản đã thống nhất xác định, đấu tranh trong tù là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh cách mạng nhằm chống chế độ lao tù hà khắc, bảo vệ sinh mạng, duy trì tinh thần chiến đấu và rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ cho Đảng.
Chi bộ Chỉ Tồn, Banh I sau khi được tăng cường lực lượng đã tích cực củng cố Hội tù nhân và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc đấu tranh. Sau nhiều lần thảo luận ở các khám và các sở tù, mùa hè năm 1934 một cuộc Hội nghị đại biểu tù nhân đã được triệu tập bí mật. Thay mặt cho hơn 300 hội viên, các đại biểu đã quyết định đổi tên Hội người tù đỏ thành Hội tù nhân thống nhất. Do được chuẩn bị chu đáo và bí mật, các đại biểu thảo luận trong hai tiếng đồng hồ và đi đến thống nhất một số vấn đề thuộc tôn chỉ, mục đích của Hội, thể hiện tính quần chúng rộng rãi:
“1. Giúp đỡ nhau trong lúc đau yếu và trong việc làm (khổ sai);
2. Đấu tranh đòi cải thiện sinh hoạt và giảm nhẹ khổ sai;
3. Tổ chức học tập văn hóa”37.
“Tôn Đức Thắng được chi ủy cử phụ trách Hội tù nhân; Ngô Gia Tự, Nguyễn Hới, Trần Quang Tặng được bầu vào Ban lãnh đạo chung toàn đảo”38.
Năm 1934, sau khi rời khỏi Hầm xay lúa, Tôn Đức Thắng làm việc tại Sở Lưới, vừa sửa máy vừa lái canô. Tại đây, Tôn Đức Thắng tiếp tục phụ trách đường dây liên lạc giữa chi bộ Chỉ Tồn và cơ sở Đảng các banh, các sở tù, bảo đảm đường dây liên lạc với đất liền và các thủy thủ Pháp, Việt chạy tàu viễn dương. Sở Lưới, với vai trò của Tôn Đức Thắng trở thành trung tâm giao liên quan trọng của tổ chức Đảng ở Côn Đảo và là đầu mối để tổ chức cho cán bộ, đảng viên bị tù ở Côn Đảo trốn về hoạt động trong đất liền. Qua địa chỉ Sở Lưới do Tôn Đức Thắng phụ trách, mạch máu liên lạc được bảo đảm, tình hình tin tức đấu tranh trên toàn đảo được chi bộ Chỉ Tồn nghiên cứu để nhanh chóng tìm ra biện pháp đấu tranh thích hợp.
Nhờ hoạt động bí mật, khôn khéo của Tôn Đức Thắng ở Sở Lưới mà chi bộ Chỉ Tồn vừa chuyển được thư từ, tài liệu ở đảo về Sài Gòn, vừa nhận được nhiều sách lý luận gồm những tác phẩm kinh điển của Mác, Ăngghen, Lênin do Nhà xuất bản Xã hội thuộc Đảng Cộng sản Pháp ấn hành và tài liệu của Đảng ta. Đó là các tài liệu: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản; Làm gì; Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán; Bệnh ấu trĩ “tả” khuynh trong phong trào cộng sản Chống Đuyrinh”; bộ Tư bản (những tập đầu); v.v.
Từ khi được thành lập, chi bộ Chỉ Tồn xác định một nhiệm vụ quan trọng là bố trí cho anh em vượt đảo về đất liền tiếp tục hoạt động cách mạng. Công việc này phải được tổ chức rất chặt chẽ, chu đáo từ dự trữ lương thực, thùng đựng nước ngọt, địa điểm và vật liệu đóng bè như gỗ, dao, búa, cưa, đinh, v.v. Công việc thường phải đợi mùa gió chướng hằng năm thổi vào đất liền. Nhiệm vụ này hết sức nguy hiểm vì sóng to, biển cả, cá mập và nếu người tù không may bị bắt trước khi vượt biển, thì họ sẽ bị đày đọa ở các “địa ngục” Hầm đá, Hầm xay lúa, Sở củi - Chuồng bò, v.v. Mùa gió chướng 1932-1933 nhiều chuyến vượt đảo không thành công, chủ yếu do vỡ bè, hy sinh trên biển. Chi bộ đã kịp thời rút kinh nghiệm các cuộc vượt ngục. “Một số đồng chí được chi bộ phân công trách nhiệm chỉ đạo việc bí mật đóng thuyền. Chi bộ định ngày khởi hành và lựa chọn, chỉ định từng người trở về trong mỗi chuyến vượt ngục”39.
Khoảng tháng 4-1934, Chi bộ tổ chức cho các đồng chí Tống Văn Trân, Vũ Công Phụ, Tạo Gồng, Toàn, Kim, Xuyến và hai người tù thường vượt đảo. Đây là cuộc vượt đảo thành công đầu tiên do chi bộ tổ chức. Cuối năm 1934, chi bộ lại tổ chức cho các đồng chí Ngô Gia Tự, Tô Chấn, Lê Quang Sung và một số đồng chí khác vượt đảo, nhưng tất cả đều bị mất tích. Những chuyến vượt đảo này, Tôn Đức Thắng đều có những đóng góp nhất định với tư cách là trong Chi ủy, đồng thời là người đang làm việc tại Sở Lưới, đã làm cho canô hỏng đúng lúc các đồng chí vượt biển nên bọn gác ngục không có phương tiện rượt đuổi.
Mấy tháng sau chuyến vượt biển không thành công của nhóm Ngô Gia Tự, v.v. ngày 8-4-1935, chi bộ lại tổ chức chuyến vượt ngục cho các đồng chí Tạ Uyên, Trần Quang Tặng, Nguyễn Hữu Hoài, Phạm Hồng Thám và Tôn Đức Thắng, v.v.. Chuyến vượt đảo này đã thành công, trừ Tôn Đức Thắng bị bắt trên đường lên núi. Sau đó Tôn Đức Thắng bị nhốt vào hầm tốt và đày xuống Hầm xay lúa lần thứ hai. Mấy tháng sau, để đối phó với phong trào đấu tranh ngày càng lên cao, Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh cấm cố tất cả tù chính trị cộng sản. Tôn Đức Thắng và anh em tù cộng sản đang ở Hầm xay lúa cũng có tên trong danh sách rút về cấm cố tại Khám 8 Banh I. Đây là thời kỳ Tôn Đức Thắng cùng với Chi ủy Banh I vừa tổ chức cho anh em học tập lý luận vừa chỉ đạo và tham gia trực tiếp các cuộc đấu tranh của tù nhân Côn Đảo chống lại chế độ nhà tù tàn bạo. Tiêu biểu là các cuộc đấu tranh những ngày đầu tháng 3-1935, đấu tranh không nhận cá thối, tổ chức tuyệt thực để chặn bàn tay khủng bố của kẻ thù, đòi tháo xiềng xóa bỏ cấm cố đòi chấm dứt việc cho tù nhân ăn khô mục và đòi không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.
Theo Điều lệ mới (đã bổ sung) của Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp ở Ma Cao (tháng 3-1935), “Chi bộ Cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo được công nhận là một Chi bộ đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ”40. Từ đây, cùng với nhiều hoạt động khác, chi bộ đặc biệt đã đề ra chủ trương tích cực: Biến nhà tù thành trường học cộng sản của mình. Những vấn đề giáo dục, huấn luyện đã được Tôn Đức Thắng và các đồng chí tổ chức thực hiện từ năm 1932 khi chi bộ Chỉ Tồn vừa ra đời. Nội dung huấn luyện lúc đó là những vấn đề về tổ chức Đảng, về Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Đoàn Thanh niên phản đế, về cách tổ chức quần chúng, tổ chức biểu tình v.v.. Từ cuối năm 1933, khi chi bộ được bổ sung thêm lực lượng trong số tù nhân chính trị ở đất liền vừa ra, Ngô Gia Tự tham gia công tác huấn luyện, tổ chức cho tù chính trị Banh I học tập thấu đáo các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa cộng sản, về đặc điểm giai cấp trong xã hội Việt Nam và đường lối, phương pháp lãnh đạo của Đảng ta.
Những năm 1934-1935, sau một vài cuộc vượt ngục thành công, tạo được đường dây liên lạc giữa đảo và đất liền, đường dây liên lạc giữa các banh, việc học tập lý luận có điều kiện phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Chi bộ đặc biệt ở Banh I vẫn thường xuyên nhận được các số báo Ý kiến chung, Người tù đỏ và các tài liệu anh em ở Banh II đã biên soạn, lược dịch gửi tới.
Từ giữa năm 1935, với lệnh cầm cố toàn bộ số tù chính trị đang làm khổ sai, nên anh em có điều kiện tập trung. Tôn Đức Thắng cũng bị đưa vào cấm cố tại Khám 8. Lúc này “Chi ủy được chuyển sang Khám 8-9, đồng chí Tôn Đức Thắng là Bí thư. Chi ủy cũ ở Khám 6 trở thành tổ cố vấn”41. Dưới sự lãnh đạo của Tôn Đức Thắng, Chi bộ đặc biệt quyết định tổ chức học tập lý luận một cách có hệ thống cho cán bộ, đảng viên Trần Văn Giàu, người đã từng học Trường Đại học Phương Đông, được chỉ định làm giảng viên giảng chủ nghĩa Lênin, triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử… Trần Văn Dực giảng kinh tế chính trị học… Tôn Đức Thắng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh đều tham gia lớp học. Giáo trình là những bài giảng của các giáo sư đỏ của Liên Xô và Quốc tế Cộng sản mà Trần Văn Giàu đã nắm vững. Nội dung chương trình của lớp học nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản như:
“1. Tầm quan trọng của lý luận và mối quan hệ hữu cơ giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin.
2. Lý luận Mác - Lênin về cách mạng vô sản.
3. Chuyên chính vô sản.
4. Đảng Lêninnít của giai cấp vô sản.
5. Chiến lược và chiến thuật.
6. Vấn đề nông dân.
7. Vấn đề dân tộc và thuộc địa.
8. Vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.
9. Chiến tranh và cách mạng”42
Tôn Đức Thắng là một học viên gương mẫu, vừa chăm chú nghe giảng bài vừa giúp giảng viên kinh tế chính trị nêu những ví dụ cụ thể về các kiểu bóc lột của bọn chủ, để học viên hiểu thế nào là giá trị thặng dư.
Trần Văn Giàu kể lại: “Về học tập, bên Banh II tương đối dễ tổ chức: Có sách, có thầy, sách tiếng Pháp nhiều, thầy tiếng Pháp như Phạm Văn Đồng, Nguyễn Kim Cương; sách chính trị cũng được một số. Lấy sách của Mác - Ăngghen, Lênin, Stalin đem ra cùng đọc, cùng thảo luận, ấy là học chính trị thẳng trong kinh điển. Bên Banh I chúng tôi thì không như vậy: Chúng tôi không có sách gì hết. Về sau chật vật lắm mới nhận được quyển Đại cương kinh tế chính trị học của Lapidus, anh Dực căn cứ vào đó mà giảng bài. Còn tôi thì phải giảng chủ nghĩa Lênin và triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử (...). Tôi lường được sự khó khăn lớn trong việc giảng chủ nghĩa Lênin mà không có sách kinh điển trong tay. Đâu có lòe ai được! Ngồi nghe có những ánh sáng lớp Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, có những đồng chí từng là Xứ ủy viên, từng là tuyên huấn ở khắp nước, cuộc đời tập hợp họ lại ở cái đất Côn Đảo hẻo lánh nhưng chí khí ngất trời này. Ngồi học xung quanh giảng viên chừng năm mét là những anh mà giảng viên nào cũng phải ngắm: Tôn Đức Thắng, Nguyễn Duy Tính, Phan Đình Khảo, v.v.. Những anh ấy là Đảng ủy Côn Lơn. Họ nghe, họ nhận xét tập thể, giảng viên nói sai thì chắc chắn sẽ bị “phê” kín đáo tao nhã nhưng nghiêm khắc. Vả lại số học viên đã qua lớp sơ cấp ở các nhà tù khác nhau lại nhiều kinh nghiệm, chớ có phải như tờ giấy trắng đâu. Đó là chưa kể rằng có những bậc thầy đã từng đọc hàng chục sách của Mác, Ăngghen, Lênin, Stalin, Plêkhanốp, v.v, như Nguyễn Văn Hoan, Phiếm Chu (Đỗ Ngọc Duy). Thỉnh thoảng gặp bài lý thú, tôi thấy có Giáo sư Nghiêm Toản (Quốc dân Đảng) ở Khám 10 xin được sang nghe. Vậy thì nhiều cái khó lắm. Nhưng tôi tin nhận mở lớp huấn luyện, tin chắc rằng khi “xuống núi” thầy tôi ở Moscou đã trao cho tôi đủ phép rồi (...). Không kể bài mở màn: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm xác định lập trường cho học viên, chương trình chủ nghĩa Lênin của chúng tôi ở Côn Lôn gồm tất cả chín bài, cũng như ở Moscou(...). Đáng lẽ có bài số 10 “Tình hình hiện tại và nhiệm vụ cần kíp”. Nhưng bài này tôi tự thấy không đủ tư cách để giảng, mà Đảng ủy Côn Lôn cũng không nhận giảng. Cho nên để kết thúc lớp học dài gần bốn tháng, tôi nói về giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và vấn đề đấu tranh tư tưởng trên thế giới và trong nước ta hiện nay”43.
Trong thời gian này, báo Ý kiến chung trước ở Banh II nay được chuyển sang Banh I, xuất bản ở Khám 8-9, có nhiệm vụ đăng tải các nội dung cơ bản của các bài học. Ban biên tập gồm Trần Văn Giàu, Hà Thế Hạnh, Nguyễn Văn Hoan, Tôn Đức Thắng thay mặt chi bộ trực tiếp chỉ đạo Tạp chí ra một tháng một lần, viết tay, khổ lớn, bằng một tờ giấy manh gấp ba theo bề ngang, có thể cuốn lại bỏ vào một cái ống tre. Tôn Đức Thắng không chỉ điều hành chung mà còn tham gia trực tiếp một số khâu của quá trình xuất bản.
Tháng 5-1935, theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Pháp, một Hội nghị chống phát xít với sự tham gia của Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Xã hội cấp trên, Tổng Công đoàn, Tổng Liên đoàn lao động thống nhất và các đoàn thể quần chúng của các đảng phái nói trên đã được tổ chức tại Paris. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Nhân dân chúng phát xít và chiến tranh.
Tháng 1-1936, Mặt trận Nhân dân công bố cương lĩnh tranh cử của mình với nội dung quan trọng nhất là Đại xá (Amnistie générale), trong đó có vấn đề ân xá tù chính trị ở Đông Dương.
Ở trong nước, từ sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), Đảng Cộng sản Đông Dương đã tổ chức cuộc vận động thành lập Mặt trận Dân chủ. Trước tình hình đó, tháng 1-1936, Toàn quyền Đông Dương đã ra lệnh ân xá sáu tù chính trị ở Côn Đảo và giảm án cho 15 người khác phần lớn từ án chung thân xuống 20, 15 năm cấm cố. Đây là cơ hội thuận lợi để Chi bộ đặc biệt Banh I, cùng Ban lãnh đạo Banh II lãnh đạo đẩy mạnh cuộc đấu tranh thực hiện khẩu hiệu toàn xá tù chính trị; Đồng thời tiếp tục công tác học tập, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm để có cơ hội trở về đất liền hoạt động.
Cuộc đấu tranh tiến hành chưa được bao lâu thì Bouvier từ Pháp trở lại nhận chức Quản đốc Nhà tù Côn Đảo, thi hành chế độ nhà tù khắc nghiệt như thời 1930-1931. Từ đó, mọi quyền lợi mà tù nhân đã giành được đều bị tước đoạt; họ tiếp tục bị khủng bố, đàn áp. Trước tình hình đó, “Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ chống chế độ tàn bạo của tên Quản đốc Bouvier và đòi đại xá tù chính trị”44. Hình thức đấu tranh là nêu khẩu hiệu đưa yêu sách, hò la phản đối, bỏ việc. Đặc biệt, có sự phối hợp đấu tranh giữa các banh, toàn đảo lập Ủy ban tranh đấu, mỗi banh lập một Ban tranh đấu, các khám đều tổ chức các đội tự vệ để chống khủng bố. Tuy tuổi gần 50, Tôn Đức Thắng cũng tình nguyện xin vào đội tự vệ.
Khi có tù nhân bị đánh chết, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ đặc biệt Banh I đã tuyên bố tuyệt thực phản đối khủng bố và đòi các quyền lợi chính đáng đã ghi trong yêu sách. Được tin Mặt trận Nhân dân Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội Pháp ngày 3-5-1936, Chi bộ đặc biệt quyết định đẩy mạnh cuộc đấu tranh. “Ngày 28-5-1936, Chi ủy thảo yêu sách gửi Thống đốc Nam Kỳ, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa và Thủ tướng Pháp đòi đại xá tù chính trị. Ngày 11-6-1936, một cuộc bãi thực, lân công lại nổ ra trên toàn đảo để nhắc lại các yêu sách ngày 28-5-1936 đòi tổng đại xá”45
Theo hồi ký của Nguyễn Văn Hoan, người cùng bị giam với Tôn Đức Thắng ở Banh I thì trong thời gian này, Tôn Đức Thắng luôn gương mẫu, đi tiên phong trong mọi việc. Tối 30 Tết, thay mặt cho chi bộ nhà tù, Tôn Đức Thắng đi chúc tết anh em và động viên mọi người mài sắc ý chí chuẩn bị cho một năm mới đấu tranh quyết liệt, thu được nhiều thắng lợi hơn nữa. Sáng mồng một Tết Nguyên đán Bính Tý năm 1936, Tôn Đức Thắng dẫn đầu cuộc tuần hành trong sân trại giam, hát vang bài Quốc tế ca. Tôn Đức Thắng cầm đầu đoàn đại biểu tiếp xúc với một số thủ lĩnh Quốc dân Đảng để đàm phán về vấn đề “Mặt trận liên minh quốc cộng” mà Chi bộ đặc biệt đã đề ra. Tôn Đức Thắng cũng là một trong những người đứng hàng đầu trong đội tự vệ, chống trả quyết liệt những trận đòn của kẻ thù...
Nguyễn Văn Hoan nhớ lại: “Đối với bọn ác ôn, Bác Tôn không phải là người xa lạ. Do đó, nhân cơ hội chúng đã tập trung hỏa lực tấn công vào Bác. Đầu Bác bị vỡ, khắp người nổi lên những vết hằn thâm tím, rơm rớm máu. Quần áo bị rách tả tơi và đẫm máu, nhưng Bác vẫn thản nhiên, hiên ngang như người thủy thủ năm xưa trên Hắc Hải khi gặp cuồng phong... Sau trận khủng bố, bọn chủ ngục đưa Bác và một số anh em bị thương nặng đi băng bó và giam riêng. Tôi cũng ở trong diện và cùng được đi với Bác”46.
Tôn Đức Thắng đã để lại trong trái tim khối óc những chiếp sỹ cộng sản một tình đồng chí thiêng liêng, mà chỉ có trong gian khổ hoạn nạn, người ta mới thấy rõ tấm lòng của nhau.
“Tại nơi điều trị, Bác Tôn và anh em vẫn tiếp tục đấu tranh. Sau mấy buổi nhịn ăn tiếp theo, cuộc đấu tranh kết thúc thắng lợi... Sau mấy ngày điều trị, tuy vết thương chưa thật lành, nhưng Bác Tôn và chúng tôi đòi về khám cũ. Đầu băng bó, áo quần tả tơi, Bác Tôn và chúng tôi bước vào Khám 9 giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt đằm thắm xuất phát từ những trái tim hừng hực máu nóng của những người đồng chí cùng chung lý tưởng, cùng chung chiến hào. Mọi hoạt động trở lại bình thường. Cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng bộ lao số 1, Bác tiến hành công tác tổng kết cuộc đấu tranh”47.
Một thời gian ngắn sau, Sở mật thám Sài Gòn cho bọn mật thám ra đảo mở cuộc điều tra. Tôn Đức Thắng là một trong số người đầu tiên bị gọi ra thẩm vấn. Nhưng gần một tháng, chúng không lấy được một lời khai nào.
Ngày 14-7-1936, Toàn quyền Đông Dương quyết định trả lại tự do cho 92 tù chính trị. Thay mặt Đảng bộ, Tôn Đức Thắng đã bí mật gửi thư dặn dò và giao nhiệm vụ cho các đồng chí khi về đất liền nhận nhiệm vụ mới. Cũng trong đêm đó, sau khi nhận được bản báo cáo của đồng chí Manouinsky tại Đại hội của Đảng bộ thành phố Lêningrát về những vấn đề cơ bản của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, cùng tạp chí Thư tín quốc tế, cơ quan ngôn luận của Quốc tế Cộng sản, Chi bộ đặc biệt đã phổ biến ngay nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản đến khám tù chính trị chuẩn bị được ân xá. Chi bộ cũng truyền đạt cho Banh II và tổ chức cho toàn thể đảng viên ở Banh I học tập, nghiên cứu nội dung, nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới.
Thắng lợi của phong trào Mặt trận Nhân dân Pháp và phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã làm giảm hẳn số lượng tù chính trị ở Côn Đảo. Tuy không muốn thả tự do cho những người tù còn lại và vẫn muốn duy trì những hình thức cai trị “địa ngục”, nhưng do tình hình đã thay đổi nên chính quyền thực dân cũng phải giảm án và để cho tù nhân được hưởng những quyền lợi mà họ đã đấu tranh giành được trong những năm 1934-1936.
Lúc này Banh I còn khoảng 40 đảng viên cộng sản vẫn bị cấm cố trong Khám 6. Chi bộ đặc biệt được củng cố lại, đồng chí Nguyễn Duy Trinh làm Bí thư... Hội tư nhân cũng được củng cố lại, Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Hội48.
Thời kỳ này, nhiều tin tức tài liệu báo chí từ trong nước được gửi ra Côn Đảo thông qua mạng lưới những đồng chí vượt đảo trở về đất liền xây dựng, Tôn Đức Thắng cùng các đồng chí trong chi bộ đã học tập, nghiên cứu nghiêm túc nhiều vấn đề lý luận chính trị và thời sự nóng hổi của Đảng. Đáng chú ý là vấn đề sách lược đấu tranh ở tù trong điều kiện mới, khi Quốc tế Cộng sản chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít và Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Theo đó, các hình thức đấu tranh được áp dụng một cách mềm dẻo hơn phối hợp nhiều hình thức, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của những người tiến bộ trong hàng ngũ địch, gõ kiến nghị, tạo dư luận, v.v..
Từ cuối năm 1938, nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai đã đến gần. Chính quyền thuộc địa ở Đông Dương và bọn chúa ngục ở Côn Đảo bắt đầu trở mặt, tiếp tục bắt bớ, khủng bố những người hoạt động trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Ở Côn Đảo chúng chỉ nhượng bộ những yêu sách nhỏ.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (ngày 1-9-1939), với sự chuẩn bị từ trước, chi bộ sẵn sàng lãnh đạo những người cộng sản bước vào một thời kỳ đấu tranh mới gay go, quyết liệt. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, Hội tù nhân do Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch đã có nhiều hình thức tổ chức và hoạt động phong phú phù hợp với hoàn cảnh mới. Hội đã tổ chức ra Ban Trật tự, lo bố trí công việc cho phù hợp với sức khỏe từng người. Ban Trật tự ngoài đấu tranh với bọn “gátdan”, ma tà không để chúng đánh đập tù nhân. Ban Học tập tổ chức cho tù nhân học tập lý luận, xóa mù chữ, học thêm văn hóa, ngoại ngữ. Ban Vệ sinh giữ gìn vệ sinh trong khám, phổ biến kinh nghiệm phòng chống bệnh tật cho anh em. Ban Cứu tế chăm sóc những người đau yếu, bệnh tật và giúp đỡ những người có khó khăn, v.v..
Hội tù nhân có chương trình, điều lệ cụ thể và ai thừa nhận chương trình, điều lệ sẽ được kết nạp vào Hội.
Từ sau khi thực dân Pháp ở Đông Dương dâng nước ta cho phát xít Nhật (tháng 9-1940), nhiều sự kiện trong nước tác động dồn dập tới chi bộ và Hội tù nhân trên đảo. Đó là các Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, tháng 11-1940; các cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 22-9-1940), Nam Kỳ ngày 23-11-1940).
Đầu năm 1941, nhiều chiến sĩ cộng sản bị bắt trong Khởi nghĩa Nam Kỳ bị đày ra Côn Đảo. Các khám tù đều chật ních. Bọn chúa ngục Côn Đảo bắt đầu một thời kỳ đàn áp man rợ đối với tù nhân, một không khí ngột ngạt bao trùm lên toàn đảo. Chúng tăng cường lực lượng gác ngục hung ác từ đất liền ra đảo, ráo riết lục soát, khám xét, vu cáo những người tù cộng sản, lấy cớ tước những quyền lợi mà tù nhân đã giành được trong những năm trước. Trước những đòn thù dã man, nhiều người tù thường phạm cũng trở mặt nói xấu những người cộng sản, thậm chí có tên tù lưu manh đã vu cáo về các hoạt động của Chi bộ đặc biệt. “Trong tình hình bất lợi, Hội tù nhân tuyên bố tự giải tán Chi bộ đặc biệt cũng giảm bớt hai phần ba số đảng viên, chỉ tuyển lại những đồng chí trung kiên và có năng lực hoạt động trong tù. Mạng lưới cứu tế tù nhân vẫn được củng cố dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ”49. “Trong tình hình này, Bác Tôn lại được tổ chức bố trí ra làm Sở Lưới”50.
Trong tình hình địch khủng bố ác liệt và bệnh tật phát sinh nhiều, chi bộ đặt trọng tâm công tác vào việc cứu tế, đoàn kết, tương trợ giữa các tù nhân, bảo vệ cán bộ của Đảng.
Vẫn ở trong cấp ủy, lại ở Sở Lưới, đặc biệt có một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, Tôn Đức Thắng có điều kiện giúp đỡ các tù nhân khác trong việc chữa bệnh hoặc kiếm thêm thực phẩm (cá) để bồi dưỡng cho anh em. Với tinh thần cách mạng triệt để và phẩm chất cao đẹp của người cộng sản thương người như thể thương thân”, Tôn Đức Thắng đã góp phần quan trọng cùng chi ủy chỉ đạo mạng lưới cứu tế tù nhân. Ban cứu tế được tổ chức rộng khắp trong quy mô toàn đảo, chăm lo phong trào cứu tế từ việc lớn đến việc nhỏ. Những việc làm đó đã cứu được mạng sống của nhiều người. Theo hồi ký Bảy năm cấm cố hầm của Tô Thúc Rịch hồi đó là tù chính trị bị giam ở Banh I, Khám Vagông (khám giam những người tù “cứng đầu” ở Banh I, có nhiệm vụ chuyên san cồn cát, lấp ao hồ dưới ngọn roi của những tên gác ngục tàn ác khét tiếng): “... Tôi bị bệnh ghẻ hầm, một chứng bệnh rất nguy hiểm... Giữa lúc tôi đang lo lắng về bệnh tật thì tôi nhận được một lọ thuốc nước và một bức thư của đồng chí Tôn Đức Thắng gửi vào. Tôi vội mở thư ra xem: Đồng chí Tôn Đức Thắng giới thiệu tác dụng của chất axít pha với nước trong việc chữa bệnh ghẻ hầm và hướng dẫn cách sử dụng … Sở dĩ tôi còn sống được sau 10 năm ở Côn Đảo và sau 4 năm cấm cố hầm đầy khổ cực và thiếu thốn không những là nhờ ở nghị lực, ở sức mạnh của lòng ham sống và yêu đời, ở chí khí và tinh thần cách mạng của bản thân, mà còn nhờ ở sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí và các bạn bè, nhất là của đồng chí Tôn Đức Thắng”51.
Từ năm 1943, diễn biến của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai và tình hình Đông Dương có nhiều bất lợi cho quân Nhật ở Đông Dương. Côn Đảo cũng không nằm ngoài tình hình chung đó, Quản đốc nhà tù chủ trương đưa cả tù chính trị ra cùng tham gia lao động trên khắp các vùng của đảo để giải quyết nạn đói. Nhân cơ hội này, tổ chức Đảng bố trí đưa đảng viên và cán bộ ra làm việc ở các Sở Bản chế, Sở Lưới Nhà đèn, Nhà thương, Văn phòng xếp chánh, Văn phòng quản đốc, Sở Dây thép, “Chi bộ đặc biệt đã hình thành được Trung tâm lãnh đạo bên ngoài trại giam”52. Bác Tôn vẫn tham gia lãnh đạo chi bộ như trước”53.
Mùa hè năm 1944, khi tù chính trị ở Sơn La và Hỏa Lò bị đày ra Côn Đảo thì Chi ủy của đoàn tù này đã nhanh chóng bắt liên lạc với Trung tâm lãnh đạo. Hai bên đã trao đổi thông tin và kinh nghiệm cho nhau. Qua đó, Trung tâm lãnh đạo (lúc đó được xem như Đảo ủy hoặc Đảng ủy Côn Đảo) nắm được tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 8 (tháng 5-1941), 10 chính sách của Việt Minh, tình hình chuẩn bị vũ trang giành chính quyền và kinh nghiệm tám tháng đánh du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai. Đây là giai đoạn Trung tâm lãnh đạo tiếp tục giữ được vị trí chỉ đạo của mình trong việc khẳng định mục tiêu cơ bản của cách mạng lúc này là giải phóng dân tộc, giành độc lập, chủ quyền. Đồng thời tăng cường sự đoàn kết nhất trí giữa Chi ủy, chi bộ Sơn La - Hỏa Lò với Đảo ủy.
“Ở Sở Lưới, Bác Tôn chấp hành Nghị quyết của tổ chức Đảng xây dựng lại đường dây bí mật liên lạc giữa các banh các sở công tác, tích cực vận động binh lính và “gátdan” để họ ủng hộ hoặc không ngăn trở công việc của những người cộng sản. Việc gấp rút chuẩn bị cho cán bộ, đảng viên vượt đảo được giao cho Bác Tôn và một số đồng chí khác đang làm việc ở các sở ngoài”.
Tối ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp trừ mối hậu họa và độc chiếm Đông Dương.
Sáng ngày 10-3, hai tàu chiến Nhật đã đưa thêm một trung đội lính lên Côn Đảo, phối hợp với 20 tên lính Nhật đã có mặt ở đảo từ ngày 6-2-1945, tước vũ khí toàn bộ đại đội bộ binh thuộc địa và bọn gátdan Pháp. Công chức Pháp bị quản thúc. Bộ máy nhà tù vẫn giữ nguyên như cũ dưới quyền chỉ huy của Lê Văn Trà, một công chức thân Nhật.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng ủy Côn Đảo thời gian này là theo dõi sát tình hình, gấp rút tổ chức vượt ngục đưa cán bộ về đất liền hoạt động. Phạm Hùng và một đồng chí khác vượt ngục, nhưng thuyền vừa hạ thủy thì bị phát hiện và bắt giữ.
Từ giữa năm 1945, Đồng minh ngày càng thắng thế. Tình hình ở đảo ngày càng sôi động, nhất là sau khi tàu bay Đồng minh bắn phá vào đảo. Trước tình hình đó, Đảng ủy Côn Đảo ra một chỉ thị phân tích tình hình nêu cao cảnh giác, khẳng định lấy nhân dân làm chỗ dựa để giành thắng lợi. Chỉ thị cũng xác định nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên quyết tâm vượt ngục trở về chớp lấy thời cơ cướp chính quyền. Bản chỉ thị được phổ biến đến từng cơ sở Đảng trên đảo.
Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phátxít Nhật, nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông hơn một triệu lính tinh nhuệ của Nhật. Ngày 15-8-1945, phát xít Nhật chính thức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện. Đảng ta kịp thời chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân cả nước vùng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Sau khi nắm được tình hình Xứ ủy Nam Kỳ sẽ ra đón tù chính trị ở Côn Đảo về, Đảng ủy Côn Đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo, giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình. Tuy nhiên cũng có một số đồng chí trẻ muốn bạo động cướp chính quyền. Đảng ủy cử các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Sĩ, v.v. đi giải thích và bảo vệ chủ trương của Đảng ủy. Cuối cùng ý kiến của Đảng ủy được chấp hành một cách nghiêm túc.
Thực hiện chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, Trung tâm lãnh đạo cử một đoàn đại biểu gồm Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Trần Ngọc Danh, Lã Vĩnh Lợi đến gặp Quản đốc Lê Văn Trà54.
Những yêu cầu của ta không được Quản đốc Lê Văn Trà chấp nhận. Nhưng trước áp lực của tù chính trị, Lê Văn Trà phải đồng ý một số vấn đề khác như tổ chức chính quyền liên hiệp trên đảo, sửa chữa vô tuyến điện, sửa rađiô để nghe tin tức, sửa canô để đưa đại biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ.
Sau mấy phiên họp bàn giữa Quản đốc Lê Văn Trà và đại diện tù chính trị, cuối cùng cuộc bầu cử chính quyền liên hiệp trên đảo đã kết thúc mà thắng lợi thuộc về chúng ta. Hội đồng Liên hiệp quốc dân Côn Đảo ra đời với phần lớn là tù cộng sản, trong đó có Tôn Đức Thắng. Với kết quả này tuy Quản đốc Lê Văn Trà có phản ứng, nhưng cuối cùng đã phải nộp súng cho những người cộng sản. Từ đây, trên thực tế, chính quyền trên đảo đã thuộc về những người cộng sản. Trong tình hình mới, một mặt Đảng ủy tổ chức lực lượng vũ trang, lập Đoàn phòng thủ Côn Đảo; mặt khác, phân công một số đồng chí làm một số công việc cụ thể đón đợi ngày chiến thắng hoàn toàn. Tôn Đức Thắng cùng một số thợ giỏi được phân công sửa chiếc canô bị hỏng nặng và chiếc rađiô cũ để liên lạc với đất liền. Sau khoảng một tuần canô chạy thử sang Hòn Cau, vòng qua Hòn Bảy Cạnh, rồi trở về Sở Lưới.
Một buổi sáng, mọi người lắng nghe lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập do một đài nước ngoài phát lại. Toàn đảo mừng vui khôn xiết. Đảng ủy Côn Đảo tổ chức một cuộc mít tinh chào cờ đỏ sao vàng, mừng nước nhà độc lập... Cùng với việc thành lập các đoàn thể quần chúng, ra báo Độc lập, Đảng ủy cử một số đồng chí về đất liền liên lạc với Đảng và với chính quyền cách mạng. Trong khi đoàn đang chuẩn bị về đất liền thì đêm 16-9-1945, tàu Phú Quốc và hai chiếc thuyền đi đầu trong đoàn thuyền 23 chiếc do Xứ ủy Nam Kỳ cử ra đón các chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo đã cập bãi Cỏ Ống (Côn Đảo). Một số thuyền bị dạt do giông to, sóng lớn cũng tới Côn Đảo trong những ngày sau đó.
Sáng ngày l7-9-1945, Tôn Đức Thắng cùng Là Vĩnh Lợi được Đảng ủy cử sang Cỏ Ống đưa đoàn tàu thuyền và phái đoàn của Chính phủ về cầu tàu trong tiếng reo hò vang dậy.
Chiều ngày 17-9, cuộc mít tinh chính thức được tổ chức trọng thể tại sân banh trên đảo. Đồng chí Tưởng Dân Bảo đọc quyết định của Ủy ban Hành chính Nam Bộ về việc đón chính trị phạm Côn Đảo và tuyên bố từ giờ phút này, Côn Đảo là một mảnh đất của Tổ quốc ta được hoàn toàn tự do và độc lập. Cùng với nhiều công việc được khẩn trương tiến hành như đi viếng một tạc bia cho các đồng chí của mình đã hy sinh, thành lập Ban Vận động quyên góp tiền, vàng đóng góp cho nước nhà hưởng ứng Tuần lễ vàng và xây dựng Quỹ độc lập của Chính phủ v.v.. Tôn Đức Thắng cùng Đảng ủy bàn bạc với Đoàn Đại biểu Chính phủ lập danh sách toàn bộ tù chính trị để đưa về đất liền; lập danh sách những đảng viên trung kiên đã được thử thách trong cuộc đấu tranh ở nhà tù để giới thiệu với Đảng.
Sáng ngày 23-9-1945, tàu Phú Quốc cùng 23 chiếc thuyền bầu đã nhổ neo đưa 1.800 tù chính trị trở về đất liền. Chiếc canô vừa được sửa lại được mang tên Giải phóng do chính Tôn Đức Thắng lái đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo trở về. Tuy gian nan, vất vả vì sóng gió lớn giữa biển, nhưng chiều ngày 23-9-1945, tàu Phú Quốc và những chiếc thuyền đầu tiên đã cập bến Đại Ngãi, tỉnh Sóc Trăng trong sự đón tiếp nồng nhiệt của Đảng bộ và nhân dân địa phương. Chiếc canô Giải phóng được Tôn Đức Thắng điều khiển chạy vào của biển Mỹ Thanh an toàn trong khung cảnh tưng bừng rợp cờ hoa, khẩu hiệu và những giọt nước mắt sung sướng.
Gần 17 năm ở ngục tù Côn Đảo, Tôn Đức Thắng và nhiều chiến sĩ cộng sản khác xứng đáng với nhận xét của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”55.
V. CÙNG ĐẢNG, NHÀ NƯỚC LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP KHÁNG CHIẾN, KIẾN QUỐC (1945-1954)
Đêm ngày 23-9-1945, thực dân Pháp phản động đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, thực hiện dã tâm tái chiếm nước ta một lần nữa. Tôn Đức Thắng cùng hai người thợ máy là Nguyễn Hùng Minh và Nguyễn Hồng Phước lên canô về Cần Thơ ngay trong đêm, không kịp ghé thăm người vợ yêu quý và hai người con gái lúc ấy đang ở cách Cần Thơ vài chục kilômét.
Ngày 15-10-1945, tại Hội nghị cán bộ Đoàn xứ Nam Kỳ họp ở ngoại ô Mỹ Tho, Tôn Đức Thắng được bầu vào Xứ ủy và được Xứ ủy phân công phụ trách ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ.
Ngày 25-10-1945, Tôn Đức Thắng tham dự Hội nghị xứ ủy Nam Bộ mở rộng do Hoàng Quốc Việt thay mặt Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trì tại Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tôn Đức Thắng đã góp phần cùng với tập thể Xứ ủy Nam Bộ nêu ra phương hướng chỉ đạo và nhiệm vụ cấp bách cho cuộc chiến đấu ở Nam Bộ. Trước hết là tiếp tục khẳng định và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ về mọi mặt, nhất là lực lượng vũ trang. Đồng thời phải chấn chỉnh và tăng cường tổ chức. Nhiệm vụ trước mắt là kiên trì giữ vững và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của thực dân Pháp.
Sau Hội nghị, trên cương vị mới của mình, Tôn Đức Thắng cùng với những cán bộ trung kiên của Đảng đi sâu xuống cơ sở, xây dựng phong trào, củng cố và phát triển chính quyền cách mạng, xây dựng cơ sở vũ trang, thành lập những khu du kích và đơn vị vũ trang cách mạng đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Tháng 12-1945, Xứ ủy họp Hội nghị mở rộng ở Đức Hòa tỉnh Long An quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam và thành lập các Khu 7, 8, 9 ở Nam Bộ, Tôn Đức Thắng được giao nhiệm vụ tổ chức hậu cần.
Ngày 6-1-1946, bất chấp mọi hành động phá hoại của thực dân Pháp và bọn phản động, đồng bào Nam Bộ cùng cả nước tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, bầu Quốc hội của nước Việt Nam mới Tôn Đức Thắng được nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn bầu làm đại biểu của mình trong Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng 2-1946, Tôn Đức Thắng được điều động ra Hà Nội để cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc kháng chiến kiến quốc. Sau kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I (ngày 2-3-1946), Tôn Đức Thắng được bầu bổ sung làm Ủy viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội56.
Cuối tháng 3-1946, qua hai tháng trời trèo đèo, lội suối, bí mật vượt qua nhiều vùng nguy hiểm, Tôn Đức Thắng ra tới Hà Nội, được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, mừng vui khôn xiết.
Tình hình nước ta vào đầu năm 1946 cực kỳ khó khăn. Vận mệnh Tổ quốc như “Nghìn cân treo sợi tóc”. Đảng ta chủ trương một mặt ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc làm động lực cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược, mặt khác “hòa để tiến”, “lùi một bước để đến hai bước”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội đã có nhiều cuộc tiếp xúc, đàm phán với Pháp để duy trì nền hòa bình ở Đông Dương đang có nguy cơ bị bọn thực dân phản động Pháp chà đạp.
Trong bối cảnh đó, ngày 16-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Quốc hội nước ta cử Tôn Đức Thắng tham gia Đoàn đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với cương vị là Phó trưởng đoàn, do Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm nước Pháp theo lời mời của Quốc hội nước Cộng hòa Pháp. Trên đường sang Pháp, đoàn họp thống nhất nhiều vấn đề quan trọng để làm việc với phía Pháp như các đảng phái trong nước, thành phần Quốc hội, khuynh hướng của Chính phủ, Hiến pháp, vấn đề Nam Bộ, Liên bang Đông Dương, Việt kiều và Liên hiệp Pháp, v.v.. Tôn Đức Thắng được phân công trong Ban Kiều bào, có nhiệm vụ liên lạc, điều tra, giúp đỡ Việt kiều về các mặt.
Ngày 30-4-1946, Tôn Đức Thắng cùng một số thành viên trong Đoàn đi Marseille để gặp kiều bào và các nhân sĩ trí thức. Ngày 4-5-1946, Tôn Đức Thắng và một số thành viên xuống Marseille thăm trại lính thợ Mazagues. Đoàn được kiều bào đón tiếp long trọng. Tôn Đức Thắng cùng đoàn vào trại Việt Nam, đặt vòng hoa, chào cờ, xem diễu hành của mấy ngàn chiến binh và công binh. Trong những ngày hoạt động ở Pháp, trên cương vị được phân công, Tôn Đức Thắng dẫn đầu một số thành viên trong đoàn đã gặp một số nhân vật tiêu biểu của Pháp như nhà bác học Paul Rivet, Giám đốc Viện nhân chủng học Pháp. Bà Vaillant Couturier, Chủ tịch Hội Phụ nữ Pháp và một số nhân vật tiến bộ Pháp cùng giới khoa học, kỹ thuật, văn hóa.
Với uy tín cá nhân, vị thế của Đoàn và tiếng tăm từ sự kiện tham gia kéo lá cờ đỏ ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga trên Chiến hạm France tại Biển Đen năm 1919, những buổi làm việc do Tôn Đức Thắng dẫn đầu đều đem lại kết quả tốt đẹp. Giữa tháng 5-1946, Tôn Đức Thắng dẫn một bộ phận của Đoàn đại biểu Quốc hội về trực tiếp thăm đồng bào Việt kiều ở Toulon, Marseille, và tiếp đại biểu những binh sĩ thuộc địa trong Binh đoàn Việt Nam trong lực lượng Đồng minh bị bắt ép sang làm bữa đỡ đạn cho Pháp từ năm 1939. Tôn Đức Thắng đã động viên và chúc mừng thành tích chống phátxít của Tiểu đoàn Việt Nam, hoan nghênh anh em đã hướng về Tổ quốc Việt Nam, đấu tranh giành quyền tự trị của đơn vị mình. Tôn Đức Thắng dặn dò anh em giữ gìn sức khỏe, tinh luyện binh nghiệp để có ngày trở về phục vụ Tổ quốc.
Gần 40 ngày ở Pháp, Tôn Đức Thắng cùng những thành viên trong Đoàn đã tiếp xúc với nhiều nghị sĩ Quốc hội Pháp, các đoàn thể quần chúng, các tầng lớp nhân dân Pháp, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ thế giới hiểu hơn về thiện chí hòa bình của Chính phủ Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, thắt chặt thêm tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Tôn Đức Thắng và Đoàn đại biểu Quốc hội đã làm đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trước khi Đoàn lên đường sang Pháp là “Đoàn kết, cẩn thận, làm cho người Pháp hiểu ta để gây tình hữu nghị giữa hai dân tộc”.
Ngày 23-5-1946, Tôn Đức Thắng cùng Đoàn đại biểu Quốc hội về tới Hà Nội. Thực hiện nhiệm vụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi Người sang Pháp là xây dựng một tổ chức đoàn kết rộng rãi hơn nữa các tầng lớp nhân dân Việt Nam để thu hút tất cả mọi cá nhân và đảng phái yêu nước mà trước đây, vì những lý do nào đó họ chưa vào Mặt trận Việt Minh, Tôn Đức Thắng khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời một tổ chức mặt trận mới.
Sau một tuần chuẩn bị tích cực, chiều ngày 29-5-1946, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã diễn ra Hội nghị thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt). Tính chất và mục đích của Liên Việt được xác định rõ ràng: “Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước, và các đồng bào yêu nước vô đảng phái không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc, để làm cho nước Việt Nam: độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường”57.
Hội nghị đã nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Hội trưởng danh dự; Huỳnh Thúc Kháng là Hội trưởng; Tôn Đức Thắng là Phó hội trưởng; Cù Huy Cận là Tổng Thư ký và các Ủy viên Trung ương Hội là Trần Huy Liệu, Phạm Ngọc Thạch, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Tường Long.
Với tư cách là một thành viên trong Ban sáng lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, Tôn Đức Thắng đã có sự đóng góp quan trọng vào việc thành công của Hội nghị. Từ đây, với một cương vị mới, người lãnh đạo Mặt trận Dân tộc thống nhất Tôn Đức Thắng đem hết sức lực, nhiệt tình và trí tuệ của mình, cống hiến cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp, Huỳnh Thúc Kháng đảm nhận cương vị quyền Chủ tịch nước. Vì vậy, công tác của Hội Liên Việt chủ yếu do Tôn Đức Thắng điều hành. Quán triệt tinh thần hoạt động của Hội, Tôn Đức Thắng đã chủ động bàn bạc, trao đổi với nhiều cán bộ của Hội tiếp xúc với nhiều vị nhân sĩ, trí thức, đối thoại với một số người của các đảng phái, giai cấp, dân tộc, tôn giáo khác nhau, nhằm làm cho mọi người nhận thức rõ ý nghĩa của việc thành lập Hội Liên Việt, vai trò quyết định của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng về đại đoàn kết, nhất quán trước sau như một là tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Trong mọi hoạt động cụ thể của mình, Tôn Đức Thắng đã cố gắng và góp phần to lớn làm sáng rõ chủ trương đó, phá tan âm mưu của các thế lực thù địch chia rẽ khối đoàn kết lương giáo. Tôn Đức Thắng cũng thường xuyên nhắc nhở các thành viên trong Mặt trận quan tâm đến lợi ích của nhân dân, chăm lo người già yếu, tàn tật, phụ nữ, trẻ em.
Tháng 6-1946, Tôn Đức Thắng chỉ đạo thành lập Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ kháng chiến tại Quảng Ngãi; thành lập Phân cục Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn nhằm đào tạo cán bộ chỉ huy cho miền Nam tại Quảng Ngãi; lập phòng Liên lạc Nam - Bắc đóng tại La Hay, Phú Yên có chức năng đưa các lực lượng vũ trang vào tham gia chiến trường miền Nam, đón các chiến sĩ và cán bộ miền Nam ra học tập chính trị và quân sự để trở vào miền Nam chiến đấu.
Ngày 23-7-1946, Ban sáng lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam họp bàn việc tổ chức Hội nghị trù bị toàn quốc; đồng thời quyết định về tham dự việc tổ chức kỷ niệm “cuộc Cách mạng Tháng Tám” theo lời mời của Nha Thông tin tuyên truyền. Tôn Đức Thắng tham gia vào Ban tổ chức Hội nghị.
Ngày 28-10-1946, kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I khai mạc tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Tôn Đức Thắng được bầu làm Trưởng đoàn Chủ tịch của kỳ họp Quốc hội nhất trí tán thành đường lối, chính sách trong thời gian qua của Chính phủ do Chủ tịch Hồ Cho Minh lãnh đạo. Quốc hội phê chuẩn bản Tạm ước ngày 14-9 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp. Tôn Đức Thắng và Đoàn đại biểu Nam Bộ đã đề nghị Quốc hội và được toàn thể Quốc hội nhất trí thông qua việc suy tôn Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người công dân thứ nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vì đã sáng suốt lãnh đạo nhân dân xóa bỏ xiềng xích của thực dân, phong kiến. Quốc hội cũng đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong thời gian diễn ra kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa I, với tư cách là Phó hội trưởng Hội Liên Việt, đồng thời là Trưởng đoàn Chủ tịch của kỳ họp, Tôn Đức Thắng vẫn rất quan tâm tới xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt là đoàn kết lương giáo, tạo mọi điều kiện thuận lợi thực hiện quyền tự do tín ngưỡng của công dân. Ngày 7- 11 1946, Tôn Đức Thắng đã đưa bức thư của Phối sư Phùng Văn Thới, Ngoại Viện trưởng Đạo Cao Đài Bắc Bộ thánh thất Hà Nội với nội dung chính là đề nghị Quốc hội và Chính phủ nhìn nhận Đạo Cao Đài là chính thức, đưa ra thảo luận tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I. Toàn thể đại biểu đã nhất trí tán thành cách xử lý của Tôn Đức Thắng là gửi thư phúc đáp. Thay mặt Đoàn Chủ tịch kỳ họp Quốc hội, Tôn Đức Thắng đã ký tên bức thư gửi Phối sư Phùng Văn Thới với nội dung chính “I) Quốc hội rất hoan nghênh tinh thần ái quốc của Đạo Cao Đài. II) Quốc hội trong một phiên họp gần đây đã thông qua điều thứ 10 trong bản dự án Hiến pháp Việt Nam trong đó quyền tự do tín ngưỡng của công dân được công nhận. Như thế là Đạo Cao Đài được tự do hoạt động như các đạo khác”58.
Kỳ họp thứ hai của Quốc hội đã kết thúc thắng lợi ngày 9-11-1946. Ngày 11-11-1946, Ban Thường trực Quốc hội họp để bầu ra Ban Thường vụ gồm 5 người Tôn Đức Thắng được bầu làm Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội59. Tại phiên họp bế mạc ngày 9-11-1946, Tôn Đức Thắng đã đọc Diễn văn bế mạc, trong đó nhấn mạnh: “Nếu có ai có thành kiến của giai cấp, của đảng phái, của tôn giáo thì đến trong phòng này... cũng đã để lòng nghe theo một tiếng gọi cao cả và thiêng liêng hơn cả bấy nhiêu tiếng gọi lúc thường: tiếng gọi của Tổ quốc. Cái không khí ấy đã hoàn toàn phản chiếu được tình trạng chung của đất nước..., tình trạng thống nhất ý chí và hành động”60.
Vào tháng 11-1946, khi cuộc chiến tranh xâm lược nước ta của thực dân Pháp đang đến gần, theo tinh thần “Công việc khẩn cấp bây giờ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định cử một số phái đoàn của Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận Liên Việt đi các địa phương làm công tác vận động nhân dân, tổ chức các cuộc nói chuyện về những nhiệm vụ chủ yếu của kháng chiến, động viên các tầng lớp nhân dân sẵn sàng chiến đấu. Tôn Đức Thắng với giấy giới thiệu do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, được cử đi hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây là địa bàn hoạt động trước mắt của Chính phủ và Trung ương. Tại đây, Tôn Đức Thắng đã về ở nhà ông bà Khuất Duy Huyên ở thôn Thuần Mỹ (nay là xã Trạch Mỹ Lộc) huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Những ngày hoạt động ở Thuần Mỹ, Tôn Đức Thắng đã nói chuyện với bà con nhân dân địa phương về tình hình và nhiệm vụ trước mắt, phân tích cho mọi người hiểu rằng cuộc kháng chiến toàn quốc nay mai xảy ra sẽ lâu dài và gian khổ. Bằng những lời lẽ giản dị có sức thuyết phục, Tôn Đức Thắng đã động viên nhân dân đoàn kết chặt chẽ, có quyết tâm cao sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu quyết liệt cho đến thắng lợi cuối cùng. Tôn Đức Thắng đã do các cuộc họp với Tỉnh ủy Sơn Tây, Huyện ủy Phúc Thọ và cán bộ Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt ở địa phương bàn về tổ chức dân quân, tự vệ chuẩn bị đánh du kích và giữ vững công việc tăng gia sản xuất khắp nơi”61.
Trong hai ngày 18 và 19 tháng Chạp năm 1946, Tôn Đức Thắng đã tham dự Hội nghị Thường vụ Trung ương mở rộng ở Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã vạch ra đường lối cơ bản chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến là: toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính62.
Để sự lãnh đạo và điều hành kháng chiến được tập trung thống nhất, Quốc hội đã giao quyền bính tập trung vào Chính phủ. Vì thắng lợi của cuộc kháng chiến, Ban Thường trực Quốc hội đã có những cuộc họp bàn giải quyết mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ. Cuối tháng 12-1946, Tôn Đức Thắng cùng Ban Thường trực Quốc hội họp ở một địa điểm tại Hà Đông quyết định: “a) Trong thời kỳ kháng chiến vì tình thế khó khăn nên chỉ có Trưởng ban
Thường trực Quốc hội ở cùng với Chính phủ để giúp và theo dõi đường lối chính trị cùng với Chính phủ chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện. b) Các đại biểu Quốc hội sẽ tùy năng lực và địa vị mà tham gia vào mọi công tác kháng chiến. c) Ban Thường trực thay mặt toàn thể Quốc hội hiệu triệu và nhận các ý nguyện của nhân dân, sửa soạn triệu tập Quốc hội”63.
Đầu tháng 3-1947, Tôn Đức Thắng cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương chuyển lên Việt Bắc, căn cứ địa của cuộc kháng chiến. Thời gian này quyết tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là phải củng cố và mở rộng thực lực về mọi mặt: Chính trị, quân sự, giao thông, căn cứ địa…
Từ những ngày đầu lên Việt Bắc, để bổ sung trí thức cho việc lãnh đạo cuộc kháng chiến, Tôn Đức Thắng thường sang Văn phòng Tổng Bí thư đọc sách chữ Hán. Có một thời gian, Tôn Đức Thắng đã dịch được vài chục trang tác phẩm Bàn về giai đoạn mới (Luận tân giai đoạn) của Mao Trạch Đông và nhắc nhở mọi người: “Công việc nghiên cứu lý luận chiến tranh lúc này rất cần thiết. Vì chúng ta muốn đánh thắng kẻ thù xâm lược là thực dân phản động Pháp, trước hết phải học tập ông cha ta như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... xưa kia là một nước nhỏ đã đánh thắng được nước lớn kéo quân đến xâm lược nước ta. Mặt khác, chúng ta cũng phải biết vận dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm của nước bạn Trung Quốc trong chiến tranh chống Nhật vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam chúng ta”64.
Ngày 30-4-1947, Hội đồng Chính phủ họp dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh. Tại kỳ họp này, sau khi nêu vắn tắt tiểu sử Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Hội trưởng Hội Liên Việt vừa tạ thế và tiểu sử Hoàng Hữu Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ vừa mất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cử Tôn Đức Thắng đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Cụ Huỳnh Thúc Kháng. Hội đồng Chính phủ nhất trí tán thành việc đề cử này.
Trong tháng 6 và 7-1947, Tôn Đức Thắng dự đều đặn các cuộc họp Hội đồng Chính phủ. Tại cuộc họp ngày 25-7-1947 ở Hồng Thái (Định Hóa, Thái Nguyên), theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cần cải tổ Chính phủ nhằm mục đích mở rộng cho nhiều người được tham gia tránh sự chia rẽ của Pháp và lấy lại ảnh hưởng của quốc tế, Tôn Đức Thắng đã xin từ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ để nhường lại cho các nhân sĩ yêu nước. Trong cuộc họp của Hội đồng Chính phủ ngày 3-11-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức bổ nhiệm Phan Kế Toại giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ thay Tôn Đức Thắng.
Giữa tháng 10-1947, Tôn Đức Thắng cùng Văn phòng Trung ương chuyển từ căn cứ Định Hóa (Thái Nguyên) sang vùng Võ Nhai, Đình Cả. Nhưng sau đó một thời gian lại quay trở về Định Hóa. Lúc đi ngựa, lúc đi bộ, tuy tuổi cao, nhưng Tôn Đức Thắng vẫn trèo đèo lội suối hành quân khoe khoắn, nhanh nhẹn không kém gì thanh niên. Đây cũng là dịp tốt cho lớp thanh niên noi theo học tập tấm gương Tôn Đức Thắng, được Người giải thích, truyền đạt kinh nghiệm hành quân đánh lạc hướng kẻ địch. Đặc biệt họ được nghe Tôn Đức Thắng kể chuyện kéo cờ phản chiến trên Biển Đen năm 1919, lúc đó Tôn Đức Thắng mới ngoài 30 tuổi.
Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, Thường vụ Trung ương triệu tập Hội nghị Trung ương mở rộng vào ba ngày 15, 16, 17 tháng 1-1948 nhằm mục đích nhận định thắng lợi vừa qua, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó, quyết định những nhiệm vụ và công tác mới để tăng cường lực lượng mọi mặt của cuộc kháng chiến. Hội nghị đã bầu bổ sung bốn người vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng là: Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Trần Hữu Dực.
Sau Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng tháng 1-1948, Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương đã quyết định cử Tôn Đức Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, làm Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc. Từ đó Hồ Chí Minh thường mời Tôn Đức Thắng đến nơi ở của mình để đàm đạo, trao đổi ý kiến, bàn bạc công việc cụ thể để đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc trong cả nước.
Để thúc đẩy phong trào Thi đua ái quốc, từ ngày 22 đến ngày 26-4-1948, Tổng bộ Việt Minh đã họp Hội nghị mở rộng. Mặc dù không được khỏe Tôn Đức Thắng vẫn cố gắng đến dự tất cả các ngày họp và đóng góp nhiều ý kiến quan trọng nhằm củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Trong phiên họp ngày 24-4-1948, Tôn Đức Thắng đã ghi vào sổ cảm tưởng của Hội nghị những dòng đầy xúc động: “Với hai bàn tay trắng, với ốc rau, Mặt trận đã lập nên sự nghiệp vĩ đại trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, cũng như một vài khẩu súng kíp, gậy gộc, dao găm đã đi đến một đội quân hùng hậu, đã làm cho giặc bị ngả nghiêng. Tôi tin rằng Mặt trận sẽ đi đến vinh quang. Chỉ mong rằng, cuộc hội nghị này lượm được một kết quả thật khoa học, làm cho mọi người nỗ lực, mỗi ngày mỗi nỗ lực, nỗ lực mãi mãi; mỗi người mỗi tin tưởng, mỗi ngày mỗi tin tưởng mạnh hơn”65.
Từ sau khi Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Phát động phong trào thi đua ái quốc ngày 27-3-1948 với mục đích “thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến quốc chóng thành công; thi đua ái quốc là vì nước, vì nòi”, ngày 1-5-1948, Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua vêu nước, và đến ngày 11-6-1948 chính thức phát động cuộc vận động thi đua yêu nước. Đây là thời kỳ Tôn Đức Thắng có nhiều cố gắng và đạt kết quả tốt trong việc làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng về thi đua yêu nước trở thành động lực của cuộc kháng chiến kiến quốc.
Vào khoảng tháng 10-1948, nhân dịp đồng chí Khu trưởng Khu VIII Nam Bộ và là Trưởng đoàn Quân dân chính Nam Bộ ra báo cáo với Trung ương và Bác Hồ về tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ, Tôn Đức Thắng đã đến thăm Đoàn. Trong cuộc trao đổi thân tình, Tôn Đức Thắng nói: “Mặc dầu tham gia vào cuộc lãnh đạo chung ở ngoài này - một nhiệm vụ rất lớn, nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, lúc nào cũng nghĩ tới chiến trường Nam Bộ là nơi đồng chí, đồng bào đương kháng chiến gian lao. Tôi đã nhiều lần đề nghị với Bác Hồ, với Trung ương cho trở về chiến trường để cùng với đồng chí, đồng bào Nam Bộ tham gia kháng chiến nhưng Bác Hồ chưa đồng ý (...). Đề nghị đồng chí, đề nghị Đoàn về báo cáo lại với Xứ ủy và với đồng bào Nam Bộ rằng, Tôn Đức Thắng là người con của nhân dân Nam Bộ, lúc nào cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, nghĩ tới xứ sở mà mình đã sinh ra và đã từng hoạt động”66.
Trong thời gian này, Ban Thường trực Quốc hội đã phân công các ủy viên đi các địa phương ở Liên khu III, Liên khu Việt Bắc động viên nhân dân kháng chiến. “Tôn Đức Thắng và Linh mục Phạm Bá Trực được mời về cùng Trưởng ban điều hành công việc của Ban. Năm 1948, Bùi Bằng Đoàn ốm phải đi chữa bệnh. Tôn Đức Thắng giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội”67. Thời kỳ này Tôn Đức Thắng cùng Ban Thường trực Quốc hội luôn ở cạnh Hội đồng Chính phủ, theo dõi sát và chỉ đạo kịp thời cuộc kháng chiến. Tháng 9-1949, Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ đã tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ do Lê Đình Thám dẫn đầu ra báo cáo với Trung ương về tình hình kháng chiến ở địa phương. Đầu tháng 10-1949, Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ làm việc với Đoàn đại biểu Nam Bộ, gồm các ủy viên kháng chiến hành chính, các ủy viên quân sự và đại biểu các đoàn thể quần chúng do Phạm Hùng dẫn đầu ra báo cáo với Chính phủ về tình hình kháng chiến của nhân dân Nam Bộ.
Ngày 15-2-1949, giữa lúc cuộc kháng chiến của dân tộc ta đang tiến mạnh trên giai đoạn tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công, Hội nghị cán bộ dân vận Trung ương đã khai mạc. Tại Hội nghị này, Tôn Đức Thắng đã có bài phát biểu liên quan đến việc thực hiện phương châm chính sách đúng đắn của Đảng và những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh như: Cần, Kiệm, Liêm, Chính làm cho dân yêu dân tin, dân trọng, Tôn Đức Thắng căn dặn Hội nghị việc thực hiện phương châm của Đảng phải linh động, khoa học, đoàn kết. Một phương pháp duy nhất giúp ta thành tựu ý muốn ấy là tự chỉ trích và thân ái chỉ trích bạn mình. Tôn Đức Thắng nhấn mạnh: “Đối với Đảng, với dân chúng, nếu ta thực hiện được chính sách đúng thì tương lai chúng ta sẽ rạng rỡ vinh quang. Vì thế dân vận phải làm cho kỳ được chính sách, phương châm của Đảng trong việc vận động dân chúng tích cực chuẩn bị tổng phản công (...). Dân vận quyết định sự thắng lợi của cuộc Tổng phản công. Các đồng chí hãy nỗ lực để QUYẾT THẮNG!”68.
Ngày l7-5-1950 Hội Việt - Xô hữu nghị được thành lập do Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch hội. Từ đó trở đi, trên nhiều cương vị khác nhau, Tôn Đức Thắng luôn khắc phục mọi khó khăn gian khổ cùng với Quốc hội, Chính phủ tổ chức, động viên mọi tầng lớp nhân dân, đôn đốc, kiểm tra hoạt động của các tổ chức nhà nước, đoàn thể, thúc đẩy bộ máy kháng chiến hoạt động mạnh mẽ, có hiệu quả.
Từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp do Trường Chinh, Tổng Bí thư trực tiếp chỉ đạo. Tại Hội nghị này, Tôn Đức Thắng với cương vị Trưởng Ban Trung ương vận động thi đua ái quốc đọc báo cáo về “Đẩy mạnh thi đua, nhằm đúng hướng chính”. Với tinh thần “tự chỉ trích”, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, báo cáo đã chỉ ra những khuyết điểm chính như “quan niệm thi đua chưa được rõ và thống nhất, do đó sinh ra những sai lầm về lãnh đạo và tổ chức” khi đua không nhằm đúng hướng chính nên hao phí nhân lực, vật lực, tài lực và thì giờ vào nhiều công việc chưa cần thiết...”. Với quan niệm đúng đắn thi đua là một thuật động viên, một phương thức lãnh đạo để thực hiện những công việc hàng ngày với một mức độ cao hơn trong một thời gian ngắn hơn”, báo cáo của Tôn Đức Thắng khẳng định thi đua “nhằm đúng hướng chính, động viên nhân lực, vật lực, tài lực chuyển mạnh sang tổng phản công”. Để làm tốt việc này, cách làm là phải gây ra một nơi thi đua kiểu mẫu và rút những kinh nghiệm thi đua ở đó để phổ biến cho những nơi khác theo gương.
Ngày 19-12-1950, nhân kỷ niệm bốn năm ngày Toàn quốc kháng chiến, trên cương vị Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội, thay mặt Ban Thường trực Quốc hội, Tôn Đức Thắng đã đọc Lời hiệu triệu, nhắc lại những diễn biến cơ bản trong bốn năm toàn quốc kháng chiến. Trong bốn năm đó “bộ đội đã anh dũng kháng chiến, nhân dân đã tích cực tham gia kháng chiến, Chính phủ đã cương quyết lãnh đạo kháng chiến mà nhất là toàn dân đã đoàn kết để quyết tâm kháng chiến toàn diện và trường kỳ”. Sau khi khẳng định những thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến trên các lĩnh vực quân sự, ngoại giao, như câu nói của Bác Hồ: “ta càng đánh càng mạnh, giặc càng đánh càng yếu”, Lời hiệu triệu nêu rõ: “Những thắng lợi trên, đồng bào nên nhớ: Chúng ta đã mua bằng sự gian khổ vô cùng, sự hy sinh tuyệt mực. Nhiệm vụ mỗi người công dân ta phải giữ vững lấy những chiến thắng ấy và khuếch trương nó ra”69. Cuối cùng, Tôn Đức Thắng kêu gọi “ở tiền tuyến, ở hậu phương, ở trong nước, ở ngoài nước, già, trẻ, gái trai, không kể tôn giáo gì, chính kiến gì, đều phải thi đua bằng mọi cách để giết giặc cứu nước, để giải phóng cho dân tộc và góp phần vào sự nghiệp xây dựng hòa bình chung của thế giới”70.
Sau chiến thắng Biên giới, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II tại Tuyên Quang. Tại Đại hội, Tôn Đức Thắng đọc Diễn văn khai mạc khái quát tình hình thế giới và Đông Dương trong hơn 15 năm từ Đại hội lần thứ nhất họp ở Ma Cao (tháng 3-1935). Sau 15 năm tình thế đã khác hẳn: Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám đánh đổ phát xít Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhân dân ta từ chỗ trong tay không có một khẩu súng đã gây dựng được những đội du kích nhỏ, dần dần thành một quân đội nhân dân anh dũng gồm mấy chục vạn người và những đội quân địa phương, quân du kích mạnh mẽ khắp trong nước. Diễn văn của Tôn Đức Thắng nhấn mạnh: “... một của quý nhất mà chúng ta nắm được là, đã xây dựng được một đảng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, gần một triệu người đã được rèn luyện trong hơn hai mươi năm đấu tranh vô cùng gian khổ, người trước ngã, người sau lên, một người hy sinh, trăm ngàn người khác thay thế”71. Trong Diễn văn, Tôn Đức Thắng còn kêu gọi: Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự học tập ấy là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn.
Tại Đại hội này, Tôn Đức Thắng được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Trong Diễn văn bế mạc Đại hội, Tôn Đức Thắng khẳng định Đại hội diễn ra dưới khẩu hiệu: “Đoàn kết nhất trí giành độc lập cho Tổ quốc, dân chủ cho nhân dân và hòa bình cho thế giới”.
Diễn văn của Tôn Đức Thắng tổng kết đi đến thống nhất bảy vấn đề cơ bản: Tính chất cách mạng Việt Nam, con đường tới chủ nghĩa xã hội, chính sách ruộng đất, chính sách đại đoàn kết để kháng chiến và kiến quốc, vấn đề nhân dân dân chủ chuyên chính, về lãnh đạo kháng chiến, vấn đề Đảng Lao động.
Về vấn đề cách mạng Việt Nam, Tôn Đức Thắng nêu rõ cách mạng Việt Nam hiện thời là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Về chính sách đại đoàn kết, Tôn Đức Thắng nhấn mạnh “chính sách mặt trận của ta là chính sách liên minh giai cấp để kháng chiến. Không phải liên minh giai cấp suông, mà liên minh giai cấp để kháng chiến. Đã là liên minh giai cấp để kháng chiến thì những mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp phải được diễn giải hợp lý. Nhưng bao giờ chúng ta cũng đặc biệt chú trọng đến quyền lợi của quần chúng cần lao và đông đảo vì họ là nền tảng của Mặt trận Dân tộc thống nhất, là lực lượng chủ yếu của kháng chiến. Cho nên chúng ta vừa đoàn kết, vừa đấu tranh. Song chúng ta tiến hành đấu tranh trong nội bộ Mặt trận Dân tộc một cách có lợi, có lý, có chừng mực, đặng chĩa mũi nhọn cách mạng vào bọn đế quốc xâm lược”72.
Về vấn đề Đảng Lao động là Đảng của ai? Tôn Đức Thắng tổng kết “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động”. Liên quan tới vấn đề này, Tôn Đức Thắng nắm vững và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trong Diễn văn bế mạc Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Tôn Đức Thắng trình bày: “Trong giai đoạn hiện tại, nhiệm vụ trung tâm, nhiệm vụ chủ yếu là đánh bại đế quốc xâm lược hoàn thành giải phóng dân tộc. Nhưng không phải chỉ đánh bại đế quốc xâm lược mà thôi.
Trái lại, trong khi đánh bại đế quốc bên ngoài, vẫn phải thu hẹp bóc lột phong kiến, làm yếu thế lực phong kiến và phát triển chế độ dân chủ nhân dân. Phát triển chế độ dân chủ nhân dân tộc là ít nhiều gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội Song những nhiệm vụ đó đều phải phục vụ nhiệm vụ đánh bại đế quốc xâm lược.
Quan niệm cho rằng trong giai đoạn hiện tại, nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến ngang nhau hay kháng chiến căn bản chưa thành công hai nhiệm vụ đó đã ngang nhau là sai.
Quan niệm cho rằng trong giai đoạn này chỉ phản đế, cách mạng chỉ nhằm một đối tượng là đế quốc xâm lược, khi nào chuyển sang giai đoạn sau mới phản phong kiến, cũng sai”73.
Nhận thức đó có liên quan đến chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, đến mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Bởi vì đại đa số nhân dân nước ta là nông dân. Nguyện vọng tha thiết của nông dân là độc lập, dân chủ và ruộng đất. Nông dân hiện tham gia và đóng góp rất nhiều cho kháng chiến. Vì vậy phải triệt để thi hành nghiên cứu chính sách giảm tô, giảm tức, tạm cấp, chia lại công điền, v.v. để động viên quần chúng nông dân đông đảo kháng chiến.
Tôn Đức Thắng đã giải đáp và làm sáng tỏ vấn đề lý luận cải cách và mục đích kháng chiến cải cách và chính sách đại đoàn kết toàn dân. Tôn Đức Thắng giải thích những chính sách ruộng đất “không phải cố định, nhưng có thể theo đà phát triển của cách mạng mà nhích dần lên. Nhích dần trong kháng chiến. Nhích mạnh sau kháng chiến. Nhưng trong kháng chiến nhích lên phải có hạn độ. Hạn độ đó tức là đảm bảo chính sách đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ”74.
Nhìn nhận mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp dưới góc độ Nhà nước, Tôn Đức Thắng phân tích: “Hình thức Nhà nước của chúng ta là cộng hòa dân chủ nhân dân. Nội dung của nó là nhân dân dân chủ chuyên chính. Thực chất của nhân dân dân chủ chuyên chính là công nông chuyên chính. Không nên nói, hình thức là nhân dân dân chủ chuyên chính, mà nói đúng là công nông chuyên chính. Khi nói ra ngoài thì không nên nhắc đến công nông chuyên chính vì thật ra chế độ của ta không giống hệt như công nông chuyên chính. Vì công nông chuyên chính chỉ có công nông và tiểu tư sản tham chính, còn nhân dân dân chủ chuyên chính gồm tất cả các giai cấp trong nhân dân: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những thân sĩ yêu nước và tiến bộ cùng tham chính. Nếu nói công nông chuyên chính thì hẹp hòi và không đúng”75.
Về lãnh đạo kháng chiến, Tôn Đức Thắng khẳng định: “Phải nhận rõ muốn kháng chiến thắng lợi thì trước hết, đấu tranh quân sự phải thắng lợi. Cho nên Đảng phải trực tiếp lãnh đạo kháng chiến, lãnh đạo chiến tranh nhân dân. Đảng phải ném thêm cán bộ khá vào quân đội và cán bộ các cấp của Đảng phải học quân sự, hiểu quân sự, làm quân sự”76.
Một trong những nhiệm vụ lớn mà Đại hội Đảng lần thứ II đề ra là phải củng cố, kiện toàn Mặt trận Dân tộc thống nhất để tăng cường sức mạnh đoàn kết nhất trí của toàn dân, tạo động lực đưa cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi. Trong khoảng 10 ngày sau Đại hội, Tôn Đức Thắng đã tích cực chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Tôn Đức Thắng cùng Ban vận động thống nhất Việt Minh - Liên Việt từ cuối năm 1948 đã xúc tiến lấy ý kiến các cơ quan, đoàn thể, quân, dân, chính đảng, các nhân sĩ, trí thức, các đồng chí phụ trách các bộ, ban, ngành, v.v..
Thư trưng cầu ý kiến được gửi tới hàng chục cơ quan, đơn vị, hàng trăm cá nhân. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ban vận động đã nhận được số lượng thư trả lời tương đương với số lượng thư gửi đi. Các ông Phan Anh, Cù Huy Cận, Bồ Xuân Luật, Chu Bá Phượng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Đạo Thuý, Trần Văn Giàu, bà Lê Thị Xuyến và nhiều vị khác đã gửi thư tới Ban Thường vụ Trung ương Hội Liên Việt, đồng thanh tán thành việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã khai mạc tại một địa điểm ở Việt Bắc. Tôn Đức Thắng tham gia Chủ tịch đoàn, với cương vị Quyền Hội trưởng Hội Liên Việt. Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Liên Việt và Tổng bộ Việt Minh, Tôn Đức Thắng đọc Báo cáo chính trị nêu rõ sự cần thiết và tầm quan trọng của việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc đặng giành độc lập cho Tổ quốc, dân chủ cho nhân dân, góp phần vào sự nghiệp giữ gìn hòa bình thế giới. Sau năm ngày làm việc, Đại hội đã thông qua nghị quyết thống nhất Việt Minh - Liên Việt thành một mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Mặt trận Liên Việt. Đại hội còn thông qua Chính cương Tuyên ngôn và Điều lệ của Mặt trận và nhất trí việc xây dựng và bảo vệ khối đoàn kết nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Đại hội thảo luận và nhất trí tán thành Nghị quyết của Hội đồng hòa bình thế giới.
Đại hội nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự, Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
Trong phiên họp chiều ngày 7-3-195l, Tôn Đức Thắng đọc Diễn văn bế mạc. Thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt, Tôn Đức Thắng xin hứa làm tròn nhiệm vụ mà Đại hội đã giao phó để làm cho khối đại đoàn kết dân tộc ngày thêm vững mạnh”.
Với một tinh thần và không khí dân chủ cao, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã thành công tốt đẹp. Đây là thắng lợi to lớn về chính trị, chứng tỏ toàn dân quyết tâm xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất toàn dân tộc vì sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một tương lai “trường xuân bất lão”77.
Sau Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, Tôn Đức Thắng tiếp tục tham gia dự Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, đóng góp vào việc củng cố khối đoàn kết liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương. Tiếp đến Tôn Đức Thắng cùng Hoàng Quốc Việt, Xuân Thủy, Hoàng Hữu Nhân và Lê Thành Lập bắt tay vào lo việc tổ chức Ban Mặt trận của Trung ương Đảng theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh. Ngày 10-4-1951, Tôn Đức Thắng triệu tập Hội nghị Đảng đoàn Mặt trận Trung ương để bàn về vấn đề tổ chức Ban Mặt trận của Trung ương Đảng. Hội nghị đã định ra nhiệm vụ của Ban Mặt trận là theo dõi, nghiên cứu, giúp Trung ương Đảng đôn đốc việc thực hiện chính sách mặt trận của Đảng trong cả nước. Hội nghị thảo luận nhất trí quyết nghị tổ chức của Ban Mặt trận gồm một Bí thư, các đồng chí cán sự phân công phụ trách các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đảng phái78.
Tiếp theo Hội nghị ngày 10-4-1951, Tôn Đức Thắng còn dự cuộc họp Ban Mặt trận Trung ương ngày 1-5-1951 và ngày 10-6-1951 để kiểm điểm công tác chung của Ban Mặt trận Trung ương. Tại cuộc họp ngày 10-6-1951, Hoàng Quốc Việt được cử làm Trưởng Ban Mặt trận của Trung ương. Tôn Đức Thắng là người thay Hoàng Quốc Việt khi đi vắng79.
Ngày 1-5-1951, tại Việt Bắc, Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5. Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc tham gia Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh, đọc Diễn văn khai mạc, nêu bật ý nghĩa ngày quốc tế Lao động và nhiệm vụ của toàn dân.
Ngày 9 và 10-5-1951, Tôn Đức Thắng chủ tọa Hội nghị toàn Ban Liên Việt lần thứ hai, nghe báo cáo về tình hình thế giới và trong nước từ Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt đến nay; Báo cáo về việc thực hiện nghị quyết của Hội nghị Thường trực lần thứ nhất về chính sách kinh tế tài chính của Chính phủ và thuế nông nghiệp về phong trào thi đua ái quốc. Hội nghị đã đề ra các nhiệm vụ làm cho cán bộ, hội viên Mặt trận thấm nhuần sâu sắc ý thức kháng chiến trường kỳ, chịu đựng gian khổ, chống chủ quan khinh địch. Phổ biến sâu rộng chính sách của Mặt trận, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc làm cho nhân dân hiểu rõ chính sách của Chính phủ. Khuếch trương những thắng lợi của ta về chính trị, quân sự. Đẩy mạnh phong trào chống chiến tranh, ủng hộ hòa bình thế giới. Đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc. Ngày 13-5-1951, thay mặt Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Tôn Đức Thắng đã gửi thư chúc mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân ngày sinh nhật (ngày 19-5). Bức thư có đoạn: “Chúng tôi xin hứa động viên toàn dân ra sức học tập đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Cụ, hăng hái thi đua sản xuất, lập công, đề cao chiến sĩ để chuyển mạnh sang tổng phản công”80. Vào khoảng trung tuần tháng 10-1952, nhân dịp ngày thành lập Chính phủ Pathét Lào, Tôn Đức Thắng đã gửi điện chúc mừng tới Chủ tịch Mặt trận Dân tộc thống nhất Lào Ítxala. Bức điện có đoạn: “Hai dân tộc chúng ta cùng đoàn kết trong khối liên minh Việt - Miên - Lào, kiên quyết đánh bại thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giành độc lập dân tộc và góp phần xây dựng hòa bình thế giới”81.
Từ năm 1950, về đối ngoại, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu, Ban Thường trực Quốc hội đã có quan hệ Quốc hội với nhiều nước. Năm 1951, nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Quốc khánh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Việt Nam đã cử một phái đoàn đi dự lễ do Hoàng Quốc Việt dẫn đầu Tôn Đức Thắng là thành viên của đoàn, đại diện cho Quốc hội và Mặt trận. Đoàn đại biểu Việt Nam là thượng khách của Ủy ban Chính trị hiệp thương của Trung Hoa. Phái đoàn Việt Nam đã có nhiều cuộc tiếp xúc với nhân dân Trung Hoa. Tiếp đến, Tôn Đức Thắng đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam đi thăm nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên.
Nhân dịp năm mới 1952, Tôn Đức Thắng đã trả lời phóng viên báo Nhân Dân: “Từ chỗ ngang nhau, thế lực xâm lược, cái cũ đang xuống; thế lực hòa bình, cái mới đang lên. Do đoàn kết chặt chẽ, cố gắng vượt mọi khó khăn và kiên quyết phấn đấu, ta đã đạt được những thành tích như ngày nay. Trong năm mới, quân và dân ta cần thắt chặt đoàn kết hơn nữa phấn đấu ráo riết hơn nữa thì quân thù nhất định sẽ thất bại lớn”82.
Từ ngày 23 đến ngày 27-6-1952, Ủy ban Liên Việt toàn quốc đã họp hội nghị lần thứ ba. Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Mặt trận đã đọc Báo cáo về tình hình trong và ngoài nước, đề ra nhiệm vụ trước mắt trong sáu tháng tới là: Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Duy trì và phát triển chiến tranh du kích. Gây cơ sở mặt trận ở vùng sau lưng địch. Chuẩn bị tham gia Hội nghị hòa bình châu Á - Thái Bình Dương. Đẩy mạnh thi đua ái quốc. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình83.
Trong những tháng cuối năm 1952 đầu năm 1953, trên nhiều cương vị, Tôn Đức Thắng vừa cùng Ban Thường trực Quốc hội và Hội Liên Việt tập trung chỉ đạo nhiều hoạt động trong nước, đặc biệt là thúc đẩy khối đại đoàn kết dân tộc và phong trào thi đua yêu nước, vừa có những hoạt động quốc tế như gửi điện văn chúc mừng tới Hội nghị hòa bình châu Á - Thái Bình Dương khai mạc ở Bắc Kinh đầu tháng 10-1952, góp phần giữ gìn và bảo vệ nền hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Sau Đại hội lần thứ II của Đảng - Đại hội mang tinh thần “kháng chiến thắng lợi”, mọi mặt kháng chiến đã phát triển mạnh mẽ. Quân và dân ta giành được thắng lợi ngày càng to lớn. Tiền tuyến đã giữ vững được quyền chủ động chiến trường chính. Hậu phương được mở rộng và củng cố về mọi mặt. Chính quyền dân chủ nhân dân được kiện toàn. Khối đoàn kết toàn dân được củng cố và phát triển. Điều kiện để giành thắng lợi lớn hơn thắng lợi quyết định của cuộc động viên sức người, sức của cho kháng chiến đang đặt ra những đòi hỏi to lớn. Vì vậy, phải có biện pháp cụ thể để bồi dưỡng sức dân, cải thiện đời sống cho đồng bào ở hậu phương.
Trên cơ sơ xác định nhiệm vụ cơ bản lâu dài, trước yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1-1953 đã quyết định phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, giảm tức vị cải cách ruộng đất ngay ở các vùng tự do.
Ngày 25-2-1953, theo đề nghị của Chính phủ, Hội nghị liên tịch giữa Ban Thường trực quốc hội và ủy ban Mặt trận Liên Việt toàn quốc được triệu tập để thảo luận bản đề án “Phóng tay phát động quần chúng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức” của Đảng Lao động Việt Nam. Dự hội nghị có hơn 50 đại biểu. Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc Tôn Đức Thắng đọc Diễn văn khai mạc “nhấn mạnh đến công tác phát động quần chúng, triệt để giảm tô thực hành giảm tức nhằm giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn”84. Sau khi thảo luận, Hội nghị đã ra Nghị quyết về công tác trọng tâm của năm 1953 là thực hiện nghiêm chỉnh chính sách ruộng đất của Đảng, trên cơ sở đó mà củng cố khối liên minh công nông, củng cố Mặt trận Liên Việt Hội nghị đã nhất trí với bản đề án của Đảng và hiệu triệu quốc dân tích cực thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ.
Ngày 26-11-1953, Tôn Đức Thắng triệu tập Hội nghị Ủy ban Liên Việt toàn quốc mở rộng bao gồm đông đảo đại biểu các chính đảng, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo trong toàn quốc để thảo luận và quán triệt “Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề ruộng đất” do Trường Chinh Tổng Bí thư của Đảng trình bày. Hội nghị đã họp ba ngày do Tôn Đức Thắng chủ trì, đi tới quyết nghị về “trọng tâm công tác của Mặt trận trong giai đoạn này là động viên toàn dân đẩy mạnh kháng chiến, thực hiện mục tiêu chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh đổ ngụy quyền, giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách cải cách ruộng đất trên cơ sở tán thành cương lĩnh ruộng đất của Đảng... kêu gọi các chính đảng, đoàn thể và quốc dân đồng bào yêu nước hãy ra sức ủng hộ cương lĩnh ruộng đất của Đảng, ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân hăng hái tham gia cải cách ruộng đất, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc thắng lợi”85.
Tháng 11-1953, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã nhất trí thông qua Cương lĩnh ruộng đất và quyết định cải cách ruộng đất.
Để thực hiện nhiệm vụ lịch sử đó, theo đề nghị của Chính phủ, Ban Thường trực Quốc hội đã quyết định triệu tập Quốc hội kỳ họp thứ ba tại Việt Bắc từ ngày 1 đến ngày 4-12-1953. Trong hoàn cảnh chiến tranh, các đại biểu Quốc hội phải vượt qua nhiều khó khăn mới về được Việt Bắc để họp. “Tổng số đại biểu về dự kỳ họp là 166 người, trong đó Bắc Bộ có 94 đại biểu, Trung Bộ có 62 đại biểu, Nam Bộ có 10 đại biểu”86.
Tôn Đức Thắng, Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội đọc Diễn văn khai mạc nêu rõ: “Quốc hội họp trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến đã lớn mạnh, “thế ta mạnh hơn thế giặc”, ta đang tiến tới một giai đoạn mới, đòi hỏi nhân dân phải có một nỗ lực phi thường. Do đó, Chính phủ đã đề ra dự án Luật Cải cách ruộng đất. Đó là một quyết sách để bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi, là một nhiệm vụ căn bản của cách mạng dân tộc dân chủ của chúng ta. Với tầm quan trọng đó quyết sách này phải được Quốc hội cơ quan quyền lực tối cao thay mặt toàn dân thông qua”87.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ trình bày trước Quốc hội bản báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất”. Người nêu rõ: “Then chốt thắng lợi của kháng chiến là củng cố và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, củng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển quân đội, củng cố Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt. Chỉ có phát động quần chúng cải cách ruộng đất, ta mới tiến hành những công việc đó được thuận lợi”88.
Ngày 4-12-1953, toàn thể Quốc hội biểu quyết nhất trí tán thành Luật Cải cách ruộng đất. Quốc hội đã lần lượt thông qua Nghị quyết tín nhiệm Chính phủ; Nghị quyết biểu dương các đại biểu Quốc hội đã từ trần vì nước; Nghị quyết truất quyền đại biểu Quốc hội của những đại biểu rời bỏ nhiệm vụ kháng chiến.
Kỳ họp thứ ba của Quốc hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại Quốc hội đã quyết định một quốc sách quan hệ đến thắng lợi của kháng chiến đến hạnh phúc của toàn dân là thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, đưa “chiếc xe lịch sử dân tộc ta sẽ tiến lên giai đoạn mới vẻ vang. Quốc hội ta là người thợ đóng xe, nhân dân ta là động lực của xe. Chính phủ ta là người lái xe”. Điều đó càng nổi bật lên hình ảnh của Quốc hội ta là “Quốc hội cách mạng, Quốc hội kháng chiến, Quốc hội cải cách ruộng đất “89.
Trên cương vị Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Tôn Đức Thắng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi kỳ họp thứ ba của Quốc hội, cùng Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ đã có nhiều hoạt động tích cực tạo bầu không khí hòa bình trên thế giới. Ngày 18-1-1954, đọc Diễn văn khai mạc tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô, Tôn Đức Thắng đã khẳng định mối quan hệ và tình hữu nghị Việt - Trung - Xô. Tiếp đó, đầu tháng 2-1954, trong không khí đón chào năm mới Giáp Ngọ, Tôn Đức Thắng viết bài Tết hữu nghị Việt - Trung - Xô, đăng báo Nhân Dân số 163 (từ ngày 1 đến ngày 5-2-1954), ca ngợi mối quan hệ và tình đoàn kết hữu nghị gia nhân dân ba nước Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô; đánh giá cao thắng lợi mà nhân dân và quân đội ba nước đã đạt được.
Từ khi cuộc cải cách ruộng đất được tổ chức thí điểm ở một số xã trong hai tỉnh Thái Nguyên Thanh Hóa và vùng tự do, thì mọi hoạt động của cuộc kháng chiến đều được đẩy mạnh. Tiền tuyến được tiếp thêm sức mạnh một, dẫn tới thắng lợi trên chiến trường trong Đông Xuân năm 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ. Thắng lợi quân sự là cơ sở để Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở cuộc tiến công trên mặt trận đấu tranh ngoại giao đàm phán tại Giơnevơ năm 1954. Sau khi Hội nghị ngoại trưởng bốn nước: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp ở Béclin (1-1954) đồng ý có quyết định triệu tập Hội nghị Giơnevơ bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, “Ban Thường trực Quốc hội đã thảo luận và thống nhất với Hội đồng Chính phủ cử Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dàn đầu đi dự Hội nghị Glơnevơ”90. Từ đây, với cương vị Quyền Trương ban Thường trực Quốc hội, Tôn Đức Thắng cùng Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ chăm chú theo dõi diễn biến của Hội nghị để có ý kiến chỉ đạo thích hợp. Ngày 30-5-1954, Hội nghị liên tịch Ban Thường trực Ủy ban Liên Việt toàn quốc và Ban Thường vụ Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam họp mở rộng để nhận định về công tác của Đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơnevơ. Thay mặt Chủ tịch đoàn, “Tôn Đức Thắng đã gửi điện văn tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, bày tỏ quan điểm hoàn toàn ủng hộ lập trường và những đề nghị cụ thể của Đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơnevơ”91.
Ngày 24-7-1954, thay mặt Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Ủy ban đã ra Lời kêu gọi đồng bào toàn quốc và kiều bào ở nước ngoài về việc ký kết các hiệp định đình chiến ở Đông Dương nêu rõ: thắng lợi to lớn của ta là thất bại to lớn của đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp âm mưu tiếp tục và mở rộng chiến tranh Đông Dương. Nhưng thắng lợi ấy mới là một bước đầu, chúng ta còn phải tiến tới nữa ... Chúng ta quyết không vì thắng lợi mà tự mãn, chủ quan khinh địch, quyết không vì khó khăn mà sờn lòng nản chí. Chúng ta đã dũng cảm trong kháng chiến, chúng ta càng dũng cảm trong hòa bình. Toàn dân ta từ Bắc chí Nam, trong nước và ngoài nước, đoàn kết sắt đá trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, giương cao ngọn cờ hòa bình tiến lên”92
Một tuần lễ sau ngày ký hiệp định, vì chưa đủ điều kiện, thời gian để triệu tập Quốc hội, ngày 27-7-1954 Ban Thường trực Quốc hội tổ chức Hội nghị mở rộng của Ban Thường trực Quốc hội với một số đại biểu của Ban Thường trực Ủy ban Liên Việt toàn quốc và Ban Thường trực ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam để thảo luận Bản Hiệp định đình chiến và nhất trí nhận định việc “ký Hiệp định Giơnevơ là một thắng lợi lớn”93. Thay mặt Chủ tịch đoàn hội nghị, Tôn Đức Thắng đã gửi điện tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam chúc mừng thành công của Hội nghị Giơnevơ và nhấn mạnh: “Chúng tôi cũng như toàn dân vô cùng biết ơn Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã lãnh đạo quân đội và nhân dân, anh dũng kháng chiến 8, 9 năm qua để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình và tranh thủ được hòa bình. Chúng tôi nguyện phổ biến sâu rộng trong nhân dân những chủ trương, chính sách mới của Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã đề ra cho toàn dân, tăng cường đoàn kết, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ toàn quốc”94.
Cùng ngày, thay mặt Chủ tịch đoàn của Hội nghị liên tịch mở rộng, Tôn Đức Thắng đã gửi điện văn chúc mừng tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện có đoạn: “Những chiến thắng vĩ đại những thành tích lớn lao về mọi mặt chứng minh sự lãnh đạo kiên quyết và sáng suốt của Hồ Chủ tịch và Đảng... Hiệp định đình chiến ký ngày 21-7 tại Giơnevơ, sự thừa nhận nguyên tắc tôn trọng độc lập, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của Việt Nam - Khơme - Lào trong Bản Tuyên bố chung của 9 nước ở Hội nghị Giơnevơ là kết quả của 8, 9 năm chiến đấu anh dũng của nhân dân ta... Thắng lợi ngoại giao đó, chứng minh một lần nữa sự lãnh đạo tài tình và vững chắc của Đảng...”95.
Ngày 28-7-1954, thay mặt Ban Thường trực Quốc hội, Tôn Đức Thắng đã ra Lời kêu gọi về việc ký kết các hiệp định đình chiến ở Đông Dương, nêu rõ: “Nhận định rõ bước đường thắng lợi đã qua, vững bước đi con đường hòa bình hiện tại, dưới ngọn cờ quang vinh của Hồ Chủ tịch, đồng bào toàn quốc cùng nhau đoàn kết chặt chẽ, đồng tâm nhất trí thực hiện những nhiệm vụ mới do tình hình mới đặt ra: củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ”96.
19 giờ ngày 6-11-l954, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, Hội Việt - Xô hữu nghị đã tổ chức kỷ niệu lần thứ 37 Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại, Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Hội Việt - Xô hữu nghị đã tới dự và có bài phát biểu nhan đề “Chúc mừng kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười”. Tôn Đức Thắng đã nêu bật ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười và vai trò của Liên Xô trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới. Khẳng định nhân dân Việt Nam không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô bằng nhiều việc làm và hành động thiết thực”97.
*
* *
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ Côn Đảo trở về, Tôn Đức Thắng bắt tay vào nhiệm vụ mới cùng với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận lãnh đạo toàn quân toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Với những cương vị và trọng trách to lớn được Đảng giao phó, Tôn Đức Thắng đã góp phần xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, tổ chức toàn dân tộc đoàn kết một lòng chiến đấu, giữ trọn lời thề độc lập năm 1945, hoàn thành sứ mệnh lịch sử đưa kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ nền hòa bình thế giới.
VI. CÙNG ĐẢNG, NHÀ NƯỚC LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC
(1954-1969)
Từ năm 1954 đến năm 1969, Tôn Đức Thắng nắm giữ nhiều vị trí then chốt trong hệ thống chính trị, có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Cuộc đời và hoạt động của Tôn Đức Thắng gắn liền với những thay đổi to lớn, nhanh chóng của đất nước dân tộc và thời đại. Trong tiểu sử Tôn Đức Thắng, giai đoạn này có thể chia thành ba thời kỳ nhỏ với những cống hiến hết sức quan trọng cho đất nước: Thời kỳ 1954-1960, thời kỳ 1960-1964, thời kỳ 1964-1969.
1. Chăm lo xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, cùng Đảng lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và Kế hoạch lần thứ nhất phát triển kinh tế - xã hội (1954-1960)
Năm 1954, với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, cuộc kháng chiến chống Pháp thần thánh của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính đã làm sáng lên một chân lý phổ biến của thời đại ngày nay: Một dân tộc dù nhỏ, nhưng nếu biết đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chiến đấu theo một đường lối chính trị, quân sự đúng đắn thì có đầy đủ khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có quân đội lành nghề, thiện chiến được trang bị chính quy, hiện đại. Thắng lợi của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp, có thể nói là thắng lợi của tư tưởng chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh. Đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi đường lối đúng đắn về chỉ đạo chiến tranh cách mạng. Tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” của Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực. Tôn Đức Thắng chính là một trong những người chủ chốt tổ chức thực hiện triệt để tư tưởng vĩ đại này; bản thân đồng chí cũng trở thành hiện thân sống động của khối đại đoàn kết toàn dân.
Sáng sớm ngày 1-1-1955, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử một cuộc mít tinh, duyệt binh và diễu hành quần chúng trọng thể đã được tổ chức để chào mừng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô Hà Nội. Tại buổi mít tinh mang âm hưởng hào hùng chiến thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt nhịp và diễn xướng cho đồng bào hát vang bài ca Kết đoàn bất hủ:
...Kết đoàn chúng ta là sức mạnh;
Kết đoàn chúng ta là sắt gang...
Trên lễ đài, đứng bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tôn Đức Thắng cùng vỗ tay, hòa giọng, cùng chứng kiến niềm hân hoan, phấn khởi của người dân, sức mạnh trào dâng như sóng bể của khối quần chúng đông đảo có trật tự, có tổ chức, cùng tiến về một hướng để gìn giữ trọn vẹn độc lập tự do cho non sông, đất nước. Đó cũng chính là thành quả mà đồng chí đã góp công gieo trồng, vun xới.
Với tư cách là người đứng đầu Mặt trận Liên Việt từ năm 1951, về đến Hà Nội là Tôn Đức Thắng đã cùng với Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt bắt tay ngay vào giải quyết những công tác nhiệm vụ của Mặt trận trong tình hình mới, có nhiều biến đổi, rất có lợi cho củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Ngày 7-1-1955, Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc đã họp để kiểm điểm thực hiện chính sách kháng chiến, kiến quốc tranh thủ hòa bình, độc lập kể từ sau Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt tháng 3-1951. Hội nghị đã nghiêm túc kiểm điểm những thành tựu đạt được những hạn chế vướng mắc, rút bài học kinh nghiệm và thảo luận toàn diện nhiệm vụ củng cố, mở rộng, tăng cường phát huy vai trò của Mặt trận trong tình hình mới. Lúc này, củng cố Mặt trận, đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo trở thành một nhiệm vụ cấp bách phục vụ cho cải cách ruộng đất đang được tiếp tục triển khai trên quy mô lớn ở đồng bằng Bắc Bộ và chống lại âm mưu dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào. Công giáo di cư vào Nam theo chủ trương đen tối của bọn đế quốc và các thế lực phản động.
Sau Diễn văn khai mạc Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc, Tôn Đức Thắng đọc bản Báo cáo chính trị quan trọng. Báo cáo đã trình bày những hoạt động đa dạng của Mặt trận Liên Việt, làm dấy lên một phong trào thi đua yêu nước giết giặc lập công kháng chiến kiến quốc khắp ba miền Bắc, Trung, Nam, từ vùng tự do đến vùng tạm bị chiếm đóng. Với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí đoàn kết, quyết tâm của mọi tầng lớp nhân dân đồng bào ta đã đưa ra tiền tuyến hàng trăm ngàn chiến sĩ tham gia ba thứ quân, lập nên những chiến công vang dội, đóng góp nhiều sức người, sức của giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Ở hậu phương, đồng bào ta vừa bảo đảm đẩy mạnh tăng gia sản xuất cung cấp đủ lương thực, thực phẩm để bộ đội ăn no, đánh mạnh; ngoài ra, còn đóng góp hàng triệu lượt dân công sửa chữa cầu đường, vận chuyển lương thực, súng ống, đạn dược phục vụ chiến trường. Thực hiện chính sách giảm tô và cải cách ruộng đất, tại các vùng giải phóng và căn cứ du kích, nhiều hộ nông dân được nhận ruộng, trâu bò, công cụ sản xuất, được giảm tô. Được giải quyết và thỏa mãn một phần quan trọng lợi ích kinh tế, Mặt trận chống đế quốc và phong kiến ở nông thôn càng được củng cố vững chắc. Khối liên minh chiến đấu công nông - nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất, cơ sở xã hội rộng rãi của Nhà nước dân chủ nhân dân - cũng được củng cố ngay lên địa bàn thôn, xã.
Trên trường quốc tế, chính sách đại đoàn kết của Mặt trận cũng thu hoạch và gặt hái được những thắng lợi đáng kể. Quan hệ hòa bình hữu nghị, hợp tác giữa nước ta với Liên Xô, Trung Quốc, nhất là với hai nước anh em Lào và Campuchia không ngừng phát triển, được nâng lên một tầm cao mới, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chín năm thần thánh.
Trong Báo cáo, Tôn Đức Thắng đã chú trọng phân tích những biến đổi sâu rộng của tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Trên cơ sở đó, đồng chí xác định rõ nhiệm vụ tăng cường đoàn kết toàn dân, ra sức khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh ở miền Bắc, ủng hộ cuộc đấu tranh đòi thi hành đúng đắn tinh thần, nội dung và các nguyên tắc của Hiệp định Giơnevơ, cảnh giác chống mọi âm mưu xuyên tạc, chia rẽ sự thống nhất Bắc - Nam, chia rẽ lương giáo, chia rẽ người kháng chiến và người không tham gia kháng chiến, chia rẽ giữa miền ngược và miền xuôi, giữa đồng bào Kinh và đồng bào Thượng, v.v. xây dựng các tiền đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Báo cáo của Tôn Đức Thắng trình bày tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc với các nội dung và nhiệm vụ cụ thể, thiết thực, rõ ràng được các đại biểu hồ hởi đón nhận, trở thành các quan điểm chỉ đạo công tác mặt trận trong tình hình mới. Báo cáo cũng thể hiện một phần phong cách giản dị, rành mạch và hết sức thực tiễn của Tôn Đức Thắng, đồng thời cũng thể hiện tầm cao trí tuệ và sự nhạy bén của đồng chí trong việc nhận biết, nắm bắt, giải quyết đúng đắn các vấn đề bức xúc do sự biến đổi của tình hình mới đặt ra.
Sau Hội nghị Mặt trận Liên Việt, với tư cách Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị và tiến hành hai kỳ họp của Quốc hội khóa I. Đó là các kỳ họp công khai của Quốc hội khi trở về Thủ đô Hà Nội sau kháng chiến. Vì lúc này Trưởng ban Thường trực Quốc hội là Cụ Bùi Bằng Đoàn đang ốm nặng nên mọi công việc có liên quan đều do Tôn Đức Thắng đảm nhận và đồng chí đã hoàn thành xuất sắc. Một lần nữa, khả năng tổ chức, dùng người của Tôn Đức Thắng có dịp tỏa sáng.
Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa diễn ra từ ngày 20 đến ngày 26-3-1955; còn kỳ họp thứ năm được tiến hành từ ngày 15 đến ngày 20-9-1955. Tại kỳ họp thứ năm, Quốc hội đã phê chuẩn việc thành lập những bộ máy trong nội các Chính phủ, quy định thống nhất về Quốc ca, Quốc kỳ, Quốc huy. Trong phiên họp cuối cùng của kỳ họp thứ năm, Quốc hội đã nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng giữ chức vụ Trưởng ban Thường trực Quốc hội (thay Cụ Bùi Bằng Đoàn đã qua đời tháng 5-1955); phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ, cử đồng chí Võ Nguyên Giáp và Cụ Phan Kế Toại giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ. Một trọng trách nặng nề mới thể hiện quyền lực thực tế của quần chúng nhân dân trong chế độ dân chủ mới lại được đặt lên vai Tôn Đức Thắng.
Ngoài hai chức vụ chủ chốt trong Quốc hội và Mặt trận Liên Việt, Tôn Đức Thắng còn được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, tại Đại hội hòa bình thế giới họp ở Henxinki (Phần Lan) tháng 7-1955, Tôn Đức Thắng chính thức được bầu làm Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới. Đến thời điểm này, mặc dù tuổi đã cao, sức khỏe có phần sút kém, nhưng vì sự tín nhiệm của các tổ chức trong nước và quốc tế Tôn Đức Thắng đã cố gắng đem hết tài năng, trí tuệ, kinh nghiệm và sức lực của mình để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Đồng chí thật sự trở thành một tấm gương mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản với đạo đức cách mạng cao cả, trong sáng. Từ ngày 13 đến ngày 20-8-1955, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa II đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Hội nghị đã đánh giá một cách khoa học những diễn biến của thời cuộc, từ đó đã xác định vị trí, nhiệm vụ cách mạng cụ thể cho miền Bắc và miền Nam; sứ mệnh của miền Bắc đối với tiến trình cách mạng của cả nước. Hội nghị đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ trước mắt của Đảng ta là phải ra sức tập hợp lực lượng của toàn dân thành một Mặt trận rộng rãi, có một cương lĩnh chung thích hợp để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và bằng phương pháp hòa bình; đồng thời đấu tranh để củng cố hòa bình, ngăn ngừa chiến tranh trở lại ở Đông Dương. Muốn thu được thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, phải đẩy mạnh việc củng cố miền Bắc, và muốn củng cố miền Bắc phải tăng cường chỉ đạo công tác kinh tế tài chính và ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, củng cố quốc phòng, tăng cường công tác trị an”98.
Tôn Đức Thắng đã trình bày tại Hội nghị Trung ương những ý kiến về công tác mặt trận mà đồng chí đã chuẩn bị từ trước. Trên cơ sở ý kiến của Tôn Đức Thắng, Hội nghị đã thông qua Bản dự thảo Cương lĩnh chung của Mặt trận Dân tộc thống nhất và chỉ rõ: “Sau khi Bản dự thảo ấy đã chính thức thành Cương lĩnh chung của Mặt trận, nó sẽ là cơ sở tập hợp chung một lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, giành thống nhất nước nhà xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh”99. Tôn Đức Thắng cũng đề nghị tổ chức càng sớm càng tốt Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất và được Hội nghị Trung ương nhất trí thông qua. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa II) đặt nền móng tư tưởng cho tổ chức và hoạt động của công tác mặt trận mà Tôn Đức Thắng là người đứng đầu.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ tám, Tôn Đức Thắng chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Liên Việt tiến hành chuẩn bị và mở Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc. Đại hội đã diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1955. Tham dự Đại hội có 360 đại biểu đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân, các chính đảng, đoàn thể, các lực lượng vũ trang các dân tộc, tôn giáo và kiều bào ở nước ngoài. Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước đã tới dự.
Đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Mặt trận đã đọc Diễn văn khai mạc Đại hội, nêu rõ tình hình và nhiệm vụ hiện tại của đất nước, sự cần thiết phải tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Đồng chí kêu gọi đồng bào cả nước với những lời tha thiết làm lay động triệu triệu tấm lòng: “Chúng ta cùng chung một Tổ quốc, cùng có chung hàng ngàn năm lịch sử, đau khổ có nhau vinh quy có nhau. Điều đó gắn liền đồng bào toàn quốc, gắn liền đại biểu chúng ta thành một khối”100.
Đại hội đã thảo luận thông qua dự thảo Cương lĩnh, Điều lệ mới và quyết định tên mới của Mặt trận Dân tộc thống nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Cương lĩnh của Mặt trận mở ra một trang mới cho khối đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh rất tâm đắc với Cương lĩnh này và có những đánh giá rất cao. Người nhấn mạnh:
Cương lĩnh này là một Cương lĩnh đại đoàn kết, mục đích của nó là đấu tranh cho hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước.
Ai cũng phải thừa nhận rằng: “Cương lĩnh của Mặt trận rất vững chắc, rất rộng rãi và rất thiết thực” và Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Mặt trận đã xây dựng một Cương lĩnh đúng đắn. Thế là rất tốt cho cuộc đấu tranh sau này. Nhưng đó chỉ là bước đầu trên con đường đi tới thắng lợi hoàn toàn. Từ nay, chúng ta cần phải ra sức đấu tranh để làm cho Cương lĩnh được thực hiện. Cuộc đấu tranh này sẽ rất phức tạp, gay go. Chúng ta phải bền gan, quyết chí. Việc đầu tiên và cấp bách mà chúng ta cần phải làm là đánh thông tư tưởng của mọi người, tuyên truyền giải thích bản Cương lĩnh cho thật sâu, thật rộng từ Bắc đến Nam, làm cho mọi người hiểu thấu tinh thần và nội dung của Cương lĩnh, để mọi người hăng hái ủng hộ Cương lĩnh”101.
Tại phiên họp cuối cùng, Đại hội đã bầu 87 đồng chí vào Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch danh dự. Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đọc Diễn văn bế mạc Đại hội, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã nêu bật những thành công của Đại hội và cảm ơn nhân dân cả nước đã nhiệt liệt cổ vũ và ủng hộ Đại hội.
Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân. Sự kiện lịch sử trọng đại này, trên thực tế, đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Nó đánh dấu một mốc son chói lọi trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tôn Đức Thắng, khẳng định hình ảnh cao đẹp, đức độ, uy tín của đồng chí đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.
Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc đã nhận được 11.570 bức thư và một số tặng phẩm gửi đến chào mừng Đại hội. Thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi lời cảm tạ tới các giới đồng bào và hứa đem hết nghị lực phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc102.
Hoạt động của Tôn Đức Thắng không chỉ góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, mà còn góp phần củng cố hòa bình thế giới. Nhận thấy công lao đóng góp to lớn của đồng chí Tôn Đức Thắng, ngày 9-12-1955, Ủy ban Giải thưởng hòa bình quốc tế Stalin (giải thưởng này sau mang tên Lênin) của Liên Xô quyết định trao tặng đồng chí Giải thưởng Stalin “Về sự nghiệp củng cố hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc”. Đồng chí là người Việt Nam đầu tiên được nhận giải thưởng cao quý này Nhân dịp nhận giải thưởng, Tôn Đức Thắng đã trả lời phỏng vấn của phóng viên Thông tấn xã Liên Xô. Đồng chí xúc động nói: “Thật khó mà diễn tả được bằng lời những ý nghĩ và cảm xúc của tôi do việc tôi được tặng Giải thưởng hòa bình quốc tế Stalin. Đó thật là một vinh dự lớn cho tôi một đại biểu của nhân dân Việt Nam. Đó là một sự khen thưởng rất cao, vì rằng những thành tích phục vụ của tôi vẫn còn ít ỏi. Tôi nhận rõ rằng việc tặng Giải thưởng Stalin cho tôi là một sự công nhận phần cống hiến mà nhân dân Việt Nam đã và đang đóng góp vào cuộc đấu tranh để tăng cường nền hòa bình ở châu Á và trên khắp thế giới”103.
Là một người thật sự khiêm tốn, đồng chí vẫn do dự vì e rằng mình chưa xứng đáng nhận phần thưởng cao quý mà nước bạn trao tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đích thân đến gặp Tôn Đức Thắng. Người khẳng định: “Người nhận phần thưởng này là người tiêu biểu, người tiêu biểu đó chính là Cụ”. Tôn Đức Thắng vô cùng xúc động được câu nói đầy tình nghĩa và sự đánh giá chân tình mà Hồ Chí Minh dành cho mình!
Ngày 21-1-1956, tại Điện Cremli (Liên bang Xôviết), Ủy ban Giải thưởng hòa bình quốc tế Stalin tổ chức trọng thể lễ trao Giải thưởng Stalin cho đồng chí Tôn Đức Thắng. Tại buổi lễ chính thức, Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Liên Xô đã nêu rõ: “Do cuộc đấu tranh dũng cảm của đồng chí trong mấy chục năm để giành độc lập và tự do cho nhân dân Việt Nam do sự hoạt động hăng hái của đồng chí để bảo vệ hòa bình trên cương vị Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, đồng chí rất vững đáng nhận giải thưởng cao quý ấy”. Trong lời đáp, đồng chí Tôn Đức Thắng cảm ơn Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô đã trao tặng đồng chí phần thưởng cao quý và khẳng định rằng nhân dân Việt Nam sẽ đấu tranh đến cùng để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và sẽ không ngừng cố gắng để góp phần to lớn hơn nữa cho sự nghiệp giữ gìn và củng cố hòa bình giữa các dân tộc.
Tôn Đức Thắng có quan hệ và tình cảm đặc biệt với đất nước của V.I. Lênin vĩ đại. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, đầy sóng gió, đồng chí đã dành một phần máu thịt của mình cho đất nước Xôviết. Nhân dân Liên Xô nhớ tới người thợ máy Việt Nam dũng cảm tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Hắc Hải và kéo lá cờ đỏ trên chiến hạm Pháp, biểu lộ sự phản đối của mình trước việc hạm đội Pháp tấn công nước Cộng hòa Xôviết non trẻ. Nhân dân Xôviết nhớ tới đồng chí trên cương vị Chủ tịch Hội Việt - Xô hữu nghị ngay từ khi Hội mới thành lập (ngày 17-5-1950). Trên cương vị này, đồng chí không ngừng vun đắp cho cây đời hữu nghị Việt Xô mãi mãi đơm hoa kết trái. Nhân dân Liên Xô nhớ tới người cộng sản Tôn Đức Thắng rất mực thuỷ chung, trọn nghĩa vẹn tình.
Mười hai năm sau, kể từ khi được nhận Giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin, tháng 11-1967, đồng chí Tôn Đức Thắng lại được Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô tặng thưởng Huân chương Lênin. Đó là những phần thưởng quý giá đối với một đời người!
Trong quá trình khôi phục đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh, cùng với xây dựng, phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng quan tâm đến giáo dục, đào tạo, chăm lo bồi dưỡng con người. Theo đề nghị của ngành giáo dục đồng chí Tôn Đức Thắng đã nhận trách nhiệm Trưởng ban Chỉ đạo thanh toán nạn mù chữ Trung ương, thành lập ngày 27-2-1957. Đây là sự tiếp tục nhiệm vụ Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc mà đồng chí đảm nhiệm trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trên cương vị mới do vị trí đặc biệt cua mình, đồng chí Tôn Đức Thắng đã thúc đẩy có hiệu quả phong trào xóa nạn mù chữ ở miền Bắc. Đồng chí còn đến nhiều địa phương động viên, kiểm tra chất lượng cả người dạy và người học tạo nên một phong trào quần chúng sâu rộng. Do sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, có sự đóng góp của đồng chí Tôn Đức Thắng, công cuộc xóa nạn mù chữ ở miền Bắc đã hoàn thành về cơ bản. Phong trào xóa nạn mù chữ ở miền Bắc để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, được các nước Đông Nam Á và châu Phi chú ý. Một số nước đã cử đoàn sang Việt Nam tham quan học tập và yêu cầu ta cử chuyên gia sang giúp họ trong công tác này.
Như vậy, trên tất cả các mặt trận của công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, đồng chí Tôn Đức Thắng đều có sự tham gia chỉ đạo và để lại dấu ấn sâu đậm góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng chung mới mẻ và khó khăn này. Nhờ đó, đời sống của nhân dân dần dần được cải thiện và từng bước nâng cao. Các thành phần kinh tế đều có sự phát triển vượt bậc; kinh tế quốc doanh khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Các tầng lớp nhân dân phấn khởi, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý cua Nhà nước; cơ sở xã hội của hệ thống chính trị được củng cố vững chắc Miền Bắc đã xác lập được các tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nhu cầu cấp thiết của hàng triệu người có khát vọng vươn tới sự giải phóng hoàn toàn và triệt để.
Do những cống hiến xuất sắc của đồng chí Tôn Đức Thắng trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp và trong sự nghiệp bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, tháng 8-1958, nhân dịp đồng chí tròn 70 tuổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định tặng đồng chí Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta. Trong buổi lễ trao tặng Huân chương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định những cống hiến xuất sắc của Tôn Đức Thắng đối với quá trình cách mạng Việt Nam và thế giới. Đây là sự đánh giá tổng quát, khá đầy đủ và toàn diện của người đứng đầu Đảng, Nhà nước ta về Tôn Đức Thắng cho đến thời điểm đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. l7 năm bị thực dân Pháp cầm tù, 9 năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, 4 năm phấn đấu để giữ gìn hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 29 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí là 13 tuổi.
Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
Đồng chí Tôn Đức Thắng tuy tuổi đã cao, nhưng vẫn cố gắng để phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng:
Trưởng ban Thường trực Quốc hội,
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam,
Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hội Việt - Xô hữu nghị,
Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam,
Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới.
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Vì vậy, hôm nay chẳng những chúng ta ở đây, mà toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam và toàn thể nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình đều vui mừng chúc người lão chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng sống lâu, mạnh khỏe.
Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy”104.
Trước vinh dự vô cùng lớn lao, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cảm động phát biểu: “... Tôi không biết nói gì hơn là hứa lấy cố gắng của tôi để đền đáp công ơn của Đảng, công ơn của Hồ Chủ tịch - Người sáng lập và xây dựng Đảng, đã đưa tôi vào con đường vẻ vang và để đền đáp sự tín nhiệm của nhân dân và Chính phủ”105.
Trên cương vị người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng không chỉ thực hiện có hiệu quả những công việc mà Đảng đã giao phó, mà còn luôn luôn chăm lo đến tình đoàn kết quốc tế, góp phần thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân ta với bạn bè trên thế giới. Năm 1958, đồng chí dẫn đầu Đoàn đại biểu Quốc hội nước ta thăm các nước xã hội chủ nghĩa: Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari, Anbani, Ba Lan, Mông Cổ. Đồng chí đã được các nước anh em đón tiếp trọng thể và nồng hậu.
2. Cùng với Trung ương Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh bại “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ ở miền Nam (1960-1964)
Với những kết quả toàn diện đạt được trong những năm trước đó, bước vào đầu năm 1960, miền Bắc đã giành được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống, an ninh, quốc phòng. Phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa dâng lên mạnh mẽ nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1960, năm cuối của Kế hoạch ba năm (1958-1960). Cách mạng trên cả hai miền Nam - Bắc giành được những thắng lợi ngày càng lớn. Hoàn cảnh mới của đất nước trên cả hai miền đòi hỏi phải bầu lại Quốc hội mới, bởi lẽ, Quốc hội khóa I do Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 bầu ra, là Quốc hội đại đoàn kết thống nhất dân tộc, Quốc hội kháng chiến, đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử do Tổ quốc giao phó.
Với tư cách Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tôn Đức Thắng đã đóng góp một phần quan trọng cho thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội khóa II. Ngày 16-2-1960, Ban Thường trực Quốc hội do Tôn Đức Thắng đứng đầu đã quyết định ngày 8-5-1960 là ngày bầu cử Quốc hội khóa II trên toàn miền Bắc. Bầu cử Quốc hội là một cuộc vận động chính trị quan trọng nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đẩy mạnh xây dựng miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Do ý nghĩa thực tiễn chính trị trọng đại đó, cuộc vận động tổ chức bầu cử được chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân miền Bắc.
Các cơ quan tuyên truyền thông tin đại chúng, các tổ chức Đảng chính quyền và đoàn thể các cấp tích cực tuyên truyền, tổ chức hưởng dẫn cho toàn dân nghiên cứu, thực hiện các vấn đề về tính chất của Nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhiệm vụ và tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, v.v. để nâng cao nhận thức của nhân dân về quyền làm chủ nhà nước và ý nghĩa của cuộc bầu cử Quốc hội khóa II.
Ngày 4-4-1960, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp để quyết định các cấp bộ Mặt trận các chính đảng, các đoàn thể phải vận động mọi người tham gia bầu cử và giới thiệu những người ưu tú tiêu biểu ở địa phương ra ứng cử đại biểu Quốc hội. Căn cứ vào Hiến pháp và Nghị quyết đó của Ban Thường trực Mặt trận, các chính đảng, Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể quần chúng đã bàn bạc giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội ở các đơn vị bầu cử.
Riêng Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã giới thiệu một danh sách 27 vị ra ứng cử đại biểu Quốc hội. Ngoài các vị đứng trong danh sách chung của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, các chính đảng đoàn thể cũng giới thiệu một danh sách ứng cử riêng của mình.
Do được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, cuộc bầu cử Quốc hội khóa II đã thành công rực rỡ. Có tới 97,59% cử tri đã đi bỏ phiếu; số đại biểu bầu được là 362; Các đại biểu do Mặt trận giới thiệu trúng cử với số phiếu rất cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với 99,91% tổng số phiếu bầu106. Có 362 đại biểu trúng cử đại biểu Quốc hội khóa II cùng với 91 đại biểu miền Nam trong Quốc hội bầu khóa I được Quốc hội kéo dài nhiệm kỳ, nâng tổng số đại biểu Quốc hội khóa II lên 453 đại biểu. Đây là hình ảnh khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi, phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam.
Thực hiện Điều 46 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau 2 tháng bầu cử, ngày 6-7-1960 kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa II được triệu tập tại Hà Nội. Tham dự kỳ họp Quốc hội có 427/453 đại biểu.
Khai mạc kỳ họp, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng nêu rõ: “Kỳ họp Quốc hội này giải quyết những vấn đề rất căn bản để kiện toàn Nhà nước ta, đáp ứng một yêu cầu hết sức thiết yếu của cách mạng”107.
Căn cứ vào báo cáo của Ban Thường trực Quốc hội về tình hình và kết quả cuộc bầu cử và kết quả của Ủy ban Thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội khóa II, Quốc hội đã thông qua nghị quyết xác nhận tư cách của 362 đại biểu Quốc hội trúng cử trong cuộc bầu cử ngày 8-5-1960.
Cùng với việc thông qua các đạo luật cơ bản về tổ chức nhà nước là Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Quốc hội bầu những người đứng đầu các cơ quan cao nhất của Nhà nước và thành lập Chính phủ mới.
Trong phiên họp ngày 15-7-1960, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội khóa II, kỳ họp thứ nhất đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng chí giữ chức vụ này trong hơn 9 năm (từ tháng 7-1960 đến tháng 9-1969). Ngày đồng chí Tôn Đức Thắng nhận trọng trách trước Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chúc mừng đồng chí và phấn khởi nói: “Toàn thể quốc hội nhất trí bầu Cụ làm Phó Chủ tịch nước tức là đồng bào miền Nam bầu Cụ làm Phó Chủ tịch nước. Điều đó tiêu biểu rằng nước ta nhất định thống nhất”108.
Khi nhận chức Phó Chủ tịch nước, Tôn Đức Thắng đã 72 tuổi. Mặc dù tuổi đã cao sức khỏe hạn chế, nhưng trên cương vị mới do nhân dân ủy thác, đồng chí đã giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo vấn đề công nghiệp, nông nghiệp. Để nắm được thực chất tình hình, đưa ra các quyết định sát, đúng thực tế, đồng chí đã dành thời gian đến nhiều nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất. Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, đồng chí Tôn Đức Thắng lại đôn đốc nhân dân thực hiện “Tết trồng cây” do Hồ Chí Minh đề xuất. Đồng chí thường nêu cao đặc tính khiêm tốn giản dị, chan hòa, gần gũi nhân dân, động viên mọi tầng lớp đồng bào thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng. Thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Tôn Đức Thắng thường tiếp các đoàn ngoại giao các vị đại sứ đại diện các nước tại Việt Nam. Mỗi lần gặp vị Phó Chủ tịch nước đều để lại trong lòng họ một ấn tượng tốt đẹp bởi phong thái đôn hậu, chân tình, cởi mở và tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng. Mỗi lần nâng cốc chúc khách nước ngoài, đồng chí không khách khí, đối xử hết lòng, xóa đi sự ngăn cách không đáng có giữa khách và chủ. Dấu ấn đặc trưng này của văn hóa ứng xử Việt Nam in rất đậm ở phong thái ngoại giao Tôn Đức Thắng.
Trên các cương vị của mình, đồng chí Tôn Đức Thắng tích cực tham gia vào việc hoạch định các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tháng 9-1960, trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Đảng Lao động Việt Nam đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, họp tại Thủ đô Hà Nội. Đây là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình, thống nhất nước nhà.
Đường lối, chủ trương của Đại hội là ngọn cờ dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cho miền Bắc có một nền công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa, khoa học tiên tiến làm cho nhân dân có một đời sống ngày càng vui tươi, hạnh phúc. Miền Bắc giàu mạnh về mọi mặt sẽ tạo nền sự chuyển biến lớn về so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng của cả nước. Nghị quyết Đại hội Đảng chỉ rõ: “Miền Bắc là căn cứ địa chung của cả nước, sự lớn mạnh không ngừng của miền Bắc không những nâng cao lòng tin tưởng và cổ vũ tinh thần hăng hái cách mạng của đồng bào yêu nước ở miền Nam, mà còn làm cho lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng trên phạm vi cả nước ta càng nghiêng về phía cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ và giành thắng lợi cuối cùng”109.
Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lý của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật. Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, mở rộng phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự, an ninh xã hội Đại hội thông qua nhiệm vụ và phương hướng Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhằm mục đích tăng cường sức mạnh của Nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân miền Bắc, mở rộng đoàn kết quốc tế, v.v..
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng Ban Chấp hành Trung ương liên tiếp mở các hội nghị để cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đó là Hội nghị lần thứ năm (7-1961) về phát triển nông nghiệp trong những năm 1961-1965 nhằm đưa nông nghiệp tiến nhanh, tiến mạnh, trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp; Hội nghị lần thứ bảy (6-1962) bàn về phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ tám (5-1963) đã thảo luận và quyết nghị về Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu của Kế hoạch này.
Dựa trên các nội dung cơ bản các nghị quyết của Đảng và quyết định của Quốc hội, Chính phủ, đồng chí Tôn Đức Thắng thông qua Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam động viên mọi tầng lớp nhân dân thi đua ái quốc, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Trong thời gian này, đồng chí đã có nhiều bài viết, gặp gỡ cụ thể với nhiều đối tượng dân cư khác nhau. Đi đến đâu, đồng chí cũng đề cập đến yêu cầu hoàn thành vượt mức Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Trên tất cả mọi lĩnh vực hoạt động ở miền Bắc, phong trào thi đua yêu nước, xây dựng tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là phong trào thi đua “mỗi người làm việc bằng hai” để đền đáp lại đồng bào miền Nam ruột thịt đã diễn ra sôi nổi trong tất cả các ngành, động viên mọi người hăng hái vươn lên dám nghĩ, dám làm. Sự chỉ đạo và động viên của đồng chí đã góp phần làm cho bốn năm thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đạt kết quả vượt bậc, tạo điều kiện cho miền Bắc nước ta tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Những biến đổi căn bản đó đã đưa miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng an ninh lớn mạnh.
Trong khi cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn canh cánh trong lòng nhiệm vụ đấu tranh thống nhất nước nhà, giải phóng miền Nam. Biết mình tuổi đã già, sức đã yếu, không thể về quê hương trực tiếp chiến đấu được, đồng chí đã ngày đêm suy nghĩ, góp sức cùng Trung ương chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam, thường xuyên đi thăm các đơn vị bộ đội, gặp gỡ các cán bộ, học sinh miền Nam tập kết, khuyên bảo con cháu chuyên tâm học tập, công tác, rèn luyện để mai sau trở về phục vụ quê hương.
Năm 1960, nghe tin miền Nam đồng khởi và sau đó Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đồng chí Tôn Đức Thắng thật sự vui mừng. Đồng chí đã gửi điện đến chúc mừng Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, nói rõ mong muốn được gặp mặt để trao đổi, bàn bạc về tiến hành công tác Mặt trận. Từ năm 1960 đến năm 1964, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc cử nhiều cán bộ về miền Nam công tác.
Khi Bộ Chính trị có các Nghị quyết (l-1961) và (2-1962), đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III, tháng 12-1963), đồng chí đón chào với một niềm lạc quan tin tưởng và ý thức một cách sâu sắc rằng đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ là nhiệm vụ lịch sử cấp bách của toàn dân Việt Nam.
Tình cảm của Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đối với miền Nam thật sâu nặng, đầy nghĩa tình ruột thịt. Ngày 19-10-1962, Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương dẫn đầu ra thăm miền Bắc. Đồng chí Tôn Đức Thắng vì bận tiếp một đại sứ nước bạn trình quốc thư không ra ga đón được buổi sáng, nên ngay buổi chiều đã tiếp Đoàn tại trụ sở Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc và tối hôm đó lại đến thăm riêng Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu tại nhà khách Chính phủ số nhà 12, phố Ngô Quyền. Chính những giờ phút gặp gỡ, tâm tình đó mới làm thỏa mãn một phần niềm thương nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, bà con, cô bác ấp ủ bao năm trong lòng người đồng chí già đó110.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với sự ủng hộ và chi viện của miền Bắc, căn cứ địa của cả nước, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đã tiến công mạnh mẽ cả về chính trị và quân sự trên cả ba vùng chiến lược làm cho Mỹ - Diệm thất bại nặng nề trong việc thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Mâu thuẫn giữa Mỹ và ngụy trở nên gay gắt, buộc Mỹ phải đi đến quyết định gạt bỏ Ngô Đình Diệm bằng cuộc đảo chính ở Sài Gòn ngày 1-11-1963. Đế quốc Mỹ đã phải vội vàng dựng lên cái gọi là “Đệ nhị cộng hòa nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa chiến lược “chiến tranh đặc biệt ở miền Nam với tất cả các loại trang bị và vũ khí hiện đại nhất.
Thắng lợi dồn dập từ miền Nam dội về làm nức lòng đồng bào miền Bắc, làm phấn chấn tâm can Tôn Đức Thắng. Những thắng lợi giành được trên các mặt trận cả hai miền đất nước đã tiếp thêm sức mạnh và tạo nên động lực tinh thần mới Tôn Đức Thắng cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo đất nước ta đủ sức, vững vàng lao vào một cuộc chiến đấu mới gay go, ác liệt hơn và chiến thắng.
3. Cùng với Trung ương Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong thời chiến, đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam (1964-1969)
Thất bại thảm hại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng ráo riết chuẩn bị đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trước tình hình nghiêm trọng đó, căn cứ vào Điều 67 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì Hội nghị chính trị đặc biệt họp ngày 7-3-1964 tại Hà Nội để biểu thị quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước. Dự Hội nghị có 327 đại biểu, thay mặt cho các chính đảng, đoàn thể, dân học, tôn giáo, ban ngành, đồng bào miền Nam tập kết và kiều bào ngoài nước.
Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hội nghị đã đánh giá những chuyển biến to lớn của miền Bắc và của đồng bào miền Nam, vạch rõ âm mưu đẩy mạnh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, nêu rõ quyết tâm và nhiệm vụ của nhân dân toàn quốc trong cuộc đấu tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tại Hội nghị chính trị đặc biệt này đồng chí Tôn Đức Thắng đã đọc một bài tham luận quan trọng với tiêu đề: “Động viên toàn dân thực hiện những nhiệm vụ rất lớn lao và rất vẻ vang mà Hồ Chủ tịch đã đề ra”.
Trong bài tham luận, đồng chí đã nêu bật được những thành tựu vĩ đại mà nhân dân ta, đặc biệt là đồng bào miền Bắc giành được trên tất cả các mặt đời sống xã hội. Về vai trò của khối đại đoàn kết dân tộc, đồng chí khẳng định: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam anh dũng, các đảng phái dân chủ, các đoàn thể nhân dân đã có nhiều thành tích tốt đẹp và đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy những sự chuyển biến tiến bộ nói trên. Những nhân sĩ dân chủ cũng đóng góp xứng đáng trong việc thực hiện Cương lĩnh chung của Mặt trận trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc. Là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các lực lượng ấy nguyện đoàn kết chặt chẽ, luôn luôn làm những người phục vụ trung thành của nhân dân”111.
Đối với đồng bào miền Nam, đồng chí biểu lộ những lời thắm thiết: “Tôi muốn được nói với đồng bào miền Nam rằng: từng giờ, từng phút tôi luôn luôn nghĩ đến miền Nam, nơi chôn rau cắt rốn, đang bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai tàn phá, nhớ đến đồng bào miền Nam ruột thịt đã chịu bao đau thương tang tóc, đang chiến đấu anh dũng chống bọn cướp nước hại dân vô cùng hung ác. Tôi rất muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu, nhưng đáng tiếc là chưa có điều kiện. Tôi chỉ còn mong ở các cụ phụ lão miền Nam hăng hái động viên con cháu chúng ta tham gia cứu nước, ở các cháu thanh niên miền Nam dũng cảm nối gót cha anh tiến lên giành lấy quyền tự do, quyền sinh sống, và mong đồng bào miền Nam vững lòng tin vào sự tất thắng của cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta”112.
Và đồng chí đi đến một kết luận với niềm tin tất thắng: “Với sức mạnh đoàn kết của đồng bào cả nước, được sự ủng hộ và đồng tình của nhân dân thế giới, nhất định chúng ta sẽ phá tan được mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Miền Nam nhất định sẽ được giải phóng, Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.113
Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì, là một sự kiện quan trọng được dư luận trong nước và thế giới hết sức chú ý, là một thắng lợi chính trị lớn của toàn dân Việt Nam. Thắng lợi đó nói lên một cách hùng hồn sự nhất trí về chính trị và tinh thần của xã hội miền Bắc, đồng thời cũng nêu cao tinh thần cảnh giác và ý chí chiến đấu của nhân dân ta, cổ vũ nhân dân miền Bắc thi đua yêu nước, hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố tiềm lực về mọi mặt, thúc đẩy nhân dân miền Nam hăng hái chiến đấu chống xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Lời kêu gọi, hiệu triệu của Hồ Chí Minh và Tôn Đức Thắng - hai vị lãnh tụ có uy tín tuyệt đối trong nhân dân tạo nên xung lực và hào khí cách mạng để nhân dân miền Bắc tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng làm tốt các nhiệm vụ trước mắt, trong đó có cuộc bầu cử Quốc hội khóa III.
Ngày 24-2-1964, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định cụ thể về ngày bầu cử, số đại biểu được bầu, cơ cấu đại biểu, số đại biểu dành cho các dân tộc thiểu số, số đơn vị bầu cử ở từng địa phương, thành lập Hội đồng bầu cử Trung ương. Ngay trong Hội nghị chính trị đặc biệt Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề không ngừng tăng cường chính quyền nhân dân, nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Tôn Đức Thắng đứng đầu với tư cách một tổ chức hiệp thương dân chủ đã đóng vai trò tích cục trong việc chuẩn bị và vận động, làm cho việc chuẩn bị bầu cử được triển khai sâu rộng, chu đáo, đúng quy định pháp luật. Danh sách cử tri và các vị ứng cử viên đại biểu Quốc hội đã được niêm yết. Các cuộc tiếp xúc với đại biểu cử tri của các vị ứng cử viên đại biểu Quốc hội được tổ chức ở khắp các đơn vị bầu cử.
Ngày 26-4-1964, cuộc bầu cử Quốc hội khóa III được tiến hành trên toàn miền Bắc. Đây là một ngày hội lớn ngày hội dân chủ và thực hành quyền làm chủ của nhân dân. Số cử tri đi bầu cử đạt tỷ lệ 97,77%. Có nhiều khu vực bỏ phiếu, số cử tri đi bầu đạt tỷ lệ 100%. Kết quả đã bầu được 366 đại biểu, trong đó có 60 đại biểu thuộc các dân tộc thiểu số114. Ngoài số đại biểu được bầu, còn có 89 đại biểu Quốc hội khóa I thuộc các tỉnh miền Nam trong vĩ tuyến là được kéo dài nhiệm kỳ, tổng số Quốc hội khóa III có 455 đại biểu, thay mặt cho nhân dân cả nước phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam độc lập thống nhất, hòa bình, dân chủ và giàu mạnh.
Ngày 27-6-1964, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa III khai mạc trọng thể. Về dự kỳ họp này có 429/455 đại biểu. Sau khi nghe và thảo luận các báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, ngày 3-7-1964, Quốc hội khóa III họp để tiến hành bầu các vị lãnh đạo Nhà nước và thành lập Chính phủ mới. Đồng chí Tôn Đức Thắng lại được Quốc hội khóa III bầu làm Phó Chủ tịch nước với số phiếu rất cao. Sự ủy thác và tín nhiệm này một lần nữa khẳng định những đóng góp cách mạng của đồng chí, đồng thời cũng biểu lộ lòng tin tưởng của toàn dân vào đức độ nhiệt huyết và tài năng, trí tuệ của đồng chí trong việc chỉ đạo, cùng toàn Đảng giải quyết hàng loạt vấn đề mới phát sinh trong giai đoạn lịch sử đặc biệt, đầy khó khăn, cam go của dân tộc.
Trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ ngày càng bị sa lầy và thất bại nặng nề. Cuối năm 1964, đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã bị phá sản về căn bản. Quân đội của chính quyền Sài Gòn, công cụ chủ yếu của “chiến tranh đặc biệt” đang đứng nước nguy cơ tan rã hoàn toàn. Sau chiến thắng Ấp Bắc, quân và dân ta đã nhanh chóng tiến lên đánh lớn. Ở thành thị, phong trào đấu tranh chính trị sôi sục thu hút hàng triệu người, tiêu biểu nhất là Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, càng làm cho chính quyền Sài Gòn lúng túng, hỗn loạn.
Để cữu vãn tình thế, ngày 5-8-1964, Mỹ đã gây ra “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” để lấy cớ leo thang mở rộng chiến tranh, ném bom miền Bắc. Lấy cớ “trả đũa”, từ ngày 7-2-1965, đế quốc Mỹ dùng không quân và hải quân ồ ạt ném bom bắn phá miền Bắc, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc nước ta. Ở miền Nam, chúng chuẩn bị đưa quân Mỹ vào để chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” - một hình thức cao của chiến tranh thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam, leo những nấc thang cực kỳ nguy hiểm, đe dọa cả hòa bình và an ninh thế giới.
Giữa bối cảnh đó từ ngày 25 đến ngày 27-3-1965, Hội nghị đặc biệt lần thứ 11 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã họp và ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của Đảng, Nhà nước và toàn dân Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ: “Với những âm mưu và hành động mới của đế quốc Mỹ, tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền; trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn nhưng nhiệm vu của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam”115. Khẩu hiệu chung của miền Bắc lúc này là: Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam!
Trong những giờ phút nước sôi lửa bỏng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đứng đầu là đồng chí Tôn Đức Thắng, đã động viên toàn dân kết thành một khối thống nhất, ra sức thi đua lao động sản xuất và chiến đấu quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi. Trong điều kiện chiến tranh, đồng chí đã nhiều lần chủ trì các phiên họp của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để nghiên cứu, bàn biện pháp động viên toàn dân đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời biểu dương những thắng lợi của nhân dân cả nước đã giành được trên các mặt trận.
Không phải bằng lời kêu gọi, mà bằng hành động thực tế hằng ngày, đồng chí Tôn Đức Thắng dùng nhiều thời gian xuống thăm hỏi các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân động viên tinh thần chiến đấu đánh giặc của cán bộ chiến sĩ, nhắc nhở mọi người nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Cùng với việc chỉ đạo nhân dân đánh giặc, bảo vệ miền Bắc, đồng chí vẫn quan tâm đặc biệt đến các vấn đề quốc kế dân sinh, chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân. Cũng chính trong thời điểm đó, đồng chí đã có những hướng dẫn chu đáo, cụ thể để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, chăm lo cho các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Hằng năm, cứ đến dịp kỷ niệm ngày Bình dân học vụ (ngày 8-9), đồng chí đều gửi thư chúc mừng tới những người làm công tác bổ túc văn hóa. Đồng chí khen ngợi các cấp lãnh đạo địa phương, toàn thể cán bộ giáo viên, học viên và nhân dân các vùng đã tích cực tham gia tổ chức giảng dạy, học tập, bổ túc văn hóa, xứng đáng với truyền thống “Chiến sĩ vô danh” của công cuộc bình dân học vụ. Đồng thời, đồng chí cũng đề ra nhiệm vụ nội dung, biện pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên bổ túc văn hóa, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng mới.
Đồng chí Tôn Đức Thắng quan tâm đặc biệt đến việc chăm sóc, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ măng non đất nước. Đồng chí là Chủ tịch danh dự Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Việt Nam từ ngày 1-4-1961. Dù ở cương vị nào, hoàn cảnh nào, nhất là trong chiến tranh, Tôn Đức Thắng luôn coi trọng công tác đó vì các cháu sẽ là chủ nhân thực sự của xã hội tương lai. Đồng thời, vạch rõ công tác thiếu niên, nhi đồng có ý nghĩa cách mạng trọng đại, nó là công tác của toàn Đảng, toàn dân, biểu hiện quan điểm quần chúng của người cách mạng, tính ưu việt của chế độ ta; quan tâm đến thiếu niên nhi đồng là quan tâm đến tiền đồ của sự nghiệp cách mạng. Trong điều kiện chiến tranh, Tôn Đức Thắng vẫn kêu gọi các ngành các đoàn thể, các bậc cha mẹ, thầy cô giáo, các cán bộ phụ trách hãy làm tốt công tác giáo dục, chăm sóc và bảo vệ thiếu niên, nhi đồng.
Trên cương vị Phó Chủ tịch nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã thực hiện xuất sắc chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã nhận trình quốc thư, tiếp xúc với đại sứ quán nhiều nước, gửi thư, điện chúc mừng quốc khánh các nước, viết bài nhân dịp kỷ niệm các sự kiện quốc tế trọng đại, v.v.. Tranh thủ mọi điều kiện, cơ hội, đồng chí mong muốn làm cho nhân dân tiến bộ thế giới thấy rõ bản chất xâm lược của đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, kêu gọi mọi người có lương tri giúp đỡ ủng hộ nhân dân ta đánh thắng tên đế quốc đầu sỏ, “sen đầm quốc tế”, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười (1967), Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết đã tặng đồng chí Tôn Đức Thắng, trên cương vị Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Xô, Huân chương Lênin, Huân chương cao nhất của Liên Xô, và đã góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền Xôviết trong thời kỳ nội chiến và xây dựng tình hữu nghị Việt Xô. Tiếp nhận Huân chương Lênin, đồng chí Tôn Đức Thắng đã phát biểu nêu rõ: “Đây không những là vinh dự riêng đối với tôi mà còn là vinh dự chung đối với giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam..., là sự cổ vũ nhân dân Việt Nam quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Với tinh thần “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân miền Bắc dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong đó có Tôn Đức Thắng, đã ra sức thi đua thực hiện tốt nhất các kế hoạch kinh tế nhà nước, chi viện tích cực cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh Mỹ đã giành thắng lợi ngày càng to lớn. Thắng lợi ở hai miền Nam - Bắc, nhất là thắng lợi trong chiến lược của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 đã làm thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Ngày 1-11-1968, Giônxơn tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận họp Hội nghị Paris để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam, thừa nhận đại diện Chính phủ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trong Hội nghị.
Đối với Sự nghiệp giải phóng miền Nam, Tôn Đức Thắng có sự quan tâm đặc biệt. Đồng chí dành những tình cảm sâu nặng nhất cho cuộc chiến đấu cực kỳ gian khổ của đồng bào ở miền Nam. Đồng chí theo dõi tình hình, vui sướng khi miền Nam thắng lợi; lo lắng khi cách mạng miền Nam gặp khó khăn. Đồng chí rất tin tưởng ở ngày thắng lợi cuối cùng của đồng bào miền Nam. Niềm tin của đồng chí cũng là niềm tin sắt son của 31 triệu nhân dân cả nước Việt Nam anh hùng.
Tôn Đức Thắng đã cùng Trung ương Đảng và Chính phủ lãnh đạo nhân dân miền Bắc ra sức thi đua làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Sự đóng góp sức lực và trí tuệ của đồng chí đã góp phần làm phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt “Chiến tranh cục bộ”, “Chiến tranh Việt Nam hóa” của đế quốc Mỹ. Cách mạng miền Nam tin tưởng, vững vàng tiến về phía trước. Giải pháp toàn bộ 10 điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng cùng với sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Hội đồng cố vấn Chính phủ là một thắng lợi chiến lược đối với cách mạng miền Nam. Thắng lợi đó cũng là mong muốn khôn nguôi của Tôn Đức Thắng.
Ngày 20-8-1968, nhân dịp Tôn Đức Thắng tròn 80 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chúc tặng hai câu thơ:
Càng già chí khí càng dai
Chống Mỹ, cứu nước ít ai hơn già.
Hai câu thơ phản ánh một cách thật chính xác bản lĩnh, cốt cách và tâm hồn Tôn Đức Thắng.
Như vậy, dù ở trên cương vị nào là Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng Ban Chỉ đạo thanh toán nạn mù chữ, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa v.v.. Tôn Đức Thắng đã cùng Đảng, Nhà nước, Mặt trận lãnh đạo nhân dân ta giành nhiều thắng lợi to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cách mạng giải phóng miền Nam. Năng lực hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trên nhiều lĩnh vực và uy tín trong Đảng, nhân dân của đồng chí ở giai đoạn này tạo cơ sở để Tôn Đức Thắng gánh vác một trọng trách cao cả hơn, vinh dự hơn, nặng nề hơn ở giai đoạn cách mạng sau.
VII. NHỮNG CỐNG HIẾN TO LỚN
TRÊN CƯƠNG VỊ CHỦ TỊCH NƯỚC (1969-1980)
1. Cùng Đảng, Nhà nước lãnh đạo sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1969-1975)
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Quốc hội khóa III, kỳ họp thứ năm đã nhất trí bầu Tôn Đức Tháng làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại kỳ họp này, Tôn Đức Thắng đã phát biểu cảm ơn sự tín nhiệm của Quốc hội và hứa sẽ cố gắng hết sức làm tròn trọng trách Quốc hội giao phó, không sợ hy sinh gian khổ, luôn kề vai sát cánh cùng đồng bào miền Nam đưa cuộc chiến đấu chung của cả nước đến thắng lợi hoàn toàn. Trong lời chúc mừng nhân dịp đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu giữ chức Chủ tịch nước, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nhấn mạnh: “Cụ Tôn Đức Thắng và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là hai chiến sĩ lão thành của cách mạng Việt Nam, những người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người con ưu tú cửa dân tộc Việt Nam ta. Hai đồng chí được Quốc hội nhất trí tín nhiệm giao cho trọng trách lãnh đạo Nhà nước ta là rất xứng đáng”116.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Tôn Đức Thắng luôn chăm lo đến đời sống của nhân dân trong chiến tranh, đặc biệt dành tình cảm quan tâm tới thiếu niên nhi đồng. Ngày 25-9-1969, Tôn Đức Thắng gửi thư cho các cháu thiếu nhi nhân dịp Tết Trung thu. Đồng chí bày tỏ mong muốn các cháu cố gắng học tập, rèn luyện để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. Đồng thời kêu gọi các ngành đoàn thể, các bậc phụ huynh, thầy cô giáo, cán bộ phụ trách làm tốt hơn nữa công việc giáo dục, chăm sóc, bảo vệ thiếu nhi, ra sức thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”117. Ngoài ra, đồng chí còn gửi quà cho các cháu trường học sinh miền Nam ở Đông Triều, Quảng Ninh và các cháu ở nhà trẻ Nhà máy dệt 8-3 nhân dịp Tết Trung thu năm 1969.
Trong những năm miền Bắc vừa sản xuất, vừa phải chống chiến tranh phá hoại cua giặc Mỹ, Tôn Đức Thắng luôn dành thời gian xuống cơ sở đi thăm nhiều địa phương, nhiều đơn vị có thành tích trong sản xuất và chiến đấu. Cuối tháng 10-1969, đồng chí đến thăm bộ đội phòng không không quân, động viên tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sĩ. Đồng chí khen ngợi các lực lượng vũ trang nhân dân đã lập nhiều thành tích trong thời gian qua và căn dặn toàn quân phải đề cao cảnh giác, ra sức phấn đấu thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sẵn sàng đánh bại mọi thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng nhân dân giao cho118. Ngày 20-12-1969, đồng chí Tôn Đức Thắng đến thăm Đoàn đại diện đặc biệt Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Bắc nhân dịp kỷ niệm lần thứ 9 ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Cùng ngày, đồng chí dự mít tinh kỷ niệm lần thứ 23 ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và lần thứ 23 ngày Toàn quốc kháng chiến. Đồng chí biểu dương những thành tích và sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta trong những năm qua và nêu lên nhiệm vụ của toàn thể cán bộ, chiến sĩ lúc này là phải ra sức rèn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt, góp phần đưa sự nghiệp chống Mỹ đến thắng lợi119.
Đầu năm 1970, miền Bắc nước ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân miền Nam cũng như nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đang đạt được những thắng lợi quan trọng. Ngày 1-1-1970, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư chúc mừng năm mới tới đồng bào, chiến sĩ cả nước. Đồng chí biểu dương thành tích của đồng bào, chiến sĩ hai miền Nam Bắc trong năm qua và gửi lời cảm ơn tới các nước anh em, bè bạn khắp năm châu và kêu gọi đồng bào chiến sĩ hăng hái tham gia kháng chiến giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc120. Cùng ngày, đồng chí Tôn Đức Thắng đến thăm công nhân Nhà máy cơ khí Mai Động và thăm nông dân Hợp tác xã Việt - Trung hữu nghị, huyện Thanh Trì. Đồng chí khen ngợi và động viên công nhân, nông dân thủ đô hăng hái sản xuất, góp phần thục hiện thắng lợi Kế hoạch Nhà nước năm 1970.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 Ngày Học sinh toàn quốc (9-1-1950 - 9-1-1970), đồng chí Tôn Đức Thắng gửi thư cho toàn thể các cháu học sinh, thân ái gửi lời thăm hỏi và nhắc nhở các cháu học sinh trong cả nước hãy ra sức phấn đấu rèn luyện, học tập lao động và công tác, xứng đáng là những người vừa hồng vừa chuyên thừa kế sự nghiệp bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội121.
Tiếp tục thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc tổ chức Tết trồng cây hằng năm ngày 26-1-1970 đồng chí Tôn Đức Thắng đã viết bài “Hãy nhiệt liệt hưởng ứng Tết trồng cây năm 1970”. Bài viết đã điểm lại phong trào Tết trồng cây do Bác Hồ phát động, đồng thời chỉ ra ích lợi to lớn của phong trào, trách nhiệm của các địa phương và toàn thể nhân dân, trong đó thanh niên là lực lượng xung kích các cụ phụ lão và các cháu thiếu nhi là lực lượng thường xuyên chăm sóc bảo vệ cây. Bài viết chỉ rõ: “Mùa xuân năm 1960, Hồ Chủ tịch phát động Tết trồng cây. Từ đó Bác Hồ không ngừng theo dõi, động viên phong trào và đã trực tiếp tham gia trồng cây với nhân dân nhiều nơi tên miền Bắc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, nhân dân ta đã trồng hàng trăm triệu cây trên khắp xóm làng, ven đồng ruộng, đường sá, kênh mương ... và đã thu được nhiều lợi ích lớn cho kinh tế và quốc phòng, làm cho đất nước ta ngày thêm giàu đẹp. Đến nay ai cũng thấy rõ trồng cây gây rừng là việc làm ích nước, lợi nhà và càng ghi nhớ công ơn của Hồ Chủ tịch”122.
Trong không khí bận rộn của ngày Tết cổ truyền dân tộc năm Canh Tuất, sáng ngày 6-2-1970 (Mồng một Tết), đồng chí Tôn Đức Thắng vẫn dành thời gian đi thăm và chúc Tết Đoàn đại diện đặc biệt Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hà Nội. Ngày 18-3-1970, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư khen tới Đại hội quyết thắng của Binh chủng Thiết giáp. Đồng chí mong muốn Binh chủng không ngừng nâng cao tinh thần anh dũng, mưu trí, đoàn kết, kỷ luật, giữ gìn và sử dụng tốt vũ khí, đang bị sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ, thực hiện đã ra quân là thắng lợi123.
Ngày 1-4-1970, đồng chí Tôn Đức Thắng với cương vị là Chủ tịch nước, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã dự và chủ tọa Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 19 (mở rộng). Đồng chí đã phát biểu khai mạc nêu tên sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân ta quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn về mọi mặt124.
Trong không khí cả nước vui mừng tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh V.I. Lênin vĩ đại, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đến dự và phát biểu khai mạc buổi lễ. Đồng chí đã khái quát công lao của V. I. Lênin đối với cách mạng thế giới và khẳng định quyết tâm của nhân dân Việt Nam đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới. Đồng chí nhấn mạnh: “Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước tự đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi ngày càng to lớn. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin, Đảng ta, nhân dân ta tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với người thầy vĩ đại của cách mạng thế giới, đời đời đi theo con đường cách mạng mà Lênin đã vạch ra. Chúng ta chân thành cảm ơn Đảng Cộng sản Liên Xô Chính phủ Liên Xô và nhân dân Liên Xô anh em, cảm ơn các đảng anh em các nước anh em cảm ơn nhân dân thế giới đã đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược”125.
Với sự quan tâm đặc biệt tới thế hệ trẻ, trên cương vị là Chủ tịch danh dự Ủy ban Thiếu niên, nhi đồng Việt Nam, cuối tháng 4-1970, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đến thăm và nói chuyện tại Hội nghị các Chủ tịch Ủy ban thiếu niên nhi đồng các tỉnh và thành phố. Đồng chí đã biểu dương những thành tích của thiếu niên, nhi đồng hai miền Nam - Bắc thời gian qua và nêu lên vai trò quan trọng của công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu nhi, trách nhiệm của các ngành, các cấp trong công tác này. Đồng chí nêu rõ: “Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu nhi là một sự nghiệp to lớn và lâu dài. Phải rất kiên trì, bền bỉ thì mới đạt được kết quả tốt... Từ nay các cơ quan nhà nước cần cố gắng bàn bạc cụ thể và thiết thực để đưa vào kế hoạch nhà nước những chỉ tiêu cần thiết, ưu tiên phục vụ trẻ em”126.
Cùng thời gian này, Tôn Đức Thắng đã dự và chủ tọa cuộc họp của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nghe báo cáo của đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó trưởng Đoàn đại biểu nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị cấp cao của nhân dân Đông Dương.
Cuối tháng 5-1970, đồng chí Tôn Đức Thắng dự lễ đón Xămđéc Nôrôđôm Xihanúc, Quốc trưởng Campuchia, Chủ tịch Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia và Bà hoàng Môních Xihanúc sang thăm Việt Nam. Thay mặt nhân dân Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đọc diễn văn chào mừng nêu bật tình đoàn kết, hữu nghị của nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Khmer đã khảng khái ủng hộ và giúp đỡ sự nghiệp chính nghĩa của chúng ta. Đồng chí nhấn mạnh: “Thực hiện bản Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao của nhân dân Đông Dương, nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào quyết tăng cường đoàn kết, kề vai sát cánh chiến đấu, quét sạch bọn xâm lược Mỹ ra khỏi bán đảo Đông Dương; giành những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba Dược chúng ta, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”127.
Những ngày cuối tháng 5-1970, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta tiến hành hội đàm với Quốc trưởng Campuchia N. Xihanúc và ký Tuyên bố chung Việt Nam - Campuchia.
Tôn Đức Thắng cũng rất quan tâm đến lĩnh vực nghệ thuật nói chung và hội họa nói riêng. Cuối tháng 7-1970, đồng chí thăm triển lãm tranh và ký họa của các nghệ sĩ từ miền Nam gửi ra. Nói chuyện với những người có mặt tại triển lãm, đồng chí chí rõ: “anh chị em nghệ sĩ cần cố gắng hơn nữa, đi sâu vào đời sống và cuộc chiến đấu của nhân dân và bộ đội, chú ý thể hiện nhiều vụ tốt hơn nữa đề tài lao động và sản xuất của nhân dân nơi tiền tuyến lớn”128.
Cùng thời gian này, nhân Ngày Thương binh, liệt sĩ, đồng chí Tôn Đức Thắng đã dành thời gian đến thăm thương binh, bệnh binh đang điều dưỡng tại Quân khu III. Đồng chí động viên anh em thương, bệnh binh yên lòng chữa bệnh và nhắc nhở cán bộ, nhân viên điều trị hết lòng chăm sóc, chữa bệnh cho anh em. Đồng chí cũng động viên các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng và nhắc nhở các cơ quan, đồng bào các địa phương chấp hành tốt chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội129.
Là Trưởng Ban chỉ đạo thanh toán nạn mù chữ Trung ương từ năm 1957, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có vai trò to lớn trong việc thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân ta. Đồng chí luôn quan tâm sâu sát, đầu tư nhiều thời gian và công sức cho công việc này. Đầu tháng 9-1970, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 25 năm ngày thành lập Nha Bình dân học vụ, cùng chung niềm vui mừng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tròn 25 tuổi, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư cho cán bộ, giáo viên, học viên bổ túc văn hóa lên toàn quốc. Đồng chí biểu dương thành tích của anh chị em tham gia công tác bình dân học vụ thời gian qua và mong muốn các cấp ủy đảng và chính quyền lãnh đạo công tác này tốt hơn nữa, tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân được học bổ túc văn hóa. Đặc biệt cán bộ, đảng viên và thanh niên phải đi đầu trong dạy và học bổ túc văn hóa, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu học tập. Đồng chí nhấn mạnh: “Hiện nay nhân dân ta đang kiên trì và đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, ra sức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Công tác bổ túc văn hóa cần được phát triển và chỉ đạo tốt để phục vụ đắc lực hơn nữa nhiệm vụ cách mạng to lớn đó của Đảng và của nhân dân”130.
Cuối năm 1970, trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân miền Nam đang bước vào giai đoạn gần đến thắng lợi, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 10 ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi điện mừng tới Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đánh giá vai trò to lớn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đồng chí viết: “Mười năm qua là 10 năm chiến đấu vô cùng gian khổ, anh dũng tuyệt vời của đồng bào và chiến sĩ miền Nam, đồng thời là 10 năm thắng lợi liên tiếp với những chiến công kỳ diệu, làm rạng rỡ Tổ quốc và dân tộc ta”131.
Ngày 1-1-1971, như thường lệ hằng năm, với cương vị là Chủ tịch nước, đồng chí Tôn Đức Thắng gửi thư chúc mừng năm mới tới đồng bào chiến sĩ cả nước. Trong thư, đồng chí biểu dương những thành tích của quân và dân hai miền Nam Bắc trong năm vừa qua, đồng thời kêu gọi nhân dân miền Bắc ra sức thi đua tăng năng suất lao động, hiệu suất công tác, thực hành tiết kiệm, hoàn thành thắng lợi Kế hoạch nhà nước năm 1971 và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Đồng chí cũng khẳng định quyết tâm của nhân dân ta đánh đuổi đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà. Đồng chí cũng gửi lời cảm ơn của nhân dân Việt Nam đối với sự ủng hộ giúp đỡ của Đảng và nhân dân các nước anh em, nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý tên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ. Cuối thư, đồng chí Tôn Đức Thắng bày tỏ quyết tâm của cả dân tộc ta: “Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, nhân dân ta quyết vượt mọi khó khăn gian khổ, đánh cho quân Mỹ phải cúi đánh cho ngụy quân và ngụy quyền sụp đổ, giải phóng miền Nam xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà! Chúng ta quyết kề vai sát cánh cùng nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, kiên quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi bán đảo Đông Dương”132.
Trong những ngày Tết Nguyên đán năm Tân Hợi, đông chí Tôn Đức Thắng đã đi thăm và chúc Tết nhiều gia đình ở Hà Nội có đông con tham gia bộ đội, được tuyên dương anh hùng. Đồng chí đến dự buổi họp mặt mừng xuân mới do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và không quên đến thăm và chúc Tết những người con của miền Nam đang công tác tại Đoàn đại diện đặc biệt Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hà Nội.
Ngày 15-2-1971, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư đến Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Tết trồng cây. Đồng chí biểu dương nhiều địa phương và cá nhân đã có thành tích trong phong trào trồng cây và nhắc các địa phương phát huy ưu điểm khắc phục những khuyết điểm, đẩy mạnh phong trào trồng cây gây rừng lên những bước mới.
Từ ngày 2-3-1971 đến ngày 4-3-1971, đồng chí Tôn Đức Thắng dự kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa III nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phát biểu tại lễ bế mạc kỳ họp, đồng chí đánh giá cho hoạt động của Quốc hội và khẳng định: Quốc hội khóa III là Quốc hội đánh thống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời trong điều kiện chiến tranh, miền Bắc bảo đảm làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Để chuẩn bị cho ngày bầu cử Quốc hội khóa IV sắp diễn ra, ngày 29-3-1971 đồng chí Tôn Đức Thắng dự họp mặt giữa các ứng cử đại biểu Quốc hội khóa IV ở Hà Nội với đại biểu các tầng lớp nhân dân Thủ đô. Đồng chí đã phát biểu ý kiến chân thành cảm ơn nhân dân Hà Nội đã giới thiệu đồng chí ra ứng cử ở Thủ đô và hứa cùng đồng bào, chiến sĩ cả nước đem hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, đồng thời xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với sự tín nhiệm của đông đảo nhân dân, ngày 11-4-1971, tại đơn vị bầu cử số 1, khu phố Ba Đình, Hà Nội, đồng chí Tôn Đức Thắng đã trúng cử đại biểu Quốc hội khóa IV với số phiếu rất cao: 98,89%133.
Ngày 30-5-1971, tại vườn Bách Thảo, Hà Nội, đồng chí Tôn Đức Thắng cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta dự ngày hội truyền thống của thiếu nhi Thủ đô. Cùng ngày đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư cho các cháu thiếu nhi nhân Kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh, bày tỏ sự quan tâm sâu sắc của một người đứng đầu Nhà nước đối với thế hệ măng non. Đồng chí biểu dương những tấm gương thiếu nhi anh hùng và căn dặn các cháu thực hiện tốt 5 Điều Bác Hồ dạy, xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ.
Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV diễn ra tại Hà Nội ngày 9-6-1971, với công lao đóng góp và tấm gương đạo đức mẫu mực của mình, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được toàn thể Quốc hội nhất trí bầu lại giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Phát biểu trước Quốc hội đồng chí bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới Quốc hội đã tín nhiệm đồng chí và thay mặt cho các đồng chí vừa được Quốc hội tín nhiệm bầu vào các cơ quan lãnh đạo Nhà nước, đồng chí “xin hứa sẽ đem hết sức mình phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng” và “quyết cùng với Quốc hội, Chính phủ và đồng bào cả nước, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thực hiện cho kỳ được Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính mến, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, ra sức bảo vệ và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà. Đó là ý chí sắt đá không gì lay chuyển được của Nhà nước và nhân dân ta”134.
Nhân ngày Thương binh, liệt sĩ (ngày 27-7-1971), thay mặt Đảng và Nhà nước ta, đồng chí Tôn Đức Thắng gửi thư đến các đồng chí thương binh, bệnh binh các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Đồng chí gửi lời thăm hỏi ân cần tới các thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ và khẳng định Tổ quốc và nhân dân ta đời đời sẽ ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh. Đồng chí mong muốn các cấp, các ngành có trách nhiệm quan tâm hơn nữa đối với các đồng chí thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ đồng thời mong muốn các đồng chí tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng gương mẫu, đảm đang việc nước việc nhà.
Cuối tháng 9, nhân dịp Tết Trung thu năm 1971, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư cho các cháu thiếu niên, nhi đồng trong cả nước biểu dương những thành tích của thiếu nhi hai miền Nam - Bắc thời gian qua và nhắn nhủ các cháu ra sức học tập, lao động tốt để góp phần cùng toàn dân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Ngày 19-10-1971, mặc dù rất bận, đồng chí Tôn Đức Thắng vẫn tới dự mít tinh kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (ngày 20-10-1946 - ngày 20-10-1971). Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí đánh giá cao vai trò của phụ nữ hai miền Nam - Bắc với những tấm gương sáng tiêu biểu cho phẩm chất truyền thống: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Đồng chí mong muốn chị em phụ nữ tiếp tục hăng hái tham gia chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội lớn mạnh, đồng thời nhắc nhở các cấp, ngành có trách nhiệm quan tâm chăm lo tốt hơn cho đời sống và sức khỏe chị em phụ nữ. Đồng chí nhấn mạnh “phụ nữ ta, từ tiền tuyến đến hậu phương đã làm cho non sông đất nước Việt Nam thêm rạng rỡ, xứng đáng với lòng tin yêu, mến phục của chị em bầu bạn khắp năm châu... Phụ nữ cá nước ta quyết mãi mãi xứng đáng với lời Bác Hồ kính yêu đã nói: “Từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam ta thật anh hùng”135.
Nhân dịp Đại hội lần thứ II Hội Liên hiệp Việt kiều ở Pháp được tổ chức, thay mặt Đảng, Chính phủ và đồng bào trong nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã gửi thư chúc mừng tới Đại hội. Đồng chí khen ngợi những thành tích của Hội thời gian qua và luôn mong muốn kiều bào ta đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, thương yêu, đùm bọc nhau, không ngừng tăng cường hữu nghị với nhân dân Pháp, góp phần tích cực vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng miền Bắc vững mạnh.
Trung tuần tháng 12-1971, đồng chí Tôn Đức Thắng dự và chủ tọa Hội nghị lần thứ 22 của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dự khai mạc Đại hội lần thứ III của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong Diễn văn khai mạc Đại hội đồng chí bày tỏ lòng biết ơn vô hạn của nhân dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, người đã sáng lập, lãnh đạo và dìu dắt Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Đồng chí cũng biểu dương những thắng lợi to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của đồng bào chiến sĩ hai miền Nam - Bắc và nêu quyết tâm của toàn dân ta đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Với những đóng góp to lớn của đồng chí Tôn Đức Thắng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung và sự lớn mạnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói riêng, ngày 17-12-1971, tại Đại hội này đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu lại làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Tuy tuổi cao sức yếu, lại bận trăm công nghìn việc với nhiều trọng trách lớn của Đảng và Nhà nước, Tôn Đức Thắng vẫn dành nhiều thời gian, xuống thăm hỏi các đơn vị lực lượng vũ trang, động viên tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ ở Thủ đô Hà Nội. Đặc biệt, ngay sau chiến công đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của không quân Mỹ tại Hà Nội, Tôn Đức Thắng đã kịp thời đến biểu dương thành tích của các đơn vị tự vệ, đồng thời ân cần thăm hỏi đồng bào phố Khâm Thiên (Hà Nội) đang khắc phục hậu quả và chia buồn tới các gia đình có người thân đã bị thiệt hại trong cuộc ném bom dã man vào tối ngày 26-12-1972 của đế quốc Mỹ: Nhìn những đống gạch vụn ngổn ngang trên đường phố, nhìn những vành khăn tang trên đầu những người có người thân bị bom Mỹ giết hại, đồng chí ngậm ngùi xúc động lên án tội ác của đế quốc Mỹ và khen ngợi cán bộ và nhân dân phố Khâm Thiên đã kiên cường, dũng cảm giải quyết hậu quả nhanh, tận tình cứu chữa người bị nạn. Đồng thời đồng chí nhắc nhở chính quyền các cấp luôn quan tâm, chăm lo hơn nữa đến đời sống đồng bào và kêu gọi đồng bào khu phố Khâm Thiên hãy cùng quân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Liên tiếp thất bại lớn trên chiến trường miền Nam và đặc biệt là thua to ở trận “Điện Biên Phủ trên không” tại Hà Nội, ngày 27-1-1973 Chính phủ Mỹ buộc phải ký Hiệp đinh về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trước thắng lợi to lớn này của dân tộc, ngày 29-1-1973, đồng chí Tôn Đức Thắng đã triệu tập Hội nghị bất thường mua Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm động viên toàn quân và dân ta thừa thắng tiến lên, hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ thiêng liêng giải phóng dân tộc. Trong Diễn văn khai mạc tại Hội nghị, đồng chí đã nêu bật ý nghĩa và nguyên nhân của thắng lợi là nhờ có đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là nhờ có sức mạnh đoàn kết vô địch của nhân dân cả nước, nhờ sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ tính cực của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Nhân dịp Tết cổ truyền Quý Sửu của dân tộc, Tôn Đức Thắng gửi thư chúc Tết đồng bào và chiến sĩ cả nước. Trong thư, đồng chí nhấn mạnh thắng lợi lịch sử của dân tộc ta đang mở ra một giai đoạn mới của cách mạng nước ta và tin tưởng rằng: “Nhân dân ta có những điều kiện thắng lợi mới để giữ vững hòa bình, hoàn thành nhiệm vụ dân tộc và dân chủ ở miền Nam, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”136.
Để Sự nghiệp cách mạng tiếp tục phát triển không ngừng, với chức năng và nhiệm vụ của mình, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đứng đầu là đồng chí Tôn Đức Thắng đã kêu gọi các đoàn thể, tôn giáo và toàn dân đoàn kết chặt chẽ, cảnh giác, sản xuất và chiến đấu tiến lên giành những thắng lợi mới. Trong khí thế hào hùng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đang dâng trào, từ ngày 10 đến ngày 12-1973, Đại hội Thanh niên “Ba sẵn sàng” toàn miền Bắc đã họp tại Hà Nội. Hơn 500 đại biểu thay mặt cho hàng chục triệu đoàn viên và thanh niên toàn miền Bắc và đoàn đại biểu thanh niên giải phóng miền Nam vui mừng và vinh dự được đón đồng chí Tôn Đức Thắng tới dự. Cả Đại hội háo hức và chăm chú nghe từng lời phát biểu của đồng chí. Trước hết, đồng chí Tôn Đức Thắng nhiệt liệt hoan nghênh và tuyên dương công trạng của phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”, và chỉ rõ: “Bước sang giai đoạn mới, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Bác tin chắc rằng thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, các cháu sẽ phát huy mạnh mẽ khí thế mới của phong trào “Ba sẵn sàng”, nêu cao lòng tự hào là thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh, anh dũng tiến lên, lập công xuất sắc trên các mặt trận lao động sản xuất chiến đấu, học tập và xây dựng cuộc sống mới”137. Trong những ngày Đại hội diễn ra, đồng chí Tôn Đức Thắng đã thân mật tiếp Đoàn đại biểu thanh niên miền Nam tại Phủ Chủ tịch. Đồng chí ân cần dặn dò, đem hết những tình cảm yêu mến của mình đối với miền Nam thành đồng để tâm sự cùng các cháu và sẻ chia những đau thương mất mát, những khó khăn gian khổ và chiến công và đồng bào miền Nam cũng như các cháu đã và đang phải trải qua. Đồng chí nói một cách rất mộc mạc: “Đoàn các cháu hôm nay có anh hùng, có dũng sĩ, có gái, có trai, có các cháu người dân tộc, đại diện cho tất cả các chiến trường miền Nam, lại có hai cháu thiếu niên. Thế là rất tốt, Bác rất vui lòng”138.
Không chỉ quan tâm đến thanh niên, Tôn Đức Thắng còn dành tình cảm, lòng thương yêu quý trọng đối với các cháu thiếu niên và nhi đồng. Những chiến công xuất sắc của các cháu thiếu nhi hai miền Nam - Bắc làm cho đồng chí vô cùng xúc động. Từ khi được bầu là Chủ tịch danh dự Ủy ban Thiếu niên, nhi đồng Việt Nam (1-4-1961), dù ở cương vị hoàn cảnh nào, Tôn Đức Thắng đều coi trọng công tác chăm sóc, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước. Ngày 4-3- 1973, đến dự và phát biểu tại Hội nghị toàn dân bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng tại Hà Nội, đồng chí vạch rõ công tác của toàn Đảng, toàn dân, biểu hiện quan điểm quần chúng của người cách mạng biểu hiện tính ưu việt của chế độ ta, vì quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng, chính là quan tâm đến tiền đề của sự nghiệp cách mạng. Đồng chí kêu gọi các cấp, các ngành, các đoàn thể, các bậc cha mẹ các thầy cô giáo hãy làm tốt hơn nữa và có kế hoạch bảo vệ, giáo dục các cháu, ra sức thực hiện lời Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết!”.
Không chỉ bằng lời nói mà bằng việc làm cụ thể, ngày 21-11-1979 những quan điểm của đồng chí Tôn Đức Thắng về thiếu niên, nhi đồng đã được công bố bằng Pháp lệnh về bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em do chính đồng chí ký.
Trong lúc đang rất bộn bề với bao nhiêu công việc của đất nước thì người vợ thân yêu của đồng chí làm bệnh nặng, phải vào bệnh viện điều trị. Mặc dù được các y, bác sĩ tận tình cứu chữa, nhưng vào hồi 4 giờ sáng ngày 25-5-1974, bà Đoàn Thị Giàu đã mất tại Viện Quân y 108. Cả cuộc đời hy sinh và cống hiến cho cách mạng, Tôn Đức Thắng luôn trân trọng và cảm ơn vợ, người con gái Mỹ Tho đã thủy chung, son sắt, luôn trung thành với Đảng và Tổ quốc, luôn ủng hộ và cổ vũ sự nghiệp chồng mình theo đuổi.
Nén nỗi đau thương mất mát riêng trong lòng, đồng chí Tôn Đức Thắng lại bắt tay ngay vào công việc hằng ngày một cách khẩn trương.
Trong thời gian Hiệp định Paris đã được ký kết, miền Nam hình thành hai vùng kiểm soát với hai chính quyền, hai quân đội. Tình thế cách mạng của ba nước Đông Dương phát triển thuận lợi Ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia dựa lưng vào nhau mở chiến đấu, tạo thành thế liên hoàn vững chắc. Về phía địch, sau khi thua trận liên tiếp và buộc phải ký Hiệp định Paris rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, chúng đã trở mặt, ra sức phá hoại những điều khoản vừa ký kết, nhưng cũng không tránh khỏi sự thất bại hoàn toàn, thường lâm vào thế bị động. Quân giải phóng của ta càng đánh càng mạnh. Đến cuối năm 1974, những điều kiện chín muồi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đã đến. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp kịp thời xem xét tình hình và ra Nghị quyết động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đẩy mạnh đấu tranh trên các mặt quân sự, chính trị kết hợp ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, nhanh chóng chuẩn bị mọi điều kiện để tiến hành tổng tiến công, giành chính quyền về tay nhân dân giải phóng miền Nam. Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, quân và dân miền Nam đã quyết tâm mở cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Mở đầu là chiến thắng Tây Nguyên vang dội, tiếp theo là các thành phố Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Long An, Bình Dương, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bến Tre, v.v. lần lượt được giải phóng. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã bước sang trang mới: Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất.
2. Cùng Đảng, Nhà nước lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước (1975-1980)
Ngày 13-5-1975, ngay sau ngày giải phóng miền Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng đáp máy bay vào thành phố Sài Gòn thăm đồng bào miền Nam và dự lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Ngày 15-5-1975, Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn tổ chức trọng thể lễ mừng chiến thắng. Giữa một rừng cờ hoa phấp phới và trong muôn ngàn tiếng ca khải hoàn, đồng chí Tôn Đức Thắng xuất hiện đã mang đến cho nhân dân thành phố và cả miền Nam nguồn cổ vũ hết sức lớn lao và niềm tự hào, phấn khởi vô hạn.
Tại Quảng trường lớn Sài Gòn, đồng chí Tôn Đức Thắng thay mặt cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc đọc lời chào mừng. Đồng chí đã vạch rõ thắng lợi của nhân dân ta ngày nay là kết quả của tinh thần yêu nước nồng nàn được thể hiện trong suốt cuộc chiến đấu 30 năm qua của dân tộc ta, là thắng lợi của đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, là thắng lợi của khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế. Cuối cùng đồng chí kêu gọi đồng bào miền Nam cùng với đồng bào miền Bắc “quyết biến khí thế cách mạng hào hùng hôm nay thành cao trào thi đua thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”139.
Khi đất nước còn chiến tranh, chia cắt hai miền, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn quan tâm đến các lực lượng vũ trang, các cán bộ chiến sĩ bộ đội. Nay trong thời bình, đồng chí vẫn luôn dành những tình cảm đặc biệt, viết thư thăm hỏi ân cần dặn dò, nhắc nhở các đơn vị, quân binh chủng Quân đội. Ngày 8-9-1975 nhân ngày truyền thống của Binh chủng Thông tin - liên lạc, đồng chí Tôn Đức Thắng đã viết thư cho cán bộ chiến sĩ binh chủng và chỉ rõ nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân trong tình hình mới hiện nay rất nặng nề nhưng hết sức vẻ vang. Đồng chí khích lệ họ “hãy ra sức phát huy bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta và của binh chủng, ra sức xây dựng binh chủng chính quy, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật... đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”140.
Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra cho sự nghiệp xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh đồng chí Tôn Đức Thắng nhận thức rõ phải nâng cao trình độ dân trí, phải chống giặc dốt trước tiên thì mới cứu đất nước nhanh thoát khỏi đói nghèo và phát triển toàn diện về mọi mặt. Hằng năm, cứ đến ngày 8-9, ngày thành lập Nha Bình dân học vụ, mặc dù bận trăm công nghìn việc, đồng chí Tôn Đức Thắng vẫn dành thời gian viết thư gửi cho cán bộ, giáo viên, học viên bình dân học vụ và bổ túc văn hóa. Ngày 5-9-1975, trong thư gửi cán bộ, giáo viên học viên bình dân học vụ và bổ túc văn hóa, đồng chí Tôn Đức Thắng nhấn mạnh: Để tích cực góp phần xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa hùng cường có công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến đời sống văn minh, hạnh phúc, sự nghiệp xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa trong cả nước cần được phát triển mạnh mẽ, liên tục và vững chắc hơn nữa. Đồng chí nhắc nhở các đồng chí giáo viên hãy phát huy lòng yêu nghề, yêu ngành, ra sức thi đua dạy thật tốt, các đồng chí học viên hãy phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ra sức thi đua học tập tốt”141. Thực hiện lời dặn dò của đồng chí, cả nước ta sau ngày thống nhất đã dấy lên một phong trào học tập, xóa nạn mù chữ, đặc biệt ở miền Nam, nơi phải chịu nhiều khó khăn, gian khổ với hơn 30 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, người dân ít có điều kiện được học hành đến nơi, đến chốn. Ngày 5-2-1977, gửi thư tới Hội nghị xóa bỏ nạn mù chữ ở các tỉnh miền Nam, đồng chí bày tỏ sự vui mừng về những thành tích diệt dốt của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào, khen ngợi những đơn vị đã hoàn thành xóa nạn mù chữ. Thắng lợi bước đầu của công cuộc này, theo đồng chí, là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, sự quan tâm của các cấp, các ngành, các giới, tinh thần xung phong của cán bộ giáo viên, học sinh toàn ngành giáo dục và đặc biệt là sự tham gia đầy đủ, nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân. Đồng chí mong rằng trên mặt trận diệt dốt, cán bộ, đảng viên hãy thật sự gương mẫu, động viên thanh niên hãy xung phong đi đầu, cán bộ, giáo viên và học sinh toàn ngành giáo dục phải làm nòng cốt trong lực lượng giảng dạy, coi đó là một công tác thiết thực gắn liền nhà trường và xã hội142. Sau đó gần một năm, ngày 28-3-1978 đồng chí Tôn Đức Thắng lại viết thư gửi đến Đại hội mừng công căn bản xóa bỏ nạn mù chữ trên khắp đất nước. Với chủ trương và sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng và Quốc hội, trong đó đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp một phần công sức không nhỏ để có được thắng lợi to lớn này trên mặt trận diệt dốt. Để phát huy kết quả đó và để “phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta”, đồng chí kêu gọi “đồng bào đã thoát nạn mù chữ hãy hăng hái học tập các lớp bổ túc văn hóa, đồng bào các dân tộc ít người đã biết chữ dân tộc cần phải học cho biết tiếng phổ thông là tiếng chung của toàn dân tộc ta”. Đối với các cấp, các ngành, các giới “hãy không ngừng quan tâm tới công tác bổ túc văn hóa, coi đó là một công việc không thể thiếu được trong chương trình hoạt động của mình”143.
Sau bao nhiêu năm xa cách, vất vả hy sinh vì việc nước, tháng 10-1975, đồng chí Tôn Đức Thắng mới có dịp trở về thăm quê nhà thân yêu. Các đồng chí lãnh đạo tỉnh cùng đồng bào An Giang vui mừng và xúc động đón đồng chí trong không khí ấm áp, chân tình. Thấy quê hương mình nay đã đổi thay, to đẹp hơn, đồng chí hết sức tự hào. Trong buổi gặp mặt đông đủ đại biểu nhân dân An Giang tại khách sạn Hoàn Mỹ, thật xúc động và chứa chan tình cảm, vị Chủ tịch nước nói: “Hôm nay Đảng và Nhà nước cho phép tôi về thăm quê nhà. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như lúc này, khi cả nước được độc lập, tự do, Bắc - Nam thống nhất”144. Đồng chí không quên động viên nhân dân An Giang luôn đoàn kết, phấn đấu trở thành một tỉnh giàu mạnh, nhân dân ấm no, ai ai cũng được học hành như Bác Hồ hằng mong muốn đối với nhân dân cả nước trong Di chúc. Mọi người vẫn nhận ra tính chân chất, mộc mạc, giản dị, khiêm tốn trong từng lời nói, cử chỉ và hành động của người con vùng miền sông nước Nam Bộ, sau bao năm xa cách, vẫn giữ nguyên cốt cách ấy. Sau khi đi thăm thị xã Long Xuyên, vui mừng trước những đổi thay kỳ diệu của quê hương mình từ sau ngày giải phóng, đồng chí Tôn Đức Thắng về thăm gia đình ở xã Mỹ Hòa Hưng. Gia đình và bà con cô bác đứng chật ních từ nhà ra cổng để đón Người. Đồng chí Tôn Đức Thắng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm thời thơ ấu, thắp hương trước bàn thờ tổ tiên, rồi ngồi xếp bằng tròn giữa nhà chuyện trò, ân cần hỏi thăm tình hình gia đình dòng họ, tình hình xã, ấp, miệt vườn, v.v.. Nghe xong, vị Chủ tịch nước ra sân chụp hình chung với anh em, con cháu và bà con ở Mỹ Hòa Hưng. Mặc dù rất quyến luyến, bịn rịn với bao tình cảm đối với gia đình, quê hương, nhưng đồng chí Tôn Đức Thắng vẫn luôn đặt việc chung, tình cảm chung lên trên hết. Sau 45 phút thăm nhà, đồng chí Tôn Đức Thắng lại ra đi. Bà con cố níu đồng chí ở lại ít phút nữa, đồng chí cảm ơn bà con và nói: Về thăm đủ mặt vậy là mừng quá rồi, xin phép còn đi việc nước! Mọi người ùa nhau ra tiễn đồng chí trong nỗi quyến luyến vô bờ.
Rời quê hương Long Xuyên, tiếp tục cuộc hành trình về thăm lại mảnh đất đã nuôi dưỡng chí hướng của mình, đồng chí Tôn Đức Thắng về thăm lại Nhà máy Ba Son, nơi trước đây đồng chí đã từng làm thợ và bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng đầy sóng gió. Toàn thể cán bộ, nhân viên Nhà máy Ba Son vô cùng phấn khởi đón vị Chủ tịch nước, người thợ cả về thăm. Đồng chí ân cần chào hỏi mọi người và nói: “Sau nửa thế kỷ xa cách, hôm nay tôi mới có dịp về thăm Xưởng Ba Son, nơi trước đây tôi làm việc và hoạt động cách mạng, tôi như thấy mình trẻ lại”145. Rồi đồng chí lần lượt đi thăm các phân xưởng sản xuất, kể lại cho anh em nghe những cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng Ba Son thuở trước và động viên anh chị em cố gắng phấn đấu thi đua lao động sản xuất, mãi mãi xứng đáng với truyền thống anh hùng của Ba Son.
Tạm biệt Ba Son trở về Hà Nội, đồng chí Tôn Đức Thắng lại bận rộn cùng Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị công việc hết sức trọng đại: Tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước để bầu ra Quốc hội chung thống nhất. Ngày 25-4-1976, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI thành công tốt đẹp. Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa VI đã họp tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội là Thủ đô của cả nước, thành phố Sài Gòn được chính thức vinh dự mang tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Tại kỳ họp này, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất, đánh giá đúng công lao và những đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thay mặt những đồng chí được bầu vào các cơ quan lãnh đạo Nhà nước, đồng chí chân thành cảm ơn sự tín nhiệm của Quốc hội. Sự tín nhiệm đó thể hiện lòng tin tưởng tuyệt đối của nhân dân ta đối với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam và nói: Chúng tôi xin hứa với Quốc hội, với đồng bào cả nước sẽ tiếp tục mang hết sức mình phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, ra sức đoàn kết, động viên toàn dân phấn đấu thực hiện đầy đủ lời căn dặn của Hồ Chủ tịch: “Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.
Cùng với thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tại Hà Nội đã thành công rực rỡ. Đại hội đã quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã tổng kết và đúc rút kinh nghiệm phong phú của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và ra Nghị quyết về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Tại Đại hội này, một lần nữa, đồng chí Tôn Đức Thắng lại được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí đã giữ cương vị này cho tới lúc qua đời.
Với cương vị và trọng trách to lớn của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân để tạo nên sức mạnh thống nhất thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng đã đề ra. Mặc dù tuổi đã cao, ngày 31-1-1977, đồng chí vẫn có mặt tại Thành phố Hồ Chí Minh đọc Diễn văn khai mạc Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Đồng chí nêu rõ: “Đại hội Mặt trận lần này là hình ảnh đẹp đẽ của khối đại đoàn kết Bắc - Nam sum họp một nhà. Cảnh vui đoàn tụ hôm nay là kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất suốt mấy chục năm qua của đồng bào và chiến sĩ cả nước, dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu”. Đồng chí tin rằng: “Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng, Đại hội Mặt trận sẽ đề ra chương trình nghị sự và Điều lệ mới của mình nhằm tăng cường đoàn kết, động viên toàn dân thi đua xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất và xã hội chủ nghĩa”146. Ngày 13-8-1979 do bệnh u xơ tiền liệt tuyến đồng chí phải vào nằm điều trị tại Viện Quân y 108 - Hà Nội. Tại đây, đồng chí đã được các bác sĩ chăm sóc và cứu chữa hết sức tận tình và được Trung ương Đảng, Nhà nước dành cho những khả năng, phương tiện tốt nhất nhưng do tuổi quá cao, sức lại yếu, vào hồi 6 giờ 35 phút, ngày 30-3-1980, sau gần hai năm đau yếu, đồng chí Tôn Đức Thắng không qua được căn bệnh hiểm nghèo, đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 92 tuổi.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng thương tiếc vị lãnh tụ kính mến, người cộng sản mẫu mực, người bạn chiến đấu thân thiết và là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã vĩnh biệt chúng ta! Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức lễ quốc tang đồng chí Tôn Đức Thắng với nghi thức trọng thể nhất. Cả nước để tang đồng chí trong năm ngày, từ ngày 1 đến ngày 5-4-1980. Đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam - làm Trưởng ban lễ tang.
Sáng ngày 1-4-1980, tại Hội trường Ba Đình lịch sử, lễ viếng đồng chí Tôn Đức Thắng được cử hành trọng thể. Các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Mặt trận luôn luôn túc trực bên linh cữu đồng chí Tôn Đức Thắng. Đã có gần 150 đoàn đại biểu với hơn 10 ngàn người thay mặt đồng bào cả nước đến viếng; ở tất cả các địa phương trong nước đều tổ chức lễ tưởng niệm người cộng sản kiên cường, mẫu mực Tôn Đức Thắng. Nhiều đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước ở nhiều quốc gia sang nước ta dự lễ tang; các đoàn ngoại giao, các tổ chức quốc tế tại nước ta cũng đã đến đặt vòng hoa kính viếng anh linh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Với tấm lòng ngưỡng mộ người chiến sĩ cộng sản quốc tế về nơi yên nghỉ cuối cùng, nhiều nước trên thế giới đã tổ chức lễ tang hoặc quốc tang. Ở tất cả các cơ quan ngoại giao của nước ta tại các nước đã đón rất nhiều nhà lãnh đạo, và quần chúng nhân dân đến chia buồn và ký vào sổ tang. Thời gian đó, Đảng, Nhà nước ta cũng đã nhận được rất nhiều điện chia buồn từ các nước gửi tới.
Chiều ngày 3-4-1980, lễ truy điệu Chủ tịch Tôn Đức Thắng được tổ chức trọng thể theo nghi thức Nhà nước tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đọc Điếu văn khẳng định những cống hiến lớn lao của Chủ tịch Tôn Đức Thắng: “Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn giản dị. Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của đồng chí. Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của đồng chí để khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng”.
Ngày 4-4-1980, lễ an táng Chủ tịch Tôn Đức Thắng được cử hành rất long trọng. Với lòng tiếc thương vô hạn, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã đưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng về nơi an nghỉ cuối cùng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Với cuộc đời 92 mùa xuân, đồng chí Tôn Đức Thắng đã dành gần 70 năm hoạt động cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng và dân tộc. Đóng góp to lớn của đồng chí mãi mãi được lịch sử ghi nhận và nhân dân ngưỡng mộ.
VIII- NHỮNG CỐNG HIẾN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI
Tôn Đức Thắng - cuộc đời và sự nghiệp với 92 mùa xuân (20-8-1888-30-3-1980), trong đó gần trọn 70 năm hoạt động và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng lớn lao của Đảng, dân tộc và nhân loại. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá: “Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng”.
1. Tôn Đức Thắng sớm có lòng yêu nước, thương dân và tinh thần đấu tranh cách mạng
Được sinh ra và lớn lên trong truyền thống yêu nước và nhân ái của quê hương, gia đình và dân tộc, Tôn Đức Thắng đã sớm có chí hướng đi về phía nhân dân lao động, chọn hướng lao động kỹ thuật, làm thợ, hòa mình vào đời sống của giai cấp công nhân. Đó là một “Phương hướng tốt, hợp thời đại”. Tinh thần yêu nước và căm thù đế quốc đã tạo cho Tôn Đức Thắng sớm bộc lộ năng lực tổ chức thực tiễn. Khi chưa có ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, đứng trên lập trường của một người yêu nước, nhưng Tôn Đức Thắng đã sớm tham gia các cuộc bãi công, bãi khóa của công nhân Xưởng Ba Son và học sinh Trường Bá Nghệ. Hằng ngày, trước cuộc sống bất công ngang trái, Tôn Đức Thắng luôn đứng mũi, chịu sào, biết tổ chức anh em có trật tự để quản lấy mình. Chưa đến tuổi 30 nhưng đã sớm bộc lộ chất người Tôn Đức Thắng, để sau này với hơn hai phần ba thế kỷ hoạt động cách mạng, chất người đó đã in đậm dấu ấn trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đó là “sản phẩm hào hiệp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người”147. Chất người Tôn Đức Thắng đó, như đánh giá của Giáo sư Trần Văn Giàu là: “khả năng, thiên hướng và tài ba nhiều khi xuất hiện từ tuổi trẻ”148.
2. Tôn Đức Thắng - một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.
Sau khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra ở Quảng Châu chưa được bao lâu, thì Tôn Đức Thắng cùng nhiều thành viên tích cực của Công hội bí mật đã hăng hái gia nhập Hội này ở Sài Gòn và mau chóng mở rộng hoạt động cách mạng của Hội ra các tỉnh. Đây là bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời của Tôn Đức Thắng, bởi vì từ đây, Tôn Đức Thắng thật sự hoạt động dưới ánh sáng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng từ đây với trọng trách là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Kỳ bộ Nam Kỳ, Tôn Đức Thắng có cơ hội cống hiến nhiều hơn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Gần 17 năm bị giam ở địa ngục trần gian Côn Đảo, Tôn Đức Thắng tỏ rõ bản lĩnh của một chiến sĩ cộng sản kiên cường, trung kiên, bất khuất, giữ vững lập trường và khí tiết người đảng viên cộng sản, đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù, thương yêu đồng chí và những người cùng cảnh ngộ. Tôn Đức Thắng đã viết nên những sự tích “như những bài ca hùng tráng về khí tiết, phẩm chất sáng trong như ngọc”149. “Trong hoàn cảnh cực kỳ khốn khổ thì biểu tượng cho tình người, cho đoàn kết chiến đấu thật khó kiếm nhiều người hơn Tôn Đức Thắng”150.
Trong dịp Kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh Tôn Đức Thắng (ngày 20-8-1958), đồng chí Lê Duẩn nêu rõ: “Đế quốc Pháp đã bắt giam, đày đọa đồng chí 17 năm trời ở Nhà ngục Côn Lôn với chế độ khổ sai, khi thì nhốt vào Hầm xay lúa, khi thì nhốt vào hầm tối, tay chân bị xiềng xích, cùm kẹp, khi thì cho ăn lúa sống hoặc bỏ đói bỏ khát, nhưng tinh thần cách mạng kiên cường của đồng chí trước sau vẫn không chút lay chuyển. Trong nhà tù, đồng chí luôn luôn nêu cao tấm lòng yêu nước và chí khí quật cường của người công nhân, luôn luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng của dân tộc và của giai cấp, luôn luôn vui vẻ và không bao giờ xao lãng công tác cách mạng”151
Điếu văn đọc trong lễ truy điệu Chủ tịch Tôn Đức Thắng ngày 3-4-1980 của đồng chí Trường Chinh có đoạn: “Gần 17 năm bị tù đày ở Côn Đảo, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng kiên cường, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội”152.
Với đầu đề Tấm gương mẫu mực sáng ngời, Xã luận báo Nhân Dân, ngày 3-4-1980 viết: Trên 30 năm đầu, là sự đối chọi với bọn mật thám ở nước ngoài cũng như ở trong nước, và bị giam cầm dưới sự khủng bố hết sức dã man. Tấm lòng trung thành và tinh thần dũng cảm không gì lay chuyển là sức mạnh phi thường của Bác.
Trong tù ngục Côn Đảo, Tôn Đức Thắng đã cùng những chiến sĩ cộng sản kiên cường khác biến nhà tù thành trường học cộng sản. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ loa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”153.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Tôn Đức Thắng tuy tuổi tác đã cao, nhưng vẫn cố gắng để phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng:
“Bất kỳ ở cương vị công tác nào mặc dù tuổi cao đồng chí luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho”154. “Cuộc đời hoạt động lâu dài của Bác là một kiểu mẫu phong phú hoàn chỉnh về nhân sinh quan cách mạng một viên ngọc trong suốt của đạo đức cách mạng... Ở những cương vị lãnh đạo quan trọng, Bác Tôn đã phấn đấu không mệt mỏi góp phần cùng với Bác Hồ, Trung ương Đảng, Quốc hội và Mặt trận đưa hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn. Bác Tôn đã nêu cao cho một người chúng ta trước hết là những người cộng sản, tính tổ chức, tính nguyên tắc; dù việc lớn việc nhỏ, nhất thiết tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể, sau khi đã trình bày đủ ý kiến của mình. Bác thường dạy chúng ta rằng sức mạnh của Đảng là tổ chức, toàn Đảng chỉ có một ý chí, là sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối chính trị và những nguyên tắc tổ chức của Đảng”155.
“Suốt 30 năm, với các cương vị Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Phó Chủ tịch nước, rồi Chủ tịch nước, Bác Tôn là hiện thân rực rỡ nhất những đức tính mà Bác Hồ đòi hỏi ở một người chiến sĩ cách mạng, mỗi đảng viên cộng sản trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, được đồng bào đồng chí cả nước và bầu bạn khắp năm châu tin cậy, mến phục.
Trên 60 năm hoạt động cách mạng, dù trong ngục tù đế quốc hay trên cương vị đầy trọng trách của Đảng và Nhà nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, nêu một tấm gương sáng ngời về khí phách, phẩm chất, đạo đức của người chiến sĩ cách mạng”156.
Bạn bè trên thế giới có nhiều phát biểu quan trọng đánh giá cống hiến của Tôn Đức Thắng trên các cương vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Điện chia buồn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô có đoạn: “Trên tất cả các cương vị trọng trách của Đảng và Nhà nước, đồng chí đã cống hiến kinh nghiệm phong phú, nghị lực sáng tạo của mình cho sự nghiệp độc lập và tự do của Tổ quốc, cho cuộc đấu tranh chống thực dân và đế quốc xâm lược cho việc xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa phồn vinh trên đất nước Việt Nam”157.
Điện chia buồn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc có đoạn: “Đồng chí Tôn Đức Thắng trọn đời mình là một tấm gương về một chiến sĩ kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc thế giới, vì tự do và độc lập của Tổ quốc mình vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Tên tuổi của đồng chí gắn với sự nghiệp thống nhất đất nước và sự phát triển của chủ nghĩa xã hội ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam anh em”158.
Điện chia buồn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân thống nhất, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa nhân dân Ba Lan có đoạn: “Là người con vĩ đại của nhân dân Việt Nam, người bạn chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng chí Tôn Đức Thắng đã hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Sự đóng góp của đồng chí vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xã hội, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội thật đáng được hết sức kính trọng”159.
Điện chia buồn của đồng chí Phiđen Cátxtơrô, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Cuba có đoạn: “Từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đến lúc từ trần, đồng chí Tôn Đức Thắng đã giữ nhiều chức vụ và trọng trách. Sự toàn tâm công tác của đồng chí ngay từ những ngày đầu tiên là một tấm gương về tinh thần hy sinh tận tụy. Chính tình yêu Đảng, yêu Tổ quốc và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của nhân dân Việt Nam đã giúp đồng chí Tôn Đức Thắng, mặc dù tuổi cao, hoàn thành trọng trách của mình ở cương vị đứng đầu Nhà nước Việt Nam. Những năm tháng lâu dài làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ đồng chí thực hiện đúng đắn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, và vì vậy đồng chí đã được toàn thể nhân dân Việt Nam và những người cách mạng trên thế giới kính trọng và yêu mến”160.
Điện chia buồn của đồng chí Henrích Hônếchcơ, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa dân chủ Đức có đoạn: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một nhà cách mạng xuất sắc của Việt Nam, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đồng chí đã đem hết sức mình phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc và xã hội của Việt Nam, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước của mình”161.
Điện chia buồn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng, Đoàn Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa nhân dân Mông Cổ có đoạn: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là người con trung thành của nhân dân Việt Nam, nhà hoạt động cách mạng lão thành của Việt Nam một trong những nhà lãnh đạo Nhà nước xuất sắc của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”162.
Điện chia buồn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Rumani có đoạn: “Đồng chí Tôn Đức Thắng đã cống hiến cả cuộc đời và hoạt động của mình cho cuộc đấu tranh chống đế quốc giải phóng dân tộc và xã hội, cho sự tiến bộ, hạnh phúc của nhân dân và cho sự nghiệp xây dựng chế độ mới ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”163.
Đánh giá một cách tổng quát, đồng chí Võ Chí Công viết: “Bất kỳ ở cương vị công tác nào, mặc dù tuổi cao, Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nỗ lực phấn đấu quên mình hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó”164.
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định cống hiến vô giá và tấm gương sáng ngời của Tôn Đức Thắng đối với các thế hệ những người Việt Nam: “Bác Tôn đã sống trọn một đời cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản. Cống hiến vô giá của Bác là nêu lên cho thế hệ những người cách mạng của nước ta, cho chúng tôi và lớp trẻ nước ta tấm gương chiến đấu hy sinh vô đạo đức trong sáng của một người cộng sản vì Tổ quốc, vì nhân dân”165.
3. Những cống hiến to lớn của Tôn Đức Thắng cho phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam
Xuất thân trong một gia đình trung nông lớp khá, có điều kiện ăn học để trở thành thầy giáo và giữ một vị trí xã hội đáng kể, nhưng Tôn Đức Thắng không chọn con đường đó, mà vào Trường Bá Nghệ, học kỹ thuật thợ máy, thợ điện, chọn hướng lao động và cuộc đời người thợ. Khi giai cấp công nhân Việt Nam hình thành chưa được bao lâu, Tôn Đức Thắng đã sớm hòa nhập vào phong trào công nhân gắn bó suốt đời với giai cấp công nhân Việt Nam. Ngay từ khi chưa có ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin rọi chiếu, nhưng nhờ thâm nhập và hiểu rõ nỗi đau khổ tận cùng của người công nhân Việt Nam ở một nước thuộc địa dưới ách cai trị của thực dân Pháp, Tôn Đức Thắng đã sớm tổ chức và tham gia vào những cuộc đấu tranh của công nhân.
Những năm tháng hoạt động sôi nổi ở Pháp, Tôn Đức Thắng đã tranh thủ mọi điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu và học tập kinh nghiệm hoạt động của phong trào công nhân, công đoàn Pháp, nhằm tìm ra những hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh thích hợp cho công nhân Việt Nam.
Sau sự kiện Hắc Hải ngày 20-4-1919, Tôn Đức Thắng trở về nước lại hòa mình ngay vào giai cấp công nhân, gây dựng và tổ chức phong trào cách mạng trong lực lượng tiên tiến nhất của xã hội. Tôn Đức Thắng có đóng góp quan trọng đầu tiên trong việc phát hiện công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn muốn đấu tranh nhưng không có tổ chức, và do đó cần thiết phải có tổ chức của công nhân. Từ những hiểu biết và kinh nghiệm hoạt động của mình, Tôn Đức Thắng đã chỉ ra rằng chỉ thông qua tổ chức, công nhân mới ý thức được sức mạnh của mình và đấu tranh mới đem lại lợi ích thiết thực cho giai cấp và dân tộc. Từ nhận thức, Tôn Đức Thắng đã hoạt động thực tế, tổ chức, vận động những người thợ yêu nước tham gia vào tổ chức thích hợp của giai cấp công nhân để vừa đấu tranh, vừa có những hành động thiết thực như quyên góp tiền bạc, lương thực, tỏ tình đoàn kết và giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Nhờ vai trò tổ chức của Tôn Đức Thắng, mầm mống công hội Việt Nam ra đời từ những tổ chức tương tế ái hữu, còn gọi là Ủy ban bữa cháo cộng sản (Comité de la soupe communiste). Trên cơ sở đó vào khoảng cuối năm 1920, Tôn Đức Thắng đã tập hợp một số người cùng chí hướng thành lập ra Công hội bí mật ở Sài Gòn. Tổ chức Công hội đầu tiên ở Việt Nam ra đời gắn liền với tên tuổi của Tôn Đức Thắng. Từ đó trở đi, Công hội phát triển nhanh cả số lượng và chất lượng. Công hội đã có tác động tích cực cả về tình cảm và lý tưởng cách mạng kết hợp cả lý luận và thực tiễn. Hoạt động của Công hội vượt ra ngoài tính chất của một hội tương tế ái hữu thông thường, vì Hội còn có mục đích chống đế quốc, làm chính trị. Công hội do Tôn Đức Thắng lãnh đạo đã tổ chức được nhiều cuộc đấu tranh, tiêu biểu nhất là cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son, tháng 8-1925.
Với cương vị là Hội trưởng, Tôn Đức Thắng đã bí mật tổ chức Công hội hoạt động từ địa bàn hẹp đến rộng, từ ít đến nhiều hội viên, từ hoạt động tương tế đến đấu tranh chính trị, bước đầu thể hiện được sứ mệnh lịch sử và tinh thần quốc tế vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Tôn Đức Thắng, cuộc bãi công Ba Son, tháng 8-1925 như một dấu son đánh dấu trình độ tổ chức, ý thức đoàn kết, kỷ luật, sự phối hợp đấu tranh thực hiện cả mục tiêu kinh tế và chính trị. Đây thực chất là giai cấp công nhân Việt Nam đang trong quá trình trưởng thành, đẩy nhanh trình độ “tự giác khắc phục tính tự phát để đến khi đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, thì giai cấp công nhân Việt Nam mới hoàn toàn ở trình độ “tự giác”.
Từ khi Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở Quảng Châu có mặt ở Sài Gòn thì Công hội của Tôn Đức Thắng đã gia nhập Hội này. Từ đây, với cương vị là một trong những người lãnh đạo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, Tôn Đức Thắng tiếp tục cống hiến cho hoạt động của phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam.
4. Tôn Đức Thắng - người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hoạt động trên nhiều cương vị, đặc biệt là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trên cơ sở thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về đại đoàn kết dân tộc, Tôn Đức Thắng đã góp phần to lớn mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bằng tấm lòng chân thành, thật sự vì nước vì dân, đặt trách nhiệm phụng sự Tổ quốc lên trên hết, Tôn Đức Thắng đã gây được tình thân ái mật thiết giữa mọi người khiến cho tất cả anh em học tập noi gương Bác mà biết giúp đỡ yêu mến, quý trọng nhau lo toan cho nhau.
Tôn Đức Thắng cũng nắm vững các quan điểm có tính nguyên tắc về đại đoàn kết dân tộc. Đặt mục tiêu giành độc lập cho Tổ quốc, dân chủ cho nhân dân, hòa bình cho thế giới”, Tôn Đức Thắng đã quy tụ được cả một “rừng cây đại đoàn kết”. Cống hiến lớn của Tôn Đức Thắng là đã làm rõ được “đại đoàn kết là chính sách liên minh giai cấp để kháng chiến”. Vì vậy, những mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp phải được điều giải hợp lý. Tôn Đức Thắng đã đặc biệt chú trọng đến quyền lợi của đông đảo quần chúng cần lao vì họ là nền tảng của Mặt trận Dân tộc thống nhất, là lực lượng chủ yếu của kháng chiến đoàn kết theo hướng đích tích nước, lợi dân”, vì thống nhất, độc lập, dân chủ, nhưng Tôn Đức Thắng không chủ trương kiểu “dĩ hòa vi quý”, mà phải vừa đoàn kết, vừa đấu tranh. Đó là cuộc đấu tranh trong nội bộ Mặt trận dân tộc một cách có lợi, hợp lý có chừng mực, để chĩa mũi nhọn vào bọn đế quốc xâm lược”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì lực lượng đoàn kết của nhân dân ta là vô địch và Mặt trận Dân tộc thống nhất đã nhiều lần thắng lợi Mặt trận Việt Minh đã giúp Cách mạng Tháng Tám thành công. Mặt trận thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã giúp kháng chiến thắng lợi. Chúng ta có thể tin chắc rằng: Với sự cố gắng của mọi người và sự ủng hộ của toàn dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là giúp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Như vậy công lao to lớn của Tôn Đức Thắng trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Điếu văn do đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc trong lễ truy điệu đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng khẳng định: “Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh”166.
Võ Chí Công, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Chủ tịch Tôn Đức Thắng là hình ảnh tiêu biểu cho chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Bác Tôn hết lòng chăm lo đoàn kết đồng chí, đoàn kết đồng bào, đoàn kết cả nước trong cuộc chiến đấu chung vì độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội”167.
Vũ Oanh, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Bác đã lãnh đạo Mặt trận giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó “Đánh thắng bọn đế quốc xâm lược và mọi thế lực phản động của thời đại” để hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh - Bác là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân”168.
5. Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân
Ngay khi còn ở tuổi thanh niên, với một tấm lòng yêu nước thương dân, căm thù bọn đế quốc xâm lược, Tôn Đức Thắng đã sớm bộc lộ lòng yêu thương những con người bất hạnh cùng khổ. Trong ngục tù đế quốc, hình ảnh “người cặp rằng Hầm xay lúa” Tôn Đức Thắng là tấm gương sáng ngời về đức hy sinh thương yêu những đồng chí anh em cùng cảnh ngộ. Ở những cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tôn Đức Thắng hết lòng hết sức tận tụy phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, không màng gì tới danh lợi cho bản thân. Tôn Đức Thắng sống thật bình dị, làm nhiều nói ít không đòi hỏi gì về vật chất, thương anh em, thương đồng bào. Theo Trần Văn Giàu: “Cụ Tôn không phải là một nhà lý luận mà là người tiên phong cách mạng người mà cả cuộc đời dành cho giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng dân tộc… Cụ Tôn khác với những nhâu vật khác ở chỗ, Cụ không có một tác phẩm nào cả, có chăng chỉ là chúng ta ghi lại những điều Cụ nói thôi. Tuy nhiên, theo tôi, có thể nói tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một người hành động một người có lẽ không có ý gì muốn để lại cho đời sau bằng các tác phẩm của mình. Nhưng thực tế Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều tác phẩm” bằng hành động, bằng việc làm và những lời nói. Đó là những tác phẩm hay hơn nhiều những bài viết”169.
Theo Trần Bạch Đằng: “Tôn Đức Thắng không phải nhà lý luận, nhà tư tưởng hay nhà sáng tác. Tôn Đức Thắng là con người hành động, hành động tiên phong… Con người ấy ít nói về cá nhân mình đến nỗi lớp hậu thế phải vô cùng chật vật để tâm đôi chút tư liệu phác lại cuộc đời con người ấy. Hơn 90 năm tồn tại trong đó gần 60 năm cống hiến cho sự nghiệp chung, thế mà viết về Bác Tôn như viết về một nhân vật ẩn hiện xa xôi,... Bác Tôn luôn luôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại. Không phải dễ thành bất tử như Bác Tôn - Ủy viên Trung ương Đảng nhiều năm, đứng đầu Mặt trận đoàn kết dân tộc hàng mấy thập kỷ liền, thay Bác Hồ giữ cương vị Chủ tịch nước - nhưng chưa một lần Bác tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ. Bác thích vị trí một đảng viên cộng sản như mọi đảng viên, thích vị trí công dân trung thực, lương thiện, cố mang điều tốt, cố mang niềm vui, cố giảm nỗi đau cho đồng bào. Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người, coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay. Kính chào... Tôn Đức Thắng... tức kính chào nền luân lý vĩ đại trong cái bình thường, bình thường một cách vĩ đại”170.
Cống hiến của Tôn Đức Thắng về phương diện đạo đức cách mạng để được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta và bè bạn thế giới nhiều lần khẳng định và đánh giá cao.
Chúc mừng Tôn Đức Thắng thọ 70 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”171.
Lê Duẩn, Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cùng với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, ở đồng chí Tôn Đức Thắng còn nổi bật lên lập trường vững vàng, chí khí cao cả, đức tính khiêm tốn, giản dị, đó là những gương sáng để chúng ta học tập”172.
Phạm Văn Đồng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Thủ tướng Chính phủ viết: “... Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người. Tinh túy của chất ấy là lòng thương nước, yêu dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng mặc dù mọi khó khăn, gian khổ, tinh thần một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, đắc chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị hồn nhiên, trong sáng”173.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Bác Tôn là con người vô cùng giản dị, vẫn là người công nhân, vẫn giữ cái búa, cái kìm... và tự chữa lấy xe đạp của Bác. Bác Tôn của chúng ta là một con người như thế, một người công nhân tiêu biểu cho tinh thần cách mạng, đạo đức cách mạng cao quý nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam, của Đảng chúng ta, của dân tộc Việt Nam chúng ta.
Võ Chí Công, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Cùng với lòng trung thành, tận tụy, lập trường vững vàng, tinh thần dũng cảm bất khuất, ở Bác Tôn còn nổi lên đức tính khiêm tốn, giản dị, chân thành, hòa mình trong quần chúng”174.
Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Kiên trung, khiêm tốn, giản dị là đức tính suốt đời của Bác Tôn, từ khi là người chiến sĩ cộng sản bình thường cho tới lúc giữ trọng trách cao nhất của Nhà nước. Những đồng chí đã ở tù với Bác suốt 17 năm và làm việc với Bác hơn 30 năm sau đều thấy ở Bác một tấm gương “suốt đời cần kiệm, liêm chính; suốt đời hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân” như lời phát biểu của Bác Hồ”175.
Những ý kiến đánh giá, nhận xét nêu trên cho thấy, cùng với Bác Hồ, Bác Tôn đã có công lao to lớn xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho mỗi con người và dân tộc Việt Nam. Đạo đức đó không phải bằng lý luận cao xa, mà bằng tấm gương sáng mẫu mực, giản dị, chân thành, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều. Đó là sự kết tinh những giá trị đạo đức Việt Nam, với tinh hoa đạo đức nhân loại, mà đỉnh cao là đạo đức mácxít. Đạo đức Bác Tôn thể hiện từ đạo đức cách mạng đến đạo đức đời thường, từ việc lớn đến việc nhỏ.
Quả thật, Tôn Đức Thắng - một con người bình thường nhưng cao quý biết bao.
6. Một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội
Tôn Đức Thắng - người con ưu tú của dân tộc ta, người công nhân Việt Nam đầu tiên đi đến chủ nghĩa quốc tế vô sản. Theo Trần Văn Giàu: “Điều đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời Tôn Đức Thắng là, tàn cuộc Chiến tranh thế giới (1914-1918), trong sự kiện lớn nhất của thế kỷ, Tôn Đức Thắng đã biết lựa chọn một chỗ đứng chính trị làm vinh dự cho giai cấp công nhân Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, chỗ đứng chính trị đó là ủng hộ Cách mạng Tháng Mười bảo vệ chính quyền Xôviết Nga bằng hành động phản chiến - kéo cờ đỏ lên một chiến hạm Pháp trong số các chiến hạm đang tiến đánh nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên”176.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng Tôn Đức Thắng kéo cờ phản chiến và ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga, chống lại sự can thiệp của thực dân Pháp và các nước đế quốc khác. Đó là một hành động mà lúc bấy giờ được xem là hiếm có, hơn thế nữa, là một hành động xuất chúng”177.
Võ Chí Công khẳng định: “Cống hiến lớn lao của Chủ tịch Tôn Đức Thắng cho nền độc lập dân tộc và hòa bình thế giới đã được nhân dân thế giới khâm phục và kính mến. Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên được Giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin, xứng đáng là chiến sĩ xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới”178.
Cùng với những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đầu thế kỷ XX, việc Tôn Đức Thắng tham gia cuộc khởi nghĩa Biển Đen đã làm cho mối liên hệ gắn bó giữa Cách mạng Nga và Cách mạng Việt Nam được nối liền, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, mở ra một hướng đi đúng, “hướng của danh dự, hướng của thành công”179.
Tính từ sự kiện năm 1919 đến khi từ trần năm 1980, Tôn Đức Thắng đã có trên 60 năm với nhiều cương vị khác nhau của Đảng, Nhà nước, cống hiến trọn vẹn, liên tục, có hiệu quả cho phong trào cách mạng thế giới xứng đáng là một trong những lãnh tụ tiêu biểu nhất cho tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng thủy chung. Điều đó được thể hiện cụ thể trong những ghi nhận, đánh giá của bạn bè thế giới.
Điện chia buồn của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô có đoạn: “Đồng chí Tôn Đức Thắng..., người con trung thành của nhân dân Việt Nam, người bạn chiến đấu của đồng chí Hồ Chí Minh, người chiến sĩ quốc tế kiên cường, người bạn lớn của Liên Xô, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp hòa bình và chủ nghĩa xã hội”180.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô L.I. Brêgiơnép nhấn mạnh: “Nhân dân Liên Xô đánh giá cao và kính trọng sâu sắc đồng chí, người chiến sĩ quốc tế Lêninnít nổi tiếng, người chiến sĩ đấu tranh kiên cường cho sự toàn thắng của những lý tưởng của chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới..., người bạn chân thành và thân thiết từ lâu của đất nước chúng tôi...”181.
“Đồng chí Tôn Đức Thắng là một chiến sĩ quốc tế có uy tín của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tiến bộ trên toàn thế giới - trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, hữu nghị, tiến bộ và phát triển của các dân tộc trên thế giới.
Tên tuổi đồng chí Tôn Đức Thắng gắn liền với lịch sử và củng cố các mối quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam. Năm 1919, đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy cách mạng của thủy thủ Pháp ở Biển Đen để bảo vệ nước Cộng hòa Xôviết trẻ tuổi. Trong thời gian dài là Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Xô đồng chí Tôn Đức Thắng đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp không ngừng củng cố tình đoàn kết thật sự anh em và sự hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước chúng ta”182.
Trong những ngày tang lễ Chủ tịch Tôn Đức Thắng, nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế đã có những hoạt động tưởng niệm Tôn Đức Thắng và chia buồn với nhân dân Việt Nam. Những hoạt động này thể hiện sự đánh giá cao những cống hiến của Tôn Đức Thắng cho cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Những dòng tình cảm của bạn bè quốc tế dành cho Tôn Đức Thắng đều thống nhất ở một điểm: Tôn Đức Thắng là một chiến sĩ cách mạng quốc tế có uy tín lớn được bạn bè ngưỡng mộ và đánh giá cao. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài, sôi nổi và phong phú của mình, Tôn Đức Thắng đã có nhiều đóng góp cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cho phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới.
____________
Chú thích:
1. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) – Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1988, tr.11.
2. Theo lời kể của ông Tôn Văn Nhung (78 tuổi), em thứ tư của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
3. Vũ Hoành (1873-1946), là người làng Thanh Liệt, huyện Thanh Toàn, tỉnh Hà Đông, tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp bắt đầy đi Cao Miên, hết hạn về quản thúc ở Sa Đéc.
4. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) – Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 13-14.
5. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888- 1980), An Giang, 1988, tr. 75.
6. Ban Sử Liên hiệp Công đoàn Thành phố Hồ Chí Minh: Công nhân Sài Gòn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1986, tr. 22.
7. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1988-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 26-28.
8. Lịch sử Xí nghiệp liên hợp Ba Son (1863-1998), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 91-95.
9. Dẫn theo: Lịch sử cận đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1988, t. IV, tr. 133.
10. Có một số sách viết, sau cuộc đấu tranh năm 1912, để tránh sự lùng bắt của thực dân Pháp, Bác Tôn “đã bị buộc phải cải trang và thay đổi tên, họ, trốn tránh trên một chiếc tàu thủy của Pháp đúng vào lúc mà cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn và của công nhân Ba Son dành được thắng lợi. Từ ngày đó bắt đầu cuộc sống của tôi trên biển cả” (Côn Đảo – “Ký sự và tư liệu: Ban liên lạc tù chính trị, Sở Văn hóa và Thông tin và Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr. 197, Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), Sđd, tr. 226.
11. Đặc san kỷ niệm 80 năm Trường Kỹ thuật Cao Thắng. Tài liệu lưu hành nội bộ, 1986, tr. 37-38.
12. Có một số sách khác viết: Tôn Đức Thắng vào học Trường Bá Nghệ năm 1906, tốt nghiệp năm 1910, ra làm thợ Ba Son và được tuyển thợ giỏi sang Pháp, nhưng không rõ năm nào (Lê Minh: Người thợ máy Tôn Đức Thắng, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1987).
13. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), Sđd. tr.81, 82.
14. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), Sđd, tr. 248.
15. Xem: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử (1890-1929), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 1, tr. 86.
16. Bài viết của đồng chí Tôn Đức Thắng nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười, báo Matpóc (Người thủy thủ, tiếng Nga) số 24, 1957.
17. Xem: Paulin Vial: Les Premières anneés de la Cochin chine. Tome 1, Chullamel acné. Edit, Paris, 1874, p. 94.
18. P. Doumer: Báo cáo năm 1901, trong R. De Lamothe: Note surlasituation de la Cochin chine de 1897 à 1901.
19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 2, tr. 114.
20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.302-307.
21. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1980, tr. 22-24.
22. Dẫn theo Trần Văn Giàu: Sài Gòn xưa, Thành phố Hồ Chí Minh nay và ảnh hưởng của Cách mang Tháng Mười Nga, Kỷ yếu hội thảo khoa học về Chủ tịch Tôn Đức Thắng nhân dịp Kỷ niệm 100 năm ngày sinh, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, 1989, tr.36.
23. Tham luận của đại biển Đông Dương, Tạp chí Học tập, số 2, 1961, tr. 38.
24. Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, “Thành công của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. 3, tr. 53.
25. Một số vấn đề lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1974, tr. 228.
26. Báo Thống nhất, số 155, ngày 19-5-1960.
27. Phan Trọng Bình: Tôn Đức Thấng – Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 186.
28. Nguyễn Thành, Phạm Xanh, Đặng Hòa, Đào Phiếu: Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, Nxb.Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, tr. 167.
29. Hồ sơ vụ án số 200-1 (tiếng Pháp) lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, ký hiệu lưu trữ 11 A-45/263 (số 6). Bản lược dịch của Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
30. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo, (1862-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 98.
31. Travaux Forcés : Lao dịch khổ sai.
32. Xem Tỉnh ủy An Giang - Học viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Mình, Chủ tịch Tôn Đức Thắng với cách mạng Việt Nam và quê hương An Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 86.
33. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyên Đình Thống - Hồ Sĩ Hành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo (1862 – 1975), Sđd, tr. 103, 195.
34. Con đường cách mạng (Hồi ký nhiều tác giả), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1970, tr. 52-53.
35. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr.431.
(Có tài liệu lại cho rằng không có Phạm Hùng, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Công Khương. Mà có Phạm Văn Khuông - tên chính là Nguyễn Công Hiên - sau này lấy tên là Lê Văn Lương. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 7-2003, bài của Nguyễn Thành).
36. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyên Đình Thống - Hồ Sĩ Hành, Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo (1862 – 1975), Sđd, tr. 117.
37. Tôn Đức Thắng – Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr. 431.
38. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hành – Nguyễn Linh), Nhà tù Côn Đảo, 1862 - 1975), Sđd, tr. 157.
39. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo, 1862 - 1975), Sđd, tr. 159.
40. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo, (1862- 1975), Sđd, tr. 167.
41. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo, (1862- 1975), Sđd, tr. 167.
42. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđđ, tr. 109-110.
43, 44. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hoành – Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo (1862-1975), Sđd, tr. 171, 173.
45. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Một con người bình thường - vĩ đại” nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20-8-1888 - 20-8-1988). Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, 1988, tr. 97.
46. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Một con người bình thường - vĩ đại”. Sđd, tr. 97.
47. Xem: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyền Đình Thống - Hồ Sĩ Hoành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo (1862-1975), Sđd, tr. 178.
48. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hoành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo (1862-1975), Sđd, tr. 190.
49. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 146.
50. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 128.
51. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Nhóm biên soạn: Nguyễn Đình Thống - Hồ Sĩ Hoành - Nguyễn Linh): Nhà tù Côn Đảo (1862-1975), Sđd, tr. 203.
52. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 134-135.
53. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 3-4.
54. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. tr. 78.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 69.
56. Bác Tôn và chúng ta (20-8-1888 - 20-8-1988), Ban Khoa học xã hội Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 1988. tr. 213.
57, 58. Xem Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Sđd, tr. 112.
59, 60. Tôn Đức Thắng – Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr. 83-84, 85.
61. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1954), Sđd, tr. 117.
62. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết, Sđd, tr. 91.
63. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 157.
64. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Sđd, tr. 132-133.
65. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử quốc hội Việt Nam (1946-1960), Sđd, tr. 126.
66. Sở văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888- 1980), Sđd, tr. 197.
67, 68. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), Sđd, tr. 202, 203.
69. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 8.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 12. tr. 487-488.
71. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr. 485-486.
72, 73. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr. 487-488, 489.
74. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) - Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 159.
75. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 181.
76, 77. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang. Bác Tôn (1888-1980) – Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 163.
78. Báo Nhân Dân, số 8, ngày 13-5-1951.
79. Báo Nhân Dân, số 29, ngày 18-10-1951.
80. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Sđd, tr. 130.
81. Báo Nhân Dân, số 39, ngày 3-1-1952.
82. Báo Nhân Dân, số 65, ngày 10-7-1952.
83, 84. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) – Cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 164, 165.
85, 86. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Sđd, tr. 133, 134.
87. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 179.
88. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Sđd, tr. 138.
89. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Sđd, tr. 140.
90. Báo Nhân Dân, số 192, từ ngày 7 đến ngày 9-6-1954.
91, 93. Báo Nhân Dân, số 211, từ ngày 4 đến ngày 6-8-1954.
92. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Sđd, tr. 141.
94. Báo Nhân Dân, số 212, từ ngày 7 đến ngày 9-8-1954.
95. Báo Nhân Dân, số 211, từ ngày 4 đến ngày 6-8-1954.
96. Báo Nhân Dân, số 258, ngày 9-11-1954.
97, 98. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 16, tr. 571-572, 574.
99. Báo Nhân Dân, số 552, ngày 6-9-1955.
100. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 66-67.
101. Báo Nhân Dân, số 565, ngày 19-9-1955.
102. Báo Nhân Dân, số 664, ngày 27-12-1955.
103. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 220-221.
104. Báo Nhân Dân, số 1621, ngày 20-8-1958.
105, 105. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1960 - 1976, Sđd, tr. 21, 23.
106. Báo Nhân Dân, số 2310, ngày16-7-1960.
107. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 509.
108. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn (1888-1980) cuộc đời và sự nghiệp, Sđd, tr. 180.
109, 110. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980), Sđd, tr. 264, 265.
111. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980), Sđd, tr. 266.
112. Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1960 - 1976, Sđd, tr. 80, 81.
113. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 26, tr. 108.
114. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng của đại đoàn kết (Hồi ký), Sđd, tr. 20.
115. Báo Nhân Dân, số 5642, ngày 26-9-1969.
116. Báo Nhân Dân, số 5679, ngày 2-11-1969.
117. Báo Nhân Dân, số 5729, ngày 22-12-1969.
118. Báo Nhân Dân, số 5739, ngày 1-1-1970.
119. Báo Nhân Dân, số 5747, ngày 9-1-1970.
120. Báo Nhân Dân, số 5764, ngày 26-1-1970.
121. Báo Nhân Dân, số 5853, ngày 26-4-1970.
122. Báo Nhân Dân, số 5832, ngày 5-4-1970.
123. Báo Nhân Dân, số 5849, ngày 22-4-1970.
124. Báo Nhân Dân, số 5853, ngày 26-4-1970.
125. Báo Nhân Dân, số 5884, ngày 28-5-1970.
126. Báo Nhân Dân, số 5943, ngày 26-7-1970.
127. Báo Nhân Dân, số 5944, ngày 27-7-1970.
128. Báo Nhân Dân, số 5985, ngày 8-9-1970.
129. Báo Nhân Dân, số 6089, ngày 21-12-1970.
130. Báo Nhân Dân, số 6100, ngày 1-1-1971.
131. Báo Nhân Dân, số 6201, ngày 14-4-1971.
132. Báo Nhân Dân, số 6261, ngày 14-6-1971.
133. Báo Nhân Dân, số 6389, ngày 20-10-1971.
134. Báo Nhân Dân, số 6858, ngày 2-2-1973.
135. Báo Nhân Dân, số 6954, ngày 11-5-1973.
136. Báo Nhân Dân, số 6954, ngày 11-5-1973.
137. Báo Nhân Dân, số 7786, ngày 16-5-1975.
138. Báo Nhân Dân, số 7796, ngày 9-9-1975.
139. Báo Nhân Dân, số 7795, ngày 8-9-1975.
140. Báo Nhân Dân, số 8314, ngày 11-2-1977.
141. Báo Nhân Dân, số 8710, ngày 29-3-1978.
142. Đồng chí Tôn Đức Thắng, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, mẫu mực, Sđd, tr. 43.
143. Đồng chí Tôn Đức Thắng, người chiến sĩ cộng sản kiên cường mẫu mực, Sđd, tr. 44.
144. Báo Nhân Dân, số 8304, ngày 1-2-1977.
145. Sở Văn hóa và Thông im An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888- 1980), Sđd, tr.82.
146. Bác Tôn của chúng ta, Sđd, tr.22.
147. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), Sđd, tr.85.
148, 149. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980), Sđd, tr. 158.
150. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 3-4.
151. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng, 1888 - 1980), Sđd, tr.164.
152. Xã luận báo Nhân Dân: Tấm gương mẫu mực sáng ngời, Sđd.
153. Bác Tôn và chúng ta, Sđd, tr. 22-23.
154, 155, 156. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980) Sđd, tr.173, 175.
157, 158, 159, 160. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980) Sđd, tr.177, 178, 179, 180.
161, 162. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 35, 31.
163, 164. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 16, 35.
165. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 48.
166, 167. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 48.
168, 169. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 181, 214-215.
170. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.221.
171, 172. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 23.
173, 174, 175. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 31, 33, 36.
176. Bác Tôn và chúng ta, Sđd, tr.93.
177. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 32.
178. Tôn Đức Thắng - Người cộng sản mẫu mực, biểu tượng đại đoàn kết, Sđd, tr. 36.
179. Bác Tôn và chúng ta, Sđd, tr.93.
180. Báo Nhân dân, số 9427, ngày 4-4-1980.
181. Báo Nhân dân, số 9425, ngày 2-4-1980.
182. Báo Nhân dân, số 9427, ngày 4-4-1980.
Phần thứ hai: TÔN ĐỨC THẮNG - BIỂU TƯỢNG CỦA ĐẠI ĐOÀN KẾT CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
CHÚC MỪNG ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG THỌ 70 TUỔI1
Thưa lão đồng chí,
Hôm nay, chúng tôi rất sung sướng chúc mừng đồng chí 70 tuổi.
Thưa các đồng chí,
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, 9 năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, 4 năm phấn đấu để gìn giữ hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 29 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí là 13 tuổi.
Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
Đồng chí Tôn Đức Thắng tuy tuổi tác đã cao, nhưng vẫn cố gắng để phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng:
Trưởng Ban Thường trực Quốc hội;
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam;
Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
Chủ tịch Hội Việt - Xô hữu nghị;
Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam:
Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới.
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liên, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Vì vậy, hôm nay chẳng những chúng ta ở đây mà toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam và toàn thể nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình đều vui mừng chúc mừng người lão chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng sống lâu, mạnh khỏe.
Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy.
LỜI CHÚC MỪNG
CỦA ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH2
ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
CHỦ TỊCH ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Thưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng,
Thưa Phó Chủ tịch Nguyễn Lương Bằng,
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến qua đời, trong phiên họp trọng thể này, Quốc hội ta đã nhất trí bầu cụ Tôn Đức Thắng giữ chức Chủ tịch và đồng chí Nguyễn Lương Bằng giữ chức Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cụ Tôn Đức Thắng và đồng chí Nguyễn Lương Bằng là hai chiến sĩ lão thành của cách mạng Việt Nam, những người bạn chiến đấu gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam ta. Hai đồng chí được Quốc hội nhất trí tín nhiệm giao cho trọng trách lãnh đạo Nhà nước ta là rất xứng đáng. Sự tín nhiệm của Quốc hội tức là sự tín nhiệm của toàn dân ta. Điều đó làm cho nhân dân ta ở cả hai miền, các chiến sĩ ngoài mặt trận cũng như đồng bào ở hậu phương và bè bạn ta trên thế giới vui mừng, phấn khởi.
Quốc hội xin nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí Chủ tịch và đồng chí Phó Chủ tịch mới của nước ta, và xin kính chúc các đồng chí luôn luôn mạnh khỏe, thu được nhiều thắng lợi lớn trong công tác lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
HỌC TẬP GƯƠNG SÁNG
CỦA ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG
LÊ DUẨN3
... Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con yêu quý của dân tộc, một đảng viên gương mẫu của Đảng Lao động Việt Nam.
Cuộc đời của đồng chí là một tấm gương phấn đấu không biết mệt mỏi cho sự nghiệp độc lập dân tộc, cho sự nghiệp giải phóng giải cấp vô sản và nhân dân lao động. Xuất thân từ hàng ngũ giai cấp công nhân, từ lúc còn trẻ, đồng chí đã giác ngộ cách mạng và tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam chống đế quốc, phong kiến. Đồng chí đã tham gia cuộc khởi nghĩa Biển Đen, chống sự can thiệp vũ trang của đế quốc để bảo vệ nước Cộng hòa Xô viết trẻ tuổi, nêu cao tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công nhân Việt Nam.
Đế quốc Pháp đã bắt giam, đày đọa đồng chí 17 năm trời ở Khám Lớn - Sài Gòn và nhà ngục Côn Đảo với chế độ khổ sai, khi thì nhốt vào Hầm xay lúa, khi thì nhốt vào hầm tối, tay chân bị xiềng xích, cùm kẹp, khi thì cho ăn lúa sống, hoặc bỏ đói, bỏ khát, nhưng tinh thần cách mạng kiên cường của đồng chí trước sau vẫn không lay chuyển. Trong nhà tù, đồng chí luôn luôn nêu cao lòng yêu nước và chí khí quật cường của người công nhân, luôn luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng của dân tộc và của giai cấp, luôn luôn vui vẻ và không bao giờ sao lãng công tác cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám thành công đồng chí ra khỏi nhà tù. Vừa bước chân lên đất liền thì cuộc kháng chiến bùng nổ, đồng chí lại tham gia ngay vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Mười ba năm nay, ở những cương vị quan trọng trong Đảng, Quốc hội, Mặt trận, mặc dù tuổi cao, đồng chí đã nỗ lực làm đầy đủ nhiệm vụ của mình, cùng Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận lãnh đạo nhân dân góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Sự cống hiến lớn lao của đồng chí cho nền độc lập dân tộc và hòa bình thể giới đã được nhân dân thế giới kính mến. Đồng chí là người Việt Nam đầu tiên được Giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin, xứng đáng là một chiến sĩ xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới.
Cùng với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, ở đồng chí Tôn Đức Thắng còn nổi bật lên lập trường vững vàng, chí khí cao cả, đức tính khiêm tốn, giản dị, đó là những gương sáng để chúng ta học tập.
BÁC TÔN - NHÀ CÁCH MẠNG BẤT TỬ
PHẠM VĂN ĐỒNG4
... Di sản quý nhất mà đồng chí Tôn Đức Thắng để lại cho nhân dân là chất người Tôn Đức Thắng, sản phẩm tổng hợp của chất hào hiệp Nam Bộ, chất kiên cường và tài năng sáng tạo Việt Nam, chất tiên phong của giai cấp công nhân, chất cách mạng của người yêu nước, người cộng sản, chất nhân đạo của con người.
Tinh túy của chất ấy là lòng thương nước, yêu dân, niềm ưu ái với đồng bào, đồng chí; niềm tin sắt đá vào thắng lợi của cách mạng mặc dù mọi khó khăn, gian khổ, tinh thần một lòng, một dạ phục vụ nhân dân, đức chí công vô tư quên mình, sự khiêm tốn, giản dị hồn nhiên, trong sáng. Đó là chất cách mạng tinh khiết không gì làm phai nhạt được, từ thuở thanh niên đến cuối đời vượt qua muôn trùng thử thách, ngày càng ngời lên vẻ đẹp đẽ và cao quý.
Riêng tôi có nhiều kỷ niệm về Bác Tôn. Tôi biết Bác Tôn lúc tôi hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Sài Gòn vào những năm 1927-1929, tuy không có quan hệ trực tiếp với nhau vì hoạt động trong hai tổ chức khác nhau. Sau khi bị bắt vì “vụ án Barbier", chúng tôi cùng bị giam ở Khám Lớn - Sài Gòn. Đây là thời gian tôi tiếp xúc nhiều với Bác và biết rõ Bác hoạt động trong công nhân Xưởng Ba Son và các cơ sở khác ở Sài Gòn. Trong tù, Bác Tôn rất mê đánh cờ tướng.
Từ Khám Lớn - Sài Gòn, chúng tôi bị đày ra Côn Đảo, Bác Tôn với án 20 năm khổ sai, còn tôi với án 10 năm tù cấm cố nên khi ở Côn Đảo, chúng tôi hầu như bị cách biệt hoàn toàn. Bác Tôn phải làm việc cực nhọc như mọi người tù khổ sai Côn Đảo lúc bấy giờ. Tuy nhiên, bọn cai ngục rất nể Bác Tôn, bởi chúng biết rõ phẩm chất kiên cường của người chiến sĩ cộng sản này. Theo tôi nhớ, lúc đầu chúng đưa Bác Tôn ra làm cặp rằng (caporal) ở Sở Lưới (là người tù phụ trách điều hành công việc của tù khổ sai ở Sở). Đây là nơi tập hợp những người tù khổ sai chuyên đi đánh cá trên biển với những chiếc canô gắn máy. Bọn chủ ngục ở Côn Đảo tổ chức ra Sở Lưới và dùng một số tù khổ sai đánh cá chủ yếu để có cá biển phục vụ chúng. Tuy nhiên, đôi khi Sở Lưới đánh được nhiều cá, thì cả tù cấm cố chúng tôi cũng được ăn cá biển. Và vì những người làm bếp ở trại chúng tôi trước đây đã làm nghề nấu ăn, có người còn là đầu bếp của bọn quan Tây hoặc của khách sạn, nên đôi khi có cá, lại có đầu bếp lành nghề, chúng tôi cũng được ăn những món thật thú vị.
Bác Tôn chỉ ở Sở Lưới một thời gian ngắn. Bọn chủ ngục sợ rằng ở đó người cách mạng có nhiều cơ hội hoạt động mà chúng không kiểm soát được, nên đã đưa Bác Tôn vào làm cặp rằng ở Hầm xay lúa. Đây là nơi tù khổ sai chuyên xay lúa làm gạo để cung cấp cho tất cả tù Côn Đảo. Tù ở Hầm xay lúa bị nhốt và suốt ngày phải làm việc quần quật trong không khí ồn ào, bụi bặm. Tuy nhiên làm ở đây cũng có một cái lợi: Có thể lấy gạo nấu cơm, nấu cháo (với chất đốt là trấu và bí mật tiếp tế cho anh em đau yếu ở trại khác).
Trong 15 năm Bác Tôn ở Côn Đảo có một lần bọn cai ngục chọn một số người đưa đi đày ở Cayen, một nhà tù khủng khiếp ở châu Mỹ, Bác Tôn ở trong diện bị chọn đưa đi. Trước khi để những người tù phải qua khám sức khỏe. Một việc rất lạ đã xảy ra mặc dù sức khỏe Bác Tôn bình thường, nhưng sau khi khám cho Bác, viên bác sĩ người Pháp đã kết luận Bác Tôn không đủ sức khỏe để đi Cayen. Chúng tôi rất ngạc nhiên. Về sau mới biết: Viên bác sĩ ấy là một người có lương tâm, chắc rằng ông có biết ít nhiều về Bác Tôn, nên đã nhận xét như vậy để cứu Bác khỏi phải đi Cayen.
Sau Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), Bác Tôn từ Côn Đảo trở về (tôi về trước, từ năm 1936). Chúng tôi lại gặp nhau ở Hà Nội năm 1946. Tháng 5-1946, Chính phủ ta cử Bác Tôn, đồng chí Trần Danh Tuyên và tôi tham gia vào Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đi thăm thiện chí nước Pháp. Đúng là đoàn đại biểu đi thăm thiện chí. Có điều là thiện chí chỉ có ở phía ta. Ở Pari, chúng tôi không tiếp xúc với bất cứ cơ quan nào có thẩm quyền của nước Pháp. Trưởng đoàn Việt Nam chỉ gặp Chủ tịch Quốc hội Pháp (lúc ấy là Vanhxăng Ôriôn) ít phút trong giờ giải lao ở Quốc hội Pháp.
Từ năm 1946, Bác Tôn có nhiều năm hoạt động và sống gần gũi với Bác Hồ. Giữa hai Bác đã hình thành một tình thân ái, gắn bó sâu sắc. Tình cảm cao quý đó mãi mãi được thể hiện trong bức ảnh rất đẹp ghi lại hình ảnh hai Bác, tay cầm tay, đứng bên nhau với nét mặt tươi vui, đôn hậu.
Những năm tháng cuối đời của Bác Tôn để lại những ấn tượng sâu sắc đối với tôi. Bấy giờ Bác Tôn đã đến tuổi 90. Một con người trải qua một cuộc đời đầy sóng gió như Bác Tôn mà thọ đến 90 thì thật hiếm có. Điều đáng quý hơn nữa, mà tôi rất xúc động nhắc lại ở đây, là con người bên trong của Bác Tôn, phẩm chất cách mạng kiên cường ở Bác vẫn trong sáng, hồn nhiên như năm nào. Nói chuyện với Bác Tôn lúc ấy, tôi không thấy có gì khác với lúc nói chuyện với con người ấy cách đây mấy chục năm về trước.
Chúng ta đang đứng trước một con người mà năm tháng và bão tố có làm thay đổi nhiều về dáng vẻ bên ngoài, nhưng tâm hồn và ý chí cách mạng, tình cảm với đồng bào, đồng chí, sự khiêm tốn giản dị, lòng vị tha quên mình thì không hề thay đổi. Đó vẫn luôn luôn là đức tính của người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng.
Cũng như Bác Hồ, Bác Tôn là một con người đẹp từ việc lớn đến việc nhỏ, lúc ở Côn Đảo cũng như lúc ở Phủ Chủ tịch. Và cũng như Bác Hồ, Bác Tôn rất vui tính, thích bông đùa, nói ít, làm nhiều, suốt đời hiến dâng nghị lực, tài năng và tâm huyết cho sự nghiệp lớn của nước, của dân.
Con người và cuộc sống của Bác Tôn là như vậy. Đây là một tấm gương mà mọi người chúng ta cần noi theo.
MỘT CON NGƯỜI RẤT ƯU TÚ CỦA TỔ QUỐC
NÔNG ĐỨC MẠNH5
"Một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới", một con người rất ưu tú của Tổ quốc" là đánh giá về Bác Tôn Đức Thắng trong lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Lễ trao Huân chương Sao vàng, là Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta tặng Bác Tôn và Bác cũng là người đầu tiên ở nước ta được nhận Huân chương cao quý đó.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một chiến sĩ lớp đầu của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc của nước ta, là người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Bác Hồ. Bác là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp tham gia cuộc nổi dậy của Hải quân Pháp ở Biển Đen, kéo lá cờ đỏ trên chiến hạm Pháp ủng hộ nước Nga Xô viết, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, là người xây dựng Công hội đỏ, tiền thân của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ngày nay.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn là cuộc chiến đấu đầy gian lao, thử thách. Gần l7 năm bị thực dân bắt giam ở Khám Lớn - Sài Gòn và địa ngục Côn Đảo, Bác luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng kiên cường, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nêu tấm gương sáng dẫn dắt nhiều đồng chí vững bước tiến lên trước những thử thách gay gắt của đấu tranh cách mạng.
Kiên trung, khiêm tốn, giản dị là đức tính suốt đời của Bác Tôn, từ khi là người chiến sĩ cộng sản bình thường cho tới lúc giữ trọng trách cao nhất của Nhà nước. Những đồng chí đã ở tù với Bác suốt 17 năm và làm việc với Bác hơn 30 năm sau đều thấy ở Bác một tấm gương suốt đời cần kiệm, liêm chính; suốt đời hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân như lời phát biểu của Bác Hồ.
Bác Tôn đã sống trọn một đời cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản Cống hiến vô giá của Bác là nêu lên cho thế hệ những người cách mạng của nước ta, cho chúng tôi và lớp trẻ nước ta tấm gương chiến đấu hy sinh và đạo đức trong sáng của một người cộng sản vì Tổ quốc, vì nhân dân.
Học tập tấm gương sống và chiến đấu của Bác Tôn, chúng tôi cùng với Ban Chấp hành Trung ương quyết tâm xây dựng và chỉnh đốn Đảng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như lòng mong muốn của Bác Hồ và Bác Tôn.
NHỮNG NGÀY SỐNG VỚI BÁC TÔN Ở CÔN ĐẢO6
NGUYÊN VĂN LINH7
Thời gian tôi được gặp Bác Tôn, biết Bác Tôn và sống chung với Bác Tôn nhiều nhất là thời kỳ ở Côn Đảo. Lúc bấy giờ tôi mới 17 tuổi, tôi bị địch bắt ở Hải Phòng và bị đày đi Côn Đảo.
Tôi lãnh hai án, trong đó một án 18 tháng tù về tội rải truyền đơn, và một án là phát lưu chung thân do Hội đồng đại hình kết tội. Ra đến Côn Đảo, tôi và hai người bạn nữa còn nhỏ tuổi nên bị giam ở Banh I, không bị bắt đi làm khổ sai hằng ngày. Ở đó có Bác Tôn, vì cao tuổi nên chúng không bắt Bác đi làm khổ sai. Bác và chúng tôi phải dọn dẹp các sam (chambre), quét sân, nhổ cỏ ở Banh I.
Thấy chúng tôi còn trẻ mà đã giác ngộ cách mạng thì Bác rất thương. Bác bắt đầu giáo dục cho tôi và hai người bạn hiểu thế nào là cách mạng, thế nào là chủ nghĩa cộng sản. Bác rất hiền. Bác không những thương chúng tôi mà còn thương các bạn tù khác kể cả tù thường phạm. Khi họ đi làm về, sau bữa ăn, bị nhốt ở sam thì Bác thường gần gũi họ, giảng giải cho họ những điều sơ đẳng nhất về chủ nghĩa cộng sản, về lòng yêu nước và động viên họ phải can đảm lên, cố chịu đựng rồi khi ra tù sẽ tiếp tục làm cách mạng. Những người tù thường phạm cũng được Bác giáo dục về chủ nghĩa yêu nước và chỉ cho họ biết chính vì nước mình không có độc lập tự do cho nên họ rơi vào cảnh nghèo khổ và phải làm những nghề bất chính để nuôi sống bản thân và gia đình. Khi bị bắt họ lại bị đày ải và tù tội.
Sau đó ít lâu, ở Sở Lưới có một canô bị hỏng, biết Bác Tôn là thợ máy, chúng đưa Bác Tôn ra để sửa canô. Tôi và một trong hai bạn tù cũng được đưa ra ngoài Sở Lưới. Lúc bấy giờ, tôi được giao việc làm hộp đồi mồi và lược đồi mồi. Viên cai ngục rất kính trọng Bác, nói với Bác cứ ở ngoài, ngủ ở ngoài cho thoáng nhưng Bác nhất định không chịu, Bác vẫn vào trong Sở Lưới ở với anh em ngủ chung với anh em. Đấy cũng là những điều mà bản thân tôi học tập được ở Bác. Bác luôn thể hiện tình thương đối với những người bạn tù và luôn luôn giáo dục họ để họ hiểu được cách mạng, hiểu con đường cách mạng. Thời kỳ đó tôi chưa vào Đảng, mới giác ngộ cách mạng, mà người đầu tiên tôi được gần gũi và giáo dục tôi nhiều nhất là Bác Tôn.
Năm 1936, tôi được ân xá và trở về đất liền. Năm 1941, tôi lại bị bắt giam trở lại Côn Đảo và tôi đã gặp lại Bác Tôn ở Sở Lưới. Bác vẫn ở suốt trong tù. Gặp lại tôi, Bác rất mừng vì thấy tôi còn trẻ mà tuy được ân xá rồi vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng. Khi Bác hỏi tôi về tình hình phong trào cách mạng, tình hình phát triển Đảng ở bên ngoài thì tôi thuật lại cho Bác nghe theo hiểu biết của tôi. Bác rất vui và nói "nhất định cách mạng sẽ thắng!”.
Đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công ở trong đất liền mà ở ngoài Côn Đảo chúng tôi vẫn còn chưa biết. Chủ tịch Hồ Chí Minh là ai; chúng tôi chỉ biết về Nguyễn Ái Quốc nhưng cũng đoán là Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc.
Đồng chí Tưởng Dân Bảo trước đây bị đày ra Côn Đảo, là người theo Quốc dân Đảng rồi sau giác ngộ theo Đảng Cộng sản, đã tự thuê thuyền và thuê một chiếc tàu ra đón chúng tôi ở Côn Đảo về. Tôi và các bạn đã bằng thuyền buồm về Sóc Trăng rồi Cần Thơ. Bác Tôn cùng một số đồng chí khác như Phạm Hùng cùng đi về bằng canô do chính Bác Tôn tự lái. Sau đó Bác Tôn được điều động ra Hà Nội. Từ đó, tôi ở lại Nam Bộ chiến đấu chống thực dân Pháp rồi tiếp tục chống đế quốc Mỹ.
Lâu lâu, có dịp ra Hà Nội là tôi lại ghé thăm Bác Tôn và gia đình.
Khi đã trở thành vị Phó Chủ tịch nước, sau là Chủ tịch nước, Bác Tôn vẫn giữ tính điềm đạm, chân thành, thương người như khi ở tù Côn Đảo năm xưa mà tôi được cùng sống bên Bác. Tôi rất kính trọng Bác Tôn cũng như kính trọng Bác Hồ. Bác Tôn là người xuất thân từ công nhân, trước đây học ở Trường Cơ khí châu Á ở Sài Gòn, làm thợ ở Xưởng Ba Son rồi sang Pháp. Khi Cách mạng Tháng Mười thành công, bọn đế quốc đem quân, và tàu chiến câu kết với bọn bạch vệ ở trong nước Nga chống lại nước Nga Xôviết non trẻ thì Bác Tôn là một trong số những thủy thủ đã dũng cảm đấu tranh chống lại. Chính Bác là người đã kéo lá cờ đỏ búa liềm ở trên Chiến hạm France. Hành động này cho thấy Bác chẳng những là một người yêu nước mà còn là người có tinh thần quốc tế vô sản.
Những kỷ niệm đó thường hiện lên mỗi lần tôi nhớ tới Bác Tôn và càng nhớ thì càng kính phục Bác, càng thương Bác nhiều.
CHÚNG TA LUÔN NHỚ MÃI BÁC TÔN8
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP9
Bác Tôn là một người cộng sản mẫu mực. Nếu Bác Hồ rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, đi sang Pháp, Anh, Mỹ và các nước thuộc địa, đi đến chủ nghĩa cộng sản để rồi sau này trở thành nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam thì Bác Tôn - người con ưu tú của dân tộc ta, người công nhân Việt Nam đầu tiên đi đến chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lần đầu tiên trong cuộc đời cách mạng của tôi biết đến Bác Tôn là người chiến sĩ Biển Đen - Marin de la Mer Noir đấy - đã kéo cờ phản chiến và ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga, chống lại sự can thiệp của thực dân Pháp và các nước đế quốc khác. Đó là một hành động mà lúc bấy giờ được xem là hiếm có, hơn thế nữa, là một hành động xuất chúng, chứng tỏ Bác Tôn là người Việt Nam yêu nước - mà là người yêu nước thì nhất định đi đến chủ nghĩa cộng sản. Những người cộng sản chân chính bao giờ cũng là người yêu nước.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhất là từ khi Bác Tôn ra Hà Nội rồi lên Việt Bắc thì tôi có nhiều dịp được làm việc với Người. Trong những buổi họp Thường vụ do anh Trường Chinh nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nguyên Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam hay các anh cộng sự khác chủ trì thường có Bác Tôn dự. Đặc biệt, từ lúc Bác Tôn thay Bác Hồ làm Chủ tịch nước, với cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tôi có nhiệm vụ báo cáo tình hình kháng chiến với Bác Tôn và cùng với Bác Tôn đi thăm các đơn vị bộ đội…
Tôi cũng thường đến thăm Bác Tôn ở nhà riêng. Cảm tưởng để lại cho tôi trong những dịp đó là vô cùng xúc động. Bác Tôn là con người vô cùng giản dị, vẫn là người công nhân, vẫn giữ cái búa, cái kìm, v.v và tự tay chữa lấy xe đạp của Bác. Bác Tôn của chúng ta là một con người như thế, một người công nhân tiêu biểu cho tinh thần cách mạng, đạo đức cách mạng cao quý nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam, của Đảng chúng ta, của dân tộc Việt Nam chúng ta. Tình bạn giữa Bác Tôn với Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta tiêu biểu cho tình bạn chí thiết và cao cả. Bác Tôn luôn sống mãi trong tâm trí chúng ta.
Chúng ta nhớ mãi Bác Tôn, đặc biệt là đạo đức của Bác, một người công nhân ưu tú, một người cộng sản mẫu mực, một nhà yêu nước vĩ đại, người bạn chí thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA DÂN TỘC, NGƯỜI CHIẾN SĨ QUỐC TẾ KIÊN CƯỜNG
VÕ CHÍ CÔNG10
Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một trong các chiến sĩ lớp đầu của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta, là một trong những người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài, đầy gian lao, thử thách của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là tấm gương sáng về tinh thần phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp độc lập dân tộc, sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Từ những năm đầu của thế kỷ XX, lúc còn trẻ, sớm giác ngộ cách mạng, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước của giai cấp công nhân và nhân dân ta chống đế quốc phong kiến và đứng vào hàng ngũ những chiến sĩ tiên phong.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp.
Chủ tịch đã tham gia cuộc nổi dậy phản chiến của Hải quân Pháp ở Biển Đen, là người Việt Nam kéo lá cờ đỏ trên một chiến hạm của Pháp để chào mừng Nhà nước của giai cấp vô sản, chống lại sự can thiệp vũ trang của đế quốc, ủng hộ nước Nga Xôviết, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, nêu cao tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người đã đem về Việt Nam mối tình sâu sắc của nhân dân ta đối với đất nước của Cách mạng Tháng Mười Nga, với giai cấp công nhân Pháp, là người thành lập Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân nước ta. Chủ tịch Tôn Đức Thắng bị bọn đế quốc bắt giam giữa lúc đang hoạt động sôi nổi trong hàng ngũ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Gần 17 năm bị đọa đày khắc nghiệt trong các nhà giam và ngục tù Côn Đảo, Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nêu cao tinh thần cách mạng kiên cường, hiên ngang, bất khuất, luôn vui vẻ, tin tưởng vững chắc vào tương lai tươi sáng của dân tộc và giai cấp công nhân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, từ Côn Đảo trở về, vừa bước chân lên đất liền, Chủ tịch Tôn Đức Thắng tham gia ngay vào các hoạt động kháng chiến, kiến quốc, góp phần quan trọng cùng với Bác Hồ, Trung ương Đảng Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận lãnh đạo toàn Đang, toàn dân, toàn quân xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đưa hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bất kỳ ở cương vị công tác nào, mặc dù tuổi cao, Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nỗ lực phấn đấu quên mình hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng là hình ảnh tiêu biểu cho chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt đời hoạt động của mình, Bác Tôn hết lòng chăm lo đoàn kết đồng chí, đoàn kết đồng bào, đoàn kết cả nước trong cuộc chiến đấu chung vì độc lập thống nhất Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Bác Tôn cũng là chiến sĩ quốc tế luôn chăm lo góp phần vun đắp và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với nhân dân tiến bộ trên thế giới, với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Cống hiến lớn lao của Chủ tịch Tôn Đức Thắng cho nền độc lập dân tộc và hòa bình thế giới đã được nhân dân thế giới khâm phục và kính mến. Chủ tịch Tôn Đức Thắng là người Việt Nam đầu tiên được Giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin, xứng đáng là chiến sĩ xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới.
Cùng với lòng trung thành, tận tụy, lập trường vững vàng, tinh thần dũng cảm bất khuất, ở Bác Tôn còn nổi bật lên đức tính khiêm tốn, giản dị. Những đồng chí đã cùng hoạt động với Bác thời kỳ bí mật cũng như cùng làm việc với Bác những năm sau này khi Bác là Chủ tịch nước, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội hay Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều thấy ở Bác một đức tính, một phong cách không hề thay đổi. Đó là đức tính, phong cách công nhân, khiêm tốn, giản dị, chân thành, hòa mình trong quần chúng.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng luôn nêu cao tính tổ chức, tính nguyên tắc, việc lớn việc nhỏ, nhất thiết tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể. Bác thường nhắc nhở sức mạnh của Đảng là ở tổ chức, toàn Đảng chỉ có một ý chí, một sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối chính trị và những nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Là chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng quốc tế, đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng kính mến đã nêu tấm gương suốt đời vì nước vì dân, trung thành, tận tụy, phấn đấu hy sinh, là một mẫu mực về đại đoàn kết dân tộc, về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, khiêm tốn, giản dị, mãi mãi các thế hệ ngày nay và mai sau học tập noi theo.
KỶ NIỆM VỀ BÁC TÔN
LÊ VĂN LƯƠNG11
Tôi bị đày ra Côn Đảo khoảng đầu năm 1934. Là tù khổ sai nên tôi bị đưa về Banh, nơi Bác Tôn đã bị giam ở đó. Lúc ấy Bác vừa ra khỏi Hầm xay lúa.
Hầm xay lúa được bọn cai ngục gọi là "khu trừng giới". Ở đây, chúng tận dụng sức lao động của người tù, song chủ yếu là nhằm đày ải, hành hạ họ cho đến chết.
Chỉ huy công việc ở đây là một tên cặp rằng do bọn xếp Banh chỉ định từ những tù lưu manh sừng sỏ.
Suốt ngày, những người tù lao động hết sức nặng nhọc trong điều kiện làm việc tồi tệ lại thường bị đánh đập tàn nhẫn. Do vậy, họ càng trở nên hung bạo, có khi chống trả lại tới mức giết cả cặp rằng.
Biết rõ Bác Tôn thuộc loại tù nguy hiểm, bọn cai ngục muốn mượn tay bọn lưu manh để thủ tiêu Bác bằng cách cử Bác thay tên cặp rằng vừa mới bị giết.
Hiểu rõ âm mưu thâm độc của địch, Bác Tôn chấp nhận cuộc đọ trí với chúng. Bác đã bàn với một số đảng viên cùng bị giam ở Hầm xay lúa nhân dịp này cải tạo chế độ làm việc ở đây. Trước hết là tổ chức cho tất cả mọi người đều tham gia lao động, và làm theo khả năng của mình. Những tù thường lần đầu thấy viên cặp rằng cũng lao động như mọi người, thậm chí nhận cả việc nặng, không đánh đập, chửi mắng, tước đoạt, mà lại ôn hòa giảng giải, khuyên bảo như bạn bè. Nếu trước kia những con người này luôn bị đói ăn trong khi thóc gạo chất đống bên cạnh thì bây giờ Bác Tôn đã tổ chức việc nấu ăn thêm cho anh em.
Công việc tuy được sắp xếp lại như vậy nhưng điều thú vị là năng suất thóc xay không hề tăng lên, lại giảm đi mà bọn cai ngục không làm gì nổi. Có thể nói kinh nghiệm lãnh đạo công nhân "lãn công" từ trước một lần nữa lại được Bác sử dụng.
Những người tù ở Hầm xay lúa từng bước được giáo dục, cảm hóa. Bác Tôn giáo dục lòng yêu nước cho họ và tổ chức việc chăm sóc nhau khi ốm đau. Tình người đã phần nào thay cho sự hận thù, xung đột, chia rẽ. Có người được giác ngộ sau này đã tham gia kháng chiến…
Bác Tôn ít nói nhưng đã nói là làm khiến ngay cả tù lưu manh cũng hết sức kiêng nể. Đối với những người tù chính trị, Bác Tôn được biết đến như một người thợ máy giỏi, người cộng sản gắn liền với những phong trào đấu tranh của công nhân. Đối với tù thường, Bác Tôn nổi tiếng từ khi Bác làm thay đổi tình hình ở Hầm xay lúa.
Trước đây tôi đọc sách thấy nói "vô sản lưu manh" là những người ngoài vòng pháp luật, ngoài lề xã hội, khó cải tạo được do đó cũng khó giáo dục cách mạng. Qua kết quả cuộc đấu tranh của Bác Tôn và những người cộng sản ở Hầm xay lúa, tôi hiểu thêm rằng, ngay cả những kẻ đã bị tha hóa nặng nề vẫn còn lại một phần nhân tính. Nếu có phương pháp đúng để giáo dục, cảm hóa họ, vẫn có thể giúp một số người phục thiện, trở thành người có ích. Ở Côn Đảo, những người tù cộng sản đã thành công ở một chừng mực nhất định trong việc này, mà thành công của Bác Tôn là một thí dụ.
Nói về Bác Tôn là nói về một người cách mạng, một con người của giai cấp công nhân Việt Nam. Ngày còn trẻ, Bác là một công nhân giỏi, đã từng làm thợ máy trong hạm đội Hải quân Pháp. Sau khi rời Pháp về Sài Gòn, Bác vẫn nổi tiếng về tay nghề vững vàng, đó cũng là một trong những lý do khiến Bác Tôn nhanh chóng có uy tín trong công nhân ở Sài Gòn. Trong thời gian bị tù ở Côn Đảo, chính nhờ có tay nghề giỏi, Bác đã có lần sửa được máy móc ở Nhà đèn bị hỏng nặng mà bọn Pháp ở đảo tưởng phải đưa kỹ sư và vật liệu từ Pháp sang mới sửa được.
Cách sống của Bác Tôn là cách sống của một người Công nhân: Giản dị, cần cù. Ngay cả khi ở những cương vị công tác cao, Bác cũng không hề có chút gì cầu kỳ trong sinh hoạt. Với anh em trong cơ quan cũng như với nhân dân, Bác sống chan hòa, gần gũi thân mật như người trong gia đình. Trong những giờ nghỉ trưa, Bác sẵn sàng giúp anh em trong cơ quan chữa chiếc xe đạp hoặc chiếc bàn, ghế hỏng. Bác có một bộ đồ nghề chữa xe và rất hay dùng đến. Biết tính Bác và nể Bác tuổi cao, về sau khi xe hỏng anh em thường giấu Bác, đem đi chỗ khác chữa để Bác khỏi bận tâm.
Trong gia đình, Bác rất thương yêu nhưng cũng rất nghiêm khắc, không cho phép con cháu dựa vào danh nghĩa của Bác. Bác không đòi hỏi gì và cũng không chấp nhận một đặc quyền, đặc lợi nào, dù rất nhỏ, cho bản thân và gia đình. Bác sống bình dị như những người dân lao động. Từ tác phong đến lời ăn tiếng nói ở Bác đều giản dị, chân chất. Không bao giờ Bác dùng những lời lẽ màu mè. Từ khi quen biết Bác trong tù, tôi đã thấy Bác như vậy. Sau này, khi làm đến Chủ tịch nước, Bác vẫn như vậy.
Bác Tôn là người đã từng sống ở nước ngoài, đi nhiều nơi và giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Bác hiểu biết nhiều, đóng góp cho Đảng, cho dân rất nhiều song rất khiêm tốn. Hầu như không bao giờ Bác nói về công lao của mình. Sống và hoạt động cùng với Bác bao nhiêu năm mà mãi đến sau này, nghe anh em nói, tôi mới biết Bác chính là người thủy thủ đã kéo lá cờ đỏ đầu tiên trên chiến hạm của Pháp để ủng hộ Cách mạng dù ở cương vị nào. Bác cũng thường nói ít, phát biểu ngắn gọn, đi vào công việc cụ thể, thiết thực, không lý luận dài dòng, song lại thể hiện được những điều cốt lõi trong quan điểm, đường lối của Đảng. Mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều được Bác giải quyết một cách điềm tĩnh nhẹ nhàng và chắc chắn. Sự giác ngộ cách mạng ở Bác như thể đã đi vào máu thịt, tự nhiên, thoải mái mà thấm thía, sâu sắc; mộc mạc, đơn sơ mà kiên định, vững vàng, không gì lay chuyển được.
Với dáng vẻ bề ngoài rất bình thường, con người Bác chứa đựng một trí tuệ và khả năng tiềm tàng về tổ chức quần chúng. Ở môi trường nào, dù là giữa anh em thợ thuyền hay giữa vòng kìm kẹp của địch trong nhà tù Côn Đảo, Bác vẫn luôn luôn có ý thức tổ chức quần chúng để đấu tranh. Và, ở đâu Bác cũng tìm cách thực hiện được việc tổ chức quần chúng. Bác làm được như vậy chính là nhờ sức cảm hóa, thuyết phục bằng chính tài năng, đức độ của Bác đã khiến cho mọi người đặt niềm tin ở Bác. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Bác Hồ giao cho Bác Tôn công tác mặt trận đoàn kết dân tộc là rất phù hợp. Bác có khả năng vận động các nhân sĩ và rất được tín nhiệm bởi thái độ chân thành của Bác. Bác được tất cả các tầng lớp nhân dân yêu quý.
Đối với Bác Hồ, Bác Tôn rất kính trọng và gắn bó ở hai Bác có nhiều điểm tương đồng, một trong những điểm đó là: Hai Bác đều hết sức chú trọng đến đoàn kết dân tộc, đặc biệt là đoàn kết Bắc - Nam Và chính hai Bác là hiện thân của tình đoàn kết cao cả ấy …
Được biết Bác Tôn từ những ngày tù Côn Đảo, nhiều năm sau Cách mạng Tháng Tám đến khi Bác qua đời, có nhiều quãng thời gian được sống và làm việc gần Bác, tôi rất kính trọng Bác. Ở Bác, tôi luôn thấy hình ảnh của một người chiến sĩ cộng sản kiên cường, một người dùng trong hàng ngũ tiên phong, lãnh đạo ngay từ những ngày đầu, khi xu hướng cách mạng vô sản mới xuất hiện ở nước ta. Ở nhiều cương vị công tác quan trọng của Đảng và Nhà nước, Bác đã tỏ rõ và phát huy được tài năng tổ chức sáng tạo của một nhà cách mạng dày dặn kinh nghiệm.
Song điều để lại ấn tượng sâu sắc nhất ở Bác Tôn vẫn là phẩm chất đạo đức của Bác. Khi nói đến phẩm chất đạo đức của người cách mạng hay của con người nói chung, thì những tấm gương, những mẫu mực đầu tiên mà tôi hay nghĩ tới là Bác Hồ và Bác Tôn. Tôi cảm thấy Bác Tôn có một cái gì đó thật lớn lao mà cũng thật bình dị, cái lớn lao toát lên từ cái bình dị.
NGƯỜI BẠN CHIẾN ĐẤU THÂN THIẾT CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VĨ ĐẠI, VỊ CHỦ TỊCH LÂU NĂM NHẤT CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
PHẠM THẾ DUYỆT12
Tôi không có may mắn như nhiều đồng chí khác là được sống và làm việc gần Bác Tôn. Là lớp hậu sinh, tôi chỉ được nhìn thấy Bác Tôn cùng Bác Hồ trên Lễ đài Quảng trường Ba Đình trong các ngày lễ lớn và lần đầu tiên vinh dự gặp Bác tại Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ IV năm 1978.
Song với nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó: Làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam và hiện nay là Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi có điều kiện thuận lợi và dành nhiều thời gian tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác - người lãnh tụ của mình trong công tác Dân vận - Mặt trận của Đảng.
Bác Tôn sinh ngày 20-8-1888 trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước tại Cù lao ông Hổ, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên, nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Vào thời điểm đó, thực dân Pháp đã mở rộng cuộc xâm lược ra toàn cõi Việt Nam và cũng là thời điểm mà phong trào yêu nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ ở khắp ba kỳ nhằm chống lại cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Tình hình đó đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của người thanh niên Tôn Đức Thắng. Ngay khi còn là học sinh của Trường Bá Nghệ Sài Gòn, ngoài việc học giỏi nhất trườngl3, Bác Tôn còn là "người chỉ huy" nhiều cuộc bãi khóa để phản đối sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với phong trào nông dân ở nhiều nơi.
Năm 1925 Bác Tôn đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son thắng lợi, ghi một dấu ấn đậm nét đầu tiên trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Làm thủy thủ trên các tàu viễn dương, được đi nhiều nước, ở nhiều nơi, được tiếp xúc với nhiều lớp người có màu da và tiếng nói khác nhau, cũng như Bác Hồ, Bác Tôn nhận thức ra một điều là: ở đâu, người lao động cũng là người cùng khổ, bị bóc lột, đàn áp đến thậm tệ. Tinh thần yêu nước nồng cháy trong Bác được nâng lên thành tình yêu giai cấp, tình đoàn kết quốc tế thiết tha. Sự kiện người thanh niên Việt Nam Tôn Đức Thắng tham gia cuộc binh biến của Hải quân Pháp ở Biển Đen năm 1919 để ủng hộ và bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga là một minh chứng cụ thể về tình đoàn kết quốc tế cao cả. Nó đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử phát triển và củng cố mối quan hệ hợp tác và hữu nghị Việt - Xô.
Do tham gia cuộc binh biến lịch sử đó Bác buộc phải rời Pháp trở về nước. Bác Tôn thành lập tổ chức Công hội nhằm tập hợp, đoàn kết, bảo vệ quyền lợi giai cấp công nhân, làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống áp bức, bóc lột của bọn đế quốc và bè lũ tay sai.
Năm 1927 Bác Tôn tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến tư tưởng có tính chất quyết định từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, để từ đó tạo điều kiện cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân Sài Gòn do Bác Tôn tổ chức và lãnh đạo, nhanh chóng nâng cao trình độ tổ chức, trình độ tự giác của giai cấp công nhân, thúc đẩy cuộc đấu tranh ngày càng phát triển. Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam đã khẳng định: Các tổ chức Công hội mà Bác Tôn là người sáng lập là những tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam có vai trò quan trọng trong lịch sử phong trào công nhân Việt Nam vào những năm đầu cách mạng vô sản ở nước ta.
Đọc cuốn Sơ lược lịch sử Côn Đảo do Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo ấn hành cho thấy Bác Tôn là một trong những đảng viên cộng sản lớp đầu tiên bị giam cầm ở đây lâu nhất.
Ròng rã 17 năm trời bị đọa đày trong các nhà giam và địa ngục Côn Đảo với bao cực hình vô cùng dã man của bọn thực dân, đế quốc không lay chuyển nổi ý chí kiên trung bất khuất của Bác. Ngược lại càng làm cho khí phách của người cộng sản lớp tiền bối lan tỏa và nêu gương cho các thế hệ kế tiếp, cho mọi người dân yêu nước noi theo. Cũng chính tại nơi đây Bác đã tham gia thành lập chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Côn Đảo và tích cực tham gia đấu tranh chống chế độ lao tù hà khắc của thực dân Pháp.
Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, theo sự chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Hành chính Nam Bộ cử đoàn ra đón Bác Tôn cùng các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng trở về đất liền. Và tại Hội nghị cán bộ Đoàn xứ Nam Kỳ họp ngày 15-10-1945 Bác Tôn và các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng… được bầu vào Xứ ủy. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương đón Bác Tôn ra Hà Nội. Từ đó, Bác Tôn và Bác Hồ luôn luôn sát cánh bên nhau - một hình ảnh tiêu biểu cho đoàn kết Bắc - Nam, để cùng Trung ương Đảng, Chính phủ lo việc nước. Với uy tín lớn lao trong Đảng, trong nhân dân và phẩm chất cách mạng, đạo đức trong sáng, Bác Tôn đã được giao nhiều trọng trách: Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác lần lượt đảm nhận các chức vụ: Tổng Thanh tra Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch ủy ban Liên Việt toàn quốc (từ ngày 7-3-1951 đến ngày 10-9-1955), Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên Xô liên tục là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa II đến lúc Bác ra đi.
Hai mươi năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng là 20 năm Bác Tôn liên tục được đại diện các tầng lớp nhân dân suy tôn làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (từ ngày 10-9-1955 đến tháng 2-1977) và Chủ tịch danh dự Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho đến ngày Bác qua đời. Cũng trong thời gian đó, Bác còn đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới. Ngày 15-7-1960 Bác được nhân dân ta bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tháng 9-1969, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Bác Tôn được Quốc hội bầu làm Chủ tịch nước đồng thời kiêm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để cùng các đồng chí lãnh đạo khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận lãnh đạo, động viên nhân dân ta kiên cường chiến đấu, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng, thống nhất nước nhà.
Hơn nửa thế kỷ hoạt động cách mạng đầy gian lao và nguy hiểm, trong đó có l7 năm ròng bị đày đọa trong các nhà giam và ngục tù Côn Đảo của thực dân Pháp với đủ mọi cực hình, 27 năm liên tục làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 10 năm làm Chủ tịch nước, Bác Tôn đã đề lại cho Đảng ta, Nhà nước ta nhiều bài học sâu sắc, cho nhân dân ta một tấm gương sáng về chuẩn mực sống của một công dân yêu nước.
Còn sáng mãi trong nhân dân ta hình ảnh một vị Chủ tịch nước cao tuổi về thăm quê với bộ quần áo bạc màu, với yêu cầu hết sức hạn chế xe đưa, người đón vì "sợ hao phí tiền của và công sức của Nhà nước và nhân dân".
Với cương vị là người lãnh đạo của Đảng, người đứng đầu Nhà nước, Công đoàn và Mặt trận, Bác Tôn và Bác Hồ là hình ảnh của khối đại đoàn kết toàn dân, nét nổi bật ở Bác Tôn mà mọi người dễ nhận thấy là đức tính khiêm nhường và lối sống giản dị. Chính phẩm chất cao quý ấy cùng với lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc và ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất trước kẻ thù của dân tộc đã in đậm trong trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước sự ngưỡng mộ và kính phục.
Kỷ niệm ngày sinh lần thứ 115 của Bác Tôn đến giữa lúc toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được cụ thể hóa bằng các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó nghị quyết có tầm quan trọng sống còn đối với vận mệnh của dân tộc ta lúc này là Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Phần II) nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ vàn minh".
Để kỷ niệm ngày sinh của Bác Tôn một cách thiết thực nhất, mỗi người chúng ta hãy học tập đạo đức cách mạng, cách sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Bác, noi gương Bác tận tụy với công việc được Đảng và nhân dân giao phó, đóng góp hết sức mình cho công cuộc đổi mới, làm cho rừng cây đoàn kết mà Bác đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời vun đắp không ngừng nở hoa, kết trái để hoài bão "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" của Bác Hồ, Bác Tôn của toàn Đảng và của mỗi người chúng ta sớm thành hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của mình.
VỊ CHỦ TỊCH ĐẦU TIÊN CỦA MẶT TRẬN LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM - NHÀ CÁCH MẠNG LÃO THÀNH, KIÊN TRUNG BẤT KHUẤT, TẤM GƯƠNG TRONG SÁNG TIÊU BIỂU CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN YÊU NƯỚC CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC Ở THẾ KỶ XX
VŨ OANH14
Bác Tôn sinh ngày 20-8-1888, quê ở xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Năm 18 tuổi lên Sài Gòn học nghề ở Trường Bá Nghệ (tức Trường Kỹ Nghệ) sau đó trở thành công nhân cơ khí. Năm 1913, Bác sang Pháp15 làm công nhân ở tỉnh Toulon.
Thời gian từ năm 1913 đến năm 1919 thế giới đã diễn ra những biến cố trọng đại như: Cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công năm 1917, nước Nga Xôviết ra đời và thế giới vừa trải qua cuộc Chiến tranh thứ nhất giữa các đế quốc ở châu Âu. Bác Tôn lúc đó với cương vị người thủy thủ trên Biển Đen đã tham gia vào phong trào ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga nên đã bị đế quốc Pháp trục xuất khỏi đất Pháp Trở về nước, Bác làm công nhân ở Sài Gòn đã tích cực tham gia vào công cuộc lập "Công hội bí mật" ở Xưởng đóng tàu Ba Son - Sài Gòn.
Năm 1927, Bác đã có mặt trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, một tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam kỳ. Vào năm 1929, nhân vụ án ở đường Barbier16. Bác bị đế quốc Pháp bắt và kết án 20 năm tù khổ sai và bị lưu đày ra Côn Đảo.
Đến tháng 8-1945, sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Bác Tôn mới được Đảng, nhân dân Nam Bộ đón về đất liền để tham gia vào sự nghiệp phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng trường kỳ 30 năm bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bác thuộc thế hệ chiến sĩ cộng sản đầu tiên từ trước khi Đảng ta thành lập, đã đối mặt với kẻ thù chịu mọi cực hình tra tấn, giữ vững được khí tiết cách mạng kiên trung ở nhà tù Côn Đảo, một địa ngục trần gian. Bác Tôn đã cùng với một số đồng chí lớp đảng viên tiền bối của Đảng như Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, v.v. biến ngục tù của đế quốc thực dân thành trường học cách mạng của những người cộng sản.
Thân thế và sự nghiệp của Bác gắn liền với công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng và dân tộc (từ năm 1930 đến năm 1945), nên ngay sau khi về tới đất liền, Bác đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng giao nhiều trọng trách, Bác đã có mặt trong Đoàn đại biểu Quốc hội sang thăm nước Pháp hồi tháng 4-1946.
Khi Đảng ra công khai năm 1951, Bác đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, giữ trọng trách Chủ tịch Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam tức Mặt trận Liên Việt, tiền thân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay. Bác đã lãnh đạo Mặt trận giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó "đánh thắng bọn đế quốc xâm lược và mọi thế lực phản động của thời đại" để hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Bác là người bạn, người đồng chí, người cộng sự gần gũi nhất của Bác Hồ vĩ đại hết lòng chăm lo sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân nên Bác cũng là nhà cách mạng lão thành đầu tiên đã được toàn Đảng toàn dân tín nhiệm bầu vào cương vị Phó Chủ tịch nước, và Chủ tịch nước khi Bác Hồ qua đời.
Bác là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân, người con trung dũng của Thành đồng Tổ quốc. Bác đã thay mặt Bác Hồ trở về miền Nam gặp đồng bào Nam Bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữa cuộc Đại thắng mùa Xuân lịch sử ngày 30-4-1975, hoàn thành trọn vẹn cuộc đấu tranh trường kỳ giữ nước 30 năm, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Bác là Chủ tịch nước từ tháng 9-1969 đến ngày 30-3-1980.
Bác Tôn đi vào cõi vĩnh hằng với lòng tiếc thương vô hạn của toàn Đảng, toàn dân, của phong trào cộng sản và công nhân thế giới cũng như bạn bè khắp năm châu, cả thế giới, cũng như trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, nhất là Liên bang Xôviết đều biết và tự hào về đồng chí Tôn Đức Thắng của Việt Nam mà Cuộc đời và sự nghiệp đã cống hiến trọn vẹn cho quyền lợi của nhân dân sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức, cho tiến bộ xã hội và quyền sống của con người.
Chính Bác Tôn đã thay mặt dân tộc Việt Nam, thay mặt những người cộng sản Việt Nam kéo cờ trên chiến hạm ở Biển Đen để ủng hộ cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, một sự kiện trọng đại ở thế kỷ XX.
Đến hôm nay, tôi xin kính cẩn viết mấy dòng trên đây trên cương vị người chiến sĩ cộng sản đang tiếp nối sự nghiệp của cha anh để tưởng nhớ Bác Tôn và nguyện noi gương Bác Tôn thường xuyên nâng cao chí khí phấn đấu, tham gia hết mình vào công cuộc lãnh đạo đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phồn vinh.
BÁC TÔN, THẦN TƯỢNG THỜI NIÊN THIẾU CÁCH MẠNG CỦA TÔI
MAI CHÍ THỌ17
Tôi tham gia cách mạng năm 1936, khi tôi 14 tuổi. Hoàn cảnh gia đình và xã hội lúc đó hướng cho tôi theo con đường cách mạng giải phóng dân tộc thực hiện công bằng xã hội. Đối với tôi, đây là con đường định mệnh, không thể nào khác được.
Năm 1928, tôi mồ côi cha lúc 6 tuổi, năm 1929, một trận bão lụt khủng khiếp tàn phá đồng bằng Bắc Bộ quê hương tôi làm sập đổ 99% nhà cửa, cuốn trôi sạch mùa màng, cây trái. Năm 1930, cuộc tổng khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản lại tiếp tục giáng một đòn chí mạng vào nền kinh tế ọp ẹp của nước ta. Nỗi thống khổ đến cùng cực trong đời sống dân tộc nỗi nhục nhã, ê chề của người dân mất nước đã đến mức hết chịu nổi. Đình công, bãi khóa, biểu tình mít tinh, bạo động, khởi nghĩa chống áp bức, bóc lột, đòi dân sinh dân chủ, độc lập dân tộc diễn ra khắp nơi. Đế quốc Pháp đã đàn áp dã man phong trào cách mạng của quần chúng. Ba người anh ruột của tôi cũng bị bắt bỏ tù về tội làm cộng sản trong thời gian này. Đế quốc Pháp càng bắt bớ tù đày, bắn giết thì những gương anh hùng cách mạng càng tỏa sáng trong nhân dân. Những anh hùng đó càng trở nên những thần tượng cách mạng được lớp thanh thiếu niên chúng tôi ngưỡng mộ và quyết noi theo. Chính vì thế tôi thường tìm tòi, góp nhặt những tin tức, hình ảnh về những con người vô cùng đáng kính đó.
Bác Tôn là một thần tượng có những nét rất đặc biệt.
Năm 1919, thuở tôi chưa ra đời, Đảng cũng chưa thành lập Bác Tôn đã dũng cảm, hiên ngang kéo lá cờ đỏ búa liềm lên cột cờ của Chiến hạm France trong hạm đội Pháp, khi chúng tiến vào cảng Xêvaxtôpôn của nước Nga ở Biển Đen, để phản đối sự can thiệp, ủng hộ chính quyền Xôviết non trẻ mới được thành lập. Phong trào phản chiến của Hải quân Pháp, trong đó, Bác Tôn là một tấm gương sáng chói đã làm cho đế quốc Pháp hoảng sợ. Chúng sợ sự lây lan của tư tưởng cộng sản trong hải quân và quân đội Pháp nên đã hạ lệnh cho hạm đội viễn chinh rút lui ngay về Pháp. Ở Pháp cũng như ở Việt Nam, trong hàng ngũ cách mạng, người ta tôn vinh Bác là người anh hùng Biển Đen (Le heros de la mer noire).
Hãy tưởng tượng, trên pháo hạm toàn là sĩ quan, binh lính Pháp, một hạ sĩ quan nhỏ bé, dân thuộc địa, da vàng, mắt đen bất chấp mọi hiểm nguy dũng cảm, hiên ngang kéo lá cờ đỏ lên cột cờ của pháo hạm ủng hộ chính quyền Xôviết chống lại sự can thiệp của đế quốc Pháp. Quả thật đây chẳng những là sự kiện anh hùng, đột phá trong lịch sử cách mạng Việt Nam mà còn là sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử cách mạng Pháp.
Hành động tuyệt vời của Bác Tôn ở Biển Đen năm ấy như tia chớp bừng sáng như tiếng sét gầm vang giữa đêm đen nô lệ, báo hiệu giông tố cách mạng Việt Nam. Chỉ có người Việt Nam nô lệ, yêu nước, khát khao tự do, độc lập đến cháy bỏng mới cảm nhận được hành động anh hùng của Bác Tôn đến thế, cũng chỉ có họ, trong thời điểm lịch sử đen tối đó, mới cảm nhận hết được sự xúc động và niềm tự hào đến tột cùng của mình về hành động cao đẹp của Bác Tôn.
Năm 1920, Bác Tôn cũng là người sáng lập Công hội đỏ, tổ chức Công đoàn đầu tiên ở nước ta.
Hồi thiếu thời Bác là học sinh giỏi nổi tiếng ở Trường Bá Nghệ Sài Gòn. Không chỉ có thế, Bác còn nổi tiếng về tình thương yêu, đoàn kết với bạn bè học sinh. Lúc đó, trong Trường Bá Nghệ có một số học sinh du côn, anh chị xưng hùng xưng bá, hà hiếp bạn bè, nhưng khi ra phố, đụng độ với bọn anh chị bên ngoài, bị chúng đánh sứt đầu, mẻ trán, mang đầu máu tháo chạy về trường, Bác Tôn liền tập hợp bạn bè phản kích, đánh đuổi bọn anh chị bên ngoài, buộc bọn này rút chạy. Sau đó, Bác liền tập hợp học sinh, trong đó có một số học sinh anh chị nói trên, khuyên nhủ họ nên thương yêu bạn bè, giúp đỡ lẫn nhau, không nên ỷ mạnh hiếp yếu.
Thế là từ đó không còn “nạn anh chị” trong trường nữa.
Có thời gian Bác đã mở garage sửa chữa và bảo trì xe hơi. Do tay nghề giỏi, lương tâm nghề nghiệp cao, không mấy chốc cơ sở làm ăn của Bác rất nổi tiếng ở Sài Gòn. Những người có máu mặt, bọn Pháp tai to, mặt lớn, trước khi đi nghỉ mát trong những ngày chủ nhật, ngày lễ, đều cho đưa xe hơi đến garage của Bác để kiểm tra; khi về, xe có vấn đề, lại đưa đến đó để bảo dưỡng. Có khi Bác chỉ quan sát, lắng nghe tiếng xe chạy là đã biết xe có vấn đề.
Bác là cán bộ kỹ thuật giỏi, có kinh nghiệm về máy nổ, kể cả máy thủy. Chính vì thế, Hải quân Pháp tuyển Bác vào làm hạ sĩ quan. Lúc đó, người Việt làm hạ sĩ quan Hải quân Pháp là chuyện chưa từng có. Một chức vị nhỏ như thế cũng chỉ có thể do người Pháp đảm nhận mà thôi.
Trong hàng ngũ Hải quân Pháp, Bác thương yêu và bao dung binh sĩ dưới quyền nên họ rất vị nể Bác.
Khi Bác bị bắt và bị đày ra Côn Đảo, một viên cai ngục người Pháp, khi điểm số tù nhân, nhận ra Bác trong hàng ngũ tù nhân liền đến trước mặt Bác, hai gót giày đập mạnh vào nhau nghe “bốp” một tiếng, đứng nghiêm giơ tay chào theo kiểu nhà binh, rất nghiêm túc. Chuyện xảy ra làm mọi người hết sức ngạc nhiên, từ tù nhân đến bọn cai ngục. Vỡ lẽ ra mới biết anh ta vốn là binh sĩ Hải quân Pháp trước đây thuộc quyền chỉ huy của Bác. Viên cai ngục này có hai anh em, anh là Albert Lentali, em là Charles Lentali. Hai người này, sau đó phụ trách Sở Lưới tức là cơ sở đánh cá ở Côn Đảo. Bọn họ liền vận động đưa Bác Tôn ra Sở Lưới để tỏ vẻ hàm ơn đối với Bác. Chúng mời cơm Bác nhưng không bao giờ Bác nhận lời. Chỉ khi nào chúng mang biếu Bác món gì, bất đắc dĩ lắm thỉnh thoảng Bác mới nhận một vài món để khỏi mất lòng. Bác được giao chăm sóc bảo dưỡng chiếc cùng duy nhất của Côn Đảo, một vị trí ngồi chơi xơi nước, rất an nhàn. Có hôm, nghe tin bọn cai ngục mang cùng đi rượt bắt tù vốn, bác liền làm hỏng hóc máy, cũng không chạy được. Bác bị bọn Chúa đảo nhốt vào xà lim. Sau ít lâu, hai anh em Albert Lentali và Charles Lentali lại tìm cách bảo lãnh Bác về Sở Lưới.
Mang tiếng ở tù chung với Bác, biết một số chuyện về Bác, nhưng đều do "mê" Bác mà sưu tầm, tích lũy, chứ thực ra mãi sau năm 1975 tôi mới có dịp đến thăm và gặp Bác mấy lần ở Hà Nội.
Ở Côn Đảo, Bác ở Sở Lưới, tôi ở cấm cố, chúng tôi bị ngăn cách nghiêm ngặt. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Bác lái chiếc xe cũng do chính Bác bảo dưỡng cùng với anh Phạm Hùng, hai anh em Nguyễn Hùng Minh, Nguyễn Hùng Phước, dân thợ máy về đất liền, tôi thì về trên tàu Phú Quốc.
Về đất liền được ít lâu, Bác được điều ra Trung ương công tác ở miền Bắc, tôi ở lại miền Nam hết kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm không gặp Bác.
Tuy nhiên, Bác là thần tượng của tôi từ thời niên thiếu nên hình ảnh Bác luôn gợi nhớ và sống mãi trong tôi.
Lý tưởng cộng sản là cao đẹp vì chính nó đã tạo dựng nên biết bao thần tượng có sức cuốn hút và say mê lòng người. Bác Tôn là như thế đấy.
BÁC TÔN TRONG LÒNG ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN MINH TRIẾT18
Trong khi viết bài tổng kết cuộc tranh luận về quyền tự quyết, V.I Lênin - người thầy cách mạng thiên tài của giai cấp vô sản - hướng sự chú ý đến vùng đất "An Nam thuộc Pháp" ở châu Á xa xôi, nơi đang xảy ra những biến cố chính trị đáng quan tâm. Hồi đó trên đất nước ta, những đợt sóng cuối cùng của phong trào Cần Vương đã lặn. Được nung nấu bởi nguồn nhiệt huyết tràn đầy, một số thanh niên mang chí cả tâm cao đã lặn lội đến Sài Gòn để thâm nhập vào giới cần lao, rồi tìm cách vượt qua sóng nước đại dương để bôn ba đi tìm đường cứu nước.
Nổi bật trong số đó là sự "song hành" của Nguyễn Tất Thành và Tôn Đức Thắng. Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành theo chiếc tàu buôn “Amiral Latouche Tréville” rời hải cảng Sài Gòn “để đi xem nước Pháp và cóc nước làm thế nào, rồi sẽ trở về giúp đồng bào". Năm sau - năm 1912, để tránh số truy nã của chính quyền thực dân, Tôn Đức Thắng làm thủy thủ trên tàu Lacoóc, sang Pháp với lòng mong mỏi học tập được thật nhiều để sau này về nước đấu tranh có hiệu quả hơn.
Từ giã mảnh đất cù lao nằm giữa dòng sông Hậu hiền hòa, Tôn Đức Thắng đến Sài Gòn để mưu sinh và bước chân lên vũ đài chính trị trong ánh rạng đông của cuộc đời, lúc vừa tròn 18 tuổi xuân. Trong khi một số khá đông các chàng trai thoát ly mái ấm gia đình phong lưu thuở ấy, tới Sài Gòn hầu như để tìm đường xuất dương du học. Còn Tôn Đức Thắng, đã xác định toàn tâm đứng trong đội ngũ thợ thuyền. Và từ ấy, gắn bó máu thịt cuộc đời mình với sứ mệnh lịch sử vẻ vang của giai cấp công nhân. Khi Tôn Đức Thắng đến Sài Gòn, tại vùng đất Nam Kỳ có khoảng 25.000 công nhân trong các sở công nghệ, đồn điền và thương mại. Cùng với vùng mỏ Hòn Gai và các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Sài Gòn - Chợ Lớn là nơi tập trung công nhân đông nhất trên đất nước ta.
Với tầm nhìn và bản lĩnh được hun đúc bằng tính năng động, trải qua chặng đường đầu sáu năm sang giữa lòng thành phố Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã khổ công tự rèn luyện mình theo phương châm giáo dục nghiêm khắc của tổ tiên: "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh". Trước khi chính thức ngồi dưới mái Trường Bá Nghệ Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã được tuyển tay nghề qua khá nhiều lĩnh vực: Làm công cho các garage và đềpô tư nhân, làm nghề tiện, nghề điện, nghề nguội, sửa máy xe hơi, sửa máy tàu thủy làm công cho Xưởng Krupp thuộc Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa Sài Gòn.
Kết quả của việc tích lũy kiến thức từ nguồn lao động công nghệ bách khoa cộng với ý thức cộng đồng sâu sắc, Tôn Đức Thắng đã sớm giành được thiện cảm và niềm tin của các bạn đồng nghiệp và đồng môn. Công lao lịch sử của Tôn Đức Thắng thuở đương thời, là đã thổi bùng lên luồng sinh khí mới vào đội ngũ cần lao, góp phần tạo ra bước chuyển mình quan trọng của giai cấp công nhân Việt Nam từ “đấu tranh tự phát" sang "đấu tranh tự giác".
Xuất phát từ sự khởi đầu tích cực tham gia vào việc lập ra các hội đoàn truyền thống với hình thức thấp trong giới thợ thuyền để tiến hành đấu tranh: Tổ chức ra các hội tương tế, ái hữu, đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, phạt vạ, v.v.. Tôn Đức Thắng đã hợp lực cùng một số hạt nhân nòng cốt tổ chức thành công cuộc đình công, bãi khóa đầu tiên ở Xưởng Ba Son và tại Trường Bá Nghệ Sài Gòn vào năm 1912. Ý nghĩa quan trọng của cuộc bãi công này, mấy mươi năm sau, đã được Bác Tôn kể lại trong những dòng tự truyện đầy cảm động. Bác viết: "Lúc cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn và thợ thuyền Ba Son thắng lợi cũng là lúc tôi cảm đang xuống tàu Pháp để trốn sự truy nã của địch. Từ đó bắt đầu cuộc đời trên mặt biển".
Khảo cứu lịch sử phát triển của phong trào công nhân quốc tế chúng ta thấy rõ: Đấu tranh tự phát của công nhân là hình thức phôi thai biểu hiện tính tự giác. Khi thợ thuyền cảm thấy không thể tiếp tục cam chịu cuộc sống nhục nhã dưới ách áp bức, họ bắt đầu liên kết bằng sự kháng cự tập thể đối với những kẻ bóc lột mình. Trong quá trình đấu tranh, một số công nhân ưu tú đứng trên tuyến đầu của đội ngũ tiên phong giác ngộ về chính trị bắt đầu xuất hiện và trở thành những nhà cách mạng. Ở nước ta, một trong những người công nhân tiêu biểu nhất trong đội quân tiên phong đó, chính là Tôn Đức Thắng.
Sau khi rời hải cảng Sài Gòn vào thập niên thứ hai của thể kỷ XX, chiếc tàu viễn dương Lacoóc và Chiến hạm France của Pháp đã đưa những cuộc hành trình lịch sử của Tôn Đức Thắng đến bến bờ mới lạ - nơi "Quan san muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh em". Và chính trên bước đường "quan san muôn dặm" đã giúp cho người công nhân thủy thủ trẻ tuổi Việt Nam nhập tâm sâu sắc khẩu hiệu chiến đấu vĩ đại của các nhà khai sáng chủ nghĩa xã hội khoa học: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.
Biểu hiện rực rỡ của hành động “đoàn kết lại" đó, là nhiệt tình và dũng khí của Tôn Đức Thắng trong buổi sáng mùa xuân năm 1919 trên mặt Biển Đen, khi quyết định tự tay kéo lá hồng kỳ thiêng liêng lên đỉnh cột cờ Chiến hạm France đang nã pháo vào hải cảng Xêvaxtôpôn mưu toan bóp chết nhà nước đầu tiên của giai cấp công nông trên thế giới vừa mới ra đời. Đi theo ánh lửa trái tim mình, Tôn Đức Thắng đã cùng đội quân binh biến căng khẩu hiệu quyết liệt phản chiến và say sưa hát vang bài Quốc tế ca hùng tráng "Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian..." để biểu thị sự ủng hộ mạnh mẽ cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, ủng hộ Lênin, ủng hộ chính quyền Xôviết. Thắng lợi của cuộc phản chiến trên hạm đội Pháp ở Biển Đen là sự tiếp sức rất có ý nghĩa cho đoàn quân kỵ mã thần kỳ của Nguyên soái Buđiônnưi đánh tan tác những đội quân phản loạn của Đênhikin trên chiến trường miền Nam nước Nga thuở ấy. V.I Lênin đánh giá cao ý nghĩa lịch sử của cuộc binh biến này. Người cho rằng, giai cấp tư sản quốc tế vừa giơ tay đánh chúng ta thì anh em thợ thuyền các nước đã giữ ngay cổ tay chúng lại. Tự hào và kiêu hãnh biết bao, trong đội ngũ các chiến sĩ quốc tế nhiệt thành “đã giữ ngay cổ tay” kẻ thù hung bạo của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, có Tôn Đức Thắng - người công nhân vĩ đại của thành phố Sài Gòn, của đất nước ta, người Việt Nam đầu tiên vinh dự được trao tặng Giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin (12-1955) và Huân chương Lênin cao quý (11-1967).
Trong những tháng năm sống xa Tổ quốc, xa đồng bào, Tôn Đức Thắng đã ra sức phấn đấu để "mong học hỏi được thật nhiều”. Cuộc sống cộng đồng gắn bó và mối quan hệ keo sơn với giai cấp công nhân tại một số trung tâm công nghiệp nổi tiếng của nước Pháp, với đội quân thủy thủ tiến bộ trên chiến hạm cũng như việc gia nhập vào tổ chức Công đoàn Pháp và tham gia hoạt động tích cực trong phong trào yêu nước của giới kiều bào ta ở Pháp... đã nâng cao kiến thức, mở rộng tầm nhìn và bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan của Tôn Đức Thắng. Điều quan trọng là, Người đã nhận thức được ý nghĩa quốc tế của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười. Ngay sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò và tác dụng của tổ chức công đoàn trong các lĩnh vực đấu tranh kinh tế và chính trị, sự liên kết tất yếu giữa phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp tại chính quốc với nhân dân bị áp bức ở các nước thuộc địa và phụ thuộc...
Đó là những hành trang quý giá mà Tôn Đức Thắng đã trang bị cho mình khi từ giã quê hương của các chiến sĩ Công xã Paris để trở về thành phố Sài Gòn lao vào cuộc đấu tranh sống mái với kẻ thù sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất im tiếng súng.
*
* *
Sau khi về nước, Tôn Đức Thắng đã tích cực tham gia đấu tranh cách mạng, gắn phong trào công nhân với phong trào yêu nước để thực hiện lời nguyện ước thiêng liêng khi bước chân xuống tàu xuất dương: "Sau này về nước đấu tranh có hiệu quả hơn". Trong 10 năm kề vai sát cánh với đội ngũ thợ thuyền, người thủy thủ kiên trung trên Biển Đen năm nào đã kéo lá cờ đỏ thắm lên Chiến hạm France để ủng hộ cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, giờ đây lại lãnh đạo thợ thuyền Xưởng Ba Son quyết tâm trì hoãn việc sửa chữa chiếc tàu chiến Michelet mà bọn thực dân Pháp gấp rút đưa sang Trung Hoa đại lục để dập tắt ngọn lửa đấu tranh của nhân dân Trung Quốc đang bùng cháy, và tự tay treo lá cờ đỏ búa liềm thiêng liêng lên nóc đình Bình Đông của thành phố Sài Gòn để chào mừng ngày khai sinh ra chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân.
Tôn Đức Thắng đã đồng thời hoàn thành xuất sắc hai nhiệm vụ lịch sử cao cả - vừa là nhà tuyên truyền cổ động nhiệt thành, vừa là nhà tổ chức năng động. Là nhà tuyên truyền cổ động nhiệt thành, thông qua nguồn ấn phẩm cách mạng quý giá trên đất Pháp và tài liệu sách báo của Nguyễn Ái Quốc từ thành phố Quảng Châu (Trung Quốc) theo con đường biển vào bến cảng Sài Gòn, Tôn Đức Thắng đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá học thuyết Mác - Lênin ở Việt Nam. Là nhà tổ chức năng động, Tôn Đức Thắng đã sáng lập ra "Công hội đỏ" sớm nhất trên đất nước ta, là người góp sức đắc lực vào việc xây dựng hệ thống tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản ở vùng đất Nam Bộ. Tôn Đức Thắng còn là người lãnh đạo và tổ chức thắng lợi cuộc bãi công đầu tiên có quy mô rộng lớn của hàng nghìn công nhân Xưởng Ba Son, được sự ủng hộ mạnh mẽ của đội ngũ thợ thuyền và quần chúng lao động tại thành phố Sài Gòn vào mùa thu năm 1925.
Một điều hết sức lý thú là, tuy tích cực tham gia hoạt động công đoàn ở Pháp, nơi tổ chức công đoàn xuất hiện rất sớm trên thế giới (sau nước Anh) - từ cuối thế kỷ XVIII, song tổ chức "Công hội bí mật" do Tôn Đức Thắng sáng lập tại Sài Gòn gần giống như tính chất các tổ chức tiền thân của công đoàn xuất hiện trong thời kỳ Cách mạng năm 1905 ở Nga. "Công hội bí mật" của Tôn Đức Thắng là một tổ chức thuần khiết, có tính chất chiến đấu và cách mạng, là người đại biểu đáng tin cậy cho lợi ích của giai cấp công nhân. Trong "Công hội bí mật", tuyệt nhiên không có khuynh hướng tư tưởng cơ hội hữu khuynh của "Công đoàn chủ nghĩa", công đoàn vô chính phủ và những biểu hiện sai lầm của "tính trung lập", của sự "hợp tác giai cấp" như tổ chức công đoàn ở nhiều nước Tây Âu.
Trải qua 20 năm lăn lộn trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước, Tôn Đức Thắng đã phát hiện ra ánh sáng cách mạng chân chính là chủ nghĩa Mác - Lênin. Thật đáng tiếc biết bao, giữa lúc đất nước đang chuyển mình để bước vào cao trào cách mạng sôi động của những năm 1930-1931 thì trước đó Tôn Đức Thắng đã bị giặc bắt tại thành phố Sài Gòn.
*
* *
Trải qua 17 năm bị lưu đày tại Khám Lớn - Sài Gòn và Nhà tù Côn Đảo, Bác Tôn được trở về đất liền sau cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giữa lúc quê hương đang rền vang tiếng súng. Núp bóng quân Anh - Nhật, giặc Pháp bắt đầu tái chiếm Nam Bộ. Trên khắp các nẻo đường, đồng bào ta "nóp với giáo mang ngang vai" bước chân ra tiền tuyến để xả thân thực hiện lời thề chiến đấu thiêng liêng: "Độc lập hay là chết". Từ bán đảo Cà Mau, Bác Tôn đã nhanh chóng đến các tỉnh miền Trung Nam Bộ và vùng cửa ngõ hiểm yếu ở phía nam thành phố Sài Gòn. Bác đã tham dự hai cuộc hội nghị quan trọng của Xứ ủy Nam Bộ trên địa phận Đồng Tháp Mười vào hạ tuần tháng 10 và trung tuần tháng 12-1945. Được sự tín nhiệm cao của Đảng, Bác được giao phụ trách Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ và chỉ đạo lực lượng vũ trang, rồi Chủ nhiệm hậu cần của Ủy ban Kháng chiến miền Nam. Bác Tôn cùng tập thể Xứ ủy gấp rút củng cố bộ máy tổ chức và tăng cường đội ngũ cán bộ cho các lực lượng quân, dân, chính đảng nhằm kịp thời đáp ứng cho nhu cầu tác chiến ở thành phố Sài Gòn và các địa phương trên chiến trường Nam Bộ trong những ngày đầu kháng Pháp.
Nhờ vậy, chỉ trong ba tháng mở màn cuộc kháng chiến chống Pháp, giữa lòng thành phố Sài Gòn, quân dân ta đã tiêu diệt hơn 700 tên địch tại các trận Tân Định, Thị Nghè, Cầu Kiệu, v.v.. Những cuộc bãi công, bãi thị, bãi khóa của nhân dân diễn ra liên tục. Các Chiến khu Rừng Sác, An Phú Đông và căn cứ Vườn Thơm được xây dựng. Đặc biệt, ngày 23-12-1945, nhân dân Sài Gòn đã giành được thắng lợi lớn trong việc tiến hành cuộc Tổng tuyển cử. Với sự tín nhiệm cao và lòng quý mến sâu sắc, Bác Tôn đã được các tầng lớp đồng bào ta ở Sài Gòn đồng lòng nhất trí bầu làm người đại biểu xứng đáng của mình tại Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới.
Vinh dự biết bao, tháng 2-1946 thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng đồng bào Nam Bộ danh hiệu vẻ vang "Thành đồng Tổ quốc". Trong thời điểm lịch sử đó, Bác Tôn được điều động ra Thủ đô Hà Nội để cùng với Bác Hồ và Trung ương Đảng chỉ đạo công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Suốt trong hơn ba thập niên, khi còn sống giữa núi rừng Chiến khu Việt Bắc cũng như lúc về Hà Nội sau ngày giải phóng Thủ đô, lòng Bác Tôn luôn luôn hướng về mảnh đất "Thành đồng Tổ quốc” và thành phố Sài Gòn với nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi. Bác viết: "Trong từng giờ, từng phút, tôi luôn luôn nghĩ đến miền Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, đang bị bọn đế quốc và bọn tay sai tàn phá... Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu”.
Trong những tháng năm trước ngày giải phóng miền Nam, Bác Tôn luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với những trường học sinh miền Nam và các đơn vị lực lượng vũ trang tập kết ra Bắc. Những cuộc họp mặt thường niên do Ban liên lạc đồng hương của tỉnh quê hương Bác tổ chức tại Thủ đô Hà Nội, gần như không bao giờ thiếu vắng Bác. Hầu hết các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương Cục, Mặt trận Dân tộc giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng cũng như các đồng chí lãnh đạo của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và các địa phương từ miền Nam ra Thủ đô Hà Nội công tác, hội họp, học tập hoặc chữa bệnh... đều được Bác Tôn dành cho những phút giây gặp gỡ đầm ấm, thân tình và sự quan tâm sâu sắc.
Thấu hiểu nỗi lòng khát khao tình cảm của những đứa con xa được trở về trong vòng tay ấm áp, thân thương của đồng chí và đồng bào miền Bắc, nhiều đoàn đại biểu vượt suối băng ngàn từ chiến trường miền Nam ra đã được Bác Tôn gặp gỡ, động viên, khích lệ và cổ vũ như: Đoàn đại biểu Anh hùng dũng sĩ diệt Mỹ, Đoàn đại biểu Thanh niên giải phóng, Đoàn Nhà văn thuộc Hội Văn nghệ giải phóng, Đoàn Ca múa nhạc Quân giải phóng, v.v..
Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc toàn thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng và đất nước thống nhất, Bác Tôn đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc vào thăm thành phố Sài Gòn và dự Lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Sau hơn 45 năm tính từ ngày bị đày ra Côn Đảo, nay Bác được trở về với thành phố thân thương trong niềm vui hân hoan, tự hào và phấn khởi vô hạn của đồng chí và đồng bào.
Mặc dù tuổi cao, sức yếu và ngày đêm phải tập trung tâm sức vào việc giải quyết những công việc hệ trọng của quốc kế dân sinh, nhưng Bác đã dành thời gian sớm nhất cuối năm 1975 về thăm nơi "chôn nhau cắt rốn" tại Cù lao Ông Hổ và thăm Xưởng Ba Son - nơi Người đã từng chung lưng đấu cật với đội ngũ thợ thuyền hoạt động cách mạng sôi nổi trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở lứa tuổi thanh xuân.
Đi tới đâu và ở bất cứ nơi nào, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta cũng đều vui mừng và tự hào về người con của “thành đồng Tổ quốc", vị Chủ tịch nước 87 tuổi trong bộ quần áo bằng vải kaki giản dị. Gần 70 năm đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng thiêng liêng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Bác Tôn thật xứng đáng với những lời trân trọng tuyên dương của Bác Hồ: “Là một người con rất ưu tú của Tổ quốc… Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới... một trong những người Việt Nam đầu tiên tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, là một gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân".
Bác Tôn mãi mãi để lại cho đời một di sản vô cùng quý giá về tư tưởng và đạo đức tác phong, không phải được diễn đạt bằng những pho sách qua ngôn ngữ triết lý, thơ văn - mà bằng sự phát sáng trong thực tiễn hoạt động cách mạng dày dạn, phong phú, triệt để, giàu tính đảng, tính chiến đấu, tính nhân văn và là sự biểu hiện rực rỡ của tư duy năng động, sáng tạo. Phải chăng, các bậc tiên hiền xưa kia gọi đó là loại hình của tư tưởng “triết học vô ngôn". Nhiệm vụ của chúng ta là phải ra sức để kiến giải tận tường chất tinh hoa trong loại hình tư tưởng “triết học vô ngôn" đó.
Khi viết những dòng cuối cùng để kết thúc bài này, tôi tiếp nhận được một thông tin vô cùng lý thú: Sau ba tháng phát động, đến ngày 1-7-2003 tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có tới 52.852 công nhân - viên chức - lao động đã gửi bài viết tham dự cuộc thi tìm hiểu chủ đề "Tôn Đức Thắng - Một nhân cách lớn". Rõ ràng, sức hấp dẫn của Bác Tôn thật là kỳ diệu. Thực hiện Chương trình là của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh về việc xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, Liên đoàn Lao động Thành phố và báo Sài Gòn giải phóng đã cùng tổ chức "Giải thưởng Tôn Đức Thắng" nhằm chọn lựa và nhân rộng những mô hình tiên tiến xuất hiện trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Đó là những lẵng hoa tươi đẹp nhất của đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Thành phố Hồ Chí Minh thành kính dâng lên Bác Tôn Đức Thắng với muôn vàn tình thương yêu, nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Bác.
TÔN ĐỨC THẮNG SÁNG NGỜI NHÂN CÁCH CỘNG SẢN
Đại tướng LÊ VĂN DŨNG19
Một mảnh đất thân yêu bên dòng sông Hậu là Cù lao ông Hổ, thuộc địa phận xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, nơi đây đã sinh ra Tôn Đức Thắng, nhà cách mạng lão thành, người chiến sĩ cộng sản kiên cường rất mực trung thành của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và là người tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Pháp thuộc ở vùng quê giàu truyền thống An Giang, nước cảnh mất nước nhà tan với nhiệt tâm yêu nước nồng nàn, cũng như bao người dân Nam Bộ, Tôn Đức Thắng đã tìm đến với cách mạng. Cả cuộc đời Tôn Đức Thắng đối với nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần cách mạng tiến công, ý chí kiên cường quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tôn Đức Thắng đã để lại trong lòng cán bộ chiến sĩ quân đội ta những ấn tượng sâu sắc. Đó là hình ảnh người lính thợ dũng cảm kiên cường quyết đấu tranh chống áp bức bóc lột. Rời quê hương ra đi, Tôn Đức Thắng đã từng chứng kiến cảnh thực dân bóc lột tàn nhẫn học sinh thông qua chế độ học tập và thực tập, cùng với sự giám sát hà khắc của bọn chủ Tây, Tôn Đức Thắng là con người có tính tình thẳng thắn, cương trực, căm ghét bọn xâm lược và kẻ bóc lột tàn nhẫn. Là một học sinh học nghề, Tôn Đức Thắng đã tỏ thái độ phản kháng quyết liệt chống lại cường quyền. Thời thanh niên Tôn Đức Thắng đã từng tham gia vận động học sinh lính thủy bỏ học rồi vận động công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa Sài Gòn đấu tranh chống bọn chủ bóc lột đòi tăng lương. Người lính thợ Ba Son Tôn Đức Thắng lại tiếp tục tổ chức công nhân đấu tranh với giới chủ mà đỉnh cao là cả 11 xưởng trại đồng loạt xuống đường bỏ việc làm, đi đòi yêu sách vào năm 1912. Đây là cuộc đấu tranh tiêu biểu của công nhân Xương Ba Son chống lại cường quyền của bọn tư bản, thực dân. Cùng với các cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn và trong cả nước, trong thời gian này phong trào đấu tranh đó biểu hiện một thời kỳ mới của giai cấp công nhân Việt Nam đang chuyển mình từ một “giai cấp tự mình" đến một “giai cấp cho mình". Đối với người lính thợ Tôn Đức Thắng, thắng lợi của cuộc đình công, bãi khóa đã một lần nữa mang đến cho mình một niềm tin vào sức mạnh của giai cấp thợ thuyền, giai cấp mà Tôn Đức Thắng tự nguyện gia nhập từ tuổi thanh niên. Với thắng lợi này Tôn Đức Thắng có thêm kinh nghiệm trong cuộc vận động đoàn kết tập hợp công nhân đấu tranh chống bọn thực dân và có thêm điều kiện rèn luyện ý chí của mình.
Tôn Đức Thắng không chỉ là người công nhân đấu tranh cho khát vọng tự do của giới công nhân thợ thuyền trong nước và còn là người chiến sĩ cộng sản rất mực trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sau những biến cố lịch sử ở Xưởng Ba Son, Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp lùng bắt rất ráo riết. Người lính thợ Tôn Đức Thắng phải trốn sang Pháp làm công nhân trong một công ty hàng hải, rồi làm thợ máy trong Hải quân Pháp ở đâu Tôn Đức Thắng cũng nhìn thấy cảnh giai cấp công nhân bị bóc lột tàn nhẫn. Bằng ý chí, nghị lực vốn có lại được thử sức và rèn luyện trong phong trào công nhân một nước thuộc địa, Tôn Đức Thắng đã trực tiếp tham gia các cuộc vận động chính trị của giai cấp công nhân trong hàng ngũ lính thợ ở Pháp. Cho đến khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) xảy ra, Tôn Đức Thắng lại bị đưa xuống làm thợ máy ở tàu. Mọi thủ đoạn đàn áp, khống chế của kẻ thù vẫn không làm nhụt chí người công nhân, người chiến sĩ cộng sản quốc tế. Ngày 20-4-1919 người thợ máy, thủy thủ Việt Nam Tôn Đức Thắng đã dũng cảm kéo cờ đỏ trên Chiến hạm France ở Biển Đen, cùng cột số thủy thủ khác làm phản chiến ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga. Ngọn cờ đỏ phấp phới tung bay trên chiến hạm Pháp giữa trời âu lồng lộng cùng hình ảnh Tôn Đức Thắng được ghi vào lịch sử phong trào cộng sản quốc tế và công nhân quốc tế như một biểu tượng về tình đoàn kết quốc tế vô sản của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đối với giai cấp công nhân và nhân dân Xôviết trong những ngày Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Lịch sử phong trào cộng sản quốc tế sẽ còn mãi mãi nhắc đến Bác Tôn, người đã đóng góp cuộc đời mình cho mục tiêu giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Nhân dịp chúc mừng Bác Tôn Đức Thắng tròn 70 tuổi, Bác Hồ nói: "Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại"20.
Suốt đời Tôn Đức Thắng đã phấn đấu không biết mệt mỏi cho lý tưởng cộng sản cao đẹp một chiến sĩ cộng sản kiên cường, là năm đế quốc Pháp đưa Bác đi tù đày khắp các nhà lao trên đất liền và chủ yếu là Côn Đảo. Với chế độ khổ sai, hà khắc, xiềng xích gông cùm đủ loại lúc thì giam trong hầm tối, lúc nhốt xuống Hầm xay lúa, tay chân bị xiềng xích cùm kẹp nhiều lúc bỏ đói bỏ khát, ăn lúa gạo sống, v.v. song tinh thần, ý chí của Bác vẫn rất kiên cường - một tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của người cộng sản dù phải chịu cực hình thế nào vẫn không lay chuyển được Bác. Bác luôn luôn lạc quan tin tưởng ở tương lai tươi sáng của dân tộc và luôn tận tụy với công việc của cách mạng.
Bác ý thức sâu xa mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và nền hòa bình thế giới mà ra sức phấn đấu xây dựng cho nền hòa bình giữa các quốc gia dân tộc. Sự cống hiến của Bác đã được nhân dân thế giới ca ngợi và kính phục Giải thưởng Lênin Về sự nghiệp củng cố hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc do Ủy ban Giải thưởng hòa bình quốc tế trao tặng là minh chứng hùng hồn cho sự cống hiến đó. Cả thế giới tiến bộ quý mến Bác Tôn, người chiến sĩ xuất sắc đấu tranh không biết mệt mỏi cho việc phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới vì lợi ích của sự nghiệp hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Tấm gương người lính thợ, người cộng sản ở Bác Tôn đã góp phần giáo dục sâu sắc, ý chí kiên cường, tinh thần quốc tế vô sản cao cả cho lớp lớp cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trên nhiều cương vị lãnh đạo quan trọng khác nhau, Bác liên tục phấn đấu không biết mệt mỏi góp phần cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Quốc hội và Mặt trận đưa hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn. Bác là một tấm gương cao đẹp cho mọi người chúng ta mà trước hết đó là người cộng sản Việt Nam, những đảng viên của Đảng về tính tổ chức và tính nguyên tắc. Đối với Bác trong quá trình công tác dù là việc lớn, việc nhỏ nhất thiết phải tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể sau khi đã tự do trình bày ý kiến của mình. Bác đã từng dạy chúng ta sức mạnh của Đảng là tổ chức. Tổ chức chặt chẽ sẽ tạo ra một ý chí cho toàn Đảng, tạo ra sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở đường lối chính trị và những nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Suốt cuộc đời hoạt động của mình Bác luôn chăm lo đoàn kết đồng chí, đoàn kết đồng bào, đoàn kết cả nước trong cuộc chiến đấu chung vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và vì chủ nghĩa xã hội. Bác cũng là chiến sĩ lỗi lạc phấn đấu suốt đời góp phần tăng cường đoàn kết giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, phong trào công nhân và cộng sản quốc tế. Thực hiện nghị quyết của Đảng, Bác kiên quyết chống lại chủ nghĩa xét lại hiện đại, góp phần củng cố đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế, tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Bác còn là người kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, đầu hàng phản bội, những biểu hiện yếu kém về đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên làm ảnh hưởng đến uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng, ám ảnh hưởng đến mối quan hệ máu thịt của Đảng với nhân dân. Tấm gương cao đẹp trong sáng của Bác đã dẫn dắt nhiều đồng chí vững vàng tiếp lên được những thử thách đấu tranh phức tạp và vượt lên ngay chính bản thân mình để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
Ở bất cứ cương vị nào, từ người công nhân bình thường đến Chủ tịch nước, Bác đều có một phong cách sống giản dị, khiêm tốn và đó được xem như là đức tính suốt đời của Tôn Đức Thắng. Nhân dân ta nhớ đến Bác, những chiến sĩ cộng sản nhớ đến Bác cả những năm tù đày cũng như 30 năm sau này chỉ thấy ở Bác một đức tính, một phong cách không hề thay đổi, đức tính phong cách công nhân giản dị, chân thành, trong sáng. Bác ăn những món ăn giản dị như những món ăn quê nhà. Bác mặc như những người bình thường, ghét sự xa hoa, ham mê lao động trí óc và chân tay, cái gì làm được thì không muốn làm phiền người khác. Cùng với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, ở đồng chí Tôn Đức Thắng còn nổi lên lập trường vững vàng, chí khí cao cả, đức tính khiêm tốn, giản dị, đó là những gương sáng để chúng ta học tập (Lê Duẩn).
Đối với lực lượng vũ trang, đặc biệt là những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khi cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam vào giai đoạn quyết liệt nhất, Bác luôn chăm lo đến sự lớn mạnh, sức chiến đấu của quân đội ta. Trên cương vị là Chủ tịch nước, người kế tục sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Bác tiếp tục nắm vững, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và quân đội nhân dân nói riêng. Luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội ngày càng mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Bác chỉ thị cho cơ quan Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng phải chăm lo đến việc phát huy bản chất cách mạng của quân đội, nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân ta... Những hoạt động, chỉ đạo của Bác đối với lực lượng vũ trang thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với quân đội. Điều đó cũng thể hiện vai trò to lớn của nguyên tắc Đảng lãnh đạo quận đội, là nguyên tắc tối cao bất di bất dịch, đồng thời là nguồn gốc, cơ sở sức mạnh bách chiến, bách thắng của quân đội ta. Sự quan tâm của Bác đối với quân đội thể hiện sự thấm nhuần nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công cuộc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.
Tiếp tục con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn Bác Tôn Đức Thắng luôn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng con người. Thấy rõ vai trò của lực lượng vũ trang trong thực hiện mục tiêu cách mạng, Bác chỉ đạo tiếp tục giáo dục cho lực lượng vũ trang, cho cán bộ, chiến sĩ quân đội nhận thức rõ trách nhiệm của mình, kiên quyết thực hiện mục tiêu chiến đấu của quân đội, tiếp tục tăng cường bản chất cách mạng, nâng cao ý chí và sức mạnh chiến đấu. Sau Hiệp định Paris năm 1973, đến thăm bộ đội, Bác nói: hơn lúc nào hết cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân ta cần nhận rõ trách nhiệm trọng đại và vinh dự lớn lao của mình trong giai đoạn quyết liệt hiện nay của cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước là đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai. Các đồng chí hãy nỗ lực vượt bậc hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến sĩ, sẵn sàng chiến đấu, giành cho kỳ được những chiến công to lớn hơn nữa xứng đáng với lòng tin cậy và sự mong mỏi của toàn Đảng và toàn dân ta"21.
Quân đội đã tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà trực tiếp thường xuyên là Quân ủy Trung ương, đồng thời biết phát huy sức mạnh lãnh đạo của các tổ chức Đảng trong quân đội, bảo đảm cho toàn quân luôn luôn sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, đáp ứng sự mong mỏi của Đảng, Bác Hồ và Bác Tôn.
Trong xây dựng quân đội cách mạng, Bác Tôn Đức Thắng luôn luôn quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, Bác nhắc nhở phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có đủ đức, tài theo đúng đường lối của Đảng để đáp ứng được yêu cầu phát triển của tình hình nhiệm vụ. Chú ý giáo dục cán bộ ta về quan điểm quần chúng, về dân chủ, kỷ luật, đoàn kết và nhắc nhở cán bộ phải biết phát huy cao độ tinh thần tự giác cách mạng của quần chúng. Cán bộ phải khơi dậy vai trò sáng tạo của quần chúng. Theo gương Bác trong toàn quân cán bộ đã nêu cao gương sáng về tác phong dân chủ quần chúng Bác còn nói, phải giáo dục bộ đội theo tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quân đội ta là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Quan hệ giữa quân đội và nhân dân là quan hệ "cá nước", liên hệ mật thiết với nhân dân đó là nguồn sống và sức mạnh hùng hậu của quân đội ta. Bằng những hành động thiết thực, cụ thể, Bác Tôn Đức Thắng đã để lại cho cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân hình ảnh hết sức thân thiết, gần gũi. Trong những ngày Mỹ dùng máy bay B.52 tập kích vào Thủ đô Hà Nội, mặc dù tuổi cao, sức yếu Bác đã đến từng trận địa còn khét lẹt mùi khói súng, ân cần thăm hỏi động viên từng cán bộ, chiến sĩ đã bắn hạ máy bay F.111 và pháo đài bay B.52 góp phần lập nên chiến công "Điện Biên phủ trên không" oanh liệt... Sự chỉ đạo sâu sát và cổ vũ động viên kịp thời đó như tiếp thêm sức mạnh, giúp cho lực lượng vũ trang trưởng thành nhanh chóng và chiến thắng vẻ vang.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Tôn Đức Thắng đã nêu một tấm gương cao đẹp về người đảng viên ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam, người chiến sĩ mẫu mực, trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Bác Tôn là người mà tên tuổi hình ảnh đã trở nên vô cùng thân thiết đối với mọi tầng lớp nhân dân và quân đội ta. Từ người thợ yêu nước mang trong mình dòng máu bất khuất của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam anh hùng, trở thành người cộng sản, một trong những người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trải qua bao thử thách, Bác luôn nêu cao khí phách cách mạng, lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc và nhân dân, lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Bao nhiêu năm tham gia đấu tranh phá ách gông xiềng nô lệ cho dân tộc, bao nhiêu năm kháng chiến cứu nước, xây dựng chủ nghĩa: xã hội, bất cứ trong hoàn cảnh nào Bác Tôn cũng là người chiến sĩ cách mạng không bao giờ và không gì lay chuyển nổi (Lê Duẩn).
Cùng với nhân dân cả nước, lực lượng vũ trang nhân dân ta nguyện noi gương Bác Tôn không ngừng phấn đấu, rèn luyện để mãi mãi xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ", xứng đáng là người chiến sĩ tốt của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng mang bản chất giai cấp công nhân, bao giờ cũng đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, sống trong sáng, trung thực, thủy chung, sẵn sàng hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, góp phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
KỶ NIỆM BA LẦN GẶP BÁC TÔN
TRẦN VĂN KHÊ22
Đầu năm 1946, tôi đến chợ Thiên Hộ để gặp bạn tôi, anh Huỳnh Văn Tiểng, lúc ấy giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, và nhận nhiệm vụ thay đổi các điều kèn bán thức, chào cờ cho quân đội và thành lập một dàn quân nhạc.
Một buổi chiều, anh Tiếng cho biết hôm đó sẽ có hai người khách quý là anh Hoàng Quốc Việt, và đặc biệt là anh Tôn Đức Thắng mới từ Côn Đảo trở về, vừa tới Chiến khu. Tôi mừng quá nói với anh Tiểng rằng: “Anh Hoàng Quốc Việt thì tôi gặp đây là lần đầu, còn anh Tôn Đức Thắng thì tôi đã biết từ lâu. Vì tại làng Vĩnh Kim, trong chỗ bà con thân thuộc của tôi, có chị Hai Oanh và con gái tên Hạnh, mỗi lần chị Hai đi chợ Giữa thường ghé thăm cô Ba tôi (bà Trần Ngọc Viện). Cô Ba cho ba anh em tôi (tôi và Trần Văn Trạch, Trần Ngọc Sương) biết chị Hai Oanh là vợ của anh Tôn Đức Thắng, một nhà cách mạng, đang bị tù Côn Đảo. Theo “vai vế” thì các con kêu bằng "anh Hai Thắng", và nên nhớ rằng anh Hai Thắng cũng như những nhà cách mạng mà các con đã có dịp gặp tại nhà mình như chú Nguyễn An Ninh, chú Toàn, chú Thử, v.v..
Tôi và hai em tôi chỉ nghe và biết vậy, chớ chưa bao giờ được gặp mặt anh Hai Thắng.
Bữa cơm chiều hôm ấy tại chợ Thiên Hộ, chủ khách ăn cùng nhau. Anh Huỳnh Văn Tiểng giới thiệu mọi người trong bàn ăn. Tôi xúc động quá khi thấy nhà cách mạng lão thành “da mặt sạm vì phải giãi gió dầm sương”, cổ đang quấn một cuộn băng trắng sau cuộc giải phẫu nhẹ, tươi cười đến bắt tay, vỗ vai tôi rồi nói: "Nói vậy em là Khê, con chú Bảy Triều đờn kìm rất hay, và thím Bảy trước kia là Bí thư Chi bộ Vĩnh Kim phải không? Tôi trả lời: "Dạ phải". Tôi hỏi lại: "Thưa anh Hai" có phải anh Hai là chồng của chị Hai Oanh ở phía cầu sắt gần nhà chú Tám Dung không? Anh Hai Thắng vui vẻ trả lời: "Phải".
Sau một lúc nhìn nhau cảm động không nói lên lời, anh Hai Thắng hỏi thăm tôi về tin tức bà con ở Vĩnh Kim. Tôi cho biết cô Ba tôi đã qua đời hơn hai năm nay, cô Năm, cô Sáu tôi còn sống, đang ở Sài Gòn, cô Tư tôi cũng vừa mất. Và sau đó tôi lần lượt kể qua gia cảnh của tôi. Hôm sau, tôi phải từ giã anh Hai Thắng để đi về vùng Hậu Giang. Anh Hai Thắng vui vẻ nói: "Anh em mình đều ở trong Chiến khu, ắt có ngày còn gặp lại nhau”.
Khoảng đầu tháng 3-1946, tại vùng Cái Nước (Cà Mau), vào một buổi chiều, tôi hết sức ngạc nhiên khi có người đến cho tôi hay rằng có nhạc sĩ Lưu Hữu Phước tìm tôi. Phước ở Vị Thanh, đã từ lâu tôi không có tin tức của bạn. Hôm nay tình cờ gặp nhau tại một nơi mà người Việt gọi là nơi "khỉ ho cò gáy".
Gặp tôi, Phước mừng quá, nhưng sau vài câu thăm hỏi, Phước nói nhỏ: “Tôi muốn nói chuyện riêng với Khê một chút". Tôi dẫn Phước ra phía sân nước nhà tôi đang ở trọ. Phước rỉ tai: "Tôi đến hôm qua. Có nhà cách mạng lão thành Tôn Đức Thắng cùng đi". Tôi nghe nói mừng quá, liền hỏi làm sao cho tôi đi thăm người mà trong tình thân họ hàng tôi vẫn gọi là “anh Hai Thắng". Phước nói: “Tối nay Khê có thể gặp, nhưng bây giờ mình phải bàn gấp với Khê một việc là mình đang tổ chức chuyến đi ra Bắc bằng ghe bầu. Có nhiều người trong đoàn, nhưng đồng chí Tôn Đức Thắng và mình đề nghị Khê nên cùng đi". Tôi hỏi “Bao giờ đi?". Phước nói “Khi nào có gió thuận là phải đi ngay". Tôi nói "Tôi vừa nhận được tin giao liên cho biết vợ tôi bị “đàng Thổ” (tiếng của dân trong vùng kháng chiến gọi người Khmer "đi theo Tây" thời đó) đòi mổ bụng vì là "vợ của Việt Minh", vì vậy, nhà tôi đã dời Sóc Trăng "chạy" xuống vùng này để tìm tôi. Người giao liên cũng cho tôi biết thêm là vợ tôi đã sanh con trai (thứ nam Trần Quang Minh) và hiện ba mẹ con đang trên đường xuống Bạc Liêu. Tôi đang chờ và sắp đặt cuộc sống cho “mấy mẹ con nó", mới có thể đi với Phước và anh "Hai Thắng" ra miền Bắc".
Đêm đó tôi gặp lại anh Hai Thắng tại một căn cứ bí mật, chỉ có Phước, anh Hai Thắng và tôi. Anh chỉ nói sơ qua về chuyến đi: “Anh Hai giao trọn quyền tổ chức chuyến đi ra Bắc cho anh Lưu Hữu Phước. Anh Hai rất mong trong chuyến này có em cùng đi". Tôi thuật lại hoàn cảnh của tôi như đã nói với Phước ban chiều... Nghe xong, anh Hai nói với Lưu Hữu Phước: "Mình chờ thêm một vài hôm. Chừng nào Khê giải quyết xong vấn đề gia đình, ta sẽ cùng đi". Hai ngày qua, tôi vẫn chưa có tin tức của gia đình, mà ngay hôm đó đã có gió thuận. Phước cho người đón tôi đến một nơi hẹn (một căn cứ bí mật khác). Phước nói rằng: "Đoàn phải đi ngay hôm nay, và hy vọng sẽ còn những chuyến đi khác. Phước bảo tôi trong thời gian ở lại thường xuyên liên lạc với Ủy ban Kháng chiến vùng, để có tin tức. Trong lúc đó anh Hai Thắng đứng ngó tôi, rồi mỉm cười nói: "Em ở lại để lo sắp đặt cho vợ con em có nơi ăn ở yên ổn rồi em đi sau. Anh em mình hẹn gặp nhau tại Hà Nội". Rồi hai anh em ôm nhau nghẹn ngào không ai nói được lời nào!.
Lời hẹn với nhau từ năm 1946, mãi 30 năm sau là vào năm 1976 mới thực hiện được. Vào lúc Bắc - Nam vừa mới thống nhất. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận, Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam được phép lãnh đạo cho mời tôi về Hà Nội để gặp gỡ các bạn trong giới âm nhạc. Năm đó anh Đỗ Nhuận giới thiệu lần đầu với công chúng, đại nhạc kịch “A Sao" của anh viết theo loại Opera với phong cách phương Tây. Anh nói với tôi: "Tối nay tôi mời anh xem nhạc kịch “A Sao" của tôi, và tôi sẽ ngồi bên anh để nói thêm cho anh biết vì sao tôi viết đoạn nào theo thể điệu nào. Nhân đây tôi cũng “tiết lộ" với anh tối nay có Bác Tôn đến dự. Nghe nói anh có họ hàng với Bác, tôi sẽ sắp đặt để anh đến chào Bác".
Tôi rất vui và mong giờ phút gặp lại người anh bà con, mà anh em tôi quen kêu bằng "Anh Hai Thắng" ngày xưa, hôm nay đang là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn dân đều gọi bằng "Bác Tôn".
Sau buổi trình diễn, khán giả ra về. Anh Đỗ Nhuận dắt tôi đến gặp anh công an trưởng giữ trật tự và nói: “Anh Trần Văn Khê có họ hàng với Bác Tôn. Xin cho anh ấy đứng đây để chào Bác".
Hai hàng công an giữ trật tự an ninh chặn không cho ai được lảng vảng gần ngõ ra phía Tây Nhà hát Lớn. Bỗng anh Đỗ Nhuận nói: “Kìa, Bác sắp đến". Tiếp theo anh nói to: "Báo cáo Bác! Có anh Trần Văn Khê muốn chào Bác". Bác Tôn dừng bước nhìn qua phía tay mặt của Bác, nheo đôi mắt, vừa thấy tôi, mỉm cười và hỏi: "Em về đây bao giờ?". Tôi nói: “Kính thưa Chủ tịch, em về nước đã gần một tháng nay, làm công việc sưu tầm, nghiên cứu âm nhạc truyền thống với anh Đỗ Nhuận". Bác Tôn cười dặn: "Gặp anh Hai, em cứ gọi là anh Hai, chớ đừng gọi Chủ tịch, nghe xa lạ quá. Em hiện đang ở đâu?". Tôi đáp: "Dạ, em đang ở Khách sạn Dân chủ, phố Tràng Tiền". Bác Tôn vui vẻ nói: "Để anh Hai sắp đặt mời em ăn lót lòng với anh Hai, sau đó anh em mình sẽ hàn huyên lâu hơn". Tôi đáp: "Dạ em rất mong sớm gặp lại.. Chủ tịch". Bác Tôn cười, lắc đầu nhè nhẹ và đưa tay chào tạm biệt.
Tôi trở về Khách sạn Dân chủ, vừa tắm xong, đang ghi lại trong tập Du ký, những sự việc đã xảy ra hôm nay, thì có điện thoại: "Có phải anh Trần Văn Khê ở đầu dây không? Tôi là nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Bác Tôn bảo tôi nói lại với anh rằng ngày mai, lúc 6 giờ rưỡi sáng, sẽ có xe đón anh vào Phủ Chủ tịch để gặp và cùng ăn sáng với Bác". Tôi trả lời: "Cám ơn anh. Tôi sẽ sẵn sàng trước 6 giờ 30 phút sáng mai".
Sáng hôm sau, đúng 6 giờ 30 phút, một chiếc "xe con" màu đen đến đón tôi vào Phủ Chủ tịch. Tôi như đang sống trong mơ.
Xe vào cổng phía sau Phủ Chủ tịch, và dừng lại gần dãy nhà nhỏ sau dinh Bắc Bộ Phủ. Nghe tiếng xe, Bác Tôn đi ra tới cửa, tươi cười mở rộng vòng tay, ôm siết chặt tôi rồi nói: “Anh Hai hôm nay đón em là bà con người nhà chớ không phải đón khách quốc tế, cho nên không mở cửa chính, chỉ mở cửa sau. Anh Hai lại không thích ở nhà cao cửa rộng, nên anh ít lên nhà "trên" mà thường ở “nhà dưới". (Người trong Nam thường dùng từ ngữ "nhà trên" để chỉ nơi thờ ông bà và tiếp khách lạ. Còn "nhà dưới" gần nhà bếp, là nơi ăn uống hằng ngày). Tôi cảm động nói: “Em xin cám ơn... Chủ tịch (Bác Tôn lại cười và đưa tay ra dấu không cho dùng từ Chủ tịch). Tôi ấp úng nói: "Dạ! Cám ơn... Anh Hai! Em rất mừng hôm nay được gặp lại anh Hai sau 30 năm chia tay nhau tại Chiến khu Cái Nước".
Tôi nhìn thấy Bác Tôn vẫn còn mặc bộ đồ pyjama màu hơi xám, ân cần hỏi thăm tôi về tin tức bà con ở Vĩnh Kim. Hỏi về cô Ba tôi, chú Tám Dung, anh Năm Lưu, anh Ba Giảng, và một số bạn bè có cảm tình với cách mạng dưới thời Pháp thuộc. Tôi lần lượt thưa qua mọi việc.
Rồi Bác Tôn nói: "Hôm nay, chị Hai của em về trong Nam có việc. Nhưng có cháu Hạnh ở đây, em còn nhớ Hạnh không? Cháu Hạnh nay đã có cháu ngoại rồi đó". Liền theo đó, cháu Hạnh ra chào tôi. Tuy theo vai vế, tôi gọi Hạnh là cháu chớ tuổi tác của hai “cậu cháu” gần ngang nhau. Thú thật, nếu không nói người ra chào tôi là cháu Hạnh, tôi không thể nào nhìn ra. Xưa kia, tôi biết cháu tại Vĩnh Kim, lúc đó cháu là một cô bé tóc vừa chấm ngang vai, nay đã thành “bà ngoại". Hạnh tươi cười nói: “Thưa cậu Hai! Lâu quá rồi cháu không gặp cậu. Nhưng cháu nhìn ra cậu ngay. Cháu ngoại của cháu đây! Khoanh tay thưa... ông Cậu đi con!". Bác Tôn vừa cười vừa đưa tay ngăn, nói: "Ông Cậu sao được “Nó" kêu Ba bằng Ông Cố, thì cũng phải kêu Cậu Hai của bây bằng ông Cố Hai chớ! (trong Nam thường dùng tiếng “kêu” chớ không dùng tiếng "gọi"). Và trong buổi sáng hôm đó tôi có dịp nghe Bác Tôn thuật lại một số sự việc đã xảy ra từ lúc "anh em" chia tay nhau. Bác khuyên tôi nên tiếp tục công việc sưu tầm, nghiên cứu để giữ gìn vốn cổ. Và hẹn có ngày “hai anh em" sẽ gặp lại.
Tôi xin phép chụp với Bác một tấm hình kỷ niệm. Bác bằng lòng và nói: "Anh Hai khỏi cần thay quần áo khác làm gì. Tiếp em út trong nhà chớ phải khách quốc tế đâu mà phải "xiêm áo chỉnh tề”, anh Hai mặc áo bà ba chụp với em một tấm hình kỷ niệm".
Tấm hình chụp hôm ấy, tôi đã cho in trong tập Hồi ký số 4 (do Nhà xuất bản Phương Nam ấn hành năm 2000). Tấm hình đó là một vật rất quý đối với tôi.
Rồi từ hôm ấy cho đến ngày Bác Tôn vĩnh viễn ra đi!...
Tôi không còn dịp gặp lại Bác. Nhưng tôi vẫn giữ trong lòng hình ảnh một nhà cách mạng can đảm trong công tác, giản dị trong nếp sống, và nồng nàn nhưng kín đáo trong tình cảm.
MỘT TẤM GƯƠNG SÓNG VÀ CHIẾN ĐẤU TRỌN MỘT ĐỜI CAO ĐẸP
HÀ HUY GIÁP23
Cuối tháng 10-1926, một số người học mong lớp chính trị khóa chính thức đầu tiên do Bác Hồ mở ở Quảng Châu (Trung Quốc) được phân công về hoạt động ở Sài Gòn và lục tỉnh. Những người này sau khi tìm hiểu phong trào công nhân Sài Gòn đã biết rõ những hoạt động của Bác Tôn Đức Thắng và tổ chức công hội bí mật. Năm 1-1925, "Công hội" đã có 300 hội viên Bác Tôn rất đỗi vui mừng khi gặp được những người học trò của Bác Hồ và được hiểu biết con đường cách mạng đúng đắn. Bác ý thức được ngay câu nói của Bác Hồ: "Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản” thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"24. "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”25.
Bác Tôn được gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Bác hết sức vui mừng, vì đã tìm thấy con đường đúng đàn nhất để giải phóng giai cấp, giải phóng đồng bào, Bác giới thiệu cho Hội cả nhóm trung kiên của Bác và cả Công hội do Bác sáng lập.
Những năm 1919, 1920, Bác Tôn có nghe tin đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước Việt Nam ký tên vào Bản yêu sách tám điểm đòi tự do dân chủ và được đối xử bình đẳng với người Pháp, gửi tới Hội nghị Versailles và Chính phủ Pháp cùng các chính phủ một số nước khác. Bản yêu sách đó và tên tuổi Nguyễn Ái Quốc có ảnh hưởng đặc biệt trong hàng chục vạn lính Việt Nam còn sống sót sau chiến tranh đang ở Pháp lúc bấy giờ. Nhưng còn là người lính, lúc đó Bác Tôn không lên được Paris để gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Bấy giờ tuy chưa có vinh dự được gặp Nguyễn Ái Quốc nhưng qua những người học trò của Người, Bác Tôn đã gặp được tư tưởng của Người và bắt đầu trực tiếp chiến đấu dưới lá cờ của Người. Đó là niềm sung sướng vô cùng lớn lao đối với Bác. Xu hướng cộng sản của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ảnh hưởng đến khắp nơi trong nước, đặc biệt trong công nhân, nông dân, thanh niên học sinh, tiểu tư sản trí thức, nhà giáo Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản họp tháng 8-1928 đã nhận xét sự lớn mạnh của phong trào giải phóng; dân tộc trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, trong đó có Đông Dương, và nhận định rằng, những mâu thuẫn cơ bản của thế giới sẽ làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới phát triển với quy mô chưa từng thấy. Đại hội phác ra những mô hình cách mạng cho mấy loại nước phát triển khác nhau có tác dụng thúc đẩy phong trào cách mạng các nước.
Thực dân Pháp ở Đông Dương càng lồng lộn, tăng cường khủng bố, tháng 7-1929, chúng bắt một số người trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trong đó có Bác Tôn và một số hội viên ưu tú. Chúng còn bắt một số đảng viên Đảng Tân Việt trong đó có Cụ Tú Kiên ở Sài Gòn.
Tháng 10-1928, chúng lại bắt Nguyễn An Ninh và một số đồng chí của ông. Đến tháng 7-1929 chúng quét trọn bộ phận chuẩn bị thành lập An Nam Cộng sản Đảng, trong đó có đồng chí Phạm Văn Đồng.
Tháng 6-1930, thực dân Pháp kết án Bác Tôn 20 năm tù khổ sai và đày Bác ra Côn Đảo ở chung với tù thường phạm, bắt làm những việc nặng nhọc, ăn gạo hẩm đầy sạn với cá khô, thứ để làm phân bón ruộng. Biết Bác Tôn là thợ máy tàu thủy giỏi nhưng lại là một "người nguy hiểm", cho nên chỉ khi nào tàu của chúng hỏng nặng, chúng mới vời đến Bác. Bác cũng đã bồi dưỡng cho một vài anh em sửa chữa máy tàu. Nhờ đó mà Bác và anh em đã bắt liên lạc với phong trào chống khủng bố và phong trào cứu tế ở Pháp. Đồng thời đặt thêm được liên lạc với đảng bộ ở trong đất liền.
Bọn thực dân Pháp từng nói một cách trắng trợn rằng: Chúng tao không xử tử được chúng bay thì chúng tao sẽ làm cho chúng bay chết rục xương ở Côn Đảo. Lần lượt, chúng đã đưa Bác Tôn, anh Ngô Gia Tự, anh Phạm Hùng, anh Lê Văn Lương, v.v. vào làm cặp rằng ở Hầm xay lúa.
Thời thuộc Pháp, ở Côn Đảo bị phạt vào làm "cặp rằng" ở Hầm xay lúa là hình phạt nặng nhất. Đây là một nhà ngục lớn, vô cùng khắc nghiệt. Đưa Bác Tôn và một số anh em vào làm cặp rằng ở Hầm xay lúa địch có thâm ý mượn tay tù kết liễu đời của Bác và anh em mình. Không ngờ Bác Tôn và các anh đã chủ động sắp xếp lại công việc trong hầm, vừa cải thiện được đời sống hằng ngày cho anh em bị phạt, vừa bảo đảm nộp đầy đủ gạo cho bọn chủ ngục. Công việc không dễ chút nào, bởi trong số bị phạt hầm nhiều người là những phần tử lưu manh trộm cướp, quen thói biếng làm siêng ăn. Bọn chủ ngục rất ngạc nhiên, đâm ra kính sợ các anh, đặc biệt là đối với Bác Tôn. Bác Tôn, anh Phạm Hùng, anh Lê Văn Lương đều trong Ban lãnh đạo Đảng ở đảo.
Bác bị bắt và bị đày ra Côn Đảo từ tháng 7-1980 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mới được cách mạng giải phóng cùng với các anh Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Văn Lương và hàng nghìn anh em khác. Bác và các anh về đến đất liền (tại Mỹ Thanh, Sóc Trăng) ngày 23-9-1945 thì cũng ngày này, thực dân Pháp được sự giúp đỡ của thực dân Anh bắt đầu đánh chiếm Sài Gòn.
Đại đa số anh em ở Côn Đảo về, được phân công công tác ngay, bổ sung cho các địa phương Nam Bộ. Bao nhiêu năm ở tù (như Bác Tôn 17 năm bị giam cầm), anh em chưa kịp về thăm gia đình lại vui lòng nhận công tác kháng chiến. Tại Hội nghị cán bộ Đoàn xứ Nam Kỳ họp ở ngoại ô Mỹ Tho, ngày 15-10-1945, Bác Tôn và các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng được bầu vào Xứ ủy.
Tháng 12-1945, Xứ ủy họp Hội nghị mở rộng ở Đức Hòa quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam và thành lập các Khu 7, 8, 9 ở Nam Bộ, Bác Tôn lãnh nhiệm vụ hậu cần.
Tháng 2-1946, Bác Tôn được Trung ương điều động ra miền Bắc.
Lúc đó, Bác Hồ cùng với Thường vụ Trung ương Đảng thấy rõ tình hình đã thay đổi cần phải mở rộng Mặt trận Việt Minh, quyết định thành lập Mặt trận Liên Việt.
Bác Hồ thấy Bác Tôn có đủ tố chất và năng lực cũng như kinh nghiệm làm công tác vận động quần chúng, công tác dân vận cho nên đã mời Bác Tôn làm Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng, Mặt trận Liên Việt được mở rộng thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bác Hồ được bầu làm Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng ban Thường trực Quốc hội và Phó Chủ tịch nước.
Tháng 9-1969, Bác Hồ qua đời, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch nước.
Ngày 30-4-1975, Sài Gòn và cả miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Bác Tôn vừa nhân danh Chủ tịch nước vừa là người con của miền Nam, đã về dự cuộc liên hoan Đại thắng ở Sài Gòn với đồng bào, chiến sĩ và cán bộ.
Năm 1976, đất nước thống nhất cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bác Tôn Đức Thắng lại được bầu làm Chủ tịch nước.
Ngày 30-3-1980, Chủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời, để lại cho toàn Đảng, toàn dân muôn vàn thương tiếc.
Bác Tôn là hiện thân của những đức tính người cộng sản cao cả mà đòi hỏi ở mỗi người cán bộ, đảng viên chúng ta noi theo: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị, mình vì mọi người. Bác Tôn là một tấm gương về đạo đức cách mạng, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Bác Tôn là một người cộng sản tiêu biểu của chúng ta.
ĐIỀU GHI ĐẬM NÉT NHẤT VỀ BÁC TÔN TRONG TÂM TRÍ TÔI26
Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ27
Lúc tôi còn là một thanh niên mới tham gia vào phong trào cách mạng năm 1936, rồi trong một thời gian ngắn sau đó tôi vào Đảng; cho đến năm 1939 trong một cuộc họp bí mật nghiên cứu về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, về Cách mạng Tháng Mười Nga, một số đồng chí giới thiệu cho tôi biết về một người Việt Nam đã kéo cờ đỏ cách mạng trên một chiến hạm của Pháp ở Biển Đen để ủng hộ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Người đó là một công nhân Việt Nam - một lính Hải quân Pháp, đó là đồng chí Tôn Đức Thắng - đấy là một vinh dự lớn cho dân tộc Việt Nam. Có thể nói rằng, vào thời điểm đó mà khi được nghe giới thiệu về một người Việt Nam như thế này đã làm xúc động đất nhiều người và ngay tôi cũng hãnh diện. Có một người Việt Nam cách mạng lại ở trong Quân đội Pháp mà lại hưởng ứng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga với một cử chỉ anh hùng như vậy thì đấy cũng là một nguồn động viên, khuyến khích rất lớn đối với những người cách mạng trẻ những đồng chí trẻ như chúng tôi.
Ngoài ra, các đồng chí còn giới thiệu cho biết chính Bác Tôn là người đầu tiên thành lập ra Công hội đỏ tại thành phố Sài Gòn. Lúc đó, Bác đã hoạt động trong giới công nhân và chính là người đã đưa ra cách tổ chức giai cấp công nhân để đấu tranh cách mạng. Từ đó có thể nói rằng, trong tôi và trong nhiều đồng chí trẻ khác, có hai hình ảnh khích lệ, giúp đỡ cho chúng tôi hoạt động không sợ nguy hiểm tù đày: Một là, hình ảnh Bác Hồ, lúc đó gọi là Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba nhiều nước trên thế giới để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Hình ảnh của Bác Hồ là một tấm gương, là một ngọn cờ thu hút tất cả thanh niên nhiệt tình thời kỳ đó. Hai là, hình ảnh của Bác Tôn - một người đảng viên, một người công nhân Việt Nam đã sớm giác ngộ và anh dũng đấu tranh cho phong trào cách mạng.
Có thể nói rằng, hai hình ảnh Bác Hồ và Bác Tôn đã luôn luôn giúp cho chúng tôi vượt qua tất cả mọi khó khăn trong cuộc chiến đấu của mình; bởi vì thời kỳ Pháp thuộc mà tham gia vào các phong trào cách mạng, tham gia Đảng thì đấy là một điều hết sức khó khăn, hết sức bí mật. Bị khủng bố đàn áp, bị bắt bớ tù đày đó là chuyện bình thường nhưng mỗi lần gặp khó khăn thì chính hai hình ảnh Bác Hồ và Bác Tôn đã khuyến khích chúng tôi rất nhiều trong những thời kỳ khó khăn, gian khổ nhất.
Mãi đến năm 1945 tôi mới được gặp Bác Tôn, khi Bác từ Côn Đảo về cùng với một số đồng chí khác. Lúc đó Cách mạng Tháng Tám đã thành công và đang chuẩn bị đối phó với sự can thiệp của Pháp trở lại. Đây là cả một sự thuận lợi lớn cho lực lượng lãnh đạo của ta ở Nam Bộ cũng như toàn quốc, đặc biệt là ở Nam Bộ. Lúc này chúng ta đứng trước một hiểm họa là Pháp có thể can thiệp bằng vũ lực để chiếm lại đất nước ta sau khi cách mạng thành công, thế mà lại được một đội ngũ những đồng chí già dặn kinh nghiệm, đã từng đấu tranh kiên cường, bất khuất trở về cùng với hàng ngũ những người cách mạng trong nước. Đây là một khuyến khích rất lớn cho phong trào cách mạng cả nước.
Trong Hội nghị Thiên Hộ năm 1946 của Xứ ủy thì nhiều đồng chí đã đề nghị Bác Tôn làm Bí thư Xứ ủy, nhưng Bác rất khiêm tốn từ chối và sau đó đề nghị đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư - người đã từng là Ủy viên Trung ương hoạt động ở thời kỳ trước. Về sau tôi được gặp Bác Tôn trong dịp Bác Tôn là Ủy viên trong Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Thời kỳ này Trung ương và Xứ ủy đã thành lập các khu, các quân khu trong toàn quốc. Trong này là Khu VII, Khu VIII. Ở miền Nam có Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam chỉ đạo chung cuộc kháng chiến phía Nam ngay từ Khu V trở vào Nam Bộ.
Điều ghi đậm nét nhất về Bác Tôn trong trí nhớ và trong tâm khảm tôi là thời kỳ năm 1948. Tôi là Khu trưởng Khu VIII Nam Bộ và Trưởng đoàn Quân, dân, chính Nam Bộ ra báo cáo với Trung ương và Bác Hồ về tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ. Đoàn chúng tôi gồm cán bộ của Đảng, của chính quyền, của dân vận, mặt trận, các đoàn thể đi suốt từ Đồng Tháp Mười ra Việt Bắc. Chúng tôi đã báo cáo tất cả những tình hình diễn biến ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ với Trung ương, với Bác Hồ.
Một buổi chúng tôi đang tập trung với nhau để kiểm điểm công việc phải làm thì Bác Tôn đến thăm đoàn chúng tôi. Đây là một niềm vui mừng khôn xiết bởi vì từ khi gặp Bác Tôn ở Nam Bộ đến khi Bác Tôn được triệu tập ra ngoài Bắc dự Quốc hội khóa I, Trung ương và Bác Hồ đề nghị Bác Tôn ở lại Việt Bắc để cùng tham gia vào lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn quốc nay tôi mới lại có dịp gặp Bác. Được biết có phái đoàn Quân, dân, chính Nam Bộ ra báo cáo tình hình thì Bác Tôn tới thăm chúng tôi ngay, thật là hết sức cảm động. Bác Tôn gặp lại chúng tôi như gặp lại những đồng chí, đồng bào thân yêu từ Nam Bộ ra, với bao nhiêu mừng rỡ trong lòng mỗi người chúng tôi không sao kể hết. Bác nói với tôi - lúc đó là Trưởng đoàn: Mặc dù tham gia vào cuộc lãnh đạo chung ở ngoài này - một nhiệm vụ rất lớn, nhưng lúc nào tôi cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, lúc nào cũng nghĩ tới chiến trường Nam Bộ là nơi đồng chí, đồng bào đương kháng chiến gian lao. Tôi đã nhiều lần đề nghị với Bác Hồ, với Trung ương cho trở về chiến trường để cùng với đồng chí, đồng bào Nam Bộ tham gia tháng chiến nhưng Bác Hồ chưa đồng ý. Chúng tôi hiểu, Bác Tôn là người tiêu biểu nhất, người con trung thành nhất của đồng bào và nhân dân Nam Bộ; một người thông thạo về mọi mặt của Nam Bộ mà đặc biệt là thông thạo, hiểu biết về đồng bào Nam Bộ rất nhiều. Cho nên, Bác ở lại Trung ương là một điểm vô cùng quan trọng. Trong lòng Bác thì lúc nào cũng mong được về trực tiếp chiến đấu cùng với đồng chí, đồng bào Nam Bộ. Chưa được về ngay, phải ở lại theo yêu cầu của Bác Hồ và Trung ương chắc Bác Tôn trăn trở lắm. Bác nói rằng: Đề nghị đồng chí, đề nghị đoàn về báo cáo tại với Xứ ủy và với đồng bào Nam Bộ rằng, Tôn Đức Thắng là người con của nhân dân Nam Bộ lúc nào cũng nghĩ tới đồng bào Nam Bộ, nghĩ tới xứ sở mà mình đã sinh ra và đã từng hoạt động. Lời nói ấy của Bác Tôn đã làm chúng tôi vô cùng xúc động khi nghĩ rằng, một đồng chí lớn tuổi đã từng hoạt động lâu năm, trải qua bao gian khổ, tù đày thế nhưng nặng lòng thương nhớ quê hương và có ý thức tổ chức kỷ luật cao đã khuyến khích cho chúng tôi rất nhiều. Có thể nói rằng, chúng tôi đã khắc phục được gian khổ vượt Trường Sơn trở về, đi tới nơi về tới chốn để rồi hăng hái tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến có sự động viên lớn của Bác Tôn, có những lời nói chân thành của Bác. Bác đã để lại một ấn tượng sâu sắc nhất trong cuộc đời hoạt động của tôi. Nhất là sau khi nước nhà thống nhất, được đón Bác tại Thành phố Hồ Chí Minh thật là sự vui mừng khôn xiết. Tôi không thể nào quên được những hình ảnh đó về Bác.
NOI GƯƠNG BÁC TÔN, PHẤN ĐẤU, RÈN LUYỆN ĐỂ CÓ CUỘC SỐNG ĐẸP
TRẦN TRỌNG TÂN28
Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888, xuất thân từ một gia đình nông dân ở tỉnh An Giang.
Thuở nhỏ, học ở trường quê nhà đã được thầy giáo Nguyễn Thượng Khách, lúc đó đang tham gia Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tuyên truyền giác ngộ cách mạng, nên sớm có tinh thần yêu nước thương dân.
Ở tuổi 18, đồng chí theo con đường làm thợ, vào học ở Trường Cơ khí châu Á ở Sài Gòn (L'école des mécaniciens Asiatiques de Sai Gon). Sau bốn năm học, tốt nghiệp với điểm cao nhất trong khóa, đồng chí xin vào làm công nhân ở Xưởng Ba Son (Arsesnal de Sai Gon).
Làm ở Xưởng Ba Son, đồng chí đã chứng kiến nhiều cảnh bất công. Năm 1912, đồng chí tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son và vận động học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn bãi khóa.
Để đánh bọn thực dân Pháp quy bắt, cuối năm 1912, đã phải cải trang, thay đổi tên họ, trốn tránh trên một chiếc tàu thủy của công ty tàu buôn chạy trên Đại Tây Dương lúc bấy giờ, để ra nước ngoài.
Đến nước Pháp, đồng chí vào làm thợ máy ở Xưởng Arsenal de Toulon được sống và làm việc cùng với những người công nhân lao động Pháp. Ở đây, đồng chí đã tham gia vận động thủy thủ Pháp đấu tranh chống tệ phân biệt đối xử vô lý giữa các thủy thủ khác màu da, giữa sĩ quan và binh lính Pháp, và liên lạc với các tổ chức Công đoàn Pháp để hoạt động trong phong trào công nhân Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) bùng nổ, nhiều người Việt Nam ở Pháp bị động viên phục vụ quân đội Pháp. Ngày 9-10-1916, đồng chí nhận lệnh đến phục vụ tại Chiến hạm France và là người Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó.
Ngày 16-4-1919, Chính phủ Pháp điều động một hạm đội gồm năm chiến hạm trong đó có Chiến hạm France tiến vào Biển Đen để chống lại nước Nga Xôviết trẻ tuổi. Biết ý đồ đó, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng anh em binh lính Pháp quyết định phản chiến vào 8 giờ sáng ngày 20-4-1919. Đồng chí được giao nhiệm vụ treo cờ đỏ lên cột cờ chiến hạm. Đồng chí kể lại sự kiện này trên báo Người thủy thủ Xôviết số 24 năm 1957: “Tôi mơ ước cùng với lá cờ đỏ này, tuần dương hạm sẽ cập bến Nga, tôi sẽ lên bờ và được dịp tham gia cuộc cách mạng và học tập các bạn Nga để trở về Tổ quốc giúp đỡ dân tộc tôi xóa bỏ ách nô lệ".
Sau cuộc binh biến này, đồng chí Tôn Đức Thắng buộc phải dời khỏi nước Pháp vào năm 1920.
Về Sài Gòn, đồng chí vào làm công nhân cho Hãng Kroff, chủ hãng là người Đức, tham gia vận động công nhân đòi giải quyết đời sống, đấu tranh cách mạng và tổ chức Công hội.
Đến năm 1925, tổ chức Công hội do đồng chí Tôn Đức Thắng xây dựng đã có ngót 300 hội viên. Công hội đã lãnh đạo công nhân đấu tranh giành nhiều thắng lợi, nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của gần 1.000 công nhân Xưởng Ba Son vào tháng 8-1925, buộc bọn chủ phải chịu tăng 10% lương.
Tiếp theo việc treo cờ phản chiến trên Chiến hạm France ở Biển Đen năm 1919, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lãnh đạo công nhân Xưởng Ba Son kéo dài thời gian sửa chữa tàu chiến Michelet của hạm đội Pháp, nhằm cản trở không cho thực dân Pháp đưa quân sang đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc đang sôi sục ở Quảng Châu vào năm 1927. Thắng lợi của cuộc đấu tranh này đã có tiếng vang đến tận Đại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản họp năm 1928.
Sau khi liên hệ được với tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập, đồng chí Tôn Đức Thắng đã hướng các tổ chức Công hội của mình thành cơ sở để phát triển tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Sài Gòn và Nam Bộ. Qua đó, đồng chí đã trở thành một trong lớp người đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công nhân Việt Nam và là người đã tham gia tích cực trong việc vận động thành lập Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuối năm 1929 đồng chí Tôn Đức Thắng bị chính quyền thực dân Pháp bắt. Đến tháng 6-1930 bị tòa án thực dân Pháp kết án 20 năm khổ sai và đày đi Côn Đảo.
Người tù Côn Đảo mang số hiệu 5289-TF29 chính là đồng chí Tôn Đức Thắng của chúng ta. Bị giam hãm đày đọa hơn 15 năm trời trong địa ngục trần gian Côn Đảo, đồng chí Tôn Đức Thắng vẫn luôn luôn nêu gương đạo đức cách mạng trong sáng, tổ chức các bạn tù thành lực lượng cách mạng trong nhà tù, đấu tranh kiên cường bất khuất với kẻ thù. Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đã vận động tổ chức ra chi bộ đặc biệt của Đảng trong tù. Đồng chí cũng đã tổ chức được những đường dây liên lạc với đất liền và với Đảng Cộng sản Pháp, tiếp nhận báo, tin và sách Mác - Ăngghen - Lênin đưa vào nhà tù, biến Nhà tù Côn Đảo thành trường học cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trước khi tàu của Ủy ban Hành chính Nam Bộ ra đón anh em tù ở Côn Đảo, đồng chí Tôn Đức Thắng và các đồng chí tù chính trị đã nổi dậy giành quyền làm chủ trên toàn đảo.
Về đến đất liền, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tham gia ngay vào cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ. Ngày 15-10-1945, tại Cầu Vĩ (Mỹ Tho), Hội nghị cán bộ Đoàn xử Nam Kỳ đã bầu đồng chí vào Xứ ủy Nam Kỳ, được phân công phụ trách Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ kiêm chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ.
Từ mùa xuân năm 1946, đồng chí Tôn Đức Thắng được điều động về Trung ương cùng hoạt động cách mạng với Bác Hồ và các đồng chí Trung ương Đảng ở Chiến khu Việt Bắc. Trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ngày 6-1-1946, đồng chí được nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Tháng 4-1946 theo lời mời của Quốc hội nước Cộng hòa Pháp đồng chí Tôn Đức Thắng tham gia đoàn Quốc hội nước ta sang thăm nước Pháp. Cuối tháng 5-1946 tại Hà Nội đồng chí được bầu làm Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt nhằm thực hiện đại đoàn kết toàn dân, làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp tại Tuyên Quang năm 1951, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, trở về Thủ đô Hà Nội, Bác Hồ là Chủ tịch còn Bác Tôn là Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Bác Tôn kế tục làm nhiệm vụ Chủ tịch nước trong năm trời, tiếp tục cùng với nhân dân, Nhà nước và Đảng chiến đấu chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 15-5-1975, trong cuộc mít tinh Chào mừng thắng lợi giải phóng miền Nam được tổ chức tại Sài Gòn, Bác Tôn đã có mặt trận lễ đài, chan hòa niềm vui chung với nhân dân cả nước.
Những năm cuối đời tuy tuổi cao, nhưng Bác Tôn của chúng ta đã cố gắng hết sức mình để làm tròn nhiệm vụ được phân công cho đến hơi thở cuối cùng.
Hồi 6 giờ 35 phút ngày 30-3-1980, tại Thủ đô Hà Nội, Bác Tôn kính mến của chúng ta đã từ trần, hướng thọ 92 tuổi. Nhân dân ta, giai cấp công nhân Việt Nam ta toàn thể cán bộ, chiến sĩ, đảng viên ta và bè bạn quốc tế vô cùng thương tiếc Bác Tôn.
Ôn lại thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta thấy nổi lên tấm gương vô cùng sáng đẹp. Đó là gương tuổi trẻ sớm xác định được lý tưởng về một cuộc sống có ý nghĩa, phấn đấu vì nước, vì dân, luôn luôn có mặt trong những người tiên phong, làm trước, sẵn sàng gánh vác nhiệm vụ khó khăn nhất, trong những tình huống hiểm nghèo nhất, không cam chịu cuộc sống tầm thường chỉ nghĩ đến lợi ích riêng, coi nhẹ lợi ích chung.
Đó là gương về một người thợ trưởng thành từ Xưởng máy Ba Son sớm giác ngộ về ý thức giai cấp, biết gắn lợi ích giai cấp công nhân với lợi ích dân tộc, biết xót xa với nỗi khổ của người dân mất nước, với nỗi khổ bị áp bức bóc lột của người lao động, không riêng nước mình mà của cả nước khác, có ý thức về cách mạng dân tộc gắn với cách mạng thế giới. Đó là gương một người chiến sĩ cộng sản kiên định với lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động, giải phóng con người, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tính đảng cao, gắn bó mật thiết với quần chúng, luôn luôn giữ gìn đạo đức: Giản dị, khiêm tốn, cần kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, có tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất trước mọi kẻ thù hung bạo.
Trong lời Chào mừng Bác Tôn 70 tuổi, được tặng thưởng Huân chương Sao vàng ngày 20-8-1958, Bác Hồ đã nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, 9 năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, 4 năm phấn đấu để gìn giữ hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà… Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại”30.
“Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”31.
Trong tấm gương về đạo đức cách mạng của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta nhận thấy tầm cao của đạo đức người chiến sĩ cộng sản được xây đắp trên nền tảng, bề dày của đạo đức làm người.
Từ tuổi nhỏ sống trong gia đình, Bác Tôn là người con hiếu thảo. Vào trường học, biết quý trọng thầy, biết học và làm theo điều hay lẽ phải của thầy dạy và có tình bạn chân thành. Trong xưởng máy, quyết tâm để trở thành thợ giỏi, luôn luôn chăm sóc giúp đỡ bạn thợ gặp khó khăn. Đối với bạn cùng chiến đấu, Bác quan tâm chu đáo. Sống ở nước ngoài, ngày đêm nghĩ về Tổ quốc. Ra miền Bắc, luôn luôn thương nhớ đồng bào miền Nam đang phải chiến đấu hy sinh gian khổ đi trước, về sau; nhớ công nhân Ba Son, nhớ bà con quê hương ở An Giang, ở Cù lao ông Hổ. Lúc còn ở chiến khu, Bác thường mặc chiếc áo nối. Có người hỏi, Bác trả lời "mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn". Quyền cao chức trọng nhưng cốt cách người thợ được giữ gìn trọn vẹn: Thích sống tiết kiệm, ăn uống đạm bạc, thích tìm thú vui trong lao động, thích giúp đỡ người khác, thích bày cho các cháu nhỏ cách sửa chữa xe đạp, cách sử dụng búa, cách cần kìm, cầm giũa. Việc các cháu, con của các đồng chí tại cơ quan Bác, đã đặt tên riêng cho Bác là "Ông kỹ sư trưởng” cũng là điều rất đặc biệt, rất đáng quý.
Đối với con cháu trong gia đình, Bác tranh thủ mọi dịp có được gần gũi, thương yêu chăm sóc, dạy dỗ. Đặc biệt đối với Bác gái, Bác là người chồng sống có tình, có nghĩa, son sắt thủy chung.
Nghĩ đến gương đạo đức làm người nói trên của Bác Tôn là điều rất có ý nghĩa đối với chúng ta ngày nay. Trong nhiều trường hợp cán bộ đảng viên ta đã vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, bị dư luận chê bai, nhìn lại, thường là do không kìm chế được lòng tham bất chính nên vi phạm đạo làm người.
Đạo làm người thực ra là nền tảng cho việc hình thành đạo đức cách mạng của người chiến sĩ cộng sản. Tấm gương về đạo đức cách mạng, đạo đức làm người của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã được cả một cuộc đời 92 năm minh chứng, kiểm nghiệm. Gương sáng về đạo đức của Chủ tịch Tôn Đức Thắng cùng với gương sáng về đạo đức, lối sống cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là vốn quý trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, của nhân dân ta và của Đảng ta.
Theo gương đạo đức Bác Hồ, Bác Tôn, cùng với việc nâng cao bản lĩnh lãnh đạo, năng lực trí tuệ, cán bộ đảng viên ta mới được nhân dân tin yêu và mới góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là vấn đề then chốt quyết định thắng lợi của cách mạng nói chung và thắng lợi của công cuộc đổi mới nói riêng. Có phấn đấu tu dưỡng trở thành con người có đạo đức tốt thì mới có được đời sống tâm hồn thanh thản, cao đẹp, mới có hạnh phúc.
Noi gương Chủ tịch Tôn Đức Thắng, chúng ta cố gắng để hằng ngày tự suy ngẫm lại mình, vươn lên làm nhiều điều tốt hơn, vừa lo cho mình nhưng cố gắng nghĩ nhiều hơn đến cảnh ngộ người khác, vừa lo lợi ích riêng, nhưng nghĩ và làm nhiều hơn cho lợi ích chung, vươn lên để có cuộc sống đẹp, chân chính, cuộc sống có đạo đức: Đạo đức làm người, đạo đức người chiến sĩ cách mạng.
NGƯỜI BẠN LỚN CỦA BÁC HỒ
HÀ ĐĂNG32
Cuối tháng 6-1975, tròn hai tháng sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi có dịp về thăm quê nhà ở Phú Yên. Không ngờ câu chuyện trong buổi gặp mặt đầu tiên với bà con lại là chuyện về Bác Tôn. Cũng ngẫu nhiên thôi. Tôi đến trình diện ông chú họ, tuổi đã trên 80. Ông chỉ lên bức tranh in ảnh Bác Hồ và Bác Tôn bắt tay nhau, bức tranh mà ông được một cán bộ giải phóng gửi tặng và ông đã treo lên nơi trang trọng nhất trong nhà. Ông hỏi:
- Nè, ông này chắc là to lắm phải hôn con?
Câu hỏi thật bất ngờ. Rất dễ mà cũng rất khó trả lời. Bởi tôi chưa hiểu sự suy nghĩ về chữ "to" mà ông nêu lên. Tôi nói: Thưa chú đây là Bác Tôn, là Cụ Tôn Đức Thắng người thay Bác Hồ giữ chức vụ Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kể từ ngày Bác Hồ mất đến nay.
Chú tôi bỗng cười to, sảng khoái. Dường như câu trả lời đã nói đúng điều mà ông suy nghĩ.
- Vậy mới phải! Tao cũng nghĩ là Ổng to lắm mới được bắt tay Cụ Hồ một cách bình đẳng như vậy.
Rồi ông khẽ hỏi:
- Vậy con ra ngoài đó, có lần nào được giáp mặt (gặp) Cụ Hồ và Cụ Tôn không?
Trước mắt tôi, bỗng hiện lên hình ảnh của hai vị cha già.
Bác Hồ đã đi xa, về với thế giới người hiền mà vẫn còn ôm ấp trong tim hình ảnh của miền Nam thân yêu và lòng thiết tha mong muốn đến ngày kháng chiến thắng lợi hoàn toàn "sẽ đi khắp hai miền Nam, Bắc để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta"33. Bác từng nói một câu đã đi vào lịch sử: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”34. Còn Bác Tôn, người kế tục chức vụ của Bác Hồ, chỉ 14 ngày sau khi Sài Gòn giải phóng, ngày 13-5-1975, đã dẫn đầu Đoàn đại biểu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào thành phố thân yêu thăm đồng bào miền Nam và dự lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Tôi nói với chú tôi: Đúng là ở ngoài đó, con có được vinh hạnh gặp Bác Hồ và Bác Tôn. Không phải chỉ trong các cuộc mít tinh hay hội nghị lớn mà cả trong những sinh hoạt bình dị nhất, những cuộc thăm hỏi, chuyện trò của hai Bác đối với cán bộ và nhân dân. Con đã được chụp ảnh chung với Bác Hồ khi Bác đến thăm Báo Nhân dân, được theo chân Bác trong một vài chuyến công tác có mặt và đưa tin về lần bỏ phiếu cuối cùng của Bác bầu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội... Con cũng đã được gặp, bắt tay và nghe chuyện Bác Tôn trong nhiều cuộc họp của Ủy ban Trung ương Mặt trận, được thăm Bác và cả Bác gái tại nhà riêng ở số 48 phố Tràng Thi, v.v..
Chú tôi nghe mà cảm thấy xiết bao tự hào. Dường như trong ông, mang máng một cái gì đó có liên quan đến vinh dự của dòng họ khi có người được trực tiếp "giáp mặt" với hai vị Chủ tịch nước đầu tiên của Nhà nước ta.
Lớp cán bộ chúng tôi, vào loại sinh sau đẻ muộn, bước vào con đường cách mạng khi Cách mạng Tháng Tám 1945 đã thành công. Ngày ấy, hai chữ “đồng chí" đồng nghĩa với hai chữ "đảng viên" hay người cộng sản, đối với chúng tôi là thiêng liêng lắm. Chúng tôi gọi những người đảng viên, cả lớp tiền bối lớn tuổi, đều là đồng chí. Hồi đó và mãi về sau này vẫn quen gọi là “Anh" những người lãnh đạo cao của Đảng, như anh Năm (Trường Chinh), anh Ba (Lê Duẩn), anh Tô (Phạm Văn Đồng), v.v.. Chỉ trừ hai người mà ngay từ đầu, tất cả đều gọi là Bác: Bác Hồ và Bác Tôn. Bác Tôn lớn hơn Bác Hồ hai tuổi, nhưng vẫn gọi Bác Hồ là Bác. Còn Bác Hồ thì vẫn gọi người chiến hữu gần gũi với mình là Bác Tôn, cả khi mời cơm riêng cũng dặn Bác Tôn đưa cả “Bác gái" cùng đi.
Tôi được nhìn thấy Bác Tôn sau ngày tập kết ra Bắc năm 1955. Tháng 9 năm đó, Bác Tôn được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội (như Chủ tịch Quốc hội ngày nay) và là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Thật ra, từ năm 1947, tại vùng tự do Liên khu V, khi tôi được kết nạp vào Đảng, cũng là lúc được biết rằng đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Tổng Thanh tra của Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tiếp các năm sau là các chức vụ: Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc, Quyền Trưởng ban rồi Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc v.v. ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi về Bác Tôn là sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Bác Tôn là một trong số sáu lãnh tụ được chính thức theo ảnh.
Ra Bắc, tôi được về công tác Báo Nhân dân tâm mắt ngày càng được mở rộng; tiểu sử các lãnh tụ cách mạng ngày càng được tìm hiểu sâu hơn. Lúc này với biết Bác Tôn từ năm 1910 đã tham gia phong trào đấu tranh của công nhân và năm 1912 là một trong những người tổ chức và lãnh đạo cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ và của công nhân Xưởng Ba Son. Rồi cuối năm đó, một năm sau ngày Nguyễn Ái Quốc rời bến Nhà Rồng, Tôn Đức Thắng cũng trốn sang Pháp, làm thủy thủ tàu Lacoóc. Con người đó, đến năm 1916, bị động viên vào Hải quân Pháp, làm thợ máy. Năm sau, 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra làm rung chuyển cả thế giới. Đế quốc Pháp hai lần cử hạm đội sang Nga để tham gia tộc chiến tranh can thiệp hòng bóp chết Chính quyền Xôviết non trẻ. Chúng có biết đâu rằng, chính hai lần can thiệp ấy lại là hai lần quân đội và Hải quân Pháp nổi dậy phản chiến, bày tỏ tình đoàn kết với giai cấp vô sản và nhân dân Nga. Và trong lần phản chiến thứ hai, vào một ngày tháng 4-1919, trên Chiến hạm France, một trong năm chiến hạm Pháp được lệnh tiến vào Biển Đen, người thủy thủ Tôn Đức Thắng, với tư cách một người công nhân Việt Nam ở một nước thuộc địa của Pháp đã dũng cảm tham gia cuộc phản chiến, và là người được phân công kéo lá cờ đỏ trên chiến hạm để chào mừng Nhà nước vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người. Tự hào biết mấy Vinh quang này không chỉ cho riêng người thủy thủ Tôn Đức Thắng. Đó còn là dấu hiệu cho thấy ngay từ đầu, Việt Nam đã đứng bên cạnh nước Nga cách mạng, nước Nga Xôviết. Không phải ngẫu nhiên mà Bác Tôn được suy tôn làm Chủ tịch danh dự của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và là Hội trưởng đầu tiên của Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên Xô. Cũng không phải ngẫu nhiên mà tháng 12-1955 Ủy ban Giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin của Liên Xô quyết định tặng Bác Tôn Giải thưởng Lênin và hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.
Một sự kiện làm nức lòng cả nhân dân ta, gợi lên sự tôn kính và cả niềm tự hào về sự cống hiến cao cả của các vị lãnh đạo cách mạng là ngày 19-8-1958, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định trao tặng Bác Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng, nhân dịp Bác Tôn 70 tuổi.
Lớp trẻ chúng tôi cực kỳ xúc động khi nghe Bác Hồ nói lên lời chúc trong buổi lễ trao tặng Huân chương cho Bác Tôn:
"Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc. Suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, 9 năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, 4 năm phấn đấu để giữ gìn hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 29 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí là 13 tuổi"35.
Bác Hồ nói thêm:
“Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại...”36.
Và người kết thúc lời chúc:
"Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là huân chương cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng thưởng Huân chương ấy"37.
Mười năm sau, ngày chúc thọ Bác Tôn 80 tuổi, Bác Hồ ôm hôn thắm thiết Bác Tôn và tặng hai câu thơ:
“Càng già chí khí càng dai,
Chống Mỹ cứu nước ít ai hơn Già".
Bác Tôn lắng nghe mà lòng bồi hồi xúc động.
Bác Hồ và Bác Tôn là hai ngôi sao sáng chói trong bầu trời sao cách mạng Việt Nam, là hai hạt kim cương lấp lánh của nền đạo đức Việt Nam thời đại mới. Bác Hồ quý trọng Bác Tôn bao nhiêu thì Bác Tôn càng kính yêu và quý trọng Bác Hồ bấy nhiêu. Bác Tôn biết ơn Bác Hồ vì Bác Hồ là người đưa cả dân tộc ta thoát khỏi vòng nô lệ và cũng chính là người đưa Bác Tôn đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý của thời đại. Ở bất cứ đâu và trong bất cứ cuộc gặp mặt nào với cán bộ và nhân dân, Bác Tôn đều căn dặn phải hết lòng hết sức thực hiện những lời dạy của Bác Hồ. Ở nhiều đại hội hay hội nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bác Tôn đều nhắc đến lời dạy mang tính chân lý lịch sử của Bác Hồ:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công".
Bác Tôn rất ít khi làm thơ. Nhưng trong những bài phát biểu quan trọng của mình, đôi khi Bác cũng chen vào một vài câu thơ mà gói được cả tinh thần bài nói. Tôi nhớ mãi “hình ảnh của Bác Tôn tại Hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước tổ chức tại Hà Nội tháng 12-1964, thời điểm mà cuộc “Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ đã phá sản và là đêm trước của cuộc chiến tranh cục bộ do đế quốc Mỹ gây ra, bao gồm cả chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Tại Hội trường Ba Đình chật ních đại biểu quốc tế có mặt, Âu, Á có, Mỹ, Phi, Úc38 có, vị Phó Chủ tịch nước, người chiến sĩ Biển Đen năm xưa đã kết thúc bài phát biểu của mình trong tiếng tung hô vang dội với câu thơ thật giản dị mà cũng thật chí tình:
"Nam Bắc hai miền chung đại nghĩa,
Năm châu bốn biển một gia đình”.
Hai câu thơ ấy gợi nhớ hai câu thơ của Bác Hồ trong Lời chào mừng đại biểu các đảng anh em đến dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng ta năm 1960:
“Quan sơn muôn dặm một như
Bốn phương vô sản đều là anh em!”
Dù là Chủ tịch nước, Trưởng ban Thường trực Quốc hội hay Chủ tịch Mặt trận, Bác Tôn vẫn luôn luôn sống một cuộc sống khiêm tốn và giản dị, nhân từ và đức độ, trung thực và nghĩa tình khiến cho mọi lớp tuổi đều nhìn thấy ở Bác một người anh cả, một người cha, một người ông trong gia đình. Chúng ta đã nghe nói nhiều về những chuyện sinh hoạt bình thường của Bác mà cứ như nghe những câu chuyện huyền thoại. Bác được tin có người bạn tù cũ đang công tác ở Nông trường Lương Sơn (Hòa Bình), đã tự mình đến thăm mà không chờ bạn đến với mình, bởi Bác nghĩ có thể bạn bè thấy tôi làm Chủ tịch nước, họ ngại nên tôi phải đến gặp trước". Bác dành một phần tiền lương hằng tháng của mình để nuôi con một cán bộ không may qua đời. Bác tự mình sửa chữa chiếc xe đạp hay chiếc rađiô riêng của mình khi bị hỏng hóc. Bác tự tay chăm sóc người vợ hiền bị bệnh nặng trước lúc lâm chung. Thì giờ ngoài công việc, Bác thường dành cho công nhân, nông dân, cho những bạn bè, thân hữu, cho những đồng bào bị hoạn nạn trong chiến tranh. Năm 1957, Bác về thăm Nông trang Nam Bộ ở Quý Cao (Hồ Phòng), Bác đến từng gia đình hỏi han việc làm ăn, sinh sống. Bác đến thăm một gia đình liệt sĩ, mẹ góa, bốn con côi. Cháu gái đầu lúc ấy còn nhỏ lắm, thấy có khách đến, đã chạy vào buồng ngủ để trốn. Bác Tôn vào tận nơi, xoa đầu và hỏi: “Ngó bộ mặt Bác xấu lắm nên cháu sợ phải không?". Cô bé nhìn vẻ đôn hậu của Bác, như thấy chính ông nội của mình bỗng khóc òa lên và ôm chầm lấy Ông. 25 năm sau, cô bé ấy trở thành một cán bộ khoa học - kỹ thuật, một nhà báo - nhà báo Nhật Minh được đến học ở Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Và chính ở đây, nhà báo đã cùng các bạn đồng học tổ chức kỷ niệm ngày Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký Sắc lệnh công bố Pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Ai cũng nhìn thấy hình ảnh của Bác Tôn trong Pháp lệnh ấy.
Mười năm sau khi Bác Tôn qua đời, tôi có dịp hai lần về công tác ở An Giang và lần nào cũng được về thăm quê Bác ở Cù lao Ông Hổ. Ở đó, đã xây dựng một ngôi đền thờ Bác Tôn và Khu lưu niệm về Người. Đền thờ không lộng lẫy nhưng uy nghi và thân thiết. Cảnh quan thật là đẹp. Và nơi đây đã trở thành một danh thắng lịch sử và văn hóa, một địa danh du lịch. Đến đây, niềm xúc động lớn của mọi người là được thăm ngôi nhà gỗ đơn sơ, nơi Bác Tôn sinh ra và lớn lên. Nơi đây, đầu thế kỷ trước, Bác đã ra đi, rồi dấn thân vào con đường cách mạng; và cũng nơi đây, Bác về thăm lại quê nhà lần cuối vào tháng 10-1975, khi miền Nam đã hoàn toàn giải phóng và Bác là Chủ tịch nước.
Ngày ấy, như chính những cháu con kể lại, Bác Tôn nói: "Hôm nay Đảng và Nhà nước cho phép tôi về thăm quê nhà. Chưa bao giờ tôi thấy sung sướng như lúc này, khi cả nước được độc lập, tự do, Bắc - Nam thống nhất". Cũng ngày ấy, sau 45 phút gặp mặt bà con dòng họ tại ngôi nhà gỗ chưa kịp hàn huyên cho thỏa niềm mong ước, Bác đã phải "xin phép" giã từ bởi “còn đi lo việc nước". Trong việc nước mà Bác Tôn nói, có việc chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI, khóa mà Quốc hội thống nhất đã bầu lại Bác Tôn làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
CỤ TÔN ĐÃ ĐỂ LẠI CHO CHÚNG TA "TÁC PHẨM CUỘC ĐỜI"39
TRẦN VĂN GIÀU40
Ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đối với Việt Nam, trước hết qua hai người, người thứ nhất là Nguyễn Ái Quốc và người thứ hai là Tôn Đức Thắng.
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đang ở Paris. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc nhận được những tin tức về Cách mạng Tháng Mười Nga, nhất là Người đã được chứng kiến những tình cảm của nhân dân Pháp đối với Cách mạng Tháng Mười Nga. Paris là một thành phố có nhiều truyền thống đấu tranh cho nên tình cảm của nhân dân Pháp đối với Nguyễn Ái Quốc là rất lớn. Ngoài Nguyễn Ái Quốc còn có nhiều người chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười, nhưng có lẽ người chịu ảnh hưởng quan trọng nhất là Tôn Đức Thắng.
Tôn Đức Thắng không hoạt động ở Paris nhưng làm thợ máy trong Hải quân Pháp. Năm 1919, nước Nga có nội chiến, phe phản cách mạng tấn công chính quyền Xôviết non trẻ; đồng thời 14 nước đế quốc bên ngoài cũng hợp sức đánh vào. Trong số đó, đế quốc Pháp gửi một hạm đội đến Biển Đen phối hợp với phe phản cách mạng chống lại Cách mạng Tháng Mười Nga. Trong số những người lính Hải quân Pháp chịu ảnh hưởng Cách mạng Tháng Mười Nga có Tôn Đức Thắng. Họ có ý định cùng nhau phản chiến chống lại sự can thiệp của Pháp vào chính quyền Xôviết mới thành lập.
Khi hạm đội Pháp tiến vào Biển Đen, chuẩn bị đổ bộ, những người lính biểu lộ sự đồng tình với Cách mạng Tháng Mười Nga bằng cách kéo cờ phản chiến, đòi rút quân Pháp quay về và họ đã chọn Tôn Đức Thắng là người kéo cờ. Kéo cờ phản chiến là hành động rất dũng cảm, Tôn Đức Thắng là một con người dũng cảm vì Tôn Đức Thắng đã làm được điều đó. Trong quân đội và trước tình hình như thế, kéo cờ phản chiến là một tội rất nặng. Tôn Đức Thắng vẫn hăng hái thực hiện tốt nhiệm vụ, cho nên, hạm đội Pháp đã không can thiệp, không nổ súng, không đàn áp Cách mạng Tháng Mười Nga mà quay về Toulon - một hải cảng của Pháp ở Địa Trung Hải. Sau đó có nhiều người lính thủy đã bị Chính phủ Pháp xử tội.
Điều quan trọng ở đây là Tôn Đức Thắng, người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga bằng hành động cụ thể. Quan trọng hơn nữa và quan trọng nhất là Tôn Đức Thắng đã mang ảnh hưởng đó về Sài Gòn.
Khi tôi viết quyển Sự hình thành của giai cấp công nhân thì Bác Tôn có kể lại cho tôi nghe sự việc này và có bài viết trong sách.
Khi về đến Sài Gòn, Cụ Tôn tổ chức ra Công hội bí mật, không phải Công hội đỏ. Tôi có hỏi Cụ, Công hội được bao nhiêu người? Cụ nói: “Non già 300 người". Không phải riêng ở Sài Gòn mà ở các tỉnh cũng có. Không phải chỉ có thành phần công nhân mà nông dân, học sinh cũng có.
Lần đầu tiên ở Sài Gòn có tổ chức cách mạng chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga chính là Công hội của Tôn Đức Thắng và cũng là một tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam, vì lúc bấy giờ các nơi khác chưa có Người đầu tiên đề xướng thành lập ra tổ chức này là Cụ Tôn Đức Thắng.
Tôi bị bắt, ra tòa ở Sài Gòn và bị xử 5 năm tù vào cuối năm 1935. Với mức án như vậy thường thì không phải đi đày, nhưng riêng tôi lại bị đi đày ở Côn Đảo và cũng nhờ vậy tôi gặp Cụ Tôn năm 1935 ở đấy.
Sau này gọi là "Cụ Tôn" chứ vào thời đó người ta gọi là “anh Hai Thắng", ở trong tù không có danh xưng "cụ”, lớn hơn kêu bằng “anh", nhỏ hơn kêu bằng "thằng”, Cụ Tôn gọi tôi là “thằng Giàu” hay "chú Giàu”.
Ra Côn Đảo tôi bị giam ở Banh I cùng với Cụ Tôn - khu giam tù chính trị khổ sai. Đồng chí Phạm Văn Đồng ở Banh II - khu giam tù chính trị, tù cấm cố.
Lúc đó, chúng tôi làm việc ở Sở Tẩy (không phải Sở Tải), là làm vệ sinh. Người cặp rằng - người cai quản chúng tôi là anh Hai Thắng, cặp rằng là người chỉ huy công việc, nếu chúng tôi làm sai thì bọn Pháp gõ anh cai (cặp rằng) chớ không gõ chúng tôi. Lúc đó tôi cũng mới được biết anh Hai Thắng làm cặp rằng Hầm xay lúa, rồi sau mới qua làm Sở Tẩy với chúng tôi.
Kể về người cặp rằng ở Hầm xay lúa tức anh Hai Thắng có rất nhiều huyền thoại. Hầm xay lúa là nhà chứ không phải hầm, có một cửa để vác lúa ra vào, tường bao bọc xung quanh nhưng không có cửa sổ, chỉ có cửa sổ trên mái nhà cao 4-5 thước để không khí lưu thông ra vào, sát phía bên dưới mái nhà có rào sắt. Ngôi nhà có diện tích khoảng 10 thước bề ngang hay hơn một chút, bên trong có để nhiều cối xay.
Tại sao bọn Tây lại đưa anh Hai đi làm cặp rằng Hầm xay lúa? Chỗ nào cũng có một người cai gọi là cặp rằng. Anh Hai làm cặp rằng, cai quản bốn, năm chục người xay lúa bên trong hầm. Chúng ta thử tưởng tượng, trong một căn nhà với diện tích như thế đặt 10-15 cối xay, xay ầm ầm cả ngày, bao nhiêu khói bụi? Do không có cửa sổ nên khói bụi không có lối thoát ra ngoài, các tù phạm phải làm việc trong môi trường mịt mù, đặc nghẹt khói bụi như thế đấy! Chỉ những tù nhân với mức án khổ sai mới bị đưa vào Hầm tay lúa, bắt xay mỗi ngày mấy chục giạ lúa, phải xay đủ số lượng nên người tù rất cực khổ. Đa số anh em tù không chịu nổi... Thường thì người tù thà chết chứ không ở lâu được trong hầm và cũng không chịu làm việc trong đó. Chúng nó bắt cặp rằng phải giao đủ số lượng lúa xay, cho nên người cặp rằng nào cũng vậy, phải hối thúc anh em tù làm việc vô điều kiện. Cũng chính vì vậy, vào một thời gian các cặp rằng cũng đều bị tù nhân dùng tay cối xay đánh cho chết. Họ hành động như vậy nhằm nhận thêm một tội giết người để có không khí thở trong thời gian bị đưa về Sài Gòn xử tội. “Giết một người chỉ để khỏi ở Hầm xay lúa thôi!". Chúng nó rất muốn giết Cụ Tôn, nhưng không dùng chính tay chúng nó, mà mượn tay tù nhân giết bằng cách này, thật là nham hiểm.
Anh Hai Thắng là người cộng sản, anh Hai tích cực và biết tuyên truyền, vận dụng anh em; người ta ai cũng thương anh Hai. Anh Hai tuyên bố ai muốn xay bao nhiêu thì tùy sức chứ không buộc anh em xay đủ số. Anh Hai Thắng nói: "Các anh muốn xay bao nhiêu thì xay, còn Tây nó đánh tôi, nó làm gì tôi, mặc kệ tôi". Lúa xay không đủ buộc chúng phải thay cặp rằng khác. Cuối cùng bọn Tây phải chuyển anh Hai Thắng qua làm cặp rằng ở Sở Tẩy bên chúng tôi. Tôi biết anh Hai Thắng trong cơ hội đó.
Nhưng biết rõ nhất là vào hồi Mặt trận bình dân, anh Thắng còn ở trong khám. Đầu năm 1936, ngoài Côn Đảo có những cuộc đấu tranh của tù nhân đòi ân xá, đòi giảm bớt cực nhọc trong công việc làm rất mạnh. Những anh em tù thường phạm đấu tranh bị đánh đập. Chúng tôi là tù chính trị nhốt chung với họ cũng tham gia bãi công, bên kia bọn Tây đánh tù thường phạm, thường phạm kêu la, bên đây chúng tôi hưởng ứng. Cuối cùng chúng nó đem nhốt tất cả vào hầm không cho để làm nữa. Tất cả bị giam chung ở Buồng 6, 7, 8, 9, 10. Tôi cùng bị giam chung với anh Hai Thắng ở Buồng 8, Tây nó đánh rất dữ. Tôi nhắc lại: Chúng nó vào khủng bố, đánh đập dã man ở Buồng 8, ngoài ra các Buồng 6, 7, 9, nhưng riêng Buồng 10 không bị chúng đánh đập, vì Buồng 10 giam nhóm Quốc dân Đảng. Tây nó đánh kinh khủng, từ 8 giờ hơn đánh cho đến 12 giờ. Cây mây cà dông là thứ mây lớn thường dùng để làm bàn ghế, ngoài Côn Đảo trên núi có sẵn. Chúng chặt ra mỗi cây một thước để đánh anh em tù.
Ban đầu chúng nó đem hai cần xé mây, đánh dồn chúng tôi vào một góc. Chúng nói: “Tụi bây kêu la phản đối thì tụi tao đập khi nào hết la thì thôi...". Không phải chỉ vậy, chúng đánh đến khi nào hết cần xé mây thì mới thôi. Mỗi thằng cầm một cây đánh cho tới khi dập nát cây mây này thì lấy cây khác cứ thế... hết thảy bốn cần xé.
Tôi nhớ, anh em chúng tôi trẻ hơn, anh Hai Thắng lớn tuổi nhất, lúc chúng nó đánh dồn chúng tôi vào một góc thì chúng tôi để anh Hai Thắng nằm sát ở dưới để che đòn cho anh. Chúng tôi ở hai - ba lớp bên ngoài đưa lưng ra cho nó đánh, anh Hai Thắng cũng bị đánh, nhưng không bị bể lưng. Sau những trận đòn như thế anh em trẻ chúng tôi thì bầm nát hết cả lưng, không còn chỗ nào không u lên, bầm thâm đen cả người…
Những cuộc đấu tranh mà chúng tôi bảo vệ Cụ Tôn, ai cũng bị đánh cả, trong số đó có cả Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, v.v.. Còn tôi biết tiếng Tây ra nói với chúng nó, nó lại đánh càng dữ nữa. Sau vụ này, chúng nhốt hết tù chính trị, chỉ cho tù thường phạm đi làm và cho ra ăn cơm.
Thời kỳ Mặt trận bình dân, Chính phủ Pháp thả phần lớn anh em tù được ân xá. Tôi được chúng nó đưa về Sài Gòn, chỉ là thay đổi chỗ ở chứ không được ân xá. Cụ Tôn và Phạm Hùng không được về đất liền. Thời kỳ ở Côn Đảo được sống chung với Cụ Tôn, với tôi đầy ắp những kỷ niệm khó quên.
Về sau này, tôi có điều kiện nhiều lần đến thăm Cụ Tôn ở Hà Nội và tôi phát hiện ra một điều đặc biệt là trong vườn bao giờ cũng có một chỗ để Cụ sửa xe, hình như Cụ "ghiền" máy móc thì phải, xe đạp của con cháu hư hỏng thì Cụ Tôn tự sửa. Là Phó Chủ tịch nước mà Cụ Tôn thật bình dị. Cụ thường mặc chiếc áo nâu và việc ăn uống của Cụ cũng bình thường. Khi tôi đến thăm Cụ Tôn thì vào cửa sau, mà khi ra về bao giờ Cụ Tôn cũng đưa ra tận cửa chính.
Cụ Tôn khi là Phó Chủ tịch mà tôi vẫn thấy Cụ cưỡi xe đạp. Có lần anh Tô Ký thấy Cụ mặc áo nâu và chỉ thường mặc áo nâu thôi liền nói: “Nếu khi nào Cụ chết mà khâm liệm Cụ mặc áo nâu thì tụi tôi đi đưa, mà thấy Cụ mặc áo lụa thì tụi tôi kéo dìa". Cụ sống hết sức giản dị như vậy đó.
Trước khi về Hà Nội, tôi có gặp Cụ rất nhiều lần ở An toàn khu, tôi còn giữ một tấm hình chụp chung với Cụ. Tôi và anh Bảy ngồi với nhau, trên một thân cây, gần đống lửa. Tôi chỉ có một lần chụp hình chung với Cụ thôi.
Tôi cho rằng, đời của Cụ Tôn giản dị đến thế thì cần phải có những bài viết hay để nêu lên được tấm gương giản dị của Cụ. Làm nhiều, nói ít, không đòi hỏi gì về vật chất, thương anh em, nhất là đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc, đó là những tấm gương sáng của Cụ Tôn. Rất nhiều người biết đến Cụ Tôn, không phải riêng gì mình tôi biết điều đó.
Cụ Tôn không phải là một nhà lý luận mà là người tiên phong cách mạng, người mà cả cuộc đời giành cho giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng dân tộc.
Cụ Tôn ở Côn Đảo 15 năm, khi về không ghé ngang nhà thăm Cụ bà ở Chợ Giữa (Vĩnh Kim - Mỹ Tho), nghĩa là đứng về phương diện đặt quốc gia và nhân dân lên trên gia đình thì tinh thần vì nước vì dân của Cụ Tôn còn hơn vua Thuấn bên Tàu.
Cụ Tôn Đức Thắng là người không viết sách. Trên đời lắm người, lắm nhân vật không viết một quyển sách nào mà người đời vẫn nhắc nhở luôn về con người ấy, nhân vật ấy. Các thế hệ sau luôn nhắc đến cuộc đời hoạt động, lịch sử đấu tranh của nhân vật ấy, chủ nhân vật ấy không nhất thiết phải viết ra cuộc đời của mình, tính cách của mình. Cụ Tôn khác với những nhân vật khác ở chỗ, Cụ không có một tác phẩm nào cả, có chăng là chúng ta ghi lại những điều Cụ nói thôi. Tuy nhiên, theo tôi, có thể nói tác phẩm hay nhất của Cụ chính là cuộc đời của Cụ. Cụ Tôn là một người hành động, một người có lẽ không có ý gì muốn để lại cho đời sau bằng tác phẩm của mình. Nhưng thực tế Người đã để lại cho đời sau chúng ta rất nhiều "tác phẩm" bằng hành động, bằng việc làm và những lời nói. Đó là những tác phẩm hay hơn nhiều những bài viết!
BÁC TÔN ĐỨC THẮNG
PHAN TRỌNG BÌNH41
Tháng 10-1926, sau khi lớp huấn luyện chính trị khóa I chính thức42 do Bác Hồ mở tại Quảng Châu (Trung Quốc) bế giảng, một số đồng chí được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (sau đây chúng tôi gọi tắt là "Thanh niên”) có năm người được kết nạp vào Cộng sản Đoàn43.
Chúng tôi được phân công trở về nước hoạt động cách mạng.
Bác nói, trong lớp này mới có anh em Bắc, Trung, chưa có anh em Nam Kỳ. Vậy có ai xung phong về Nam Kỳ?
Tôi (Phan Trọng Bình) xin về Nam Kỳ. Vì tôi có bố là cụ Phan Trọng Cục, nguyên có tham gia phong trào Cần Vương của cụ Phan Đình Phùng, bị khủng bố, tránh vào Nam Kỳ đi tu và làm thầy thuốc ở Thủ Dầu Một, anh Nguyễn Văn Lợi cũng xin theo tôi về Nam Kỳ.
Thế là hai chúng tôi được giới thiệu xuống chiếc tàu "Đại Phúc tinh". Anh em thủy thủ cất giấu chúng tôi cẩn thận, đưa về đến cảng Sài Gòn an toàn.
Hồi tưởng lại, chính từ cảng này, năm 1911, Bác Hồ một mình, không có một nghề gì trong tay, không một đồng xu dính túi, dám làm phụ bếp trên chiếc tàu lớn Amiral Latouche Tréville để sang phương Tây tìm đường cứu nước, thì 15 năm sau Người đã phái người về truyền bá đường lối cứu nước đúng đắn cho đồng bào! Chúng tôi rất đỗi vui sướng nhưng không khỏi lo âu sao cho làm tròn được nhiệm vụ.
Bác giao cho chúng tôi mấy nhiệm vụ:
- Đưa đường lối cách mạng của chủ nghĩa Mác -Lênin về tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, trước tiên là công nông, thanh niên, học sinh, tiểu tư sản trí thức và gây cơ sở cho “Thanh niên" ở Sài Gòn và lục tỉnh. Đó là nhiệm vụ khẩn trương nhưng lâu dài.
- Trước mắt vận động một số thanh niên có tâm huyết, nhất là trong công nông, kịp gửi sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện khóa II, mở vào cuối năm 1926.
Sau một thời gian ngắn, chúng tôi gặp được các anh Ngô Thiêm và Lê Mạnh Trinh mà chúng tôi đã quen biết và có chí hướng đang tìm cách ra nước ngoài. Chúng tôi kết nạp hai anh vào “Thanh niên" và thành lập một Chi bộ đầu tiên của “Thanh niên" ở Sài Gòn. Sau đó, ông Trần Nguyên Phụ, một nhà yêu nước, bạn của bố tôi, giới thiệu anh Nguyễn Văn Phát, người Bến Tre đang tìm đường cứu nước. Thế là chúng tôi tìm được ba người, tuy còn ít so với yêu cầu nhưng thì giờ cận quá, chúng tôi cứ gửi sang cho kịp dự lớp huấn luyện khóa II. Vả lại chúng tôi lần đầu tiên mới đến Sài Gòn, chưa bắt mối được mấy.
Chúng tôi tìm hiểu đời sống của nhân dân các tầng lớp và các tổ chức cách mạng, cần thiết cho hoạt động của chúng tôi.
Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy các tổ chức ở đây, phần lớn có tính chất cải lương. “Pháp - Việt đề huề”. Riêng tổ chức của ông Nguyễn An Ninh là có xu hướng cách mạng, nhưng còn bí đường lối và đa số hội viên lại thuộc giai cấp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản và tiểu tư sản trí thức. Tuy có một số quần chúng, nhưng phần lớn là những tay anh chị nghĩa hiệp. Ông tổ chức theo lối đầu dây do những người có tâm trí, có uy tín trong các ban hội tề hay anh chị nắm để lôi kéo dân chúng.
Theo những điều giảng của Bác Hồ "công nông là người chủ cách mạng", "công nông là gốc cách mạng", chúng tôi chú ý tìm hiểu phong trào công nhân. Điều tra các cuộc bãi công của công nhân, đặc biệt là cuộc bãi công năm 1925 của công nhân Xưởng Ba Son, chúng tôi thấy cuộc bãi công này không hoàn toàn tự phát và nhằm mục đích thuần túy kinh tế, mà có tổ chức khéo léo nhằm một mục đích chính trị nhất định, có tinh thần quốc tế vô sản cao.
Hồi đó phong trào chống đế quốc chiếm các tô giới lên cao ở Trung Quốc, đặc biệt trong công nhân. Thực dân Pháp bắt công nhân Xưởng Ba Son sửa chữa nhanh tàu Michelet để đưa sang Trung Quốc đàn áp phong trào cách mạng. Mặc dù Xưởng Ba Son thuộc nhà binh quản lý, chúng nghiêm cấm mọi cuộc yêu sách hay đình công, và đàn áp thẳng tay, nhưng chúng vẫn phải nhượng bộ, thỏa mãn các yêu sách của công nhân hòng o bế để anh em công nhân sửa chữa chóng xong chiếc tàu. Nhưng anh em vào làm từ chiến thuật đình công chuyển sang chiến thuật lãn công, quyết kéo dài việc sửa chữa, ngăn cản đến mức độ nhất định sự can thiệp vào phong trào cách mạng của công nhân Trung Quốc.
Chúng tôi phát hiện có một nhóm công nhân do Bác Tôn đứng đầu và gây dựng nên, lãnh đạo cuộc đấu tranh này. Chúng tôi liền bắt liên lạc với Bác Tôn.
Qua một số buổi gặp gỡ và tìm hiểu, chúng tôi mới biết trước kia, Bác Tôn Đức Thắng đã từng học ở Trường Bá Nghệ Sài Gòn. Tốt nghiệp ở trường ra, phần lớn vào làm cho các hãng của tư bản Pháp ở Sài Gòn. Một số ít, chúng đưa đi làm các tàu của Pháp.
Bác Tôn học khóa 1914-191744, trong thời gian này, Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Năm 1916, mặc dù chưa mãn khóa, vì nhu cầu chiến tranh, bọn thực dân bắt một số học viên khóa này, trong đó có Bác Tôn, sung vào lính thợ đưa sang Pháp phục vụ chiến tranh. Thế là Bác Tôn trở thành anh lính thủy vào làm việc trong Xưởng đóng tàu Toulon của Hải quân Pháp.
Bác tham gia sinh hoạt nghiệp đoàn công nhân của xưởng. Dần dần, Bác làm quen với những công nhân tiến bộ sẵn sàng giúp đỡ những đồng nghiệp ở thuộc địa đến, trong đó có André Marty45. Bác đã hiểu ít nhiều vai trò của nghiệp đoàn lúc bấy giờ chỉ đấu tranh cho những yêu sách kinh tế và đấu tranh hợp pháp. Nghiệp đoàn không làm chính trị.
Lần lượt, Bác lên hạ sĩ quan (quartiermaitre).
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thành công, hạ bệ vua chúa, địa chủ, tư sản, đưa công nhân lên làm chủ đất nước giải phóng các nước trước kia là thuộc địa của Nga hoàng, làm chấn động cả hoàn cầu. Các nước tư bản thế giới cho đó là việc ngược đời vô nhân luận, phi đạo lý, cấu kết với nhau quyết trừng trị cuộc Cách mạng Nga, quyết tiêu diệt nước Nga Xôviết còn non trẻ. Năm 1919, nước Pháp đem một đội chiến hạm lớn đến Biển Đen. Thủy thủ trên hạm đội, trong đó có Bác Tôn, nổi dậy làm binh biến chống lại sự can thiệp vào nước Nga Xôviết. Hăng hái trước tình thế, Bác Tôn được anh em thủy thủ cử ra kéo lá cờ đỏ lên cột cờ chiến hạm chỉ huy, để tỏ tình đoàn kết với sự nghiệp cách mạng vô sản Nga.
Phong trào chống chiến tranh đế quốc đòi hòa bình lên cao khắp nơi, Chính phủ Pháp buộc phải gọi hạm đội về, không dám thẳng tay trừng trị cuộc binh biến, vì dư luận nhân dân Pháp càng sục sôi phản đối sự can thiệp.
Trở về nước, Bác Tôn vào làm Hãng Kroff. Năm 1920, Bác Tôn với một số anh em công nhân tổ chức Công hội bí mật, trở thành nhóm trung kiên lãnh đạo Công hội.
Bác Tôn cho biết, lúc đó Bác chưa có đường lối cách mạng, chỉ thấy hằng ngày anh em mình bị bọn chủ người Pháp bắt làm túi bụi không kịp thở mà còn bị đánh đập dã man, cúp phạt, chửi mắng thường xuyên, càng làm cho lòng yêu nước, thương nòi bốc lên ngùn ngụt.
- Bác nói chưa có đường lối cách mạng, sao Bác lại tổ chức Công hội bí mật mà không tổ chức nghiệp đoàn như bên Pháp?
- Bên Pháp, nhân dân đã được pháp luật ban bố cho mọi quyền tự do dân chủ, bọn chủ nắm hết của cải trong tay, công nhân vào làm để kiếm sống phải chịu cho chúng bóc lột. Nhưng nếu chúng bóc lột quá tay thì phải đấu tranh và có quyền đấu tranh chống lại bất công. Tình cảnh công nhân ta thì khác xa. Toàn thể dân tộc ta, từ vua quan đến dân đen đều là dân mất nước, đều là nô lệ cho thực dân Pháp không có một quyền lợi nào cả. Chúng ta phải đấu tranh đòi quyền sinh sống gồm kinh tế và chính trị. Chúng ta không thể chỉ đòi quyền lợi kinh tế, nên không tổ chức nghiệp đoàn kiểu bên Pháp hồi đó được. Chúng ta phải tổ chức cái gì khác cho công nhân. Chúng tôi tổ chức Công hội. Nhưng phải tổ chức bí mật, không thì nó bỏ tù. Ngay cả tổ chức những hội tương tế, ái hữu… không dễ mà xin được. Bề ngoài chỉ nói giúp đỡ nhau trong cảnh khó khăn, những khi gặp tang tóc, bệnh hoạn, v.v. kỳ thực là bênh vực nhau trước những bất công, có khi tổ chức đấu tranh công khai, như bãi công, đình công... như cuộc bãi công ở Xưởng Ba Son năm 1925. Có khi tổ chức năm, ba anh em đánh lén chúng và bọn chó săn của chúng ...
Chúng tôi tìm hiểu Bác Tôn, không dè chúng tôi lại trở thành đối tượng tìm hiểu của Bác.
Điều lý thú sau cuộc trao đổi, chúng tôi rất mừng là đã gặp được một đối tượng chủ yếu của phong trào cách mạng. Ở Bác Tôn, chúng tôi đã gặp được một người công nhân tiêu biểu cho giai cấp công nhân của một nước thuộc địa, có ý thức giai cấp công nhân, đồng thời có ý thức dân tộc sâu rộng, có quyết tâm đấu tranh bất khuất, dày kinh nghiệm vận động công nhân, có ảnh hưởng trong giới thợ thuyền. Ngược lại, Bác Tôn cũng được gặp những thanh niên có hiểu ít nhiều về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, có đường lối cách mạng mà Bác đang cần.
Nỗi vui mừng biểu lộ rõ khi chúng tôi kết nạp Bác vào Hội Thanh niên Bác gởi thiệu cho chúng tôi những công nhân trong nhóm trung kiên của Bác như các đồng chí Trần Thương (tức Sáu Trương Thần Ngọc Giải (tức Thuận Hòa), Đặng Văn Sâm (tức Nhuận Bùi Văn Thêm (tức Định), v.v.. Sau chúng tôi kết nạp luôn các đồng chí này vào “Thanh niên" và giới thiệu đi học lớp huấn luyện chính trị khóa III.
Nhờ có Bác Tôn, trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã kết nạp vào “Thanh niên" một số công nhân ưu tú của thành phố và của Nam Kỳ. Có thể nói đây là lần đầu tiên thanh niên trong nước có thành phần công nhân. Và trong lớp huấn luyện khóa III ở Quảng Châu, Nam Kỳ đã cung cấp một số công nhân tham dự. Trong các khóa chính thức trước, mới chỉ có anh em học sinh, tiểu tư sản trí thức dự.
Nhóm Bác Tôn cũng lập được một xưởng sửa chữa ôtô, giúp anh em có công việc làm ăn, đào tạo được một số có tay nghề, đồng thời làm cơ sở hoạt động cách mạng và gây quỹ cho đoàn thể.
Ngoài nhóm công nhân Sài Gòn, Bác Tôn còn giới thiệu cho chúng tôi một số người ở Mỹ Tho có nhiệt tình yêu nước như cô Ba Viễn, một cô giáo có uy tín trong tỉnh. Cô Ba Viễn giới thiệu một số người, trong đó có chị Nguyễn Trung Nguyệt, tức Bảo Lương. Chúng tôi giới thiệu chị đi dự lớp huấn luyện chính trị khóa IV.
Cuối năm 1927, “Thanh niên" đã có cơ sở ở lục tỉnh, chúng tôi thành lập Kỳ bộ “Thanh niên” lâm thời, đóng ở Sài Gòn. Sài Gòn là nơi đầu tiên có Thành bộ “Thanh niên" do Bác Tôn và một số anh em phụ trách. Năm 1928, sáp nhập Sài Gòn với Chợ Lớn, thành lập Tỉnh bộ chính thức của "Thanh niên".
Bác Tôn Đức Thắng là công nhân công nghiệp, có trình độ văn hóa nhất định và kỹ thuật giỏi, lại đã hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế bên cạnh công nhân chính quốc và thuộc địa tham gia phong trào phản chiến ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga. Bác đã sớm kết hợp tinh thần yêu nước chống thực dân với tinh thần quốc tế vô sản cao cả.
Mặc dù chưa tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, chưa rõ đường lối cách mạng cứu nước, giải phóng giai cấp, khi về nước năm 1920, Bác đã tham gia ngay vào hoạt động trong nhân dân, nhất là trong giới công nhân. Cái hay của Bác Tôn là ở chỗ Bác không tổ chức nghiệp đoàn mà tổ chức Công hội bí mật, đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị vì đã giáo dục cho anh em trong hành động thực tiễn, tinh thần quốc tế vô sản. Bác Tôn đã tổ chức ra nhóm trung kiên để lãnh đạo Công hội.
Đầu năm 1927, gặp được đường lối cách mạng của Bác Hồ giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, Bác Tôn rất tâm đắc, Bác Tôn cùng anh em gia nhập "Thanh niên".
Bác Tôn Đức Thắng là một người tiêu biểu cho bản chất giai cấp công nhân mang trong tâm hồn tấm lòng cách mạng cao rộng, rất thương kính nhân dân, trung thực, tận tụy, khiêm tốn, giản dị.
Tuy Bác Tôn bị địch bắt trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhưng Bác đã có nhiều đóng góp lớn cho sự chuẩn bị thành lập Đảng.
MÃI MÃI NOI GƯƠNG BÁC TÔN ĐỨC THẮNG
HUỲNH VĂN TIỂNG46
Ngày 27-8-1945, sau ngày Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn thắng lợi, thành lập Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đóng trụ sở tại dinh Thống đốc Nam Kỳ (cũ) đường La Grandier (nay là Lý Tự Trọng). Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ, trong chương trình nghị sự, bên cạnh những vấn đề bức xúc như xây dựng bộ máy hành chính, một số biện pháp bảo đảm an ninh trật tự của thành phố, thì đồng chí Ung Văn Khiêm, Ủy trưởng phụ trách nội vụ nêu một vấn đề cấp bách có tính chất quyết định cho sự nghiệp cách mạng là phải nhanh chóng tổ chức giải cứu tù chính trị ở Côn Đảo, trong đó có nhiều cán bộ lãnh đạo cốt cán của Đảng. Đây không chỉ là đền ơn đáp nghĩa cho những chiến sĩ cách mạng mà còn để kịp thời bổ sung và tăng cường khung cán bộ cho Đảng, Mặt trận và Chính quyền các cấp. Với ý kiến lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đã có một quyết định quan trọng là tổ chức giải thoát, cứu trợ và trọng dụng đông đảo cán bộ tù nhân Côn Đảo để củng cố, tăng cường chính quyền non trẻ vừa mới thành lập. Ủy ban đã cử ra một Ban đặc nhiệm cứu tù Côn Đảo gồm một số ủy viên cốt cán. Đồng chí Ung Văn Khiêm lên danh sách và tình trạng sức khỏe cán bộ tù Côn Đảo. Ông Ngô Tấn Nhơn nghiên cứu và trình bày kế hoạch sử dụng tài chính. Ông Kha Vạng Cân, Chủ tịch Ủy ban Hành chính Sài Gòn lên kế hoạch chuẩn bị phương tiện, tàu bè, cơ sở đón tiếp. Kế hoạch cứu tù Côn Đảo dự kiến sẽ dùng tàu có công suất lớn để tranh thủ thời gian giải thoát trước khi địch phản ứng. Ông Đào Duy Kỳ (cựu tù Côn Đảo) báo cáo cụ thể về tình hình tù nhân. Quyết định giao đồng chí Dương Kỳ Hiệp, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Sóc Trăng chuẩn bị địa điểm đón tiếp tù Côn Đảo trở về với đầy đủ phương tiện bồi dưỡng, chăm sóc sức khỏe thông báo cho các gia đình tù nhân có thể tiếp xúc được để tổ chức việc thăm viếng của gia đình. Những kế hoạch này được nhanh chóng nghiên cứu thực hiện, chỉ trừ phương tiện tàu bè thì ông Kha Vạng Cân thông báo phần lớn bị hư hỏng không thể sửa chữa kịp đành phải chuyển qua phương thức dùng thuyền buồm. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, Ban tổ chức cứu tù sàng lọc và phân loại danh sách tù nhân Côn Đảo, đặc biệt nêu trọng tâm là ưu tiên đưa một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt về càng sớm càng tốt, trong số danh sách đặc biệt này có tên đồng chí Tôn Đức Thắng.
Tuy tôi có tham gia quyết định giải thoát tù Côn Đảo, nhưng khi thực hiện vì bận công tác nên không thể đón tại Sóc Trăng được. Chỉ được nghe báo cáo lại:
Khi đoàn ra đón tù tới Côn Đảo, thì tại đây anh em tù đã tự cướp chính quyền và chờ đoàn ra đón. Nhìn chung, phần lớn anh em đều đau yếu, có người bệnh khá nặng như đồng chí Trần Ngọc Danh (anh của đồng chí Trần Phú, cố Tổng Bí thư Đảng), bị đau phổi do chế độ hà khắc ở Nhà tù Côn Đảo, các tù nhân là cán bộ lãnh đạo Đảng như: Lê Duẩn, Phạm Hùng, v.v. tuy cơ thể có yếu nhưng vẫn còn sức hoạt động, một số tù nhân cốt cán hy sinh tại Côn Đảo như Nguyễn An Ninh, Lê Hồng Phong, Bùi Chí Hiếu đều được chăm sóc mồ mả chu đáo. Riêng đồng chí Tôn Đức Thắng nguyên là thợ máy Ba Son đã tự sửa chữa chiếc canô của chúa đảo để lái về cùng một số anh em tù nhân đến đất liền trước, đoàn thuyền ra đón anh em về sau.
Tôi cũng được biết gia đình Bác Tôn có hai cô con gái cùng một số gia đình khác, đã được Ban đón tiếp giúp đỡ đến thăm người thân là tù Côn Đảo trở về. Anh em kể lại nhiều cảnh tái hợp diễn ra như trong giấc mơ rất cảm động. Hai người con gái của Bác Tôn khi ra đời chưa biết mặt cha nên lần mò tìm kiếm tù nhân Tôn Đức Thắng và đã hỏi ngay Bác Tôn xem có biết cha mình là Tôn Đức Thắng hay không? Bác Tôn mới tát yêu vào hai người con gái và nghẹn ngào trả lời: “Thằng cha mày ở đây mà không biết à! Mà đi tìm ở đâu?". Sau đó theo chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, Bác Tôn nhận nhiệm vụ bổ sung và tăng cường để chỉ đạo Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Từ đó Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ (đóng ở Chợ Đệm) chúng tôi ngày đêm trông đợi Bác Tôn về tăng cường và chỉnh đốn giúp cho cuộc kháng chiến ở Nam Bộ vừa bắt đầu từ ngày 23-9 trong tình hình cực kỳ khó khăn, sau đó chúng tôi được biết Bác Tôn đã về đến Mỹ Tho vào giữa tháng 10. Lúc bấy giờ, giặc Pháp công phá vòng vây của lực lượng kháng chiến tại Sài Gòn và dùng tàu tấn công bằng đường sông, lực lượng phòng thủ dưới quyền chỉ huy của đồng chí Nguyễn Văn Khánh ra sức ngăn trở âm mưu của địch. Chúng tôi càng lo lắng về sự an toàn của Bác Tôn, ba ngày sau, vào buổi trưa, tôi được lực lượng bảo vệ Ủy ban Kháng chiến cho biết có một nhóm người vũ trang muốn xin gặp trực tiếp Thường trực Ủy ban Kháng chiến. Thì ra đó là Bác Tôn Đức Thắng từ chiến trường nóng bỏng Mỹ Tho về gặp Ủy ban Kháng chiến như kế hoạch đã định. Tôi rất sốt ruột chờ đợi được đón tiếp người cán bộ cách mạng kỳ cựu mà cuộc đời được ghi dấu bằng những điểm son trong phong trào vận động công nhân Việt Nam, nhân dân thế giới lên án đế quốc Pháp, và ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến Việt Nam. Tôi đã tưởng tượng Bác Tôn là một công nhân lực lưỡng, gan góc vì đã trải qua bao nhiêu sóng gió một cách vững vàng. Nhưng tôi sững sờ đón tiếp một cụ già có thể hình nhỏ nhắn, tóc nhuốm bạc, đầu lại quấn khăn trắng vì có cục bướu ở sau ót, mặc bộ đồ bà ba cũ kỹ bạc màu lại mang trên vai khăn gói như một thường dân chạy giặc lúc bấy giờ. Với bề ngoài giản dị ấy, Bác Tôn vẫn tỏ ra là một người nhanh nhẹn, cởi mở. Chúng tôi thực hiện chế độ chăm sóc chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe cho Bác. Vì đồng chí Trần Văn Giàu đi công tác miền Đông nên chúng tôi đã tổ chức báo cáo cho Bác Tôn tình hình những ngày đầu kháng chiến, khó khăn nổi bật là địch giành thế chủ động khiêu khích ta tập hợp thiểu số những quan chức tay sai của chúng như đốc phủ ác ôn Nguyễn Văn Tâm mang danh hiệu con cọp Cai Lậy, lên kế hoạch xây dựng bộ máy cai trị bù nhìn tại Sài Gòn và sau này ở Nam Bộ. Từ khi lực lượng Đồng minh Anh - Mỹ cử tướng Gracey mang lính thuộc địa Ấn Độ đổ bộ vào Sài Gòn ngày 11-9-1945, chúng càng lộ liễu lên kế hoạch lật đổ chính quyền cách mạng ta như ra lệnh: Cấm hội họp, cấm báo chí xuất bản, giải tán Thanh niên Tiền phong, giải tán lực lượng vũ trang của Chính quyền cách mạng. Tối ngày 22-9-1945, chúng lại giở trò quỷ quyệt mời lãnh đạo ta đến dự tiệc để hòa giải, lãnh đạo của ta đã kịp thời sáng suốt nhận ra mưu đồ của chúng, nhìn ra đây là cái mốc của phong trào kháng chiến.
Về phía ta, thuận lợi cơ bản nhất là toàn dân đoàn kết một lòng, đồng loạt hưởng ứng lời kêu gọi của chính quyền cách mạng, lôi cuốn một số công chức và sĩ quan cũ của Pháp vào hành động cứu nước. Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ đã bí mật được thành lập thời gian qua, âm thầm nhưng cương quyết thực hiện chuẩn bị đối phó với địch như: Rút lực lượng chủ lực của ta ra ngoài thành, tổ chức lực lượng du kích nội thành, rút thiết bị của công xưởng nội thành và kho vũ khí của địch ở Thành Tuy Hạ ra thành lập hai công binh xưởng kháng chiến, một ở Rừng Sác - Cần Giờ, một ở An Phú Đông. Đưa những tài liệu mật về quân sự và chính trị về miền Tây Nam Bộ, gỡ những thiết bị dự trữ của Đài phát thanh Sài Gòn và Nhà máy in Sài Gòn về Bình Chánh để chuẩn bị xuất bản báo Kèn gọi lính kêu gọi kháng chiến. Bác Tôn có ý kiến khen:
1. Ta đã có tinh thần kỷ luật, nghiêm túc tuân theo chủ trương của Trung ương thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo của Nhà nước ta đối với lực lượng Đồng minh.
2. Ta đã biết kín đáo và nghiêm túc thực hiện kế hoạch kháng chiến.
Tôi thay mặt đồng chí Trần Văn Giàu bận đi công tác miền Đông đã báo cáo với Bác Tôn hành động quân sự đầu tiên của ta như: Cuộc đột phá đầu tiên đêm 25-9-1945 vào Sài Gòn để gây hoang mang cho Pháp và củng cố niềm tin với đồng bào Sài Gòn với ý chí quyết chiến quyết thắng của lực lượng cách mạng, cuộc đột phá này đã đem lại kết quả đáng kể về mặt chính trị, nâng cao uy tín của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ và phát động tinh thần chiến đấu của chiến sĩ ta. Cuộc bao vây đột kích ngày 29-9-1945 vào đồn Nhật ở Phú Lâm nhưng không kết quả. Tuy chân ướt chân ráo vào chiến trường Nam Bộ nóng bỏng, đầy rẫy những khó khăn ban đầu nhưng Bác Tôn cũng có một số ý kiến với chúng tôi:
1. Trước tiên cần phải nhận định rõ tương quan giữa ta và địch về mặt chính trị, và quân sự, để có kế hoạch thích hợp từng bước tiêu hao lực lượng địch và tay sai. Xây dựng lực lượng kháng chiến còn non trẻ, tránh tư tưởng chủ quan muốn đánh nhanh thắng nhanh.
2. Phát huy triệt để kế hoạch của ta về chính trị, đi sâu, đi sát vận động quần chúng kể cả công chức, binh lính, cảnh sát trong hàng ngũ địch, phát động phong trào yêu nước ủng hộ kháng chiến.
3. Đảng và chính quyền trước mắt không thể chu cấp được mọi mặt, mọi nhu cầu vật chất cho cuộc kháng chiến và sinh hoạt của cán bộ chiến sĩ. Vì vậy cần phát động một cao trào tiết kiệm trong quân đội, cán bộ, huy động sự đóng góp của nhân dân tránh mọi hành động lãng phí, đề phòng mọi hành động tham nhũng lạm quyền trong chính sách trưng dụng, thu mua tài sản hàng hóa của đồng bào ủng hộ kháng chiến.
4. Chắt chiu, giữ gìn đoàn kết trong nội bộ cán bộ, đảng viên, đoàn kết giữa quần chúng công - nông và trí thức tư sản yêu nước.
Những lời dặn dò trên của Bác Tôn rất quý báu, vì đáp ứng ngay yêu cầu bức xúc của tình thế lúc bấy giờ.
Mấy ngày sau đó, Bác Tôn lĩnh trách nhiệm về công tác hậu cần của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Tuy đã được Đảng và Nhà nước ủy nhiệm, Bác Tôn cẩn thận bảo tôi nhân danh là Phó Chủ tịch Thường trực của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ ký một quyết định chính thức cử đồng chí Tôn Đức Thắng làm nhiệm vụ kiểm tra và chỉnh đốn công tác hậu cần quyết định ông Hồ Thông Minh đương kim chủ nhiệm hậu cần, bàn bạc về công tác hậu cần với Bác Tôn. Việc này càng làm tôn thêm mến phục và kính trọng Bác Tôn đã sáng suốt thấy ngay chỗ yếu của Ủy ban Kháng chiến, cần chỉnh đốn và giữ đúng nguyên tắc hành chính phân công, phân nhiệm cán bộ.
Theo điện khẩn cấp của Trung ương Đảng và Chính phủ, Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ phải tiến hành hai công tác có tầm quan trọng chiến lược. Thứ nhất là tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội toàn quốc, trong đó có Nam Bộ để khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên cơ sở toàn dân biểu quyết, chấm dứt chế độ thuộc địa của Pháp và xây dựng uy thế của dân tộc và nước ta trên dư luận quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Bác Tôn và đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương, chúng tôi đã huy động lực lượng cán bộ tổ chức thực hiện nghị quyết này trong hoàn cảnh đồng chí Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ ra công tác tại Trung ương. Về việc tổ chức Tổng tuyển cử ở Sài Gòn và Nam Bộ, Ban vận động Tổng tuyển cử Sài Gòn và Chợ Lớn đứng đầu là đồng chí Nguyễn Văn Tư (tức Tư Carê) tổ chức với hai nhiệm vụ:
1. Trong nội thành bất chấp mọi thủ đoạn ngăn trở đàn áp của địch, cán bộ của Ban bầu cử đã len lỏi trong từng khu phố tuyên truyền cho đồng bào về tầm quan trọng chiến lược của cuộc bầu cử Quốc hội toàn quốc.
2. Tổ chức đại biểu các khu phố, các tầng lớp nhân dân qua những con đường lầy lội lên Chiến khu An Phú Đông dự cuộc bầu cử.
Vì phải đưa đại biểu đi và về nhiều lượt nên đã bị địch phục kích sát hại 37 cán bộ tổ chức bầu cử, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Tư. Kết quả cuộc bầu cử thắng lợi hoàn toàn. Với những hy sinh to lớn như thế, những lá phiếu máu của nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã thực hiện được một việc gần như huyền thoại là chính thức nói lên nguyện vọng của mình trong vòng vây ác liệt của kẻ thù, góp phần xây dựng nền tảng pháp lý vững chắc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuộc Tổng tuyển cử thành công tốt đẹp càng nâng cao tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu giành độc lập của nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Bác Tôn là người đắc cử đứng đầu danh sách năm đại biểu gồm những cán bộ cách mạng đã kinh qua thử thách và được nhân dân tín nhiệm:
1. Tôn Đức Thắng.
2. Hoàng Văn Đôn.
3. Nguyễn Văn Trấn.
4. Ngô Tấn Nhơn.
5. Huỳnh Văn Tiểng.
Kết quả cuộc Tổng tuyển cử đã đưa Bác Tôn lên một vị trí rất xứng đáng và tạo nhiều thuận lợi để Bác Tôn thực hiện nhiệm vụ thứ hai là tổ chức lại bộ máy kháng chiến của toàn miền Nam Việt Nam gồm Nam Bộ và Liên khu V bị chiếm đóng. Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ đã diễn ra tại Đức Hòa giữa tháng 11-1945 do đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương chủ trì đã được nghe báo cáo của phái đoàn Quân ủy Trung ương với nhiệm vụ chỉnh đốn Ủy ban Kháng chiến ở miền Nam, đứng đầu phái đoàn này là đồng chí Đàm Minh Viễn, cán bộ chỉ huy chiến tranh du kích ở Việt Bắc, anh ruột đồng chí Đàm Quang Trung (sau này là Thượng tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam). Qua phái đoàn này, chúng tôi nhận được Nghị quyết của Trung ương sáp nhập bộ máy lãnh đạo kháng chiến ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ bị chiếm đóng tiến hành bố trí cán bộ lãnh đạo quân sự hai miền Nam Bộ và Nam Trung Bộ cho hợp lý, tạm thời trước mắt cử đồng chí Cao Hồng Lĩnh phụ trách về danh nghĩa Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, nghiên cứu lựa chọn một địa điểm thích hợp để đóng trụ sở Ủy ban Kháng chiến miền Nam, đảm bảo khả năng chỉ đạo kháng chiến ở hai miền Nam Bộ, Trung Bộ và giúp đỡ cách mạng Campuchia (Trung ương gợi ý chọn địa điểm là Buôn Ma Thuột), đề nghị Nam Bộ gửi một số cán bộ tác chiến ở Nam Bộ có nhiều kinh nghiệm đứng đầu là Tôn Đức Thắng cấp tốc ra Trung ương họp với các cán bộ quân sự như Nguyễn Chánh, Nghiêm Tử Lăng, v.v. quyết định tổ chức và tăng cường Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Sau Hội nghị ở Đức Hòa, chúng tôi họp Hội nghị ở Cái Sắn, Long Xuyên để phân chia cán bộ lãnh đạo và vũ khí, hậu cần, trước mắt là tăng cường các quân khu 7, 8, 9 và Sài Gòn. Theo ý kiến của Bác Tôn, đồng chí Vũ Đức, cán bộ du kích từ Việt Bắc vào nhận nhiệm vụ là Khu trưởng Khu 9, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh là Khu trưởng Khu 8 với Khu phó là đồng chí Đào Văn Trường (tù Côn Đảo mới về), đồng chí Huỳnh Văn Nghệ là Khu trưởng Khu 7, một số cán bộ tham mưu của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ như Kiều Công Cung, một số cán bộ nữ với nhiệm vụ liên lạc xuyên qua các vùng bị chiếm như chị Nguyễn Thị Năm... cán bộ công tác chính trị như Trần Ngọc Danh (tù Côn Đảo mới về). Theo ý kiến của Bác Tôn, tôi giới thiệu đồng chí Lưu Hữu Phước về phụ trách công tác văn hóa kháng chiến. Ông Huỳnh Thiện Lộc, đại địa chủ, đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam trong Mặt trận Việt Minh, nguyên Ủy viên Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương của Pháp. Ông Ngô Văn Mạnh, trí thức Việt kiều từ Nhật về đang bị chính quyền Bạc Liêu theo dõi, tuy ông Mạnh là một thành phần trí thức gia đình là địa chủ lại được đào tạo bên nước Nhật phát xít, nhưng sau khi tôi trình bày về nhân cách và tinh thần yêu nước cũng như trình độ ngoại ngữ của ông Mạnh lại được số bà con trong gia đình đi theo kháng chiến sẵn sàng bảo lãnh chính trị. Tôi cũng giới thiệu anh Lâm Đằng Phong, học sinh Trường Pétrus Ký và anh Phan Huỳnh Tấn, cán bộ cốt cán của phong trào sinh viên yêu nước. Sau khi cho nghiên cứu kỹ lý lịch của những người này, và trước quyết tâm của họ một lòng đi theo kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Tôn đã chấp nhận kết nạp họ vào khung cán bộ đi tăng cường Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Ông Huỳnh Thiện Lộc được giao nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch phát triển kinh tế kháng chiến. Đồng chí Lưu Hữu Phước hoàn chỉnh và phát huy mặt trận đấu tranh về văn hóa chống địch. Anh Phan Huỳnh Tấn vừa tốt nghiệp Trường kỹ sư công chính được giao nhiệm vụ tổ chức phương tiện mô sẵn sàng phục vụ kháng chiến miền Nam. Ông Mạnh được giao nhiệm vụ hậu cần phục vụ đoàn Bác Tôn sau này. Riêng tôi được sự tán thành của Bác Tôn tạm thời tách ra bộ máy kháng chiến, tham gia đoàn tiền tiêu có đồng chí Hoàng Quốc Việt để kịp thời báo cáo và xin ý kiến của Trung ương. Bác Tôn chỉ định đặt trụ sở Ủy ban Kháng chiến miền Nam tại Buôn Ma Thuột.
Đầu tháng 12-1945, tôi chia tay với Bác Tôn và cán bộ trong đoàn tại cửa Mỹ Thạnh, Sóc Trăng. Đoàn tiền tiêu của chúng tôi còn có đồng chí Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lĩnh, Lê Văn Hiến. Khi đổ bộ ở Long Hải thuộc Bà Rịa - Vũng Tàu được đồng chí Dương Bạch Mai và chính quyền địa phương báo tin cho biết Buôn Ma Thuột vừa bị Pháp chiếm đóng, nên phải chuyển trụ sở Ủy ban Kháng chiến miền Nam về đóng ở Quảng Ngãi, Liên khu V.
Sau này khi được gặp lại Bác Tôn tại Hà Nội, tôi mong muốn tìm hiểu về sự đóng góp của năm người mà tôi đã giới thiệu, Bác Tôn hồ hởi vỗ vai tôi phát biểu: “Những anh em chú giới thiệu tỏ ra rất xứng đáng với Đảng và Nhà nước, một lòng đồng cam cộng khổ với tập thể, hết sức bảo vệ đoàn đi". Bác Tôn cho biết đã nhận được tin của chúng tôi báo Buôn Ma Thuột đã bị chiếm, Bác đã cho một số cán bộ trong đoàn tạm thời trở về địa phương công tác chờ lệnh điều động sau. Bác kể lại một giai đoạn hồi hộp gay cấn lúc đoàn thuyền của Bác bị mắc cạn ngoài khơi biển La Ghi, tính mạng toàn đoàn bị đe dọa bởi những cơn sóng dữ, thì ba người: Lưu Hữu Phước, Huỳnh Thiện Lộc, Lâm Đằng Phong đã xung phong bơi năm cây số đường biển vào bờ để huy động thuyền nhỏ địa phương ra chuyển tải cứu đoàn. Khi tôi hỏi về hạnh kiểm của anh Ngô Văn Mạnh (vì mới quen biết) thì Bác Tôn có lời đánh giá rất tốt về anh: Luôn luôn giành phần khó về mình tạo thuận lợi cho anh em, trông coi ngựa thồ hành lý của đoàn và khi đoàn nghỉ giữa rừng thì anh Mạnh chịu khó và khéo tay chặt cây lá rừng làm lán cho anh em nghỉ tạm. Do có sự nhận xét của Bác Tôn, các anh em sau đó được Đảng và Nhà nước trọng dụng: Lưu Hữu Phước được giao tổ chức Đoàn Thiếu nhi nghệ thuật và tiếp tục sáng tác các bài hát cách mạng như bài: Trường lục quân Trần Quốc Tuấn và bài Vượt Trùng Dương. Ông Huỳnh Thiện Lộc được cử làm Bộ trưởng Canh nông đầu tiên của Việt Nam và là thành viên chính thức của đoàn Việt Nam tại Hội nghị Fontainebleau. Anh Ngô Văn Mạnh được cử làm Thư ký cho phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang công tác bên Pháp và sau đó làm Thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Tháng 5-l946, Trung ương Đảng và Chính phủ xét thấy cần mở rộng cuộc tuyên truyền giới thiệu với dư luận quốc tế về nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, nhằm mục đích đề cao chính nghĩa đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Dư luận tiến bộ Pháp ủng hộ việc Pháp thừa nhận và đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lập lại hòa bình ở Đông Dương; đồng thời duy trì được những quyền lợi chính đáng đối với các nước thuộc địa ở Đông Dương. Trước tình hình đó, Quốc hội Pháp chính thức mời một Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam sang thăm nước Pháp để mở ra triển vọng hòa bình hữu nghị hợp tác giữa hai dân tộc Pháp - Việt. Nước Việt Nam đã cử một Đoàn đại biểu Quốc hội chính thức sang thăm Pháp gồm 12 đại biểu, đa số đại biểu của Nam Bộ và Nam Trung Bộ bị chiếm đóng như: Đồng chí Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng, Dương Bạch Mai, Huỳnh Văn Tiếng, Trần Ngọc Danh, v.v.. Trưởng đoàn là đồng chí Phạm Văn Đồng, Phó đoàn là đồng chí Tôn Đức Thắng. Ý đồ của Chính phủ ta là nhân dịp này sẽ đấu tranh gây phong trào buộc Pháp bỏ ý đồ xâm lược phục hồi nền tự do thống nhất của nước Việt Nam gồm cả Nam Bộ và Liên khu V bị chiếm đóng. Tôi được cử làm Tổng Thư ký của phái đoàn với nhiệm vụ chuẩn bị tư liệu giới thiệu cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập trong cuộc chiến ở Khu 5 và Nam Bộ, giữ liên lạc chặt chẽ với giới báo chí tiến bộ ở Pháp, phát động phong trào nhân dân Pháp mà nòng cốt là các đảng phái chính trị tiến bộ như Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Pháp chống lại chính sách thuộc địa xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Phái đoàn Quốc hội Việt Nam lên đường giữa tháng 4-1946 tại sân bay Gia Lâm trên chiếc máy bay Dakota của Pháp, đây là loại máy bay thương mại dân dụng. Pháp cử một sĩ quan cao cấp đồng thời là đại biểu Quốc hội Pháp là Đại tá Tutange để đưa đón Phái đoàn Quốc hội Việt Nam. Đi trên máy bay, Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng và Bác Tôn đã chỉ đạo cho tôi điện nhắc phía Pháp phải giữ đúng những điều đã thỏa thuận với Phái đoàn Việt Nam như:
1. Về nghi thức đón tiếp chúng tôi tại sân bay Orly của Pháp, người đại diện đón tiếp phải là đại biểu Quốc hội Pháp chứ không phải là đại diện của Bộ Thuộc địa mang tên mới là Bộ Pháp quốc hải ngoại. Có Việt kiều tham gia đón tiếp.
2. Quốc kỳ Việt Nam phải được kéo lên ở cột cờ chính của sân bay.
3. Tại nơi làm việc của phái đoàn cũng phải treo Quốc kỳ của Việt Nam.
4. Phái đoàn Việt Nam có quyền tiếp xúc với Việt kiều tại Pháp.
Trong khi trên máy bay cũng như khi đến nơi tạm dừng chân, Bác Tôn và đồng chí Phạm Văn Đồng đều ân cần thăm hỏi sức khỏe của từng đoàn viên, đặc biệt là sức khỏe của đồng chí Trần Ngọc Danh và các đại biểu Quốc hội trí thức như đồng chí Nguyễn Tấn Gi Trọng, Đinh Gia Trinh, v.v.. Bác Tôn nhắc nhở các đại biểu giữ gìn sức khỏe và đừng để ảnh hưởng đến nhân cách, quốc thể của dân tộc Việt Nam. Tại Le Caire (Ai Cập) nơi đoàn tạm nghỉ hai ngày, theo ý kiến của Bác Tôn và đồng chí Phạm Văn Đồng, khách sạn phải trang trí Quốc kỳ Việt Nam và đầy đủ nghi thức đón tiếp một Phái đoàn Quốc hội chính thức. Khi Phái đoàn Quốc hội Việt Nam tới Pháp, tại sân bay Orly, phía Pháp đã thực hiện đúng những cam kết về nghi thức đón tiếp. Bước xuống máy bay, Bác Tôn vỗ vai tôi chỉ lên lá cờ đo sao vàng đang phấp phới bay trên cột cờ cao chót vót, tôi cũng như anh em trong đoàn rất xúc động, xem lá cờ này là một tiêu biểu rạng rỡ của nước Việt Nam tự do, độc lập mới ra đời sau một thế kỷ nô lệ. Phái đoàn được bố trí ở và làm việc tại khách sạn Le Louvre hạng nhất ở Paris, trước khách sạn có treo Quốc kỳ Việt Nam đánh dấu sự có mặt của phái đoàn, ở tiền sảnh khách sạn Pháp có bố trí phòng cảnh binh bảo vệ và kiểm soát khách ra vào. Một trong những người khách đầu tiên khẩn khoản xin gặp phái đoàn là một Việt kiều, Luật sư Trần Văn Khương (người gốc Bến Tre) đã du học tại Pháp từ năm 1930; ông Khuông tuổi trên 30 đỗ hai bằng đại học và là tiến sĩ luật đến xin tự nguyện làm việc phụ với phái đoàn. Chính nhờ ông Trần Văn Khương, phái đoàn đã nắm rõ xu hướng và thực lực của các đảng phái chính trị Pháp ở Paris và các tỉnh ông Khương đã giúp chúng tôi chuẩn bị kịp thời một số tài liệu để công bố cho báo chí Pháp và quốc tế, đồng thời chuẩn bị tiếp xúc với các nhân vật chính trị Pháp từ tả sang hữu trên cơ sở tôn trọng độc lập của Việt Nam và những lợi ích chính đáng của Pháp ở Đông Dương. Người thứ hai ngay từ đầu tỏ ra nhiệt tình với phái đoàn là bà André Viollis, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, chủ bút tờ tuần báo Vendredi của Đảng Cộng sản Pháp. Bà Violhs khẩn thiết mời phái đoàn dùng cơm tại nhà. Khi mới gặp nhau bà ôm chầm lấy Bác Tôn nhắc lại những kỷ niệm hợp tác đấu tranh chống thực dân Pháp ở Đông Dương năm 1930. Lúc đó bà phụ trách tổ chức Quốc tế đỏ liên lạc và giúp đỡ tù chính trị ở Đông Dương, nhắc lại những gói quà và các bức thư bà gửi cho tù nhân chính trị ở Côn Đảo lúc bấy giờ. Bà còn nhớ và nhắc lại lời của bức thư cuối cùng: "Nếu đế quốc Pháp không thay đổi chính sách thuộc địa ở Đông Dương thì dường như chắc chắn 15 năm sau chính sách này sẽ sụp đổ. Bà cũng đã biên soạn và xuất bản quyển sách nổi tiếng Đông Dương cấp cứu (L'Indochine S.O.S) năm 1930. Không ngờ lời nói của bà lúc bấy giờ là một lời tiên tri, đến năm 1945 cách mạng Việt Nam đã lật đổ chính sách thực dân Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của bà Viollis và ông Khương, cuộc gặp gỡ của phái đoàn với các chính khách Pháp được chuẩn bị chu đáo.
Tại Quốc hội Pháp, người đầu tiên gây xúc động đối với Bác Tôn và toàn đoàn là đồng chí André Marty đại biểu Đảng Cộng sản Pháp, người nòng cốt của cuộc khởi nghĩa của binh sĩ Chiến hạm France tại Biển Đen năm 1919. Cuộc khởi nghĩa binh biến này đã có một giá trị lịch sử vì đây là lần đầu tiên một chiến hạm của đế quốc sừng sỏ Pháp đã chống lại lệnh của Chính phủ Pháp đàn áp cách mạng Nga ngoài khơi Xêvaxtôpôn. Chính André Marty là người chỉ đạo cuộc binh biến đó và Bác Tôn là thủy thủ của chiếc tàu chiến ấy được cử ra kéo lá cờ đỏ của Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau những phút hàn huyên thắm thiết, sôi nổi, đồng chí André Marty ôn tồn phát biểu đại ý: "Các đồng chí của Phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang xây dựng quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc Pháp - Việt và gây phong trào nhân dân Pháp ủng hộ Việt Nam là việc làm cần thiết; nhưng tình hình chính trị nước Pháp hiện nay còn phức tạp, Chính phủ Ramadier nghiêng về quyền lợi của các tập đoàn tư bản, giới tư bản Pháp không dễ dàng nhả ra những quyền lợi béo bở ở Đông Dương như than Hòn Gai, cao su Nam Bộ Nếu có thể được, các đồng chí nên thu xếp về sớm để chuẩn bị đối đầu với cuộc chiến tranh xâm lược sẽ nổ ra. Bên đây tại Pháp và châu Âu, chúng tôi sẽ kiên trì hoạt động ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc Việt Nam".
Tại Viện Nguyên tử Pháp, Giám đốc là ông Jolio Frédéric Curie là nhà bác học, cháu của bà Marie Curie (nhà thông thái đã phát hiện ra năng lượng nguyên tử); sau cuộc tiếp đón phái đoàn nồng nhiệt đã dặn dò chúng tôi trước khi ra về: “Đường lối chính sách hữu nghị đối với Pháp của Việt Nam là đúng đắn, được dư luận thế giới ủng hộ. Nhưng khi đi vào cụ thể phải nhân nhượng quyền lợi lẫn nhau giữa Pháp và Việt Nam. Phía Việt Nam cần hết sức thận trọng khi bàn về quyền lợi khoáng sản. Theo nghiên cứu của chúng tôi có thể có một mạch nguyên liệu Uranium ở vùng núi Bắc Bộ Việt Nam. Nguyên liệu Uranium sẽ là nhân tố bảo đảm công nghiệp quốc phòng và xây dựng đất nước Việt Nam sau này”. Sau đó phái đoàn do Bác Tôn dẫn đầu đã gặp một số nhân vật tiêu biểu của Pháp như nhà bác học Paul Rivet, Giám đốc Viện Nhân chủng học Pháp. Bà Vaillant Cuturier, Chủ tịch Hội Phụ nữ Pháp và một số nhân vật tiến bộ Pháp cùng giới khoa học kỹ thuật văn hóa. Tất cả đều tỏ ra nhiệt tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam và tất cả đều khuyên chúng tôi cẩn thận chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược của Pháp. Đặc biệt với ông Paul Rivet, khi chúng tôi giới thiệu Bác Tôn là niên trưởng của phái đoàn, ông Rivet đã 76 tuổi thân mật hỏi tuổi của Bác Tôn, khi biết Bác Tôn chỉ 56 tuổi ông cười và phát biểu: "Các ông toàn là những người trẻ tuổi kể từ Trưởng đoàn đến đoàn viên và cả nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa đầy một tuổi, tương lai sẽ thuộc về sức trẻ". Hôm sau điểm lại kết quả các cuộc gặp chính khách nhân sĩ Pháp, anh Ngô Văn Mạnh hóm hỉnh phát biểu: “Chúng ta thu hoạch những thắng lợi thật bất ngờ, không ngờ tại Thủ đô Paris nơi đầu não của đế quốc Pháp lại có nhiều người tạm gọi là Pháp gian đến thế”. Ý anh Mạnh muốn nói những người Pháp lẽ ra phải ủng hộ chính sách của Chính phủ Pháp lại quay sang ủng hộ Việt Nam. Tôi vui vẻ chỉnh lại: "Không thể dùng danh từ Pháp gian như chúng ta đã dùng danh từ Việt gian đối với những tên phản quốc, họ là những người con trung thành với lý tưởng cao quý của cách mạng Pháp nên gọi họ là Pháp ngay mới đúng". Bác Tôn đệm thêm: “Họ là những con người chân chính vốn quý của dân tộc Pháp". Trong lần được tiếp đón tại Bộ Ngoại giao Pháp, phái đoàn được ông Marius Moutet, Tổng Trưởng, trước kia là Bộ Thuộc địa nay đổi tên là Bộ Pháp quốc hải ngoại đón tiếp. Ông Moutet không phải là người xa lạ đối với Việt Nam. Từ đầu thế kỷ XX ông đã là Chủ tịch Hội Nhân quyền Pháp, đã có một số hành động ủng hộ dân tộc Việt Nam như kiến nghị thay đổi chính sách thuộc địa của Pháp ở Đông Dương, thực hiện chính sách nhân đạo đối với người yêu nước Việt Nam bị tù đày dưới chế độ thuộc địa, v.v. . Với một số thành tích ủng hộ dân tộc Việt Nam nói trên, ông Moutet đã phát biểu với lời lẽ đầy giọng cha chú đại ý như: "Các ông trong Phái đoàn Việt Nam cần nhớ rằng tôi là một người bạn lâu đời của Việt Nam đã từng bất chấp mọi khó khăn để hoạt động ủng hộ Việt Nam trong quá khứ khi một số đại biểu các ông chưa sinh ra". Lúc bấy giờ ông Moutet đã 78 tuổi trong khi niên trưởng của phái đoàn là Bác Tôn chỉ 56 tuổi và tôi nhỏ nhất chỉ mới 26 tuổi. Được phép của Bác Tôn, tôi đã trả lời với ông Moutet như sau: "Nhân dân Việt Nam chúng tôi không bao giờ quên ơn ngài Moutet nguyên Chủ tịch Hội Nhân quyền Pháp. Chúng tôi mong rằng ngài Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại hiện tại của Chính phủ Pháp có những hành động hợp lý, nhân đạo; không làm phải nhạt hình ảnh cao quý của ngài Moutet nguyên chiến sĩ hòa bình năm xưa, ngăn cản chính sách thuộc địa hiếu chiến của Chính phủ Pháp hiện nay". Khi phái đoàn trở về trụ sở, Bác Tôn góp ý nhận xét với tôi: "Lời phát biểu của anh nội dung là đúng đắn, nhưng lời lẽ thể hiện có chỗ tỏ ra gay gắt, căng thẳng không phù hợp với chính sách của Nhà nước ta là trên cơ sở độc lập chủ quyền dân tộc tìm kiếm một giải pháp hòa bình với Pháp". Vì sau đó một thời gian đã mở ra Hội nghị Fontainebleau Pháp - Việt để tìm giải pháp hòa bình ở Đông Dương. Tôi đã tiếp thu ý kiến của Bác Tôn.
Giữa tháng 5-1946, Bác Tôn dẫn một bộ phận của phái đoàn đại biểu Quốc hội về trực tiếp thăm đồng bào Việt kiều ở Toulon, Marseille, một số đại biểu của binh đoàn Việt Nam trong lực lượng Đồng Minh chiếm đóng nước Đức quốc xã bại trận được giao chiếm đóng quận Constane của Đức. Binh đoàn Việt Nam này gồm những binh sĩ thuộc địa bị bắt ép sang làm việc đỡ đạn cho Pháp từ năm 1939, gồm hai tiểu đoàn đã tham gia kháng chiến chống phát xít Đức ở Chiến khu Vercort phía Nam nước Pháp, đã tham gia chiến đấu giải phóng Thủ đô Paris và được Ban chỉ huy lực lượng Đồng minh giao chiếm đóng quận Constane nước Đức. Anh em binh sĩ Việt Nam đều có lòng yêu mến quê hương đất nước nên khi được tin Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 với Quốc kỳ nền đỏ sao vàng, họ sôi nổi đấu tranh đòi Bộ chỉ huy Đồng minh trong đó có Pháp chấp nhận cho họ tách ra khỏi lực lượng Pháp và lấy tên là Tiểu đoàn tự trị Việt Nam với Quốc kỳ họ tự chế ra khi chưa liên lạc được với Tổ quốc. Với sức ép của Đồng minh, Pháp phải nhân nhượng. Thế là cách xa ngàn trùng non nước, lá cờ đỏ sao vàng thiêng liêng được những chiến sĩ Việt Nam cầm vững trên nước Đức quốc xã bại trận. Anh em cử một đoàn đại biểu gồm ba người do Đại úy Nguyễn Văn Huấn (người Đà Nẵng) dẫn đầu đi chuyên cơ của Đồng minh về xin gặp Phái đoàn Quốc hội Việt Nam tại Paris. Đoàn đã được Bác Tôn tiếp đón thân tình. Bác đã tỏ lời động viên và hoan nghênh chúc mừng thành tích chống phát xít của Tiểu đoàn Việt Nam, hoan nghênh anh em đã hướng về Tổ quốc Việt Nam, đấu tranh giành quyền tự trị của đơn vị mình và cắm được lá cờ vinh quang của Tổ quốc trên nước Đức giải phóng. Bác Tôn mong anh em thông cảm vì đã có kế hoạch đi thăm kiều bào ở miền Nam nước Pháp nên không thể nhận lời mời sang thăm quận Constane để anh em ngưỡng mộ vị đại biểu chính thức và xứng đáng của Việt Nam giới. Bác cũng dặn dò anh em giữ gìn sức khỏe, tinh luyện binh nghiệp để có ngày trở về phục vụ Tổ quốc. Đại úy Nguyễn Văn Huấn tỏ ra rất tiếc không được đón Bác Tôn tại đơn vị và nguyện ghi tạc lời dặn dò của Bác. Sau đó Bác Tôn đã cử hai đại biểu là bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng và nhà thơ Xuân Diệu thay mặt phái đoàn đến thăm Tiểu đoàn Việt Nam ở Đức. Đoàn của Đại úy Nguyễn Văn Huấn đã để lại một số súng ngắn và đồng hồ đeo tay của những chiến sĩ đã lập chiến công đấu tranh giải phóng nước Pháp, trân trọng gửi tặng lại cho những chiến sĩ tiêu biểu của Quân đội Việt Nam anh hùng. Sau này chúng tôi được biết Tiểu đoàn Việt Nam đã đấu tranh đòi được hồi hương sau khi Thỏa hiệp Tạm ước (Moduse Vivendi) Việt - Pháp được ký kết ngày 14-9-1946. Anh em chiến sĩ trong Tiểu đoàn này đều tự nguyện tham gia kháng chiến chống Pháp khi nổ ra cuộc Toàn quốc kháng chiến chống Pháp.
Bác Tôn được cử làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã có đóng góp nhiều ý kiến trong các chính sách của Đảng và Chính phủ ta, góp sức chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam như: Thành lập Đài Phát thanh tiếng nói Nam Bộ kháng chiến tại Quảng Ngãi tháng 6-1946. Thành lập Phân cục Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, đào tạo cán bộ chỉ huy cho miền Nam tại Quảng Ngãi. Lập Phòng Liên lạc Nam - Bắc đóng tại La Hay - Phú Yên có chức năng đưa các lực lượng vũ trang vào tham gia chiến trường miền Nam, đón các chiến sĩ và cán bộ miền Nam ra học tập chính trị và quân sự để trở vào miền Nam chiến đấu. Bắt đầu từ lúc này tôi phải tạm ra Bác Tôn để làm nhiệm vụ chính trị trong Ủy ban Kháng chiến miền Nam.
Tháng 8-1956 Bác Tôn làm Trưởng đoàn Quốc hội ta đi thăm Liên Xô theo lời mời của Xôviết tối cao Liên Xô. Trong số đại biểu Nam Bộ có các đồng chí ở các vùng cách mạng truyền thống của miền Nam như đồng chí Nguyễn Oắng (Gia Định), đồng chí Lê Thị Xuyến (Quảng Nam), đồng chí Y Ngông Niếc Đamk (Tây Nguyên), v.v.. Đoàn có nhiệm vụ củng cố tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam - Liên Xô và học tập kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô theo đường lối Mác - Lênin. Tại Lêningrát - trái tim của Cách mạng Tháng Mười Nga - đoàn được chính quyền Xôviết đón tiếp thân tình và trọng thể, tổ chức cho đoàn tiếp xúc với những nhà cách mạng lão thành và Công đoàn Xôviết. Một sự kiện nổi bật trong chuyến đi này là cuộc đi thăm tàu Rạng Đông (Aurore) Lêningrát đơn vị đã bắn quả pháo đầu tiên vào cung điện Nga hoàng mở đầu cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga lịch sử làm rung chuyển cả thế giới. Toàn bộ Ban chỉ huy và thủy quân tàu Rạng Đông đã tiến hành một nghi lễ đón tiếp trọng thể thủy binh Nga mặc lễ phục trang bị khí tài đón tiếp đoàn trên boong tàu. Đồng chí Libatốp Thủy sư đô đốc cựu chỉ huy tàu Rạng Đông trong Cách mạng Tháng Mười đã nồng nhiệt tiếp đón Bác Tôn đúng nghi lễ quân đội và báo cáo thành tích của chiến hạm trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Đồng chí Libatốp cũng đề cao kỳ tích của Bác Tôn trong cuộc binh biến ở Biển Đen của tàu chiến Pháp France bảo vệ Cách mạng Tháng Mười. Cuộc đón tiếp đã chuyển từ hình thức trọng thể sang không khí đầm ấm của một gia đình cách mạng Liên Xô - Việt Nam. Tối hôm ấy, tại cuộc họp đoàn trao đổi thu hoạch về chuyến đi thăm tàu Rạng Đông, tất cả đoàn viên đều phấp khởi cảm động nói lên niềm tin tưởng của mình vào tiền đồ của cách mạng thế giới, trong đó có Việt Nam nhờ phát huy truyền thống vẻ vang của Cách mạng Tháng Mười Nga. Đáp lại ý muốn của các đại biểu muốn hiểu thêm về chiến công của tàu Rạng Đông, Bác Tôn đã giải đáp thành tích vĩ đại của chiến hạm Rạng Đông là đã phát động cuộc cách mạng vô sản trên toàn thế giới, tiếng súng của chiến hạm đã làm lung lay tận gốc rễ các chế độ bóc lột lao động và phá hoại nhân quyền. Riêng tôi thấm thía về những phát biểu trên đã cảm xúc sáng tác một bài thơ ngay trong đêm ca ngợi tàu Rạng Đông như sau:
BÁC TÔN VỚI CHIẾN HẠM RẠNG ĐÔNG
Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam và Bác Tôn thăm chiến hạm Rạng Đông tháng 8-1956
Chiến hạm Rạng Đông nằm sừng sững giữa cơn gió tuyết
Các nòng súng nằm ghếch lên lẫm liệt oai phong
Nhắc lại những ngày Cách mạng Tháng Mười công phá Điện Mùa Đông
Đánh tan ách Sa hoàng mở ra bình minh cho nhân loại
Bác Tôn leo thang lên chầm chậm
Vẻ suy tư như nhớ cuộc binh biến Hắc Hải năm xưa
Đây là thành trì của cách mạng
Vì sự nghiệp vinh quang này
Trên chiến hạm Pháp
Bác đã kéo cờ
Cờ đỏ huy hoàng soi bóng trước Xêvaxtôpôn rực lửa
Chào người anh hùng Hắc Hải
Chào người công nhân Ba Son
Với Bác Hồ dấn thân trên con đường Lênin đã vạch.
*
* *
Kìa trên boong tàu, các bạn Liên Xô hàng ngũ chỉnh tề chờ đợi
Bác Tôn bước lên trong dòng tay đồng chí Libatốp
Anh hùng gặp lại anh hùng
Sóng thần Hắc Hải hòa dòng Nêva
Bốn phương vô sản là nhà
Việt Nam – Xôviết vốn là anh em
Mặc cho tuyết đổ gió rền
Ôm nhau thắm thiết gắn tình bền sâu
Bảy mươi năm rồi chiếc tàu Nga vĩ đại
Đưa loài người vượt sóng gió tiến lên
Tàu Rạng Đông bao phen nổi sóng vang rền
Những phát súng tiến công
Của tư tưởng Lênin bất diệt
Là chí khí anh hùng của nhân dân Xôviết
Đã cứu mình và giúp nhân loại cần lao
Tiếng súng tàu Rạng Đông có im lặng bao giờ
Nổ, nổ mãi thúc giục loài người đứng dậy
Tiến công, tiến công nữa vào quân thù tàn bạo
Tiếng súng tự do
Tiếng súng công bằng
Tiếng súng bảo vệ hòa bình thế giới
Một chín bốn lăm cổ vũ loài người diệt phátxít xâm lăng
Kêu gọi Đông Âu, Bắc Á, Việt Nam
Bẻ gãy xích xiềng giành tự do độc lập
Suốt thập kỷ sáu mươi đến nay tiến công quyết liệt
Vào kẻ thù loài người gây thảm họa hạt nhân
Bảo vệ tự do hạnh phúc hòa bình
Cổ vũ xã hội Xôviết tiến lên với phong trào cải tổ.
*
* *
Bác Tôn ơi,
Lời Bác dặn cháu con ghi nhớ mãi
Học Liên Xô là học tư tưởng Lênin
Học nhân dân Liên Xô chiến đấu quên mình
Cho lý tưởng cộng sản đi đến ngày toàn thắng.
Tôi còn nhớ mãi cuộc đi thăm Trường Đại học Lômônôxốp ở Mátxcơva, Bác Tôn chưa vào ngay nhà đón tiếp mà dừng bước trước sân trường đưa tay chỉ lên ngọn tháp cao vút của các tầng lầu nhà trường với lời phát biểu hồ hởi: "Nếu tàu Rạng Đông đánh đổ Nga hoàng thì chính trường này đào tạo lực lượng trẻ xây dựng chủ nghĩa cộng sản, đem lại hòa bình hạnh phúc cho nhân dân Xôviết". Một kỷ niệm nữa trong cuộc đi thăm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Kirghizig là nước Cộng hòa thành phần dân tộc thiểu số với một Nghị viện và một Chính phủ đại diện cho dân tộc bản địa với Thủ tướng là một phụ nữ dân tộc đã đón tiếp phái đoàn một cách trọng thể và giới thiệu đoàn đi thăm các cơ sở công nghiệp hiện đại của nước Cộng hòa này. Bác Tôn trao đổi trong đoàn và nhận định: "Đây là một bài học quý báu cho đất nước ta gồm nhiều sắc tộc và cần có một chính sách bình đẳng phát triển kinh tế, văn hóa để củng cố khối đoàn kết toàn dân, tạo cơ sở vững chắc bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội". Sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, nhờ sự ủng hộ của Bác Tôn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tôi được phép tổ chức đưa một chiếc xe truyền hình lưu động đầu tiên tại Việt Nam ra Hà Nội phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng. Anh Lưu Hữu Phước đã từ lâu trở vào tham gia chiến trường miền Nam cùng đi với tôi, nhân dịp này tôi và anh Phước đã đến thăm Bác Tôn tại nhà riêng số 35 phố Trần Phú. Tôi còn nhớ khi còn công tác ở Hà Nội, Bác Tôn đã hai lần tự mình lái chiếc xe Moscovich của Liên Xô vào ngày chủ nhật tạt qua thăm tôi ở số 65 phố Bà Triệu. Bác Tôn hỏi thăm sức khỏe gia đình tôi và cho biết Bác vừa đi thăm một số vị cách mạng lão thành có công với cách mạng như: Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, v.v..
Trong dịp Lưu Hữu Phước và tôi đến thăm Bác tại nhà riêng, Bác Tôn ân cần hỏi thăm tình hình những cán bộ đảng viên Đảng Dân chủ như: Trần Bửu Kiếm và vợ là dược sĩ Phạm Thị Yên, Tạ Bá Tòng và vợ là Nguyễn Thị Tú, nguyên Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng Sài Gòn. Bác dặn dò chúng tôi giữ gìn sự đoàn kết nội bộ và tiếp tục gần gũi với anh em trong Đảng Dân chủ gắn bó với cách mạng, giữ trọn tình cảm chung thủy và góp phần xây dựng cho khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc. Bác lại nhắc chúng tôi bài học quý báu trong Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến là chú ý phương châm: ‘‘Tre già măng mọc" ra sức đào tạo lớp trẻ để kế tiếp sự nghiệp cách mạng.
Sau khi Bác Tôn mất, tại An Giang có tổ chức buổi hội thảo về cuộc đời hoạt động của Bác, buổi hội thảo đã có nhận xét kết luận:
“Cuộc đời hoạt động của Bác Tôn là những bài học.
Người để lại cho cán bộ và nhân dân ta lòng yêu nước, và luôn đặt cách mạng Việt Nam trên đường ray xã hội chủ nghĩa, không gì khác hơn đó là dân trí, dân chủ, bình đẳng dân tộc phát triển kinh tế, đào tạo lớp trẻ của đất nước, phải tiến lên xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, luôn giữ gìn bản sắc dân tộc".
MỘT CON NGƯỜI BÌNH THƯỜNG - VĨ ĐẠI
TRẦN BẠCH ĐẰNG47
Khi Tôn Đức Thắng chào đời, ngày 20-8-1888, nước ta bắt đầu cuộc sống nô lệ nước ngoài sau 461 năm độc lập, kể từ Lê Lợi hội thề với Vương Thông dưới chân thành Đông Quan chấm dứt 20 năm Bắc thuộc. Còn riêng An Giang cảnh tượng đau lòng diễn ra sớm hơn, từ năm 1867, tức 21 năm trước khi Cù lao ông Hổ sản sinh ra nhân vật sau này trở thành tiêu biểu cho tinh thần bất khuất Việt Nam.
Hẳn, Tôn Đức Thắng nghe chuyện khởi nghĩa Bãi Thưa ngay trên miền quê mình, nghe chuyện Quản Hớn 18 thôn Vườn Trầu chưa xa xôi lắm, nghe chuyện Phan Đình Phùng và lớn lên một chút, nghe chuyện Hoàng Hoa Thám.
Tuy nhiên, chúng ta hiểu Tôn Đức Thắng từ góc độ một người dân miền châu thổ sông Cửu Long buổi thành niên trùng khớp với những năm đầu thế kỷ XX - nhiệt tâm yêu nước đứng trước bao nhiêu ngã rẽ và là nhiệt tâm yêu nước của một con người không xuất thân từ vọng tộc thế gia hay từ sĩ phu, mang trong người truyền thống do ân sủng của triều đình hay luân lý đạo Nho. Tôn Đức Thắng, trên ý nghĩa ấy, đại diện được cho số đông nhân dân Nam Bộ, những tầng lớp mà hành động xuất phát từ nhận định của bản thân qua quan sát và tự hòa lẫn vào cuộc sống khi chủ nghĩa thực dân đã đứng vững và khi văn minh công nghiệp lần hồi chiếm lĩnh các điểm mấu chốt trên mặt bằng chính trị, kinh tế, xã hội ở Nam Bộ Việt Nam.
Cù lao ông Hổ sát thành phố Long Xuyên không xa Chợ Mới, không xa Cù lao Giêng. Tôi muốn chứng minh tác động bên ngoài vào nhân dân một vùng vốn sớm khai phá nhờ phù sa bồi dưỡng và cả sinh nở các cù lao đặc biệt phì nhiêu, thuận lợi giao thông đường thủy, là địa bàn sản xuất hàng hóa trước hết từ ruộng lúa, cá và cây ăn trái, là nơi mà đạo Thiên chúa - ta hiểu từ ý nghĩa thâm nhập của một nếp văn hóa phương Tây - xây dựng cả một chủng viện.
Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn không phải hoàn toàn chỉ với hành trang của một nông dân giống như một nông dân Nọc Nạn hay Càng Long. Đã có một cái gì đó chớm nở trong đầu Tôn Đức Thắng.
Tôn Đức Thắng chọn Trường Bá Nghệ, trường chỉ đào tạo ra thợ. Sẽ cường điệu vô lý khi chúng ta cho rằng Bác Tôn lúc trẻ đã hiểu vai trò của giai cấp công nhân, nhưng rất chí lý nếu chúng ta hiểu Trường Bá Nghệ không phải là cổng ngõ duy nhất mời gọi một thanh niên con nhà không giàu mà không thuộc tầng lớp bần cố nông. Gia sản của các cụ sinh ra Bác Tôn bảo đảm cho Bác khỏi kiếp culi, kéo xe và tôi nghĩ, nếu Bác thích vẫn có thể miệt mài bậc trung học để có cái bằng Thành chung hay Tú tài, rồi thi vào ngạch hành chính bản xứ, con đường dần đến thư ký Soái phủ - dịch từ tiếng Pháp secrétaire du Gouvernement - hoặc Trường Sư phạm để có chân giáo sư trung học, hoặc chủ sự Nhà dây thép hay một cái gì đó tương tự, cuối cùng lên chủ quận Tôn Đức Thắng chọn Trường Bá Nghệ. Chiếc máy thời học sinh Tôn Đức Thắng sử dụng còn trưng bày ở Trường Cao Thắng. Trường Bá Nghệ có thể thỏa mãn ước vọng của Tôn Đức Thắng: Không chỉ thành một lao động đơn giản mà một lao động có kiến thức, một người thợ trong thời đại công nghiệp. Chẳng vậy mà trong “gia tài" của Bác Tôn để lại cho chúng ta, hiểu theo nghĩa hiện vật, quan trọng nhất vẫn là bộ đồ nghề gồm đủ kìm, búa, mỏ lết, v.v. được Bác bảo quản trân trọng giống như người bạn đồng hành thân thiết, ngay khi Bác đã là Chủ tịch nước.
Tôn Đức Thắng vào lính thợ, sang Pháp, ở Quân cảng Toulon, tất cả những điều chất chứa trong Bác bùng nổ khi chiến hạm Pháp kéo vào Biển Đen uy hiếp thành phố Xêvaxtôpôn Xôviết. Ngọn cờ đỏ phản chiến chào Cách mạng Nga là số thành của một Tôn Đức Thắng 31 tuổi - một người quê An Giang, một học sinh Trường Bá Nghệ, một lính thợ. Ngọn cờ phấp phới trên đỉnh chiến hạm Pháp giữa trời Âu, giáp mặt với nước Nga cách mạng quá trẻ chất chứa những nung nấu của Tôn Đức Thắng: Dòng sông quê hương An Giang luôn luôn cuồn cuộn, thành phố Sài Gòn từ chối cái nhất thiết từ chối và chấp nhận cái cần phải và nên chấp nhận, giới thợ thuyền châu Âu trong và sau Chiếp tranh thế giới thứ nhất, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga mà dù ta thích bay bổng đến đâu cũng thừa nhận nó đến với Tôn Đức Thắng bằng các chi tiết mà không bằng cả hình khối đồ sộ về lý luận của tính tất yếu của nó - Pháp không được quyền mang quân can thiệp vào nước khác như Pháp đã từng làm với Việt Nam.
Sau sự cố lớn lao ấy, Tôn Đức Thắng trưởng thành hẳn. Các nhà sử học sẽ làm công việc hết sức cần thiết: Tìm hiểu mối quan hệ giữa Tôn Đức Thắng và Nguyễn Tất Thành - bởi vì khi Tôn Đức Thắng rời Pháp thì Nguyễn Tất Thành vừa đến Pháp một số năm. Và, lúc bấy giờ, Nguyễn Tất Thành chưa qua Đại hội Tours, mới nổi tiếng với bản kiến nghị giữa các nguyên thủ quốc gia chiến thắng Đức họp ở cung điện Versailles.
Tôn Đức Thắng về Sài Gòn và thành lập Công hội đỏ. Về phương diện này, rõ ràng tầm nhìn của Tôn Đức Thắng đã rộng mở, trước hết, dấu hiệu của sự tiếp thu phương thức tập hợp và đấu tranh của giai cấp công nhân châu Âu trong thời điểm phân hóa giữa hai xu hướng cải lương và cách mạng - giữa Đệ Nhị và Đệ Tam quốc tế. Tư liệu quá ít ỏi, song chúng ta có thể quả quyết mà không sợ trật cả lôgích lẫn lịch sử, là Tôn Đức Thắng chọn con đường của Lênin, như Nguyễn Tất Thành cùng chọn.
Tôn Đức Thắng, với Công hội đỏ và các tổ chức quần chúng khác, tiếp nhận thoải mái Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Vụ Barbier đưa Bác Tôn vào tù và như chúng ta biết, ròng rã 17 năm ở các nhà giam, chủ yếu là Côn Đảo.
Những năm Bác Tôn ở Côn Đảo và từ năm 1945 đến lúc Bác qua đời, nhiều tư liệu và nhân chứng đang còn sống kể cho chúng ta nghe khá đầy đủ. Tôi không đi vào khoảng thời gian ấy.
Tôi chỉ muốn nói thêm đôi điều mà tôi tâm đắc.
Bác gái, nữ sinh "trường đầm" - Trường Marie Curie sau này - thuộc một gia đình danh tiếng ở Mỹ Tho. Việc lương duyên khá lạ: Một bạn đồng lứa với Tôn Đức Thắng cũng là lính thợ, bị bệnh ở Toulon được Tôn Đức Thắng chăm sóc tận tình, nhưng bệnh quá nặng, trước khi mất, người bạn viết thư cho gia đình, báo rằng: Để tạ ơn cho người đã giúp mình - và sẽ chôn cất mình - thì người chị gái nên nhận người ấy làm chồng. Mọi việc diễn ra đúng y như lời trăng trối. Cô nữ sinh trường quý tộc lấy một người thợ O.N.S (thợ không chuyên nghiệp - lính thợ) và chẳng bao lâu, chồng bị bắt, bị tù tự nuôi con 17 năm đằng đẵng. Năm 1945, Bác Tôn từ Côn Đảo về, trước khi ra Hà Nội chỉ được gặp mặt vợ con trong chốc lát. Còn Bác gái vào chiến khu, sống với các chị ở Hội Phụ nữ Cứu quốc Mỹ Tho cho đến lúc thuận tiện mới được gặp mặt chồng. Trong các pho truyện về "tình sử" nên dành cho vợ chồng Bác Tôn một chỗ trang trọng.
Tôi nghe Bác Tôn nói rằng, lúc còn nhỏ, vợ tôi từng sống với Bác Tôn gái. Năm 1969, nhân chuyến công tác lần đầu tiên đến Hà Nội, tôi gặp hai Bác tại nhà riêng, số 35 phố Trần Phú. Hôm đó, Bác mời gia đình anh Nguyễn Văn Linh và gia đình tôi đến chơi, ăn cơm. Tôi gặp Bác, Bác hỏi chúng tôi - anh Linh và tôi - về tình hình trong Nam. Tôi thưa rằng hôm qua, Trung ương Đảng chỉ thị cho tôi báo cáo trước phiên họp toàn thể Trung ương Đảng về phong trào Sài Gòn - Gia Định. Bác "cự" anh Linh: Tại sao không cho tôi nghe? Anh Linh cười: Các anh trong Bộ Chính trị ngại sức khỏe Bác, Bác sẽ nghe ghi âm và đọc báo cáo của chúng tôi. Bác vẫn còn giận: Già thì già, tôi vẫn còn ngồi nghe được một buổi hai buổi, mấy anh "đuổi" tôi như đuổi "tà"! Vừa lúc ấy anh Hai Phạm Hùng đến, Bác nhắc lại ý vừa nói với chúng tôi, anh Hai vốn là người bạn vong niên của Bác lúc ở Côn Đảo - cười như anh Linh: Ai mà dám “đuổi" già Thắng, người ta bảo vệ anh đó.
- Nghe phong trào anh hùng trong Nam, tao khỏe hơn, nói cho chú mày biết! Nãy giờ, tao nghe Mười Cúc, Bạch Đằng nói ít chuyện mà đã thấy hăng rồi.
Tất cả chúng tôi đều rưng rưng nước mắt.
*
* *
Tôn Đức Thắng không phải là nhà lý luận, nhà tư tưởng hay nhà sáng tác. Tôn Đức Thắng là con người hành động, hành động tiên phong. Cứ nhớ lại 70 năm trước, trên chiếc soái hạm của đế quốc Pháp chực xông vào cắn xé Cách mạng Nga đang bị thù trong giặc ngoài quấy phá - năm 1919 là năm chính quyền Xôviết trong cảnh “nghìn cân treo sợi tóc", Lênin đã phải ra lời kêu gọi "Tất cả để thắng Đênhikin" và các trụ sở Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga đều treo bảng: "Nghỉ làm việc, mọi người ra mặt trận đánh Đênhikin", Mátxcơva và Pêtrôgrat giống các ốc đảo giữa cả một đại dương chống Xôviết, chính quyền Xôviết mất vựa lúa Ukraina, vùng than Đônbát, dầu mỏ Baku, mất cả Xibêri mênh mông: Quân Anh, Pháp, Đức, Nhật đổ bộ ở Biển Đen, ở Ban tích, ở Vlađivôxtốc, thọc vào phía Tây nước Nga, hậu thuẫn cho bọn Bạch vệ và các nhóm phản động; đường sắt xuyên Xibêri bị quân Tiệp khống chế; chính quyền của địa chủ và tư sản thiết lập ở Ômxcơ, ở Ackengen, ở Kiep và ở cả Baku - một người Việt Nam cất tiếng nói riêng, dám cùng đồng đội làm binh biến dám kéo cờ báo hiệu sự đồng tình của thủy thủ Pháp với Cách mạng Nga. Nhớ chừng ấy thôi, chừng ấy thôi song gần như huyền thoại, chúng ta đo đạc tầm vóc của Tôn Đức Thắng. Cả thế giới không phải có nhiều huyền thoại như vậy. Nhớ lại đầu thế kỷ trước, một người thợ mới rời Hải quân Pháp giữa lòng thành phố Sài Gòn, dám tổ chức Công hội đỏ, khi đó Quốc tế Cộng sản cũng vừa ra đời, sau đó, dự vào đoàn thể tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương và chịu cái án 20 năm tù khổ sai giữa Côn Đảo bốn bề sóng nước. Vậy mà, con người ấy ít nói nhất về cá nhân mình, đến nỗi lớp hậu thế phải vô cùng chật vật để tìm đôi chút tư liệu phác lại cuộc đời con người ấy. Hơn 90 năm tồn tại, trong đó gần 60 năm cống hiến cho sự nghiệp chung, thế mà viết về Bác Tôn như viết về một nhân vật ẩn hiện xa xôi... Bác Tôn luôn luôn muốn sống như một con người thật bình thường. Chính vì thế, Bác Tôn vĩ đại. Không phải dễ thành bất tử như Bác Tôn - Ủy viên Trung ương Đảng nhiều năm, đứng đầu Mặt trận đoàn kết dân tộc hàng mấy thập kỷ liền, thay Bác Hồ giữ cương vị Chủ tịch nước - nhưng chưa một lần Bác tỏ ra là con người có quyền lực, ham quyền lực, tự nhận là lãnh tụ Bác thích vị trí một đảng viên cộng sản như mọi đảng viên thích vị trí công dân trung thực, lương thiện, cố mang điều tốt, cố mang niềm vui, cố giảm nỗi đau cho đồng bào.
Nhớ Bác Tôn, nhớ bài học mà Bác lấy cả đời mình làm mẫu, chính là tìm cái vĩ đại trong cái bình thường của một con người coi như đơn giản mà cực kỳ phức tạp khó khăn đối với những ai nắm quyền trong tay.
Tinh hoa dân tộc, cốt lõi miền đất phóng khoáng và mộc mạc An Giang, tính cách thợ mà thành phố Sài Gòn và cả phong trào công nhân Pháp hun đúc, chủ nghĩa Mác - Lênin, lý tưởng cộng sản, trí tuệ và đức độ của Hồ Chí Minh - tất cả tổng hợp nên một Tôn Đức Thắng, gia tài của cả nước, của Nam Bộ và An Giang, sản phẩm của phong trào công nhân thế giới, tiếng vọng đầy kiêu hãnh của Cách mạng Tháng Mười Nga...
Kính chào... Tôn Đức Thắng... tức kính chào nền luân lý vĩ đại trong cái bình thường, bình thường một cách vĩ đại
BÁC TÔN VỀ THĂM ĐẢNG BỘ,
QUÂN VÀ DÂN KHU TÂY NAM BỘ,
TỈNH CẦN THƠ VÀ TỈNH AN GIANG
VŨ ĐÌNH LIỆU48
Sau giải phóng miền Nam, Bác Tôn đã về thăm Đảng bộ, quân và dân Khu Tây Nam Bộ, tỉnh Cần Thơ và tỉnh An Giang. Chín giờ sáng ngày 4-12-1975, máy bay chở Bác Tôn đã đáp xuống sân bay Trà Nóc. Các đồng chí trong Khu ủy chính quyền Khu, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ đã tề tựu đông đủ tại sân bay để chờ đón Bác. Máy bay vừa hạ cánh, đồng chí phụ trách sân bay Trà Nóc, đồng chí lễ tân của Khu cùng lên máy bay để rước Bác xuống. Bác Tôn, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân tự hiện ra ở cửa máy bay tươi cười giơ cao mũ vẫy chào đoàn người ra đón, trước tiếng vỗ tay và hoan hô của mọi người, Bác Tôn cùng đồng chí bảo vệ từ từ xuống thang máy bay. Các đồng chí ra đón cũng ùa tới chân cầu thang máy bay để đón Bác. Khi Bác vừa đặt chân xuống đất, tôi tiến tới và nói: "Cháu Vũ Đình Liệu, Bí thư Khu ủy Khu Tây Nam Bộ, kính chào Bác, chúc Bác khỏe". Bác Tôn ôm hôn tôi thắm thiết. Tôi giới thiệu với Bác từng đồng chí trong Khu, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ.
Sau đó tôi mời Bác lên xe cùng đoàn về nhà khách của Khu ủy. Ở đây đã tề tựu đông đủ khoảng 100 đồng chí để đón chào Bác. Khi Bác bước vào nhà, mọi người vỗ tay hoan nghênh và hô to: "Chúc Bác Tôn khỏe". Các đồng chí đưa Bác Tôn ngồi lên bục danh dự, ban tổ chức cuộc họp giới thiệu với Bác thành phần những người đến đón chào Bác. Ngoài các đồng chí Khu ủy, chính quyền Khu, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Ban chỉ huy quân sự tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ còn có các ban ngành của Khu, tỉnh Cần Thơ, thành phố Cần Thơ, các giảng viên Trường Đại học Cần Thơ v.v.. Sau đó tôi đã thay mặt mọi người phát biểu: "Hôm nay, Đảng bộ, quân và dân Khu Tây Nam Bộ tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ rất vui mừng được đón tiếp Bác, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam, người con yêu quý của Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Thay mặt cho Đảng bộ và quân, dân Khu Tây Nam Bộ, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ xin kính chúc Bác dồi dào sức khỏe, tiếp tục góp sức cùng Trung ương Đảng, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng chính quyền cách mạng, phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và củng cố an ninh - quốc phòng. Đặc biệt, đối với Khu Tây Nam Bộ, tỉnh Cần Thơ, thành phố Cần Thơ mong Bác có những sự chỉ đạo cụ thể để chúng cháu chấp hành nhằm phát huy những thành qua, khắc phục các thiếu sót. Bao năm ước mong nay Bác đã trở về làm thỏa lòng mong ước của quân dân Nam Bộ, của đồng bằng sông Cửu Long, của Khu Tây Nam Bộ, tỉnh Cần Thơ, thành phố Cần Thơ và tỉnh An Giang. Một lần nữa chúng cháu xin chúc Bác sức khỏe, sống lâu!”.
Bác Tôn đứng lên tươi cười thân mật như người cha đối với các con, Bác chậm rãi nói: “Giải phóng miền Nam đã lâu, nhưng vì bận công việc, chưa về được, nhưng lòng tôi lúc nào cũng hướng về miền Nam ruột thịt, về Nam Bộ thành đồng. Hôm nay được đến Cần Thơ, trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long tôi rất vui mừng phấn khởi, được tận mắt thấy chúng ta đã giải phóng và tiếp quản hầu như nguyên vẹn thành phố Sài Gòn, thành phố Cần Thơ và nhiều nơi khác. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng, tiến hành chiến tranh để giải phóng đất nước giành chính quyền đã tốn biết bao nhiêu xương máu và chúng ta đã phải chiến đấu trực tiếp với quân thù trong 30 năm, trong điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ. Nhưng giữ gìn và xây dựng chính quyền ấy để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự cho nhân dân lại càng khó khăn hơn, gian khổ và lâu dài hơn. Tôi chúc các đồng chí đã mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu, sẽ mưu trí, dũng cảm hơn trong bảo vệ chính quyền cách mạng và trong xây dựng, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Cuối cùng chúc các đồng chí hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho". Trước những lời căn dặn rất thân tình, mọi người hết sức xúc động, vỗ tay hoan nghênh từng chập và cuối cùng vỗ tay hoan nghênh kéo dài.
Cuộc họp kết thúc, ban tổ chức đã tuyên bố bế mạc, nhưng mọi người vẫn như chưa muốn ra về, muốn ở lại để thăm hỏi chuyện trò thân mật với Bác. Nhưng ban tổ chức sợ Bác mệt, nên yêu cầu mọi người để Bác về nghỉ.
Ba giờ chiều, theo chương trình, Bác đến thăm Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9. Trước khi bước vào nhà khách, Bác được sự đón tiếp và hướng dẫn của đồng chí Thiếu tướng Phạm Ngọc Hưng, Tư lệnh Quân khu, đi duyệt đội quân danh dự. Sau khi Bác đã ngồi xuống, đồng chí Tư lệnh Quân khu giới thiệu các đồng chí trong Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, các đại diện cơ quan, binh chủng và thay mặt cán bộ chiến sĩ nói mấy lời chào mừng Bác. Đặc biệt, lực lượng vũ trang Quân khu 9 rất vinh dự được đón Bác đến thăm. Ở đây Bác không phát biểu mà như một người cha ân cần hỏi thăm về tình hình bộ đội và đời sống vật chất - tinh thần, về sức khỏe, ăn uống, học hành, luyện tập, về các chế độ chính sách. Sau khi nghe xong, thấy mọi mặt chế độ chính sách, đời sống vật chất bộ đội tuy còn khó khăn, nhưng được cải thiện hơn trước nhiều Bác rất vui. Tuy vậy, Bác vẫn ân cần nhắc nhở, nhất là cần quan tâm hơn nữa đối với thương bệnh binh, gia đình thương binh, liệt sĩ; đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ chiến sĩ, đặc biệt là phải quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa để có thể tiếp thu các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đi đào tạo tại các trường và học viện quân sự trong và ngoài nước, để xây dựng quân đội ta thành quân đội chính quy, từng bước hiện đại không ngừng nâng cao cảnh giác để củng cố an ninh quốc phòng bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Những lời tâm tình ân cần của Bác thấm sâu vào trái tim, khối óc của mọi cán bộ, chiến sĩ có mặt. Cuộc trò chuyện với Bác kéo dài tới gần 5 giờ chiều mới kết thúc.
Tám giờ sáng ngày 5-12-1975, Thường vụ Khu ủy đưa Bác về thăm tỉnh An Giang. 9 giờ 30 phút, chúng tôi đến trụ sở Tỉnh ủy An Giang. Ở đây các đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, đại diện Mặt trận Tổ quốc và các ban, ngành đoàn thể đã tề tựu đông đủ để đón Bác. Đồng chí Nguyễn Việt Thắng, Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Nguyễn Đáng, Nguyễn Văn Hơn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, nữ đồng chí Thùy Nga, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy và nhiều đồng chí đã ra xe chào Bác và đón Bác vào trụ sở Tỉnh ủy. Bác xuống xe bước vào nhà, Bác rất xúc động, vì sau mấy chục năm xa cách, nay Bác mới trở về quê cha đất tổ trong hoàn cảnh độc lập, tự do, mà khi ra đi Bác còn là người công nhân làm thuê và người dân mất nước.
Sau khi giới thiệu các đồng chí có mặt và lời chào mừng vắn tắt của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Việt Thắng, Bác đề nghị: Cũng như ở Quân khu 9, để Bác hỏi thăm tình hình một số mặt của tỉnh An Giang từ sau giải phóng đến nay. Bác nói: Lâu ngày không gặp, chúng ta để chút thời giờ quý báu này cùng nhau trao đổi vừa để nắm tình hình, vừa trao đổi những công việc phải làm sắp tới. Trước hết Bác hỏi về đời sống mọi mặt của nhân dân trong tỉnh bây giờ so với lúc còn chiến tranh có những gì tiến bộ hơn, nhất là đời sống của đồng bào Khmer, đồng bào theo đạo Hòa Hảo. Bác rất mừng, tuy đời sống đồng bào còn khó khăn, nhưng so với lúc còn chiến tranh đã đỡ hơn nhiều, vì không còn nạn càn quét, bắn phá, vụ Đông Xuân khá; các cháu học sinh đa số đều được cắp sách đến trường; việc sản xuất, làm ăn buôn bán đã bắt đầu khôi phục và phát triển. Bác lại hỏi việc tập hợp quần chúng vào các đoàn thể vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; việc hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, Bác rất vui khi nghe báo cáo là Đảng bộ rất quan tâm đẩy mạnh củng cố và phát triển các đoàn thể quần chúng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khối đoàn kết toàn dân đã có bước được củng cố. Đến đây Bác góp ý: Dân là nền tảng sức mạnh của cách mạng, nên phải không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tập hợp nhân dân trong các đoàn thể, trong Mặt trận, đẩy mạnh hoạt động của các đoàn thể và Mặt trận. Bác hỏi về tổ chức và hoạt động của Tỉnh ủy, của các cấp ủy, huyện, xã, nhất là hoạt động của các chi bộ cơ sở, việc phát triển Đảng trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, trong đồng bào dân tộc và các tôn giáo, đặc biệt là phát triển đảng viên ở vùng tạm bị chiếm, như vùng Khmer, vùng Hòa Hảo... Bác rất mừng khi nghe báo cáo các cấp ủy Đảng từ Tỉnh ủy đến cơ sở nói chung là hoạt động tốt, đã quan tâm phát triển Đảng trong thanh niên, phụ nữ, trong công nhân, nông dân; Trường Chính trị của Đảng ở tỉnh liên tục mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho các cán bộ, đảng viên.
Cuộc trò chuyện giữa Bác và các cán bộ của tỉnh kết thúc vào lúc hơn 11 giờ để Bác nghỉ dùng cơm trưa.
Trong hai ngày ở An Giang, Thường vụ Tỉnh ủy phân công nữ đồng chí Thùy Nga, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, chăm lo cho Bác.
Tám giờ sáng ngày 6-12-1975, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang và chúng tôi đưa Bác về thăm Cù lao ông Hổ, nơi Bác sinh ra và lớn lên. Cùng đi xe với Bác có nữ đồng chí Thùy Nga, khi qua cầu Hoàng Diệu, Bác nói với đồng chí Thùy Nga, khi Bác còn đi học, đây là cây cầu sắt lót ván, bây giờ là cây cầu xi măng vĩnh cửu, thật tốt quá. Khi xuống tới bến tàu để đi qua Cù lao ông Hổ, Bác nói: "Bến tàu này trước kia nó hẳm chớ không lài như bây giờ". Khi tàu của Bác và tàu của chúng tôi cập bến ở Cù lao ông Hổ, bác Tư em ruột Bác, các con cháu trong gia đình ùa xuống bến tàu để chào mừng Bác. Thật rất xúc động trước cảnh anh em gặp nhau, con cháu gặp lại ông sau mấy chục năm xa cách. Mọi người cứ đứng ở bến tàu trò chuyện, sau đó chúng tôi phải nhắc và mời Bác vô nhà. Ngôi nhà của Bác là nhà sàn, nên phải có cầu thang để lên, Bác bước lên một số bậc rồi ngồi xuống và nói với nữ đồng chí Thùy Nga và chúng tôi: Hồi còn nhỏ đi học về tôi thích ngồi ở các bậc này để nghỉ, hít thở không khí trong lành, trước khi bước lên nhà. Tôi còn nhớ, lúc tôi đã đi hoạt động cách mạng, có một lần tôi về nhà lúc gần tối, tôi cũng ngồi ở bậc này, không ngờ có một tên chỉ điểm đi ngang nhìn thấy tôi. Tôi vội vàng phải đi ngay, chỉ kịp từ giã vợ tôi rồi đi đến mấy chục năm nay mới trở về để ngồi trên các bậc này một cách công khai. Bác ngồi đã lâu, bác Tư mời Bác và chúng tôi vào nhà. Vào tới nhà, Bác tiếp tục hỏi thăm từng cháu đến thăm Bác để biết nó là con ai và kêu Bác bằng gì. Sau đó Bác kêu bác Tư đốt nhang để Bác ra viếng mộ của ông, bà thân sinh ra Bác xây trên gò đất sau nhà. Trưa đó Bác và chúng tôi cùng gia đình con cháu ăn bữa cơm gia đình thân mật tại nhà bác Tư.
Đến 3 giờ chiều, Bác và chúng tôi trở về thành phố Long Xuyên.
Tám giờ ngày 7-12-1975, chúng tôi đưa Bác về Cần Thơ và từ đó Bác chia tay chúng tôi lên máy bay.
Tiễn Bác về, lòng tôi vô cùng lưu luyến. Tôi cứ nuối tiếc mãi: Phải chi Bác Hồ còn sống cùng Bác Tôn về thăm miền Nam thì niềm vui trọn vẹn biết mấy!
Về Bác Tôn, tôi có những suy nghĩ, khi còn là thủy thủ trên chiến hạm của Pháp bị điều đến Biển Đen để can thiệp vào cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, hòng bóp chết chính quyền Xôviết còn non trẻ của bè lũ đế quốc, Bác đã kiên cường, dũng cảm kéo lá cờ phản chiến trên Chiến hạm France; khi bị địch bắt, Bác đã kiên trung, bất khuất trước một âm mưu thủ đoạn, mua chuộc thâm độc, những cực hình tra tấn dã man, nơi “địa ngục trần gian" trong Hầm xay lúa ở Côn Đảo.
Khi đã trở thành vị lãnh tụ của Đảng và nhân dân ta, Bác vẫn rất khiêm tốn, giản dị, luôn quan tâm lo lắng cho mọi người, nhưng Bác muốn tự mình làm mọi công việc của mình, ít chịu để ai giúp đỡ. Đó là tính cách rất đặc biệt mà tôi học tập ở Bác ngay trong mấy ngày ngắn ngủi được ở gần Bác.
Tôi xin viết lại những kỷ niệm này để tỏ lòng biết ơn và tưởng nhớ Bác.
TÔI ĐI TÌM "DẤU TÍCH" NGƯỜI THỢ MÁY
LÊ MINH49
Trong tưởng tượng của tôi, một ngày nào in xong sách, tôi sẽ xin đến thăm Bác, và rụt rè đưa Bác. Nheo mắt đọc tên sách truyện Người thợ máy Tôn Đức Thắng, chắc Bác sẽ hỏi tôi, giọng âu yếm và độ lượng:
- Sao làm việc này mà cháu không hỏi Bác?
Tôi thật có lỗi.
Song vì những mẩu chuyện chắp nối về Bác Tôn bấy lâu được biết đã thôi thúc tôi mạnh dạn. “Ít người được như thế. Bác Tôn thật là công nhân". Nhận xét của đồng chí Nguyễn Lương Bằng càng khích lệ tôi. Tôi tìm gặp những người bình thường quanh nơi Bác ở. Bằng cặp mắt công minh và trong sáng của trẻ thơ, các cháu con các đồng chí công tác tại cơ quan Bác đã đặt tên riêng cho Bác công kỹ sư trưởng. Tôi càng quyết tâm đi tìm những dấu tích của công kỹ sư trưởng"
“Ông kỹ sư trưởng" có đủ một bộ đồ mộc và đồ nguội, tự tay mua trong chuyến đi công tác đầu tiên ra nước ngoài. Cả xóm cùng dùng. Ông thường sửa chữa các vật dụng không phiền đến thợ ngoài. Chị Liễn phục vụ trong cơ quan khoe với tôi:
- Ông hàn vẫn khéo tay lắm. Cái chậu này lẽ ra đã vứt đi lâu rồi.
“Ông kỹ sư trưởng" thích bày cho các cháu cách sử dụng đồ nghề và cách sửa chữa. Cầm cưa thế nào? Đặt một vật cần giũa lên êtô thế nào? Tay cầm giũa, cách đưa giũa... “- Ông vặn khỏe tay lắm nhá. Nhờ Ông giúp". Ông vẫn thường hướng dẫn các cháu công việc của người thợ như thế trong những giờ nghỉ ngơi sau làm việc. “- Đi sang mượn Ông”. Cả xóm dùng đồ thợ của Ông. Chỉ cần tuân thủ một nội quy: Ai dùng cứ việc lấy, dùng xong lau chùi cẩn thận treo đúng chỗ.
- Sao, vẫn chưa tìm ra chỗ hỏng? Khéo phải nhờ Ông.
Ông! Vị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vẫn là người "Ông", vẫn là người thợ, sau khi rời phòng làm việc.
Khi Ông ngoài 70 tuổi, sáng sáng Ông có thói quen theo bộ đội cùng chạy tập xuống Bạch Mai hoặc vòng quanh Cột Cờ, đủ số kilômét tự mình quy định. 80 tuổi ông chuyển sang rèn thân thể bằng đi xe đạp đường dài. Chiếc xe riêng ông mua theo giá ngoài, thường dùng để đi thăm bạn bè cùng ngồi tù ngày trước. 4 giờ sáng, ông dắt xe ra cổng, đạp vòng đường Nhổn quành về. 4 giờ sáng, ông vào phòng tắm nước lạnh. Mùa đông, Ông cũng tắm nước lạnh. Các đồng chí cản Ông. Ông giải thích: "Xốt nước thử vào cánh tay, không thấy ớn là mình chịu được. Tắm không sao cả, quen đi".
Ông Hồ một lần can ngăn Ông:
- Cụ không nên đi chơi bằng xe đạp, lỡ gặp tai nạn.
Ông cười ngượng nghịu:
- Chắc là anh em họ báo cáo sai với Cụ.
Các đồng chí bảo vệ đành phải nhiều lần chọc lốp cho xì hơi để Ông thôi đi xe đạp. Nhưng giờ nghỉ, Ông vác xe ra chữa. Ông phàn nàn:
- Quái, cái xe đạp của mình nó thế nào mà hay hỏng quá nhỉ.
Thường Ông đi dép cao su, còn khi đi tập, có đôi giày vải.
Giày vải, Ông khoét một lỗ ở chỗ đốt xương ngón cái trồi ra để đi khỏi đau chân ông quét một lớp sơn xám cho giày được bền. Đi ra đi vào tập, bộ đội gác giơ tay chào, Ông ngại. Về sau Ông đi vòng trong sân cơ quan. Mỗi ngày đủ hai kilômét. Ông phân bua để các đồng chí ủng hộ Ông, vì Ông đã 90 tuổi rồi:
- Có vận động trong người mới khỏe và chống được bệnh tật.
Ông từ chối chế độ xoa bóp của thầy thuốc khi Ông đau khớp chân và sống lưng:
- Làm thế đâm quen, rồi thành tật, cứ phải có người xoa cho mới chịu được. Cái gì mình còn tự làm lấy được, để mình làm. Rồi sau này, chắc cũng có lúc mình cần, nhưng bây giờ, chưa đâu.
Trong những động tác tập, ông thích uốn sống lưng cho mềm mại. Bác sĩ lo ngại:
- Thưa Bác, bây giờ Bác cao tuổi rồi, Bác đừng làm thế.
Ông quay nhìn đồng chí bác sĩ, Ông làm luôn một động tác tiếp.
- Chết, Bác đừng đùa.
Ông cười:
- Cứ để mình làm. Ngày nào trước khi tắm, mình chẳng vận động thế, có sao đâu.
Ông nói để bác sĩ yên lòng:
- Mình biết mình hơn ông thầy thuốc chớ. Giữ gìn nhiều quá càng hay ốm. Mình theo gương Bác Hồ.
Bác Hồ yêu thiên nhiên và nắng gió. Có thì giờ Bác Hồ thích lên chơi trên đồi cây ở Ba Vì nhìn xuống bên dưới, con sông Đà dữ dội chảy quanh. Bác Hồ thích hoa, thương giống vật. Trong vườn quanh nhà Bác Hồ trồng nhài, dạ lan hương, hồng. Con đường đi vào Chủ tịch Phủ trồng cây hoa giấy là theo ý Bác Hồ. Bác Hồ dặn, cạnh mỗi cây cổ thụ trong vườn, trồng ngay một cây non để sau thay thế. Tự Bác Hồ kiểm tra việc trồng cây ấy.
Một cây Bụt mọc ven bờ ao bị sâu, các đồng chí định chặt.
Bác Hồ hỏi: “Thế với người, nếu có khuyết điểm là các chú chặt luôn". Về sau theo ý kiến Bác Hồ, trám những chỗ sâu bằng xi măng, quả nhiên cây lên mầm mới rất khỏe. Có con chim dài đuôi lâu ngày không thấy đến ăn ở bờ ao, Bác Hồ nhắc. Cho cá ăn buổi chiều, mấy ngày liền không thấy con trắm đỏ, Bác Hồ băn khoăn.
Bác Tôn cũng vậy. Mỗi khi lên commăngca đi công tác. Bác Tôn có thói quen mở hết cửa chắn gió. Bác khoan khoái:
- Gió dễ chịu lắm, như ở biển. Xe nẩy như cách mình được tập thể dục vậy.
Bác Tôn nói đùa để các đồng chí vui lòng cho Bác sử dụng loại xe Bác thích:
- Đi commăngca để mọi người khỏi nghĩ mình là Ông lớn mà.
Đến Đồ Sơn mấy lần, qua chỗ mỏm đá rồi ra biển, Bác Tôn đã ngỏ ý muốn leo ra, nhưng các đồng chí bảo vệ không cho, vì sợ Bác vấp ngã. Một hôm Bác đi thẳng luôn. Mời Bác quay lại Bác cứ đi. Đồng chí thư ký của Bác bị bệnh tim mạch đã phải dừng nghỉ vì mệt. Bác ngoái nhìn hỏi:
- Ông Lập rút lui rồi nhá.
Hôm sau Bác nói thật với anh Lập:
- Tôi đã tính ra chỗ mỏm ấy mấy hôm nay rồi.
Năm 80 tuổi Bác lại ra biển chơi. Nào ngờ Bác bơi và lặn luôn. Các đồng chí bảo vệ theo không kịp. Ngoi lên mặt nước, Bác động viên anh em:
- Không sao mà, lúc trẻ ở đại dương, quăng lưới bảo vệ chống cá mập, mình vẫn bơi thế.
Bác đã định làm gì là làm thật. Bác công bố với tất cả con cháu trong nhà:
- Tao bỏ thuốc lá.
Khách đến đưa thuốc mời, Bác từ chối.
Hồi làm Phó Chủ tịch nước (1960), rồi Chủ tịch nước (tháng 9-1969 sau khi Bác Hồ mất), nhiều lần Bác xin rút với lý do sức khỏe không còn bằng trước. Nhưng Bộ Chính trị đã quyết, Bác cố gắng làm việc. Việc cần đi, Bác đi. Dù xa, dù vất vả. Việc cần nghe, cần viết, Bác chăm chú cặm cụi. Tối tối Bác ngồi trước cuốn sổ tay làm việc, suy nghĩ, ghi chép. Nhiều lần đồng chí thư ký có ý lo lắng sức khỏe của Bác, Bác nói để đồng chí an lòng:
- Bây giờ mình không xốc vác được nhiều như trước, nên càng phải để thì giờ làm cho tốt.
Trong những năm Bác Hồ khỏe mạnh, mỗi tháng một lần vào chiều thứ bảy, Bác Hồ hẹn Bác Tôn đến ăn cơm chung. Đúng năm giờ chiều, Bác Hồ ra gốc cây chỗ cửa nhà con, sát bờ ao, đón bạn. Đây là căn nhà người coi ngựa của Toàn quyền Đông Dương ngày xưa. Dạo kháng chiến chống Pháp thắng lợi, mới về Thủ đô, Bác Hồ vẫn ở căn nhà này. Nhà một tầng có hai phòng nhỏ, một phòng đủ kê một giường nhỡ để ngủ và một phòng đủ kê bàn làm việc. Bác Hồ ở đây cả những ngày chống máy bay giặc Mỹ, trong phòng có hố cá nhân để trú chân. Những gốc cây trước nhà, Bác ghép phong lan. Phong lan nở từng chùm hoa tỏa hương ngây ngất.
Bác Tôn xuống xe từ ngoài gốc cây xoan tây, chỗ rẽ. Bác Hồ chắp tay chào trước:
- Chào Cụ!
Bác Tôn chắp tay đáp lễ:
- Chào Cụ!
Bác Hồ kém Bác Tôn hai tuổi. Hai Bác đi ven bờ ao, dưới hàng cây bụt mọc, qua vòm cổng tết bằng cây râm bụt, bước vào nhà sàn.
Những năm sau này, khi Bác Hồ đã yếu, mỗi lần ra trước đồng bào, Bác Hồ thường dặn Bác Tôn:
- Để tôi nắm tay Cụ đi cho đồng bào khỏi thấy.
Từ 70 tuổi, Bác Tôn đã tự biết sức mình, Bác thu xếp trước việc gia đình, Bác bảo hai người con gái kiếm nhà ra ngoài phố ở:
- Để sau khi ba mất, Nhà nước có thể sử dụng được ngay ngôi nhà này.
Những căn gác bỏ không, Bác nói anh em trong cơ quan dọn vào ở. Gia đình các con Bác ra những căn nhà ngoài phố, hướng Tây chật hẹp. Nếu so với tiêu chuẩn cán bộ các anh chị được sắp xếp, lẽ ra nhà cửa tốt hơn nhiều. Những tặng phẩm riêng của Chủ tịch nước, Bác cũng gửi biếu các đồng chí hoặc gửi sang Phủ Chủ tịch. Bác không có của riêng, mặc dù Bác cũng có một gia đình.
Vẫn giữ nếp cũ, Bác cho mặc bộ quần áo vải. Bác thích màu vải bộ đội. Các đồng chí may cho Bác bộ quần áo lụa, nhưng Bác ít mặc. Khăn mặt dùng, Bác thích thứ ráp để kỳ được cả lưng, áo len cũ lắm, Bác không cho con gái đan cái mới. Bác dặn con:
- Thứ gì bảo đảm cái sống là được.
Trong gia đình, Bác gái là đồng chí của Bác và cũng là người bạn cùng tính nết. Năm 1946 khi Bác Tôn đi ra Bắc, thì Bác gái xuống Đồng Tháp Mười công tác. Bác gái phụ trách một trại trẻ nuôi các cháu mồ côi. Bác gái được vào Đảng. Năm 1954 lúc sắp hòa bình, Đảng mới đưa Bác gái ra Bắc. Từ đó hai Bác được đoàn tụ. Mười bảy năm xa cách, gặp nhau được vài tiếng đồng hồ, sau cướp chính quyền Tháng Tám, lại xa nhau tiếp chín năm. Trên 60 tuổi, hai Bác mới được về ở cùng. Nhưng cả hai Bác đều vẫn trung thành chờ đợi nhau.
Bác gái giản dị như xưa, làm mọi việc trong nhà như ngày nào Bác trai còn ở tù Côn Đảo. Đến năm Bác gái 73 tuổi mới chịu để việc giặt giũ, quét dọn nơi ở cho các đồng chí trẻ. Bác trai thích giúp Bác gái làm các công việc riêng hằng ngày. Bác trai khen:
- Ngày xưa có hồi bà đi ở cho nhà người ta, những việc thu dọn trong gia đình bà làm vẫn khéo lắm.
Năm 78 tuổi, Bác gái bị xuất huyết não nhiều lần rồi liệt. Bác Hồ đến thăm. Tự tay Bác Hồ cầm đến một trách cá trê kho tiêu:
- Chị, chị ăn đi, ngon lắm! Chính tay tôi kho cho chị đấy! Bác gái thích ăn cá trê. Đau ốm chỉ ăn cá trê. Bác trai vẫn gọi đùa Bác gái là "Bà già cá trê". Trong những ngày Bác gái lâm bệnh nặng, đêm đêm sau những giờ làm việc, Bác trai thức giấc bên giường. Bác theo dõi từng tiếng thở, từng lúc cựa mình của Bác gái. Bác muốn được chính tay Bác giúp đỡ Bác gái trong mọi việc. Phút cuối cùng phải lìa nhau, ngày 25-5-1971, Bác trai cúi hôn khắp mặt Bác gái, người vợ thương yêu người bạn đời, mà cũng là người đồng chí suốt đời thủy chung với Bác, vì Bác. Bác hỏi các con:
- Ba cám ơn má con, mấy chục năm ba ở tù rồi công tác xa, má con ở vậy nuôi các con khôn lớn. Các con xem hộ ba, ba đối với má con đã tròn nhiệm vụ chưa?
Năm 1975 giải phóng miền Nam, trước khi về thăm những vùng hoạt động cũ và khi trở ra Bắc, Bác đến trước mộ Bác gái. Bác đứng lặng.
Lần ấy, Bác Tôn đi thăm một nữ đồng chí cũ đang ốm.
Đến nhà, Bác thật ngạc nhiên. Chị đương lụi hụi trong bếp tráng bánh xèo. Còn trên nhà, "đức ông chồng" đương cùng mấy ông “tri kỷ" nhậu nhẹt Bác giận quá, trở về Bác dặn đồng chí thư ký:
- Anh này đã lăng nhăng nhiều chuyện trai gái không tốt.
Vợ ốm cũng còn bắt vợ làm. Những người coi vợ như tôi đòi, chồng là chúa, vợ là tôi, xấu lắm. Lần sau anh ấy có đến, tôi không ra đâu. Tôi đã nói cho anh ấy biết.
Mùa Xuân năm 1978, Bác về thăm quê hương lần thứ hai sau ngày giải phóng. Tôi được đồng chí Xuân Thủy, Bí thư Trung ương Đảng cho đi cùng đoàn. Đồng chí đã biết, trong mấy năm nay tôi đang đi tìm các tư liệu để viết truyện Bác Tôn. Chuyến đi thật nhiều may mắn. Tôi được đến quê hương Bác, đến những nơi Bác đã từng sinh sống, làm thợ, với những cuộc đấu tranh đã nổ ra xưa kia. Buổi trưa hôm ấy, tôi đang ngồi chơi quanh bàn với mấy đồng chí bảo vệ, Bác đến ngồi bên. Bác vạch tay xuống bàn:
- Từ nhà mình đi sang nhà thầy học chỉ qua chỗ có lùm tre là rẽ.
Hôm sau, cả đoàn sẽ đi về quê Bác, chắc Bác muốn dặn trước các đồng chí bảo vệ. Quê hương, nơi con người được tiếp nhận đầu tiên những kiến thức của nhân loại, mãi mãi là niềm yêu thương và tự hào, không thể nào quên. Ngày ngày tôi lặng lẽ ngắm nhìn Bác, “đọc” những tâm tư tình cảm của Bác, “tìm" những câu giải đáp về cuộc đời Bác. Chỉ tiếc, vì bảo vệ sức khỏe của Bác, các đồng chí lãnh đạo không đồng ý để Bác ra Côn Đảo như ý muốn của Bác. Vì thế cho đến hôm nay, tuy trong truyện có nhiều chương viết về Côn Đảo, nhưng tôi vẫn chưa được đến một lần. Dù sau khi sách được xuất bản (năm 1981) rồi tái bản (năm 1987), tôi nhận được thư và gặp nhiều đồng chí, ai cũng nói: "Cứ tưởng người viết là một anh đã ở tù Côn Đảo nên mới tả được như thế. Chúng mình đọc thấy hiển hiện lên tất cả. Xúc động lắm".
Tôi thật biết ơn đồng chí Xuân Thủy. Là nhà thơ, anh hiểu nghề văn của tôi và đã tạo cho tôi một chuyến đi đầy ý nghĩa, dù tôi không hề được biết để đề nghị với cấp lãnh đạo. Trở về Hà Nội tôi mới thật rõ hơn. Trong chuyến đi, Bác đã mang theo một số tiền lớn, gần hai ngàn đồng gồm cả đồng và hào lẻ. Đó là tất cả tiền Bác dành dụm được sau chuyến đi thứ nhất. Lần ấy, Bác cũng đã cầm theo tất cả tiền dành dụm từ lâu. Trước khi đi, con gái Bác - Chị Hai Hạnh băn khoăn hỏi Bác:
- Sợ không đủ, ba ạ!
Khi về, tiền đem theo hết sạch thật. Lúc này tôi mới nhớ ra, có lần đồng chí thư ký của Bác rủ tôi cùng vào nhà một người để đưa hai trăm đồng bạc. Đồng chí có ý muốn để một người thứ hai chứng kiến cho đúng nguyên tắc chuyện đưa tiền. Người nhận tiền là con một đồng chí cũ đang ở trong hoàn cảnh khó khăn. Người ấy chỉ là một trong những người đã nhận sổ tiền dành dụm của Bác.
Cuối năm 1979, nhân tôi đến chơi nhà, chị Hai Hạnh bảo tôi:
- Hôm qua ông Cụ vừa đưa tôi cái này. Ông cụ bảo: "Bây giờ mắt ba kém rồi ba cho con giữ mà dùng".
Một cái đê. Đê khâu của Bác. Bằng mẩu vải gấu áo nâu cũ cắt ra, quấn tròn. Bác đính thành cái đê khâu thật khéo. Tôi đeo cái đê vào ngón tay giữa. Đúng là cái đê của Người tù Côn Đảo...
Ngày 30-3-1980 nghe tin Bác mất hồi 6 giờ 35 phút, tôi bàng hoàng. Không bao giờ tôi dám nghĩ ngày ấy có thể đến vì những cuộc đời như Bác Hồ, Bác Tôn thì đã hóa thân trong cuộc đời của đất nước từ lâu rồi.
Nhớ đến lời đồng chí Nguyễn Ái Quốc căn dặn những đồng chí về nước gây cơ sở đầu tiên cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ:
- "Phải chú ý gây cơ sở trong công nhân. Cố tìm cho được anh thợ máy Tôn Đức Thắng". Tôi đã đặt tên cuốn sách: Người thợ máy Tôn Đức Thắng.
Đến tận tháng 1-1981, tức là gần một năm sau, Nhà xuất bản Thanh niên mới in xong và tôi cầm cuốn sách lên nhà Bác. Bước vào sân, thật nhớ lần đầu được đến nhà Bác, khi ấy các anh phụ trách Văn phòng chỉ dám thưa với Bác:
“Người đồng chí trẻ tuổi mà nhiều lần Bác vẫn hỏi, đã đi cùng với Bác trong chuyến canô từ Côn Đảo về đất liền ngày khởi nghĩa Tháng Tám, hôm nay đến thăm Bác. Người em gái của đồng chí ấy cũng đến".
Tôi là “người em gái của đồng chí". Buổi gặp như thế tự nhiên. Không phải vì tôi hy vọng Bác sẽ kể cho tôi nghe về cuộc đời Bác, điều này Bác không làm với bất kỳ ai, ngay cả các con trong nhà. - Ai hỏi về những chuyện cũ đã nhiều người biết, thì Bác cũng chỉ một câu trả lời duy nhất: “Quên rồi". Bác thường bảo các con: “Có gì mà kể". Chính vì vậy các con trong nhà cũng tuân theo lời Bác. Tôi đành đi tìm gặp những đồng chí đã có thời hoạt động cùng Bác. Biết rằng những điều tôi tìm hiểu được không đáng là bao so với cuộc đời Bác đã trải qua, nhưng từ tấm lòng kính yêu Bác, tôi mạnh dạn viết. Nhiều đồng chí chỉ bảo cho tôi cặn kẽ. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương và Thành phố Hồ Chí Minh giúp tôi tìm hiểu một số tư liệu lịch sử. Các đồng chí phụ trách Văn phòng Bác nhiệt tình hết lòng giúp đỡ. Vì tất cả chúng tôi cùng chung một ý nghĩ: Bác là người cộng sản chân chính, người công nhân tiêu biểu. Cuộc đời Bác là một tấm gương giải đáp cho thế hệ hôm nay nhiều điều tưởng như khó nói.
Từ cổng, chúng tôi qua sân, vào nhà. Bác đã đứng đợi ở hàng hiên. Bác nhìn đăm đăm "đồng chí thanh niên" ngày ấy. Vóc dáng Bác vạm vỡ, hai tay buông về phía trước, cái lưng hơi gù. Dáng đứng quen thuộc ấy, tôi đã gặp nhiều lần ở những người dân chài ven biển, nheo mắt nhìn xa khơi ước lượng nước trời, khi thuyền cá bắt đầu rời bến. Chúng tôi vội đi để Bác khỏi đợi. Chúng tôi cùng chào Bác thật to: Cháu chào Bác ạ!
Như những đứa con nít chạy về với ông. Còn Bác thì đã đưa cao cả hai bàn tay, chắp vào nhau tỏ ý vui mừng về cuộc gặp. Bác bắt tay chúng tôi. Bàn tay thô và chắc. Bàn tay chỉ có ở những người đã cầm kìm, búa, hoặc đã xiết những sợi chão kéo thuyền.
Bác mộc mạc, giản dị. Nước da tắm nhiều nắng và gió biển, vẫn giữ nguyên mầu nâu đỏ au, khỏe mạnh. Những nét gồ ghề trên gương mặt đã giúp Bác giấu được nỗi niềm xúc động đương dâng lên trong lòng, khi "người đồng chí trẻ tuổi" ôn kỷ niệm với Bác:
- ... Chỉ còn có Bác với cháu là không say sóng. Các đồng chí khác lần lượt nằm hết cả mà sóng vẫn dồi lên, thụp xuống. Một con sóng nhào tới, cuốn theo luôn chiếc địa bàn của Bác. Không còn biết phương hướng nào nữa, xung quanh mịt mù trời biển trắng xóa. Nhưng Bác vẫn bình tĩnh. Bác bảo việc cho cháu giúp Bác. Lát sau, Bác chỉ cho cháu thấy nước biển đã chuyển sang màu bã trầu kìa. Dấu hiệu của đất liền rồi...
Lúc này cháu đã nhận ra trên bờ biển có nhiều bóng người chạy đi chạy lại, lúc mỗi rõ, vẻ nháo nhác. Bác bảo cháu:
- Kéo cờ lên.
Cờ đỏ sao vàng bay phần phật. Tức thì trên bờ biển, bóng người sững lại. Cũng đã vào gần, đã nhìn rõ người rất đông, nhẩy tưng tưng, tay giơ cao.
- Chắc chắn nhân dân đã được phổ biến, đoàn tù Côn Đảo đã được giải thoát trở về.
Quả vậy, sẩm tối thì canô áp bờ. Nhân dân lội ào xuống đón tù, dìu những đồng chí bị say sóng.
- Hai chân cháu tê cứng, mãi mới bước được trong sình, Bác ạ. Còn các má, ôm cháu khóc.
Bác lặng lẽ, lát sau nó cõng chúng mình vào cửa Mỹ Thanh, thuộc Sóc Trăng.
Còn đoàn ghe ra đón, đã về đưa Đại Ngãi.
- Vâng, cháu còn nhớ, đây là xóm chài nghèo. Đang ăn cơm thì nghe loa báo tin: Quân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn và kêu gọi đồng bào chuẩn bị chiến đấu. Đó là đêm 23-9-1945. Sáng hôm sau, Bác và chúng cháu lại lên cùng đi Đại Ngãi. Tới nơi thì biết các ông về bằng ghe đã đi hết, thế là canô lại đi tiếp lên Sóc Trăng và gặp lại nhau. Hai hôm sau, tất cả đi Cần Thơ, gặp Xứ ủy và nhận công tác. Lúc này được phát quần áo dân thường và trút bỏ quần áo tù. Số tù của Bác: 5289-TF (khổ sai - travaux forcés). Cháu được phân công về Mỹ Tho. Đến đây lại gặp anh Ba Duẩn từ Côn Đảo về bằng ghe, lúc này anh là Xứ ủy triệu tập họp ở Chợ Cũ và tuyên bố thành lập Tỉnh ủy Mỹ Tho. Anh Trọng cũng về bằng ghe là Bí thư, cháu phụ trách công tác thanh niên, trong Tỉnh ủy còn có chị Ba Kim Chi và chị Mười Thập.
Bác vẫn ngồi lặng.
- Bác ạ, chiếc canô Bác lái về đến Cần Thơ, sau cháu nghe là được giao cho công an sử dụng. Có thể sau này khi mặt trận lan rộng, nó được cất giấu ở đâu đó. Chiếc canô này là công cứu sinh của tàu chiến Nhật bị đánh đắm, dạt vào Côn Đảo, và anh em cùng với Bác sửa chữa. Làm sao tìm vớt được nó đưa vào bảo tàng. Vì đó là chiếc canô Bác lái lần cuối cùng trong đời người thợ máy.
Năm tháng dường như sống lại trong ký ức. Bác chăm chú. Bác mỉm cười. Trời, biển, sóng và gió. Mênh mông là cuộc sống tuổi trẻ của Bác. Bác nheo mắt hỏi:
- Khi ấy đồng chí Khuê bao nhiêu tuổi nhỉ?50
- Dạ, thưa Bác năm ấy cháu hai mươi.
Bác im lặng. Còn đồng chí "thanh niên" vẫn kể tiếp:
- Sở Lưới của Bác thì gần Sở Thuộc da chúng cháu rồi. Thỉnh thoảng cháu qua chỗ Bác, Bác vẫn gọi cho lọ mắm. Bác chắt chiu chứ không như tuổi thanh niên chúng cháu. Bác nhặt từng con cá giắt trong lưới đem làm mắm, rồi gửi cho anh em trong "banh" đau nặng. Bác bảo cháu xách đi. Bác cười mỉm:
- Tuổi trẻ nhớ nhiều. Nhớ tỉ mỉ.
Đồng chí Lập, thư ký của Bác, có lẽ ngại chúng tôi hiểu chưa hết ý Bác, cho là Bác đã đến tuổi hay quên. Anh đỡ lời Bác:
Bác chỉ không kể những chuyện đã qua thôi, còn việc hôm nay, Bác không quên bất cứ việc gì. Tinh thần làm việc cũng như đạo đức của Bác đã là bài học cho chúng tôi hàng ngày phải cố gắng. Bác giữ sức khỏe rất tốt. Mấy năm trước ra biển, Bác vẫn lặn. Các đồng chí bảo vệ có khi theo Bác không kịp. Chúng tôi có ý ngăn Bác, thì Bác cười: ngày trước mình vẫn bơi ở giữa đại dương mà, có sao đâu. Sang đến năm nay, bác 90 tuổi rồi, Bác vẫn thích đi bộ xa, hằng ngày Bác vẫn đi bộ vài kilômét để rèn luyện thân thể. Chúng tôi đề nghị những khi đi bộ Bác nên cầm theo cái gậy. Chúng tôi nói mãi Bác mới chịu.
Bác nhìn tôi, như người cha nhìn đứa con gái nhỏ. Bác giải thích:
- Vì rằng người già thì ai cũng phải chống gậy. Mình không dùng gậy, mình bị kỷ luật.
Chúng tôi cùng cười thật to, khác nào đương quây quần quanh cha quanh ông mà cùng nhau vui đùa vậy.
- Mình là người lao động, mình quen tự làm lấy mọi việc rồi. Mình cũng thích làm nữa.
Đồng chí Lập kể thêm:
- Bác Hồ cũng vậy. Bác Hồ không chịu để ai làm hộ việc gì mà Bác có thể làm lấy được. Tôi được công tác cạnh Bác Hồ hơn 10 năm, tôi thấy hai Bác rất giống nhau ở điểm này. Bác Tôn nhìn chúng tôi.
- Mình với Bác Hồ có giống nhau cũng vì cùng là người thợ. Nhưng mình chỉ bằng Bác Hồ về mặt lao động thôi. Về chính trị cũng như văn học, mình không sánh được. Bác Hồ là bậc thầy.
Bác Hồ! Trong đời đã có một lần tôi được ăn cơm với Bác Hồ. Bác xếp chân bằng tròn, ngồi trên chiếu trải xuống đất, trong căn nhà lán ở rừng. Chúng tôi quây quanh mâm cơm cùng với Bác. Vừa ăn, Bác vừa hỏi chuyện chúng tôi như giữa cha con. Ăn xong, bên đống lửa sưởi, Bác bảo mọi người hát cho vui. Bác chỉ tôi, trẻ tuổi nhất:
- Cô có biết quay tơ không?
Tôi vừa hát xong bài "Cô gái quay tơ, dệt áo cho người chiến sĩ". Bác cười:
- Làm cán bộ, nói cái gì, phải làm được cái ấy.
Tờ mờ sáng hôm sau, sương buông còn trắng đục mảng rừng, Bác Hồ đã xuất hiện trước cửa lán chúng tôi:
- Hôm nay Bác bắt quả tang cô dậy muộn.
Như giữa cha và con, tôi không chút sợ sệt mà còn kể lể:
- Dạ thưa Bác, hôm nay về nhà cháu mới được ngủ. Hơn một tháng nay rồi, đêm nào chúng cháu cũng đi trên đường. Ngày gặp địch, đêm gặp địch...
- Trăm nghe không bằng một thấy. Giờ này Bác thấy cô mới gấp màn. Nào, có muốn chụp ảnh với Bác thì ra đây.
Tôi reo lên:
- Có ạ!
Ngồi trước Bác Tôn hôm nay, sao tôi nhớ Bác Hồ. Đầm ấm, mộc mạc. Chân thực tự nhiên, không chút ồn ào. Bác Tôn cũng rất vui. Người nào được gặp Bác Hồ, Bác Tôn một lần, đã thấy như mình là con cháu. Đúng như Bác Tôn nói, hai Bác đều là thợ. Người thợ có những dáng nét riêng đặc biệt. Nhờ có những năm tháng hoạt động cách mạng với những người thợ và trong nhà máy, đã cho tôi những trải nghiệm để nhận biết.
Chính vì vậy hôm nay tôi được ngồi trước một người, người ấy vẫn đúng là "Anh thợ máy". Anh thợ máy đầy nhiệt tình và nhân hậu như tôi đã được nghe nhiều đồng chí nhắc đến. Anh thợ máy, ngay khi còn là tuổi học trò, đã mang trong mình ý thức rõ rệt, chống đối mọi bất công.
Từ khi mới là học sinh tiểu học, anh đã biết tổ chức cả lớp nhất bỏ học một ngày để phản đối việc tên đốc học Tây bắt hai học sinh phải quỳ phơi nắng một ngày vì một tội không rõ ràng gì.
Học Trường Bá Nghệ (1906) rồi làm thợ Xưởng Ba Son (1910), ở tuổi 20, anh đã dám đứng ra tổ chức một cuộc đình công lớn chống bọn chủ áp bức bóc lột, biết liên kết, nên được sự ủng hộ hết lòng của lớp lớp nông dân quanh vùng và cả giới trí thức, báo chí Sài Gòn lên tiếng - Cuộc đình công thắng lợi, tạo tiếng vang rung chuyển trong giới cầm quyền người Pháp. Lúc ấy, anh Hai Thắng không hề biết, trước đó nửa năm, có một thanh niên tên là Ba, xuống tàu Latouche Tréville cập bến Nhà Rồng (Sài Gòn), cũng cùng một ý chí như anh.
Khi trúng tuyển trong cuộc thi tuyển lính thợ cho cùng Hãng Arsenal (ở bên Pháp), anh đã đi tìm những bạn thợ bên chính quốc. Tại Toulon anh đã gặp, anh đã được biết đến tổ chức cách mạng của họ. Anh được đọc các tài liệu bí mật, trong đó có cả những bài báo của Nguyễn Ái Quốc đăng trong tờ Nhân Dân của Đảng Xã hội Pháp.
Lần đầu tiên, người thợ máy Tôn Đức Thắng biết đến tên Nguyễn Ái Quốc, nghe nói đến Đảng Bônsêvích do Lênin lãnh đạo ở nước Nga. Rồi dồn dập các tình hình nung nấu một cuộc chiến tranh lớn sắp nổ ra. Anh bị điều động xuống Chiến hạm France ngày 20-4-1919. Chiến hạm France phản chiến, anh Hai Thắng kéo cờ đỏ...
Một lần nữa tôi lại "tìm" thấy tính cách thợ trong Bác Tôn Đức Thắng. Và “tìm” thấy mối liên hệ như là rất "tự nhiên" giữa Bác Hồ và Bác Tôn, tuy thời ấy cả hai Bác đều chưa hề gặp mặt nhau.
Tôi còn hiểu thêm vì sao Bác Tôn đã rất nhạy cảm, dám lãnh đạo thợ Ba Son bãi công ngày 4-8-1925 để giam Chiến hạm Michelet trong xưởng sửa chữa, nhằm ủng hộ Công xã Quảng Châu (Trung Quốc).
Tính cách thợ trong Bác Tôn còn thể hiện sau này khi Bác ở tù Côn Đảo, bị đày vào Hầm xay lúa làm cặp rằng mà không bị ám hại, ngược lại, Bác còn giác ngộ được các tù “anh chị", giúp họ biết chữ, biết đoàn kết thương yêu nhau.
Chuyện về Bác Tôn, càng “tìm” thấy, càng dẫn dắt tôi đi, và hình ảnh Bác ngày một rõ nét. Một chiến sĩ ngoan cường, thông minh, luôn tỉnh táo để biết tổ chức đấu tranh chống bất công đến thắng lợi, luôn quên mình và không tránh né, vụ lợi. Bác đã không thể ngủ được suốt đêm khi nhận Quyết nghị vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, vì lo mình không cáng đáng nổi.
Tháng 12-1955, Bác được Ủy ban Giải thưởng hòa bình Quốc tế Lênin tặng Giải thưởng Lênin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Bác nói trước nhân dân Thủ đô Hà Nội, mà cũng là với đồng bào cả nước:
- Giải thưởng này tặng cho tôi, nhưng cũng là tặng đồng bào toàn quốc, trong đó có đồng bào miền Bắc, đồng bào miền Nam. Số tiền thưởng 10 vạn rúp, tôi xin hiến lại nhân dân để dùng vào công tác xã hội, có ích lợi chung... Tôi xin hứa với đồng bào, mặc dù trong hoàn cảnh nào, tôi cũng đem hết tinh thần và khả năng phụng sự chủ hòa bình và thống nhất của Tổ quốc, cho tình hữu nghị giữa các dân tộc...
Ngày 20-8-1958, kỷ niệm ngày sinh thứ 70 của Bác, Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Bác Huân chương Sao vàng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời mừng tại buổi lễ trao tặng:
"Hôm nay, chúng tôi rất sung sướng chúc mừng đồng chí 70 tuổi...
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17 năm bị thực dân Pháp cầm tù, 9 năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, 4 năm phấn đấu để giữ gìn hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi nhưng rất trẻ, đối với Đảng, đồng chí là 29 tuổi; đối với nước Việt Nam độc lập, đồng chí 13 tuổi.
Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.
Đồng chí Tôn Đức Thắng tuy tuổi tác đã cao, nhưng vẫn cố gắng để phụ trách nhiều nhiệm vụ quan trọng...
Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Vì vậy, hôm nay chẳng những chúng ta ở đây, mà toàn thể đồng bào ta từ Bắc đến Nam và toàn thể nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình đều vui mừng chúc người lão chiến sĩ cách mạng Tôn Đức Thắng sống lâu, mạnh khỏe.
Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng là Huân chương cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy..."51.
Bác Tôn xúc động đáp từ:
“- ... Lời Hồ Chủ tịch nói hôm nay sẽ mãi mãi khuyến khích tôi trung thành đến phút cuối cùng trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và thống nhất của đất nước thân yêu, cho chủ nghĩa xã hội, cho hạnh phúc yên vui của toàn thể nhân loại...".
Năm 1967, nhân kỷ niệm lần thứ 50 Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô đã trao tặng Bác Tôn Huân chương Lênin.
Tình yêu quê hương, gia đình và đồng chí, luôn luôn ở trong Bác Tôn Đức Thắng. Dường như hồn thiêng đất nước đã ban cho dân tộc Việt Nam ở những năm 20 của thế kỷ XX hai con người không hề biết nhau, mà cùng chí khí, cùng con đường. Họ cùng đến đất Pháp, cùng biết đến tên nhau. "Phải tìm cho được anh thợ máy Tôn Đức Thắng".
Tôi vâng theo lời Bác Hồ năm xưa, trong nhiều năm liền, đi "tìm" bằng được "Anh thợ máy". Sưu tầm sự kiện, khảo sát, xác minh tư liệu, nắm bắt “hồn" các nhân vật lịch sử - từ những thời xa xưa mình chưa sinh ra trên đời - quyết vượt mọi khó khăn và đã viết được cuốn truyện dài Người thợ máy Tôn Đức Thắng. Đây chính là những bài học lịch sử rất có giá trị cho thời đại hôm nay mà bất cứ ai cũng có thể soi mình, là nỗi lòng tôi kính yêu những người cộng sản đã mở đường cho thế hệ chúng tôi được sống và biết sống.
Năm nay nhân dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh Bác Tôn Đức Thắng (20-8-1888 - 20-8-2003), cũng là 23 năm cuốn truyện Người thợ máy Tôn Đức Thắng hoàn thành (1980- 2003), tôi ngồi lặng nước tấm ảnh Bác in trên bìa sách. Một đời người phụ nữ bình thường như tôi, biết đứng trong hàng ngũ những người đấu tranh chống mọi bất công, biết cầm bút viết được sách và có bạn đọc - đó là nhờ từ khi sinh ra trên đời này tôi đã có Bác Hồ Chí Minh, Bác Tôn Đức Thắng.
BÁC TÔN - NGƯỜI CHIẾN SĨ LỚP ĐẦU CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VIỆT NAM
VĂN TẠO52
Năm 1988, nhân kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Bác, tôi đã phát biểu tại lễ kỷ niệm ở An Giang: "Bác Tôn với dân tộc và thời đại". Nay sang thế kỷ XXI, tôi lại tâm đắc một điều mới mẻ: Bác Tôn - người chiến sĩ lớp đầu của phong trào công nhân Việt Nam.
Đối với giai cấp công nhân ta, nếu ở đầu thế kỷ XX vai trò công nhân trí thức (Intellectuel labour - mà một trong những người tiêu biểu ở Việt Nam là Tôn Đức Thắng) là lực lượng chính trong phát triển sản xuất và đấu tranh xã hội, thì sang đầu thế kỷ XXI lớp công nhân trí thức (Knowledge labour) lại là những người kế thừa và phát huy vai trò đó một cách đắc lực.
Thực tế là hiện nay công nhân trí thức (Knowledge labour) đã ra đời và phát triển mạnh trong công nghệ thông tin và các ngành công nghệ cao khác, là những người kế thừa và phát huy vai trò của công nhân trí thức (Intellectuel labour) thế kỷ XX trong việc đưa khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khiến lực lượng sản xuất xã hội phát triển lên một giai đoạn mới chưa từng có. Đồng thời họ cũng sẽ là người có sứ mệnh lịch sử và có khả năng vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh mới ở Việt Nam để đẩy mạnh tiến bộ xã hội trong thời đại mới. Cuộc sống và chiến đấu của công nhân trí thức Tôn Đức Thắng đã để lại cho công nhân trí thức hiện nay những bài học bổ ích.
I
Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888, lúc mà mây đen xâm lược đã che phủ bầu trời dân tộc. Chủ lực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lúc này còn là nông dân và trí thức, nho sĩ yêu nước. Đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh cách mạng đã có lực lượng mới là công nhân và trí thức tân học, mà công nhân trí thức là người đi tiên phong.
Lúc này, do nhu cầu của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, một số đông nông dân bị bần cùng hóa đã trở thành công nhân trong các hầm mỏ, đồn điền, nhà máy của thực dân và tư sản. Đó là những công nhân áo nâu, xuất hiện ngày càng đông đảo. Đồng thời lại có một số công nhân cũng từ nông dân mà ra, nhưng qua con đường trở thành trí thức rồi mới trở thành công nhân có kỹ thuật tức là công nhân trí thức - công nhân áo xanh. Đó là trường hợp của công nhân Tôn Đức Thắng và một số đồng chí khác từ trí thức trở thành công nhân qua con đường đi vô sản hóa.
Đồng chí Tôn Đức Thắng không thuộc diện trí thức đi vô sản hóa. Xuất thân từ một gia đình nông dân yêu nước ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi cư tụ của những người nông dân dũng cảm phóng khoáng; nơi kinh tế hàng hóa sớm phát triển, giao lưu dân tộc và quốc tế có phần rộng mở nên người thanh niên nông dân Tôn Đức Thắng sớm có cách nhìn rộng, thoáng để từ người trí thức nông dân yêu nước trở thành người công nhân kỹ thuật - (thợ máy - mécanicien) - người công nhân trí thức cách mạng. Mặc dù còn là người sản xuất trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thực dân, nhưng chính lao động kỹ thuật này đã tạo nên chất mới cho người công nhân cách mạng Tôn Đức Thắng trong lao động, sinh hoạt và cách mạng.
Trong phong trào vô sản thời kỳ đó đã từng có sự nhận thức khác nhau về khả năng cách mạng của công nhân áo nâu (lao động chân tay bình thường) và công nhân áo xanh (công nhân trí thức, lao động cơ khí, lao động khoa học và kỹ thuật). Có người cho rằng, ai khổ cực nhất, lao động nặng nhọc nhất, bị áp bức bóc lột nhất là có tinh thần cách mạng cao hơn, tức công nhân áo nâu cách mạng hơn công nhân áo xanh. Điều này được Đảng chỉ rõ: Dưới ách đế quốc phong kiến, cả giai cấp công nhân ta đều bị áp bức, bóc lột nặng nề nên đều có tinh thần cách mạng. Nhưng khả năng cách mạng không chỉ ở chỗ bị áp bức bóc lột nhiều mà chủ yếu là ở ý thức giác ngộ giai cấp, có tinh thần đấu tranh dũng cảm, có phương pháp đấu tranh thông minh, sáng tạo và có khả năng xây dựng được xã hội mới cao hơn xã hội tư bản chủ nghĩa. Vì vậy công nhân áo nâu hay áo xanh đều phải "Học, học nữa, học mãi", có tri thức để đấu tranh giành thắng lợi. Trong thực tế, các công nhân trở thành lãnh tụ giai cấp đều trưởng thành trong một quá trình trở thành công nhân trí thức như vậy. Ngày nay, đại đa số công nhân trí thức (Knowledge labour) đã có điều kiện tương tự như thanh niên Tôn Đức Thắng trước kia, sớm được trở thành trí thức để gia nhập hàng ngũ công nhân cách mạng Việt Nam, phục vụ tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đầu thế kỷ XX, người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng, nhờ có tư chất khoa học và cách mạng của "công nhân trí thức" đã sớm đi từ chủ nghĩa yêu nước đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Một là, ngày 20-4-1919, người thợ máy Tôn Đức Thắng đã cùng binh lính thủy thủ trong Chiến hạm France của Pháp trên Biển Đen phản chiến, đòi chấm dứt chiến tranh can thiệp vào nước Nga và được phân công kéo cờ đỏ trên chiến hạm để tỏ thái độ ủng hộ Cách mạng Nga và chính quyền Xôviết. Đây là một hành động tuyệt vời trong việc thực hiện khẩu hiệu của Các Mác: "Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại và khẩu hiệu của V.I.Lênin "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại. Tuyệt vời ở chỗ: Người thủy thủ - thợ máy này tuy chưa được qua lớp huấn luyện nào về lý luận cách mạng vô sản nhưng từ thực tiễn đấu tranh đã thể hiện chân lý đó một cách sáng ngời là: Vô sản Việt Nam bắt tay với vô sản Pháp ủng hộ và bảo vệ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga - một cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế Nga hoàng, chống lại chính quyền tư sản Kêrenxki, lập nên Nhà nước Xôviết đầu tiên trên trái đất. Như sau này đồng chí Tôn Đức Thắng đã nói:
- Yêu Tổ quốc và căm thù bọn đế quốc, trước hết đó là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ đã chống lại nó.
Hai là, năm 1920, khi người công nhân Tôn Đức Thắng trở về làm thợ máy bình thường trên quê hương yêu quý, đã đem tri thức học tập được từ thực tiễn đấu tranh trong nước và thế giới, đoàn kết, tổ chức công nhân, xây dựng nên Công hội bí mật (1920-1925) mà đồng chí là Hội trưởng. Hội viên lên tới 300 người hoạt động trong nhiều cơ sở ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Tháng 8-192~, đồng chí đã tổ chức và lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son đi tới thắng lợi buộc bọn chủ phải tăng lương 10%. Tiếp theo là tổ chức lãn công trong ba tháng đạt được mục tiêu chính trị về đoàn kết quốc tế vô sản: Làm chậm việc sửa chữa Chiến hạm Michelet của Hải quân Pháp đang trên đường đi đàn áp cách mạng Trung Quốc.
Cái kiệt xuất ở đây là nếu "Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý" thì thực tiễn hoạt động của Công hội bí mật do Tôn Đức Thắng sáng lập và lãnh đạo đã khách quan chứng minh cho chân lý về cách thức tổ chức Công hội mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đúc kết được từ các phong trào công nhân thế giới (Trung Quốc, Nhật Bản...) trong tác phẩm Đường Kách mệnh của mình. Công hội đã trở thành một vườn ươm để đến khi tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên gieo về đã nhanh chóng sinh hoa kết trái.
Ba là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng sự nghiệp đó không tách rời khỏi sự đóng góp không thể thiếu được của các nhà cách mạng kiệt xuất. Trong cách mạng Việt Nam không chỉ thời kỳ đấu tranh giành độc lập trước năm 1945 mà cả thời kỳ đấu tranh giành hoàn toàn độc lập và thống nhất đất nước, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1945 trở đi, đồng chí Tôn Đức Thắng có những cống hiến lớn lao. Đồng chí luôn giữ những vai trò chủ chốt trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong Quốc hội và Nhà nước, với cương vị: Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt từ năm 195l; Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Trưởng ban Thường trực Quốc hội từ năm 1955; Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1969; Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1976… Bất cứ ở cương vị nào Chủ tịch Tôn Đức Thắng cũng hoàn thành nhiệm vụ. Và ở cương vị nào Bác Tôn cũng tượng trưng cho khối đại đoàn kết toàn dân: Đoàn kết giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, đoàn kết Bắc - Nam. Bác mang trong mình cả dũng khí yêu nước, anh hùng bất khuất của nông dân Việt Nam lẫn tinh thần cách mạng sáng tạo của công nhân, trí thức Việt Nam; cả tinh thần yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, quý độc lập tự do, trọng chính nghĩa, yêu hòa bình của cả dân tộc Việt Nam lẫn tình đoàn kết hữu nghị với tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình yên thế giới.
III
Về phẩm chất cách mạng, người công nhân Tôn Đức Thắng cũng có những nét rất đặc sắc:
Một là, Bác Tôn đã kế thừa một cách xuất sắc truyền thống “Thương người trừ bạo" của ông cha trong suốt cả cuộc đời cách mạng của mình.
Từ thời còn là học sinh, Tôn Đức Thắng đã đoàn kết với các bạn học chống lại sự bất bình đẳng của giáo dục thực dân, chống lại bọn vô lại nạt nộ học sinh. Khi bị tù đày, Tôn Đức Thắng luôn tỏ ra "Thương người như thể thương thân", tương trợ giúp đỡ các tù nhân “anh chị”, cảm hóa cả bọn coi tù, đem trí tuệ của công nhân trí thức ra góp phần vào việc xây dựng tổ chức tù nhân, gây dựng cơ sở Đảng trong nhà tù, đem lại những thành công lớn.
Từ những hành động bình thường như nhường cơm sẻ áo, đỡ đần gánh nặng cho đồng chí, đồng bào trong cuộc sống tù đày khổ ải, cho đến khi gánh vác trọng trách lớn lao do Đảng và nhân dân giao phó, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn tỏ rõ ý chí kiên cường bất khuất, đức thân ái, vị tha, sống có tình có nghĩa với đồng bào, đồng chí, một lòng một dạ trung thành với nước với dân.
Hai là, tinh thần khiêm tốn cách mạng.
Như chúng ta đã biết, Bác Hồ đã khiêm tốn xin chưa nhận Huân chương Sao vàng khi miền Nam còn chưa được giải phóng, Bác Tôn thì đã khiêm tốn trong việc thống nhất lấy ngày 20-1946 làm ngày kỷ niệm thành lập Công đoàn Việt Nam. Đó là ngày hợp nhất giữa Hội Công nhân cứu quốc Bắc Kỳ và Trung Kỳ với Thanh niên Tiền phong xí nghiệp ban ở Nam Kỳ sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, mặc dù về lịch sử thì Công hội bí mật do Tôn Đức Thắng xây dựng đã ra đời trước đó hơn 20 năm, từ năm 1920 đến năm 192553.
Ở đồng chí Tôn Đức Thắng - lúc nào cũng “Dân tộc trên hết, giai cấp trên hết, Đảng trên hết", nhưng công đầu của đồng chí trong xây dựng Công hội bí mật Việt Nam vẫn được ghi lại như một dấu son lịch sử.
Ngày nay, công nhân trí thức Việt Nam kế thừa và phát huy truyền thống ông cha, noi gương Bác Tôn Đức Thắng, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh mới của Việt Nam ở thế kỷ XXI, quyết tâm thực hiện sứ mạng lịch sử đưa khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
BÁC TÔN VỚI PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở SÀI GÒN CUỐI NHỮNG NĂM 20 CỦA THẾ KỶ XX
ĐINH XUÂN LÂM - PHẠM XANH54
Tốt nghiệp Trường Thợ máy châu Á ở Sài Gòn (Trường Bá Nghệ), Tôn Đức Thắng làm việc ở Xưởng Ba Son. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, anh bị động viên sang Pháp làm công nhân cho Xưởng đóng tàu Toulon (Arsenal de Toulon). Chiến tranh kết thúc trong cuộc can thiệp của 14 nước đế quốc vào nước Nga Xôviết nhằm bóp chết Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới còn non trẻ, anh thợ máy Tôn Đức Thắng bị điều động theo hạm đội Biển Đen tiến đánh Xêvaxtôpôn. Anh đã cùng thủy thủ Pháp trên chiến hạm dũng cảm đứng lên phản chiến. Sau sự kiện đó, các thủy thủ phản chiến Pháp bị phạt tù, còn Tôn Đức Thắng bị buộc phải dời khỏi nước Pháp.
Tôn Đức Thắng trở lại Sài Gòn đúng vào thời kỳ thực dân Pháp đang tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ hai. Ở Sài Gòn, nhiều nhà máy cũ được mở rộng về quy mô, nhiều nhà máy mới được xây dựng. Đội ngũ công nhân thành phố vì vậy đông đảo thêm lên. Phong trào đấu tranh của công nhân cũng trở nên thường xuyên hơn, không còn là một hiện tượng hiếm như thời kỳ trước nữa. Điển hình là cuộc đấu tranh của hơn 600 thợ nhuộm Chợ Lớn (tháng 11-1922). Cuộc đấu tranh này có tiếng vang lớn. Từ bên Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã ca ngợi: “Đây là lần đầu tiên, một phong trào như thế nhóm lên ở nước thuộc địa. Chúng ta hãy ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại”55. Nhưng cũng phải thấy các cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn lúc đó vẫn nằm trong phạm trù "tự phát", mang nặng tính chất kinh tế hơn là tính chất chính trị. Một vấn đề được đặt ra với phong trào công nhân Sài Gòn là cần phải có tổ chức. Đồng chí Tôn Đức Thắng người công nhân ưu tú vừa mới bị trục xuất từ Pháp về, đã đảm nhiệm trọng trách đó. Là người chịu ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và học tập ít nhiều kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, năm 1920 Tôn Đức Thắng đã vận động thành lập Công hội bí mật đầu tiên tại thành phố. Đây cũng là tổ chức Công hội đầu tiên ở Việt Nam. Hội không có văn bản, điều lệ. Mục đích của Hội chỉ để công nhân giúp đỡ lẫn nhau và đấu tranh bênh vực quyền lợi của người thợ, chống đế quốc tư bản. Đến năm 1925, số hội viên đã phát triển dần lên tới 300 người. Ban chấp hành Hội gồm có:
1- Tôn Đức Thắng (thợ máy Hãng Kroff), Hội trưởng.
2- Nguyễn Văn Cân (thợ nguội Hãng Faci), Phó hội trưởng.
3- N. Mạnh (thợ vẽ nhà đèn), thư ký.
4- Đặng Văn Sâm (thợ tiện nhà đèn), thủ quỹ.
5- … (chưa biết tên), kiểm soát viên56.
Trong những năm tồn tại và hoạt động, Công hội đứng đầu là đồng chí Tôn Đức Thắng đã lãnh đạo cuộc đấu tranh có tính chất cắm mốc thời đại (tháng 8-1925) của công nhân Xưởng Ba Son. Xưởng Ba Son là một nhà máy lớn nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương lúc đó, có hơn 1.000 công nhân làm nhiệm vụ sửa chữa tàu chiến và tàu buôn. Thực chất, Xưởng Ba Son là một công binh xưởng đặt dưới sự chỉ huy của Hải quân Pháp. Ở đây, công nhân được hưởng một sự ưu đãi, lương cao hơn những nơi khác, ngày làm việc 8 giờ, nghỉ trước 30 phút vào ngày lĩnh lương. Nhưng đồng thời đế quốc Pháp cũng ràng buộc công nhân bằng những luật lệ nghiêm ngặt, như Luật chống bãi công…
Công hội, khi biết tin công nhân Xưởng Ba Son phải sửa chữa gấp chiếc tàu chiến Michelet để đưa sang đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Trung Quốc, đã lãnh đạo công nhân ở đây tìm mọi cách ngăn cản, hoặc ít ra cũng làm chậm lại ngày nhổ neo của chiếc tàu chiến đó. Vấn đề là tìm được cớ trước hết là cớ kinh tế cho cuộc bãi công. Ở Xưởng Ba Son vốn có lệ là được nghỉ sớm 30 phút vào ngày lĩnh lương, nhưng từ khi kỹ sư Courtial từ Pháp mới sang lệ ấy bị rút xuống 15 phút. Thế là đã có cớ. Vào ngày 4-8-1925 là ngày lĩnh lương, công nhân đã đóng máy, biểu tình phản đối lên giám đốc và quyết định vẫn nghỉ trước 30 phút. Trước sự việc này, viên kỹ sư đã đuổi một số công nhân ra khỏi xưởng. Ngòi nổ đã được châm lửa thế là toàn thể công nhân bãi công đòi giám đốc giải quyết các yêu sách:
1- Tăng lương đồng loạt 20%.
2- Đưa những người bị sa thải trở lại làm việc.
3- Giữ nguyên lệ cũ nghỉ từ 5 giờ chiều ngày lĩnh lương.
Trong khi đó, Công hội vận động công nhân, viên chức các công sở và các xưởng máy ở Sài Gòn - Chợ Lớn hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son bằng việc quyên góp tiền, gạo ủng hộ anh em. Sự ủng hộ đó đã tiếp thêm sức và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần tranh đấu của những người bãi công Ba Son. Vì thế, mặc dù Thống đốc Nam Kỳ và Tư lệnh Hải quân đe dọa sẽ đóng xưởng và sa thải toàn bộ, nhưng công nhân Xưởng Ba Son vẫn không hề nao núng. Trước tinh thần đấu tranh kiên quyết của anh em công nhân và áp lực của quần chúng, giới chủ phải nhượng bộ, chấp nhận các yêu sách của anh em, chịu tăng 10% lương. Dưới sự lãnh đạo của Công hội, anh chị em công nhân đã đi làm, nhưng lãn công để kéo dài thời gian sửa chữa tàu. Mãi đến ngày 28-11-1925, Chiến hạm Michelet mới được xuất xưởng. Khi đó phong trào đấu tranh của công nhân và thủy thủ Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi.
Cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son có ý nghĩa chính trị to lớn. Nó thể hiện ý thức đoàn kết giai cấp, đoàn kết quốc tế vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuộc bãi công này còn đánh dấu một bước tiến bộ mới của phong trào cách mạng Việt Nam, mở đầu thời kỳ đấu tranh có tổ chức, có ý thức chính trị rõ ràng. Với cuộc bãi công này, giai cấp công nhân Việt Nam bắt đầu bước lên con đường đấu tranh tự giác. Rõ ràng, trên một ý nghĩa nào đó, cuộc đấu tranh của công nhân Xưởng Ba Son đã vượt ra khỏi khuôn khổ lãnh đạo của một tổ chức công hội mà chức năng chủ yếu là đấu tranh cho quyền lợi thiết thực hằng ngày của công nhân. Qua cuộc đấu tranh này thấy rõ công nhân đang muốn vươn tới một tổ chức cách mạng cao hơn. Đó là một đòi hỏi thực tế mà phong trào công nhân Sài Gòn đặt ra lúc bấy giờ. Chính Bác Tôn, người sáng lập và lãnh đạo Công hội lúc đó, sau này đã thừa nhận: “Anh em công nhân hồi ấy mong muốn có một tổ chức đấu tranh rộng rãi, lôi kéo được đông đảo quần chúng làm cách mạng"57.
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên trong lịch sử Việt Nam là cùng khoảng thời gian đó, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên58 tại Quảng Châu (Trung Quốc). Người cần có một lực lượng có tinh thần cách mạng để thực hiện sứ mạng "gieo mầm cộng sản" trong quần chúng nhân dân lao động. Vì thế, một trong những công việc quan trọng đầu tiên mà Người tiến hành là huấn luyện những chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, rồi phái về nước tổ chức nhiều chi bộ theo nguyên tắc mỗi hội viên mới được kết nạp vào Hội phải trở thành một phần tử mới của một chi bộ mới"59.
Sẵn có tình cảm tốt đẹp với phong trào công nhân Sài Gòn, cho nên sau khi kết thúc lớp huấn luyện đầu tiên cho thanh niên yêu nước từ trong nước ra học, Nguyễn Ái Quốc đã cử Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi về Sài Gòn hoạt động vào cuối năm 1926. Trong sự nhìn nhận của Nguyễn Ái Quốc, Sài Gòn sẽ là một trung tâm lớn để truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản trong nước. Hai đồng chí Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi đã nhanh chóng bắt mối được với những giới có tâm huyết thông qua quan hệ bạn bè. Đầu năm 1927, qua nhóm Nguyễn An Ninh và những người như Mai Văn Ngọc từ Pháp về, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi đã liên lạc được với Tôn Đức Thắng. Tổ chức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc sáng lập đang cần lực lượng đã gắn được với tổ chức Công hội Sài Gòn, một tổ chức nghiệp đoàn, một lực lượng xã hội chủ yếu để tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiều hội viên của Công hội đã được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trong đó có Tôn Đức Thắng và Đặng Văn Sâm. Đến lượt mình, Tôn Đức Thắng đã giáo dục, giác ngộ hội viên Công hội của mình và kết nạp một loạt vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại sân Võ Ca, đình Bình Đông, Sài Gòn60. Đồng thời Tôn Đức Thắng cùng với Phan Trọng Bình lựa chọn người đi Quảng Châu dự các lớp huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc. Trong chuyến đi thứ hai từ Sài Gòn sang Quảng Châu có chín người, trong đó năm người là hội viên Công hội: Trần Ngọc Giải (tức Thuận Hòa) quê ở Mỹ Tho; Trần Trương (tức Sáu Trương) quê ở Mỹ Tho; Đặng Văn Sâm (tức Nhuận) quê ở Phú Nhuận, Sài Gòn; Bùi Văn Thêm (tức Định) quê ở Tân Định, Sài Gòn; Trần Văn Hoa (tức Hòe) quê ở Mỹ Tho61. Sau khi học xong, những đồng chí đó đều trở lại Nam Bộ hoạt động. Có thể nói, vào thời kỳ đầu hình thành tổ chức cách mạng theo khuynh hướng vô sản tại Sài Gòn, những học trò của Nguyễn Ái Quốc đã dựa vào Công hội của Tôn Đức Thắng để gây dựng và phát triển tổ chức của mình. Nói cách khác, Công hội Sài Gòn là cơ sở cho việc hình thành và phát triển của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở đây và ở cả Nam Bộ. Đến năm 1927, khi số lượng hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tương đối đông62 thì Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ được thành lập do đồng chí Phan Trọng Bình làm Bí thư. Sau đó các tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên như Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Sài Gòn - Chợ Lớn cũng được thành lập. Đến năm 1929 toàn Nam Kỳ đã có 19 chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Từ năm 1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ đã nhận được báo Thanh niên, cuốn Đường Cách mệnh , cuốn A B C chủ nghĩa cộng sản và nhiều tài liệu khác ít khác bằng tiếng Pháp. Đầu năm 1928, dựa vào những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc và các tài liệu mácxít khác, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ và một vài tỉnh bộ đã mở các lớp huấn luyện ngắn ngày, bồi dưỡng chính trị cho những hội viên mới. Kỳ bộ đã xuất bản tạp chí Bônsêvích và báo Công Nông Binh do Phạm Văn Đồng và Nguyễn Kim Cương phụ trách làm cơ quan ngôn luận và phương tiện tuyên truyền cho tổ chức cách mạng của mình. Vào những năm 1928-1929, thực hiện chủ trương “vô sản hóa", Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đưa những hội vốn của mình vào nhiều xí nghiệp, nhà máy, như đưa Ngô Gia Tự vào bến cảng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt vào Xưởng F.A.G.I, Phan Trọng Quảng làm công nhân kéo xe, v.v.. Với những hoạt động tích cực đó, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kỳ đã biến tư tưởng cách mạng mới thành một khuynh hướng chủ đạo đối lập với hệ tư tưởng thực dân phong kiến trong đời sống chính trị tư tưởng của nhân dân Sài Gòn và Nam Bộ, đẩy nhanh phong trào công nhân Sài Gòn tiến lên những bước mới. Trong tổng số cuộc đấu tranh của công nhân cả nước từ năm 1926 đến năm 1928, phần lớn là của công nhân Sài Gòn, và các vùng phụ cận. Tiêu biểu nhất là những cuộc đấu tranh của công nhân Bưu điện Sài Gòn (tháng l-1926), Trung ương Ấn Quán (tháng l-1926), đềpô Dĩ An (tháng 4-1926), đồn điền Phú Riềng (tháng 8 và 9-1927), Nhà máy nước đá Larue (tháng 2-1928), Nhà máy xay gạo Chợ Lớn (tháng 2-1928), Nhà in Portail Sài Gòn (tháng 5- 1928), Đồn điền cao su Cam Tiên (tháng 9-1928), Hãng dầu Nhà Bè (tháng 11-1928), v.v.. Từ đấu tranh cho các mục tiêu kinh tế đã tiến lên các mục tiêu chính trị, phong trào công nhân dần dần trở thành một lực lượng chính trị độc lập trong phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta.
Không nghi ngờ gì nữa, ở Sài Gòn truyền thống đấu tranh quật cường của công nhân đã được xác lập. Do vậy mà các tổ chức tiền thân của Đảng như Thanh niên và Tân Việt đã lấy nơi này làm địa bàn chủ yếu để từ đó tỏa đi khắp đồng bằng Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Và không ở đâu như Sài Gòn có mặt đông đủ các tổ chức cộng sản trước ngày hợp nhất, từ An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng đến Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, đội tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân nước ta, khẳng định hoạt động tích cực của Nguyễn Ái Quốc và những học trò của Người trong việc kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Tại Sài Gòn, quá trình kết hợp đó đã diễn ra thuận lợi do có sự hoạt động tích cực của Tôn Đức Thắng và Công hội. Trên một ý nghĩa nào đó, Công hội do Tôn Đức Thắng sáng lập tại Sài Gòn đã bắc nhịp cầu đưa chủ nghĩa Mác - Lênin đến với công nhân. Vai trò của Công hội mà Tôn Đức Thắng là người sáng lập và là Hội trưởng thực sự quan trọng trong lịch sử phong trào công nhân Việt Nam vào những năm đầu tiên truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản ở Sài Gòn.
ĐẠO LÝ BÁC TÔN - VẺ ĐẸP CỘI NGUỒN
MAI VĂN TẠO63
Trong ngày trọng đại hôm nay, cả nước trân trọng kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Tôn kính yêu - tôi sẽ được nghe, được biết thêm về thân thế và sự nghiệp lớn lao của Bác đối với đất nước Việt Nam, đối với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga trên đất nước của Lênin. Những tình cảm lớn, tư tưởng lớn của Bác, sự hy sinh cả cuộc đời của Bác để mang lại ánh sáng cho dân tộc, cho quê hương sẽ làm cho tôi dịu bởi cơn đau nhức nhối dai dẳng bởi những hiện tượng tiêu cực trong đời sống đầy biến động và lắm ưu phiền.
Tôi cả tin như vậy và mãi mãi muốn tin như vậy. Bởi lẽ cuộc đời của Bác không những là tấm gương trong sáng về đức độ con người, về sự hy sinh và tinh thần chiến đấu giải phóng dân tộc tinh thần quốc tế vô sản cao cả mà còn là những bài học lớn về đạo lý, nhân bản mà bất cứ thời đại nào, thế hệ nào - hôm nay và mãi mãi về sau - vẫn phải cần đến để rèn luyện phẩm hạnh làm người.
Bác Tôn sống thực sự trên đất quê hương An Giang chỉ có 18 năm - gần bằng thời gian đế quốc Pháp đày đọa Bác trong ngục tù nghiệt ngã. Thời gian còn lại của Bác cho đến hết cuộc đời Bác sống và làm thợ ở Sài Gòn, đi lính hải quân tôn nước Pháp hoạt động ở Chiến khu Nam Bộ, Chiến khu Nhà văn Việt Bắc, và làm việc ở Hà Nội trên nhiều cương vị cao cấp của Nhà nước.
Thế nhưng sau ngày giải phóng miền Nam, Bác Tôn về thăm lại quê hương, xã Mỹ Hòa Hưng đã trải qua biết bao biến động cuộc đời, biết bao biến đổi thiên nhiên, sắp đến nhà, Bác chỉ tay vào lùm tre ven bãi:
- Đến đó các đồng chí cho tôi đi qua chiếc cầu nhỏ cạnh bờ ao, được không?
- Thưa Bác nước chưa rút hết, đắp đất chưa khô, xin Bác đi xuồng theo rạch vào nhà.
- A! A! Bác reo lên, Rạch Rích phải không? Đi xa lâu quá, tôi quên tháng này nước đồng chưa cạn.
Suốt cuộc đời làm cách mạng cực kỳ nguy hiểm và đầy gian khổ đằng đẵng sáu, bảy mươi năm, Bác Tôn phải quên, phải nhớ biết bao nhiêu chuyện trong đời. Vậy mà khi trở lại làng quê, Bác vẫn không quên chiếc cầu nhỏ cạnh bờ ao, vẫn nhớ tên con Rạch Rích từ bến sông lặng chảy đến sân nhà.
Tuổi thơ của Bác trôi qua với những năm tháng quê nghèo, u ám - dù rằng gia thế của Bác không đến nỗi bần chật như lắm gia đình - Bác cũng từng sống với những thành phố hiện đại châu Âu, từng biết đời sống thượng lưu nước Pháp. Nhưng làng quê nghèo trên cồn cát giữa dòng sông, chiếc cầu, bờ ao, con rạch nhỏ vẫn canh cánh trong tâm hồn người cộng sản Việt Nam, vị Chủ tịch nước Việt Nam.
Tình yêu gây nên nỗi nhớ. Có yêu thực sự, thiết tha nỗi nhớ mới trở thành một thứ cội rễ kim cương bám chặt lòng người. Tôi cứ nghĩ tình yêu quê hương, xứ sở của Bác Tôn rất thắm thiết, dịu dàng và cụ thể chính vì thế Bác mới dành được trọn vẹn đời mình cho lý tưởng giải phóng quê hương.
Bác nhớ rất dai, nhớ kỹ. Cùng trong ngày về quê hương, khi vào nhà bà con, láng giềng đến đứng ngồi chật ních nhà, chật cả sân. Vừa trò chuyện với bà con, Bác vừa ngắm nghía đồ vật trong nhà Bác hỏi từng người tuổi tác, con cái, công việc làm ăn. Tưởng như con người đang ngồi đó không phải là Chủ tịch nước Việt Nam Tôn Đức Thắng, mà chỉ là ông Hai, bác Hai, anh Hai Thắng đang đoàn tụ với gia đình sau sáu bảy mươi năm biền biệt xa nhau.
Không ngồi ghế, Bác ngồi vào bộ ván mỏng kê giữa hàng ba, hai chân khẽ đong đưa, trông Bác như người còn rất trẻ. Bác nói tự nhiên:
- Hồi nhỏ trưa trưa tôi học tại bộ ván này.
Bác chăm chăm nhìn từng cây cột trong nhà, Bác hỏi:
- Tôi nhớ hàng cột bằng tràm, giờ có cây này hơi khác?
- Anh Hai nhớ kỹ quá - bác Tư gái, em dâu Bác Tôn vui vẻ cười: - nó còn đó, có mất đi đâu. Hồi anh ở nhà, nó là cột cái lâu ngày đứt chân, đưa xuống làm cột hàng nhì, rồi bây giờ làm cột hàng ba.
Bác còn nhớ nhiều thứ vật dụng khác nữa và Bác hỏi khi thấy cái gì khang khác với kỷ niệm ấu thơ. Hạnh phúc xiết bao con người không rời ra ngoài nguồn cột - dù trong bão tố cuộc đời hay trong cuộc sống hiển vinh.
Bác lặng lẽ vào trong đốt mấy nén hương trên bàn thờ tổ phụ và của đấng sinh thành. Đứng lặng hồi lâu Bác bảo bác Tư đưa Bác đi viếng mộ song thân nhưng sau vườn ngập nước lỡ khô, đi bộ không được, đi xuồng cũng không có chỗ vào.
- Vậy lần sau các đồng chí cho tôi về thăm mộ nhé!
Bác nhìn các cán bộ đưa Bác đi, đôi mắt thoáng buồn.
Không buồn sao được? Sáu, bảy mươi năm xa cách cha mẹ, quê hương, ngày về chỉ còn nấm mộ, dấu vết cuối cùng của người sinh ra và vất vả nuôi mình. Con người phúc hậu, chí hiếu, chí tình, chí nghĩa như Bác làm sao không chạnh tủi đôi giây. Có lẽ Bác nghĩ rằng không viếng được mộ song thân, coi như chưa trọn niềm hiếu thảo.
Tôi nhớ một sự kiện đáng nhớ, đáng trân trọng nhắc lại trong ngày đáng nhớ hôm nay.
Năm 1952 tôi được cử về làm công tác quân báo vùng Chợ Mới. Anh Ba Hinh, Bí thư và anh Bảy Tôn, Phó bí thư trao cho tôi một lá thư của Bác Tôn từ Chiến khu Việt Bắc gửi về cho mẹ. Lá thư viết trên tờ giấy pelure xếp đôi, góc trái dán kèm bức ảnh 4x3 của Bác. Nét chữ mực xanh còn khỏe khoắn, mặc dù trong ảnh thấy Bác mặc áo đen vai gầy, má tóp chớ không béo tốt như sau này. Anh Hinh bảo tôi tìm cách chuyển cho được lá thư về tận gia đình của Bác ở Mỹ Hòa Hưng. Bởi vì đây là thư của người con rất đỗi yêu thương cha mẹ. Người con ấy là Bác Tôn, tuổi cũng xấp xỉ 60 rồi. Anh Hinh còn nói: "Chú ráng làm thật tốt công tác này. Vì không phải là thư bình thường, mà là thư của một con người cách mạng chí trung với nước, chí hiếu với mẹ cha".
Tôi chép lại nguyên văn và bố trí đường dây bí mật chuyển cho được lá thư gốc về gia đình cho Bác. Hồi ấy Mỹ Hòa Hưng còn trong vùng địch chiếm. Người chuyển thư phải học thuộc lòng nội dung thư của Bác, phòng khi rơi mất cũng nói được đầy đủ ý trong thư, và chính tôi cũng phải học thuộc hai trang thư của Bác. Sáng hôm qua tôi hỏi người cháu của Bác tại Nhà lưu niệm Bác Tôn, gia đình còn giữ được lá thư ấy không. Anh ấy bảo đã thất lạc rồi. Tôi chép ra đây với trí nhớ của tôi còn tin cậy được 80-90%.
Thư Bác viết:
“Kính thưa mẹ! Từ nơi xa con kính gửi thư này về thăm mẹ. Con rất đỗi buồn lo không biết mẹ còn sống với con cháu không? Mẹ đã luống tuổi rồi. Chẳng may mẹ có bề nào mà chẳng được thấy mặt con và con không thọ được tang cho phải đạo làm con, thì đau đớn biết nhường nào. Giặc còn giày xéo quê hương, con bận lo việc nước chưa tròn, chữ trung chưa trọn, chữ hiếu cũng chưa xong. Xin mẹ hiểu lòng con, tha lỗi cho con. Ngày đêm con mong sớm đến ngày độc lập, được sớm về quỳ bên chân mẹ, để nhận hết cái lỗi phải xa cha mẹ từ ngày con biết tự bước lên đường đời. Con sẽ quỳ bên chân mẹ như ngày con còn thơ ấu. Con sẽ hái cau, ngoáy trầu cho mẹ và được đốt nén hương trước mộ ông bà. Thương nước, thương con chắc mẹ sẽ sẵn sàng tha thứ cho con... Còn điều này con xin thưa với mẹ: Con cháu ở nhà, đứa nào nên, mẹ ngợi khen cho nó nên thêm. Đứa nào lỡ lầm điều sai quấy, mẹ ráng khuyên bảo nó trở lại nẻo thẳng đường ngay. Bao giờ cũng vậy, con cháu đứa chưa nên là đứa đáng lo đáng tội nghiệp lắm mẹ ạ!".
Chép lại nội dung bức thư này của Bác Tôn giãi bày nỗi nhớ thương day dứt trong lòng Bác đối với mẹ; tôi bâng khuâng chạnh nhớ câu hát ru của người mẹ mà tôi nhớ mãi từ thuở ấu thơ cho đến bây giờ:
“Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".
Cái đạo lý sáng ngời nghìn năm ấy đọng lại mãi mãi trong lời ru, và tôi đã gặp lại trong bức thư của Bác, của người con ngót 60 tuổi gửi về thăm mẹ. Người mẹ lúc ấy đã trên dưới 80 tuổi.
Lòng Bác đối với đấng sinh thành là như vậy. Còn đối với Bác gái - người bạn đời rất mực yêu thương và thủy chung với Bác - cái tình của Bác sao đây?
Hồi Bác gái chưa mất, thỉnh thoảng Bác tâm sự với bạn thân trong chuyện tâm tình.
Tôi với ông gặp nhau mấy mươi năm, nhưng gần nhau có được bao nhiêu ngày. Ông đi như con chim bay không biết mỏi. Tôi với ông như sao Hôm chờ đợi sao Mai. Gặp nhau là lúc ông ở tù, tôi đi thăm. Ra tù nói chuyện với nhau giây lát, nhiều lắm đôi ba ngày ông lại đi lo việc đại sự quốc gia. Tưởng đâu ông ít nghĩ đến tôi. Đâu phải vậy, càng xa nhau ông càng thương càng nghĩ đến tôi đậm đà đằm thắm như tuổi trẻ đầu xanh.
Đúng như lời Bác gái tâm tình. Vài tháng trước đây, anh Chín Nghiệp (bác sĩ Trần Hữu Nghiệp) kể những mẩu chuyện về Bác Tôn. Chuyện nào cũng gây cho tôi xúc động. Tôi thúc giục anh Chín Nghiệp: "Viết đi! Anh viết đi! Những chuyện này quý lắm! Trong lúc cuộc sống lắm sự nhiễu nhương, con người lắm kẻ mánh mung, nhớp nhúa, chuyện của Bác Tôn càng hết sức cần thiết như một loại thuốc hồi sinh cho bệnh suy dinh dưỡng về nhân cách và tâm hồn". Anh Chín Nghiệp đã viết. Bài của anh tôi rất thích. Thích nhất chi tiết "cái cối xay tiêu” và bác Tôn thăm Bác gái đang trị bệnh tại bệnh viện".
Anh Nghiệp còn kể hồi anh cùng đi với Bác sang Liên Xô với tư cách bác sĩ bảo vệ sức khỏe cho Bác. Mỗi đoàn viên được bạn cho 1.000 rúp cũ dán túi trong thời gian lưu lại Liên Xô. Riêng Bác, bạn trao đến những 10 ngàn. Có tiền rúp, anh em mua sắm thứ này vật nọ về làm quà cho bạn bè, vợ con. Mua sạch túi. Riêng Bác, anh Nghiệp chẳng thấy mua gì. Anh Nghiệp gợi ý và sẵn sàng đi mua giúp Bác.
À, à! Chú giúp tôi mua một thứ. Cái cối xay tiêu. Ở nhà bà ấy biết tôi thích ăn cá kho tiêu, bà thường mua cá về kho. Mỗi lần đâm tiêu trong cái chén, tiêu văng ra tung tóe, mắt bà đã kém, lò mò lượm lại từng hột, thương quá! Anh mua giùm tôi cái cối xay tiêu.
Anh Nghiệp mua cái cối xay tiêu 7 rúp. Số rúp còn lại trong số 10 ngàn, Bác nhờ anh Chín Nghiệp trao lại tất cả cho bạn Liên Xô.
Chi tiết này đáng để cho ta ngẫm nghĩ về một con người cần, kiệm, liêm, chính.
Và chi tiết "Bác Tôn thăm Bác gái trong bệnh viện", anh Nghiệp kể lại thật cảm động, thật vui. Mỗi lần y tá bảo với Bác Tôn vào thăm Bác gái, Bác mừng vui, luýnh quýnh như người trẻ sắp gặp người yêu và hai Bác hai mái đầu bạc trắng quyện chặt lấy nhau, Bác Tôn thắm thiết hôn Bác gái như thể lần đầu.
Ai dám bảo tình già tẻ nhạt, chỉ còn cái nghĩa với nhau. Không đúng đâu. Cái nghĩa mà khuyết tình thì cũng chỉ là cái nghĩa công thức mà thôi. Vợ chồng càng lớn tuổi tình càng thắm, nghĩa càng sâu.
Yêu kính Bác Tôn, tôi cảm nhận và ghi nhớ mãi mãi những cử chỉ của Bác chứa chan nhân hậu, đạo lý, nhân bản tuyệt vời. Bác là cái đẹp truyền thống, xa xưa mà vĩnh viễn. Dù thời đại nào cũng không thể thiếu, nhất thiết phải trân trọng giữ gìn cái đẹp vĩnh hằng mà Bác Tôn đã hội tụ rất nhiều. Bởi vì văn minh điện tử, thế giới cực thịnh tiện nghi và vật chất không thể và không bao giờ thay thế được giá trị cái đẹp tinh thần, thiếu đạo lý truyền thống Việt Nam - ấy là hành vi hiếu thảo với cha mẹ, thủy chung chồng vợ, thương người như thể thương thân, quê hương đẹp hơn cả.
Bác Tôn của chúng ta vời vợi như rặng Thất Sơn, nhưng cũng rất gần gũi như sông nước, cây cối quanh ta, mà ai cũng muốn đến gần, muốn ngắm cái đẹp cội nguồn, cái đẹp vĩnh cửu, xa xưa.
CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
NGUYỄN TRỌNG PHÚC64
Quy luật của quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là: "Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước". Trong quá trình vận động thành lập Đảng, sự phát triển của phong trào công nhân Việt Nam chẳng những là một nhân tố quan trọng mà có ý nghĩa quyết định tới tính chất, bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Tôn Đức Thắng là một trong những đồng chí có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phong trào công nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX phát triển dần từ tự phát lên tự giác gắn liền với quá trình phấn đấu và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển mạnh từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX gắn liền với các chương trình khai thác thuộc địa của tư bản thực dân Pháp ở Đông Dương. Trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra (năm 1914), giai cấp công nhân Việt Nam đã có khoảng trên 100.000 người thuộc các ngành sửa chữa cơ khí, giao thông, khai thác mỏ, đồn điền. Dưới ách thống trị của chế độ thực dân của tư bản Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam cũng như các giai cấp, tầng lớp khác trong dân tộc là người dân mất nước đồng thời bị tư bản Pháp và tư bản bản xứ bóc lột nặng nề sức lao động áp bức và bóc lột đã sớm thúc đẩy giai cấp công nhân Việt Nam đứng lên đấu tranh. Các hình thức đấu tranh cũng từ thấp tới cao. Từ phản ứng tức thời, đập phá máy móc đến bãi công, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh chính trị, vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tôn Đức Thắng là người sớm bước vào hàng ngũ những người làm thợ và tham gia phong trào công nhân Việt Nam. Ông sinh ngày 20-8-1888 tại Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, Long Xuyên (nay là An Giang). Năm 1906 ông lên Sài Gòn làm công nhân. Năm 1910 Tôn Đức Thắng làm thợ trong xưởng máy của Hải quân Pháp tại Sài Gòn. Năm 1912 tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ và Xưởng Ba Son.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-191) đã dẫn tới thành lập Nhà nước công nông cách mạng đầu tiên tận thế giới - nước Nga Xôviết. Cuộc cách mạng vĩ đại đó đã mở ra thời đại mới của lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Với ý đồ thủ tiêu thành quả của Cách mạng Tháng Mười, tiêu diệt chính quyền Xôviết Nga non trẻ 14 nước đế quốc (trong đó có Pháp) đã phát động chiến tranh can thiệp, xâm lược nhằm vào nước Nga. Thực hiện ý đồ đó, xuất phát từ cảng Toulon, ngày 16-4-1919 nhiều tàu chiến của hạm đội Pháp đã tiến vào Hắc Hải (Biển Đen) chuẩn bị tiến công Xêvaxtôpôn. Nhưng ngày 19-4 binh lính và thủy thủ của Chiến hạm France đã phản chiến, chống lại lệnh chiến đấu của chỉ huy. Khẩu hiệu họ nêu ra là "Không chiến tranh với nước Nga, quay về Toulont". Người thủy thủ Tôn Đức Thắng trên Chiến hạn đó đã tham gia phản chiến và là người đã kéo lá cờ đỏ để phản đối chiến tranh can thiệp chống nước Nga Xôviết. Ngày 20-4-1919 phong trào phản chiến lan rộng toàn hạm đội buộc chỉ huy phải điều hạm đội trở về căn cứ. Việc Tôn Đức Thắng tham gia cuộc phản chiến Hắc Hải là sự kiện lịch sử có ý nghĩa đặc biệt, thể hiện sự ủng hộ của những người Việt Nam yêu nước đối với cách mạng Nga và cũng cho thấy ảnh hưởng lớn lao của Cách mạng Tháng Mười với cách mạng thế giới.
Có gì thống nhất ở hai sự kiện lịch sử trong buổi đầu của sự nghiệp hoạt động của Tôn Đức Thắng: Tham gia bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ và công nhân Xưởng Ba Son ở Sài Gòn năm 1912 và cuộc phản chiến lịch sử ngày 20-4-1919 ở Hắc Hải. Điểm chung ấy là Tôn Đức Thắng đấu tranh với tư cách một người thợ và đều chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc yêu tự do. Điều cần nhấn mạnh là khi tham gia cuộc phản chiến ở Hắc Hải ủng hộ nước Nga Xôviết, thái độ, ý thức chính trị của Tôn Đức Thắng đã được khẳng định rõ mà cuộc đấu tranh bảy năm trước đó ở Sài Gòn mới chỉ là bắt đầu. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi nam 1917, nhưng ở châu Âu và ở nước Pháp tin tức về cuộc Cách mạng này bị các thế lực tư bản bưng bít, người ta còn hiểu quá ít về cuộc cách mạng này. Đặt trong điều kiện như thế càng thấy nổi bật lên ý nghĩa của cuộc phản chiến lịch sử mà Tôn Đức Thắng đã tham gia. Có thể coi đây như sự phát triển quan trọng trong tư tưởng chính trị của Tôn Đức Thắng, hướng về tư tưởng, lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga.
Sau sự kiện Hắc Hải, năm 1920 Tôn Đức Thắng về nước tiếp tục cuộc đời người thợ. Ông là người bí mật đứng ra thành lập tổ chức Công hội đầu tiên tại Sài Gòn - Chợ Lớn.
Năm 1920 có một cuộc đấu tranh ở Sài Gòn rất đáng chú ý. Đó là cuộc bãi công của thủy thủ các tàu biển của Pháp đậu tại bến cảng Sài Gòn nổ ra ngày 8-3-1920 với 226 thủy thủ tham gia. Cuộc bãi công kéo dài đến ngày 18-3. Giới chủ của tám tàu biển của Pháp đã đuổi các thủy thủ lên bờ. Cuộc bãi công này đã được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân Sài Gòn, nhất là giới viên chức và lao động. Theo tác giả Dương Trung Quốc: Hội những viên chức Sở Bưu điện Sài Gòn đã quyên tiền ủng hộ những người đấu tranh. Một “Uỷ ban tổ chức Bữa cháo cộng sản" (Comité de la Soupe Communiste) được thành lập lo giúp đỡ việc ăn uống cho những thủy thủ bãi công. Ngày 13-3 những người bãi công đã tổ chức mít tinh cảm ơn những người ủng hộ họ và hô vang các khẩu hiệu. Sự giải phóng người lao động do người lao động muôn năm", “Tổng công hội muôn năm". Đó là cuộc đấu tranh với nội dung và khẩu hiệu cách mạng mới mẻ làm người ta nghĩ tới vai trò của Công hội, một tổ chức của giai cấp công nhân.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, nhất là qua các báo Người cùng khổ, Việt Nam hồn và các sách báo cách mạng được đưa về nước, giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam bắt đầu được tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác - Lênin. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ trên cả nước như ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Gai, Sài Gòn - Chợ Lớn. Đặc biệt là cuộc bãi công của 600 công nhân thợ nhuộm ở Chợ Lớn tháng 11-1922. Nguyễn Ái Quốc trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp đã đánh giá cao cuộc bãi công đó, coi đó là dấu hiệu mới của thời đại. Người cho rằng "Khắp nơi giai cấp công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”65.
Phong trào công nhân Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ trong năm 1925. Nhiều cuộc bãi công có quy mô lớn đã nổ ra một cách có tổ chức và có sự lãnh đạo, chỉ đạo. Trong số đó phải kể đến cuộc bãi công của gần 1.000 công nhân Xưởng Ba Son (Sài Gòn) tháng 8-1925 gắn liền với vai trò tổ chức của Tôn Đức Thắng. Xưởng Ba Son là cơ sở chuyên đóng và sửa chữa tàu thủy lớn nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam, được thành lập năm 1864.
Ngày 4-8-1925 cuộc bãi công nổ ra với mục đích nhằm giữ lại chiếc tàu Michelet đang được sửa chữa ở Xưởng Ba Son, không cho Pháp dùng tàu này chở binh lính sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc bãi công cũng nêu yêu sách đòi tăng lương 20%, đòi những người thợ bị đuổi được trở lại làm việc. Ban lãnh đạo Công hội đã vận động công nhân viên chức các nhà máy khác trong thành phố ủng hộ công nhân Ba Son. Ngày 12-8 cuộc bãi công của công nhân Ba Son đã giành thắng lợi. Giới chủ phải chấp nhận tăng lương 10% cho công nhân và thỏa mãn các yêu sách khác. Công nhân trở lại làm việc nhưng vẫn lãn công, làm cho việc sửa chữa tàu Michelet kéo dài đến 28-11-1925 mới xong và tàu đó không thể tham gia chở quân đi đàn áp cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ ở Trung Quốc. Đây là cuộc đấu tranh điển hình và tiêu biểu cho phong trào công nhân Việt Nam thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của tổ chức Công đoàn do Tôn Đức Thắng lập ra. Cuộc đấu tranh không chỉ với mục tiêu kinh tế mà còn có mục tiêu chính trị rõ rệt. Cuộc đấu tranh cũng ghi nhận tinh thần quốc tế vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Với cuộc bãi công Ba Son thắng lợi đánh dấu mốc phát triển rất quan trọng của phong trào công nhân Việt tranh có tổ chức và có mục đích chính trị rõ ràng.
Người thủy thủ Tôn Đức Thắng tham gia phản chiến ở Hắc Hải ủng hộ nước Nga Xôviết năm 1919 và người thợ, người lãnh đạo Công hội, lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son năm 1925 ủng hộ công nhân Trung Quốc có một điểm tiêu biểu: Tinh thần quốc tế vô sản cao cả. Giai cấp công nhân mang bản chất quốc tế. Tôn Đức Thắng đã thấm nhuần sâu sắc điều đó.
Từ khi về nước năm 1920 và suốt những năm 1920, Tôn Đức Thắng đã có cống hiến lớn lao thúc đẩy sự phát triển của phong trào công nhân Sài Gòn nói riêng và phong trào công nhân Việt Nam nói chung. Sự phát triển về mục tiêu đấu tranh vì giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Đó là cơ sở xã hội cực kỳ quan trọng để tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản.
Tháng 6-1925 tại Quảng Châu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên một tổ chức yêu nước, cách mạng để phát triển thành Đảng Cộng sản, tổ chức tiền thân của Đảng. Ở trong nước Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển nhanh chóng về tổ chức. Ở khắp Bắc, Trung, Nam. Tôn Đức Thắng đã sớm tham gia tổ chức này. Năm 1927 Tôn Đức Thắng được cử vào Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tích cực tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng ở Nam Kỳ.
Giữa năm 1929 nhân sự kiện xảy ra vụ án tại ngôi nhà số 7, đường Barbier Sài Gòn (nay là phố Lý Trần Quán, Thành phố Hồ Chí Minh) nhà cầm quyền thực dân Pháp đã khủng bố, bắt bớ và đưa ra xét xử một số đồng chí của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trong số đó đồng chí Tôn Đức Thắng bị kết án tù khổ sai 20 năm. Năm 1930, Tôn Đức Thắng bị đày ra Côn Đảo.
Sự thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước đòi hỏi phải có đảng cách mạng thực sự là đội tiền phong của phong trào. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước phải được lý luận cách mạng soi sáng, có được đường lối chính trị đúng đắn hướng dẫn và phải từng bước hình thành và phát triển về tổ chức và đội ngũ cán bộ. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các chiến sĩ cách mạng tiền bối đã thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuẩn bị tích cực các điều kiện đó, thúc đẩy các điều kiện đó chín muồi để đi đến thành lập Đảng.
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng phát triển mạnh mẽ về tổ chức và lực lượng, trong năm 1929 từ tổ chức này đã dẫn tới thành lập các tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng.
Có thể thấy rất rõ vai trò của Tôn Đức Thắng với tư cách là một công nhân thực thụ đã tích cực tham gia đấu tranh và thúc đẩy phong trào công nhân phát triển. Với tư cách là người tổ chức và lãnh đạo Công hội - một tổ chức của giai cấp công nhân và phong trào công nhân - Tôn Đức Thắng đã làm cho các cuộc đấu tranh đó phát triển từ đấu tranh vì mục đích kinh tế đến mục đích chính trị, phát triển từ tự phát chuyển dần lên tự giác, có tổ chức và mục tiêu rõ ràng. Với tư cách là một người lãnh đạo của Kỳ bộ Nam Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, người công nhân cách mạng yêu nước Tôn Đức Thắng đã đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng và phát triển tổ chức tiền thân của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và do đó trên thực tế hành động cũng như trong nhận thức đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Khoảng thời gian 10 năm từ khi về nước (năm 1920) đến khi bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo (năm 1930), Tôn Đức Thắng đã hoạt động liên tục trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, xây dựng tổ chức Công hội (Công đoàn). Từ một công nhân thực thụ trở thành người lãnh đạo Công hội, trở thành nhà hoạt động cách mạng, đó là nét nổi bật của sự nghiệp Tôn Đức Thắng trong thời kỳ này. Đó là chặng đường đáng ghi nhớ trong cuộc đời hoạt động của Tôn Đức Thắng và cũng là chặng đường Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí của Người chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của Đảng. Đó là 10 năm đáng ghi nhớ của thế kỷ XX.
Năm 1911 Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1916 Tôn Đức Thắng cũng rời Sài Gòn sang Pháp. Năm 1919 Nguyễn Ái Quốc gửi yêu sách tám điểm tới Hội nghị Versailles còn Tôn Đức Thắng tham gia phản chiến ở Hắc Hải. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc đón nhận Đề cương theo vận về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam Tôn Đức Thắng từ Pháp trở về nước hoạt động trong phong trào công nhân. Năm 1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên còn Tôn Đức Thắng lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son (Sài Gòn). Năm 1929 Nguyễn Ái Quốc bị tòa án Nam Triều kết án tử hình vắng mặt còn Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bị sau đó đày ra Côn Đảo. Phải chăng sự trùng hợp của những tháng năm trong cuộc đời hoạt động của hai người con ưu tú của dân tộc trong thời kỳ xây dựng Đảng đã như báo trước sự gắn bó giữa Bác Hồ và Bác Tôn của thời kỳ Đảng lãnh đạo chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mà hình ảnh hai vị Chủ tịch nước mãi mãi in đậm trong tình cảm của toàn Đảng, toàn dân ta với sự tôn kính cao nhất.
TÔN ĐỨC THẮNG NGƯỜI THỢ MÁY BÌNH THƯỜNG - VĨ ĐẠI
TÔ THÀNH TÂM66
HUYỀN THOẠI CÙ LAO ÔNG HỔ
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (sau đây xin gọi là Bác Tôn) sinh ra trên Cù lao ông Hổ, một dãy cù lao nằm giữa dòng sông Hậu Giang chảy ngang thành phố Long Xuyên. Trên dòng Hậu Giang, từ Châu Đốc xuôi ra biển, có nhiều dãy cù lao mang tên người như cồn Tiên, cồn Bà Hòa, cồn Bà Lý, v.v.. Đó là tên người đầu tiên khai mở vùng cồn bãi ven sông cho dân tụ hội dần dần, làm ăn sung túc. Nhưng Cù lao ông Hổ lại không mang tên người. Cù lao mang danh một con thú dữ được con người thuần dưỡng, sống có hiếu có nghĩa, được mọi người truyền tụng.
Chuyện kể rằng:
Thời xưa, khi cù lao còn hoang xơ, rậm rạp, một số người đã đến khai phá, bám trụ làm ăn. Rừng lau, sậy, bần, gáo dày đặc đất cồn. Con người tới đây săn thú, bắt tôm cá, dần dần chặt cây phát cỏ trồng lúa ngô, khoai, đậu, v.v.. Đất cồn màu mỡ ưu đãi người lao động. Chim trời, cá nước thú rừng mặc sức săn bắt. Lúa, khoai tươi tốt bời bời. Không bao lâu, xóm làng trở nên trù phú, nhà nhà no đủ. Có một đôi vợ chồng nhà nông ăn ở với nhau đã lâu mà không có con khiến cho họ băn khoăn lo nghĩ. Một hôm, người chồng chống xuồng vô đồng dở lọp67. Bỗng ông nghe có tiếng gì như tiếng mèo kêu. Vạch trong lau sậy, ông bắt gặp một con cọp con lạc mẹ đang kêu gào thảm thiết. Thương tình, ông túm con cọp trong áo cho nó đỡ lạnh và chống xuồng về nhà. Bà vợ thấy cọp sợ thất kinh, ông nói nó mất mẹ kêu la tìm mẹ, mình không con nuôi nó làm con nuôi, chắc sau này lớn lên nó giúp ích cho vợ chồng mình.
Quả nhiên, con cọp mỗi ngày mỗi lớn, càng lớn càng khôn. Nó giúp ích cho ông bà nhiều việc. Ông bà đi ra ruộng rẫy, nó giữ nhà. Cọp giữ nhà thì không con gì dám tới, kể cả con người. Lớn lên, nó giúp ông đi săn. Hôm nay được con heo rừng, hôm sau được con hoẵng. Cuộc sống của ông bà nhờ đó khấm khá lên.
Không may, trong một năm, cả hai ông bà cùng lăn ra chết một lúc vì mắc một bệnh dịch nguy hiểm. Con cọp lại một lần nữa mất mẹ. Nó lại kêu gào thảm thiết bên phần mộ ông bà rồi bỏ xóm đi mất. Nhưng tới ngày giỗ cha mẹ nuôi, nó lại tha một con thú rừng đặt cạnh hai ngôi mộ.
Cảm mến lòng hiếu nghĩa của con cọp, dân làng truyền tụng câu chuyện về con cọp ấy và đặt tên cho cù lao họ đang sống là Cù lao ông Hổ.
Sinh ra trên mảnh đất huyền thoại ấy từ nhỏ, Bác Tôn đã được giảng giải ý nghĩa của câu chuyện. Lớn lên, khi tuổi thành niên, Bác Tôn đã xác định con đường vào đời của mình, tự thân lập nghiệp, trọn trung với Tổ quốc, trọn hiếu với mẹ cha, đối xử nhân hậu với tất cả mọi người…
BƯỚC NGOẶT TRONG CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA BÁC TÔN (1907-1916)
Khi làm ăn trở nên khấm khá, ông bà Tôn Văn Đề dựng lên trên nền đất cũ một ngôi nhà sàn, chái âm dương, có hàng hiên rộng, có vườn bao quanh... Gia cảnh tốt lành ấm êm. Hai năm sau, bà sinh hạ một đứa con trai đầu lòng. Còn vui mừng nào hơn nỗi vui mừng này! Đó là Hai Thắng.
Lớn lên, Hai Thắng được cha mẹ đưa sang quê ngoại ở trong Rạch Cái Sơn (nay thuộc phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên) để đi học. Lúc đó bên Cù lao Ông Hổ chưa có trường học nào cả. Ở nhà ngoại, Hai Thắng đi tắt qua một bờ lau lách là tới Trường tiểu học Trần Minh chỉ cách nhà ngoại chừng 500 mét. Những năm đầu, khi chưa đi học chữ Quốc ngữ, Hai Thắng đi học chữ Nho do ông Nguyễn Thượng Khách (tên thường gọi là ông Năm Khách). Ông là cậu của Hai Thắng. Ông làm thầy thuốc bắc, có tiệm thuốc bắc hiệu Nam Thái Hòa ở trên chợ. Ngoài giờ làm việc, ông mở lớp dạy chữ Nho cho trẻ trong xóm. Hai Thắng là cháu, là học trò sáng dạ nhất của ông. Lâu lâu, nhà ông Năm Khách có khách từ bên Sa Đéc và trong Rạch Giá đến chơi. Khách chủ họp nhau trên lầu tiệm Nam Thái Hòa. Hai Thắng chăm lo gà nước tiếp khách. Ra vào, anh vẫn chú ý lắng nghe câu chuyện bàn luận của người lớn. Họ bàn văn thơ yêu nước và chuyện quốc sự. Có hôm đang mải mê nghe, ông Năm Khách bước ra bắt gặp. Ông bảo cháu:
Từ đó, Hai Thắng càng để ý tới những vị khách tới nhà, chăm chú lắng nghe câu chuyện của họ. Thì ra, ông Năm Khách tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục khởi nguyên từ Hà Nội, nhóm do cụ Cử Hoành ở Sa Đéc tổ chức. Bài học vỡ lòng cho cậu học trò Tôn Đức Thắng là bài học làm người, bài học yêu nước, tinh thần dân tộc, quốc hồn, quốc túy v.v. Người học trò nhỏ đã ghi đậm dấu ấn yêu nước trong tâm hồn trong trắng, tạo nên nhân cách riêng của Tôn Đức Thắng.
Năm 19 tuổi, Bác Tôn tốt nghiệp tiểu học, được cấp văn bằng, thông thường gọi là Xectiphica. Trở về làng, ai cũng khen gia đình Hai Thắng là có phước. Mọi người khuyên Hai Thắng cưới vợ, sinh con nối dòng cho ông bà Tôn Văn Đề. Hương chức, hội tề làng Mỹ Hòa Hưng cũng khuyên Thắng ra làm việc làng, giúp hương chức trong làng làm việc với các quan Tây ở quận, ở tỉnh.
Nhưng với lòng yêu nước, ghét Tây, ghét những kẻ làm tay sai cho Tây, Hai Thắng đã từ chối, kể cả việc cưới vợ, sinh con, theo hướng của phụ mẫu. Cha mẹ hỏi, Hai Thắng nói:
- Con muốn lên Sài Gòn học thêm.
Vậy là cha mẹ, cậu, dì gom góp lại, cho Bác Tôn 300 đồng bạc Đông Dương ngân hàng để con, cháu tiếp tục lên Sài Gòn ăn học. Số tiền đó tương đương với gần một ngàn giạ lúa thời đó. Với số tiền ấy, Bác Tôn dư sức theo học ba năm ở Trường Chasseloup Laubat và sau đó một năm ở Trường Đào tạo công chức thuộc địa. Điều đó sẽ đảm bảo cho Bác Tôn một cương vị "thầy, chú” cao sang, ăn trắng mặc trơn vào thời buổi ấy. Khi ở trong làng, Bác Tôn đã không chịu làm tay sai cho hương chức, hội tề làng thì đời nào Bác lại theo học để cũng làm tay sai cho bọn thống trị Pháp.
Có người rủ Bác Tôn hùn vốn mở tiệm buôn. Họ nói, không bao lâu sẽ trở thành chủ tiệm giàu có như những người Hoa ở Chợ Lớn. Bác Tôn chỉ nói là không thích nghề buôn bán nên không làm theo.
Cuối cùng, Bác Tôn đi học nghề làm thợ máy, thợ điện. Với số tiền có trong tay, Bác rủ thêm một số anh em ở lục tỉnh lên Sài Gòn tìm việc đi học nghề ở các tiệm máy tư nhân. Ý nghĩ ban đầu của Bác Tôn trong việc chọn học nghề làm thợ rất giản dị. Ý nghĩ ấy được nhà văn Lê Minh nắm bắt được trong những năm gia đình Bác Tôn đoàn tụ ở Thủ đô sau năm 1954 và được nhà văn viết trong cuốn Người thợ máy Tôn Đức Thắng68 như sau:
- Nghề thợ đối với Anh vẫn có một có gì hấp dẫn hơn cả. Tay mình làm ra những thứ rất mới, những vật dụng mà quê Anh chưa bao giờ có. Vả lại, có nghề đi đâu cũng sống được.
Có nghề đi đâu cũng sống được! Đó là lý tưởng cuộc đời Bác Tôn. Đó cũng là chân lý của cuộc sống hiện tại.
Với ý nghĩa đó, Bác Tôn cùng nhiều người bạn học nghề tư nhân và năm 1915 thi đậu vào Trường Bá Nghệ (hay đầy đủ hơn là Trường Cơ khí châu Á ở Sài Gòn) niên khóa 1915-1917 cùng với một người em kết nghĩa là Đoàn Công Sở, tên thường gọi là Ba Sứ quê ở Vĩnh Kim, Mỹ Tho.
Đi học nghề làm thợ là bước ngoặt trong cuộc đời và trong sự nghiệp cách mạng của Bác. Chính nhờ có nghề làm thợ mà Bác sống chan hòa với các bạn thợ ở trong nước, với các bạn thợ Pháp và bạn thợ các thuộc địa của Pháp, với công - nông Nga và trở thành người thợ đầu đàn của giai cấp công nhân Việt Nam.
BÁC TÔN Ở PHÁP VÀ TRONG HẢI QUÂN PHÁP (1916-1920)
Học Trường Bá Nghệ khóa học 1915-1917, Bác Tôn có tay nghề rất khá Bác là thợ cả. Tuy là thợ thực tập trong Xưởng Ba Son nhưng Bác Tôn rất được kính nể. Chẳng những Bác có tay nghề giỏi lại thông thạo tiếng Pháp, giao dịch với giáo viên đốc công, chủ xưởng khá linh hoạt. Bác lại thường đọc sách báo trong và ngoài nước nên nắm rõ thời cuộc và nói lại cho anh em nên ai cũng quý mến.
Tháng 7-1916 có lệnh huy động thợ Xưởng Ba Son và học sinh Trường Bá Nghệ sang Pháp. Tháng 9-1916 hơn 400 lính thợ bị dồn xuống tàu Galliéni đưa sang Pháp. Chiến tranh thế giới thứ nhất từ bên kia trời Âu đã làm kinh động tới xứ Đông Dương thuộc địa. Họ đưa những người thợ Việt Nam sang làm việc cho Hãng Arsenal de Toulon vốn là hãng chính của Xưởng Ba Son Sài Gòn. Hãng chuyên đóng và sửa chữa tàu cho Hải quân Pháp.
- Có nghề ở đâu cũng sống được.
Ý nghĩ đó được chứng thực khi những người thợ Việt Nam, trong đó có Bác Tôn sống những ngày trên đất Pháp.
Ở nước Pháp, Bác Tôn cùng những người thợ Việt Nam sống chung với những người thợ Pháp. Ở xứ Đông Dương thuộc địa không bao giờ thợ được tổ chức như vậy. Sinh hoạt nghiệp đoàn làm cho những người thợ hiểu rõ quyền lợi của mình. Họ đoàn kết bênh vực nhau đấu tranh với chủ. Họ thương yêu nhau như người cùng dân tộc. Với Bác Tôn, chuyến đi này làm Bác rõ nhiều việc: Ở Đông Dương Bác ghét Tây, thì ở đây có những người bạn Pháp. Tình cảm giữa những người thợ thật đậm đà, thân thiết. Đoàn Công Sở (Ba Sứ) người anh em kết nghĩa của Bác Tôn không may mắc bệnh chết nơi đất khách, quê người. Anh em thợ Việt Nam được sự giúp đỡ của các bạn thợ Pháp đã chôn cất người anh em của mình theo nghi thức dân tộc. Một bức ảnh chụp trước linh cữu Ba Sứ, trong đó Bác Tôn đứng đầu quan tài như một người chủ lễ, được gửi về Vĩnh Kim báo tin cho gia đình.
Sau tang lễ Ba Sứ, cuối năm 1916, có lệnh điều Bác Tôn xuống Chiến hạm France thuộc hạm đội Địa Trung Hải của Hải quân Pháp. Là thợ giỏi, Bác Tôn được cử làm Thợ máy trưởng (Mécanicienenchef) trên chiến hạm. Đó là một tuần dương hạm cỡ lớn. Trên chiến hạm có 1.200 lính thủy, pháo thủ, thợ máy. Sinh hoạt trên chiến hạm thì bọn chỉ huy ở trong các cabin có đủ tiện nghi ở tầng trên, còn binh lính sống chen chúc dưới tầng hầm chật chội. Họ là người ở nhiều địa phương và nhiều thuộc địa khác nhau của nước Pháp. Làm việc dưới quyền Bác Tôn có một số lính thợ. Bác luôn luôn ôn tồn, nhã nhặn nên được anh em quý mến. Trong số thợ này, có một người ở Đảo Corse tên là Albert Lentali mà sau này Bác Tôn có dịp gặp lại khi ở Côn Đảo.
Gần hai năm lênh đênh trên biển cả, ngày 11-11-1918, Hải quân Pháp mừng rỡ được tin Pháp - Đức ký hòa ước với nhau, Chiến tranh thế giới thứ nhất chấm dứt. Họ tưởng chiến hạm sẽ cập bờ, họ được giải ngũ. Không ngờ, hạm đội lại hướng mũi tiến về phương Đông, đi vào Biển Đen. Binh lính, pháo thủ, thợ máy, v.v. xôn xao bình luận. Cuối cùng họ mới vỡ lẽ ra là ở phương Đông, một nước Nga Xôviết đã ra đời sau cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đế quốc Pháp có cái gọi là "sứ mệnh" can thiệp vào nước Nga, giúp bọn Bạch vệ chống lại chính quyền mới do công - nông nắm giữ. Hiểu rõ nguyên nhân phải sang phương Đông, binh lính không chỉ thất vọng mà còn căm tức. Chiến tranh kết thúc vậy mà họ vẫn phải tiếp tục bắn giết với một nước không thù địch, với những người cùng giai cấp... Một nghiệp đoàn bí mật dưới chiến hạm đã nói rõ cho Bác Tôn cùng những người lính thợ biết rõ những điều ấy. Nhiều pháo thủ không tuân lệnh chỉ huy, không bắn pháo lên đất liền bị giam xuống hầm. Từ căm tức, bất mãn, một luồng phản đối trùm khắp chiến hạm:
- Không được bắn giết người Nga!
- Phải quay tàu trở về nước Pháp!
Đến ngày 19-4-1919, khi hạm đội neo đậu trước Xêvaxtôpôn thì khí thế phản đối đã lên đến đỉnh điểm. Một người có lẽ là người lãnh đạo tổ chức cách mạng bí mật trên chiến hạm đến gặp Bác Tôn, trao cho Bác một lá cờ đỏ và dặn:
- Sáng mai vào giờ chào cờ, anh hãy ra kéo lá cờ này lên kỳ đài của pháo hạm. Mọi việc sau đó, anh em khác sẽ lo…
Đúng lời hẹn, 7 giờ sáng ngày 20-4-1919 lễ chào cờ trên chiến hạm bắt đầu. Một bóng người nhỏ nhỏ mà nhanh nhẹn đã trèo lên kỳ đài hạ lá cờ tam tài xuống, kéo lên một lá cờ đỏ. Lá cờ đỏ tung bay trong nắng sớm và gió Biển Đen như reo vui vẫy gọi… 700 lính thủy nghiêm trang bồng súng chào và đồng thanh hát Quốc tế ca:
Vùng lên! Hỡi các nô lệ ở thế gian!
Vùng lên! Hỡi ai cực khổ bần hàn.
…
L’internationale, sẽ là xã hội tương lai!
Trên kỳ đài, Bác Tôn hướng về nước Nga xa xôi và quay về phương Đông quê nhà thầm mong ước về một ngày mai huy hoàng trên đất nước. Một tên chỉ huy đã sờ tay vào bao súng lục, nhưng hắn vội rút tay lại. Hắn biết điều gì sẽ xảy ra cho hắn trước ánh mắt của hàng trăm binh lính đang hướng lên lá cờ đỏ.
TỔ CHỨC CÔNG HỘI BÍ MẬT Ở SÀI GÒN - CHỢ LỚN
(1920-1929)
Sau cuộc binh biến Biển Đen, Bác Tôn trở về Sài Gòn và tiếp tục làm thợ cho Hãng Kroff. Ít lâu sau cuộc binh biến ấy ở phương Đông thì ở phương Tây nổ ra một sự kiện khác làm xôn xao dư luận nước Pháp. Một người yêu nước Việt Nam tên là Nguyễn Ái Quốc đã gửi cho Hội nghị các nước Đồng minh đang họp tại Verseille của nước Pháp một Bản yêu sách tám điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Đông Dương. Nhiều báo chí cách mạng và tiến bộ ở Paris đã đăng tải nguyên văn bản yêu sách đó. Bác Tôn hết sức khâm phục người yêu nước ấy. Bác đã lặn lội từ Toulon lên Paris để tìm. Tiếc thay không gặp, nên Bác âm thầm quay về Sài Gòn với nỗi niềm tâm sự ngổn ngang:
- Ở xứ mình nên tổ chức giai cấp công nhân như thế nào? Lập nghiệp đoàn ư? Ở thuộc địa, dễ gì bọn thống trị cho phép lập nghiệp đoàn như ở nước Pháp. Phải làm gì? Làm sao?...
Bản yêu sách dân quyền của Nguyễn Ái Quốc thôi thúc Bác Tôn tổ chức hội cho những người thợ. Thợ thuyền có tổ chức mới có sức mạnh. Bác Tôn đã rõ sức mạnh ấy trong những cuộc đấu tranh của nghiệp đoàn với chủ hãng khi ở Toulon. Càng rõ hơn sức mạnh ấy khi làm cuộc binh biến thắng lợi trên Biển Đen.
Mải suy tư, một hôm đang đi trên bến Bạch Đằng, đột nhiên phía sau có tiếng gọi:
- Hai Thắng. Hai Thắng. Chú về hồi nào vậy? Sao không xuống chơi?
- Ủa, ai mà biết mình vậy? Xuống chơi là xuống đâu? Bác Tôn hơi hoảng hốt khi nghe tiếng gọi đúng tên mình. Từ ngày ở Pháp về, Bác Tôn luôn bị bọn lính kín, mã tà rình rập.
Một nông dân trạc tuổi 50 tiến lại gần nắm tay thân mật kéo vào quán cà phê ven đường và nói: “Tui là cậu của Ba Sứ ở Vĩnh Kim lên tìm chú đã mấy hôm, bữa nay mới gặp. Chú đúng là Hai Thắng trong tấm hình này". Ông đưa ra tấm hình chụp đám tang Ba Sứ ở Toulon, Bác Tôn đứng đầu quan tài trông rất rõ mặt. Đoạn ông nói tiếp: "Thằng Ba Sứ có gửi về mấy bức thư nói ông già bà già nó nên gả chị Hai nó cho Hai Thắng. Nó nói nhiều về chú lắm. Tới khi nhận được tấm hình này mới rõ mặt. Ông già, bà già con Oanh hỏi thì nó nói em nó chịu thì nó cũng ưng. Nó giữ tấm hình này ba bốn năm nay. Hôm tôi lên Sài Gòn tìm chú nó mới cho tôi mượn để nhìn mặt. Bây giờ chú đã về thì xuống Vĩnh Kim nói cho con Oanh cùng cha mẹ nó, kẻo mọi người trông đợi...”.
Trước cảnh tình ấy, ai nỡ lòng nào từ chối. Ít lâu sau, đám cưới giữa Tôn Đức Thắng và Đoàn Thị Giàu (tức Hai Oanh) được tổ chức. Bà theo ông lên Sài Gòn. Ông làm thợ. Bà lo việc nội trợ.
Theo đuổi việc tổ chức lực lượng thợ thuyền, Bác Tôn thường bàn bạc với nhiều anh em ở các xưởng nhà máy, công trường, v.v.. Cuối cùng, mọi người nhất trí nên tổ chức Công hội hoạt động bí mật. Từng người trong mỗi hãng, xưởng, xí nghiệp, công trường, v.v. tập hợp ban đầu năm, ba người thành một tổ Công hội. Việc tập hợp nhau lại, trước hết là làm quen với nhau, qua lại với nhau cho thêm phần thân mật; thấy ai có khó khăn gì thì giúp đỡ nhau; trau dồi nghề nghiệp với nhau; bị ức hiếp thì giúp nhau, bênh vực nhau. Sau này tiến lên thế nào thì tùy cơ ứng biến.
Cứ như vậy mà dần dần nơi nào có thợ đều có tổ công hội như Xưởng Ba Son, Trường Bá Nghệ, Hãng Faci, Nhà máy đèn Chợ Quán, Hãng rượu Bình Tây, nhiều nhà máy xay xát ở Chợ Lớn, v.v.. Đến năm 1925 số tổ công hội lên tới 53 và hội viên đã hơn 300 người. Bác Tôn hướng dẫn anh em đọc các sách báo tiến bộ trong nước, đọc và dịch cho các tổ trưởng những báo cách mạng và tiến bộ của Pháp như báo Nhân đạo, Đời sống thợ thuyền, v.v.. Đặc biệt, tờ báo Người cùng khổ, trong đó có bài của Nguyễn Ái Quốc thì đọc đi, đọc lại tới mức gần như thuộc lòng.
Hoạt động đấu tranh là Công hội lãnh đạo 600 thợ dệt, nhuộm Chợ Lớn bãi công, đòi tăng lương, giảm giờ làm. Cuộc đấu tranh đạt hiệu quả, chủ phải thỏa mãn yêu sách của công nhân. Sự kiện này được Nguyễn Ái Quốc viết trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Chương Nô lệ thức tỉnh. Các hội viên Công hội nghe tin này càng thêm nức lòng phấn khởi, tin tưởng.
Tháng 5-1925, một hạm đội Pháp được phái sang Viễn Đông. Michelet là chiến hạm chỉ huy bị hỏng phải đưa vào Xưởng Ba Son sửa chữa. Bác Tôn nhận ra Michelet cũng đã từng có mặt năm nào ở Biển Đen. Nay nó đến đây để rồi tới Trung Quốc đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân Trung Quốc ở các tô giới Pháp.
- Nay nó đàn áp Trung Quốc, mai sẽ tới chúng ta. Phải tìm cách ngăn nó lại hay ít nhất cũng làm chậm bước đi của nó…
Nghĩ vậy, làm vậy. Bác Tôn bàn với tổ Công hội Ba Son vận động một cuộc bãi công và lãn công, kéo dài thời gian sửa chữa Michelet. Vượt qua bao khó khăn, nguy hiểm, Công hội bí mật Sài Gòn - Chợ Lớn mà đứng đầu là tổ Công hội Ba Son dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bác Tôn đã kìm chân hạm đội Pháp gần ba tháng. Theo yêu sách, công nhân Xưởng Ba Son còn được tăng lương 10%.
Cuộc đấu tranh thắng lợi vang động tới Quảng Châu (Trung Quốc). Nguyễn Ái Quốc đang ở đó. Người đã cử hai cán bộ về nước liên hệ với người thợ máy Tôn Đức Thắng. Nhiều hội viên ưu tú của Công hội bí mật được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Bác Tôn lại xây dựng Tổ chức Thanh niên vững mạnh để lãnh đạo cả phong trào Công hội và Nông hội. Bác Tôn được bầu vào Thành hội của Tổ chức Thanh niên ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Do một sơ hở về tổ chức cuối năm 1929, Bác Tôn bị mật thám Pháp bắt giam tại bót Catina. Điều tra gần một năm trời, dù không đủ chứng lý chúng vẫn đưa Bác Tôn ra Tòa đại hình Sài Gòn, tuyên phạt Bác 20 năm tù khổ sai, đày ra Côn Đảo vì chúng vu cáo Bác Tôn giết người, cướp của trong vụ án ở đường Barbier. Đây là một vụ án khống hèn hạ nhằm đàn áp, hạ thấp uy thế của những người cách mạng.
Tháng 7- 1930, Bác Tôn bị đưa ra Côn Đảo. Lao tù đế quốc đã làm gián đoạn nhiều việc nhằm củng cố Công hội, xây dựng tổ chức Cách mạng Thanh niên tiến tới thành lập tổ chức cộng sản đầu tiên ở Nam Kỳ.
TRONG NGỤC TÙ CÔN ĐẢO (1930-1945)
Ra Côn Đảo, chúng giam Bác Tôn chung với tù hình sự ở Banh I. Số tù 5289.TF. Bề ngoài là tù hình sự cốt để hạ uy thế những người cách mạng, nhưng bên trong chúng coi là một phần tử nguy hiểm, số tù kèm theo hai chữ TF (...). Chúng cũng mong mượn tay của đám tù anh chị ngoài đời thủ tiêu Bác Tôn trong khám. Nhưng với bản lĩnh và trí tuệ của mình, Bác Tôn thuyết phục được bọn tù anh chị và làm cho bọn lính canh tù kính nể.
Với con mắt của người thợ ở trong tù Bác Tôn đã thuyết phục và tổ chức tù nhân thành từng nhóm khỏe, yếu giúp nhau, ra làm việc nhóm làm, nhóm nghỉ, công việc có hiệu quả như trong xưởng máy. Tất nhiên, Bác Tôn cũng khéo léo thuyết phục bọn lính canh tù để chúng thực hiện việc coi tù làm và cho tù nghỉ. Bác nói tiếng Pháp ôn tồn thuyết phục bọn chúng. Công việc hiệu quả, lính cai tù ít đánh mắng, lính cũng ít mệt mà tù ít bị roi đòn. Chính bọn tù anh chị cũng dần dần kính nể rồi có cảm tình với Bác. Đêm về, nằm trong khám Bác Tôn dạy anh em học. Không bao lâu có người đọc được thư nhà gửi ra. Có người còn viết thư về nhà. Niềm tin trong lòng họ bừng lên. Họ cũng bớt hung hăng tuyệt vọng như trước.
Một hôm, bọn lính canh bắt gặp Bác Tôn đang gõ tường, đánh tín hiệu với khám tù chính trị. Bọn chúa ngục phạt giam Bác vào Hầm xay lúa. Ở đây vừa có án mạng. Bảy Tốt là tù làm cặp rằng trong Hầm xay lúa vừa bị tù nhân đánh chết. Chả là, Hầm xay lúa là một nhà hầm bịt bùng ba bên. Năm cái cối xay đóng bằng thùng tô nô. Những người tù phải vác những bao lúa rất nặng đổ vào và phải cố xay liên tục để đủ gạo ăn cho cả ngàn tù nhân. Ngột ngạt vì bụi và không thoáng khí, tù nhân bị thúc ép làm việc dưới roi đòn ác nghiệt của Bảy Tốt. Thế là một nhóm tù âm mưu, lén lút dùng cần cốt đập đầu Bảy tốt. Bọn chúa ngục đưa Bác Tôn thay Bảy Tốt. Chúng tin rằng thế nào viên cặp rằng mới cũng sẽ bị đánh như Bảy tốt. Chúng không ngờ khi Bác Tôn vào đây không khí làm việc thay đổi hẳn. Giống như ở Sở Tải, Banh I, Bác Tôn cũng tổ chức làm việc như trong xưởng thợ. Nội bộ hòa thuận. Ngày làm việc, đêm học chữ, có hôm còn sàng tấm nấu cháo cho anh em ăn thêm. Ai cũng tỏ ra quý mến người cặp rằng mới. Mọi người tiếc rẻ khi tạm phải xa Bác Tôn khi Bác hết hạn phạt giam.
Giữa năm 1934, Albert Lentali được điều ra làm chủ Sở Lưới ở Côn Đảo. Đây là một sở do bọn chúa ngục Côn Đảo thành lập ra để đánh bắt hải sản trong vùng biển Côn Đảo làm tăng thu nhập cho chúng. Nhận ra Tôn Đức Thắng là sếp cũ của mình dưới Chiến hạm France năm nào. Albert Lentali rất đỗi vui mừng, đã xin với chúa đảo Bouvier nhận Tôn Đức Thắng ra làm ở Sở Lưới. Từ đó, Bác Tôn hằng ngày lái tàu ra khơi đánh cá, đồng thời cập vào bán hải sản cho các tàu quốc tế trên hải phận. Nhờ đó, Bác Tôn nhận được tin tức trong nước và ngoài nước cùng sách báo cách mạng từ Nga, Pháp, Đức, Anh, v v.. Bác cung cấp tin cho Đảo ủy và khéo léo cất giấu tài liệu trong các khám. Khi Đảng bộ trong tù chủ trương "biến nhà tù thành trường học cách mạng" thì Bác Tôn có đủ các sách về chủ nghĩa Mác - Lênin cho các “giáo sư đỏ" như Phạm Văn Đồng, Trần Văn Giàu, Nguyễn Kim Cương, v.v. dùng làm tài liệu giảng dạy.
Tin về Mặt trận bình dân thắng cử ở Pháp và chính phủ mới cử phái đoàn Gôta sang thanh sát Đông Dương gây khí thế xôn xao trong các khám tù chính trị. Tin về ba cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương, Nam Kỳ làm cho tù chính trị phấn khởi, tin tưởng ngày thắng lợi đã đến gần. Tin Nhật đảo chính Pháp và Chỉ thị của Trung ương trước tình hình đó được các đồng chí mới bị đày ra Côn Đảo truyền đạt lại và xác định phương hướng đấu tranh của Đảng bộ nhà tù. Sinh hoạt chính trị trong tù tổ chức hết sức bí mật nhưng rất có hiệu quả. Tin Nhật đảo chính Pháp và Chỉ thị của Trung ương được vận dụng khá linh hoạt. Đảng ủy nhà tù chủ trương vận động, thuyết phục lính canh tù người Việt, đoàn kết với họ đấu tranh với bọn cầm đầu. Thắng lợi của Hồng quân Liên Xô ở châu Âu, thắng lợi của cách mạng Việt Nam được truyền ra đảo do một chiếc rađiô cũ được Bác Tôn sửa chữa lại, khi nghe đài Pháp, khi nghe đài Anh, v. v.. Bất ngờ, một hôm nghe được Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo rằng, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công và truyền bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội.
Toàn đảo reo mừng sung sướng. Các đồng chí cùng anh em sống rồi! Mọi hành động quá khích lúc này được ngăn chặn. Người ta trông chờ từng giờ, từng phút đoàn thuyền tàu từ đất liền ra đảo đón các đồng chí về. Bác Tôn thì hì hục sửa chữa một chiếc cùng để đưa các đồng chí cốt cán trên đảo về đất liền càng sớm càng tốt.
Mờ sáng ngày 23-9-1945, đoàn tàu, thuyền 23 chiếc từ đất liền ra nhổ neo mang theo 1.86669 người chiến thắng từ Côn Đảo trở về. Trên chiếc canô do Bác Tôn lái trở đồng chí phạm Hùng, Phan Trọng Tuệ cùng một số đồng chí khác vượt qua giông bão giữa mùa thu, cập bến an toàn tại cửa biển Mỹ Thanh (Sóc Trăng). Xử ủy Nam Bộ trực tiếp về Sóc Trăng đón các đồng chí và giao nhiệm vụ công tác mới cho các đồng chí. Bác Tôn được bổ sung vào Xứ ủy. Ngày 25-9-1945, Bác theo giao liên tức tốc lên đường nhận nhiệm vụ mới. Viết về sự kiện này, Giáo sư Trần Văn Giàu có so sánh rất hay:
"Sách xưa kể chuyện, vua Thuấn đi trị thủy, qua nhà ba lần mà không vào. Gương sáng muôn đời! Bác Tôn Đức Thắng bị tù đày 17 năm, trở về thăm vợ con chưa chọn một đêm... Trung Quốc xưa có ông Thuấn. Nam Bộ nay có Bác Tôn. Những vị thánh nhân ấy nêu gương sáng vì nước quên nhà".
NGƯỜI ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI CỦA THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC (1946-1954)
Cảnh vợ gặp chồng, cha gặp con sau 17 năm xa cách. Bà đang bắt gà ở hàng xóm để sáng lên chợ bán, nghe tin chồng về quá đỗi vui mừng, bà chạy vội về, hai tay xách bốn con gà buông rơi lúc nào không biết. Về đến nhà thấy hai con đang ôm cha mà khóc, bà ôm góc cột nhìn chồng gầy gò, xơ xác cũng không cầm được nước mắt.
Nhưng nhiệm vụ cấp bách không thể trì hoãn, ông phải vượt qua lộ trước khi trời sáng để tới Thiên Hộ, Cái Bè họp Xứ ủy. Giặc Pháp đang lấn sang các tỉnh quanh Sài Gòn. Ông phải đi ngay. Bà gạt nước mắt tiễn chồng theo người giao liên, hẹn sẽ gặp nhau trong ngày toàn thắng.
Ông họp Xứ ủy rồi trở về Sài Gòn. Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã bầu ông làm đại biểu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6-1-1946. Từ đó Ông ra Hà Nội họp Quốc hội rồi tham gia kháng chiến tại Chiến khu Việt Bắc. Bà lại nuôi con, chờ chồng trong chín năm nữa...
Tình hình đất nước sau Cách mạng Tháng Tám cực kỳ căng thẳng. Giặc Pháp quay lại xâm chiếm Nam Bộ. 20 vạn quân Tưởng tràn vào miền Bắc kéo theo một lũ phản động gọi là Việt quốc, Việt cách gây sức ép với Chính phủ lâm thời. Chúng buộc ta phải để cho chúng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử. Chúng câu kết nhau âm mưu lập một chính phủ làm công cụ cho bọn giặc ngoại xâm. Vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc".
Trong tình hình ấy, Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đầu tiên là cực kỳ quan trọng. Phải có đầy đủ đại biểu thực sự của dân thì mới đủ lực lượng chiếm đa số. Vậy nên, các đại biểu Nam Bộ phải có mặt đông đủ. Giặc Pháp đã đánh rộng ra các tỉnh Nam Bộ, chiếm đóng khắp nơi, chia cắt Nam Bộ với toàn quốc. Các đại biểu Nam Bộ phải tập trung ra Tuy Hòa mới có xe lửa ra Bắc. Bác Tôn tập hợp các đại biểu lên thuyền và đích thân giữ buồng lái đưa các đại biểu đến nơi tập kết. Người thủy thủ trên Biển Đen và ở Sở Lưới năm nào lại tỏ rõ tài năng trên biển, đưa các đại biểu tới nơi an toàn.
Mùa xuân năm 1946, Bác Tôn vui mừng gặp được đồng chí Nguyễn Ái Quốc - cũng chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh - mà Bác đã biết từ năm 1919 trên đất Pháp và nghe tên khi còn ở Côn Đảo. Nói sao hết nỗi mừng vui hội ngộ. Anh hùng lại gặp anh hùng, tri âm nay hội ngộ cùng tri âm!
Trong phiên họp, khi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh nói lời từ chức, trao quyền để Quốc hội chọn người xứng đáng đứng ra thành lập Chính phủ mới thì Bác Tôn lập tức đứng lên, nói hùng hồn, dõng dạc:
- Tôi xin giới thiệu Cụ Hồ Chí Minh, tức nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc là người xứng đáng hơn hết đứng ra thành lập Chính phủ mới.
Tiếng nói của Bác Tôn là tiếng nói đại biểu cho Nam Bộ đang anh dũng cầm súng bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc vừa giành được. Tiếng nói ấy phù hợp với nguyện vọng của 25 triệu đồng bào cả nước. Tiếng nói ấy là tiếng nói của Nam Bộ Thành đồng Tổ quốc, "là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam" như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ cách đó ít lâu. Lời phát biểu kịp thời của Bác Tôn làm thất bại hoàn toàn âm mưu của bọn phản động. Chúng đã chuẩn bị danh sách một chính phủ do chúng thao túng. Cho nên bọn chúng định im lặng, cam chịu thất bại. Tuy vậy, trong danh sách Chính phủ mới, với chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc, Bác Hồ vẫn mời Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với thiên tài của Bác, chiến lược, sách lược được Người sắp xếp chu đáo, cuối cùng bọn phản động cuốn gói theo quan thầy của chúng.
Từ đó, Bác Tôn sát cánh bên Bác Hồ. Được sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và Bác Hồ, Bác Tôn - người thợ máy bình thường trở thành một nhà lãnh đạo ưu tú của Đảng, Quốc hội, Mặt trận dân tộc thống nhất của nước ta.
CÂY ĐẠI THỤ TRONG RỪNG CÂY ĐẠI ĐOÀN KẾT
Ngày 3-3-195l, trong Lời phát biểu khai mạc Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên niềm sung sướng của Người bằng một hình ảnh: “... Sung sướng ấy là chung của cả toàn dân, của cả Đại hội nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả. Một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay, cũng thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai trường xuân bất lão"”71.
Theo hình ảnh Bác Hồ mô tả, Bác Tôn là một cây đại thụ trong rừng cây đại đoàn kết ấy. Bác Tôn cùng với Cụ Bùi Bằng Đoàn, một nhân sĩ lão thành đảm nhiệm công việc Thường trực Quốc hội suốt cả nhiệm kỳ khóa I. Đồng thời, Bác còn đảm nhiệm công việc chủ chốt các hội quần chúng ở Trung ương:
- Ngày 29-5-1946, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt), Bác Tôn được bầu làm Phó Hội trưởng.
- Ngày 27-3-1948, Bác Tôn được Trung ương chỉ định làm Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc.
- Ngày 17-5-1950, thành lập Hội Việt - Xô hữu nghị, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Hội.
- Từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951, Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, thành lập Mặt trận Liên Việt, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Liên Việt.
- Ngày 10-4-195l, Bác Tôn được Trung ương Đảng cử làm Phó trưởng ban Dân vận - Mặt trận Trung ương.
- Ngày 10-9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Ngày 20-9-1955, tại Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa I, Bác Tôn được bầu làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
- Tháng 7-1955, Bác Tôn được bầu là Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của Việt Nam và Đại hội Hòa bình thế giới họp ở Henxinki (Phần Lan), Bác Tôn được bầu làm Ủy viên Hội đồng Hòa bình thế giới.
- Ngày 27-2-1957, thành lập Ban chỉ đạo Thanh toán nạn mù chữ Trung ương, Bác Tôn được cử làm Trưởng ban.
- Ngày 15-7-1960, được kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa II bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Bác Tôn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm trung tâm Mặt trận đoàn kết toàn dân. Cho nên, Bác là người đầu tiên được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao vàng, được Ủy ban Giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin tặng Giải thưởng Lênin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc (năm 1955), được Đoàn Chủ tịch Xôviết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin cao quý (năm 1967).
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ấy, chính là do uy tín, đức độ và tài năng vận động, thuyết phục, một phẩm chất quý báu của người thợ. Trong dịp trao tặng Huân chương Sao vàng, mừng thọ Bác Tôn 70 tuổi, Bác Hồ biểu dương Bác Tôn là “một gương mẫu đạo đức cách mạng". Thật đúng như vậy. Ở lứa tuổi nào trong cuộc đời của Bác, từ tuổi thiếu niên đến lúc thành niên, từ tuổi trung niên tới lúc tuổi già,... Bác Tôn đều là những tấm gương rực sáng, gương mẫu về việc làm, về hành động, rất gần gũi với người lao động chúng ta.
BÁC TÔN GÁI
Trong cuộc đời, sự nghiệp của Bác Tôn sẽ mất đi một mảng lớn nếu thiếu hình tượng của Bác Tôn gái - Bà Đoàn Thị Giàu (tên thường gọi là Hai Oanh) quê ở Vĩnh Kim, ngoại thành Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang hiện nay.
Quan hệ vợ chồng là quan hệ tình cảm. Nhưng trước khi thành gia thất, Hai Thắng chưa bao giờ biết mặt Hai Oanh và ngược lại. Hai Oanh may mắn biết mặt Bác Tôn qua tấm ảnh chụp trong đám tang em trai từ Toulon gửi về. Tình cảm vợ chồng giữa hai bác do tác động của Ba Sứ. Anh cảm mến người bạn kết nghĩa thắm thiết tới mức mong mỏi cha mẹ gả chị ruột cho Hai Thắng. Chuyện tưởng xa vời hóa ra thành thật. Người con gái xứ Vĩnh Kim đã giữ tấm ảnh Hai Thắng trong bốn năm, chờ đợi anh theo lời em trăng trối. Chuyện thật giữa hai bác khác gì chuyện giữa Kiều Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên trong tác phẩm của Cụ Đồ Chiểu.
Cưới xong, Ông Bà đưa nhau lên Sài Gòn sống. Ông vẫn làm thợ, Bà chăm lo nội trợ. Tám năm chung sống có hai mặt con. Bà biết ông hoạt động bí mật, tuy không rõ việc gì nhưng đều nguy hiểm, Bà vẫn không can ngăn mà còn phụ giúp chồng trong những lúc có thể. Khi vụ án Barbier vỡ lở, mật thám lùng sục ngày đêm, ông bà đã ba lần dời chỗ ở nhưng tình hình xem ra không yên. Bà đang mang thai đứa con thứ ba thì ông bảo mẹ con bà thu xếp về ở bên ngoại sinh nở, ông có thể bị bắt lúc nào không biết. Đúng như dự đoán, cuối năm 1929, khi Ông ra khỏi xưởng, trên đường về nhà, vừa qua khỏi Cầu Kiêu thì ba, bốn tên lính kín ùa ra bắt ông giải về bót Catina giam cầm tra khảo, rồi ra tòa lãnh án lưu đày dù không có chứng cứ.
Bà bồng đứa con trai vừa mới sinh được gần giáp thôi nôi lên thăm chồng trong trại giam để nhìn được mặt con rồi lại gạt nước mắt tiễn chồng lưu đày ra Côn Đảo với hai án: 20 năm khổ sai. Liệu còn có ngày gặp lại không? Bà bồng con trở về quê ngoại trong nỗi chán chường, u uất, lặng lẽ, v.v.. Hơn 5 năm sau, lần đầu tiên bà nhận được thơ chồng gửi về từ Côn Đảo do vợ một người bạn tù vừa thăm chồng về. Bức thư ông viết khiến bà đau nhói trong tim. Ông khuyên bà nên lấy chồng khác để làm ăn, nuôi con. Bà luôn luôn hy vọng ông có ngày về, cho dù thời gian chờ đợi là 15 năm nữa. Vì vậy, Bà viết thư trả lời ông trong niềm tin của mình:
“Anh Hai! Nghe lời anh, em đã lấy chồng rồi. Chồng em là Tôn Đức Thắng ở Long Xuyên. Chúng em ăn ở với nhau đã có ba mặt con, nay phải xa nhau, dù bao năm nữa em cũng vẫn chờ!”.
Bức thư đầy tình nghĩa ấy in đậm nét trong lòng Bác Tôn. Khi Bà qua đời ở Hà Nội, tuần nào ông cũng đi thăm mộ Bà và nhân đó kể cho anh chị em ở Văn phòng Phủ Chủ tịch nội dung bức thư ấy. Ai nghe cũng đều xúc động.
Trong gần 30 năm sống trong chờ đợi, cuộc sống chung ngắn ngủi, mãi khi tuổi già Bà tập kết ra Bắc, vợ chồng, cha con mới trùng phùng, hội ngộ. Ông bà chăm sóc lẫn nhau hết sức tinh tế và cực kỳ thắm thiết. Bà nấu cho ông những món ăn quê hương mà ông ưa thích. Ông bón cho Bà từng thìa cháo, từng viên thuốc khi Bà lâm bệnh nằm ở Quân y viện 108. Ông cố gắng làm những gì có thể để đền đáp ơn nghĩa của Bà đã gần 30 năm chờ chồng, nuôi con.
*
* *
Tôn Đức Thắng không phải là nhà lý luận, nhà tư tưởng. Tôn Đức Thắng là người thợ, con người hành động, hành động tiền phong. Bằng hành động thực tiễn, Bác Tôn làm cho ta hiểu rõ nhân cách, nhân tình, đạo làm người, v.v. đúng đắn, xác thực nhất. Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: "...không phải văn chương nào cũng đều phản ánh trung thực con người. Đôi khi người cầm bút sửa sang ngòi bút của mình nhiều đến nỗi xem văn mà thấy con người không còn đồng nhất nữa. Với Bác Tôn, ngôn ngữ của một chuỗi hành động suốt đời thì không còn có thể làm cho ai hiểu sai mình được".
Đúng như vậy. Lòng yêu nước, chí tự lập, bước đường vào đời, hành động quả cảm, trí sáng tạo trong việc tổ chức lực lượng giai cấp công nhân, tình yêu bạn bè, đồng chí, vợ chồng, v.v.. Nhân cách, đức độ của Bác Tôn xứng đáng được Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương là "Một gương mẫu đạo đức cách mạng". Thiếu niên, nhi đồng tìm thấy ở Bác Tôn gương yêu nước, yêu đồng bào, học tập tốt, lao động tốt. Tuổi thanh niên tìm thấy Bác Tôn gương tự lập, tự cường, bền chí vượt qua mọi khó khăn, thử thách, v.v.. Các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam tìm thấy ở người đồng chí của mình gương trung thành hết mực với Đảng, dù bị giam cầm, khổ sai vẫn tìm đường hoạt động cho Đảng... Ở tuổi già, Bác Tôn nêu gương tuổi cao chí càng cao, dù ở cương vị nào cũng sống chết nghĩa tình với đồng chí anh em, vợ chồng, v.v..
Hai mươi ba năm Bác Tôn đã đi xa nhưng hình ảnh vẫn luôn luôn lưu lại trong tâm trí chúng ta.
BÁC TÔN – NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN CƯỜNG TRONG NHÀ TÙ CÔN ĐẢO
NGUYÊN ĐÌNH THỐNG72
Trong Điếu văn đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Tôn Đức Thắng ngày 4-4-1980, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá công lao và đức độ của Chủ tịch Tôn Đức Thắng:
"Gần I7 năm bị tù đày ở Khám Lớn Sài Gòn và Côn Đảo, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng kiên cường, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
...
Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bất kỳ ở cương vị công tác nào mặc dù tuổi cao, đồng chí luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị”.
Bài viết dưới đây sẽ góp thêm tư liệu về hoạt động và đấu tranh trong ngục Côn Đảo của Bác Tôn, để góp phần hiểu rõ thêm những nhận định, đánh giá của Đảng ta, hiểu thêm lòng kính yêu mà đồng chí, đồng bào đã dành cho Bác.
1. Bác Tôn, người sáng lập ra Chi bộ và Hội tù nhân Côn Đảo
Tôn Đức Thắng bị bắt cuối năm 1929 tại Sài Gòn, bị kết án 20 năm khổ sai, tháng 7-1930 bị đày ra Côn Đảo. Năm ấy Côn Đảo có chưa đến 2.000 tù nhân, khoảng 300 người mang án chính trị bị giam ở Banh II, Bác Tôn bị giam ở Banh I cùng hơn ngàn người mang án khổ sai, trong đó có nhiều người hoạt động chính trị thuộc Việt Nam Quốc dân Đảng Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Đảng Cộng sản và các xu hướng chính trị khác nhau.
Dưới thời tên chúa ngục khát máu Bouvier, chế độ nhà ngục Côn Đảo ghê rợn và ảm đạm. Năm 1930, nhà ngục Côn Đảo đã vùi xác 311 tù nhân, tỷ lệ chết là l5,6%, cao nhất trong các nhà ngục ở Đông Dương. Vốn có kinh nghiệm tổ chức Công hội đỏ ở Sài Gòn, Bác Tôn bàn với Nguyễn Hới, Tống Văn Trân và một số tù chính trị thành lập Hội người tù đỏ làm hạt nhân đoàn kết, tập hợp anh em tù nhân, thương yêu giúp đỡ nhau, chống chế độ lao tù. Anh em đề nghị Bác làm Hội trưởng.
Năm 1932, số tù nhân tăng lên 2.146 người, phần lớn là những đảng viên cộng sản bị bắt trong Cao trào 1930-1931. Với sự hoạt động tích cực của các đồng chí Nguyễn Hới, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân, Tạ Uyên, v.v.. Chi bộ nhà tù đã được thành lập tại Banh I năm 1932. Sau chuyến tàu đày những người vừa bị xử trong "Vụ án Đảng Cộng sản Đông Dương" ra Côn Đảo (4-5-1933), Chi ủy đã bổ sung nhiều cán bộ có năng lực như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Diểu, Trần Quang Tặng, v.v.. Ngô Gia Tự được cử làm Bí thư chi bộ.
Để tập hợp rộng rãi lực lượng, Đảng ủy đã phát triển "Hội người tù đỏ" thành Hội tù nhân thống nhất, tập hợp được trên 300 hội viên. Bác Tôn được chi ủy cử phụ trách Hội tù nhân; Ngô Gia Tự, Nguyễn Hới, Thần Quang Tặng được bầu vào Ban lãnh đạo chung toàn đảo. Tù thường phạm tham gia Hội tù nhân ngày càng nhiều, nhiều người sau đó đã trở thành cộng sản trở về tham gia kháng chiến. Có những người đã hy sinh rất anh dũng như anh Thắm ở Nhà Bè, anh Kiệm ở Cần Giuộc,...
2. Người cặp rằng cộng sản đầu tiên ở Côn Đảo
Cuối năm 1932, Bác Tôn bị phạt giam ở Hầm xay lúa. Xay lúa vốn là công việc khổ sai bình thường, nhưng bọn chúa ngục Côn Đảo đã biến thành một hình phạt khủng khiếp. Nơi đặt cối xay lúa giống như một khám giam, tường đá dày xây kín ba mặt, nóng như một cái hầm, mặt còn lại đặt song sắt lớn để bọn gác ngục kiểm soát. Cối xay lúa chúng làm bằng thùng tô nô đựng rượu vang, loại 150 lít cưa ra, phải 6 người mới quay nổi một cối. Khi xay lúa, bụi trấu bay mù mịt, nóng bức rất khó chịu. Tù nhân bị đưa vào đây đôi ba tháng là kiệt sức, toét mắt và mang bệnh lao phổi mãn tính.
Thêm vào đó là nạn áp bức của cặp rằng (caporal: cai tù). Thực dân Pháp chọn những tên lưu manh loại "anh chị" làm cặp rằng để tiếp tay cho chúng áp bức bóc lột tù nhân. Bọn này tập hợp lũ đàn em, toàn những tay "dao búa", sử dụng luật lệ giang hồ bắt tù nhân trong kíp phải phục tùng theo lệnh của chúng, cả trong công việc khổ sai lẫn trong sinh hoạt thường ngày. Trong khám, chỗ nào thoáng mát chúng nằm, có miếng ăn tươi chúng giành, công việc nặng nhọc chúng bắt những người khác làm hết. Cặp rằng ở Hầm xay lúa thường dữ dằn hơn ở các kíp khác. Hầm xay lúa được mệnh danh là “nhà tù trong nhà tù, địa ngục trong địa ngục”.
Bác Tôn vào Hầm xay lúa đúng vào lúc bọn lưu manh đang thanh toán lẫn nhau. Cặp rằng Bảy Tốt bị hai tên đàn em đập bể đầu bằng khúc gỗ lim vuông cạnh. Giám thị trưởng Ferandini chỉ định ngay Bác Tôn làm cặp rằng, đẩy Bác vào chỗ chết vì tay bọn lưu manh hoặc không làm được sẽ bị chúng trừng trị.
Trong tình thế khốn cùng, Bác Tôn vẫn nghĩ đến những khả năng tích cực nhất. Bác tổ chức anh em tù chính trị thành hạt nhân đoàn kết toàn thể tù nhân không phân biệt tù chính trị hay thường phạm, bố trí lại công việc cho hợp lý, người khỏe thì đứng cốt, xay lúa, vác thóc; người yếu hơn thì sàng xảy, đóng bao, chuyển gạo, quét trấu; ai cũng phải làm việc, thay nhau làm những việc nặng nhọc. Công việc xay lúa không còn là nỗi kinh hoàng của người tù; Hầm xay lúa không còn nơi để thực dân Pháp thực hiện chính sách “dùng tù trị tù” như trước.
Bác Tôn còn tổ chức gom gạo rơi vãi nấu cơm cho anh em ăn. Buổi tối, Bác cùng anh em tù chính trị dạy văn hóa cho những người chưa biết chữ. Không khí đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau đã thay thế bạo lực, thù hằn, độc ác. Mãn hạn phạt hầm, Bác Tôn đã xây dựng được tổ chức Hội tù nhân ở Hầm xay lúa, mà nòng cốt là tù chính trị và một số tù thường phạm đã giác ngộ.
Mô hình cặp rằng cộng sản Tôn Đức Thắng ở Hầm xay lúa đã được Chi bộ nhà tù nhân rộng. Theo chủ trương của Chi bộ, tù chính trị các khám tổ chức lực lượng lật đổ chế độ cặp rằng lưu manh, bầu cặp rằng cộng sản. Ngô Gia Tự được bầu làm cặp rằng Khám Chỉ Tồn (Sở lao động khổ sai làm các công việc nặng nhọc nhưng không cố định); Phạm Hùng làm cặp rằng kíp lấy san hô, Đào Gia Lựu làm cặp rằng kíp nhà bếp... Đó chính là bước khởi đầu cho việc đoàn kết, tập hợp lực lượng, tổ chức tù nhân thành đội ngũ, chuẩn bị cho một cao trào đấu tranh cải biến chế độ nhà tù trong những năm tiếp theo.
3. Người giao liên xuất sắc trong tù
Là người lãnh đạo có uy tín, Bác Tôn vẫn tham gia mọi hoạt động theo sự phân công cửa tổ chức. Khi mới ra, Bác Tôn làm khổ sai ở Sở Lưới, làm các việc quét dọn trong sân Banh, đổ thùng, đem nước cho tù nhân trong các xà lim và các khám. Những hoạt động đầu tiên của Bác Tôn là liên hệ với anh em tù chính trị, những đảng viên cộng sản mới ra, nắm chắc chủ trương của Đảng, chọn người trung kiên, xây dựng hạt nhân lãnh đạo trong tù. Ngay từ giữa năm 1930, Bác Tôn đã liên lạc được với Nguyễn Văn Hoan (Tỉnh ủy Ninh Bình), Nguyễn Hới (Ủy viên Trung ương lâm thời, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định) và Tống Văn Trân (Tỉnh ủy Nam Định), lập ra Hội người tù đỏ (1930) và Chi bộ đặc biệt (1932). Trong một ca liên lạc gia Chi bộ (ở Banh I) với tù chính trị Banh II, Bác Tôn bị gác ngục phát hiện và bị phạt vào xà lim, sau đó chịu hình phạt ở Hầm xay lúa (1933).
Mãn hạn phạt ở Hầm xay lúa, Bác Tôn được Chi bộ bố trí đưa ra lái canô cho chủ Sở Lưới Lentali, giữ đường dây liên lạc với các đồng chí ở Sài Gòn và các thủy thủ Pháp - Việt. Nhiều thủy thủ tiến bộ của Hãng tàu Năm sao của Pháp từ Sài Gòn đi Singapore ghé Côn Đảo đã được giác ngộ, trở thành giao liên của Đảng ta. Họ chuyển thư, tài liệu về Sài Gòn và mua sách từ Pháp cho tù chính trị. Nhờ liên lạc được với đất liền, Chi bộ Côn Đảo nhận được nhiều sách lý luận gồm những tác phẩm kinh điển của Mác - Ăngghen - Lênin do Nhà xuất bản Xã hội Pháp ấn hành và tài liệu của Đảng ta. Lê Văn Lương phụ trách biên soạn lại, thông tin cho các khám. Nhiều khi phải làm việc thâu đêm, anh nhận được một chút đường hay lưng cơm nước mà Bác Tôn đã dặn bộ phận cứu tế chuyển đến.
Giấy bút trong tù rất hiếm. Có một loại giấy mà bọn gác ngục không kiểm soát là những tờ giấy cuốn thuốc lá loại Lenil mỏng và thấm nước. Phạm Hùng sáng kiến, lấy nước cơm đặc sánh quét lên một lớp phơi khô là viết được. Lê Văn Lương dùng ngòi bút sắt incomperap nét nhỏ, nắn nót viết, theo bề dọc được 32 hàng, theo bề ngang được 12 dòng. Tài liệu được luồn vào trong gấu quần, gấu áo, giao cho những đồng chí mãn án chuyển về đất liền làm tài liệu học tập cho các đồng chí ở trong nước. Với những mảnh giấy nhỏ và mỏng như vậy, các anh có thể luồn vào một bộ quần áo tù phiên bản từ một đến hai cuốn sách. Tài liệu còn được viết bằng mực tàu trên giấy khổ lớn rồi bồi vào trong bìa sách Kinh thánh để anh em mãn án công khai mang về.
Khi cần chuyển gấp tài liệu theo tàu, Phạm Hùng phải nhờ đến Bác Tôn. Bác Tôn thường nhồi tài liệu vào những con vích, đồi mồi, tẩu thuốc lá bằng cây dương nước, gậy đầu rồng, hộp thuốc lá bằng gỗ găng, nhờ các thủy thủ tin cậy chuyển về cơ sở ở Sài Gòn. Những vật phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo ấy do Bác Tôn chế ra, thường bán lấy tiền góp vào quỹ cứu tế, lúc cần sẽ dùng làm quà tặng cho các thủy thủ đã giúp việc giao liên.
4. Người tổ chức trường học cách mạng trong nhà tù đế quốc
Thực hiện chủ trương của Đảng ủy về việc biên nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng, từ năm 1932, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Hới, Tống Văn Trân,... đã huấn luyện cho tù chính trị Banh I những vấn đề về tổ chức Đảng, về Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Đoàn Thanh niên phản đế, về cách tổ chức quần chúng, tổ chức biểu tình v.v.. Cuối năm 1933, Ngô Gia Tự tham gia công tác huấn luyện, tổ chức cho tù chính trị Banh I học tập thấu đáo các vấn đề của chủ nghĩa cộng sản, những đặc điểm giai cấp trong xã hội Việt Nam sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta.
Sau hàng loạt cuộc đấu tranh và vượt ngục của tù nhân, tháng 3-1935, Thống đốc Nam Kỳ đã ra lệnh cấm cố toàn bộ số tù chính trị đang làm khổ sai ở các sở ngoài vào Banh I. Bác Tôn cũng bị đưa vào cấm cố tại Khám 8. Đây là thời kỳ học tập lý luận và hoạt động sôi nổi, đi vào chiều sâu của tù chính trị Banh I. Lê Văn Lương, Phạm Hùng và nhiều người lãnh đạo chủ chốt của Chi bộ bị cấm cố tại Khám 6, Khám 7, Banh I Bác Tôn đã gắn bó với Lê Văn Lương và Phạm Hùng trong suốt cuộc đời tù, trong tổ chức đấu tranh và chỉ đạo một thế hệ tù chính trị.
Bác Tôn hơn Phạm Hùng và Lê Văn Lương hai giáp, tuổi như cha con nhưng tình như anh em. Bác Tôn điềm đạm mà kiên quyết. Phạm Hùng sôi nổi trong hành động, gan góc và ngang tàng, võ nghệ cao cường khiến đám tù lưu manh loại anh chị cũng phải kính nể. Lê Văn Lương bằng tuổi Phạm Hùng, trầm tĩnh tận tụy, kiên trì, khi bàn bạc thì cân nhắc, thuyết phục, khi hành động thì nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương. Bộ ba Tôn Đức Thắng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng trở thành trụ cột của tù chính trị Côn Đảo từ thuở khởi sắc đấu tranh cho đến khi giành chính quyền ở Côn Đảo (8-1945).
Biết Trần Văn Giàu nổi tiếng là cây lý luận, tốt nghiệp hạng ưu ở Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô), Bác Tôn bàn với Phạm Hùng, Lê Văn Lương, giao cho Trần Văn Giàu mở lớp dạy lý luận trong tù. Lúc này, tù chính trị mang án khổ sai đã bị tập trung cấm cố ở Banh I, nên việc tổ chức học lý luận một cách bài bản được chi ủy nhất trí cao. Anh em tù chính trị phấn khởi lao vào học tập.
Hồi ở Trường Đại học Phương Đông, Trần Văn Giàu được học lý luận từ nguyên bản tiếng Pháp theo sự hướng dẫn của các giáo sư, viện sĩ có tên tuổi. Vốn thông minh và sáng tạo, đọc kinh điển đến đâu, Trần Văn Giàu dịch ngay ra tiếng Việt. Với bài bản sẵn, có Trần Văn Giàu đã dạy chương trình chủ nghĩa Lênin ở Trường Đại học Phương Đông cho tù chính trị.
Bác Tôn, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh..., đều tham gia lớp học. Bác Tôn là một học viên gương mẫu. Đến giờ học là Bác ngồi xếp chân trên sàn khám, chăm chú nghe giảng. Lối giảng của Trần Văn Giàu khiến học vấn nắm bài rất chắc, học tới đâu, nhập tâm tới đó ngay cả đối với những người mà trình độ văn hóa không cao. Học đến phần Kinh tế chính trị, nhiều anh em không hiểu thế nào là giá trị thặng dư. Từng là công nhân Bác Tôn đem những ví dụ cụ thể về các kiểu bóc lột của bọn chủ giảng giải cho anh em trong những giờ thảo luận.
Sau những lớp học mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở ở Quảng Châu (Trung Quốc), những người cộng sản đã biến ngục Côn Đảo thành trường học cách mạng đầu tiên ở trong nước. Trường học sau song sắt này đã đào tạo nên một thế hệ cán bộ có lý luận, trưởng thành trong đấu tranh gian khổ, góp phần làm nên Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 thành công. Đó cũng là trường học cách mạng lớn nhất mà Bác Tôn đã học sau những năm đấu tranh và thử thách trong trường đời.
Tháng 6-1936, Chính phủ phái tả của Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền. Ra đời trong cao trào nhân dân chống phát xít, Chính phủ Pháp phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động trong nước và các thuộc địa. Trong hai năm 1936-1937 đã có khoảng 1.100 tù chính trị được ân xá. Đội ngũ cán bộ từ Côn Đảo trở về đã tăng cường cả số lượng và chất lượng lãnh đạo của Đảng ta.
Bác Tôn vẫn bị cấm cố tại Khám 6, Banh I cùng Phạm Hùng và Lê Văn Lương. Chi bộ nhận được nhiều tờ báo công khai của Đảng mà các bạn tù trở về gửi cho. Năm 1937, Nguyễn Chí Diểu gửi cho bạn tù ở Banh I một tấm ảnh lưu niệm gắn trên bìa cát tông, bên trong có bức thư thông báo kết quả Hội nghị Trung ương tháng 3-1937 về chủ trương tổ chức mới của Đảng ta. Bác Tôn bàn với chi ủy và tổ chức cho anh em học tập nghiên cứu một cách nghiêm túc chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương của Đảng. Bác rất tâm đắc với sách lược đấu tranh linh hoạt, phong phú và mềm dẻo mà Đảng ta chủ trương trong thời kỳ Mặt trận dân chủ. Những vấn đề lý luận học được ở trong tù, kinh nghiệm tổ chức Công hội đỏ ở Sài Gòn và Hội tù nhân ở Côn Đảo đã giúp Bác Tôn rất nhiều khi trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Mặt trận sau này.
5. Trung tâm đoàn kết, hết lòng thương yêu con người
Trở lại thăm Côn Đảo tháng 8-1976, đồng chí Lê Duẩn đã nói chuyện thân mật với cán bộ chiến sĩ và nhân dân Côn Đảo. Đồng chí nói nhiều về Bác Tôn: “Bác Tôn bị tù đày ở Côn Đảo 15 năm nhưng lúc nào cũng lạc quan, yêu đời. Đó là một chiến sĩ cách mạng không bao giờ và không gì lay chuyển được, một con người hết sức nhiệt thành, trung thực, quên mình, nay đã tuổi 88 rồi mà vẫn luôn nhẹ nhàng, thanh thản. Tuổi già vậy mà Bác luôn trẻ, đối với kẻ thù thì bất khuất, đối với anh em thì thương yêu vô cùng, có cọng rau, củ lạc cũng chia sẻ cho nhau. Nay Bác là Chủ tịch nước, vậy mà tình nghĩa với anh em cùng ở tù ngày trước vẫn như xưa, không khác chút nào hết. Đến nay, khi gặp nhau nói chuyện Bác vẫn yêu cầu chúng tôi phải xưng hô với Bác như ngày còn ở trong tù vậy, xưng hô khác là Bác không chịu đâu...".
Nhiều người bạn tù cùng thời cùng giữ lại những kỷ niệm rất đẹp về Bác Tôn. Bác Tôn đi tới đâu là đem đến một không khí đoàn kết, tình thương yêu và sự giúp đỡ. Không chỉ là những đọt lá bàng non hay nhúm muối cho người bạn ở xà lim cấm cố, không chỉ là những thùng sách kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin để tổ chức nghiên cứu lý luận trong tù, ấn tượng lớn về Bác Tôn là một nhân cách lớn, như một người cầm lái con tàu vững vàng giữa bão táp biển khơi.
Có một người bạn tù cùng thời, xuất thân là trí thức yêu nước, đã bỏ nhiều công tìm đến các tổ chức cách mạng thời ấy: Thanh niên Cao vọng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Tân Việt cách mạng Đảng và cuối cùng đến với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhưng chưa vừa ý với một tổ chức nào vì đảng nào cũng còn nhiều thiếu sót, từ đảng viên đến người lãnh đạo anh có ý đi tìm một tổ chức cách mạng "hoàn thiện hoàn mỹ" hơn. Gặp Bác Tôn trong một cuộc sinh hoạt với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên anh đem những nhận xét của mình ra tâm sự. Bác Tôn nghe rồi trả lời: "Tôi đã từng đi tìm tổ chức cách mạng ở trong nước và ngoài nước, tôi cũng thấy rằng không có một đảng nào, từ lãnh đạo đến đảng viên hoàn toàn không có khuyết điểm. Có một điều tôi thấy rõ ràng là trong các đoàn thể cách mạng hiện nay, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức yêu nước tập hợp được nhiều thanh niên yêu nước Bắc, Trung, Nam hơn hết, vì vậy mà tôi vào tổ chức này. Tôi sẽ học cái hay của tất cả mọi người trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tôi có gì hay, tôi cũng hết sức góp phần cho tổ chức này mạnh hơn, tốt hơn, để biến tổ chức này thành “lý tưởng của mình””.
Chưa dễ gì thay đổi được cách nhìn, trong thời gian sinh hoạt với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, anh bạn trẻ vẫn bỏ công để tìm một tổ chức cách mạng “hoàn thiện hoàn mỹ hơn”, nhưng rốt cuộc không thành công. Sau này, khi gia nhập Đảng Cộng sản, anh mới tâm sự: "Quan niệm của tôi lúc đó thật mơ hồ, tôi không nhìn vào thực tế xã hội mà chỉ chạy theo những ảo ảnh lý tưởng hóa", thành ra lao đao lận đận mãi. Giá hồi đó tôi nghe anh Hai (Bác Tôn) thì đỡ tốn công vô ích mà công sức của mình đem ra phụng sự cách mạng được sớm hơn và nhiều hơn".
Trong nhà giam, có đồng chí phạm sai lầm, bị đồng chí khác thành kiến, rất buồn phiền, Bác Tôn biết chuyện, khuyên: “Việc thành kiến như vậy, thường là do ấu trĩ của hai bên, nhưng về phía người bị thành kiến nên kiểm điểm xem mình có sai lầm khuyết điểm gì không, hoặc việc làm đúng mà thái độ không tốt khiến cho người ta thành kiến với mình. Về phía anh em, thành kiến với đồng chí là không đúng. Muốn xóa bỏ hết thành kiến chỉ có một cách: Nỗ lực hoạt động cho cách mạng với tất cả nhiệt tình của mình. Đồng chí bị thành kiến cũng phải hăng hái làm cách mạng. Đôi ba năm sau, chậm lắm là năm mười năm sau cả hai bên đều tiến bộ cả; hai bên sẽ đoàn kết thêm hơn và câu chuyện thành kiến trở thành không đáng kể. Đó là một cách có hiệu quả nhất".
Trong tù, có nhiều lúc Bác Tôn đi đi lại lại, trầm ngâm, suy tư. Có đồng chí hỏi Bác nghĩ gì thì Bác Tôn trả lời: "Kiểm điểm lại trong đời hoạt động, tôi đã gặp rất nhiều người trong giới lao động, kể cả lao động ngoại quốc, trong đó có nhiều người rất tốt. Vậy mà có người chưa được tôi tuyên truyền gì cả hoặc có nhưng chưa thấm vào đâu. Có người đã giác ngộ rồi mà tôi chưa tìm mọi cách để giúp đỡ họ trở thành đảng viên tốt, tôi rất ăn năn, vì như vậy là mình thiếu tinh thần trách nhiệm đối với cách mạng. Xét cho cùng, mình vẫn thiếu một nhiệt tình cách mạng đầy đủ”.
Ở tù, Bác Tôn thích chơi cờ tướng. Đối thủ đi hớ nước nào Bác chỉ cho, ai muốn hoãn nước nào cũng được. Phần mình, Bác Tôn suy nghĩ rất kỹ, đi nước nào là chắc nước ấy, không bao giờ hoãn. Thấy Bác rộng lượng, anh em hùa vào một phía, vừa đánh vừa la, nhưng Bác không bao giờ nổi nóng. Bác nói: “Tôi đánh cờ để học tập rèn luyện chứ không phải để ăn thua với anh em. Đời tôi có nhiều lần là rồi mới biết sai, nói rồi mới biết lỡ. Những sai sót ấy không phải do mình kéo khôn ngoan mà do thiếu cẩn trọng. Vì vậy, tôi đánh cờ để tập tành thận trọng. Phải tính toán hết nước, nhưng nếu trí thông minh và sức tính toán của mình chỉ đến nước ấy thôi thì đành chịu”.
6. Người lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Nhà tù Côn Đảo
Mùa thu năm 1940, kíp dọn tàu nhận được tài liệu của Xứ ủy Nam Kỳ, trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 về vấn đề giải phóng dân tộc. Chi bộ đã quán triệt cho anh em tù chính trị cộng sản Bác Tôn biết rằng cách mạng đang chuyển giai đoạn, bão táp cách mạng sắp bùng lên. Bọn gác ngục ngày càng lỳ lợm. Mỗi lần tù nhân đấu tranh, chúng chỉ nhượng bộ một vài yêu sách nhỏ.
Trong năm 1941, có hơn 4.000 tù chính trị tham gia Khởi nghĩa Nam Kỳ bị đày ra đảo. Banh I, Banh II, Banh III đều nhốt chật tù. Bọn gác ngục đánh tù như điên như dại. Chế độ cấm cố, nhốt chật, đánh đập thường xuyên và ăn uống tồi tệ làm cho sức khỏe tù nhân suy sụp, bệnh tật phát triển. Hai căn bệnh phổ biến, lây lan nhanh và nguy hiểm chết người lúc đó là kiết lỵ và ghẻ. Hàng ngàn người đã chết thê thảm, trong đó có đồng chí Lê Hồng Phong và hai nhà yêu nước tên tuổi là Nguyễn An Ninh, Võ Công Tồn.
Chi ủy cử Phạm Hùng làm Bí thư, thay Nguyễn Duy Trinh vừa mãn án; Trần Ngọc Danh, Võ Sĩ, Văn Viên được bổ sung vào cấp ủy Chi bộ tập trung mọi nỗ lực vào hoạt động cứu tế tù nhân Bác Tôn vẫn ở trong cấp ủy, phụ trách việc giao thông liên lạc, cứu tế và phụ trách Hội tù nhân. Chi bộ bố trí cho Bác Tôn trở lại Sở Lưới. Trần Xuân Độ ở Banh II ra làm ở Bản chế. Lê Văn Lương, Phạm Hùng cũng được làm khổ sai trong sân Banh I, lang Kiều ra chữa bệnh cho Sở Recherche (Sở truy tầm tù trốn). Lang Kiều tên thật là Nguyễn Kiều, sinh trưởng ở Cao Lãnh, học nghề thuốc gia truyền, nổi tiếng là thần đồng về Đông y từ năm 17 tuổi, bị án 20 năm khổ sai trong vụ đánh cướp tàu Nguyễn Văn Kiệu, làm "kinh tế mạo hiểm", lấy của nhà giàu tài trợ cho cách mạng. Bọn gác ngục mỉa mai: “Đ.M. thầy lang mà cũng đi ăn cướp!”.
Lang Kiều hóm hỉnh đẩy dóc một câu:
- "Ăn cướp cũng có ba bảy đường. Tôi bị buộc tội ăn cướp vì muốn đánh tàu, lấy lại một bộ sách thuốc quý của Việt Nam mà một tay lang băm đánh cắp bán cho ngoại bang. Nghề thuốc của tôi dư sống, cần gì phải ăn cướp”.
Bọn gác ngục bán tín bán nghi, nhưng chúng phục tài lang Kiều chữa bệnh. Lần này chính Bác Tôn ăn Toustou, Chủ sở Recherche đưa lang Kiều từ Hầm cấm cố ra chữa bệnh cho Sở truy tầm tù trốn. Toustou chẳng thiện cảm gì, nhưng hắn cần lang Kiều ra chữa bệnh cho nhân tình của hắn, cũng là vợ của một tên gác ngục khác, đang có vấn đề về phụ khoa mà thầy thuốc Tây bó tay.
Lang Kiều thạo chữ Hán, đọc nhiều sách thuốc, rành y lý phương Đông, giỏi về Nam dược. Trong hoàn cảnh lao tù anh sử dụng nhiều bài thuốc đặc trị như dùng huyết heo chữa bệnh đường ruột, dùng cơm cháy chữa bệnh bao tử, dùng cỏ tranh chữa bệnh đái đường, dùng chuối hột, cám gạo chữa bệnh kiết lỵ, thương hàn, dùng hồ tiêu, hành củ, ngải rừng chữa bệnh sốt rét… Đã có lần, Phạm Hùng đau ruột thừa tưởng chết, không dám đưa ra nhà thương, sợ bọn chúa ngục nhân cơ hội này thủ tiêu. Lang Kiều đã dùng huyết heo và phèn chua chữa cho Phạm Hùng khỏi bệnh. Phèn chua thì lang Kiều đã trữ sẵn, còn huyết heo thì Chi bộ giao cho nhóm đảng viên trong kíp nhà bếp lén lấy khi giết heo hằng ngày cung cấp cho bọn gác ngục. Đối với bọn nhân viên Recherche gian ác, anh cũng có luật chơi. Anh bốc thuốc công hiệu nhanh nhưng công phạt mạnh để hành hạ chúng.
Bọn Nhật thua trận thất thểu xuống tàu về Sài Gòn chờ giải giáp. Chúng đưa tất cả binh lính về gác ngục Pháp về để bàn giao cho quân Đồng minh sắp kéo vào. Hôm đó là ngày 25-8-1945. Trước đó chúng đã trao quyền cai trị quần đảo và nhà tù cho Lê Văn Trà trong một lễ trao trả độc lập giả hiệu. Hai trung đội lính bảo an được phái ra đảo làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự. Người sĩ quan chỉ huy tên là Bao tìm gặp Phạm Hùng để thông báo tình hình trong nước và truyền đạt chủ trương của Xứ ủy về việc nắm thời cơ, giành chính quyền. Lực lượng bảo an trở thành hậu thuẫn đắc lực cho tù chính trị.
Hôm sau, Bác Tôn, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Trần Ngọc Danh, Văn Viên, Võ Sĩ, Lã Vĩnh Lợi gặp chúa đảo Lê Văn Trà, yêu cầu bàn giao chính quyền trên đảo cho tù chính trị. Lê Văn Trà không chịu, viện cớ chưa có lệnh của Chính phủ. Nhiều anh em nôn nóng, muốn bạo động cướp chính quyền. Bác Tôn, Lê Văn Lương, Phạm Hùng giữ thái độ kiên quyết nhưng mềm mỏng, tránh đổ máu. Khi biết lực lượng bảo an đã ngả theo tù chính trị, Lê Văn Trà chịu lui một bước, đề nghị thành lập chính quyền liên hiệp, gọi là Hội đồng Liên hiệp quốc dân Côn Đảo. Phạm Hùng tổ chức ngay lực lượng võ trang, gọi là Đoàn phòng thủ Côn Lôn. Bác Tôn cùng một nhóm thợ giỏi lao vào sửa chiếc canô mà bọn Nhật phá hỏng trước khi rút để liên lạc với đất liền và sửa rađiô để nghe tin tức.
Sau những ngày tháng trông mong cháy bỏng, đoàn ghe tàu của Ủy ban Hành chính Nam Bộ ra đón chính trị phạm đã cập bến Côn Đảo ngày l7-9-1945. Sáng ngày 23-9-1945, đoàn ghe, tàu nhổ neo, đưa những người con ưu tú bị lưu đày trên hòn đảo địa ngục trở về đất liền. Trần Ngọc Danh, Lã Vĩnh Lợi, Tô Thúc Rịch đại diện cho chính trị phạm cộng sản trên tàu Phú Quốc; Lê Văn Lương đi trên chiếc canô mang tên Giải phóng do chính người thủy thủ Tôn Đức Thắng cầm lái đưa Phạm Hùng và Ban Chỉ huy Đoàn phòng thủ Côn Lôn đi hộ tống đoàn ghe.
Bác Tôn quả là người cầm lái vĩ đại, không phải chỉ trên chiếc canô này mà trong suốt 15 năm trong ngục tù Côn Đảo. Bên cạnh Bác là hai chàng trai trẻ Lê Văn Lương và Phạm Hùng đầu đội án chém, gan góc và thông minh khiến cả đám gác ngục Tây - ta đều kính nể, mà với đồng chí mình rất đỗi thân thương. Lê Văn Lương siết chặt tay Phạm Hùng, ngắm nhìn gió biển lướt trên mái tóc bạc bồng bềnh của Bác Tôn trong bình minh của tự do - độc lập.
NHỮNG BƯỚC CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG CỦA ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG TỪ CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC ĐẾN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
ĐỨC VƯỢNG73
Xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, có thể ví như một người nộ lệ gầy gò, rách rưới, đói khát, đang oằn oại dưới ngọn roi của "ông chủ”. Đó là một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Trong xã hội này, người nông dân suốt ngày phơi lưng trên cánh đồng, vậy mà vẫn không đủ ăn. Người công nhân bị bóc lột giá trị thặng dư ngày một tăng. Những người dân lao động vất vả với cuộc sống nhọc nhằn mà chẳng kiếm được miếng cơm manh áo. Trong lúc dân tình điêu đứng, thì "các bậc đại thần ăn dầm nằm dề ở chốn triều đình, chỉ biết quan hệ cho xong việc; quan lại ở các tỉnh, thì chỉ lo cho vững thân thế mà hà hiếp bóp nặn ở chốn hương thôn; đám sĩ phu thì ganh đua nhau vào con đường luồn cúi, nịnh hót, không còn biết liêm sỉ là gì,... đến bây giờ thế sự thế hư hỏng, nhân dân lìa tan, phong tục suy đồi, lễ nghĩa bại hoại". Những dòng trên đây đã được nhà yêu nước Phan Chu Trinh nêu trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương. Năm 1906, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut trâng tráo nói rằng: “Người thợ nặn muốn nặn ra hình người, thì phải cần có đất sét, có đất rồi mới nặn thành người được. Xã hội An Nam cũng ví như là đất, còn người Pháp ví như người thợ nặn. Cái tay nước Pháp lấy cái đất của nước Nam ấy mà nặn ra người có nhân cách để giữ được quyền lợi, vì đã có luật pháp cao hơn mà che chở cho". Rõ ràng chúng đã xúc phạm dân tộc ta, đã dùng những lời hoa mỹ để che đi cái dã tâm của chúng với chính sách ngu dân.
Anh thanh niên Tôn Đức Thắng là một trong những nạn nhân của chính sách thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương. Lớn lên ở vùng sông nước An Giang, anh đã chứng kiến bộ mặt tàn ác của thực dân trên quê hương anh, Nam Kỳ đầm đìa nước mắt khi phải nhìn "lục tỉnh" rồi cả miền lần lượt nằm dưới làn roi “trực trị" của lũ quỷ Tây Dương.
Không thể cam chịu nhục được mãi, hãy vùng lên. Hãy rút gươm ra khỏi bao để chặn lại bàn tay đẫm máu của quân thù. Đó là những trận chiến đấu một sống một chết của nhân dân ta ngay từ năm 1858, khi Pháp nổ súng chiếm thành phố Đà Nẵng. Sau đó, năm 1859, nhân dân Gia Định xông ra cản giặc khi chúng chiếm thành. Những hình ảnh của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Phan Tam, Phan Ngũ, Nguyễn Hữu Huân, Lê Công Thành, v.v.. cùng với hình ảnh của hàng nghìn trận chiến đấu khác của nhân dân cả nước, "Sát thát” xông lên khi quân thù chiếm lấn quê hương đều có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng và tình cảm của người thanh niên yêu nước Tôn Đức Thắng. Rõ ràng, chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX cuồn cuộn nổi lên như những đợt sóng trào. Điều này càng chứng minh cho luận điểm của Lênin: "Chủ nghĩa yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng trăm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Đó là lòng trung thành của nhân dân đối với Tổ quốc mình. Lòng trung thành ấy đã trở thành ngọn cờ đấu tranh chống ngoại xâm.
An Giang, quê hương của nhiều nhà yêu nước. Từ các địa phương khác đến, đã dấy lên nhiều sự kiện kháng Pháp, mà tiếng vang của nó còn vọng mãi trong lịch sử dân tộc. Những tấm gương tiên liệt như Thoại Ngọc Hầu, người đề xuất và thực hiện công trình kinh Vĩnh Tế, vừa để phát triển giao thông, phát triển nông nghiệp, vừa để làm chiến tuyến chống giặc và như Trương Gia Mô, nhà yêu nước đầy chí khí lẫm liệt, đã tử tiết tại Núi Sam khi giặc Pháp đến vây bắt. Những tấm gương tiên liệt đó mãi mãi ghi vào sử sách.
Tinh hoa của quê hương, bản anh hùng ca của dân tộc đã làm thực dậy trong lòng anh thanh niên Tôn Đức Thắng một tư tưởng cứu nước, cứu nhà. Sự hình thành chủ nghĩa yêu nước của anh bắt nguồn từ nhân tố đó.
Nghiên cứu những bước phát triển tư tưởng của đồng chí Tôn Đức Thắng từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng ta thấy rằng đồng chí đã từ lòng căm thù giặc sâu sắc, đến cảm thông với dân tộc thương yêu nhân dân lao động dần dần đi tới giác ngộ về giai cấp và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Quá trình chuyển biến của đồng chí từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính chất tiên tiến, qua các bước “quá độ” trước khi tạo ra bước nhảy vọt về chất.
Bước chuyển thứ nhất: Sống trong đội ngũ thợ thuyền Việt Nam. Một đặc điểm nổi bật trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng là gia nhập rất sớm vào hàng ngũ của giai cấp công nhân Việt Nam. Đặc điểm này, phân tích về mặt lôgích nó sẽ dẫn đến tính triệt để giai cấp và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Ngay từ năm 18 tuổi đồng chí đã đến Sài Gòn để học nghề thợ máy. Năm 22 tuổi, đồng chí vào làm trong Xưởng Krupp, thuộc Sở Kiến trúc cầu đường và nhà cửa Sài Gòn. Sau đó đồng chí vào học Trường Cơ khí châu Á (Sài Gòn) rồi làm công nhân Xưởng Ba Son... Ngay cả những lúc bị bọn mật thám theo dõi, đồng chí phải tạm lánh về nông thôn ở Mỹ Tho, làm nghề dạy học, song vẫn liên lạc với anh chị em công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Có thể nói rằng, cuộc đời của đồng chí lúc nào cũng mang duyên nợ với công nhân.
Sống trong lòng giai cấp công nhân đồng chí Tôn Đức Thắng mang trong lòng ý thức tổ chức kỷ luật, tính năng động cao và giàu tính sáng tạo. Đồng chí đã chủ động tổ chức những cuộc bãi công của công nhân, mặc dù tính chất của những cuộc bãi công này mới chỉ là tự phát. Ngay từ những ngày đầu bước chân vào làm việc ở Xưởng Krupp, đồng chí đã tham gia vào cuộc đấu tranh của công nhân chống đánh đập, cúp phạt, đòi tăng lương, đồng thời tổ chức ra các hội ái hữu, cứu tế v.v.. Năm 1912, đồng chí đã cùng một số anh em tổ chức cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ có sự phối hợp với công nhân Xưởng Sửa chữa tàu thủy Ba Son. Cuộc bãi công đó thu được thắng lợi, buộc bọn thực dân Pháp phải giải quyết các yêu sách của anh em, tuy rằng chúng vẫn tìm mọi cách để khủng bố.
Bãi công là một hình thức đấu tranh giai cấp, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng công nhân. V.I. Lênin nói rằng, chính “bãi công dạy cho công nhân biết đoàn kết với nhau, nó chỉ cho công nhân thấy rằng chỉ có cùng nhau chung sức lại, mới có thể cùng nhau chống bọn tư bản được". V.I. Lênin còn nói: “Bãi công dạy cho công nhân thấy rõ được đâu là sức mạnh của bọn chủ và đâu là sức mạnh của mình".
Sống và làm việc với công nhân và được mục kích những cuộc bãi công của công nhân, đồng chí Tôn Đức Thắng hiểu rằng dân tộc Việt Nam và công nhân Việt Nam không có một dấu hiệu gì để nói nó yếu hèn mà bọn thực dân vẫn tuyên truyền. Việc bọn chủ xưởng phải chấp nhận yêu sách của công nhân trong lúc chúng có lưỡi lê và súng chứng tỏ chúng yếu chứ không phải dân tộc Việt Nam yếu; chúng hèn chứ không phải công nhân Việt Nam hèn. Đây là bước chuyển thứ nhất của đồng chí Tôn Đức Thắng. Bước chuyển này tuy chưa tiếp nhận được sự giác ngộ giai cấp và chủ nghĩa Mác - Lênin, và nó vẫn còn nằm trong phạm vi của chủ nghĩa yêu nước, nhưng lại rất quan trọng vì nó tạo mầm mống để đồng chí bước tiếp sang một nhận thức tư tưởng cao hơn, mới hơn. Thực chất đây là bước "quá độ" đầu tiên về tư tưởng của Người.
Bước chuyển thứ hai: Sống trong đội ngũ thợ thuyền quốc tế.
Vào khoảng cuối năm 1912, sau khi tổ chức thành công cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ và của công nhân Xưởng Sửa chữa tàu thủy Ba Son, đồng chí Tôn Đức Thắng bị địch lùng bắt, phải lánh sang Pháp, làm thủy thủ trên tàu Lacoóc của công ty tàu biển chạy trên Đại Tây Dương. Mục đích đi của đồng chí đã được đồng chí xác định rõ: “Tôi nhớ ngày tôi rời đất nước... Lúc cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ và thợ thuyền Ba Son thắng lợi, cũng là lúc tôi cải trang xuống tàu Pháp làm để trốn sự truy nã của địch. Từ đó bắt đầu cuộc đời trên mặt biển. Với nhiệt tình yêu nước, tôi mong học hỏi được nhiều để sau này về nước đấu tranh có kết quả hơn".
Đồng chí Tôn Đức Thắng đã sang Pháp và một số nước khác.
Nếu như, khi còn ở nước nhà, tình cảm và tư tưởng của đồng chí Tôn Đức Thắng còn nằm trong phạm vi dân tộc, thì lúc ra nước ngoài, tình cảm và tư tưởng ấy đã mở rộng ra quốc tế. Lúc còn ở trong nước, tình yêu của đồng chí là nhân dân lao động Việt Nam, khi ra nước ngoài, tình yêu của Người là nhân loại cần lao. Khi còn ở nước nhà, Người tiếp xúc với công nhân Việt Nam, khi ra nước ngoài. Người tiếp xúc với công nhân quốc tế. Lúc còn ở nước nhà, Người thấy kẻ thù là thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam, khi ra nước ngoài, Người thấy kẻ thù là chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc chúng bóc lột nhân dân lao động thế giới. Tầm nhìn của Người được mở rộng từ sông Tiền, sông Hậu tỏa ra Thái Bình Dương. Đây là bước chuyển biến tư tưởng thứ hai của đồng chí. Bước chuyển này tuy chưa đạt tới số giác ngộ về giai cấp và giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, song so với lúc còn ở nước nhà, trong tư tưởng của Người rõ ràng đã có những bước phát triển mới. Sự "quá độ" từ dân tộc đến quốc tế làm cho tư tưởng của Người đi gần tới chân lý của thời đại. Tuy ở vào thời điểm này, tư tưởng của Người vẫn còn mang sắc thái của chủ nghĩa yêu nước, song chất của nó được nâng lên bởi từ tình cảm dân tộc, tình cảm giai cấp trong phạm vi quốc gia, được tỏa sáng và phát triển ra quốc tế, ra nhân loại cần lao. Trong những ngày làm thủy thủ, đồng chí Tôn Đức Thắng luôn luôn gần gũi công nhân Pháp và tiếp xúc với công nhân nhiều nước khác. Hoàn cảnh sống ở nước ngoài càng giúp cho đồng chí thấy rõ hơn sự thâm độc của chính sách ngu dân và bộ mặt xảo trá, tàn ác của thực dân ở các nước thuộc địa. Điều này càng nung nấu tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh cách mạng hòa cùng với tình cảm quốc tế trong sáng.
Khi bị động viên vào Hải quân Pháp, làm thợ máy (năm 1916) đồng chí Tôn Đức Thắng thấy rõ tệ phân biệt màu da và cách đối xử tàn bạo của những tên chỉ huy đối với binh lính. Xúc động trước cuộc sống của nhưng người cùng khổ, đồng chí tích cực tham gia vào cuộc vận động chính trị trong hàng ngũ thủy thủ Pháp đấu tranh chống bọn chỉ huy và bí mật liên lạc với tổ chức Công đoàn Pháp để hoạt động.
Sự kiện năm 1919, khi đoàn chiến hạm vượt qua eo biển Dardanelle để vào Biển Đen, tiến công nước Nga, gây sự lo ngại cho nhiều người. Lúc ấy, đồng chí Tôn Đức Thắng làm thợ máy trong một chiến hạm đó, đã cùng anh em binh lính trong chiến hạm Pháp dũng cảm đứng lên phản chiến từ chối thi hành mệnh lệnh tiến công nước Nga. Đồng chí đã kéo lá cờ đỏ trên chiến hạm để chào mừng Nhà nước của giai cấp vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế giới. Vốn là công nhân ở một nước thuộc địa, đã từng lăn lộn với cuộc đấu tranh của dân tộc chống áp bức, bóc lột, đồng chí không muốn cho nước Nga Xôviết, thành trì của cách mạng thế giới bị giày xéo, bị tàn phá, thành quả cách mạng của công nhân và nông dân Nga vừa mới giành được đã bị cướp mất. Điều này tở rõ tinh thần quốc tế của đồng chí đã xích lại gần với tinh thần quốc tế vô sản. Sau đó, đồng chí đã kể lại: “Chúng tôi chào các bạn bằng lá cờ đỏ được giương lên ở Biển Đen. Tôi mơ ước cùng với lá cờ đỏ này tuần dương hạm sẽ cập bến Nga, tôi sẽ lên bờ và được dịp tham gia cuộc cách mạng và học tập các bạn Nga, để trở về Tổ quốc, giúp đỡ dân tộc tôi vứt bỏ ách nô lệ… Tôi tin rằng ở đó nhân dân lao động đã vùng lên để quét sạch mọi áp bức, bất công và tôi, một công nhân của dân tộc thuộc địa da màu, đã từng phải chịu đựng. Tôi tin rằng ở đó người ta đang xây dựng một thế giới đẹp đẽ, thật sự công bằng".
Vì sao, trong lúc chưa tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng chí Tôn Đức Thắng đã nhìn thấy nước Nga cách mạng, với tất cả tình cảm tốt đẹp của nó? Điều này đã được đồng chí kể lại: “Tôi tin rằng bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân, được tham gia vào những giờ phút lịch sử đó tại Biển Đen, không thể hành động khác tôi, bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có nghĩa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống lại Cách mạng Tháng Mười”. Đây chính là sự “gặp gỡ tự nhiên” giữa tư tưởng yêu nước và tư tưởng quốc tế, chủ nghĩa yêu nước dạy cho người dân thuộc địa biết yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, căm thù giai cấp bóc lột. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng dạy cho nhân dân những vấn đề cơ bản đó. Đồng chí Tôn Đức Thắng thấm đượm lòng yêu nước, nên khi bắt gặp Cách mạng Tháng Mười - mặc dù ở vào thời điểm này, nhận thức của đồng chí Tôn Đức Thắng về Cách mạng Tháng Mười mới chỉ là "cảm tính tự nhiên", song đã có sức hấp dẫn đối với đồng chí.
Cuộc phản chiến ở Biển Đen đã chấm dứt sự can thiệp của đế quốc Pháp vào miền Nam nước Nga, góp phần vào phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân lao động toàn thế giới đứng lên chống đế quốc, bảo vệ Cách mạng Tháng Mười! Thắng lợi của cuộc phản chiến ở Biển Đen đã chứng minh sức mạnh của nhân dân lao động và binh lính Pháp có thiện chí với nước Nga cách mạng. Trong sự kiện lịch sử này, hình ảnh đồng chí Tôn Đức Thắng nổi lên như một bản anh hùng ca chói lọi của chiến trận.
Sau cuộc phản chiến ở Biển Đen, ra khỏi Hải quân Pháp, đồng chí Tôn Đức Thắng vào làm thợ máy cho Xưởng ôtô Renault ở Pháp (xưởng này có thời gian đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã từng vào làm việc và trở thành đoàn viên công đoàn). Tại đây, đồng chí gia nhập Tổng Công đoàn Pháp và cùng với giai cấp công nhân Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Hoạt động của đồng chí, một lần nữa càng thắt chặt mối tình anh em với giai cấp công nhân Pháp.
Bước chuyển thứ ba: Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin bằng việc gia nhập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Cho đến nay, vẫn còn một số ý kiến khác nhau về việc đồng chí Tôn Đức Thắng tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào thời điểm nào? Tổng lược lại thấy có hai loại ý kiến:
- Đồng chí tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ngay sau khi kéo lá cờ đỏ trên chiến hạm Pháp, và tuyên bố ủng hộ nước Nga cách mạng.
- Đồng chí tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin qua các sách báo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và đặc biệt là khi đồng chí gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (năm 1927).
Theo chúng tôi, ý kiến thứ nhất chưa có cơ sở lịch sử để khẳng định. Vì vậy, việc khẳng định đồng chí tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào năm 1927, khi đồng chí gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là có cơ sở lịch sử hơn. Nếu ý kiến của chúng tôi mà được chấp nhận thì rõ ràng đồng chí Tôn Đức Thắng đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin bằng con đường tổ chức, mà con đường ấy do đồng chí Nguyễn Ái Quốc vạch ra.
Như các đồng chí đã biết, tại Việt Nam trong những năm 1925-1926, phong trào giải phóng dân tộc đứng trên lập trường vô sản phát triển đồng thời với phong trào giải phóng dân tộc trên lập trường tư sản. Song, đường lối của Việt Nam Quốc dân Đảng không lôi cuốn được phong trào công nhân vì nó không có khả năng đáp ứng được nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam là độc lập tự do thực sự. Sức quyến rũ đối với công nhân Việt Nam lúc bấy giờ chẳng phải là khẩu hiệu "không thành công thì thành nhân" mà là khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập hoàn toàn". Tư tưởng vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật sự cuốn hút công nhân Việt Nam vào cuộc đấu tranh oanh liệt nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp công nhân. Tư tưởng bất hủ của chủ nghĩa Mác - Lênin: Dân tộc luôn luôn với giai cấp đã tạo tiền đề cho giai cấp công nhân Việt Nam đấu tranh vừa đòi quyền lợi cho dân tộc, vừa đòi quyền lợi cho giai cấp.
Trong những năm 1925-1929, phong trào cách mạng theo xu hướng vô sản tràn vào trong nước. Năm 1925, tại Quảng Châu Trung Quốc đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và mở lớp lý luận Mác - Lênin nhằm đào tạo cán bộ cách mạng Việt Nam, chuẩn bị cho sự ra đời của chính Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Đồng chí Tôn Đức Thắng lúc bấy giờ đã về nước để hoạt động, đã hòa mình vào không khí sôi động của cách mạng Việt Nam. Với ý thức tạo điều kiện để hoạt động lâu dài đồng chí đã cùng với một số anh em công nhân lập ra Xưởng Sửa chữa xe hơi ở Phú Nhuận, dùng là nơi để tập hợp anh em, đồng thời cũng là giải quyết công ăn việc làm cho một số người thất nghiệp. Việc làm của đồng chí đã mang lại kết quả tốt. Mạng lưới liên lạc với anh chị em công nhân và học sinh được tổ chức, đặc biệt là với Trường Bá Nghệ và Xưởng Ba Son.
Với kinh nghiệm hoạt động trong phong trào công nhân và Công đoàn Pháp, đồng chí tiếp tục những cơ sở Công hội ở Nam Kỳ với mục đích đoàn kết tương trợ, bênh vực quyền lợi cho giai cấp công nhân và đấu tranh chống sự áp bức bóc lột của đế quốc và bọn tay sai. Đồng chí Tôn Đức Thắng được các hội viên có làm Hội trưởng. Mặc dù những tổ chức trong Hội do đồng chí Tôn Đức Thắng lập ra ở Nam Kỳ mới chỉ mang tính chất tự phát, song nó vẫn lôi cuốn được nhiều công nhân tham gia vào cuộc đấu tranh. Công hội có cơ sở ở khắp Sài Gòn. Đến đầu năm 1925, số hội viên đã lên tới 300 người.
Xưởng Ba Son, Nhà đèn Sài Gòn, Nhà đèn Chợ Quán là những cơ sở có Công hội hoạt động mạnh nhất. Những Công hội này là nòng cốt trong cuộc bãi công sôi nổi của thủy thủ và công nhân Xưởng Ba Son nổ ra vào tháng 8-1925. Mặc dù Công hội không có trụ sở riêng, nhưng hằng tháng vẫn sinh hoạt đều đặn.
Hoạt động trong tổ chức Công hội, đồng chí Tôn Đức Thắng có điều kiện được các báo L’Humanité, Đời sống thợ thuyền, do Đảng Cộng sản Pháp và Tổng Công đoàn Pháp gửi sang. Từ năm 1922 đến năm 1925, ngoài những sách báo của Đảng Cộng sản Pháp và Tổng Công đoàn Pháp gửi sang, đồng chí Tôn Đức Thắng và công nhân Sài Gòn còn được đọc báo Le Paria và Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Cuối năm 1926, đồng chí Tôn Đức Thắng bắt liên lạc được với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, một tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng ta do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Vốn có cảm tình sâu sắc với Cách mạng Tháng Mười lại được rèn luyện trong phong trào công nhân, đồng chí hoàn toàn tán thành đường lối của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tình nguyện ra nhập tổ chức này. Những cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được đồng chí Nguyễn Ái Quốc huấn luyện chủ nghĩa Mác - Lênin, nay họ mang kiến thức ấy truyền đạt lại cho đồng chí Tôn Đức Thắng. Việc đồng chí Tôn Đức Thắng gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đánh dấu bước chuyển biến tư tưởng có tính chất quyết định của đồng chí: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây trong sự nghiệp cách mạng vô cùng gian khổ của đời mình, mặc cho Phong ba bão táp, mặc cho tra tấn, tù đày, đồng chí không lúc nào chịu rời bỏ lý tưởng cách mạng. Đồng chí nói: lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Mác - Lênin cao quý lắm. “Đảng của lý tưởng đó là một điều không thể thiếu của chúng ta”. Sau khi gia nhập Hội, đồng chí Tôn Đức Thắng tích cực tuyên truyền và tổ chức những người hăng hái, tích cực trong các cơ sở Công hội vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1927, đồng chí được cử vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Trong thời gian này, đồng chí đã cùng các đồng chí của mình ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai cấp công nhân Nam Bộ, làm cho phong trào công nhân và tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng vững mạnh.
Quá trình từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin của đồng chí Tôn Đức Thắng là quá trình rèn luyện, học tập gian khổ và rất xứng đáng được đứng vào hàng ngũ những chiến sĩ tiên phong cách mạng.
NGƯỜI CÔNG NHÂN SỐ 1
LÊ HỮU LẬP74
Niềm vinh dự lớn nhất trong cuộc đời tôi là nhiều năm được phục vụ trực tiếp và gần gũi Bác Hồ, Bác Tôn - hai vị Chủ tịch nước đầu tiên của nước ta; hai vị Chủ tịch được toàn Đảng toàn dân quý mến, bạn bè nước ngoài kính yêu; hai tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, suốt đời vì nước vì dân.
Tháng 6-1958, tôi đang công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng thì được cử sang làm Trưởng phòng Văn phòng Văn thư Phủ Chủ tịch. Nói là Văn phòng Phủ Chủ tịch, thực ra là Văn phòng riêng của Bác Hồ. Văn phòng Phủ Chủ tịch thời đó chỉ có bốn cán bộ. Đồng chí Vũ Kỳ là Chánh Văn phòng và ba anh em chúng tôi ở Phòng Văn thư. Kể cả nấu ăn, cần vụ, lái xe, làm vườn có hơn 10 người. Để đáp ứng được những yêu cầu về công tác và sinh hoạt hằng ngày của Bác Hồ, chúng tôi phải làm việc hết sức mình.
Tháng 7-1960, Bác Tôn được Quốc hội bầu làm Phó Chủ tịch nước. Năm đó Bác Tôn đã 72 tuổi. Bác không chịu nhận một thư ký riêng giúp việc vì lý do công việc không nhiều, sử dụng một cán bộ là lãng phí, rỗi rãi cán bộ sẽ không yên tâm Bác Hồ rất quan tâm đến Bác Tôn, song cũng tán thành ý kiến đó và nói anh em Văn phòng chúng tôi sắp xếp công việc để có người lo thêm công việc bên Bác Tôn. Thế là đầu năm 1962, tôi được giao thêm nhiệm vụ phục vụ Bác Tôn. Mỗi ngày tôi sang bên Bác Tôn một, hai tiếng để báo cáo công việc hằng ngày với Bác; chuẩn bị giúp Bác những cuộc tiếp khách, nhận quốc thư, đi thăm địa phương, v.v. họp với anh em, lo sinh hoạt hằng ngày với bộ phận bảo vệ an ninh, bảo vệ sức khỏe của Bác, v.v.. Phần lớn thời gian tôi vẫn làm việc bên Bác Hồ. Cho đến tháng 9-1969, sau khi Bác Hồ qua đời, Bác Tôn lên thay, tôi sang làm thư ký Bác Tôn. Cũng năm này, Chủ tịch Tôn Đức Thắng thấy mình đã cao tuổi, Bác cho gia đình hai cô con gái, (từ ngày hòa bình lập lại vẫn sống chung), chuyển ra khỏi số 35 Trần Phú (Hà Nội) để khi mình qua đời sẽ trả ngôi nhà cho Nhà nước75. Để tiện cho công việc của tôi, gia đình tôi cũng được chuyển về 24-26 Cao Bá Quát ở cùng gia đình Bác Tôn. Khu nhà này có lối thông sang 35 Trần Phú.
Từ khi còn công tác ở Văn phòng Trung ương Đảng, tôi thấy các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, nhất là Bác Hồ có sự quý mến, trân trọng rất đặc biệt đối với Bác Tôn. Năm 1955, Bác Tôn được tặng Giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin. Tháng 8-1958, mừng thọ Bác Tôn 70 tuổi, Ủy ban Thi đua Trung ương muốn dành Huân chương Sao vàng, Huân chương cao nhất tặng Bác Hồ, nên đề nghị tặng Bác Tôn Huân chương Độc lập hạng Nhất. Thời kỳ đó chưa ai được nhận Huân chương Độc lập. Chính Bác Hồ đã quyết định và được tập thể lãnh đạo đồng ý tặng Bác Tôn Huân chương Sao vàng. Trong buổi lễ tại Câu lạc bộ Ba Đình, Bác Hồ nói: "Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao vàng, là Huân chương cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy"76.
Bác Tôn rất ít nói về mình. Quá trình phục vụ Bác giúp tôi ngày càng được biết rõ thêm về sự nghiệp cách mạng của Bác. Đồng chí Nguyễn Văn Lợi kể lại, năm 1926 từ Quảng Châu cùng với đồng chí Trần Trọng Bình được Bác Hồ cử về Sài Gòn gây cơ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Bác Hồ đã dặn phải tìm liên lạc với anh công nhân Tôn Đức Thắng. Người chiến sĩ Biển Đen, người công nhân đó từ năm 1920 đã tổ chức ra Công hội bí mật người đứng đầu phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Qua Công hội bí mật, những hội viên ưu tú được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tổ chức này nhanh chóng phát triển khắp lục tỉnh và Bác Tôn được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ (1927) Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đồng chí Lê Văn Lương cũng kể với chúng tôi, thời kỳ đó khi đồng chí vào hoạt động ở Sài Gòn, tổ chức ngoài Bắc này cũng dặn phải tìm bắt liên lạc với Tôn Đức Thắng. Nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng như Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, v.v.. đều đã ở Côn Đảo với Bác Tôn. Bác Tôn là một trong những người sáng lập ra Chi bộ nhà tù Côn Đảo đầu tiên và luôn luôn giữ cương vị lãnh đạo quan trọng cho tới Cách mạng Tháng Tám. Mười bảy năm tù đày trong nhà giam đế quốc và địa ngục Côn Đảo, Bác Tôn là người đấu tranh không nhượng bộ với địch và là người hết lòng thương yêu giúp đỡ anh em.
Tôi đến phục vụ Bác Tôn khi tuổi Bác đã cao, ở cương vị đứng đầu Nhà nước song vẫn thấy ở Bác phong cách công nhân: Khiêm tốn, giản dị, ghét xa hoa hình thức, giàu lòng nhân hậu thương người. Trong việc công, việc riêng, cách giải quyết của Bác Tôn có những ý nghĩa thật sâu sắc.
Ở bên Bác Hồ hơn 10 năm, tôi thấy Bác Hồ và Bác Tôn có nhiều điểm giống nhau nhưng không bao giờ Bác Tôn so sánh với Bác Hồ ở cương vị Chủ tịch nước, trong công việc lần nào đó thấy Bác suy nghĩ lâu, tôi thưa với Bác là trước đây Bác Hồ cũng đã làm như thế. Bác Tôn ôn tồn bảo tôi: “Ông cụ là lãnh tụ, có những việc ông cụ làm được mà mình phải cân nhắc".
Theo Bác, khi đi thăm địa phương nào phải có yêu cầu thiết thực và không gây phiền hà, tốn kém cho địa phương, cơ sở. Có lần Bác nói với tôi: "Vài năm đầu về Hà Nội (sau hòa bình năm 1954) mình hay xách xe chạy xuống mấy nhà máy. Sau xem lại thấy chẳng giúp cho cơ sở được bao nhiêu lại phiền phức cho họ nên phải rút kinh nghiệm". Ở cương vị Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch nước, Bác đã đi thăm nhiều tỉnh như Thái Nguyên, Hòa Bình, Vĩnh Phú, Hà Bắc, Hà Tây, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa, Hải Phòng, Quảng Ninh, v.v. song không lần nào Bác nhận quà biếu của địa phương. Một lần, Bác đi Bãi Cháy, đồng chí Nguyễn Đức Tâm lúc đó là Bí thư Quảng Ninh sang thăm, biết Bác hay uống trà, có đưa chúng tôi hai cân chè để biếu Bác. Chúng tôi đã nói là Bác không cho nhận quà, đồng chí Tâm nói đây là đặc sản của Quảng Ninh vẫn gửi cho đoàn đại biểu ở Hội nghị Paris. Nể lời, tôi mang lên báo cáo Bác, Bác cảm ơn và gửi lại.
Chuyến thăm dài ngày của Bác là đi thăm đồng bào miền Nam sau ngày giải phóng, thực hiện Di chúc của Bác Hồ. Bác đi Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Long Xuyên, Mỹ Tho. Không đến được từng tỉnh thì Bác triệu tập đại biểu đến một địa điểm trung tâm như gặp đại biểu Tây Nguyên ở Nha Trang, các tỉnh miền Đông Nam Bộ ở Vũng Tàu, các tỉnh miền Tây ở Cần Thơ. Từ ngày giải phóng miền Nam đến đầu năm 1979, Bác vào Nam năm lần, cũng vẫn là những việc cần thiết, không phiền phức, lãng phí tiền của công sức của dân. Mấy lần mời Bác đi thăm Đà Lạt, Bác đều từ chối. Quân đội sẵn sàng chuẩn bị cho Bác thăm lại Côn Đảo, Bác cũng không đi.
Cũng như ở ngoài Bắc, Bác ra Bãi Cháy nhiều lần, nhưng không một lần ra đảo Hạ Long, vì theo Bác những chuyến thăm chơi không thật cần thiết của mình cũng tốn nhiều công sức, tiền bạc. Hằng tuần Bác vẫn thường đi chơi ra ngoài Hà Nội: Đường số 1 phía Bắc đến Bắc Ninh, phía Nam đến Phú Xuyên, Thường Tín; đường số 5 đến Phố Nối, Hải Dương, phía Tây đến Sơn Tây, v.v.. Trên xe commăngca, Bác - cháu đều mũ áo bộ đội, thường dừng lại ngắm nhìn đồng ruộng xem nông dân thu gặt mùa màng. Vào Thành phố Hồ Chí Minh, Bác cũng thích “vi hành” ra ngoại thành vào nhà nông dân ven đường, đi thăm vườn cây đầy hoa trái. Chủ nhà nhận ra Bác rất sung sướng, hái quả tươi trong vườn, chủ - khách, Bác - cháu ngồi ăn trái cây chuyện trò vui vẻ ngay dưới bóng cây mát mẻ.
Lòng nhân hậu, thương yêu giúp đỡ mọi người của Bác Tôn, tôi được nghe nhiều người kể lại, từ thời thanh niên ở Sài Gòn, những năm ở tù Côn Đảo và suốt sau này khi Bác ở cương vị đứng đầu Nhà nước tôi được chứng kiến.
Năm 1962, mới đến với Bác, tôi đã được chứng kiến một việc. Một bà bạn miền Nam đến thăm hai Bác kể câu chuyện: Có một cặp vợ chồng vừa mới cưới xong thì chồng đi tập kết. Những tưởng hai năm sẽ sở về đoàn tụ ai ngờ mòn mỏi trông chờ suốt và không biết đến bao giờ. Đến năm 1959 chị vợ quyết ra Bắc tìm chồng. Không ngờ sang đến Phnôm Pênh (Campuchia) thì bị kẹt phải làm thuê cho một nhà buôn Hoa kiều ở đó. Anh chồng đang là quân y sĩ ở Viện Quân y 103. Biết chuyện, Bác nhờ Văn phòng Bộ Ngoại giao liên hệ với đại diện của ta ở Campuchia xem lại và giúp đỡ giấy tờ cho chị trở về Việt Nam. Được chủ trả tiền công mua vé máy bay qua đường Quảng Châu (Trung Quốc), chị đã về đến Hà Nội. Vợ chồng chị được gặp nhau sung sướng thật không ngờ. Bác đã vào thị xã Hà Đông mấy lần xem họ sống ra sao. Bác khuyên chị nên học lấy một nghề để có việc làm ổn định lâu dài. Chị vâng lời xin học lớp y tá và vào làm việc trong một bệnh viện. Những người biết chuyện tưởng vợ chồng anh y sĩ có họ hàng với Bác Tôn.
Giải phóng miền Nam, Bác Tôn vào Sài Gòn dự Lễ mừng chiến thắng. Ngày 13-5-1975, Bác tới Sài Gòn. Đông đảo các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đón Bác ở Sân bay Tân Sơn Nhất. Thật mừng mừng, tủi tủi. Tin Bác Tôn vào dự Lễ mừng chiến thắng chưa được công bố, Bác và chúng tôi ở Dinh Độc Lập trong dãy phòng rộng rãi sang trọng của Thiệu77. Ngày 14-5-1975, anh em đưa Bác đi thăm thành phố. Hơn hai tiếng trên xe, Bác đi qua những đường phố chính của Sài Gòn - Chợ Lớn rực rỡ cờ hoa. Sáng ngày 15-5-1975, trong buổi lễ Bác Tôn đọc lời chào mừng và đứng trên lễ đài suốt mấy tiếng đồng hồ vẫy chào quân dân Sài Gòn diễu hành, như muốn dừng lại trước lễ đài hừng hực hân hoan vui sướng vẫy cờ hoa, hoan hô không biết mỏi. Từ lúc đó qua truyền hình, truyền thanh mọi người đều biết Bác Tôn vào dự Lễ mừng chiến thắng. Thật vui mừng và tự hào biết bao khi nhìn thấy Bác Tôn người công nhân số 1, người dân chủ cộng hòa, ở tuổi 87 vẫn mạnh khỏe và có mặt trong Lễ mừng chiến thắng vĩ đại mà dân tộc Việt Nam sau 30 năm chiến đấu gian khổ mới giành được.
Sáng ngày 16-5-1975, nhiều người đến phòng tiếp dân ở Dinh Độc Lập để tìm người nhà. Đồng chí Ninh - Cục phó Cảnh vệ vào gặp tôi nói có một bà khoảng 70 tuổi, tên là Bảy Lương đến Phòng thường trực nói là có bà con với Bác Tôn xin được vào gặp Bác. Bà có đưa một bức ảnh Bác Tôn gái chụp với chị Hạnh, chị Nghiêm lúc năm, sáu tuổi. Tôi vào thưa với Bác. Nghe tên và xem ảnh, Bác rất xúc động nói: “Nó là cô mụ (nữ hộ sinh), Lập ra xem cho nó vào". Tôi ra Phòng thường trực, ở đây khá đông người. Bà Bảy, một bà má miền Nam mảnh khảnh, hiền hậu mặc bộ đồ trắng áo dài đang ngồi chờ vẻ mặt băn khoăn hồi hộp. Bà kêu tôi bằng thầy và kể lại lúc nhớ nhà nghèo, mấy chị em cùng quê Mỹ Tho phải ra Sài Gòn kiếm kế sinh nhai. Được Bác cưu mang, người có việc làm, người được tiếp tục học hành. Bà và một người nữa đỗ nữ hộ sinh Đông Dương. Bà vẫn sống ở Sài Gòn. Gần 50 năm, nay thấy Bác trên ti vi mừng vô hạn. Biết là Sài Gòn mới giải phóng, nhưng lại là người sống trong vùng địch, nên khó lòng được gặp Bác Tôn, song không đến không chịu nổi. Đến đây, ít nhất Bác cũng biết bà còn sống và vẫn nhớ công ơn nuôi dạy của Bác. Khi biết tôi ra đón bà vào gặp Bác Tôn, bà mừng đến tái mặt run người. Vào Dinh Độc Lập, bước lên tầng một đã thấy Bác đứng chờ ở ngoài hành lang trong bộ quần áo bà ba cộc tay giản dị. Bà Bảy Lương vừa tiến đến vừa nhìn kỹ Bác Tôn hai mắt bà đẫm lệ. Bác xoa đầu bà và bảo “Sao mà khóc! Con Ba Ngỗi giờ sao?" - Bác nhớ cô nữ sinh cũng đã được Bác cho ăn học. Trong Dinh Độc Lập cuộc gặp gỡ biết bao xúc động...
Thì ra từ những năm 20 của thế kỷ XX, Bác Tôn - anh công nhân Tôn Đức Thắng đã giúp nhiều thanh niên nhà nghèo vượt khó, trai hay gái phải được học hành, có nghề nghiệp Bác có nhiều em nuôi như thế. Trong số này phải kể đến ông Mười Đức, người thanh niên quê ở Long Xuyên, nhà nghèo, học giỏi phải về Sài Gòn kiếm việc làm lấy tiền ăn học. Bị cấm thi ba năm vì làm bài thuê trong kỳ thi, được Bác Tôn giúp đỡ tiếp tục học, sau được học bổng. Ông ra Hà Nội học đỗ kỹ sư cầu đường, lấy bà Bình là con gái phố Hàng Đào. Khi ông trở về Sài Gòn, Bác Tôn ở Côn Đảo, ông đi tìm Bác gái để giúp đỡ. Sài Gòn tạm chiếm, ông cung cấp cho ta cả bản đồ hệ thống cống ngầm Sài Gòn. Ông bà có ba con gái, Bình Minh ở lại chăm sóc bố mẹ, dạy nhạc ở Sài Gòn, Bình Thanh, Bình Trang ra Bắc đi kháng chiến. Bình Thanh sau làm đại diện của ta ở Liên hợp quốc Lễ mừng chiến thắng ông còn nhìn thấy Bác Tôn trên ti vi nhưng không kịp gặp. Cuối năm Bác vào thì mắt ông đã hỏng. Mỗi lần Bác vào Thành phố Hồ Chí Minh đều cho người đón ông bà đến chơi. Anh em hàn huyên, ôn lại chuyện cũ. Biết sau giải phóng, kinh tế ông gặp nhiều khó khăn, Bác lấy tiền tiết kiệm tặng ông mỗi lần vài trăm đồng.
Đối với bạn cũ, Bác Tôn trước sau như một thân mật chân tình, dù bất cứ ở cương vị nào. Khi về Hà Nội vẫn thường đi lại thăm hỏi nhau. Từ khi Bác làm Phó Chủ tịch nước, chế độ bảo vệ ngày một chặt chẽ hơn. Tuy không có chuyện gây khó khăn phiền phức nhưng bạn bè cũng ít đến với Bác hơn. Thế là Bác lại chủ động đến với bạn bè. Không phải chỉ ở nội thành Hà Nội, mà ngày nghỉ trên chiếc commăngca Bác đi thăm các bạn ở các tỉnh lân cận. Bác đi Vĩnh Yên thăm ông lang Kiều. Bác kể ông Kiều rất giỏi thuốc Nam, ở Côn Đảo, hàng trăm người đã được ông cứu khỏi qua những dịch đường tiêu hóa bằng các thứ lá cây. Sau ông lang Kiều được Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn cấp kinh phí mở Trường Tuệ Tĩnh ở Đông Quan, đào tạo thầy thuốc Nam cho bộ đội biên phòng và chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Khi ông lang Kiều mất, Bác cho tôi mang vòng hoa đến viếng và mấy lần Bác đến thăm mộ.
Ông Lê Văn Lưỡng - người bạn phụ trách Công hội Ba Son bí mật năm xưa, về hưu ở Nông trường Lương Sơn (Hòa Bình), mấy lần Bác cho đón về Hà Nội chơi, mấy lần Bác lên Lương Sơn thăm. Vào nhà ông Lưỡng, Bác không đồng ý cho mời ông đến gặp ở trụ sở nông trường mà phải đi bộ qua mấy quãng đường đồi.
Ông Ba Mãng từ Côn Đảo, Cách mạng Tháng Tám về công tác ở Trung ương Cục miền Nam do trình độ hạn chế nên ông chỉ làm những công việc tạp vụ. Tập kết ra Bắc, ông về Văn phòng Trung ương Đảng, hằng ngày cắt tóc cho anh em, ông đã vài lần cắt tóc cho Bác Hồ. Tuổi già sức yếu, ông được đi Trung Quốc dưỡng bệnh. Trước khi đi ông có nguyện vọng được gặp Bác Tôn. Nghe tôi báo cáo, Bác bảo: "Hai anh em nó là công nhân. Nó là cộng sản thật đấy". Và Bác xuống Bệnh viện Việt - Xô gặp ông Ba Mãng, ôm hôn và chúc đi dưỡng bệnh mau khỏe. Sau Bác cho tôi xuống thăm ông ở với con gái gần cổng sau Bệnh viện Bạch Mai. Biết mùa đông ông nằm không đủ ấm, Bác cho mua một bộ đệm mút mang đến tặng ông. Người đảng viên trung thành đó vô cùng xúc động. Trước khi trở về Nam, ông đã gửi tặng Bảo tàng Hồ Chí Minh gói tóc Bác Hồ mà ông đã trân trọng gìn giữ mấy năm trời.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Tạo qua đời ông đã từng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Hai gia đình biết nhau từ lâu, thường qua lại thăm hỏi thân thiết. Bác bảo tôi đến gặp chị Tạo hỏi xem có khó khăn gì. Chị Tạo rất xúc động nhưng biết tấm lòng chân tình của Bác nên cũng nói thật vì hai cháu chưa ra trường, tính toán chi ly mọi thứ, mỗi tháng thiếu mất 20 đồng. Từ đó khi nhận tiền lương hằng tháng, Bác đưa tôi số tiền đó cầm đến tận nhà đưa cho chị Tạo. Gần hai năm sau khi các cháu ra trường, chị xin cảm ơn và xin thôi không nhận sự giúp đỡ của Bác nữa.
Chị Tạo là một phụ nữ miền Nam rất giàu tình cảm, nấu ăn, bánh trái rất giỏi. Chị có một con gái, một con trai. Cháu trai học Đại học Quân sự cũng khéo tay không kém mẹ.
Thỉnh thoảng chị vẫn đem biếu Bác Tôn chút đặc sản thơm thảo của quê hương.
Chị Hai Sóc, một trong những người lãnh đạo Nam Kỳ khởi nghĩa năm xưa, năm 1950 được Trung ương điều từ miền Nam ra định giao nhiệm vụ làm Bí thư phụ nữ Trung ương. Không may ra đến trạm giao thông gần đèo Kháng Nhật (dãy Tam Đảo, tiếp giáp Lập Thạch - Sơn Dương) bị bệnh nặng qua đời. Về Hà Nội, mỗi năm Bác lên thăm mộ chị một lần, đường đi lại khó khăn vất vả. Năm 1965, Bác đồng ý cho chúng tôi chuyển mộ chị về Khu A Nghĩa trang Văn Điển. Lâu lâu Bác lại đến viếng thăm. Sau ngày giải phóng miền Nam, gia đình chuyển di hài chị về 18 thôn Vườn Trầu.
Sau giải phóng miền Nam, Bác nhận được nhiều thư, trong đó có thư của ông Võ Văn Thể ở Gia Định cũng là lính thợ đã đi Pháp với Bác, kèm theo bức ảnh cùng chụp chung ở Toulon năm 1916. Ông Nguyễn Lung Linh - thư ký Sở Dây thép Sài Gòn, được Bác tuyên truyền vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1975 vào Thành phố Hồ Chí Minh, Bác muốn gặp hai ông. Thời điểm đó ở Sài Gòn đang có Hội nghị Hiệp thương chính trị giữa hai miền mà đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Quốc hội và là Trưởng đoàn đại diện cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vì phải giữ bí mật, nên tôi đến gặp hai ông nói là Bác Tôn đã nhận được thư của các ông. Nay vị đại diện của Chính phủ vào họp mời hai ông ngày mai đến gặp. Hai ông rất mừng. Ông Linh - công chức cũ điềm đạm ít nói, ông Thể - công nhân hơn 80 tuổi song vẫn rất khỏe, mở cửa hàng sửa chữa xe máy. Ông mừng rối rít mời tôi vào nhà trong. Biết tôi là người giúp việc cho Bác Tôn, ông say sưa kể chuyện: "Ông cụ là người dìu dắt tôi từ lúc tôi mới bước vào nghề. Dạy tôi sửa chữa từ cái máy nhỏ đến cái máy lớn. Tay nghề Ông rất siêu, nhìn máy, nghe tiếng máy nổ ông biết máy hỏng chỗ nào. Hãng Kroff phải trả Ông 150 đồng một tháng lương, ngày đó ba đồng bạc Đông Dương một tạ gạo, ông bênh vực giúp đỡ anh em, ai cũng yêu mến Ông. Ông làm Cơ khí trưởng trên Chiến hạm France, tôi ở với Ông mấy năm ở Pháp. Tuổi trẻ bọn tôi cũng chơi bời lăng nhăng đôi chút. Nhưng Ông thì không, sống rất đứng đắn. Ông để thì giờ học hành đọc sách, đi thăm đây đó. Tôi coi Ông như là anh Hai...". Câu chuyện không dứt, định chỉ đến hẹn mời ông, song tôi phải ngồi gần hai tiếng nghe câu chuyện hấp dẫn. Ra về hẹn gặp lại ông để được nghe chuyện.
Hôm sau tôi đến đón hai ông, cả hai đều đã complê, cravát chỉnh tề để đi gặp vị đại diện cao cấp của Chính phủ. Xe đi một lát, tôi hỏi hai ông: "Chắc hai Bác muốn gặp Bác Tôn lắm?". Ông Thể nói ngay: “Tôi chỉ mong được gặp lại Ông một lần hồi về chết cũng được". Tôi cười: thực ra bữa nay Bác Tôn cho cháu đón hai bác đến chơi với Bác Tôn. Sợ đêm hai bác mất ngủ nên giờ chịu mới dám nói". Hai ông sững người, ông Thể hỏi tôi giờ phải kêu Cụ như thế nào. Hai ông biết ngoài Bắc mọi người đều gọi là Bác Tôn.
Ôtô vào thẳng ngôi nhà một tầng ở Nhà khách Trung ương T.78. Xuống xe đã thấy Chủ tịch Tôn Đức Thắng đứng chờ trên thềm với trang phục thường, áo sơ mi cộc tay, quần lụa trắng. Bác ôm hôn từng người rồi hai tay dắt hai ông bạn già vào phòng khách, mỗi ông ngồi một bên trên chiếc salông dài. Tiếp khách nước trà, bánh ngọt đơn giản. Thăm hỏi sức khỏe đời sống gia đình. Câu chuyện mỗi lúc một thêm sôi nổi, ông Thể say sưa kể lại những kỷ niệm xưa. Bác ngồi nghe miệng tủm tỉm. Đến đoạn cao hứng ông Thể cười ha ha quên hẳn bên cạnh mình là vị Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, ông vỗ đùi Bác hỏi: “anh Hai có nhớ không?", Bác cười hiền hậu, nắm chặt tay ông. Sau buổi gặp gỡ, Bác vui như sống lại một đoạn thời thanh niên. Hai ông bạn ra về, Bác không quên gửi mỗi người một gói kẹo cho các cháu nhỏ.
Bác thích làm việc chân tay, hai ngăn kéo dưới tủ áo là nơi để bộ đồ nghề. Đủ cả cưa gỗ, cưa sắt, kìm, búa, khoan mũi lớn nhỏ, v.v.. Mọi thứ đều được bảo quản dầu mỡ cẩn thận. Lúc rỗi rãi cần sửa gì Bác tự tay làm lấy. Anh em phục vụ sửa chữa vào mượn làm xong phải lau chùi sạch sẽ trả vào chỗ cũ. Ngày chủ nhật, anh em sửa xe đạp ngoài sân, Bác đứng xem thấy anh em lóng ngóng là làm giúp. Nhìn bàn tay Bác sử dụng đồ nghề thật ngon mắt. Bác có chiếc xe đạp Junior của Tiệp mua giá tự do 18 đồng78, dùng mười mấy năm vẫn như mới. Đi thăm Cung Thiếu nhi Hà nội, Bác dừng lại trong phòng học nghề, uốn nắn tư thế lao động cho các cháu vui vẻ đứng làm mẫu cho các cháu xem. Bác vẫn là công nhân.
Bác Tôn rất kiên trì rèn luyện thân thể. Đến 80 tuổi Bác vẫn từ chối không chịu để xoa bóp. Bác gọi đó là "kiểu Hoàng Cao Khải". Thể dục thường ngày của Bác là đi bộ. Từ bốn giờ sáng đi từ Trần Phú đến Cống Vọng. Có bữa gặp bộ đội đi tập buổi sáng, Bác bước kịp theo đoàn. Một dạo cứ mỗi sáng đi quanh sân Cột Cờ một tiếng. Thấy ra vào lính gác cứ đứng nghiêm chào, Bác trở về đi trong sân nhà. Đi bộ của Bác là đi toát mồ hôi chứ không phải là đi dạo. Ngày mưa Bác tập thể dục trong nhà với những động tác mạnh. Một hôm Hội đồng sức khỏe đến thăm, khuyên Bác không nên tập động tác uốn lưng ra sau, nó ảnh hưởng đến cột sống. Bác đứng dậy uốn lưng luôn mấy cái và cười nói động tác này Bác vẫn tập hằng ngày. Bác thích đi xe đạp: Bốn giờ đi một vòng Hồ Tây, về đến Trần Phú là năm giờ sáng, quãng đường hơn 15 kilômét. Cái thú nhất của Bác có lẽ là bơi trên biển. Sinh ra và lớn lên ở Cù lao Ông Hổ giữa sông Hậu mênh mông như biển, mọi người đều quen sông nước. Bác lại là thủy thủ trên tàu đại dương, hằng ngày phải luyện tập bơi lặn giữa biển khơi trong vòng lưới chống cá mập. Mỗi lần Bác ra tắm biển ở Đồ Sơn, Sầm Sơn, anh em bảo vệ phải vất vả bơi theo Bác. Bác lại hay đùa lặn lâu dưới nước. Lần cuối cùng Bác bơi là năm 1978, khi đã 90 tuổi, theo lời khuyên của bác sĩ mấy ngày Bác đã không bơi, chỉ từ bốn đến năm giờ sáng, áo lá79 quần đùi đi bộ trên bãi cát. Hôm đó, lúc quay về Bác đi ra mép nước, bước dần ra chỗ sâu rồi đột ngột lao xuống nước bơi ngụp. Cận vệ đi bên chỉ kịp bỏ súng ngắn lao theo Bác. Trên bãi biển sớm hôm đó có Đoàn chuyên gia Trung quốc và Cuba, được tận mắt thấy Chủ tịch Tôn Đức Thắng 90 tuổi bơi lặn trên biển.
Khác với Bác Hồ, Bác Tôn có gia đình và những năm tuổi già Bác được sống với gia đình, vui với con cháu. Tôi không quên được bữa đầu tôi đến bên Bác. Một ngày nghỉ, đầu mùa hè năm 1962. Bóng mát cây si ở góc sân, dưới mái nhà cầu, Bác Tôn quần cộc, áo lá đang nằm trên võng, cháu trai năm, sáu tuổi ngồi trên bụng, ông cháu đang vui đùa. Bác gái đang ngồi khâu chiếc áo cánh trắng. Chị Hạnh mang cho tôi cốc nước chanh đá pha mật ong. Tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu nói chuyện với hai Bác và những người trong gia đình thật ấm cúng.
Gia đình chị Hạnh, chị Nghiêm, vợ chồng đều là cán bộ trung, cao cấp. Chị Hạnh có một con trai, một con gái. Chị Nghiêm có ba con gái. Đều ở chung với Bác, mỗi gia đình ở một phòng diện tích không quá 20 mét vuông. Sau này chuyển xuống nhà số 22 - 24 phố Cao Bá Quát cũng vậy.
Ngôi nhà có hai phòng rộng hơn (38m2) hai chị nhất định nhường cho tôi vì gia đình tôi đông người hơn.
Thời bao cấp tem phiếu định lượng theo từng cấp. Sổ mua hàng của Chủ tịch nước thuộc loại gần như theo yêu cầu. Hết cho ghi, thay sổ. Nhưng sổ mua hàng của gia đình Bác Tôn mỗi năm chỉ một quyển mà nhiều trang còn bỏ trắng. Chỉ mua chè tiếp khách, kẹo bánh cho trẻ con, thỉnh thoảng cân đường, cân bột làm bánh ngọt biếu bạn già, chiếc bút máy Trung Quốc, cái xoong, cái chậu mừng anh nhân viên lấy vợ, hộp thuốc bổ Đông y cho người phục vụ có bố mẹ già khi đi phép.
Như mọi cán bộ, các con Bác Tôn phải tự lực. Chị Hạnh còn đỡ vất vả vì anh Phúc có phiếu B. Chị Nghiêm phải xếp hàng giờ để mua cân đường. Anh Trúc, Phó tiến sĩ, Chủ nhiệm khoa Đại học Y, khỏe mạnh chuyên đi xếp hàng từ thật sớm mua gạo, mua thực phẩm để kịp giờ đi làm.
Các cháu cũng vậy, không dựa vào ông ngoại. Một lần, đồng chí Lê Duẩn đến thăm Bác Tôn ở Đồ Sơn, thấy Bác đi nghỉ có một mình, anh bảo tôi: Bác có con cháu là bác sĩ có đứa con nhỏ ba, bốn tuổi, điều nó về để đi đâu có đứa cháu nhỏ cho vui. Tôi nói với Bác. Bác bảo nó phải làm việc của nó. Đi theo tôi sau này nó làm gì để sống.
Giải phóng miền Nam, năm cháu của Bác đều đã lớn. Ba cháu đã đi làm, hai cháu đang học đại học. Chỉ có cháu gái Hoài Nam sĩ quan quân đội nhân dịp nghỉ phép được cùng ông về thăm quê. Còn bốn cháu đến năm 1980 vẫn chưa có dịp vào miền Nam mặc dù ông đã năm lần vào trong đó bằng chuyên cơ.
Bác Tôn rất mừng là năm cháu đều học hành đến nơi đến chốn. Thằng cháu trai ngồi trên bụng ông năm nào, suốt những năm học phổ thông vào phòng ông lấy hết những bản tin Thông tấn xã Việt Nam ngồi vẽ súng ống, xe tăng, tàu bay tàu bò, v.v. nay đã là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam và là sĩ quan giỏi về kỹ thuật khí tài.
Nghĩ đến gia đình Bác Tôn không thể không nghĩ tới Bác Tôn gái, Bà Đoàn Thị Giàu. Bác thật xứng đáng là người Phụ nữ Việt Nam trung hậu, đảm đang... Thời thanh niên Bác đã giúp Bác trai nuôi bao nhiêu bạn bè, em út trong phong trào vận động công nhân... Chồng đi tù, Bác đã tần tảo, gian khổ nuôi hai người con gái lớn khôn. Sau Cách mạng Tháng Tám chồng con ra Bắc, Bác ở lại, ra bưng biền công tác. Thắng Pháp, Bác mới được sum họp gia đình. Ở tuổi ngoài 60 đáng ra phải được nghỉ ngơi, ở địa vị phu nhân rồi "đệ nhất phu nhân", Bác vẫn cần cù lao động. Có người nấu ăn, Bác vẫn tự tay là những món ăn miền Nam mà Bác trai thích như cá trê, cá lóc. Quần áo tự tay cắt khâu lấy, đường kiam mũi chỉ không khác gì máy. Quần áo tự tay giặt lấy. Năm 70 tuổi Bác còn tự giặt tấm ga trải giường. Chúng tôi học Bác cách giải tấm ga trải giường, vừa nhẹ nhàng vừa thật phẳng phiu. Bác trai cười bảo đó là nghề của Bà thời kỳ đi “làm mọi”. Hằng ngày Bác còn đọc sách báo, hướng dẫn các cháu nhỏ học. Ngày xưa Bác đã từng là cô giáo. Bác đọc đơn thuốc tiếng Pháp, phát âm rất chuẩn. Khi Bác bị tai biến mạch máu não lần thứ nhất mới phải có người giúp việc. Chị em nhân viên lao động ở Văn phòng rất ngại giúp việc gia đình riêng. Song với gia đình Bác Tôn thì khác. Chị Nguyễn Thị Liễn bị cảm xin nghỉ. Bác gái cầm hộp sữa bảo tôi: "Chị Liễn ốm, tôi không đến thăm được. Tôi nhờ đồng chí giúp. Bảo chị cứ nghỉ đến khi nào khỏe hãy đi làm". Hai hôm sau chị Liễn đến làm việc, Bác ân cần hỏi thăm sức khỏe...
Bác Tôn gái bao giờ cũng gọi tôi bằng đồng chí vì tôi là Bí thư chi bộ. Nhận tiền trợ cấp hằng tháng, Bác đều tìm gặp tôi đóng Đảng phí.
Cũng như khi ở với Bác Hồ, tôi không thấy Bác Tôn cáu gắt một lần nào. Những đồng chí ở Côn Đảo với Bác nhiều năm cũng nói Bác Tôn không cáu gắt, nói nặng hoặc to tiếng với ai bao giờ. Tôi nghe được câu chuyện: Năm 1946 trên đường ra Bắc vì Pháp đã chiếm đóng Nam Bộ nên phải đi thuyền bằng đường biển từ Cà Mau ra miền Trung. Tàu thuyền cũ kỹ, la bàn sộc sệch, Bác phải giúp chủ thuyền và trở thành người chỉ huy chính. Giữa biển khơi mênh mông sóng gió, chưa tìm được con đường chính xác. Thuyền đông mọi người đều lo lắng. Bác Tôn với chiếc la bàn trên tay, quan sát trời biển bàn bạc với anh em thủy thủ. Trên thuyền có vị phái viên Chính phủ (cũng xuất thân Trường Bách Nghệ thực hành Hà Nội, khi đó giữ cương vị khá cao trong Đảng) vốn tính nóng nảy, sốt ruột ông luôn luôn quát: “Làm án như trò trẻ con". Bác Tôn vẫn bình tĩnh tập trung làm công việc của mình. Cuối cùng thuyền cập bến ở Tung Hòa. Bác trả lại chiếc la bàn cho anh em và nói: “Tôi trả lại các anh cái trò trẻ con".
Những người giúp việc có sai sót gì Bác đều nhẹ nhàng chỉ bảo. Bác biết đến những cố gắng của anh em. Đồng chí Nguyễn Văn Chuân người Ninh Bình, cùng một số anh em đảng viên biết nghề nấu bếp được các tỉnh chọn lên Việt Bắc phục vụ Đại hội Đảng lần thứ II (năm 1951) .Khi về Hà Nội nấu ăn cho Bác nhiều năm rất tận tụy. Đồng chí Nguyễn Văn Mùi, người lái xe cho Bác Hồ 10 năm không sai sót, được sang phục vụ Bác Tôn từ cuối năm 1969. Sáng sớm chủ nhật Bác cũng thấy đồng chí Mùi có mặt. Bác bảo: "Biết mình không đi đâu mà ngày nghỉ cũng phải đến. Làm cái công việc "gò bó". Bác nhắc tôi phải bố trí cho anh em có ngày nghỉ. Nhìn thấy đồng chí Hà Huy Chế, cần vụ người Hà Tĩnh đang leo trên mái quét lá khô trong máng nước, Bác nói với anh em đứng bên: "Thằng Chế trông nhỏ con mà nó cặm cụi suốt ngày". Đồng chí Nguyễn Thị Liễn tận tụy giúp việc Bác gái khi bị bệnh nặng, Bác nói với chị: “Tôi không biết lấy gì cảm ơn chị". Bản thân tôi cũng nhiều lần được nghe Bác nói với các đồng chí đến thăm Bác: “Bây giờ anh này giúp tôi tất cả mọi việc". Bác rất yêu cháu nhỏ. Con cháu người ta cũng như con cháu mình Buổi tối từ khi truyền hình có chương trình thực nghiệm, các cháu con anh em phục vụ được ngồi xem với Bác.
Như thế, những anh em được phục vụ Bác, ai cũng cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Chúng tôi làm việc không chỉ là vì trách nhiệm mà là cả tấm lòng quý mến, tình cảm chân thành. Lo lắng lớn nhất của chúng tôi về sức khỏe của Bác là những bất ngờ xảy ra. Ở tuổi tám, chín mươi sao có thể tính hết mọi chuyện. Việc bố trí chăm sóc phải chu đáo tỉ mỉ. Canh gác trước sau do anh em công an vũ trang đảm nhận. Theo sát bên Bác đêm ngày là lực lượng cảnh vệ. Đêm Bác thức dậy mấy lần, Bác ho mấy tiếng, v.v. đều được anh em cảnh vệ ghi vào sổ trực của mình. Bác không muốn phiền mọi người nên đêm thường khóa chặt cửa phòng. Nhưng khóa cửa sau phòng rửa mặt đã bị tháo chốt, đèn ngủ đầu giường đã nối với đèn hành lang. Khi Bác bật đèn ngủ là canh vệ đã sẵn sàng bên Bác khi có sự cố. Song, tất cả kế hoạch chuẩn bị đều không phải thực hiện. Bác tự giữ sức khỏe rất tốt.
Giải phóng miền Nam, tôi nghĩ Bác và gia đình sẽ chuyển vào Nam, vì Bác Tôn sinh ra ở miền Nam, quê hương họ hàng nội ngoại đều sống ở miền Nam. Chúng tôi biết Bác rất ghét chủ nghĩa địa phương, cục bộ, phần biệt miền Nam, miền Bắc. Song cũng biết Bác luôn nghĩ tới miền Nam Bác tiếp đoàn miền Nam ra Bắc, gặp chia tay các chiến sĩ miền Bắc lên đường vào Nam làm nhiệm vụ đặc biệt. Trong phòng Bác treo bức ảnh chụp chung với Anh hùng dũng sĩ miền Nam. Vợ chồng bác sĩ Trần Nam Hưng, có họ với Bác gái, tuổi đã lớn, những năm 1960 đã đeo bám vượt Trường Sơn trở về Nam làm nhiệm vụ, hai người con gái có con nhỏ ở lại công tác tại Hà Nội. Qua thư từ, Bác khuyến khích, theo dõi cuộc hành trình cua vợ chồng bác sĩ Hưng, đi lại thăm nom các cháu, giúp đỡ giải quyết lúc khó khăn.
Cuối năm 1976, Bác vào công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh đến ngày giáp Tết Nguyên đán. Bao nhiêu năm không ăn Tết ở Sài Gòn, mọi người đều mời Bác ở lại, Bác không đồng ý. Đồng chí Hoàng Quốc Việt và Xuân Thủy sang thuyết phục Bác. Chuyện trò trong phòng lúc lâu, hai ông ra vui vẻ bảo chúng tôi: "Bác đồng ý rồi, các cậu thu xếp đón cả các cháu vào ăn Tết với Bác". Tôi rất mừng vì thật lòng cũng muốn biết cái Tết ở miền Nam. Tôi vào hỏi lại Bác Bác bảo mai ta ra Hà Nội, ở địa vị mình các ông ấy cũng không làm như thế.
Đồng chí Phạm Hùng là người đã cùng ở tù với Bác nhiều năm ở Côn Đảo. Những cuộc đấu tranh trong nhà tù, địch đánh đập dã man. Đồng chí Phạm Hùng và Bác Tôn là những người gan dạ nhất, thường vẫn lấy thân mình đỡ đòn cho anh em phần đông là thư sinh, trí thức. Tình cảm hai người sau này càng gắn bó. Đồng chí muốn Bác Tôn trở về Nam an dưỡng tuổi già. Đồng chí Nguyễn Quang Xiển phụ trách T.78 (Văn phòng Trung ương Đảng ở Thành phố Hồ Chí Minh) một hôm dẫn tôi đi thăm ngôi nhà đã chuẩn bị cho Bác. Đây là ngôi nhà một tầng thuộc khu biệt thự An Phú, nhà ở sát sông Sài Gòn gió mát lồng lộng. Anh em đã lát xong con đường quanh nhà để Bác tập thể dục hằng ngày. Đồng chí Xiển chỉ ba ngôi biệt thự dọc liền phía trong nói: “Đây là nhà chị Hạnh, chị Nghiêm, ông Lập". Tôi về mời Bác đi xem nhà, Bác bảo ta có ở trong này đâu mà đi xem. Bác không đi xem. Sau này tôi mới biết, trước đó đồng chí Phạm Hùng đã gọi cho anh Dương Văn Phúc, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng là chồng chị Hạnh (con rể Bác Tôn), đến giao nhiệm vụ: “Ông già tuổi đã cao cần chuyển vào Nam an dưỡng, sống thêm nhiều năm nữa. Cậu không được ngăn cản mà phải thuyết phục để ông cho chuyển cả gia đình vào trong đó". Anh Phúc về nói với Bác, Bác hỏi: “Sao? Đánh nhau không được vào Nam giờ hòa bình lại vào chiếm nhà à?”.
Năm 1978, Bác Tôn đã sang tuổi 90, Trung ương định xây ngôi nhà nghỉ cho Bác ở ngay Hà Nội. Địa điểm là khuôn viên chùa Trích Sài, phường Bưởi trên bờ Hồ Tây, cảnh vật thật đẹp, yên tĩnh mát mẻ. Nhà đã thiết kể vật liệu đã chuẩn bị sắp khởi công thì Bác biết. Bác gọi ông Nguyễn Việt Dũng, Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Chủ tịch sang hỏi: “Các anh định xây nhà cho tôi?" Ông Nguyễn Việt Dũng làm như không biết: “Không ạ. Cháu nghe như Phủ Thủ tướng định xây nhà khách ạ". Bác: “Thế là chuyện khác, còn nếu định xây nhà cho tôi thì để các anh ở" và Bác nói sang chuyện khác. Thế là kế hoạch bị vỡ.
Những món quà các đoàn quốc tế gửi tặng, Bác không giữ lại trong nhà thờ gì mà dùng biếu lại những nhân sĩ tiêu biểu trong Mặt trận. Ông đại diện Thiên Chúa giáo được Bác tặng tấm thảm len, vị đại diện Phật giáo được Bác tặng chiếc khay đồng trạm trổ. Các vị rất xúc động khi được Chủ tịch nước quan tâm.80
Tuổi cao, đất nước đã thống nhất, Bác muốn xin nghỉ.
Một lần vào Thành phố Hồ Chí Minh, Bác sang thăm đồng chí Lê Duẩn. Hai vị nói chuyện trong phòng trong. Một lát sau đồng chí Lê Duẩn ra gọi anh Việt Dũng và tôi vào bảo: “Các anh ngồi cả đây cùng nghe. Tôi xin nói với Bác. Bác nghĩ cũng là làm việc, làm việc cũng là nghỉ ngơi, xin Bác đứng đằng trước cho chúng tôi làm. Hiện nay đất nước vẫn đang rất cần có Bác”. Và đồng chí quay bảo chúng tôi hãy chăm sóc tốt sức khỏe cho Bác.
Khi nhận nhiệm vụ Bác luôn lo làm tròn. Ở tuổi 90 Bác vẫn phải phát biểu trước công chúng, tiếp khách quốc tế. Làm những việc tưởng như đơn giản đó song bao giờ Bác cũng chuẩn bị thật chu đáo, vì thế chưa bao giờ để xảy ra sơ suất, sai sót nhỏ. Thời kỳ đó ngoại giao của ta chưa mở rộng. Đại sứ các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc chủ nghĩa được Bác tiếp đều có chung ấn tượng rất tốt: Cởi mở, chân tình.
Bác Tôn được mọi người quý mến. Các đồng chí chủ chốt của Đảng thường đến thăm và thông báo những việc cần thiết với Bác. Sáng mồng một Tết năm nào đồng chí Võ Nguyên Giáp cũng đến mừng tuổi Bác. Anh Văn bảo tôi: “Tết mình không đi đâu, đến Bác rồi sang thắp hương bên Bác Hồ".
Người bạn tâm đắc của Bác Tôn trong những năm cuối là Phó Chủ tịch Nguyễn Lương Bằng - Anh Cả, cái tên được anh em đồng chí suy tôn từ thời kỳ Đảng còn trứng nước và được dùng suốt cả sau này vì phẩm chất cách mạng cao quý của Anh. Có lần đồng chí Trường Chinh nói với tôi: "Cũng là học trò của Bác Hồ. Nhưng Anh Cả học ở Bác nhiều hơn “chúng tôi". Đồng chí Nguyễn Lương Bằng lo mọi việc của Phủ Chủ tịch và bao giờ cũng giữ đúng vị trí người trợ giúp Chủ tịch. Hai vị hợp nhau nhiều mặt, thường ngồi đàm đạo. Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, mọi người vui mừng vô hạn. Hai vị càng vui mừng. Tôi nghe hai vị tâm sự: Trước thắng lợi to lớn này cần đề phòng chủ quan, dễ mắc sai lầm lớn.
Đầu năm 1979, sức khỏe của Anh Cả giảm sút nhanh, Bác Tôn đi lại thăm nom và cho tôi hằng ngày đến nhà dự những cuộc hội chẩn của Hội đồng sức khỏe về báo cáo lại Bác. Trước khi vào bệnh viện lần cuối, Anh Cả nói chuyện với tôi khá lâu như dặn dò: Con đường cách mạng gian khổ, quanh co, khúc khuỷu, khi lên khi xuống, không bao giờ được để mất lòng tin ở thắng lợi cuối cùng. Bác Tôn là người rất đáng quý, hãy hết lòng chăm sóc Bác. Anh Cả qua đời ngày 20-7-1979.
Anh Cả mất, nỗi xúc động lớn ở Bác Tôn. Bệnh u sơ tiền liệt tuyến ở Bác lâu nay ổn định bỗng bùng phát. Bị bí tiểu tiện, ngày 13-8-1979 phải đưa vào cấp cứu ở Quân y viện 108. Tuổi Bác cao sợ không chịu nổi ca phẫu thuật lớn, mà đất nước vừa chịu một quốc tang nên Hội đồng sức khỏe không dám mổ, chỉ dẫn lưu để giữ Bác lại. Bác cố gắng phấn đấu chống bệnh tật. Bảy tháng trời nằm viện, Bác vẫn đi bộ hằng ngày quanh hành lang bệnh viện. Sang năm 1980, bệnh không thuyên chuyển, sức khỏe kém thêm. Trong lúc lơ mơ, Bác nhớ nhiều về quê hương. Bác bảo bố trí cho Bác về Long Xuyên. Bác nói: "Long Xuyên là nơi tôi sinh ra và lớn lên. Tôi rất nhớ Long Xuyên". Các đồng chí lãnh đạo Đảng luôn vào thăm Bác nhắc lại những kỷ niệm xưa. Đồng chí Lê Duẩn kể lại: "Tôi không bao giờ quên Bác - lần thứ nhất khi tôi ở Côn Đảo trở về, Bác có mấy chục đồng bạc dành dụm được, đưa cả cho tôi để về đất liền hoạt động".
Buổi đi bộ hôm 23-3-1980, ra đến cuối hành lang, Bác không quay lại mà bước thẳng xuống cầu thang gác. Anh em đi kèm hai bên không giữ lại được. Xuống dưới nhà, Bác bước ra sân và đi ra phía trước. Các bệnh binh ở dãy ngoài trông thấy Bác, gọi nhau chạy ra vỗ tay chào Bác. Bác giơ tay chào rồi quay lại. Đến cầu thang Bác không bước lên được mà phải ngồi ghế chuyển lên. Từ buổi đó, bệnh Bác trầm trọng hẳn.
Những lúc áp huyết tụt, truyền thuốc lại qua được. Không lấy được tĩnh mạch ở tay chân, phải lấy ven đòn vai rất đau đớn. Chúng tôi và cả gia đình cũng không chịu nổi. Nhưng ai dám ra lệnh cắt thuốc. Năm trước khi Bác gái đau nặng, biết không qua khỏi, với người bạn đời vô cùng yêu quý, Bác đã đề nghị cắt thuốc để khỏi kéo dài đau đớn vô ích.
Sáng ngày 29-3-1980, đồng chí Lê Duẩn vào thăm Bác.
Thấy bệnh tình Bác như vậy không cầm nổi xúc động...
Quá nửa đêm ngày 29-3, áp huyết của Bác lại tụt và Bác ra đi lúc 6 giờ 35 phút ngày 30-3-1980.
Bác Tôn đi rất thanh thản. Mọi chuyện Bác đã sắp xếp xong từ lâu. Nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt - mọi thứ Nhà nước cung cấp đều trả lại Nhà nước. Con cháu là cán bộ nhà nước hưởng theo chế độ chung không chờ ưu tiên, ưu đãi.
Bác Tôn Đức Thắng, người công nhân số 1, đã trọn đời cống hiến cho dân, cho nước suốt đời một phong cách công nhân trong sáng, cao đẹp biết bao.
NHỮNG NGÀY TÔI LÀM THẦY THUỐC RIÊNG CHO BÁC TÔN
(Trích)
TRẦN HỮU NGHIỆP81
… Thứ trưởng Phạm Ngọc Thạch tự lái xe đưa tôi đi ăn sáng. Và trước khi đi lên Bệnh viện A làm việc, anh dặn tôi đến Văn phòng Bộ lấy giấy giới thiệu đi may áo quần mới, đóng giày. Tôi được cử làm thầy thuốc riêng, tùy tùng cho Bác Tôn sang Đức chúc thọ Chủ tịch Vin Hempích tròn 80 tuổi rồi về Liên Xô nhận Giải thưởng Hòa bình Lênin mà Bác Tôn vừa được tặng. Thật là khoái chí tử! Đáp ứng mong ước của tôi là trở lại thăm châu Âu sau 16 năm, từ lúc về nước hành nghề và cũng để xem sau Chiến tranh thế giới có gì mới. Tuy nhiên, tôi cũng đẩy đưa vài lời lấy lệ:
- Tôi chưa phải đảng viên, cũng chẳng phải bác sĩ được phân công theo dõi sức khỏe Bác Tôn. Làm vậy anh em khác có thắc mắc không?
Bác sĩ Thạch liền trợn mắt, “mày tao" với tôi ngay:
- Đừng có dở trò mại hơi! Quen nhau lâu trước ngày đi kháng chiến, tao biết rõ tẩy của tụi mày mà! Nếu để tao quyết định thì mày còn đi cải cách mút mùa mới rửa sạch được cái nợ đã sống quá sung sướng trước Cách mạng Tháng Tám. Nhưng tao phải thi hành lệnh của Cụ Hồ, theo đề nghị cụ thể của Bác Tôn. Bác sĩ theo dõi sức khoẻ hai Cụ chính là tao. Nói cho mày biết, Bác Tôn chẳng có bệnh tật gì cả, còn rất khỏe. Cử mày đi theo Bác Tôn, nhiệm vụ Bộ giao chỉ có hai việc: Tránh nhiễm lạnh cho Bác và can Bác nhậu ít thôi. Rõ chưa cha nội?
- Vâng, nếu đấy là lệnh của tổ chức thì tôi xin triệt để chấp hành.
Bỗng nhiên tôi nhớ lại chuyện cũ ở thị xã Mỹ Tho 10 năm về trước, khi tôi còn làm bác sĩ có phòng mạch tư ở đó.
Cuối tháng 9-1945, Sài Gòn đã lao vào cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng thành phố Mỹ Tho vẫn còn trong cảnh thanh bình. Cũng như mọi người hằng ngày đọc bản tin "Ta thắng, địch thua", phía Nam Sài Gòn có Đệ tam Sư đoàn oai hùng của Nguyễn Hòa Hiệp trấn giữ, chưa kể một sư đoàn - theo tin đồn - dàn sẵn ở Bến Lức, Gò Đen, làm sao giặc Pháp dám kéo xuống. Nào ngờ, về sau chúng tôi phải rút bởi giặc đánh úp theo đường sông Tiền.
Một buổi sáng, anh Ba Nguyễn Văn Tiếp, Chủ tịch tỉnh đến nói với tôi:
- Có anh Hai Thắng là bạn chí thân của tôi về đây, nhà anh rộng, cho tôi gửi ở đậu ít bữa và xem anh Hai có bệnh gì thì chữa luôn thể.
Tôi dành cho Bác Tôn một buồng, sáng Bác đi sớm sau điểm tâm, chiều mới về với tôi và ngủ. Khám qua sức khỏe, thấy chẳng có vấn đề gì phải lo, tôi chỉ tranh thủ chích cho Bác mấy ống campolon, thuốc bổ rất hiếm thời ấy. Chiều chiều, Bác Tôn cùng tôi lai rai lave với khô mực hay nem chua, trước khi cầm đũa. Đâu độ một tuần, Bác ra đi luôn do có người đến đón. Tất nhiên là, dù tôi còn làm tư, ai lại đả động tới chuyện tiền bạc ở trường hợp này, xem kỳ cục quá!
Đề nghị cho tôi đi "Tây" cùng Bác khi tôi vừa ở chiến trường Nam Bộ ra Hà Nội! Rõ ràng sau 10 năm, Bác Tôn ăn nhớ tốt. Câu chuyện này đủ minh họa rằng, trong suốt cuộc đời hành nghề bác sĩ dài nửa thế kỷ, chưa bao giờ tôi gặp một "thân chủ” nào thù lao cực kỳ hậu hĩ đến như thế, kể cả các tỉ phú Âu châu đối với những danh sư lừng lẫy tiếng tăm!
*
* *
Thời ấy, đi Tây phải theo con đường xe lửa đến Bắc Kinh trước, rồi đổi tàu. Tổ chức mua vé cho Bác Tôn trọn một cabin, đáng lẽ dành cho 4 người nằm thành hai tầng. Chúng tôi, những người theo phục vụ, ngoài tôi còn có phiên dịch tiếng Đức (là một người Đức, lính lê dương sang hàng ngũ ta từ năm 1946 và có vợ Việt Nam), tiếng Nga và thư ký riêng của Bác Tôn. Tuy nhiên, suốt trên các đoạn đường, Bác Tôn bảo tôi qua nằm chung cabin cho vui, để tôi kể chuyện Nam Bộ thời chống Pháp đủ loại vui, buồn, gồm cả tiếu lâm, Tam quốc, Đông Chu và tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, theo trí nhớ...
Mấy ngày lưu ở Bắc Kinh, Bác Tôn là khách của Thị trưởng Bành Chân kiêm Phó Chủ tịch Quốc hội. Tại Khách sạn quốc tế gần Thiên An Môn, bạn dành cho Bác ba buồng, gồm cả phòng khách và phòng làm việc. Tôi là kẻ “ăn theo" sát nhất, với tư cách là bác sĩ riêng của Bác Tôn, có riêng một phòng có bày đủ nho, lê, táo, thuốc hút, trà "Thiết Quan Âm"...
Thời Tam quốc ở bên Tàu, khi Quan Công phò nhị tẩu qua Hứa Đô, Tào Tháo muốn mua chuộc “Ông” nên xử sự cực kỳ lịch sự, "Năm ngày bày đặt yến, ba bữa lại tiểu yến". Tôi "phò" Bác Tôn đi Bắc Kinh còn sướng hơn Vân Trường nhiều, bởi ngoài yến tiệc linh đình, thời xưa "Ông” phải cưỡi ngựa xích thố đi rong phố, còn tôi ngồi xe hơi Mécxêđéc êm như ru, xem kinh kịch, việt kịch và nghệ sĩ Mai Lan Phương biểu diễn kinh kịch. Có lần dự tiệc trưa trên Vạn Lý Trường Thành, thời Quan công đã có nhưng “Ông” chưa hề được đến bao giờ.
Hồi còn nhỏ đọc truyện Càn Long du Giang Nam tôi từng nghe kể đến những món ăn đặc sản của Trung Hoa, mang nhiều tên hấp dẫn lạ lùng. Vua cải trang thành anh lái buôn Cao Thiện Tứ, vi hành cùng con nuôi Châu Nhật Thanh đi khắp nơi, đã mấy phen choảng nhau với bọn cường hào địa phương do giành giựt nhau ăn trước các món ăn ấy ở cao lâu. Nếu không có thần linh kịp đi gọi người đến cứu giá chắc vua Càn Long đã khó thoát khỏi cái chết. Giờ đây, nhờ núp theo Bác Tôn, các món ăn lịch sự, mà tên được phiên dịch đọc ra từ thực đơn mỗi bữa, lần lượt diễu hành trước mặt tôi, tha hồ mà húp, nếm, kể ra không xuể: Ví dụ, cái món "Bách điểu quy sào" (trăm con chim quay đầu về ổ), nó như thế nào? Đó là một đĩa to gồm đúng một trăm đầu con chim sẻ rôti từ cổ trở lên, đồng hướng mỏ về ổ mẹ. Ổ chim kết bằng củ cải trắng băm nhỏ, ở giữa có một đống “trứng chim" làm bằng dưa củ kiệu gọt thật tròn! Cái món “Nam hải long hổ hội" lúc bưng lên mới hay chỉ là canh thỏ hầm. Các bạn mê Đường thi hẳn là nhớ câu "bồ đào mỹ tửu dạ quan bôi” và tưởng tượng ra thứ rượu gì cao quý lắm, bồ đào là nho và mỹ tửu ấy thua xa các loại mác chát đỏ danh tiếng của Pháp bán ở Sài Gòn ngày trước.
Làm khách của Bành Chân được một tuần lễ, tôi lại tháp tùng Bác Tôn lên xe lửa đi Liên Xô. Thời ấy chặng đường đi Bắc Kinh - Mátxcơva phải đi hết chín ngày. Ở biên giới chuyển xa từ đường ray hẹp một thước hai sang một thước tư. Lòng chúng tôi sung sướng tràn ngập khi đi khỏi thị trấn Mãn Châu Lý của Trung Quốc, đọc hàng chữ to trên bảng rộng "Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết kính chào và chúc sức khỏe các bạn". Lần đầu tôi đứng trên đất nước Lênin. Một tuần lễ dài trên xe, hết ăn lại nằm, bên ngoài là tuyết phủ trùng trùng, rừng thông điệp điệp, xen lẫn bạch dương trụi lá. Phải hàng trăm cây số mới có một nhà ga mà khách đi xe rất ngại xuống, bởi phải chuẩn bị kỹ mũ, áo rét để từ 20 độ dương trong toa xe bước ra gặp 20 độ âm.
Bác Tôn nói vắn tắt ý kiến rồi bảo tôi dựa vào đó mà viết sẵn một bài đáp từ bằng tiếng Pháp nhỡ có ai ra đón và đọc lời chào mừng, ta khỏi bị động sau đó đưa văn bản cho bạn sử dụng nếu họ cần. Do việc ấy, tôi biết Bác Tôn còn nắm rất vững tiếng Pháp sau những năm tù ở Côn Đảo. Bác đã "sửa lưng" tôi, một tú tài Tây từng viết luận án y khoa bằng tiếng "mẫu quốc", ở nhiều chỗ dùng không chính xác. Ví dụ, tôi dịch câu “Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình" là "aimant la paix" thì Bác gạch bỏ từ aimant la thay bằng từ “épris de paix". Thấy tôi ngượng quá, Bác an ủi: "Tại anh ít đọc báo chính trị đó thôi. Ngôn ngữ chính trị khác hơn nói chuyện".
*
* *
Đến Thủ đô Mátxcơva 10 giờ tối chủ nhật. Trong chuyến này, Bác Tôn chỉ là khách mượn đường đi Béclin, cho nên không có cuộc đón tiếp chính thức Trung ương Đảng bạn xem Bác như người trong gia đình đi xa về! Ngay buổi tiếp xúc đầu tiên, hai đồng chí Ủy viên Trung ương ra đón Bác tại sân ga đã tỏ ngay tình cảm giản dị mà đậm đà. Không có diễn văn, thiếu nữ dâng hoa gì cả. Sau khi ôm hôn thắm thiết Bác Tôn, một đồng chí nói qua phiên dịch: "Biết hôm nay đồng chí đến và ở Việt Nam ai cũng thích ăn cá hơn thịt nên suốt ngày tôi đã đục băng ngồi câu cá giữa sông, tóm được mấy con béo lắm. Tôi đã giao cho bà quản gia, đồng chí muốn ăn cách nào thì bảo đầu bếp nấu”. Ai cũng biết, ở châu Âu, giữa mùa rét cá thịt treo ngoài cửa sổ không bao giờ ươn.
Chúng tôi được bố trí ở một biệt thự riêng của tổ chức Đảng. Bà quản gia là một đồng chí tóc bạc trắng, ngày xưa từng phục vụ cho Lênin, theo bà nói lại. Sau khi dùng cùng chúng tôi cơm tối, các Ủy viên Trung ương ra về, để lại một cán bộ tổ chức tên là Pôpốp, nói được tiếng Pháp, để luôn theo phục vụ Bác Tôn. Họ nói: "Chúng tôi có nấu bếp, nhưng các anh muốn ăn theo Việt Nam thì tự nấu”.
Sáng hôm sau, khách đến gõ cửa xin gặp Bác Tôn, đầu tiên là anh thợ cắt tóc, xách theo túi đồ nhỏ đựng dao kéo, tôngđơ; tiếp đó là bác thợ may, đề nghị cho kiểm tra lại quần áo xem đã đủ và bao đảm chống rét chưa; cuối cùng là hai nữ bác sĩ... Dù tôi được giới thiệu là thầy thuốc riêng của Bác Tôn, họ cứ lờ đi mà lo đi đo huyết áp, nghe tim phổi, làm điện tâm đồ, và làm các xét nghiệm khác.
Sau những ngày ăn cơm Tàu, rồi lại ăn cơm Tây trên xe lửa, suy bụng ta ra bụng người, tôi nghĩ Bác Tôn cũng muốn dùng cơm ta. Trong nhà bếp của biệt thự có đủ các nguyên liệu cần thiết: Gạo, rau, củ hành, dấm... Cô gái Nga tuy tốt nghiệp đại học nấu ăn cũng trố mắt ra nhìn tôi thao diễn món ăn Việt Nam, rồi nồi canh chua cá măng với cà chua và dấm. Thay cho mắm, tôi chế biến bằng trứng cá đen (cavia). Thật vui sướng khi Bác Tôn ăn cho là ngon miệng, khen tôi khéo tay và dồi dào sáng kiến! Ôi, Bác sẽ còn vui biết bao nhiêu, nếu biết rằng sau nhiều năm kháng chiến ở Nam Bộ, tôi phải tự lo sắm để công tác tốt với hai giạ lúa và một cân muối hàng tháng như mọi anh em khác thời ấy. Tôi đã thông thạo thêm nhiều nghề mà chưa hề được ai dạy ở trường đại học nào, nào phải chỉ có kỹ thuật nấu ăn mà còn nuôi heo, chèo xuồng, xay lúa, giã gạo, bửa củi, cắm câu, v v.. Về sau, thời kỳ chống Mỹ ở R, tài nghệ ấy còn được bổ túc thêm bằng cách biết bẫy cheo, bắn khỉ, tát suối, phát hiện măng tre, măng le trước khi mọc lên khỏi mặt đất mà gây ra sự chú ý của người khác.
Tổ chức Đảng ở Liên Xô đã giữ Bác Tôn lại để đón Nôen năm 1955, bởi sinh nhật Chủ tịch Vin Hempích là ngày 3 tháng giêng năm 1956. Tất nhiên là trong những ngày ở Mátxcơva rất ấm cúng, khỏi nghi lễ gì cả, lúc nào bạn cũng sắp xếp cho đi xem nơi này nơi nọ. Trước nhất là viếng Lăng Lênin, Cung điện Kremli, nơi làm việc của Lênin, v.v. nơi Người sống những ngày cuối cùng ở làng Góocki, ngoại ô phía Nam thành phố. Bác lặng lẽ đứng trước giường nằm, trên tường treo tấm lịch ghi ngày 21-1-1924, đồng hồ kim dừng lại tại 18 giờ 50 phút, tuyển tập Giăc Lơnđơn mà Cụ bà đang đọc cho Người nghe ở truyện Tình yêu và cuộc sống. Có lẽ Bác đang nhớ tới Bác gái ở nhà đã chung thủy với Bác cũng như thế! Bạn còn mời xem vũ kịch, xiếc với các diễn viên nổi danh khắp thế giới như nghệ sĩ Ulanôva và vua hề Pôpôp. Chúng tôi nhớ mãi Bác Tôn rất tâm lý và đầy lòng nhân hậu. Khi tuyết rơi quá dày, bên ngoài quá lạnh, Cụ ở nhà nhưng lại đề nghị bạn cứ đưa anh em chúng tôi đi chơi Bác nói: "Dễ gì có dịp sang đây, lại có sẵn xe hơi và vé mời chỗ tốt trong rạp, có sức thì cứ đi".
Sau đêm Nôen hết sức thân tình với vài đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Bác Tôn lên xe lửa đi Béclin (ngày 27-12). Xe lửa đổi từ đường rộng sang hẹp hơn tại Bretx để đi Ba Lan. Cảm động xiết bao, khi đi ngang Thủ đô Vácsava vào lúc 11 giờ đêm, trời rất lạnh và đang có tuyết rơi mà đã sẵn một số người chờ đón Bác: Các Ủy viên đoàn Chủ tịch Quốc hội và nhiều Ủy viên Trung ương Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan. Hầu hết người ra đón Bác đều nói thạo tiếng Pháp, nên cuộc tiếp xúc chủ và khách vô cùng thoải mái vì không phải phiên dịch. Một tiệc rượu đã dọn sẵn trong phòng khách nhà ga. Đoàn xe lửa Vácsava chậm mất nửa giờ sau mấy đợt còi thúc hối inh ỏi nhưng không dám lăn bánh. Những lời đáp từ tôi viết sẵn không được dùng, bởi khi cuộc gặp gỡ diễn ra chân tình, cởi mở từ cái bắt tay đầu tiên, không có ai trịnh trọng giấy tờ gì cả.
*
* *
Qua sông Ôđe, vào lãnh thổ nước Cộng hòa dân chủ Đức, Bác Tôn trở thành quốc khách. Ngay từ ga đầu tiên ở biên giới, đã có hai đại diện cho Đảng và Mặt trận dân tộc Đức đến đón cùng đi chung về Thủ đô Béclin. Chúng tôi đón Giao thừa tại Nhà khách Chính phủ, sau khi dự một buổi ca vũ nhạc mừng năm mới 1956 và đoàn thiếu nhi tặng hoa chúc thọ Bác Tôn. Theo tục lệ nước này, ngày mồng một ăn toàn cá chép luộc và chiên với món canh quý nhất là súp rùa nhập từ Nam Mỹ. Tiếc rằng không ai mời tôi nấu ăn nữa khi đã "đổi chất” thành khách Chính phủ. Tổ chức ở đây vô cùng chu đáo. Trong buồng ngủ, ngoài vật dụng hằng ngày như xà bông, dầu thơm, dao cạo... họ còn có đồ cắt móng tay và dây giày để thay.
Hai hôm sau, buổi lễ chính thức chúc thọ 80 tuổi Chủ tịch Vin Hempích diễn ra trọng thể tại một hội trường gần cổng lớn phân chia Đông - Tây Béclin. Trừ Thống chế Vôrôsilốp thay mặt cho Liên Xô và Chu Đức thay mặt cho Trung Quốc, đại biểu các nước khác phải thu xếp nói trong 10 phút trở lại vì buổi lễ không kéo dài quá 3 giờ. Bài Bác Tôn đọc bằng tiếng Việt, gọn và súc tích nhưng rất chậm rãi. Các đại biểu nghe trực tiếp bằng tiếng nước họ bằng ống nghe thông qua phiên dịch ở hội trường. Tôi biết trước điều này, bởi Bác Tôn có lần dặn tôi: "Khi anh nói cho người ta dịch, phải hết sức chậm rãi và gọn ý. Phải nhớ tiếng Việt đơn âm, còn tiếng các nước châu Âu thì đa âm. Ví dụ, tiếng bạn diễn ra tiếng Pháp là a-ni (hai âm)". Tiếc thay, cho tới ngày nay khối cán bộ khi ra nước ngoài vẫn chưa biết điều kỵ này, tỏ vẻ hùng biện, phát biểu như gió cuốn, rốt cuộc thiệt cho mình, bởi phiên dịch chỉ tóm tắt mà bỏ rơi ý chính. Tôi muốn nhắc lại đây lời Bác Tôn thuở ấy mà tôi còn nhớ mãi.
Sau ngày lễ, các bạn Đức còn mời Bác Tôn ở lại trọn ba tuần lễ, cùng các lãnh tụ bạn đặt tràng hoa lên mộ Các Lepnich nhân dịp kỷ niệm ngày hy sinh vị lãnh tụ anh hùng của giai cấp công nhân Đức đầu thế kỷ XX; Bác và cả đoàn được bạn đưa đi thăm nhiều nơi, nhiều thành phố khắp đất nước Đức, đặc biệt dừng lại ở các thành phố mà phong trào ủng hộ Việt Nam mạnh nhất như thành phố Các Mácstac. Ở Đrétđen, chúng tôi vào thăm trường dành cho các thiếu nhi Việt Nam ở ngoại ô. Học sinh ở trường hầu hết là các cháu cha mẹ còn lại ở miền Nam hay là con liệt sĩ. Tại Trại giam Bukenvan - trại tập trung giết người khét tiếng của phátxít Hítle trước kia - nơi lãnh tụ Tenlơman bị giết, chúng tôi tham quan lò thiêu người, viện bảo tàng trưng bày vô số vật dụng gia đình và trang sức làm bằng da người! Ấn tượng rùng rợn mang theo trong một buổi xế chiều từ trại tập trung giết người phátxít rộng mấy mẫu chỉ vơi đi khi chúng tôi được đón tiếp niềm nở tại thành phố Vâyma gần đó, tối đến xem biểu diễn nhạc kịch sau buổi cơm chiêu đãi. Đây là một thành phố cổ kính, có thời từng là Thủ đô nước Đức, với nhiều di tích lịch sử. Được ngắm các lâu đài hàng trăm năm tuổi xây bằng đá xám xịt với đủ thứ tượng người đội tuyết trắng long lanh mới cảm thụ được cái mỹ lệ của kiến trúc cổ!
Tất nhiên, như mọi khách từ xa đến, chúng tôi xuống hầm ngôi mộ chôn Gớt (Goethe) và bạn thân là thi sĩ Sile (Schiller). Bên ngoài âm u trời đất nhưng ở đây ấm và ánh sáng chan hòa. Anh bạn Đức hướng dẫn đoàn chỉ ngọn đèn trên ngôi mộ nhà đại văn hào và nói cho biết bất cứ lúc nào, trong hoàn cảnh nào, ngọn đèn này không bao giờ tắt. Rồi anh kể cho chúng tôi nghe một đêm đông năm 1882, khi thi hào Gớt 83 tuổi hấp hối trên giường, đã luôn miệng kêu gào: "Hãy đem tới cho ta ánh sáng, nhiều ánh sáng hơn nữa”.
Buổi thăm viếng này về sau tôi nhớ mãi. Không phải vì uy vũ của người nằm trong mộ (bởi lẽ, thời đi học, tôi cũng đã từng viếng mộ Napôlêông, đồn Patrêông ở Pháp, mộ xây bằng vàng nén của hàng chục giáo hoàng ở Vaticăng, thập tam lăng, của các vua nhà Minh...) mà bởi một lời bình của Bác Tôn. Trên đường về khách sạn, Bác hỏi:
- Anh làm bác sĩ, giải thích tại sao người sắp chết cứ đòi ánh sáng?
Tôi chịu "bí", vì không có sách y học nào nói tới. Tôi trả lời:
- Đây là trường hợp cá biệt của một đại văn hào, một triết gia lớn, một trí thức uyên thâm nhất ở Âu châu thời ấy. Suốt đời, qua bao nhiêu tác phẩm để lại, ta thấy ông đi tìm hiểu ý nghĩa của cuộc đời làm sao để vươn tới chân - thiện - mỹ, nhưng cuối cùng không tìm được lối ra cho suy tư.
Bác Tôn có dáng trầm ngâm suy nghĩ, rồi vỗ vai tôi nói:
- Trí thức dù lớn đến cỡ nào, học vấn uyên thâm quảng đại bao nhiêu mà chưa được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, thì mãi mãi vẫn mò đi trong đêm tối!
Câu nói giản dị ấy đã lưu lại ký ức tôi một vết hằn sâu sắc. Về sau, trong đời làm thầy thuốc ở R. tôi không muốn cho những tấm lòng cao cả vì dân vì nước, những đại trí thức của thời đại Bác Hồ và Bác Tôn, vĩnh biệt chúng ta trong bóng tối. Đêm 11-1968, người Bộ trưởng kính mến của chúng tôi - bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - vừa trở lại Nam Bộ ba tháng trước đó để nắm bắt tình hình sau Tết Mậu Thân, đã hấp hối trong một túp lều giữa rừng dày của huyện Tân Biên (Tây Ninh) sau một căn bệnh cực kỳ hiểm nghèo. Rồi đến tháng 4-1972, ở Bệnh viện quân - dân - y Sóc Chùa trong một khu rừng đất bạn, kỹ sư Cao Văn Bổn, Bộ trưởng Kinh tế - Tài chính trong Chính phủ Cách mạng lâm thời, thở những nhịp cuối cùng sau một thời gian mắc chứng ung thư phổi. Nếu hồi ký này được các anh em y sĩ y tá ở buổi trực đêm ấy đọc, thì xem đây là lời cảm ơn của tôi, các em đã ngoan ngoãn chạy tìm tập trung tất cả các đèn bão lại, đốt làm sáng lên cả một góc rừng, mà chúng thắc mắc tìm hiểu lý do bởi máy bay Mỹ đến thình lình làm sao tắt kịp... Do tìm ánh sáng cho đất nước, cho đồng bào, mà các anh đã lìa bỏ gia đình ở chốn thị thành và cảnh giàu sang. Không có ai là người thân trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Tôi muốn tiễn các anh ra đi trong ánh sáng, như Gớt đã đòi hỏi ngày xưa!
Từ Hà Nội, lúc ra đi, đoàn đã chuẩn bị quà lưu niệm cho các nhân viên của bạn phục vụ mình. Bác Tôn căn dặn không nên để quên sót một ai. Mà nào có tốn hao gì cho lắm đâu! Cứ tập theo thơ Lục Vân Tiên của Cụ Đồ Chiểu thì "Trai thời mành trúc làm đầu; Gái có bướm bạc làm câu lưu tình!". Mành trúc có hình tháp rùa, Chùa Một Cột, cậu bé cưỡi trâu bên bụi tre, v.v. chỉ có ba hào thôi. Bướm bạc đắt tiền hơn - hai đồng - tặng các chị cài trước áo hay ghim vào tóc. Những cái hôn lúc chia tay thì chia đều cho các nam nữ già trẻ như nhau. Ấy thế mà các bà, các chị đều rướm lệ khi đoàn xe ra về nước.
Sắp hết tháng 1-1956, gần Tết bên nhà. Sau khi các giáo sư Đức khám lại sức khỏe toàn diện tại Bệnh viện Chính phủ, họ đồng ý cho Bác sử dụng máy bay không có trở ngại gì. Thế là một chuyên cơ của bạn đưa đoàn đi Mátxcơva vào một buổi sáng, tuy rét nhưng thời tiết rất đẹp.
Trở lại Thủ đô của Liên Xô lần này, Bác Tôn là khách của Ủy ban Bảo vệ Hòa bình Thế giới đến nhận giải thưởng. Cuộc đón tiếp ở sân bay khác hẳn lần trước, với đầy đủ nghi lễ tiếp tân, có thiếu nữ tặng hoa. Nơi cư trú là Nhà khách Chính phủ Khách sạn Saviétcaia. Bạn dành cho Bác Tôn hai buồng rộng, có tivi, điện thoại. Xuống phòng ăn, gặp nhiều đoàn ngoại giao nước bạn cũng như các nước đế quốc, nên không còn tự do thoải mái bông đùa như lần trước ở nhà riêng của Đảng với bà cụ đảng viên già gọi Bác Tôn là đồng chí và nói với chúng tôi thân mật như người nhà "Bọn mày cần gì, muốn ăn gì thêm, cứ nói với tao" .
Lễ trao Giải thưởng Lênin tổ chức trọng thể trong Điện Kremli, có diễn văn nêu công lao đóng góp của Bác Tôn trong phong trào Hòa bình, từ ngày còn là lính trên tàu đế quốc ở Biển Đen. Và tất nhiên, Bác Tôn có lời đáp cảm ơn các bạn bè quốc tế. Sau cuộc chiêu đãi của Ban tổ chức cuộc lễ, Bác Tôn với tư cách Trưởng đoàn Quốc hội Việt Nam đến chào Nguyên soái Vôrôsilốp, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô. Hai cụ đã quen nhau, đã nói chuyện với nhau vài lần khi ở Đức.
Thời gian lưu lại Mátxcơva chỉ có ba ngày, chúng tôi đi các cửa hàng bách hóa để sử dụng món tiền 100 rúp, (l.000 rúp cũ) bạn mới tặng cho mỗi đoàn viên. Theo lời khuyên của sứ quán từ trước, để giữ thể diện quốc gia chỉ nên mua mỹ nghệ phẩm kỷ niệm, nên tôi chỉ mua một đồng hồ báo thức, nước hoa cho vợ, búp bê cho con, nho khô và thuốc lá cho bạn... Tư tưởng mang về đồ nặng như đầu máy may, tủ lạnh, tivi, v.v.. thời ấy chưa có ở cán bộ đi nước ngoài, chỉ xuất hiện từ ngày hòa bình trở lại, sau một thời gian dài chịu đựng sự thống trị của vitamin B.12, thuốc lộc nhung pantocrin, bàn ủi, cối xay thịt và quạt tai voi...
Giải thưởng Lênin bằng tiền là 10 vạn rúp cũ. Ngoài số tiền đó, bạn còn tặng Bác 10 ngàn rúp cũ để mua quà đem về tặng gia đình, bầu bạn. Chỉ còn một ngày nữa là phải đáp chuyên cơ về Bắc Kinh nhưng số tiền lớn Bác nhờ tôi giữ đùm vẫn còn y nguyên. Tôi nhắc Bác mua quà về cho bác gái, muốn gì tôi sẽ ra G.U.M. (Cửa hàng bách hóa tổng hợp Mátxcơva) mua đủ. Bác suy nghĩ hồi lâu mới bảo tôi:
- Tánh tôi ưa ăn nhất là cá kho tộ bỏ nhiều tiêu. Chiều nào bả cũng đem tiêu hột ra đâm trong cái chén, văng tùm lum ra ngoài. Mắt bả kém rồi, nên cứ mò mò lượm từng hột bỏ vô. Vậy anh tìm mua cho tôi một cái cối xay thu đem về tặng chắc là bả mừng lắm!
Tôi đã chọn cối quay tay bằng gỗ đẹp nhất ở G.U.M. nhưng cũng chỉ mất có 7 rúp. Còn lại 9.993 rúp đem trao lại cho Bác Tôn.
Chuyên cơ của Chính phủ Liên Xô đưa chúng tôi đến sân bay Iếccút lúc chiều tối. Tổ chức Đảng thành phố đến chào và chiêu đãi cơm tối, để sáng hôm sau máy bay đi Bắc Kinh. Bác đã giao lại số tiền gần nguyên vẹn của bạn đưa cho bỏ túi ở Mátxcơva, nhờ trả lại cho tổ chức. Bác cũng bảo chúng tôi làm như vậy, bởi không được đem ngoại tệ về nước. Các đoàn viên khác đã rỗng túi, tôi may còn ít rúp chưa kịp mua thuốc lá ở sân bay vì quá vội.
Việc tặng cối xay tiêu để cho bác gái đỡ nhọc khi nấu ăn, gợi cho tôi nhớ lại một câu chuyện mà một bệnh nhân của tôi, quê làng Vĩnh Kim đã kể lại cho tôi nghe thời còn làm ở phòng mạch ở Mỹ Tho:
- Suốt thời gian dài chồng bị đày ở Côn Đảo, bác gái tần tảo nuôi hai con gái bằng cách hằng ngày mua trái cây, gà vịt chở lên Sài Gòn hay chợ Mỹ Tho bán. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác Tôn về đến Vĩnh Kim vào lúc đỏ đèn. Bác gái đang đi bắt gà ở xóm trên, nghe tin chồng về bươn bả chạy về nhà, buông cả mấy con gà đã trả tiền rồi, đang xách trên tay xuống đất chạy mất. Khách khứa đến khá đông. Bác trai ngồi đó trên bộ ván dầu. Bác gái nhìn chồng xa nhau đã 17 năm, nghẹn ngào không nói được nên lời nào, chỉ đứng ôm cột nhà mà khóc…
Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội định nghĩa: Khóc là chảy nước mắt vì đau đớn hay xót thương. Chưa đủ. Còn có cái khóc của nỗi vui mừng đột ngột đến, cái khóc lúc trùng phùng của người nông dân Việt Nam nặng tình chung thủy!
Sau khi Cụ Hồ mất, Bác Tôn được bầu lên làm Chủ tịch nước, khi có đồng nghiệp từ Hà Nội vào R. tôi hay hỏi thăm sức khỏe của hai Bác. Có anh em kể lại, Bác gái bệnh vào nằm ở Quân y viện 108, hôm nào Viện nhận được điện thoại báo là Bác trai hôm ấy sẽ vào thăm và chuyển tin cho Bác gái, thì Cụ bà vội thay quần áo mới để đón chồng. Khó mà không xúc động khi thấy một vị Chủ tịch nước 80 tuổi, ôm hôn vợ thắm thiết như đôi lứa còn xuân xanh, tóc bạc ấp ủ lên tóc bạc! Tôi đã từng đọc bao nhiêu tiểu thuyết tả nhiều cảnh trùng phùng khác nhau của những cặp vợ chồng xa nhau lâu, nói lên những mối tình già... song chưa thấy nhà văn nào viết nên cảnh này, dù đấy là một việc hoàn toàn chân thực xảy ra trong xã hội Việt Nam. Bác gái mất năm 1974, thọ 76 tuổi, lúc chúng tôi còn ở chiến trường Nam Bộ.
*
* *
Sáng ngày 15-5-1975, tại thành phố Sài Gòn giải phóng rực rỡ cờ hoa, tôi trút bỏ bộ quần áo xanh lá mạ xùng xình và đôi dép râu của anh cán bộ tiếp quản, ăn diện khá sang trọng, thắt cavat, đội nón panama của bạn hữu vừa cho, hòa vào trong dòng người đổ xô về trước Dinh Độc Lập. Tôi đóng vai nhà tư sản để quan sát trong chi tiết và bắt mạch đúng tâm lý quần chúng Sài thành qua cử chỉ, nói năng riêng tư của họ với nhau. Xa xa trên lễ đài đầy khách, có tiếng loa vang lên, Bác Tôn tóc màu bạc trắng, dáng đi đĩnh đạc, bên cạnh là luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Trong tiếng hò reo, vỗ tay vang dội, tôi không còn để tâm nghe diễn văn khai mạc... Trí nhớ tôi đang vướng vít trong hai cảnh ở Hà Nội năm nào, hôm nay bỗng chốc xuất hiện...
Cảnh thứ nhất: Câu lạc bộ Ba Đình, tháng Tám năm 1958, một nhóm khách đông tới hàng trăm được Phủ Chủ tịch mời đến dự lễ gắn Huân chương Sao vàng cho Bác Tôn nhân dịp mừng thọ thất tuần. Tôi được mời đến dự với tư cách là Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc và đồng hương với Bác Tôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói mấy lời, nêu thành tích và công lao của Bác Tôn, gắn Huân chương và ôm hôn giữa tiếng vỗ tay vang dậy. Hôm ấy Bác mặc bộ đồ kaki giản dị may kiểu đại cán. Trước tim bên ngực trái là Huân chương Sao vàng vừa gắn lóng lánh dưới ánh điện. Phía ngực phải là các huân chương nước ngoài theo quy ước quốc tế, trong đó có Huân chương Lênin của Liên Xô. Mắt Bác như rướm lệ, tay run run khi nâng ly rượu mừng và đáp từ: “Tôi xuất thân từ một gia đình nông dân Nam Bộ, từ lúc nhỏ đã lên Sài Gòn học nghề tha phương cầu thực. Chưa lần nào tưởng tượng ra được mình có vinh dự tột đỉnh của chiều hôm nay. Không biết nói gì hơn là tự đáy lòng xin mãi mãi ghi ơn Đảng, Hồ Chủ tịch và sự có mặt của tất cả các đồng chí đến chúc mừng tôi!”.
Cảnh thứ hai, mùa hè năm 1965, Bác Tôn - Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc - đã nhận Đơn xin từ chức Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc, bởi lần đi công tác này chắc chắn là sẽ phải kéo dài nhiều năm, không hẹn ngày trở lại.
Một buổi chiều, chị Nguyễn Thị Lựu, Phó Tổng Thư ký Mặt trận, mời tôi đến trụ sở Mặt trận dùng bữa cơm thân mật tiễn chân. Thực vậy, bởi ngoài chị Tám chỉ có thêm hai người dự nữa là Bác Tôn và đồng chí Trần Hữu Duyệt - Tổng Thư ký Mặt trận. Xong, Bác tiễn tôi ra tận cổng 48 phố Tràng Thi, giọng nói run run chậm chạp, đầy xúc động, như năm nọ nhận Huân chương:
- Anh về trỏng nói với đồng bào Nam Bộ và tất cả đồng chí anh em, rằng tôi rất nhớ quê hương, chỉ mong đợi ngày về. Nhưng tôi sắp đến 80 rồi, còn có ai cho đi nữa!
Từ buổi gặp mặt lần chót ấy đến hôm nay ngày 15-5-1975 - trước sinh nhật lần thứ 85 năm của Bác Hồ mấy ngày, thấm thoắt đã 10 năm! Tóc tôi cũng bạc rồi. Tôi vui mừng còn được thấy mặt Bác, còn khỏe mạnh, dù từ xa, dù ít, mà nhiều hơn là bởi. Bác được thỏa lòng ước mơ, chờ đợi, thiết tha từ hàng chục năm qua!
Kia lồng lộng trên lễ đài, đứa con quang vinh, người nông dân của Đồng bằng sông Cửu Long, anh thợ Ba Son năm xưa... đang đứng đó, tươi cười vẫy tay chào đồng bào, chiến sĩ. Cách nay gần nửa thế kỷ, con người vĩ đại hôm nay ấy, cũng ra đi tại chỗ này, chỉ cách đây vài trăm thước, bên kia đường Nguyễn Du, từ Tòa án Đại hình của đế quốc thực dân, tay bị còng, áo vải tù xanh, chân đất, với cái án khổ sai chung thân. Bác Tôn trở về nơi cũ với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tột đỉnh của vinh quang, xem các binh chủng diễu hành điệp trùng trong tiếng nhạc.
Để có ngày hôm nay, 30 năm trời, đồng bào chiến sĩ phải mất mát, hy sinh bao xương máu, tài sản, phải đổ bao nhiêu nước mắt và mồ hôi mới hoàn thành tấm thảm hoa đài vạn tượng rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc!
Lòng tôi rộn lên một niềm sung sướng. Dệt nên tấm thảm đỏ đầy hào hoa kia cũng có phần đóng góp của mình, dù chỉ làm các công việc dù ít vất vả là chuyền tay cho những ai đó một vài sợi chỉ mong manh, hành nghề bác sĩ.
DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG CÔN ĐẢO – NHỮNG KỶ NIỆM VÀ DẤU ẤN VỀ BÁC TÔN
NGUYỄN THANH VÂN82
Sau khi nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng không thành (1858), thực dân Pháp đổi hướng, tiến đánh chiếm Gia Định (1859), Định Tường (1860) và Biên Hòa (1861); đồng thời chiếm luôn quần đảo Côn Đảo bằng một bản “Tuyên cáo xâm lược” vào lúc 10 giờ sáng ngày 28-11-1861. Chỉ sau đó hai tháng, ngày 1-2-1862 Thống đốc Nam Kỳ Bonard ký quyết định chính thức thành lập Nhà tù Côn Đảo. Từ đó chúng biến Côn Đảo núi non hùng vĩ, biển trời trong lành thành "Địa ngục trần gian".
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã có những “Quốc sự phạm" ở các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Đông Kinh Nghĩa Thục, v.v. bị đày ra Côn Đảo như: Lã Xuân Oai, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn... Các sĩ phu yêu nước này đã xem Nhà tù Côn Đảo là một “Trường học thiên nhiên". Tiếp đến là những chiến sĩ cách mạng kiên cường của Đảng ta như: Nguyễn Hới, Tống Văn Trân, Tôn Đức Thắng, Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Cừ, Tạ Uyên, Lê Văn Lương, Lê Duẩn, Lê Hồng Phong, Phạm Văn Đồng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Linh… Tiếp theo sau còn hàng vạn đồng chí, đồng bào yêu nước, những phụ nữ, thanh niên, sinh viên, học sinh đấu tranh chống Mỹ đòi hòa bình, độc lập, tự do lần lượt bị đày ra Nhà tù Côn Đảo. Những chiến sĩ cách mạng kiên trung ấy đã biến “Hòn đảo địa ngục" trở thành “Bản hùng ca” giữ nước của dân tộc ta, biến nhà tù của đế quốc thành “Trường học cách mạng". Nơi đây còn là "Lò lửa thử hàng" để rèn luyện phẩm chất và khí tiết của người cộng sản là nơi chắt lọc những tinh hoa ưu tú ở khắp mọi miền đất nước để bổ sung cho đội ngũ trung kiên của Đảng ta. Trong đó có Bác Tôn của chúng ta đã trải qua hơn 5.550 ngày đêm ở Địa ngục trần gian này.
Cuối năm 1929, phiên tòa xử án đường Barbier tuyên án Tôn Đức Thắng 20 năm tù khổ sai. Tháng 7-1930 con tàu Armand Roussean chở những người tù từ Sài Gòn đi Côn Đảo trong đó có Tôn Đức Thắng với số tù 5289-TF. Từ đó đến ngày 23-9-1945, suốt 15 năm ròng rã, Bác đã sống qua các chế độ tù đày của các chúa đảo: Bouvier, Cremazy, Tiseeyre. Bác đã tồn tại, đã sống, và đã chiến đấu chống lại kẻ thù, chống lại bệnh tật, chết chóc, và mọi thứ độc ác khác mà kẻ thù đã tạo ra nhằm giết dần giết mòn thể xác, tinh thần của người tù cộng sản, nhằm làm nhụt ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng cộng sản. Nhưng ba đời chúa đảo ấy đều thất bại, Tôn Đức Thắng đã chiến đấu với tinh thần đầy trách nhiệm của người cộng sản ở mọi nơi, mọi lúc.
Từ phút đầu tiên đặt chân lên Cầu tàu 914 (tháng 7- 1930), Tôn Đức Thắng đã trải qua các khám trong Banh I, rồi đến Sở Lưới, Sở Bản chế, kể cả chỗ đáng sợ nhất đối với người tù Côn Đảo lúc bấy giờ là Hầm xay lúa.
Hết hạn ở Hầm xay| lúa, Bác lại về Banh I, để lại đó những dấu ấn đậm nét về cuộc sống, nhân cách của một người cộng sản. Sếp Ferandini lúc ấy đã hết sức ngạc nhiên thốt lên: "Tôn Đức Thắng còn sống đấy à. Tưởng chết rồi chứ".
Đối với người cộng sản trung kiên không may sa vào tay giặc, cái quan trọng không phải bảo tồn được tính mạng mà là tạo mọi điều kiện để tiếp tục hoạt động cho Đảng, cho dân.
Sống tại Banh I, lợi dụng những công việc sở tại của mình, Tôn Đức Thắng đã cố gắng tìm mọi cách để liên lạc với những người cộng sản bị giam cầm tại Banh I và bên Banh II. Song đâu chỉ có các khám giam và Hầm xay lúa trong Banh I, đâu chỉ di tích Sở Lưới, Sở Bản chế hay Cầu tàu 914 mới gắn bó với Bác, mà có thể nói những gộp đá, những gốc cây bàng từ Cầu tàu lịch sử 914, qua các sở tù khổ sai dẫn đến Banh I đều có thể trở thành hộp thư bí mật của Bác, nhờ đó mà Chi bộ Banh I có được tủ sách khá đầy đủ để tổ chức cho các lớp học chính trị và văn hóa trong tù.
Bác Tôn là người cầm lái vững vàng suốt 15 năm trong ngục tù Côn Đảo, và sau đó Bác cũng là người cầm lái vững chắc chiếc cùng mang tên “Giải phóng" đưa đoàn tù chính trị trở về đất liền an toàn vào ngày 23-9-1945.
Sau ngày đất nước thống nhất, ngày 27-8-1976 đồng chí Lê Duẩn trở lại thăm Côn Đảo, trong buổi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Côn Đảo, đồng chí đã nói về Bác Tôn: “Bác Tôn bị tù đày ở Côn Đảo 15 năm nhưng lúc nào cũng lạc quan, yêu đời. Đó là một chiến sĩ cách mạng không bao giờ và không gì lay chuyển được, một con người hết sức nhiệt thành, trung thực, quên mình, nay đã tuổi 88 rồi mà vẫn luôn nhẹ nhàng, thanh thản. Tuổi già vậy mà Bác luôn trẻ, đối với kẻ thù thì bất khuất, đối với anh em thì thương yêu vô cùng, có cọng rau, củ lạc cũng chia sẻ cho nhau. Nay Bác là Chủ tịch nước, vậy mà tình nghĩa với anh em cùng ở tù ngày trước vẫn như xưa, không khác chút nào hết. Đến nay, khi gặp nhau nói chuyện, Bác vẫn yêu cầu chúng tôi phải xưng hô với Bác như ngày còn ở trong tù vậy, xưng hô khác là Bác không chịu đâu...".
Khi đến với Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo, từ những đoàn thanh niên, sinh viên, học sinh tổ chức "Về nguồn" đến những đoàn khách đi du lịch hoặc những đoàn công tác tranh thủ thời gian thăm Khu di tích các cựu tù nhân chính trị về thăm lại chiến trường xưa" .., hầu như ai cũng đều dành những phút giây lặng nhìn những tấm bia di tích có ghi dòng chữ "Nơi đây đã từng giam giữ đồng chí Tôn Đức Thắng”, nhiều người tranh thủ chụp ảnh, quay phim ghi lại những hình ảnh của mình bên cạnh những di tích, những tấm bia ấy với một niềm tự hào đã được đến nơi mà vị lãnh tụ kính yêu của mình đã từng sống ở nơi đây, một niềm tự hào kiêu hãnh về dân tộc mình có những con người vĩ đại đã vượt qua mọi gian khổ, mọi cực hình khủng khiếp, mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù để giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Không ít người đã say sưa nghe những câu chuyện kể về Bác Tôn ở Nhà tù Côn Đảo và cảm thấy rất mãn nguyện khi trong đời mình đã được một lần đến Côn Đảo thăm Khu di tích lịch sử cách mạng vĩ đại này.
Có những người khách sau khi trải qua 12-14 tiếng đồng hồ lênh đênh trên biển, bị vật vã bị nôn mửa vì say sóng, nhưng sau một buổi đầu tiên đi tham quan: Cầu tàu lịch sử 1914, Phòng trưng bày di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo và Banh I thì đã thốt những lời rất chân tình rằng:
- “Khi nghe những chuyện kể về Bác Tôn đã cuốn hút tôi đến nỗi quên đi những mệt mỏi của cơn say sóng".
- “Nếu như không có Khu di tích lịch sử cách mạng này chắc tôi không bao giờ mua vé đi du lịch Côn Đảo đâu!".
Ngày 14-l-1979, Đại diện cho đoàn cán bộ Công an nhân dân Vũng Tàu đến tham quan Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo đã xúc động và tự hào ghi lại những dòng cảm xúc: "…Côn Đảo - niềm tự hào kiêu hãnh của cách mạng Việt Nam, của nhân dân Việt Nam anh hùng. Càng cảm động và tự hào hơn khi được đi viếng thăm Khu di tích lịch sử. Nơi đây là đỉnh cao nhất của tội ác của đế quốc Pháp và Mỹ ngụy, những tên cướp nước và bán nước cầu vinh đối với các chiến sĩ cách mạng Việt Nam và nhân dân yêu nước. Nơi đây cũng chứng minh cho nhân loại về lòng hy sinh, tinh thần dũng cảm, lòng trung thành bất khuất của các lãnh tụ cách mạng: Đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Lê Văn Lương…, và bao nhiêu nam nữ chiến sĩ cách mạng, những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã kiên trinh quên mình cho dân tộc được sống lại; cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân, và cho chủ nghĩa Mác - Lênin toàn thắng...".
Những người dân ở quê Bác (An Giang) đến Côn Đảo cũng rất đỗi tự hào ngồi ngay trong khám giam ở Banh I (nơi Bác từng bị giam cầm) ghi lại những dòng cảm tưởng: "Đoàn huyện Tân Châu - tỉnh An Giang đến Côn Đảo với ngôi trường Đại học cách mạng lớn nhất của nhân dân. Chúng tôi tự hào là quê hương của Bác Tôn - những dấu chấm son lãnh tụ cách mạng nơi đây mở đường cho đất nước hôm nay đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi chân thành biết ơn các đồng chí ngành du lịch và Ban bảo vệ Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo - đang bảo vệ một tài sản vô giá của lịch sử cách mạng mà chỉ có Côn Đảo mới có mà thôi…".
(Ngày 14-12-1996 - Mười Trị (TM. Đoàn Tân Châu - An Giang).
Là những người đang công tác tại Ban quản lý Khu di tích lịch sử cách mạng được giao trách nhiệm thiêng liêng là gìn giữ “Bàn thờ của Tổ quốc", chúng tôi luôn trăn trở rằng mình sẽ làm gì để gìn giữ và phát huy tác dụng Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo sao cho nơi đây thực sự trở thành vùng đất thiêng của Việt Nam, luôn dành cho mọi người tìm đến để nhớ lại cội nguồn, để giáo dục truyền thống cách mạng cho tuổi trẻ hôm nay và mãi mãi mai sau... Vì bên cạnh những niềm tự hào, những tình cảm sâu sắc, những cảm xúc trào dâng khi được thấy, được nghe những kỷ niệm về Bác thì cũng không ít người đã ngỡ ngàng, thậm chí tỏ vẻ bức xúc khi không tìm thấy di tích Sở Lưới ở đâu! Và cây Bàng ở cạnh Sở Lưới từng được nhiều thế hệ tù nhân, nhiều tác phẩm thơ ca gọi một cách thân thương là “Cây Bàng Bác Tôn" cũng không còn nữa (vì cơn bão số 1 năm 1993 đã quật đổ).
Các đồng chí lãnh đạo địa phương đã kịp thời chỉ đạo cho trồng lại cây Bàng khác trong lòng gốc Bàng cổ thụ, cảm động biết bao khi có những người đã tìm đến vuốt ve lên gốc Bàng xưa hoặc chụp ảnh bên cây Bàng con ngày nay và tự hứa với lòng mình như cây Bàng con, là thế hệ đi sau, nguyện nối tiếp truyền thống của ông cha mình, nối tiếp truyền thống của Bác.
Riêng di tích Sở Lưới, vì nằm cạnh bờ biển phải chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió bão, của muối biển nên đã sớm bị xuống cấp nặng. Năm 1995, Sở Lưới đã được phép của lãnh đạo ngành cho tháo dỡ và thay vào đó, chính quyền địa phương cho xây dựng một công viên.
Tháng 12-2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo và phát huy tác dụng của Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo” được bắt đầu triển khai năm 2001 và kết thúc năm 2005 với mức đầu tư là: 60,732 tỷ đồng, bao gồm:
1. Khoanh vùng bảo vệ di tích.
2. Bảo tồn trọng điểm một số di tích quan trọng (trong đó có Banh I được xếp hàng đầu).
3. Thiết bị nội thất.
4. Công trình tôn tạo.
5. Các di tích không được xem là trọng điểm nhưng vẫn phải được đầu tư kinh phí để bảo tồn.
Được tin này, quân và dân Côn Đảo nói chung, các cán bộ Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo nói riêng rất phấn khởi, vui mừng.
NHỮNG TÌNH CẢM CỦA ĐẢNG BỘ - NHÂN DÂN CÔN ĐẢO DÀNH CHO BÁC TÔN ĐỨC THẮNG
Để tỏ lòng ghi nhớ công ơn trời biển của Bác cũng như ghi nhớ những kỷ niệm về Bác tại Côn Đảo, Đảng bộ và nhân dân Côn Đảo đã lấy tên Bác đặt cho một con đường đẹp nhất Côn Đảo hiện nay (con đường đi qua Sở Lưới trước đây). Được biết dự kiến trong thời gian tới lãnh đạo huyện Côn Đảo sẽ triển khai thực hiện chủ trương: Phối hợp với Bảo tàng Tôn Đức Thắng ở Thành phố Hồ Chí Minh để tổ chức Phòng trưng bày lưu động về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Bác Tôn và sau đó sẽ hình thành "Phòng lưu niệm Bác Tôn", đồng thời thực hiện dự án cải tạo nâng cấp Công viên Bác Tôn trên đường Tôn Đức Thắng - (ngay vị trí Sở Lưới) và đặt ở đây một tượng đài Bác Tôn.
Đây là công trình góp phần giáo dục, nhắc nhở các thế hệ nhân dân Côn Đảo và du khách đến Côn Đảo có thêm hiểu biết về công lao của Bác ngay trên mảnh đất Côn Đảo thiêng liêng này.
TỪ CÔNG HỘI BÍ MẬT ĐẾN VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG ĐỒNG CHÍ HỘI
NGÔ QUANG LÁNG83
TÔN ĐỨC THẮNG - NGƯỜI LÃNH TỤ CÔNG ĐOÀN ĐẦU TIÊN Ở NAM BỘ
Sau khi giải quyết xong hậu quả của cuộc phản chiến trên Biển Đen, một số binh lính được giải ngũ. Sau ba năm trong hải quân, Tôn Đức Thắng cởi bỏ bộ quần áo lính, trở lại với bộ quần áo công nhân của mình vào cuối năm 1919.
Qua tiếp xúc với những người công nhân, chiến sĩ của phong trào vô sản Pháp, qua cuộc đấu tranh chung để bảo vệ cách mạng vô sản Tháng Mười Nga, chắc chắn tinh thần cũng như sự hiểu biết về cách mạng của Anh được nâng cao. Tiếng vang của các hoạt động yêu nước, cách mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp đã thúc đẩy Anh lên đường đi Paris tìm gặp người thanh niên lỗi lạc chung chí hướng ấy. Ở đây Anh có thời gian làm thợ tại một nhà máy của Hãng Renault. Rất tiếc là Tôn Đức Thắng không gặp được Nguyễn Ái Quốc. Tháng 8-1920 Anh mới có dịp về nước.
Những ngày đầu, Anh về thăm quê hương. Làng xóm quê hương sau những năm chiến tranh có vẻ tiêu điều, xơ xác hơn. Ai ai cũng rên xiết vì nạn phu phen, tạp dịch, thuế má nặng nề mà bọn hương lý, kỳ hào theo lệnh quan trên vơ vét cho "mẫu quốc" và nhân cơ hội đó, bòn rút dân lao động. Ai cũng mừng cho Anh còn sống trở về. Gặp ai, Anh cũng tươi cười chào hỏi nhưng không thổ lộ một chuyện gì về những năm sống ở nước ngoài và những dự định sắp tới. Anh trở ngay lên Sài Gòn vì những công việc ở đó đương cuốn hút Anh …
Sài Gòn, cũng như quê hương Anh, trong những năm chiến tranh, công cuộc kiến thiết bị đình đốn, nay bắt đầu được mở mang. Tôn Đức Thắng đã tưởng tượng trong tâm trí mình những viễn cảnh tốt đẹp của thành phố thân thuộc này. Kỷ niệm về vụ binh biến Hắc Hải vẫn còn tươi nguyên. Anh nhớ lại gương mặt thân thuộc của những người bạn công nhân Pháp. Hơn bốn năm sống ở Pháp rồi có dịp sang Nga, Tôn Đức Thắng đã thấy rõ thợ thuyền bốn phương như anh em một nhà. Hình ảnh của chị Jeanne Labourbe là một tấm gương sáng về sự hy sinh chiến đấu cho giai cấp công nhân, Anh nhớ mãi không phai mờ! Những câu chuyện của Jean về tổ chức Nghiệp đoàn đã thôi thúc Anh trong việc tập hợp những người anh em kết nghĩa của mình trong một tổ chức như vậy. Đặc biệt, Anh nghe một người Việt Nam tên là Nguyễn Ái Quốc, người đã dám đưa yêu sách cho Hội nghị các nước Đồng minh ở Versailles năm 1919, người đã từng phát biểu ở Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp từ giữa năm 1920 trước khi Anh lên đường về nước... Anh đã đi tìm nhưng chưa gặp được người ấy.
Trở lại Sài Gòn, Tôn Đức Thắng ở tạm tại đường Quai la Marne (nay là bến Phạm Thế Hiển) để tìm bạn bè và công việc. Bị trục xuất khỏi Hãng Arsenal, Tôn Đức Thắng khó lòng vào được các hãng, xưởng của chính quyền thuộc địa. Nhưng là thợ giỏi, Anh nhanh chóng tìm được việc làm ở Hãng Kroff, một hãng tư nhân của người Đức nằm trên đường Sampanhơ (nay là đường Lý Chính Thắng). Có tay nghề cao, Tôn Đức Thắng thường được cử đi sửa chữa nhiều nơi, có khi vào cả trong Xưởng Ba Son và Trường Bá Nghệ.
Có điều kiện đi lại, Tôn Đức Thắng gặp gỡ nhiều anh em đã từng học hoặc làm việc chung lúc trước. Lúc này lính thợ và viên chức Việt Nam ở Pháp về rất đông. Một số có tư tưởng yêu nước, ghét Pháp nhưng phần lớn không có thái độ chính trị gì rõ rệt. Cũng có một số người ca tụng nước Pháp và có tư tưởng sợ Pháp. Tuy nhiên ý thức họp nhau lại thành đoàn thể có điều kiện nảy nở vì hầu hết những người lính thợ, muốn hay không muốn, đều biết đến phong trào công nhân và những cuộc đấu tranh của công nhân, binh lính Pháp phản đối chiến tranh đế quốc.
Là người đã trực tiếp kéo cờ phản chiến trên hạm đội Pháp góp phần vào việc bảo vệ nước Nga Xôviết, Tôn Đức Thắng luôn ý thức được sức mạnh đoàn kết đấu tranh của giai cấp công nhân. Những kinh nghiệm đã học được ở những người công nhân Pháp, ở cuộc binh biến Hắc Hải trao đổi bàn bạc với anh em cùng chí hướng. Tôn Đức Thắng luôn suy nghĩ đến việc phải tổ chức công nhân thành đoàn thể, qua đó giác ngộ cho họ thấy được vai trò và sức mạnh của giai cấp mà đấu tranh giành lấy những lợi ích thiết thân trước mắt. Tuy không trực tiếp chứng kiến, nhưng cuộc đấu tranh đòi các quyền lợi kinh tế của 226 thủy thủ tàu buôn Pháp vào tháng 3-1920 được sự hỗ trợ của nhân dân Sài Gòn giành thắng lợi, đã giúp cho Tôn Đức Thắng thêm sức mạnh và niềm tin vào một giai cấp có tổ chức.
Sài Còn đầu những năm 1920 là một trong những trung tâm kinh tế lớn của Đông Dương. Lực lượng công nhân ngày càng đông đảo do chính sách tăng cường khai thác thuộc địa của Pháp để bù đắp những thiệt hại của chúng trong Chiến tranh 1914-1918. Do đó ách áp bức, bóc lột không ngừng tăng lên. Nhưng dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của thực dân Pháp, chúng không để cho công nhân có điều kiện hoạt động chính trị hợp pháp một cách công khai theo như Luật Lao động quy định. Công nhân bãi công thì chưa chắc đã được tăng lương nhưng chắc chắn là người bãi công bị đuổi việc, bị bắt, tra tấn, tù đày.
Là người đã tham gia tổ chức nghiệp đoàn của công nhân Pháp ở Xưởng Arsenal de Toulon nhưng kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân ở Việt Nam giúp cho Tôn Đức Thắng thấy rằng, tổ chức công nhân ở đây phải khác hoàn toàn về tính chất và phương thức hoạt động với tổ chức của công nhân Pháp. Ở Pháp công nhân có một số quyền tự do, dân chủ nên khi bị bóc lột áp bức quá đáng thì có quyền đấu tranh và Nhà nước công nhận quyền đấu tranh đó. Tình cảnh công nhân Việt Nam lại khác vì toàn thể dân tộc, từ vua quan đến dân đen đều là dân mất nước, đều là nô lệ của thực dân Pháp, không có một chút quyền tự do dân chủ nào. Tổ chức của công nhân vì vậy không chỉ đấu tranh về quyền lợi kinh tế mà còn đòi hỏi cả về quyền lợi chính trị nữa. Do đó phải tổ chức bí mật nếu không thực dân Pháp sẽ đàn áp ngay lập tức.
Trong hoàn cảnh đó, Tôn Đức Thắng và các "đồng chí" của mình quyết định tổ chức ra Công hội bí mật và thành lập nhóm trung kiên lãnh đạo gồm có: Tôn Đức Thắng, Trần Trương (Sáu Trương), Đặng Văn Sâm (Nhuận), Trần Văn Hòe (Ba Hòe), Trần Ngọc Giải (Thuận Hòa), Bùi Văn Thêm (Định), v.v..
Ra đời trong hoàn cảnh chưa có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nên Công hội bí mật chưa có đường lối và điều lệ rõ ràng. Nhiệm vụ chủ yếu của Công hội chỉ là đoàn kết giai cấp công nhân, đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân và nhân dân lao động, chống áp bức, bóc lột, chống bất công. Mọi người cùng quy ước với nhau là chỉ kết nạp vào Hội những người thợ yêu nước, có tinh thần hăng hái đấu tranh, biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong lúc khó khăn, bệnh tật. Hội không có trụ sở riêng nên luân phiên họp ở nhà hội viên một tháng một lần dưới hình thức tiệc tùng, cúng quảy. Hội phí đóng từng tháng tùy theo mỗi người, thường là một ngày lương trở xuống.
Đối với phong trào cách mạng Việt Nam, sự ra đời của Công hội bí mật vào những năm 1920-1921 có một ý nghĩa chính trị quan trọng. Dù chưa thật sự là một tổ chức cách mạng, quy mô còn nhỏ bé, nhưng nó đã đánh dấu một thời kỳ mới, thời kỳ mà giai cấp công nhân Việt Nam có ý thức về sức mạnh của giai cấp mình. Nếu so với Quang phục Hội của Phan Bội Châu còn mang màu sắc phong kiến, thì Công hội bí mật là tổ chức tiến bộ nhất lúc bấy giờ. Nó đã tập hợp được lực lượng cách mạng chủ yếu của thời đại, dù là phôi thai, từng bước đưa giai cấp công nhân lên vũ đài chính trị.
Để giác ngộ ý thức giai cấp, Công hội liên lạc chặt chẽ với công nhân, thủy thủ tàu biển, nhận báo chí tiến bộ từ Pháp, Trung Quốc gửi về như báo Nhân Đạo, Người cùng khổ, Đời sống thợ thuyền, Việt Nam hồn, v v. và cả những bài báo, bài viết của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương84. Tôn Đức Thắng thường tổ chức cho anh em chèo thuyền ra giữa sông Sài Gòn đọc sách, báo hoặc tự mình nói lại cho các anh em nghe về những cuộc đấu tranh của công nhân thế giới.
Để gây quỹ cho Hội và để tạo điều kiện mở rộng cơ sở, Tôn Đức Thắng giao cho anh Đặng Văn Sâm đứng tên mở garage sửa chữa máy móc, xe hơi ở Cầu Kiệu (nay là phường 13, quận 3) đồng thời chọn thanh, thiếu niên tốt vào dạy học nghề. Nhiều người trở thành thợ máy đi làm cho các hãng, xưởng và cơ sở của Hội theo đó mà lan rộng.
Do sự hoạt động tích cực của Tôn Đức Thắng và nhóm trung kiên, từ năm 1920 đến năm 1925 Công hội bí mật đã có đến 300 hội viên. Khắp Sài Gòn - Chợ Lớn đều có cơ sở của Công hội. Phần lớn các tổ Công hội ngay trong các xí nghiệp của thực dân Pháp hoặc tư bản nước ngoài như Hãng Kroff, Xưởng Ba Son, Trường Bá Nghệ, Hãng Faci, Nhà đèn Chợ Quán, Chợ Rẫy, Hãng rượu Bình Tây, Hãng dầu Nhà Bè, v.v. và một số hãng, xưởng tư nhân người Việt khác. Ban chấp hành Công hội được dân chủ bầu ra gồm có:
1. Hội trưởng: Tôn Đức Thắng (thợ máy Hãng Kloff)
2. Phó hội trưởng: Nguyễn Văn Cân (thợ nguội Hãng Faci)
3. Thư ký: Mạnh (thợ vẽ Nhà đèn)
4. Thủ quỹ: Đặng Văn Sâm (thợ điện Nhà đèn)
5. Kiểm soát viên: ...
Qua sự hoạt động của Công hội bí mật, phong trào đấu tranh của công nhân, thợ thủ công Sài Gòn - Chợ Lớn đã phát triển theo một xu thế mới, xu thế của một giai cấp bắt đầu tự giác sức mạnh của chính bản thân mình. Từ năm 1922 đến năm 1925 đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh mà tiêu biểu nhất là hai cuộc bãi công của thợ nhuộm Chợ Lớn và công nhân Xưởng Ba Son, tạo nên tiếng vang trên diễn đàn quốc tế.
Tháng 11-1922, 600 thợ nhuộm Chợ Lớn bị chủ bớt lương nên quyết định bãi công. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn không có lò nhuộm nào đến hàng trăm công nhân mà là những xưởng thủ công vừa và nhỏ thường tập trung vào một khu vực nhất định. Nên thực tế đây là cuộc bãi công của những người thợ có ý thức được sự đoàn kết giai cấp trong một ngành, một vùng. Tuy mục tiêu đấu tranh là đòi quyền lợi kinh tế đơn thuần, những cuộc bãi công đó đã có một ý nghĩa to lớn, là dấu hiệu đầu tiên của một giai cấp "bắt đầu giác ngộ về lực lượng và khả năng của mình"85.
Cuộc bãi công của thợ nhuộm Chợ Lớn được đồng chí Nguyễn Ái Quốc đưa vào phần đầu tiên của Chương "Nô lệ thức tỉnh" trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, xuất bản tại Paris vào năm 1925. Nguyễn Ái Quốc đã phân tích nguyên nhân, tính chất và diễn biến của đấu tranh để đi đến kết luận rằng:
“… Đây là lần đầu tiên, một phong trào như thế nhóm lên ở thuộc địa. Chúng ta hãy ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại và chúng ta đừng quên rằng bổn phận của chúng ta - những người lao động ở chính quốc - không phái chỉ tỏ tình đoàn kết với những anh em cùng giai cấp ở đấy bằng lời nói, mà còn phải giác ngộ cho họ về ý thức tổ chức và về phương pháp tổ chức"86.
Nếu như cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm Chợ Lớn năm 1922 hãy còn nhiều tính tự phát thì cuộc bãi công năm 1925 của công nhân Xưởng Ba Son đã đánh dấu một bước phát triển của phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn, trực tiếp được Công hội bí mật lãnh đạo.
Năm 1925 là một năm vô cùng khó khăn đối với Pháp.
Phong trào cách mạng ở các thuộc địa, nhượng địa nổi lên dữ dội. Những cuộc nổi dậy của nhân dân Maroc, Xyri lên cao buộc Pháp phải ném hàng trăm ngàn quân vào đó. Cách mạng Trung Quốc đang chuyển thế, nhân dân các tô giới của đế quốc rầm rộ bãi công. Ở Sài Gòn hàng vạn người tham gia các cuộc mít tinh, diễn thuyết của Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh và biểu tình đòi thả Phan Bội Châu. Ở Quảng Châu (Trung Quốc), Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ra đời đang tìm cách phát triển lực lượng trong nước... Để duy trì lợi ích thực dân, Pháp bắt nhiều đơn vị lính Việt Nam sang Bắc Phi, Cận Đông, đồng thời đưa tàu chiến qua Trung Quốc, hiệp cùng các nước đế quốc khác bảo vệ tô giới.
Tháng 8-1925, trên đường sang Trung Quốc, đoàn tàu chiến Pháp gồm các chiếc Michelet, Ferry và Maine cập bến Sài Gòn. Chiếc Đô đốc hạm Michelet được đưa vào Xưởng Ba Son sửa chữa gấp.
Sự có mặt của tàu chiến Pháp ở Sài Gòn làm cho bầu không khí chính trị ở đây vốn đã náo động càng thêm náo động. Nhiều người yêu nước lo lắng cho cách mạng Trung Quốc, nơi đang giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc ở châu Á.
Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Công hội quyết định tìm cách ngăn cản làm chậm bước tiến của nó, Tôn Đức Thắng không còn lạ gì dã tâm của đế quốc muốn bóp nghẹt nước Trung Hoa cách mạng, Michelet là một trong những chiến hạm đã từng bao vây nước Nga Xôviết trên Biển Đen năm 1919. Nay lại chính nó chỉ huy cả bọn sang Trung Quốc tàn sát những người anh em công nông. Đã từng giương cao ngọn cờ đỏ phản chiến với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, hơn ai hết, Tôn Đức Thắng ý thức được trách nhiệm nặng nề mà anh em công nhân Xưởng Ba Son phải gánh vác trong sự kiện lịch sử này. Chỉ có bãi công mới giam tàu chiến Pháp một thời gian dài.
Với suy nghĩ đó, Tôn Đức Thắng đưa ra bàn bạc với Ban lãnh đạo Công hội. Mọi người đều biết rằng vận động toàn thể công nhân Xưởng Ba Son bãi công là một điều rất khó và càng khó hơn khi mục tiêu cuộc bãi công mang tính chất chính trị. Xưởng Ba Son là loại công binh xưởng do Hải quân Pháp chỉ huy, kỷ luật chống bãi công rất nghiêm khắc. Nó lại là xưởng duy nhất ngày làm 8 giờ ở Đông Dương, lương thợ lại cao. Hơn 1.000 công nhân không phải ai cũng có tinh thần quốc tế vô sản cả. Phải có lý do kinh tế thì mới làm nổi cuộc bãi công chính trị…
Thông qua tổ Công hội Ba Son do anh Lê Văn Lưỡng phụ trách, Ban lãnh đạo Công hội bí mật biết được một số tình hình của Xưởng Ba Son từ khi thay giám đốc mới. Theo lệ thường, thợ lĩnh lương mỗi tháng hai kỳ, mỗi lần lĩnh lương được nghỉ 30 phút. Nay tên kỹ sư Courtial mới sang thay chỉ cho công nhân nghỉ trước 15 phút, lại còn sa thải một số thợ. Nắm được những sự kiện đó, Công hội quyết định phát động cuộc bãi công.
Để cuộc bãi công giành được thắng lợi, Tôn Đức Thắng trực tiếp gặp Nguyễn An Ninh và Mai Bạch Ngọc đề nghị Báo Chuông Rè ủng hộ.
Cuộc bãi công nổ ra vào chiều ngày 4-8-1925, là ngày lĩnh lương nên anh em đồng loạt nghỉ trước 30 phút và kéo nhau ra về khi tên Courtial đòi đuổi hết những người làm reo. Sáng ngày 5-8-1925 cả ngàn thợ Ba Son họp míttinh ở ngã tư đường Etspanhơ nghe những người lãnh đạo giải thích lý do bãi công, rồi hô vang các yêu sách:
- Giữ lệ nghỉ lĩnh lương trước 30 phút.
- Phải thu lại thợ bị sa thải.
- Tăng lương 20%.
Bọn chủ và chính quyền thực dân hăm dọa đàn áp, xoa dịu, v.v. nhưng mọi người đều không trở lại làm việc, ai về nhà nấy. Dưới sự lãnh đạo và vận động của Công hội, tất cả các hãng, xưởng ở Sài Gòn - Chợ Lớn mở cuộc lạc quyên ủng hộ thợ Ba Son đang nghỉ việc. Nông dân ngoại thành góp tiền, gạo. Báo chí tiến bộ, nhất là tờ Chuông Rè, lên tiếng ủng hộ, tường thuật cuộc đấu tranh, ca ngợi và cổ vũ sự bênh vực, đùm bọc của giới thợ thuyền và dân cày.
Cuộc bãi công kéo dài làm cho bọn thực dân tức tối.
Chúng biết được mục tiêu chính trị của cuộc bãi công nhưng không thể dùng vũ lực dập tắt nổi trước sự đoàn kết đấu tranh của công nhân. Tờ báo thực dân Vô tư (Impartial) ra ngày 6-8-1925 đã viết:
"Chúng ta biết rằng, Chiến hạm Michelet phải sang Trung Quốc để giúp vào việc củng cố các tô giới...
…Hiện giờ cuộc bãi công ở Ba Son vẫn tiếp tục, nó tiếp tục trong lúc chiến hạm của chúng ta cần phải được sửa chữa gấp rút để sang Trung Quốc.
Cuộc bãi công xảy ra trong lúc mà bạn đồng nghiệp ở Pháp “Le quotidien" báo tin rằng, viên chủ tịch của Quốc tế Cộng sản vừa mới tuyên bố rằng: Ngày nay Trung Quốc nổi dậy, ngày mai sẽ tới phiên Đông Dương, Ấn Độ nổi dậy"87.
Đến ngày thứ tám của cuộc bãi công (ngày 11-8-1925), Thống đốc Nam Kỳ và viên chỉ huy Hải quân Pháp mời bốn đại biểu của công nhân Xưởng Ba Son đến gặp. Chúng hăm dọa đuổi hết thợ nếu ngày 12-8 không trở lại làm việc. Biết được điểm yếu của chúng là cần sửa chữa nhanh chiếc Michelet nên mặc dù ngoan cố, chúng cũng không thể làm gì được. Các đại biểu vẫn giữ nguyên yêu sách và còn đòi thêm chủ phải trả cả tiền lương trong những ngày bãi công nghỉ việc nữa.
Công nhân Xưởng Ba Son không lùi bước trước sự hăm dọa của thực dân nhờ vào sự chỉ đạo kịp thời của Ban lãnh đạo Công hội, trực tiếp là Tôn Đức Thắng. Hằng ngày anh Lưỡng đều đến gặp Tôn Đức Thắng báo cáo tình hình và xin chỉ thị.
Nhờ vào sự ủng hộ vật chất to lớn của thợ thuyền, dân cày ở thành phố và được tiếng nói đồng tình của báo chí tiến bộ, công nhân Xưởng Ba Son tiếp tục nghỉ việc. Ngày l2-8 các báo thực dân đều phải kêu lên: "Bọn thợ lấy tiền ở đâu, ai giúp chúng nó, để chúng nó kéo dài cuộc bãi công tới 9, 10 ngày nay?".
Tất nhiên ở đất Sài Gòn “củi quế gạo châu” này, chính cả mấy vạn công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn ủng hộ Ba Son và xem việc đấu tranh của Ba Son là tất cả. Cuộc đồng tâm của đa số thợ thuyền trong cuộc đấu tranh này rất rõ.
- Cuối cùng thực dân phải nhượng bộ chịu tăng 10% lương và trả lương cả những ngày bãi công. Yêu sách kinh tế được giải quyết nhưng mục tiêu chính trị mà Công hội đã đề ra vẫn chưa đạt được như ý muốn. Công nhân Xưởng Ba Son không có lý do gì tiếp tục bãi công được nữa mà phải bắt tay vào sửa chữa chiếc Michelet. Cần phải chuyển hình thức đấu tranh cho phù hợp.
Thắng lợi của cuộc bãi công đã làm tăng thêm uy tín lãnh đạo Công hội bí mật. Vì vậy, khi Ban lãnh đạo Công hội bí mật vận động lãn công kéo dài thời gian sửa chữa chiếc Michelet thì được anh em công nhân đồng tình thực hiện. Việc lãn công đã giam giữ chiếc Michelet một thời gian dài cho đến ngày 28-11-1925 nó mới nhổ neo rời bến được.
- Cuộc bãi công của công nhân Xưởng Ba Son là cuộc bãi công đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam có lãnh đạo, có tổ chức với quy mô lớn và dài ngày. Tôn Đức Thắng và Ban lãnh đạo Công hội bí mật biết chọn đúng thời cơ và điểm yếu của địch mà chỉ đạo kiên quyết đấu tranh không lùi bước trước những hăm dọa đàn áp của thực dân Pháp. Cuộc bãi công đó đã nói lên trình độ tổ chức của những người lãnh đạo: Công nhân Xưởng Ba Son đoàn kết thành một khối thống nhất và được sự đồng tình ủng hộ của công nhân và lao động thành phố, của nông dân ngoại thành và của báo chí tiến bộ. Dù được che đậy bằng những yêu sách kinh tế, nhưng cuộc đấu tranh đó mang tính chất chính trị rõ rệt, biểu hiện tinh thần quốc tế vô sản đẹp đẽ của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tại Đại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva (từ ngày 11-7 đến ngày 11-9-1928), đại biểu Đông Dương đã nhắc lại: "Công nhân Ba Son không chịu sửa chiếc tàu Misơlê mà đế quốc Pháp dùng để đi tàn sát nhân dân Trung Quốc"88.
- Cuộc bãi công ở Ba Son không những nói lên trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, tinh thần quốc tế vô sản của đội ngũ công nhân thành phố, uy tín của Công hội và vai trò của người công nhân đầu đàn Tôn Đức Thắng mà còn mở đầu cho một giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh có tổ chức, giai đoạn phong trào công nhân thành phố đi dần ăn trình độ tự giác... Đó chính là giai đoạn trực tiếp chuyển giao cấp công nhân Việt Nam thành lực lượng chính trị độc lập.
Qua năm 1926, phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn có xu hướng phát triển mạnh về chiều rộng lẫn chiều sâu, gắn liền với phong trào yêu nước. Nhiều cuộc đấu tranh, bãi công đã diễn ra liên tục khắp Sài Gòn và các vùng phụ cận.
Ngày 11-4-1926, công nhân Trung ương ấn Quán Sài Gòn bãi công chống tên chủ Sindatry trả lương trễ 4 ngày.
Ngày 22-4-1926 công nhân đềpô xe lửa và Ga Sài Gòn đình công, các chuyến xe đều ngừng lại.
Ngày 3-5-1926 toàn thể công nhân, viên chức Nhà máy Cao su Sài Gòn bãi công.
Ngày 5-5-1926 toàn thể công nhân đóng tàu ở Xưởng Ba Son bãi công, học sinh Trường Bá Nghệ bãi khóa…
Công nhân tham gia dự mít tinh, biểu tình, v.v. đòi thả Phan Bội Châu, Nguyễn An Ninh, dự lễ truy điệu Phan Chu Trinh, thậm chí đánh nhau với bọn thực dân và tay sai theo phe Báo Vô tư của tên Đờlasơvôrôchie phản động trên đường phố Sài Gòn.
Đối với phong trào yêu nước của tầng lớp trí thức tiểu tư sản, Công hội tham gia tất cả các cuộc mít tinh, biểu tình, công khai nhưng vẫn giữ riêng tổ chức bí mật của mình. Ngay cả với nhóm Nguyễn An Ninh "chúng tôi đứng ngoài cửa tờ báo nhìn vào mà hoan nghênh" (Lời của đồng chí Tôn Đức Thắng).
Do giữ vững nguyên tắc bí mật nên Công hội từ khi ra đời (năm 1920) tới khi gia nhập vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (năm 1927), dù đã tham gia lãnh đạo, ủng hộ hầu hết các cuộc đấu tranh của công nhân, của những trí thức yêu nước, nhưng địch không biết và không phá được tổ chức. Trong những năm hoạt động trong Công hội bí mật, Tôn Đức Thắng được anh em thương yêu, tín nhiệm và bảo vệ chu đáo. Bản thân anh cũng thường xuyên thay đổi chỗ ở để che mắt địch và để thuận tiện hoạt động89.
Trong những năm Công hội bí mật tồn tại và hoạt động giai cấp công nhân Sài Gòn -Chợ Lớn không hề có tư tưởng cải lương, thỏa hiệp, không bị những phần tử cơ hội lôi kéo. Công hội có xu hướng cách mạng xã hội và hướng về nước Nga Xôviết, nơi mà Tôn Đức Thắng đã kéo lá cờ đỏ phản chiến trên Biển Đen vào một buổi sáng tháng 4-1919.
Phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn được đồng chí Nguyễn Ái Quốc quan tâm theo dõi khi Người còn ở bên Pháp thông qua nhiều bài báo, bài nói của Người trên diễn đàn quốc tế. Sau khi về Quảng Châu (Trung Quốc) tháng 12-1924 và tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (tháng 5-1925), Nguyễn Ái Quốc chú ý đến việc không có anh em Nam Kỳ dự học trong lớp huấn luyện đầu tiên cho cán bộ trong nước.
Theo lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc khi lớp học bế giảng (tháng l0-1926), Phan Trọng Bình xin về Nam Kỳ hoạt động vì có người cha là cụ tú Phan Trọng Cục (Phan Đình Viện), trước đây tham gia Phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng, bị Pháp khủng bố nên tránh vào Nam Kỳ đi tu và làm thầy thuốc ở Thủ Dầu Một (Sông Bé), Nguyễn Văn Lợi cũng xin đi theo.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao cho các đồng chí trên đây nhiệm vụ cụ thể là đem đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin về tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, trước tiên là qua chúng công nông rồi đến thanh niên học sinh, tiểu tư sản trí thức. Qua đó gây cơ sở Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Sài Gòn và lục tỉnh. Trước mắt là tìm cách liên hệ với phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn và Công hội bí mật của Tôn Đức Thắng, vận động thanh niên có tâm huyết gửi sang Quảng Châu (Trung Quốc) học tập...
Giữa tháng 10-1926, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi về đến Sài Gòn bắt tay vào việc tìm hiểu phong trào công nhân và phong trào yêu nước Nam Kỳ.
Sài Gòn và Nam Kỳ trong những năm 1925-1926 có bầu không khí chính trị rất náo nhiệt. Phan Bội Châu bị bắt và bị kết án tử hình. Phan Chu Trinh về nước diễn thuyết tư tưởng quân trị và dân trị. Nhiều cuộc diễn thuyết của Nguyễn An Ninh thu hút hàng ngàn, hàng vạn người tham dự. Nhiều tờ báo của người Việt Nam công kích chế độ thực dân qua việc bắt lính, bắt phu (Chuông Rè, Người nhà quê, Nước Nam trẻ). Những sự kiện đó đã đưa đến phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu, đòi thả Nguyễn An Ninh; phong trào để tang và truy điệu Phan Chu Trinh... biến thành những cuộc bãi công, bãi khóa hàng loạt khắp Nam Kỳ. Đối lập với phong trào yêu nước là một bộ phận của giai cấp địa chủ, tư sản giương cao ngọn cờ quân chủ rách nát hoặc chủ nghĩa "Pháp - Việt đề huề”.
Qua tìm hiểu các tổ chức công khai, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi chú ý đi vào phong trào công nhân để tìm ra tổ chức Công hội bí mật và Tôn Đức Thắng. Điều tra các cuộc bãi công của công nhân, các đồng chí chú ý đến cuộc bãi công ở Xưởng Ba Son năm 1925 là một cuộc bãi công không còn là tự phát nhằm mục đích kinh tế thuần túy; đó là một cuộc đấu tranh có tổ chức khéo léo với một mục tiêu chính trị nhất định, chứa đựng tinh thần quốc tế vô sản cao.
Trong khi tìm cách liên hệ với phong trào công nhân, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi tình cờ gặp hai người bạn có tinh thần yêu nước là Ngô Thiêm và Lê Mạnh Trinh đang tìm cách đi ra nước ngoài. Các đồng chí cũng gặp Nguyễn Văn Phát, người Bến Tre do ông Trần Nguyên Phụ - một nhà giáo yêu nước, bạn với bố Phan Trọng Bình giới thiệu. Do thời gian quá gấp, nên dù ít so với yêu cầu, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi đành gửi các anh sang Quảng Châu (Trung Quốc) cho kịp học khóa II.
Phát hiện được dấu vết của Công hội bí mật ở Xưởng Ba Son nhưng tìm gặp Tôn Đức Thắng không phải là điều dễ dàng, nhanh chóng. Đầu năm 1927 khi đi vào tìm hiểu Nguyễn An Ninh, được sự giúp đỡ của Mai Bạch Ngọc ở Báo Chuông Rè, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi mới tìm được Tôn Đức Thắng. Qua tiếp xúc, các anh cố tìm hiểu cụ thể quá trình hoạt động của Tôn Đức Thắng nhưng không ngờ mình cũng là đối tượng để Tôn Đức Thắng tìm hiểu lại.
Sau các cuộc trao đổi, Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi rất mừng là đã gặp được một nhân vật chủ yếu của một phong trào cách mạng tại chỗ. Các đồng chí tìm thấy ở Tôn Đức Thắng một người tiêu biểu cho giai cấp công nhân một nước thuộc địa, có ý thức giai cấp đồng thời có ý thức dân tộc sâu rộng, có quyết tâm đấu tranh và dày dạn kinh nghiệm vận động công nhân, có ảnh hưởng lớn trong giới thợ thầy.
Ngược lại, Tôn Đức Thắng gặp được những thanh niên yêu nước có hiểu biết ít nhiều về lý luận Mác - Lênin, có đường lối cách mạng mà Công hội và Anh đang cần. Đặc biệt đó lại là những người mà chính đồng chí Nguyễn Ái Quốc phái về nước tìm đến với Anh, với phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn.
Hiểu rõ tôn chỉ, mục đích, điều lệ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, Tôn Đức Thắng gia nhập ngay vào "Thanh niên" và giới thiệu các công nhân trong nhóm trung kiên của mình là Trần Trương, Trần Ngọc Giải, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm, Trần Văn Hòa, v.v. cho Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi kết nạp và đưa đi học lớp huấn luyện chính trị khóa III ở Quảng Châu (Trung Quốc).
Tôn Đức Thắng còn giới thiệu cho Phan Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi một số người ở Mỹ Tho có tinh thần yêu nước như cô Ba Viễn, một cô giáo có uy tín trong tỉnh. Cô Ba Viễn lại giới thiệu tiếp một số người khác, trong đó có chị Nguyễn Trung Nguyệt (Bảo Lương) được đi dự lớp huấn luyện chính trị khóa IV.
Nhờ có Tôn Đức Thắng, nên chỉ trong một thời gian ngắn Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội kết nạp được một số công nhân ưu tú của thành phố Sài Gòn và cả Nam Kỳ. Có thể nói qua Tôn Đức Thắng, tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội trong nước mới có được thành phần công nhân mà trước đó chỉ có anh em học sinh, tiểu tư sản, trí thức tham dự.
Tôn Đức Thắng và Công hội bí mật đã gia nhập vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đánh dấu một bước chuyển quan trọng của phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ đây giai cấp công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn và cả Nam Kỳ đã có được một tổ chức cách mạng, có một đường lối chính trị rõ ràng. Và Tôn Đức Thắng xứng đáng là người lãnh tụ đầu tiên của công nhân Nam Bộ, là người chuẩn bị miếng đất tốt cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc gieo hạt giống mácxít lêninnít ra hoa kết trái.
TÔN ĐỨC THẮNG VÀ VIỆT NAM THANH NIÊN CÁCH MẠNG ĐỒNG CHÍ HỘI
Giữa năm 1927, số thanh niên Nam Kỳ học khóa II, III lần lượt về nước. Cơ sở Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội đã xây dựng khắp lục tỉnh. Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội Nam Kỳ được thành lập tại Sài Gòn có các đồng chí Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi, Tôn Đức Thắng, Ngô Thiêm, Nguyễn Văn Phát, v.v.. Thành bộ Sài Gòn cũng được thành lập do Tôn Đức Thắng làm Bí thư và các đồng chí Trần Trương, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm, Trần Văn Hòa, v.v..
Là người lãnh đạo công nhân. Lại có mối quan hệ rộng rãi với các tầng lớp trí thức yêu nước ở Sài Gòn, Tôn Đức Thắng được Kỳ bộ giao khá nhiều nhiệm vụ như chuyển các tổ Công hội bí mật sang Công hội đỏ, chọn lựa hội viên tích cực giới thiệu kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, chọn người đi học ở Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức hệ thống liên lạc và xây dựng cơ sở tài chính cho Kỳ bộ. Để gây quỹ và phục vụ công tác giao thông liên lạc, ngoài garage sửa chữa máy móc ở Cầu Kiệu, Tôn Đức Thắng mua thêm một chiếc xe khách chạy đường Sài Gòn: Mỹ Tho, Vĩnh Kim giao cho Trần Văn Hòa phụ trách. Chiếc xe đó là một phương tiện đi lại công tác rất thuận lợi, đôi lúc còn dùng làm "phòng họp lưu động" cho Kỳ bộ, địch không thể nào biết được.
Ban liên lạc Kỳ bộ cũng được tổ chức từ các anh em liên lạc của Công hội bí mật. Trong buổi lễ kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội tại đình Bình Đông (quận 8), anh Hai Thắng đã căn dặn: "Bây giờ các tổ chức của các đồng chí đã trở thành Ban liên lạc của Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Nhiệm vụ là phải đưa thư từ, tài liệu không những khắp các hãng, xưởng trong thành phố mà còn phải đi khắp các tỉnh tập hợp anh em lại và tổ chức thành các chi bộ của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội"90.
Tôn Đức Thắng cũng chú trọng xây dựng cơ sở Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội trong giới trí thức yêu nước. Qua anh Sáu Bá làm việc ở Báo Thần chung, Tôn Đức Thắng kết nạp anh Ba Chức, một viên chức ở Sở Bưu điện Sài Gòn đã từng tham gia nhóm "An Nam trẻ" vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Việc liên lạc của Kỳ bộ càng trở nên thuận lợi hơn.
Ban Chấp hành Kỳ bộ đa số là các đồng chí ở nơi khác đến nền Tôn Đức Thắng kiêm nhiệm nhiều việc, đôi lúc phải đi các tỉnh để nắm tình hình. Anh dồn sức cho sự nghiệp cách mạng và chị Đoàn Thị Giàu vợ Anh đã góp phần giúp Anh hoàn thành nhiệm vụ.
Xuất thân từ một gia đình có truyền thống chống ngoại xâm, chị Giàu thấy rằng mình không thể nào đứng ngoài công việc chung được. Khi chị Nguyệt học ở Quảng Châu (Trung Quốc) về xây dựng tổ chức của chị em phụ nữ thì chị tham gia tích cực vào đoàn thể. Chị Giàu cùng chị Sáu Bá, Ba Chức và chị em thợ may khác thành lập một tổ phụ nữ, hằng tháng đều có họp hành bàn công việc. Đôi lúc các chị lấy rau câu in truyền đơn, tài liệu, báo chí bí mật. Qua những lần cùng chồng về quê ở Vĩnh Kim, chị đã góp phần xây dựng nhiều tổ chức Nông hội trong vùng91. Ngoài ra chị còn tổ chức hùn hạp với những người tốt mở tiệm vựa mắm, tiệm thuốc bắc giúp cho Kỳ bộ có nguồn tài chính tương đối đầy đủ.
Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, trong đó có sự góp phần to lớn của Tôn Đức Thắng, phong trào công nhân Nam Kỳ phát triển mạnh mẽ. Công hội đỏ được tổ chức ở nhiều nơi, từ Sài Gòn lan rộng ra các đồn điền cao su, nơi mà công nhân bị bóc lột tàn tệ nhất. Đấu tranh, bãi công của công nhân Nam Kỳ diễn ra liên tục trong những năm 1927-1929, nổi tiếng nhất là cuộc bãi công ở đồn điền cao su Cam Tiên ngày 20- 9-1928. Không chịu nổi áp bức, bóc lột, công nhân đồn điền Cam Tiên đã bãi công, giết tên quản lý người Pháp, lập đội tự vệ vũ trang bảo vệ đồn điền. Thực dân Pháp phải điều lính đến đàn áp, nhiều người chết, bị thương và hàng trăm người khác chạy trốn vào rừng. Cuộc đấu tranh có tiếng vang đến tận Paris, Tổng Liên đoàn lao động Pháp và báo chí tiến bộ đều lên tiếng ủng hộ công nhân Việt Nam, chống thực dân khủng bố...
Phong trào cách mạng ở Nam Kỳ đang phát triển sôi nổi thì cuối năm 1928 tại Sài Gòn xảy ra một sự kiện làm cho Kỳ bộ Nam Kỳ bị phân rã. Phần lớn Ban lãnh đạo của Kỳ bộ và Thành bộ Sài Gòn là tầng lớp trí thức tiểu tư sản từ nhiều nơi hợp lại, trong đó có một số phần tử cơ hội. Vì vậy trong Kỳ bộ đã xuất hiện tư tưởng tranh giành quyền lãnh đạo, để rồi dẫn đến việc xử tử một đồng chí trong Kỳ bộ vì tội "quan hệ nam nữ bất chính".
Trong cuộc họp chung của Kỳ bộ và Thành bộ, Tôn Đức Thắng phản đối bản án tử hình và yêu cầu phải xin ý kiến của Tổng bộ. Nhiều ý kiến ủng hộ Anh nhưng cũng có nhiều ý kiến tán thành xử tử, hoặc đứng giữa không rõ ràng. Cuối cùng trước sức ép của một số người lãnh đạo Kỳ bộ, hội nghị đi đến quyết định xử tử đồng chí mình.
Vụ giết người bị phát giác nhưng chính quyền thực dân cho là một vụ án hình sự nên không đi sâu tìm hiểu.
Đầu năm 1929 Tổng bộ biết rõ sự việc nên kịch liệt phê phán Kỳ bộ Nam Kỳ và quyết định giải tán Ban chấp hành cũ lập Kỳ bộ mới do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Bí thư, các đồng chí trong Kỳ bộ cũ lánh né khắp nơi, Tôn Đức Thắng vẫn ở lại Sài Gòn, ngày ngày đi làm ở Hãng Kroff và tiếp tục liên lạc, chỉ đạo các tổ Công hội đỏ hoạt động bình thường.
Giữa năm 1929 trong lúc Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội bị phân liệt vì xu hướng thành lập Đảng Cộng sản phát triển mạnh mẽ, đánh dấu bằng sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ (6-1929), thì vụ án đường Barbier bị thực dân phát giác do những tên phản bội chỉ điểm. Một vài người trong tổ chức bị bắt.
Biết mình có thể bị địch bắt, Tôn Đức Thắng thu xếp cho vợ về Mỹ Tho sinh nở đứa con thứ ba. Anh về Long Xuyên từ giã người thầy cũ của mình là ông Năm Khách. Bên kia sông là nhà cửa quê hương nhưng Anh không muốn để cho gia đình liên lụy nên quay lại Sài Gòn.
Về Sài Gòn, Tôn Đức Thắng tìm những người đồng chí gần gũi dặn dò cố gắng giữ vững tổ chức trước cuộc khủng bố của địch. Tôn Đức Thắng có ý định qua Xiêm nên những ngày còn lại ở Sài Gòn, Anh lo thu xếp công việc của tổ chức vì Anh là người nắm rất nhiều đầu mối.
Năm giờ chiều ngày 23-7-1929, Tôn Đức Thắng bị bắt tại chân Cầu Kiệu khi cùng đồng chí Trần Trương trên đường về nhà. Cũng trong ngày hôm đó địch bao vây trụ sở Kỳ bộ tại hẻm đường Lacadơ (nay là Nguyễn Tri Phương) và một số cơ sở ở đường Ferơlui (nay là Nguyễn Trãi). Ngày 29-7-1929, chúng chặn bắt đồng chí Phạm Văn Đồng tại ga xe lửa Sài Gòn. Làn sóng khủng bố lan rộng ra các tỉnh Nam Kỳ, nhiều đồng chí lãnh đạo khác cũng bị bắt.92
Tôn Đức Thắng và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội Nam Kỳ bị giam giữ gần một năm ở Khám Lớn - Sài Gòn. Tra tấn, hăm dọa, mua chuộc, v.v. hằng ngày, nhưng thực dân Pháp chẳng moi được ở Anh những gì về tổ chức cách mạng. Dùi cui của địch để lại cho Anh một cái bướu sau gáy to tướng, thường xuyên đau nhức. Trong ngục tù đế quốc, Tôn Đức Thắng vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản, động viên, an ủi đồng chí mình tin tưởng vào sự tất thắng của tương lai.
Phong trào cách mạng Việt Nam vẫn tiếp tục mạnh mẽ.
Xu thế thành lập Đảng Cộng sản đã dần dần thắng thế trong nội bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Tháng 6-1929 Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời ở Bắc Kỳ. Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Sài Gòn và tháng 1-1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời ở Trung Kỳ... Ngày 3-2-1930 Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đánh dấu một thời kỳ vẻ vang của dân tộc.
Với những phẩm chất cao quý của người cộng sản, dù bị giam giữ trong Khám Lớn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và các đồng chí khác được An Nam Cộng sản Đảng quyết định kết nạp vào Đảng93.
Sau những ngày xét xử các đồng chí Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội Nam Kỳ bị bắt trong năm 1929, ngày 25-6-1930 tòa án thực dân tuyên bố với ba án tử hình. Các đồng chí còn lại từ 3 đến 20 năm tù.
Đêm 2-7-1930 chiếc tàu Armand Roussean lặng lẽ nhổ neo rời Cảng Sài Gòn, trong đó có một người tù với bản án 20 năm khổ sai. Người đó là đồng chí Tôn Đức Thắng, người lãnh tụ đầu tiên của giai cấp công nhân Nam Kỳ, người đảng viên cộng sản luôn giương cao ngọn cờ yêu nước và quốc tế vô sản trong sáng.
Phía trước là cuộc chiến đấu mới...
NHỮNG CHUYỆN CẢM ĐỘNG VỀ GIA ĐÌNH BÁC TÔN94
TÔN THỊ HẠNH
…
Mẹ tôi tên là Đoàn Thị Giàu, tên thường gọi là Hai Oanh, mẹ tôi lấy ba tôi không phải là việc thường tình của người con trai và người con gái lấy nhau, mà là việc đền ơn trả nghĩa. Vì khi ba tôi sang Pháp cùng đi có một người tên là Ba Sứ, sau này là cậu của tôi (em ruột của mẹ tôi). Khi còn sống, cậu tôi có viết thư về gia đình bảo ông ngoại tôi nên gả mẹ tôi cho ba tôi. Đến khi cậu Ba tôi ốm rồi chết, ba tôi đã chăm sóc và tổ chức chôn cất chu đáo. Khi ba tôi về nước, có tìm đến gia đình đưa ảnh của cậu Ba tôi đang nằm trong quan tài và một số đồng đội đứng cạnh quan tài, trong đó có ba tôi (ảnh đưa cho ông bà cố và ông ngoại tôi). Để trả cái ơn trên, ông bà cố tôi và ông ngoại tôi quyết định gả mẹ tôi cho ba tôi.
Sau khi ba mẹ tôi cưới nhau, đưa nhau lên Sài Gòn ở, má tôi chỉ biết ba tôi ngày hai buổi đi làm và mỗi tháng dưa cho mẹ tôi 150 đồng, còn việc ba tôi hoạt động cách mạng thì mẹ tôi không biết. Nhưng dần dà rồi cũng biết. Mẹ tôi lo ăn ngày ba bữa cơm nước phục vụ cho mọi người trong nhà, trong đó có những người hoạt động cách mạng (Sáu Trương, Hai Nguyệt, Thọ Cụt, v.v). Sau vụ đường Barbier, mặc dù ba tôi không tham gia nhưng ba tôi biết thế nào cũng bị bắt nên nói thật với mẹ tôi. Mẹ tôi bảo: “Anh đi làm cách mạng, làm việc phải, lẽ nào tôi lại ngăn anh, anh yên lòng đi". Sau lần ấy, ba tôi đưa mẹ tôi về quê, ở nhờ nhà ông Sáu tôi ở Vĩnh Kim Lúc bấy giờ mẹ tôi đang có thai đứa con thứ ba. Khi bụng to sắp đến ngày đẻ thì được tin ba tôi bị bắt, mẹ tôi buồn muốn chết, nhưng nhìn lại hai đứa con còn nhỏ và bụng mang dạ chửa, mẹ tôi cố nguôi ngoai để sống nuôi con (theo lời mẹ tôi kể). Sau khi mẹ tôi sinh đứa con thứ ba, nó là con trai, mẹ tôi đặt tên là Tôn Đức Liêm, lúc bấy giờ mới nghĩ đến việc làm ăn buôn bán, nuôi thỏ, nuôi gà, nuôi lợn Mỗi tháng một lần gánh gà, gánh thỏ lên Sài Gòn bán, đồng thời dò thăm tin tức của ba tôi. Được biết ba tôi bị giam ở bót Catina, một hôm mẹ tôi đưa tôi và thằng em thứ ba lên bót Catina để thăm ba tôi. Khi đến cửa bót, mẹ tôi dặn tôi "con có gặp ba thì đừng khóc mà ba buồn". Vào đến nơi gặp ba tôi, thấy ba tôi bị còng chân, tôi cúi đầu xuống muốn khóc nhưng mẹ tôi thì cười nói tự nhiên và đưa thằng em tôi cho ba tôi bế. Ngồi chơi một tí thì lính mã tà đến đuổi mẹ con tôi ra, ra khỏi cổng bót, mẹ con tôi mới dám khóc và từ đấy cứ mỗi tháng một lần mẹ tôi lại gánh gà, gánh thỏ lên Sài Gòn bán.
Hôm Tòa đại hình đưa ba tôi và nhiều người nữa ra xử, mẹ tôi lại dắt tôi và hai em tôi lên xem xử ba tôi, cốt để ba tôi được trông thấy mặt chúng tôi, mỗi khi lính dẫn ba tôi đi qua, thế nào mẹ tôi cũng cố đưa chúng tôi đến gần để ba tôi được trông thấy mặt. Phiên tòa ban sáng kêu xử tử ba tôi, mẹ con tôi chỉ biết khóc, đến chiều tòa lại xử khác kêu án ba tôi 20 năm khổ sai đày đi Côn Đảo.
Sau phiên tòa, mẹ tôi lại về ở Vĩnh Kim, trong nhà có nuôi một cụ bà tên là bà Sáu, khi mẹ tôi đi Sài Gòn bán gà, thỏ, ba chị em tôi phải ở nhà với bà Sáu. Về sau có bà Bảy Nhu và đàn con nhỏ cùng về ở đấy; ông Bảy Nhu cũng làm cách mạng, bị Pháp truy nã. Một hôm có người cho mẹ tôi biết chúng nó định bắt bà Bảy Nhu để truy ra ông Bảy Nhu. Mẹ tôi bảo bà Bảy Nhu nên ra chợ Giữa ở tạm, rồi tìm cách trốn đi. Bà Bảy Nhu nghe lời trốn ra chợ Giữa. Ngay đêm hôm ấy một thằng cò Tây và hai thằng lính mã tà đến nhà tôi, hỏi mẹ tôi “Vợ Nhu đâu?", mẹ tôi bảo "Vợ Nhu đi Mỹ Tho chữa bệnh". Nó hỏi đi hỏi lại nhiều lần, mẹ tôi vẫn nói thế, chúng nó bèn đưa nhau về Mỹ Tho, thế là bà Bảy Nhu chạy thoát, ông Bảy Nhu trốn lên Nam Vang không bị bắt.
Ba tôi ở ngoài Côn Đảo, thỉnh thoảng gửi thư về. Có lần qua thư ba tôi khuyên mẹ tôi nên tái giá, mẹ tôi giận bảo với tôi "Ba mày coi thường tao quá". Sau đấy mẹ tôi viết thư bảo với ba tôi “Tôi có chồng rồi, có ba đứa con, đứa lớn tên Hạnh, đứa thứ hai tên Nghiêm, đứa út con trai tên Liêm", đọc thư, ba tôi biết mẹ tôi giận, viết thư xin lỗi.
Nói về thằng em trai tôi lúc bấy giờ nó mới lên ba tuổi, do mẹ tôi mải lo buôn bán kiếm sống để ba chị em tôi ở nhà với bà Sáu - thằng em tôi đột nhiên bị sốt, bà Sáu cho em tôi uống thuốc không đúng bệnh. Khi mẹ tôi về thì em tôi trong tình trạng ốm nặng, không cách cứu chữa, nó chết trên tay mẹ tôi, mẹ tôi đau khổ vô cùng, từ hôm ấy bỏ nghề đi buôn Sài Gòn. Có người bảo mẹ tôi về Kim Sơn, ở đấy ông tôi còn để lại hơn một mẫu vườn; về đấy trồng trọt, chăn nuôi may ra đủ sống - Mẹ tôi nghe lời rời nhà về Kim Sơn, nuôi lợn, nuôi gà, trồng trọt và bán trái cây ở trong vườn để sống. Được vài năm thì cậu Sáu tôi lấy vợ, đưa vợ về ở đấy, mẹ tôi nhường nhà cho cậu tôi, đưa tôi và em tôi về Vĩnh Kim, cất một cái chòi bằng lá gần đường để bán bánh tét và nuôi lợn. Ít lâu sau, cậu Sáu tôi bị bắt lính, mợ Sáu tôi đưa con về bên ngoại. Mẹ tôi thôi nghề bán bánh tét lại dọn nhà về Kim Sơn ở trên mảnh vườn cũ. Mảnh vườn này cậu tôi đã cầm cố người ta, thành ra hằng năm mẹ tôi vừa phải trả tiền thuê vườn, vừa phải lo đóng thuế vườn cho chính quyền sở tại, thu hoạch bán trái cây trong vườn không sao đủ sống, mẹ tôi làm thêm nghề bán quán, mua một cái nhà nhỏ gần đường để bán hàng tạp hóa như đỗ xanh, đỗ đen, muối, nước mắm, dầu, lửa, v.v.. Tiền mua nhà và vốn liếng buôn bán là tiền đi vay. Có vay mà không có trả, mẹ tôi phải để quán lại cho người ta rồi đưa tôi lên Nam Vang kiếm sống. Lúc đầu ở nhờ nhà người em họ để buôn bán. Mẹ tôi bán cháo, bán chè. Làm nghề này vất vả phải đi khắp phố phường, rao rát họng mà vẫn ế, không bán được. Có người rủ mẹ tôi đi làm mướn. Mẹ tôi và tôi phải đi làm bồi cho nhà Tây sếp, chuyên quét dọn, giặt giũ quần áo cho nhà nó; nhà nó đông người phục vụ vất vả, hai mẹ con tôi làm đến tối mịt vẫn không hết việc. Tối ngủ phải nằm dưới đất, gần cầu thang, gần chỗ nấu bếp. Con mẹ chủ nhà, vợ thằng sếp, là người Việt lai Ấn Độ, người ăn người ở làm gì trái ý nó thì nó thét lác chửi bới. Một hôm mẹ tôi nấu nước giặt quần áo quên để cạn nước, suýt cháy quần áo của nó, nó thét lác to tiếng với mẹ tôi. Tối hôm ấy khi đi ngủ, tôi ôm mẹ tôi và bảo “Má ơi! Ba làm cách mạng mà làm gì để mẹ con mình phải khổ như thế này?"; mẹ tôi trầm tĩnh bảo tôi "Mẹ con mình khổ, ba con ở tù còn khổ hơn mẹ con mình nhiều, thôi ngủ đi con". Làm bồi được hơn một năm thì may quá có người báo tin cho ông Nguyễn Tài Đức (Mười Đức), người mà trước đây ba má tôi nuôi ăn học đỗ kỹ sư, nay nghe mẹ tôi đi ở, chú Đức gửi cho mẹ tôi 100 đồng và bảo mẹ tôi về, không nên đi ở. Mẹ tôi có được 100 đồng liền báo với chủ, xin thôi việc, nó cho mẹ tôi thôi việc mà vẫn giữ tôi ở lại vừa làm bồi vừa thêu, khâu cho nó. Được nửa năm tôi xin nghỉ về thăm mẹ rồi ở luôn dưới quê không lên Nam Vang nữa.
Mẹ tôi có được 100 đồng đủ trang trải nợ nần, từ đấy sống yên ở quê không đi đâu nữa. Một lần nghe tin ba tôi vượt Côn Đảo về Cà Mau, mẹ tôi một mình đi xuống Cà Mau tìm ba tôi nhưng không gặp. Và một lần nghe một lãnh tụ Tờrốtkít (xin phép không nêu tên) nhắn tin cho mẹ tôi "Nếu mẹ tôi muốn cho ba tôi được về thì sang Long Xuyên gặp ông ấy, ông ấy sẽ bày cách". Mẹ tôi và em gái tôi đi Long Xuyên tìm gặp được ông ấy, ông ấy bảo mẹ tôi làm đơn gửi cho Nhật xin cho ba tôi ra tù và hứa khi ba tôi ra tù sẽ làm việc cho Nhật. Mẹ tôi bảo "Không được đâu ông ạ, tôi mà làm thế thì ba sắp nhỏ tôi rầy lắm", thế là mẹ tôi bỏ về không đơn từ gì cả.
Thời gian này mẹ tôi chả buôn bán gì, chỉ làm vườn và nuôi lợn, có một máy khâu, tôi khâu vá thêm cũng đủ sống qua ngày cho đến khi ba tôi về.
Ba tôi về chỉ ở nhà với mẹ con tôi có một ngày rồi ra đi công tác. Hai chị em tôi cũng được đoàn thể dìu dắt, vào đội công tác tuyên truyền xung phong đi các tỉnh rồi ra Bắc. Mẹ tôi ở nhà một mình, sau rồi cũng được đoàn thể đưa lên căn cứ địa (Đồng Tháp Mười) làm công tác nuôi trẻ cho đến năm 1954 thì tập kết ra Bắc. Hai mươi sáu năm xa cách, lúc gặp lại nhau, ba mẹ tôi đều già cả, mẹ tôi già không làm được gì, chỉ ở nhà giúp con, nuôi cháu và giúp ba tôi khi ốm đau. Ba tôi tuy có người giúp việc, nhưng mẹ tôi vẫn tự lao động lấy; từ giặt quần áo đến cơm nước, làm được việc gì thì làm không hề sai ai cả. Cho đến khi mẹ tôi bị bệnh liệt, mới chịu để người giúp việc giặt quần áo cho mình.
… Về cách sống giản dị của cha mẹ tôi? Theo tôi chuyện ấy dĩ nhiên thôi; vì ngày xưa ba mẹ tôi sống khổ quá, nay sống trong hoàn cảnh mới, ba mẹ tôi vẫn giữ nếp suy nghĩ, nếp sống gần như trước, sống tự lực, tự lao động, không muốn phiền hà người khác, không muốn "sai phái" ai. Riêng tôi, tôi học gương mẹ tôi về đức tính thủy chung, chờ chồng, nuôi con, dù phải gặp nhiều gian khổ cũng chịu, không kêu ca phàn nàn gì. Mẹ tôi còn có đức tính thương người, khi giàu cũng như lúc nghèo; giàu có nuôi người đã đành, nhưng khi nhà tôi nghèo, ai đến cần nương tựa, mẹ tôi cũng nuôi, có rau ăn rau, có cháo ăn cháo, vui vẻ như thường.
NHƯNG MẨU CHUYỆN TRONG ĐỜI THƯỜNG CỦA BÁC TÔN95
TÔN THỊ TUYẾT DUNG96
BÁC ĐÃ GIÁO DỤC TÔI NÊN NGƯỜI
Người cộng sản chân chính đầu tiên tôi được gặp, được biết là Bác Tôn. Tôi chịu sự giáo dục nhiều nhất, hoàn thiện nhất những phẩm chất tốt đẹp cũng ở Bác Tôn. Cứ mỗi ngày một ít, mỗi lần một chút, Bác đã giáo dục tôi thành người cộng sản lúc nào không hay. Không lý luận cao xa, "không đao to búa lớn" mà bằng những câu chuyện, những việc làm nho nhỏ, những thái độ cử chỉ ôn hòa, những lời nói giản dị trong đời thường của Bác đã giáo dục tôi nên người hữu ích cho xã hội, cho gia đình.
Hàm ơn gia đình Bác! Bác đã dạy tôi sống phải biết yêu thương, tôn trọng con người. Bác dạy cho tôi biết sống bằng sức lao động của chính mình, không dựa dẫm ỷ lại; phải kiên trì, nhẫn nại, không đầu hàng trước khó khăn, không khuất phục trước kẻ thù và bất cứ một uy lực nào, Bác thường nói: "Nếu hướng đi đúng đắn ta đã chọn, tâm hồn ta trong sáng, ý chí, quyết tâm ta mạnh mẽ thì không chướng ngại nào ta không vượt qua được; không có gì ta không làm nên!". Bác là người cha đã dạy tôi như thế đó.
Cũng như các anh chị trong gia đình, tôi hiểu biết về cuộc đời hoạt động cách mạng của cha mình rất ít; thậm chí còn ít hơn sự hiểu biết của người ngoài rất nhiều. Nhớ lại những lời nói, việc làm, thái độ đối với con cháu trong gia đình, tôi bồi hồi xúc động.
Trước hết tôi xin mạo muội giới thiệu về mình. Tôi sinh ra trong một gia đình “hữu sản”98, ông chú ruột tôi là Giáo chủ đạo Cao đài Phạm Công Tắc, ông nội tôi thứ hai, ông chú tôi thứ tám. Cha tôi có một thời làm Thanh tra cho Tòa thánh Tây Ninh. Thuở nhỏ, tôi có sống ở Tòa thánh với ông chú, bà thím tôi vài tháng (năm 1942). Có một lần ông Dương Bạch Mai99 nói chuyện với Bác Tôn ở nhà riêng tại Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (phố Tràng Thi, Hà Nội).
Ông Mai nói: "Đáng lẽ tôi nuôi cháu mới phải. Vì ba cháu là anh bạn thân của tôi".
Bác Tôn nói lại:
- Tôi hay anh nuôi cháu cũng vậy thôi. Tôi thương cháu còn nhỏ mà đã sớm có lòng yêu nước.
Tôi tham gia ca hát để ủng hộ "Tuần lễ vàng", tham gia vào bộ đội Nam tiến làm liên lạc cứu thương; rồi trôi dạt theo đoàn ra Bắc. Việc làm đó được Bác Tôn đánh giá: Đó là nghĩa cử yêu nước.
Thật ra, lúc đó còn nhỏ, tôi chưa ý thức sâu sắc được như vậy.
Sống trong tình thương yêu đùm bọc của gia đình Bác Tôn, dần dà tôi khôn lớn và trưởng thành theo cách mạng.
Vào thời điểm (năm 1946) mà ranh giới giữa ta và địch chưa phân minh; nguồn gốc, lý lịch gia đình còn đè nặng lên sự phấn đấu của bản thân mà Bác Tôn vẫn nhận tôi làm con, tôi mới thấy hết tình cảm cao cả, bao la của Bác.
Có một lần Bác bảo: "Bây giờ con lấy họ của Ba. Mai kia về Nam con muốn lấy lại “họ gia đình” cũng được. Vì Ba khai vào lý lịch con là con của Ba”. Bác lại căn dặn thêm: “Vào lúc này con không nên liên lạc với gia đình trong Nam; tốt không sao, nhỡ có sự cố gì xấu, làm ảnh hưởng đến tư tưởng công tác, không lợi". Bác nói ít, nhưng tôi hiểu.
Thế là suốt 30 năm ở miền Bắc, tôi đau đáu nhớ gia đình, nhớ quê hương, song tôi không hề tìm hiểu để liên lạc và không biết gì về gia đình mình cả.
Từ lúc còn nhỏ cho đến khi khôn lớn, mỗi lần gặp Bác là tôi hỏi đủ điều. Và điều gì cũng được Bác giải đáp rõ ràng, cặn kẽ. Bác đang nói gì về cộng sản... tôi hỏi:
- Ba ơi, chú Nguyễn Văn Tạo100 có phải là cộng sản không?
Bác đáp: - Có!
- Thế còn chú Trần Văn Giàu?
- Cũng phải!
- Còn chú Trần Công Trường - Luật sư thì sao? Cũng là đảng viên? Sao con hỏi nhiều thế?
- Con hỏi để con thương.
Người cộng sản ban đầu tôi nhận thức được là người chịu đựng gian khổ, biết hy sinh vì nghĩa lớn. Người cộng sản có lòng thương người bao la như Bác Tôn đáng để kính yêu. Thấy người ta gây gổ, hục hặc với nhau tôi cũng thắc mắc và than phiền. Bác thường giải đáp: “Vì vậy ta mới phát giác ngộ cho mọi người và phải làm cách mạng để đổi đời và làm cho con người tốt hơn". Những điều Bác giảng giải giản dị, dễ hiểu tôi đều nhập tâm. Cho tới bây giờ, trải qua nhiều năm tháng, tiếp xúc với nhiều đảng viên già, trẻ, xưa và nay đi mới có dịp để so sánh và nhận biết đâu là đảng viên chân chính, đâu là đảng viên cơ hội và đâu là đảng viên giả danh...
Được gia đình Bác nuôi dưỡng và giáo dục, lúc nào tôi cũng tâm niệm "sống sao cho xứng đáng". Cho đến lúc này, tôi dám khẳng định rằng: Tôi đã sống theo gương Bác.
Với tuổi trẻ tôi đã sống mãnh liệt, hết mình vì lý tưởng: Học tập và cống hiến; yêu thương, giúp đỡ đồng nghiệp, bạn bè thân sơ. Và cũng đã được đồng chí, đồng nghiệp, bạn bè và học sinh thương yêu. Những thành quả giáo dục mà tôi đã đạt được, những niềm vui trong cuộc sống tôi có nhiều, xin dâng lên Bác để thể hiện lòng biết ơn!
Một vài bức thư trong những bức thư Bác gửi cho vợ chồng tôi trong thời điểm khó khăn nhất - đế quốc Mỹ đánh phô ra miền Bắc - đã giáo dục, động viên chúng tôi rất nhiều về mọi mặt.
Hơn nữa, tôi nhận thấy một khía cạnh trong cuộc sống ngày nay, nhiều người còn thiếu, còn thờ ơ hay quên lãng, đó là sự chăm lo giáo dục con em trong gia đình. Bác Tôn bận việc nước nhưng vẫn dành thời gian cho con cháu, nhất là khi chúng gặp khó khăn. Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình bất ổn "suy vong" thì xã hội đâu có "hưng thịnh" được!
BỨC THƯ BỊ TRẢ LẠI
Những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1947-1948-1949…) Chính phủ ta rất nghèo, hầu hết hưởng lương bằng gạo. Bộ, Thứ trưởng đều phải ăn một bữa cơm, bữa cháo. Ngay chú Lê Văn Hiến - Bộ trưởng Bộ Tài chính của nước ta lúc ấy cũng vậy; một bữa cơm và một bữa cháo bắp, rau ăn là rau rừng, măng tre, v.v.. Cùng một chế độ như vậy, Bác Tôn cũng gặp khó khăn khi phải nuôi tôi đi học. Hai chị Hạnh, Nghiêm lúc ấy đã phải đi làm. Cho nên Bác viết thư khuyên tôi về, đợi khi nào gia đình có điều kiện hãy tiếp tục học. Nhận được thư tôi rất buồn. Tôi liền đi mua giấy pelure thật trắng, cắt đăng ten xung quanh cẩn thận và viết thư thật dài gửi về, tha thiết xin được ở lại học.
Sau một tháng, tôi lại nhận được chính bức thư mình gởi đi và trên phong bì cũ có đóng dấu ghi địa chỉ ATK (an toàn khu ở Tuyên Quang lúc ấy). Như vậy là thư này đã đến nơi, chứ không phải không có người nhận? Tôi vội bóc ra xem với tâm trạng hoang mang chưa hiểu vì sao! Chắc Bác Tôn không cho đi học rồi, mới gửi trả lại như vậy...
Thế nhưng không phải Bác viết lại mặt sau mà tôi bỏ trắng. Nội dung thư của Bác đồng ý cho tôi tiếp tục học có sự giúp đỡ của các chú, các bác ở ATK và còn kể nhiều chuyện vui về gia đình như nuôi được dê để lấy sữa, phát hiện được một nơi có nhiều rau rừng để ăn... Bác không bảo phải tiết kiệm giấy. Song tôi hiểu.
Từ đó trở đi, mỗi lần viết thư về gia đình tôi không dám viết giấy một mặt nữa và tự làm phong bì bằng giấy báo rồi dán lên một tờ giấy trắng nhỏ để ghi địa chỉ. Đó là năm đầu cách mạng, mọi mặt đều thiếu thốn.
A DUA HAY YÊU NƯỚC?
Đầu năm 1950, chuẩn bị mở Chiến dịch Biên giới; Lệnh tổng động viên của Chính phủ và Bộ tổng Tư lệnh được ban hành: Các phái đoàn tuyển quân lần lượt về các trường trung học tuyên truyền, giáo dục và tuyển quân. Tuy chưa xin phép gia đình nhưng tôi cũng ghi tên tòng quân vào dịp này. Bởi tôi nghĩ, Bác Tôn là Trưởng ban thi đua yêu nước thì việc đầu quân của tôi là đúng đắn. Mặt khác, do không hiểu biết gì về chiến sự nên tôi cứ đinh ninh rằng chiến tranh sắp kết thúc. Việc trở lại đi học của tôi chẳng còn bao lâu nữa!... Thế rồi gần một năm, Chiến dịch Biên giới đã thắng lợi rực rỡ. Nhưng chiến tranh thì vẫn còn tiếp diễn. Các chiến dịch khác (Trung du, Hòa Bình, v.v.) vẫn tiếp tục mở rộng. Các trường học lại bắt đầu khai giảng, bạn bè tôi lục tục kẻ trước, người sau kéo về đi học. Tâm trạng tôi lúc này thật xao xuyến, dao động, v.v.. Tôi bèn quyết định xin nghỉ phép để về xin Bác Tôn cho đi học lại. Lòng hăm hở ra về, hy vọng với lòng thương con, thế nào Bác cũng đồng ý. Ở nhà được vài hôm, nhân một buổi tối, thấy không khí gia đình vui vẻ tôi liền mạnh dạn đề xuất:
- Ba ơi các bạn của con lần lượt đi về học cả rồi. Tình hình này - chiến tranh còn kéo dài - con sợ còn nhỏ không học, mai kia lớn tuổi học không vào.
Lặng im nghe tôi nói, chờ dứt lời, Bác ôn tồn bảo:
- Thế con đi tòng quân là a dua hay con yêu nước? Nếu con yêu nước thì con tiếp tục đi. Mai kia, nước nhà được giải phóng, nếu con đi học với động cơ là để làm việc tốt thì dù con có lớn tuổi, tổ chức vẫn cứ bắt con đi học, không đi, không được đâu Còn nếu con a dua theo chúng bạn, thấy bạn đi thì mình đi, thấy bạn về thì con xin về...
Yên lặng một lát, Bác nói tiếp:
- Ba nói như vậy con nghe có phải không? Tùy con quyết định. Thế rồi Bác vui vẻ nói sang chuyện khác. Còn tôi, tôi cảm thấy ân hận vì những ý nghĩ nông nổi với việc làm thiếu chín chắn của mình. Nghiêm khắc mà nói là tôi a dua chứ còn gì nữa. Nghĩ vậy, hai hôm sau, lòng hăm hở, dứt khoát tôi lại vác balô con cóc lên đường.
Cách giáo dục đối với con cháu của Bác là thế đó. Bác không nhiều lời, không yêu cầu một cách áp đặt mà nhẹ nhàng giải thích, để cho mình tự suy nghĩ, tự quyết định. Tôi nhớ có một lần với cháu ngoại, Bác cũng vậy. Tôi thấy Bác Tôn đi đi lại lại như đang suy nghĩ một việc gì hệ trọng lắm, tôi liền hỏi:
- Thưa Ba, chắc Ba có việc phải nghĩ?
- Ba đang nghĩ xem nên nói với cháu Vân như thế nào để cháu nhận thức ra vấn đề. Chứ cái lối dạy con của Nghiêm (chị thứ hai con gái Bác) là không có được. Rầy mắng, la lối om xóm mà chẳng giải thích cho nó biết tại sao không được thế, và làm như thế có hại gì? Hơn nữa, phải xem nó nghĩ gì mà hành động như vậy, để gỡ ra cho nó chứ!
Thế đấy, từ việc nhỏ đến việc lớn, với con hay với cháu tuy chưa phải là người lớn, nhưng Bác Tôn đều tôn trọng mà giáo dục.
TRONG CHIẾN TRANH CÒN CÓ NHIỀU ĐIỀU ĐAU ĐỚN HƠN!
Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo thang ra miền Bắc trong những năm 1965, 1966 ... rất khốc liệt. Chúng trút bom xuống bất kỳ mục tiêu nào: Quân sự, kinh tế hay cả dân lành (các tàu chở khách, ô tô đi lại trên đường, kể cả xe đạp nữa, v.v.). Thời gian đầu chúng hoạt động còn theo quy luật: Hoặc sáng hoặc chiều... Về sau, hung hãn hơn, chúng đánh phá bất kỳ, gây nhiều đau thương, tang tóc... Báo chí thế giới đưa tin hằng ngày, khiến cho các phái đoàn nước ngoài sang ta đều có ý nghĩ rằng: Đến Việt Nam sẽ chứng kiến "một thung lũng đầy nước mắt, các hoạt động đều đình trệ và khăn tang chít trắng đầu người mẹ, người vợ"101. Thế nhưng sự sống ở miền Bắc lúc bấy giờ thật kỳ diệu: Cuộc sống vẫn nhộn nhịp, tưng bừng, khẩn trương hơn bao giờ hết!
Năm ấy vào khoảng tháng 10-1966. Phú Thọ có cử một đoàn hầu hết là nữ về học ở Hưng Yên. Học xong chúng tôi phải ra về bằng xe đạp. Từ Hà Nội về Phú Thọ (quãng đường dài hơn 100 km), tuy vẫn có xe khách, nhưng đoàn đã bàn bạc là đi xe đạp "cơ động hơn", dễ tránh máy bay hơn. Quyết định đó đã được tập thể chấp nhận. Và điểm xuất phát của chúng tôi là từ nhà Bác Tôn. Chúng tôi được gia đình chuẩn bị cho cơm nắm và thức ăn đi đường. Ý thức được là sẽ khó khăn nhiều, nhưng vì xa nhà đã lâu nên người nào cũng hăm hở trở về: Không ai nói với ai nhưng tâm trạng của mỗi người đều đượm chất lãng mạn của thời chiến: "Sự thử thách".
Chúng tôi phải ra đi từ 8 giờ sáng ngày hôm trước cho đến 8 giờ sáng ngày hôm sau mới đến thị xã Phú Thọ. Suốt ngày hôm đó địch đánh phá liên tiếp, đoàn chúng tôi cứ phải dừng lại rất nhiều lần để tránh. Và cực nhất là đoạn đường từ cầu Việt Trì (khu công nghiệp Việt Trì) về thị xã Phú Thọ. Đêm ấy, chúng dội bom liên tục. Chúng tôi phải đi vòng qua huyện Lập Thạch để về, đường xa gấp rưỡi lần.
Theo đoàn mệt quá sức, đến thị xã Phú Thọ thì tôi bị ngã từ trên xe xuống, dập hết mặt mày, tay chống xuống đất, không gẫy nhưng bị liệt, không cử động được... Trở về gia đình với đầy "thương tích" nhiều cảm nghĩ lẫn lộn trong tâm trí tôi. Vốn chưa được thử thách nhiều, lại pha chút "lãng mạn" thời chiến, tôi nghĩ mình như Vaxili trong tác phẩm Ngày mùa sau chiến tranh trở về. Tôi cho rằng đây là "một chiến công". Chắc gia đình được tin sẽ thương và xót xa lắm? Sau đó, bao nhiêu ý nghĩ về "cái tôi nhỏ bé" đã tan biến đi khi nhận được thư của Bác.
"…Ba đã nhận được thư báo về tin Dung rồi... Về tai nạn thương tật của Dung theo Ba thì không gì quan trọng lắm, trong chiến tranh còn có nhiều cái đau đớn hơn nhiều, có khi còn phải hy sinh, chết chóc nữa là khác.
Chúng ta nên xem thường nó. Sau khi thương tật đã chữa rồi. Ta nên coi đó là một thử thách nhỏ thôi...".
NGƯỜI TA BẢO XUỐNG THÌ XUỐNG
Năm 1967, là năm thứ ba nhân dân ta anh dũng chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo thang ra miền Bắc. Để phát huy vai trò của phụ nữ ở hậu phương, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết về bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ nữ (Nghị quyết số 152-153/NQ). Tôi được đề bạt làm Phó ty Giáo dục tỉnh Vĩnh Phú (ba tỉnh hợp nhất: Phú Thọ + Vĩnh Yên + Phúc Yên). Tôi lo ngại không đảm đương được, một công việc quá sức mình vì địa bàn quá rộng và đang trong giai đoạn chống chiến tranh phá hoại rất ác liệt; bỏ gia đình, bỏ con để đi công tác tôi không muốn... Nhưng rồi tôi về Hà Nội để xin ý kiến Bác Tôn và các anh, chị. Khi tôi trình bày tỉ mỉ về nội dung công việc sẽ làm và những nỗi niềm băn khoăn của mình, Bác bảo:
- Phó ty là gì nhỉ? À, thôi Ba biết rồi, là sous directeuse chứ gì? Được thôi, nếu tổ chức tin cậy, con làm được thì nhận, con không làm được thì từ chối. Nhưng nếu từ chối chỉ vì sợ khó, sợ khổ thì không nên mà phải cố gắng khắc phục. Và nên nhớ một điều là: Khi nào người ta bảo "đồng chí không làm việc được nữa" phải xuống là con xuống nhé! Rồi Bác cười, vẫn nụ cười đôn hậu của người cha, người ông đối với con, cháu.
Lời dạy của Bác thật giản dị, dễ hiểu, nhưng đối với tôi là cả một bài học sâu sắc, là một phương châm sống. Tôi suy nghĩ: Sẽ cố gắng để không bao giờ trở thành "hòn đá tảng” của Đảng, của Tổ quốc, của tổ chức và luôn luôn phấn đấu để mãi mãi sẽ không bao giờ là "vật chướng ngại" cho mọi người, mà người ta: "Bỏ thì thương, vương thì tội!".
KHÔNG Ỷ LẠI
Năm 1965, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã lan đến tỉnh Phú Thọ. Trường Sư phạm chúng tôi phải đi sơ tán vào xã Văn Bán, huyện Cẩm Khê. Mặc chúng đánh phá ác liệt, gây thiệt hại không nhỏ, nhưng cũng như mọi hoạt động khác, nhà trường vẫn tiếp tục dạy và học. Tình hình thông tin liên lạc lúc ấy vốn đã yếu, ở một tỉnh trung du, bây giờ lại khó khăn hơn. Không có đài để nghe mà báo chí thì hằng tuần mới được đọc. Địch đánh phá mỗi ngày một ác liệt hơn. Nhiệm vụ giáo dục cho giáo sinh phải tiến hành hằng ngày mà sống trong tình trạng "không biết, không nghe gì" thật đáng lo ngại. Chúng tôi nghĩ điều trước tiên là phải mua đài. Lúc đó chỉ có một loại đài bán dẫn khỏe nhất là "Orionton" của Hunggari. Song giá những 305 đồng. Làm gì có đủ tiền để mà mua? Gia đình tôi bàn với nhau hay về xin Bác Tôn. Với lý do chính đáng này, thế nào Bác cũng cho…
Khi về Hà Nội, tôi trình bày nguyện vọng xong, Bác bảo: Thôi được để Bác hỏi xem có không đã, và Bác hỏi thêm:
- Thế Dung có được bao nhiêu tiền rồi?
Tôi nói:
- Thưa Ba, con có được 120 đồng.
- Thế con đưa đây cho Ba Má, nếu thừa thì Ba gửi trả lại, còn thiếu bao nhiêu thì Ba Má bù vào cho đủ. Lúc nào mua được Ba nhắn con về lấy hoặc tiện thì gửi lên. Như không yên tâm Bác lại hỏi:
- Thế con còn tiền về không?
Tôi cười... Bác bảo:
- Thôi Ba đưa lại cho Dung 5 đồng để đi về (lúc ấy, tàu hỏa về Phú Thọ có 2 đồng).
Thế đấy, Bác Tôn rất yêu thương con cháu. Những nguyện vọng gì chính đáng Bác đều giải quyết, làm cho con cháu vui lòng, song đều có giới hạn. Tâm lý ỷ lại, dựa vào thần thế... trong gia đình Bác không có đất nảy nở.
Từ hai Bác cho đến các anh, các chị con Bác đều có một nếp sống thật giản dị, tiết kiệm, và biết quý trọng công sức lao động, quý trọng của công... Bác trai đi đâu thì là phục, nhưng về nhà thì hầu hết chỉ mặc quần đùi nâu và áo sơ mi ngắn tay. Bác gái thì quanh năm suốt tháng chỉ mặc bộ đồ bà ba đen. Những ngày nóng nực thì mới mặc áo trắng. Những năm chiến tranh, vải vóc rất đắt đỏ, mà công việc thì phải đi lại nhiều nên các chị (con gái Bác Tôn) may cả quần kaki đen để mặc. Nhiều khi về nhà chơi, tôi thấy mình ăn mặc không giống các chị tôi rất ngại. Biết suy nghĩ của tôi, các chị bảo để tôi yên tâm: "Công việc của Dung khác, Dung phải ăn mặc tử tế, đẹp đẽ chứ! Đứng trước học sinh mà ăn mặc như chúng tôi coi sao được".
Những năm học ở Hà Nội tôi đi xe đạp về nhà. Lúc nào rảnh rỗi là Bác lại ra xem xe. Bác chê xe lung lay như răng bà lão - đàn bà con gái gì mà để tóc quấn đầy may ơ, xích, líp! Rồi Bác lại lấy phụ tùng ra, tháo chữa. Các anh phục vụ đề nghị:
- Bác để đấy chúng cháu chữa cho, chúng cháu chữa được.
Nhưng Bác không chịu, Bác nói:
- Việc gì tôi làm được để tôi làm. Thay đổi hình thức làm việc cũng là một dịp nghỉ ngơi mà!
Tôi chịu ảnh hưởng rất nhiều về cách sống này. Việc gì làm được là tôi tự làm. Ngay cả với các con, tôi cũng ít khi sai khiến, nhờ vả.
Có lúc cúc áo đứt, hoặc sứt chỉ, Bác tự ngồi khâu lấy. Bác cũng không cho con cháu làm. Có lần về thăm nhà, tôi thấy Bác gái đang ngồi vá gối. Mặt trước rách nát, Bác vẫn không bỏ mà ngồi vá lại. Thấy vậy, tôi lén đo kích thước gối, về Phú Thọ tôi may và thêu rồi gửi về biếu Bác. Bác gái viết thư ân cần khuyên tôi nên để thời gian nghỉ ngơi. Bác tỏ ra ái ngại về thời gian tôi bỏ ra để thêu gối cho Bác mà Bác coi là không cần đến thế!
BÁC TÔN VỚI MẸ HIỀN
NGUYÊN VĂN TRI102
Cuối năm 1929, Bác Tôn bị thực dân Pháp bắt và bị kết án 20 năm tù khổ sai. Sau một năm bị giam cầm tại Khám Lớn Sài Gòn, tháng 7-1930, chúng đày Bác ra Côn Đảo. Tháng 9-1945, Bác về thăm quê, là năm trôi qua, biết bao cuộc đổi thay nơi quê nhà, nhưng có lẽ nỗi đau đớn nhất đối với Bác là đã nhận được tin cha không còn nữa và hình ảnh người mẹ già đang mong mỏi tin con từng ngày đã in sâu vào ký ức của Người trong những tháng năm tù ngục.
Niềm trăn trở ấy đã thúc giục chân Bác bước nhanh, vượt qua cụm lau sậy vào tới sân nhà. Sau 17 năm bị lưu đày biệt xứ, cậu thanh niên năm xưa đã trở về với mẹ (lúc này Bác Tôn ở tuổi 57). Bác bước đến quỳ xuống bên giường, úp mặt vào lòng bàn tay mẹ già như tìm lại hơi ấm đã bị mất hơn năm ngàn ngày qua. Trên giường, đôi mắt mẹ nhòa lệ, bà cất giọng rưng rưng: “Thằng Hai, mày về tao mừng quá, tưởng đâu lần này tao theo ông theo bà không có mày tiễn đưa". Ngắm nhìn mẹ hồi lâu, Bác bước nhẹ ra hiên ngoài, ngồi trên lan can dựa lưng vào cột hàng ba, đôi mắt đỏ hoe nhìn thẳng về phía chân trời… Sáng hôm sau, gia đình và hàng xóm đến mở tiệc mừng, tiệc chưa xong Bác lại giã từ mọi người thân để tiếp tục ra đi. Lúc ấy có ông Tôn Văn Khái là người bà con chú bác ruột với Bác Tôn gạn hỏi: "Anh ở tù lâu năm mới về, cách mạng đã giành được chánh quyền, còn gì nữa mà anh đi gấp vậy?...". Bác Tôn trả lời: "chưa êm đâu các chú, các anh à, thằng Pháp bây giờ như cái đèn hết dầu, nó còn chớp lên mấy trận nữa mới tắt…”. Thế rồi một lần nữa mẹ lại nhỏ lệ tiễn con đi, mẹ cố ngồi lên, kéo khăn lau lệ, dõi mắt nhìn theo bước con khuất dần sau khóm trúc... Chiếc xuồng ba lá rẽ sóng thẳng hướng Long Xuyên qua khỏi cầu Hăngri, Bác bước lên bờ quay lại chào lần cuối cha con ông Tôn Văn Các. Tiếng súng kháng chiến nổ ra khắp quê hương Nam Bộ, mẹ lại phải tiếp tục chờ đợi đằng đẵng nối tiếp những ngày nhớ đêm mong; tuổi mẹ càng cao, sức lực kiệt dần và đến ngày 31-5-1947 mẹ đã trút hơi thở cuối cùng. Như vậy, người con Tôn Đức Thắng đã không được ở gần bên mẹ để tiễn đưa lần cuối như mẹ mong ước. Vì nghĩa nước gác tình nhà, nơi chín suối chắc mẹ sẽ mỉm cười tha thứ cho người con Tôn Đức Thắng. Sau lần ra đi ấy, Bác Tôn đã được Trung ương điều động ra Hà Nội và sau đó lên Chiến khu Việt Bắc làm việc với Bác Hồ và Trung ương Đảng. Chiến tranh tiếp tục nổ ra trong cả nước, cuộc kháng chiến trường kỳ cắt đứt sự liên lạc giữa Bác và gia đình, thỉnh thoảng có lá thư tay được bí mật chuyển về thăm mẹ và người thân nhưng chẳng bao giờ Bác nhận được hồi âm. Tháng năm càng dài càng tràn ngập nỗi nhớ nhung của người con xa xứ. Lịch sử còn ghi lại được những tấm ảnh Bác chụp ở Chiến khu Việt Bắc, nhìn ảnh chúng ta có thể đoán được ở phía sau đôi kính ấy đang chất chứa một tâm trạng sâu lắng tình người... Có một tấm ảnh Bác đã gửi về đến gia đình, phía sau ảnh Bác ghi kính biếu mẹ già và mấy em! Ngày 9-4-1951". Ảnh này Bác đã không đeo kính, có lẽ Bác muốn làm yên lòng mẹ giấu đi những nét già của năm tháng phong sương. Nhưng cảm động thay mẹ của Bác đâu còn nữa, bởi bà Nguyễn Thị Dị trên mảnh đất Cù lao ông Hổ đã vĩnh viễn ra đi được 4 năm rồi. Mãi đến tháng 10-1975 Bác mới trở về thăm lại cha mẹ bằng nén hương kính cẩn trước bàn thờ!
Ngày 30-3-1980, Bác Tôn đã vĩnh biệt chúng ta về cõi vĩnh hằng cùng cha mẹ, để lại cho chúng ta biết bao thương tiếc. Có rất nhiều chuyện về Bác Tôn thật là cảm động và chúng ta học tập được rất nhiều từ tấm gương đạo đức, nhân cách của Người như: Bác Tôn với người bạn có tên Ba Sứ, chuyện Bác kéo cờ đỏ ở Biển Đen, chuyện Bác chung thủy với vợ hiền, chuyện Bác chịu đòn roi thay cho các bạn tù, chuyện Bác thích đi xe đạp... và bây giờ đến chuyện Bác Tôn với mẹ già khiến chúng ta thật sự xúc động. Chúng ta - những lớp người đi sau là con cháu của Bác sẽ học tập những đức tính cao cả, toàn diện của Bác, nhất là bản lĩnh chính trị về tấm gương phấn đấu không biết mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, cũng như về mối quan hệ giữa người với người ở Bác. Thật cảm kích trước một nghĩa cử vì nghĩa cả "nợ nước trước tình nhà", Bác đã lưu lại cho hậu thế một tấm gương đạo đức tuyệt vời và cao cả. Khi chúc thọ Bác Tôn 70 tuổi, Bác Hồ đã nói: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân."103.
ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG VỚI MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
NGUYỄN THỊ KIM DUNG104
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Từ đây, nhân dân ta được sống trong độc lập tự do, trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từ ngục tù Côn Đảo trở về Sài Gòn đúng vào lúc nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào Nam Bộ (23-9-1945), đồng chí được bổ sung ngay vào Xứ ủy Nam Bộ và được Xứ ủy phân công phụ trách Ủy ban kháng chiến kiêm chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Cùng với tập thể Xứ ủy, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đề ra những phương hướng chỉ đạo và những nhiệm vụ cấp bách cho cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ như: Xây dựng phong trào, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng cơ sở vũ trang, thành lập những khu du kích, v.v. đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ vượt qua những khó khăn thủ thách. Với những công lao đó, đồng chí đã được nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn bầu làm đại biểu của mình trong Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đầu năm 1946, đồng chí Tôn Đức Thắng được điều ra Hà Nội công tác bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Để mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố khối đoàn kết toàn dân làm hậu thuẫn cho chính quyền mới; trước khi lên đường sang thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Tôn Đức Thắng là cần xây dựng một tổ chức đoàn kết rộng rãi hơn nữa, nhằm đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam vì điều kiện nào đó mà không tham gia được vào Mặt trận Việt Minh.
Thực hiện nhiệm vụ Bác giao, đồng chí Tôn Đức Thắng đã khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt cho sự ra đời của một tổ chức mặt trận mới. Ngày 29-5-1946, tại Nhà hát thành phố Hà Nội đã diễn ra Hội nghị thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt), với mục đích là: đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước, và các đồng bào yêu nước vô đảng vô phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm một nước Việt Nam: độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường!"105. Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam không phải chỉ liên hiệp trong Chính phủ, mà còn liên hiệp quảng đại quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất, bởi bí quyết của mọi sự thành công là ở tinh thần đoàn kết. Sự ra đời của Hội Liên Việt có một ý nghĩa rất lớn, nó "sẽ mang lại tự do chắc chắn cho dân tộc và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của các thế hệ Việt Nam sau này”106.
Hội nghị đã nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch danh dự của Hội Liên Việt, đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu là Phó Chủ tịch Hội107. Từ đây hoạt động của đồng chí Tôn Đức Thắng gắn bó với chính sách đoàn kết toàn dân, với Mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm nước Pháp, mọi công việc chính quyền đều do cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đảm nhiệm. Công việc vô cùng bề bộn nên cụ Huỳnh ít có điều kiện hoạt động trong Hội Liên Việt. Vì thế mà mọi công tác của Hội đều do đồng chí Tôn Đức Thắng đảm nhiệm. Với cương vị là người lãnh đạo Mặt trận, đồng chí Tôn Đức Thắng đã hoạt động hết sức mình vì sự nghiệp đoàn kết toàn dân, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để quán triệt chương trình hoạt động của Hội Liên Việt tới các thành viên, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có nhiều cuộc tiếp xúc với nhiều vị nhân sĩ, trí thức, đối thoại với một số người thuộc các đảng phái, các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo khác nhau, nhằm làm cho mọi người thấy rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng chí thường xuyên nhắc nhở các thành viên trong Hội Liên Việt phải tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện đời sống mới, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, bảo trợ người già yếu, tàn tật, phụ nữ và trẻ em; phát triển nền văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc văn hóa phương Đông và phương Tây để bổ sung cho nền văn hóa nước nhà.
Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng Trung ương Đảng và Chính phủ dời lên Chiến khu Việt Bắc để bảo toàn lực lượng, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoài cương vị lãnh đạo mặt trận, đồng chí còn kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như: Tổng thanh tra Chính phủ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quyền Trưởng ban thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam... Công việc tuy nhiều, nhưng với tinh thần của một người cộng sản đã được tôi luyện trong lò lửa của cuộc chiến tranh cách mạng, đồng chí bao giờ cũng làm việc tận tụy, hăng say, dù việc lớn việc nhỏ, nhất thiết tuân thủ quyết định của tổ chức, của tập thể, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, đầu hàng, phản bội. Đồng chí là một kiểu mẫu hoàn chỉnh về nhân sinh quan cách mạng, là gương sáng của đạo đức cách mạng.
Tháng 1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng, đã đề ra phương hướng và biện pháp cần kíp cho cuộc kháng chiến. Về chính trị, Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Muốn củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp, phải phát triển Liên Việt và củng cố Việt Minh"108. Để hoàn thành những nhiệm vụ mà Nghị quyết Hội nghị đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị cần phát động một phong trào thi đua yêu nước. Thực hiện đề nghị của Người, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã phát động phong trào Thi đua ái quốc và chỉ định đồng chí Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban Trung ương vận động Thi đua ái quốc.
Phong trào Thi đua ái quốc là đòn bẩy diệu kỳ đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc kháng chiến kiến quốc. Trên đà thắng lợi của phong trào Thi đua ái quốc, Tổng bộ Việt Minh đã họp Hội nghị khoáng đại (mở rộng), nhằm đẩy mạnh hơn nữa công cuộc kháng chiến kiến quốc. Mặc dù tuổi cao, sức khỏe không được tốt, song đồng chí Tôn Đức Thắng vẫn cố gắng đến dự tất cả các buổi họp và đóng góp nhiều ý kiến quan trọng nhằm củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Trong phiên họp ngày 24-4-1948, đồng chí đã ghi vào sổ cảm tưởng của Hội nghị những dòng đầy xúc động: "Với hai bàn tay trắng, với ốc rau, mặt trận đã lập nên sự nghiệp vĩ đại trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, cũng như với một vài khẩu súng kíp, gậy gộc, dao găm đã đi đến một đội quân hùng hậu, đã làm cho giặc bị ngả nghiêng. Tôi tin rằng Mặt trận sẽ đi đến vinh quang. Chỉ mong rằng, cuộc Hội nghị này lượm được một kết quả thật khoa học, làm cho mọi người nỗ lực, mỗi ngày mỗi nỗ lực, Nỗ lực mãi mãi, mỗi người mỗi tin tưởng, mỗi ngày mỗi tin tưởng mạnh hơn"109.
Sau chiến thắng Biên giới (năm 1950), căn cứ địa Việt Bắc ngày càng được mở rộng và củng cố vững chắc, Đảng ta quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-195l) tại tỉnh Tuyên Quang. Với tư cách là đại biểu chính thức của Đảng đoàn Hội Liên Việt, đồng chí Tôn Đức Thắng đã đóng góp nhiều ý kiến về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Trong Diễn văn bế mạc Đại hội, đồng chí Tôn Đức Thắng đã khẳng định: "Chính sách mặt trận của ta là chính sách liên minh giai cấp để kháng chiến. Không phải liên minh giai cấp suông, mà liên minh giai cấp để kháng chiến. Đã là liên minh giai cấp để kháng chiến thì những mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp phải được diễn giải hợp lý. Nhưng bao giờ chúng ta cũng đặc biệt chú trọng đến lợi của quần chúng cần lao và đông đảo vì họ là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất, là lực lượng chủ yếu của kháng chiến"110. Đại hội đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng, tiếp tục kiện toàn và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng chí Tôn Đức Thắng đã ra sức chuẩn bị về mọi mặt cho Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Đồng chí đã xúc tiến việc lấy ý kiến của các cơ quan, đoàn thể, quân, dân, chính, đảng; các vị nhân sĩ, trí thức; các đồng chí phụ trách các bộ, các ngành; gửi thư trưng cầu ý kiến tới hàng chục cơ quan, đơn vị và hàng trăm cá nhân... Điều này chứng tỏ tính chất dân tộc rộng rãi của Mặt trận. Ngày 3-3-1951, tại Việt Bắc, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã khai mạc. Đồng chí Tôn Đức Thắng, Quyền Hội trưởng Hội Liên Việt, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Liên Việt và Tổng bộ Việt Minh đọc Báo cáo chính trị nêu bật tầm quan trọng của việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt - cơ sở của khối đại đoàn kết toàn dân, cùng nhau đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc thống nhất đất nước Đại hội đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng như: Thống nhất hai Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt; Thông qua chính cương, điều lệ, Tuyên ngôn của Mặt trận; Tán thành việc xây dựng và bảo vệ khối đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia để chống kẻ thù chung. Đại hội đã nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch danh dự, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt.
Thành công của Đại hội là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta về chính trị, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một tương lai "trường xuân bất lão””111. Trong thắng lợi chính trị to lớn đó, có phần đóng góp rất quan trọng của đồng chí Tôn Đức Thắng.
Sau Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng một số đồng chí lãnh đạo khác bắt tay vào tổ chức Ban Mặt trận của Trung ương Đảng. Nhiệm vụ của Ban Mặt trận là theo dõi, nghiên cứu giúp Trung ương Đảng đôn đốc việc thực hiện chính sách Mặt trận của Đảng trong cả nước.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp càng gần đến ngày thắng lợi, Đảng và Nhà nước ta thấy rằng càng cần phải huy động tổng lực nhiều mặt, sự nhất trí về tinh thần trong toàn dân càng cần thiết hơn bao giờ hết. Công tác của mặt trận lúc này ngoài động viên toàn dân dốc sức cho kháng chiến còn cần phải động viên toàn dân đẩy mạnh việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, đồng chí Tôn Đức Thắng đã liên tiếp triệu tập và chủ trì nhiều Hội nghị quan trọng:
- Hội nghị liên tịch giữa Ban Thường trực Quốc hội và Ủy ban Liên Việt toàn quốc (2-1953), nhằm thực hiện tốt chính sách ruộng đất của Đảng, trên cơ sở đó mà củng cố khối liên minh công nông, củng cố mặt trận Liên Việt.
- Hội nghị Ủy ban Liên Việt toàn quốc mở rộng (11-1953), nêu lên tầm quan trọng của công tác mặt trận trong giai đoạn này là động viên toàn dân đẩy mạnh kháng chiến, thực hiện mục tiêu chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền, giải phóng dân tộc; thực hiện cải cách ruộng đất trên cơ sở tán thành Cương lĩnh ruộng đất của Đảng; kêu gọi các chính đảng, đoàn thể và quốc dân đồng bào hãy ra sức ủng hộ Cương lĩnh ruộng đất của Đảng, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
- Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc (l-1955), nhằm kiểm điểm việc thực hiện chính sách kháng chiến kiến quốc; củng cố và mở rộng hơn nữa. Mặt trận dân tộc thống nhất trong tình hình mới như: Tiến hành cải cách ruộng đất, chống đế quốc Mỹ và bọn phản động dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam, chuẩn bị những điều kiện để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám, khóa II (tháng 8- 1955), đồng chí Tôn Đức Thắng đã trình bày trước Hội nghị những ý kiến về công tác Mặt trận và đồng chí đề nghị mở Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất. Đề nghị của đồng chí đã được Hội nghị chấp thuận. Tháng 9-1955, tại Hà Nội đã diễn ra Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc. Trong Diễn văn khai mạc, đồng chí kêu gọi toàn dân hãy ra sức thực hiện chính sách đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi "Chúng ta cùng chung một Tổ quốc, cùng chung hàng ngàn năm lịch sử, đau khổ có nhau, vinh quang có nhau. Điều đó đã gắn liền đồng bào toàn quốc, gắn liền các đại biểu chúng ta làm một khối"112. Đại hội đã quyết định lấy tên mới của Mặt trận là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Việc thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thể hiện rất rõ nét chính sách đại đoàn kết toàn dân. Trong khối đại đoàn kết đó, hình ảnh đồng chí Tôn Đức Thắng nổi lên như vì sao sáng.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần rất quan trọng vào việc đoàn kết toàn dân, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, không những trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà cả trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 8-1958, nhân dịp đồng chí Tôn Đức Thắng tròn 70 tuổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quyết định tặng đồng chí Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta vì đồng chí đã có nhiều đóng góp trong chín năm kháng chiến thống thực dân Pháp và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong buổi lễ trao tặng Huân chương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy"113. Trước vinh dự lớn lao đó, đồng chí Tôn Đức Thắng đã nói: "Tôi không biết nói gì hơn là hứa lấy cố gắng của tôi để đền đáp công ơn Đảng, công ơn của Hồ Chủ tịch, Người sáng lập và xây dựng Đảng, đã đưa tôi vào con đường vẻ vang và để đền đáp sự tín nhiệm của nhân dân và Chính phủ”114. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Trên cương vị người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng chí Tôn Đức Thắng không chỉ thực hiện có hiệu quả những công việc mà Đảng giao cho, động viên toàn dân đoàn kết thành một khối thống nhất, ra sức thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu, mà còn luôn luôn chăm lo đến tình hình đoàn kết quốc tế, góp phần thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân ta và bầu bạn trên thế giới.
Đồng chí Tôn Đức Thắng luôn dành những tình cảm sâu sắc dối với đồng bào, đồng chí miền Nam, bởi "máu chảy ruột mềm, là dân một nước, là con một nhà". Đồng chí nói: "Từng giờ từng phút tôi luôn luôn nghĩ đến miền Nam, nơi chôn rau cắt rốn đang bị đế quốc và bọn tay sai tàn phá. Tôi muốn được sát cánh với đồng bào trong cuộc đấu tranh, cùng đồng bào chia sẻ những gian khổ hy sinh để giải phóng quê hương yêu dấu”. Tháng 12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đồng chí Tôn Đức Thắng vui mừng khôn xiết và đã gửi thư chúc mừng đến Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, sau đó đồng chí đã chỉ đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cử nhiều cán bộ vào miền Nam tham gia công tác mặt trận.
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời (tháng 9-1969), Quốc hội đã nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau thắng lợi của Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (năm 1973), để động viên toàn quân, toàn dân thừa thắng xông lên, hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ thiêng liêng là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã triệu tập Hội nghị bất thường Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong Diễn văn khai mạc, đồng chí đã nêu bật ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi, mà một trong những nguyên nhân quan trọng đó là "thắng lợi của sức mạnh đoàn kết vô địch của nhân dân hai miền Bắc - Nam, của truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam ta"115.
Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Tại buổi Lễ mừng chiến thắng được tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh (5-1975), trong Diễn văn chào mừng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã nêu rõ ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi của nhân dân ta là "kết quả của cuộc chiến đấu suốt 30 năm qua của đồng bào và chiến sĩ cả nước ta. Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, thắng lợi của sức mạnh đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, của tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do", thắng lợi của truyền thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc"116. Đồng chí đã kêu gọi các đoàn thể, tôn giáo và toàn dân hãy đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, hăng hái chiến đấu và sản xuất, để tiến công vào thời kỳ mới. Năm 1976, đồng chí Tôn Đức Thắng lại được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng trên 60 năm của đồng chí Tôn Đức Thắng, thì 30 năm đồng chí giữ cương vị lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất (1946-1947). Đồng chí đã phấn đấu không mệt mỏi cống hiến toàn bộ sức lực, trí tuệ của mình vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân. Đồng chí là một tấm gương sáng mẫu mực về đạo đức cách mạng, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, yêu thương đồng chí, quý trọng đồng bào. Đảng ta khẳng định: "Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất và đức tính khiêm tốn, giản dị.
Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của đồng chí”117.
Đồng chí Tôn Đức Thắng không chỉ là một nhà yêu nước vĩ đại, người cộng sản tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, mà còn là một chiến sĩ cộng sản quốc tế, suốt đời phấn đấu cho sự củng cố và phát triển tình đoàn kết hữu nghị, chiến đấu theo tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, đồng chí đã nhận được nhiều huân chương cao quý của các nước anh em và các tổ chức quốc tế, như Giải thưởng Lênin (12-1955) của Ủy ban giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin của Liên Xô tặng…; Huân chương Lênin (11-1967) của Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô tặng... Đây không chỉ là vinh dự dành riêng cho đồng chí Tôn Đức Thắng, mà còn là vinh dự chung của nhân dân Việt Nam.
Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khẳng định: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một nhà yêu nước vĩ đại, người cộng sản kiên cường mẫu mực, người lãnh đạo kính mến của giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc nước ta, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ hết sức trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đồng chí đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội
1. Điếu văn do đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc trong Lễ truy điệu Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ngày 3-4-1980. Báo Nhân Dân, ngày 4-4-1980.
và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, đồng chí đã suốt đời phấn đấu cho sự phát triển tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa nhân dân ta với nhân dân Liên Xô, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và phát triển tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới vì lợi ích của sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"118.
BÁC TÔN VỚI CÁN BỘ, CHIẾN SĨ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
TRỊNH VƯƠNG HỒNG119
Bác Tôn Đức Thắng sinh năm 1888, đúng vào năm nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu qua đời. Bác lớn lên ở một vùng quê Nam Bộ, vào lúc thực dân Pháp đang từng bước đánh chiếm nước ta, mặc cho triều đình phong kiến yếu hèn từng bước hàng giặc, ngọn lửa yêu nước và chí khí quật cường của dân tộc được dấy lên khắp nơi.
Cù lao Ông Hổ thuộc thị xã Long Xuyên (nay là thành phố Long Xuyên), quê hương của Tôn Đức Thắng ở vào giữa một khu vực có phong trào chống thực dân Pháp sôi nổi nhất. Phía Đông có Trương Định dựng cờ ở Tân An, Gò Công; phía Tây có Nguyễn Trung Trực với câu nói bất hủ: "Khi nào nước Nam hết cỏ, thì mới hết người Nam đánh Tây"; phía Bắc có Trần Văn Thành nổi lên ở An Giang; phía Nam có Đỗ Thừa Long ở Hậu Giang, Thủ Khoa Huân ở Giao Hòa, Chợ Gạo...
Sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ khá giả, từ nhỏ Tôn Đức Thắng đã được đi học, người thầy đầu tiên lại là một nhà Nho yêu nước, trong tổ chức Đông Kinh Nghĩa Thục, vì vậy ngoài việc học chữ Thánh hiền, học làm người, anh đã sớm tiếp thu truyền thống yêu nước của dân tộc.
Hết bậc tiểu học, Tôn Đức Thắng tròn 18 tuổi được gia đình cho lên Sài Gòn ăn học, đó là năm 1906.
Sài Gòn vào thời điểm những năm đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc địa mở mang công nghiệp, đường sá, nhiều nhà máy mọc lên, thành phố được mở rộng, giai cấp công nhân tăng lên khá nhanh, mọi bất công xã hội ở xứ thuộc địa được phơi bày. Anh thanh niên Tôn Đức Thắng đã không chọn con đường làm công chức, mà lại thi vào Trường Bá Nghệ để làm thợ. Đây là một bước ngoặt quan trọng hợp thời đại của anh.
Trong nhà Bảo tàng Tôn Đức Thắng ở Thành phố Hồ Chí Minh có trưng bày một bản danh sách học sinh tốt nghiệp Trường Bá Nghệ Sài Gòn niên khóa 1915-1917, Tôn Đức Thắng được ghi ở dòng đầu tiên. Lúc này, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang diễn ra khốc liệt. Thực dân Pháp đã huy động sức người sức của ở các thuộc địa cho chiến tranh, nhiều người Việt Nam phải đi lính sang Pháp120. Tôn Đức Thắng cùng một số người thợ Việt Nam được đưa sang làm lính thợ ở Quân cảng Toulon. Vậy là Tôn Đức Thắng cũng từng là người lính trong Hải quân Pháp với số lính là 418, lúc đầu làm việc ở quân cảng, sau đó được xuống làm thợ máy cho Chiến hạm France. Cũng chính trên chiến hạm này, ngày 20-4-1919, người lính thợ Tôn Đức Thắng đã được anh em binh lính khởi nghĩa giao cho trọng trách kéo lá cờ đỏ trên cột cờ Chiến hạm France để tỏ rõ thái độ ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga, góp phần làm thất bại chính sách hiếu chiến của thực dân Pháp và các nước đế quốc muốn bóp nghẹt nước Nga Xôviết non trẻ.
Sau này, trong bài viết: Tôi đã tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải, Tôn Đức Thắng viết: “Tôi tin rằng, bất cứ người Việt Nam yêu nước nào nhất là công nhân, được tham gia vào những giờ phút lịch sử đó tại Biển Đen, không thể hành động khác tôi, bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có nghĩa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống lại Cách mạng Tháng Mười”121.
Những năm đầu của thế kỷ XX, nước Việt Nam còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ. Tháng 6-1911, Bác Hồ (lúc đó lấy tên là Văn Ba) xuống tàu đi Pháp để tìm đường cứu nước. Chín năm sau, vào tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Người tin theo con đường Cách mạng Tháng Mười của Lênin và khẳng định rằng, "Đây là con đường giải phóng chúng ta". Bác Hồ và Bác Tôn đến với Cách mạng Tháng Mười bằng hai con đường khác nhau. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng viết: "Tôn Đức Thắng không phải là nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà sáng tác, Tôn Đức Thắng là con người hành động, hành động tiên phong”122.
Trong khi Bác Hồ làm Chủ tịch nước, thì Bác Tôn làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt sau là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bác Tôn đã trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh"123.
Những người được sống gần hai Bác nói rằng, Bác Tôn rất giống Bác Hồ ở nhiều điểm. Bác Tôn nói: "Bác chỉ bằng Bác Hồ về mặt lao động thôi. Về chính trị cũng như văn học, Bác không sánh được. Bác Hồ là bậc thầy”124.
Đối với cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân thì cả Bác Hồ và Bác Tôn đều thương yêu, chăm sóc dìu dắt, động viên trên từng chặng đường chiến đấu và xây dựng. Trong Diễn văn bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Lao động Việt Nam, (ngày 19-2-1951), Bác Tôn khẳng định: "Muốn kháng chiến thắng lợi thì trước hết, đấu tranh quân sự phải thắng lợi. Cho nên Đảng phải trực tiếp lãnh đạo kháng chiến, lãnh đạo chiến tranh nhân dân Đảng phải ném thêm cán bộ khá vào quân đội và cán bộ các cấp của Đảng phải học quân sự, hiểu quân sự, làm quân sự"125. Thời kỳ đó nhiều tỉnh ủy viên, huyện ủy viên và đảng viên ưu tú được điều vào quân đội.
Khi làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bác Tôn chủ trương để Mặt trận đứng ra đỡ đầu cho Sư đoàn 308 - sư đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta, mở đầu một phong trào kết nghĩa, đỡ đầu giúp đỡ và động viên các lực lượng vũ trang trong toàn quốc.
Ngày 22-12-1969, với cương vị Chủ tịch nước, Bác Tôn đã thăm hỏi ân cần các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội và các gia đình có công với cách mạng, Bác tuyên dương quân đội: "Hai mươi lăm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chủ tịch kính mến, được nhân dân cả nước thương yêu, đùm bọc, quân đội ta đã phát triển từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, liên tục đánh thắng phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, luôn luôn làm tròn nghĩa vụ đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.
Năm 1972, trong trận “Điện Biên Phủ trên không" tại Hà Nội, sau khi ngớt tiếng bom, cùng với các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và quân đội, Chủ tịch Tôn Đức Thắng lúc đó đã tròn 84 tuổi vẫn tới trận địa phòng không Hà Nội, để khen ngợi, động viên cán bộ, chiến sĩ tự vệ đã bắn rơi tại chỗ một máy bay F.111 là loại hiện đại và đắt tiền nhất lúc đó, sau đó đi thăm đồng bào và chiến sĩ ở khu phố Khâm Thiên, nơi bị bom Mỹ hủy diệt.
Thời đánh Mỹ, các đoàn cán bộ, chiến sĩ Quân giải phóng, đoàn Chiến sĩ thi đua và dũng sĩ miền Nam ra Bắc, thường được Bác Tôn tiếp, thăm hỏi và động viên thân tình như tình cảm cha con.
Năm 1972, cháu Nguyễn Thanh Bình, con của chị Tôn Thị Ngọc Quang (là con gái nuôi của Bác Tôn) đi bộ đội. Trong lá thư gửi cho cháu, Bác Tôn viết: “Ông ước mong cháu sẽ luôn luôn khỏe mạnh, bền bỉ tiếp tục thực hiện chí khí quang vinh đó cho đến bước cuối cùng của con đường mà cháu đã bắt đầu. Chúc cháu vui vẻ và tự hào, ông hôn cháu!". Đối với lực lượng công an nhân dân vũ trang, nhất là đoàn Tân Trào - đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ Trung ương, Bác Tôn coi như con cháu trong nhà, thường xuyên xem xét nơi ăn, chốn ở, chỗ làm việc và động viên chiến sĩ kịp thời.
Ngày 15-5-1975, trong Lễ mừng chiến thắng ở Sài Gòn, Chủ tịch Tôn Đức Thắng nói: "Trong giờ phút lịch sử trọng đại này, tôi thay mặt Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân danh cá nhân tôi... xin gửi tới các gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, anh chị em thương binh, bệnh binh lời thăm hỏi ân cần và lòng biết ơn sâu sắc nhất".
Hòa bình lập lại, hằng năm đến ngày 27-7, Bác Tôn thường có thư gửi thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và bộ đội. Người còn có Thư khen cán bộ và nhân viên quân y: "suốt 30 năm qua, ngành quân y đã luôn luôn dũng cảm, tận tụy chăm nom sức khỏe bộ đội, cứu chữa thương binh, bệnh binh, tham gia cứu chữa và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đào tạo, bồi dưỡng được nhiều cán bộ, nhân viên, tích cực học tập nâng cao trình độ khoa học, chuyên môn, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng xây dựng nền y học quân sự Việt Nam"126.
Bác Tôn Đức Thắng thật xứng đáng với tấm Huân chương Sao vàng cao quý và lời tôn vinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ trao huân chương cho Người (tháng 8-1958): "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”127.
Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang Việt Nam kính yêu Bác Tôn, nhà cách mạng, người Chủ tịch nước, người Bác luôn chăm lo từng bước trưởng thành của các lực lượng vũ trang, luôn yêu thương, chăm sóc cán bộ, chiến sĩ; học tập ở Bác một phẩm chất mẫu mực của người công nhân tiêu biểu, tấm gương lớn về đạo đức cách mạng, một con người có chí khí cao cả, khiêm nhường, giản dị, suốt đời phấn đấu không mệt mỏi vì hạnh phúc của đồng bào và chiến sĩ vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập, thống nhất, hòa bình và phồn vinh.
TÔN ĐỨC THẮNG - MỘT CHIẾN SĨ CỘNG SẢN GƯƠNG MẪU, MỘT CUỘC ĐỜI TRỌN VẸN THỦY CHUNG
HOÀNG TRANG127
Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888 ở xã Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên - nay là xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
Sinh ra trong lúc nước nhà bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị, Bác Tôn lớn lên trong cuộc đấu tranh bi hùng của dân tộc nhằm giành lại độc lập ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vừa 18 tuổi Bác đã đi vào cuộc đời người thợ. Tròn 20 tuổi Bác đã bước vào trường đấu tranh các mạng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 92. Cuộc đời Bác đẹp như bông hồng, rực rỡ như đóa hướng dương, sáng chói như sao Bắc đẩu. Bác sống trọn gần một thế kỷ, cả cuộc đời Bác là một tấm gương mẫu mực của người cách mạng. Như Bác Hồ đã nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc. Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”128. Nhìn lại cuộc đời Bác Tôn là như vậy - đó cũng là niềm tự hào của dân tộc, của mỗi người dân Việt Nam. Hơn thế, các thế hệ hậu duệ của cách mạng Việt Nam phải biết học tập và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà gương Bác Tôn là một điển hình mẫu mực. Muốn thế, trước hết phải hiểu về con người và sự nghiệp của Bác Tôn - "một người con rất ưu tú của Tổ quốc" là thế nào.
Trước hết, Bác Tôn là một người yêu nước đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa quốc tế vô sản
Bác Tôn sinh ra và lớn lên trong không khí hừng hực của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương và những cuộc vận động cứu nước của phong trào Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục. Và hẳn Bác Tôn biết rõ những thập niên trước đó khi quân Pháp xâm chiếm Nam Bộ thì khắp nơi nổi dậy - như Trương Định (ở Tân An, Gò Công); Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều (ở Đồng Tháp Mười); Trần Văn Thành (ở Bắc An Giang); Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tư (ở U Minh); Phan Tôn, Phan Liêm (ở Bến Tre, Trà Vinh); Thủ Khoa Huân (ở Giao Hòa - Chợ Gạo), Nguyễn Trung Trực (ở Tây Kiên Giang, vùng Hòn Chồng)... Ngay Cù lao Ông Hổ, quê Bác Tôn và khắp vùng nông thôn An Giang, thanh niên luyện tập võ nghệ, sẵn sàng tiếp ứng cho các cuộc chiến đấu.
Trong hoàn cảnh đất nước như vậy, mặc dù sinh ra ở một gia đình tương đối khá giả, có tiền gạo cho Bác Tôn đi học hết sơ học yếu lược - tức là đã có thể làm thầy - thầy ký, thầy giáo. Nhưng Bác Tôn đã không chọn hướng "làm thầy" mà Bác lên Sài Gòn vào Trường Bá Nghệ, học kỹ thuật, thợ máy, thợ điện, chọn hướng lao động. Quyết định này của Bác Tôn trên thực tế là Bác đã đứng về phía "minh tân", "minh tân công nghệ", duy tân chống lại thủ cựu đang diễn ra ở Nam Bộ khi đó. Bác dã đứng vào đội ngũ những người lao động ngay từ đầu.
Ngay từ khi còn học nghề ở Sài Gòn, cái chất yêu nước của Bác Tôn đã thể hiện luôn bênh vực kẻ yếu, chống mọi sự hiếp đáp, mọi sự bất bằng. Tinh thần đó lại được thể hiện ở Bác Tôn là một người có năng lực tổ chức và tinh thần đấu tranh. Chính vì vậy, mới 21 tuổi còn đang là người học nghề, Bác đã lãnh đạo những cuộc đấu tranh đầu tiên của công nhân giành thắng lợi - năm 1909 là cuộc đấu tranh của học sinh thủy thủ, năm 1910 là cuộc đấu tranh của công nhân kiến trúc cầu đường; và năm 1912 là cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son. Với cuộc đấu tranh năm 1912, để tránh sự lùng bắt của thực dân Pháp, Bác Tôn "đã bị buộc phải cải trang và thay đổi tên, họ trốn tránh trên một chiếc tàu thủy của Pháp đúng vào lúc mà cuộc bãi công của học sinh Trường Bá Nghệ Sài Gòn và của công nhân Ba Son giành được thắng lợi"129. Bác Tôn viết: "Từ ngày đó, bắt đầu cuộc sống của tôi trên biển cả, với lòng yêu quê hương tha thiết và với nguyện vọng học tập để sau này trở về đấu tranh mạnh mẽ hơn, nhiều lần tôi cố tìm gặp đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), song tôi đã không gặp được đồng chí”130. Không gặp được Bác Hồ khi đó, nhưng Bác Tôn đã gặp và gắn bó với phong trào công nhân Pháp. Từ năm 1916, Bác Tôn được đưa vào phục vụ trong Hải quân Pháp và Bác đã gắn bó với phong trào đấu tranh của Hải quân Pháp. Tiêu biểu nhất là Bác đã tham gia "khởi nghĩa Biển Đen" vào ngày 20-4-1919, khi Hải quân Pháp cùng quân đội các nước đế quốc khác bao vây, tiến đánh, hòng tiêu diệt Nhà nước Xôviết non trẻ. Trong cuộc khởi nghĩa này của Hải quân Pháp, Bác Tôn là người kéo cờ đỏ trên Chiến hạm France chào mừng Nhà nước vô sản đầu tiên. Sau sự kiện này, ngày 24-4-1919, tất cả tàu chiến của hạm đội Pháp rút khỏi Biển Đen, vòng vây của các nước đế quốc bị vỡ. Bằng hành động của mình tham gia khởi nghĩa Biển Đen, người thanh niên yêu nước Tôn Đức Thắng "là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại", góp phần mở ra hướng đúng đắn gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, tạo nên sức mạnh tất yếu đưa cách mạng Việt Nam đến đỉnh cao của thắng lợi.
Sau khi tham gia và học hỏi kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp và thế giới, năm 1920, Bác Tôn trở về Sài Gòn. Tại đây những kinh nghiệm học hỏi được đã đưa Bác Tôn trở thành người yêu nước đầu tiên tổ chức ra Công hội ở Việt Nam. Công hội ra đời, công nhân Việt Nam bắt đầu có ý thức về sức mạnh của mình. Tháng 8-1925, có Bác Tôn, có Công hội sức mạnh phi thường của công nhân Việt Nam đã biểu hiện ở cuộc bãi công của hơn 1.000 thợ đình công ở Xưởng Ba Son giam tàu chiến của Pháp hàng tháng, không kịp sang Trung Quốc đàn áp Cách mạng Trung Hoa. Từ khởi nghĩa Biển Đen năm 1919 đến bãi công ở Sài Gòn năm 1925, Bác Tôn đã đi từ người tham gia đến người lãnh đạo với quy mô quần chúng bãi công ở Sài Gòn lớn hơn, và chiến lược, chiến thuật hoàn chỉnh. Nhưng cả hai đều là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đến với tinh thần quốc tế chủ nghĩa vĩ đại ở Bác Tôn.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23-9-1945, Bác Tôn được Đảng và nhân dân đón từ Côn Đảo về đất liền. Từ đó cho đến năm 1980, Bác giữ nhiều trọng trách trong cách mạng Việt Nam. Đặc biệt từ tháng 3-1946, Bác Tôn được Bác Hồ và Đảng cử ra đảm nhiệm công tác Mặt trận dân tộc thống nhất. Dưới sự tổ chức điều hành trực tiếp của Bác, Mặt trận bước vào thời kỳ phát triển toàn diện và ngày càng được củng cố vững chắc. Đây cũng là thời kỳ Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam tham gia tích cực vào các mặt trận quốc tế, liên minh quốc tế. Trước hết phải kể đến đóng góp của Bác Tôn vào Liên minh ba nước Đông Dương. Năm 1951, Bác Tôn đã dự Hội nghị liên minh ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, đã đóng góp tích cực để củng cố khối liên minh ba nước dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau xây dựng chương trình hành động. Những nguyên tắc này ngày nay vẫn là cơ sở để chúng ta xây dựng khối đoàn kết Việt - Lào - Campuchia. Năm 1955, Bác Tôn được bầu làm Chủ tịch danh dự Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam. Tháng 7-1955, Đại hội hòa bình thế giới họp ở Henxinki (Phần Lan) đã bầu Bác Tôn làm Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới. Và đương nhiên, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trở thành một thành viên của tổ chức quốc tế này. Bác Tôn là người tiêu biểu cho khối đại đoàn kết dân tộc và cho sự gắn bó chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Mọi người dân Việt Nam đều thấy mình, thấy Tổ quốc trong Bác Tôn. Anh em, bạn bè quốc tế khắp bốn biển, năm châu lại tìm thấy ở Bác Tôn tinh thần quốc tế vô sản cao cả, tinh thần quý trọng độc lập tự do của các dân tộc và tinh thần đấu tranh không mệt mỏi cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với công lao to lớn đó, Bác Tôn đã vinh dự là người đầu tiên được Đảng và Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương cao quý nhất của Việt Nam. Bác Tôn cũng thật xứng đáng khi Đoàn chủ tịch Xôviết Tối cao Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin và Ủy ban Giải thưởng hòa bình quốc tế Lênin tặng Giải thưởng Lênin Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc.
Hai là, Bác Tôn là một gương mẫu mực đạo đức cách mạng.
Bác Tôn là người hành động theo cách mạng vô sản trước khi đến với chủ nghĩa cộng sản. Và có lẽ vì thế khi tiếp cận tổ chức cách mạng theo học thuyết Mác - Lênin, Bác Tôn đã nhận ra ngay đó là con đường, là lý tưởng của mình. Và cũng từ đó cho đến trọn đời, Bác Tôn đã chiến đấu kiên cường, suốt đời cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất đó muôn đời con cháu cần phải noi theo.
Những năm hoạt động trong phong trào công nhân và Hải quân Pháp, Bác Tôn đã nhiều lần cố tìm gặp Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) với nguyện vọng học tập để sau này trở về Tổ quốc đấu tranh mạnh mẽ hơn, nhưng rất tiếc không gặp được. Ngược lại, sau khi thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vào năm 1925 ở Trung Quốc, năm 1926, Bác Hồ đã phái người về nước xây dựng cơ sở cách mạng. Trong việc này, Bác Hồ rất chú ý tới phong trào của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn và căn dặn những người được cử về nước tìm cách liên lạc với phong trào công nhân Sài Gòn và tổ chức Công hội của Tôn Đức Thắng. Đầu năm 1927, khi gặp các đại biểu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Bác Tôn đã đưa toàn bộ tổ chức Công hội bí mật của mình ra nhập tổ chức cách mạng này. Từ đây, Bác Tôn bước vào cuộc chiến đấu mới dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản khoa học, đánh đuổi thực dân Pháp và tay sai giành lại độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc cho nhân dân.
Liên tục những năm 1927, 1928, 1929, Bác Tôn là Ủy viên Thành bộ Sài Gòn và Ủy viên Kỳ bộ Nam Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Trung tuần tháng 7-1929, Bác Tôn bị địch bắt tại Sài Gòn. Bọn Tây coi Bác Tôn là loại tù nguy hiểm cần phải nhốt riêng không cho liên lạc với ai. Bọn chủ khám thấy cách giam riêng tốt nhất là đưa Bác Tôn vào khám vị thành niên. Bác Tôn xót xa và đem lòng thương yêu, gần gũi đám trẻ bị xã hội tàn nhẫn, bất công làm cho hư hỏng. Chẳng bao lâu đám tù vị thành niên lại tỏ lòng yêu thương, kính nể Bác. Một năm sau Tòa đại hình kết án Bác Tôn 20 năm tù khổ sai và tháng 7-1930 chúng đày Bác ra Côn Đảo với số tù 5289-TF. Cuộc đời của Bác Tôn suốt 15 năm tù đày ở Côn Đảo (1930-1945) là cả một bản anh hùng ca thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường với kẻ địch và tình cảm nồng thắm đầy tính nhân văn với đồng đội và với những người tù khác. Liệt vào loại tù nguy hiểm, vừa ra tới Côn Đảo, Bác Tôn đã bị bọn chủ ngục giam vào cấm cố ở Sở Tài thuộc Banh I. Đây là một kíp dọn vệ sinh trong phạm vi lao, gồm số đông tù nặng án thuộc loại hình sự như cướp của, giết người, trộm cắp chuyên nghiệp..., họ rất hung dữ và đôi khi chỉ vì xích mích nhỏ, giết nhau là chuyện thường. Bác Tôn là người cộng sản đầu tiên ở nhà tù Côn Đảo phải sống chung với bọn côn đồ ở Banh I. Ở Sở Tải, Bác Tôn còn phải làm những công việc nặng nhọc nhất là khiêng những thùng nước cả trăm lít. Mỗi ngày Bác phải khiêng hàng trăm thùng. Bằng tư cách đạo đức cách mạng và bằng trái tim, khối óc của người cộng sản, Bác Tôn đã dần dần cảm hóa bọn tù lưu manh ở Sở Tải. Về sau chúng tỏ ra kính trọng và gọi Bác là "anh Hai", "cậu Hai". Chúng không bắt Bác khiêng nước nữa mà chỉ phải làm việc quét dọn, nhờ vậy Bác có cơ hội liên lạc với tù chính trị ở Banh II.
Bác sĩ Pêlixiê, Trưởng bệnh viện của Côn Đảo - một người thầy thuốc có cảm tình với người tù cách mạng cũng sẵn lòng giúp đỡ Bác Tôn. Đó là giữa năm 1931 đế quốc Pháp quyết định đưa một số tù ở Côn Đảo đi Guyam, một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ để bóc lột nhân công. Trong số tù đi Guyam có Bác Tôn. Anh em tù tìm cách giữ Bác lại bằng cách đưa Bác đi cấp cứu ở bệnh viện mặc dù Bác không bị ốm. Tại bệnh viện, Bác Tôn đã được thầy thuốc Pêlixiê rạch bụng ra rồi khâu lại như vừa mổ cấp cứu ca dạ dày. Giám đốc nhà tù và chủ ngục tức tối đến tận bệnh viện nhưng không làm gì được và phải để Bác Tôn ở lại.
Bác Tôn tổ chức đường dây liên lạc bằng đường cung ngầm giữa Banh I và Banh II. Cuối năm 1932 tuy không bắt được quả tang nhưng bọn chủ ngục cũng phạt giam Bác vào Hầm xay lúa. Ở Côn Đảo, Hầm xay lúa là địa ngục của địa ngục trần gian. Người tù bị giam trong Hầm xay lúa phải lao động nặng nhọc trong hầm tối tăm và bị cặp rằng hành hạ. Năm 1933 cặp rằng Bẩy Tốt tàn ác, bị anh em tù trong Hầm xay lúa giết chết. Địch bắt tù cộng sản Tô Chấn làm cặp rằng, nhưng anh kiên quyết từ chối. Bọn chúa ngục nhốt Tô Chấn vào hầm tối. Chúng buộc Bác Tôn phải làm cặp rằng với âm mưu mượn tay những người tù lưu manh giết Bác. Sự kiện này lại càng bộc lộ tài năng, tính cách và đức độ của Bác Tôn. Buộc phải nắm lấy "chính quyền" trong nhà Hầm xay lúa nên Bác Tôn đã thực hiện một cuộc "cách mạng” ở đây. Bác đã kiên trì giáo dục, giác ngộ, dìu dắt anh em tù đứng lên đấu tranh đòi cải thiện chế độ làm việc nặng nhọc, sinh hoạt khổ sở của người tù bị nhốt trong Hầm xay lúa. Kết quả số lượng lúa xay mà bọn chủ khoán đã giảm; việc nặng thay nhau làm, có thời gian nghỉ trưa; người ốm được chăm sóc; mọi xích mích được Bác Tôn hòa giải êm thấm, không khí đoàn kết được xây dựng. Bọn tù lưu manh anh chị không dám dở thói hống hách, côn đồ với các tù khác, ngược lại chúng cũng tỏ ra kính trọng Bác. Thế là Bác đã phá tan được âm mưu đen tối, độc ác của tên chủ ngục Ferandini.
Ở Côn Đảo, Bác Tôn nhiều tuổi hơn các anh em tù khác. Bác thường tìm cách chăm sóc các đồng chí mình. Tháng 6-1930, đồng chí Nguyễn Văn Hoan (người giới thiệu đồng chí Trường Chinh vào Đảng) trong đoàn 128 người bị đày ra Côn Đảo sớm nhất. Vì "là một tên tù cộng sản rất nguy hiểm" nên ra đến đảo đồng chí Hoan bị nhốt ở xà lim số 12 Banh I. Trong xà lim với sàn xi măng giá lạnh, không quần, không áo, không chăn, không chiếu và bị cùm chặt hai chân suốt ngày đêm, tháng này qua tháng khác, chỉ được thấy ánh sáng mỗi ngày một vài giây khi bọn giám thị mở cửa quẳng vào cho đồng chí một nắm cơm gạo mục trộn với muối mặn. Một tuần đồng chí được dội nước tắm tại chỗ không đầy ba phút. Đầu năm 1931, Bác Tôn được vào dội nước cho đồng chí Hoan tắm. Biết được "lý lịch" đồng chí Hoan và nghe đồng chí nói “Anh ơi, bị giam lâu ngày, ăn muối hoài, xót ruột lắm, anh cho tôi ít lá rau”. Đúng một tuần sau, Bác Tôn lại vào dội nước cho đồng chí Hoan tắm. Bị canh gác nghiêm ngặt hai người không nói được gì với nhau. Tắm xong, đồng chí Hoan thấy ở phía sau có mấy búp lá bàng non (thứ rau xanh lý tưởng của người tù ở Côn Đảo). Mấy búp lá bàng non do Bác Tôn để vào trong thùng nước mang vào, mặc dù Bác biết việc đó nếu bị phát hiện thì không bị nhốt vào hầm tối cũng bị đánh đòn nhừ tử.
Bác Tôn là anh Hai Thắng hay già Thắng tính tình kiên quyết, nhân nghĩa, trong sáng, hiền hòa, trầm tĩnh, giản dị..., không nề hà bất cứ một công việc gì. Làm dân vận, nhất là ở trong tù, những trường hợp nào mà các tay lý luận sắc sảo khó thành công, nếu đưa cho già Thắng thì bảo đảm thành công. Ở nhà tù Côn Đảo các hoạt động của tù cách mạng đều mang dấu ấn sâu sắc của Bác Tôn. Cuối năm 1932, Chi ủy đầu tiên ra đời ở Khám số 9, Banh I, nơi giam giữ Bác Tôn do Nguyễn Hội làm Bí thư và Bác Tôn cùng năm đồng chí khác là chi ủy viên. Trước hết, Chi ủy đã xuất bản tờ báo Ý kiến chung làm phương tiện tuyên truyền, chỉ đạo các hoạt động của những người tù cộng sản. Khoảng đầu năm 1935, Chi bộ nhà tù lại cho ra đời tạp chí Tiến lên là cơ quan thông tin và hướng dẫn đấu tranh đã được bí mật lưu truyền rộng rãi trong tù. Bác Tôn thay mặt Chi ủy chỉ đạo Ban biên tập hai tờ báo trên. Là người làm những công việc tự do ở Sở Tải, nên Bác Tôn có điều kiện đi lại, tiếp xúc với hầu hết các loại tù. Vì thế Bác đã thực hiện xuất sắc vai trò người thu thập bài vở và phát hành đến tay người sử dụng. Không có Bác Tôn, Chi bộ khó có thể duy trì được hai tờ báo như vậy. Bác Tôn còn là một cây bút viết khá nhiều bài cho hai tờ báo đó. Hai tờ báo đã đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất tư tưởng và hành động của những người tù cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo. Cũng thời kỳ này, Bác Tôn còn chuyển được nhiều bài tố cáo chế độ tàn khốc của Nhà tù Côn Đảo tới các báo tiến bộ ở Sài Gòn và bên nước Pháp. Việc làm này của Bác đã làm cho phong trào đấu tranh của người tù Côn Đảo không bị đơn độc, họ có diễn đàn từ nước Pháp và đất liền đấu tranh ủng hộ.
Có tổ chức Đảng ở các nhà tù, các cuộc đấu tranh được tổ chức chu đáo, có chỉ huy, có mục tiêu, có khẩu hiệu và phương pháp đấu tranh. Tất nhiên không có cuộc đấu tranh nào không bị kẻ thù đàn áp dã man. Trong những cuộc đấu tranh lưu huyết ấy, Bác Tôn lúc đó đã gần 50 tuổi vẫn xung phong vào đội tiền phong chịu đòn và chăm sóc những đồng chí yếu. Nhiều cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi tiêu biểu, đúc rút được những kinh nghiệm quý cho cuộc đấu tranh trường kỳ của tù nhân trên đảo. Tiêu biểu như những cuộc đấu tranh thực hiện "đảo chính" bếp ăn Banh I đã đưa được đồng chí Đào Gia Hựu làm cặp rằng mới của nhà bếp, từ đây đời sống của tù nhân được cải thiện đáng kể. Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương “đảo chính" trong các khám, đoạt quyền lãnh đạo các khám vào tay các tù cộng sản tạo điều kiện cải thiện sinh hoạt tinh thần trong nhà tù. Đến cuộc đấu tranh tháng 7-1934 là bước tiến mới về tính tổ chức, tinh thần tập thể đoàn kết và có lãnh đạo chặt chẽ giành thắng lợi của những người tù chở củi từ An Hải về lò than. Trước đây chỉ có năm người đẩy xe củi không vòng bi lại bị mã tà luôn đánh đập, sau cuộc đấu tranh bọn cai ngục phải chấp nhận bảy người đẩy một xe và mã tà không được đánh đập. Tiến lên cao hơn tổ chức Đảng nhà tù tổ chức đấu tranh chống khủng bố trắng và đòi ân xá chính trị phạm (cuộc đấu tranh ngày 12-8-1934); phát động tuyệt thực toàn đảo ủng hộ cuộc đấu tranh của 27 tù chính trị bị đưa đi đốn cây ở Bãi Bàng đã bị phạt nhốt xà lim và ăn cơm nhạt. Cuộc đấu tranh tuyệt thực toàn đảo đã giành thắng lợi, chủ ngục Crémazi phải nhượng bộ, mở ra một thời kỳ "dễ chịu nhất" trong Nhà tù Côn Đảo. Đến ngày 15-5-1936, Bouvier trở lại nhận chức chúa đảo đã thẳng tay thủ tiêu tất cả những gì người tù đấu tranh giành được trước đó. Lập tức ngày 18-5-1936, những người tù cộng sản ở Khám 6, 7 Banh I đấu tranh và nhanh chóng lan ra toàn đảo thành cuộc tổng bãi công chưa từng có. Ngày 28-5-1936, chúa đảo Bouvier phải chấp nhận tất cả những yêu sách của những người tù đấu tranh.
Năm 1933, Chi bộ tổ chức cho đồng chí Ngô Gia Tự cùng nhiều đồng chí khác vượt ngục. Tên chúa đảo ra lệnh dùng canô đuổi theo. Theo chủ trương của Chi bộ nhà tù, Bác Tôn hì hục "chữa" canô hàng giờ mới xong. Khi canô vượt trên mặt biển, máy lại trục trặc. Đoàn tù vượt ngục đã đi thoát. Năm 1935, Chi bộ lại tổ chức vượt ngục, lần này có Bác Tôn. Không may trên đường đến điểm hẹn, Bác bị địch bắt lại và lập tức chúng lại nhốt Bác ở Hầm xay lúa. Tháng 6-1935, chúa đảo thực hiện chủ trương tập trung tù chính trị để dễ bề đàn áp. Bác Tôn lại về Khám số 9, tại đây chẳng bao lâu đã trở thành “văn phòng" của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo mà Bác Tôn là nhân vật trụ cột. Đảng bộ bắt tay ngay vào việc thành lập các tổ chức công khai: Ban trật tự vệ sinh, các lớp học văn hóa, chính trị do Bác Tôn được Đảng bộ phân công phụ trách. Một thời kỳ hoạt động sôi nổi, bền bỉ, có tổ chức chặt chẽ của các lớp học trong tù. Đúng như Bác Hồ nhận xét: Các đồng chí ta đã biến cái rủi thành cái may, biến nhà tù thành trường học. Sau này ra khỏi Nhà tù Côn Đảo, nhiều đồng chí đã trở thành những nhà lý luận xuất sắc của Đảng, nhiều đồng chí đạt trình độ văn hóa và ngoại ngữ cao. Bác Tôn và Đảng bộ nhà tù tổ chức liên lạc đón nhận, cất giấu và sử dụng những sách lý luận kinh điển từ Pháp, từ đất liền chuyển tới quả là một kỳ công có một không hai.
15 năm ở Nhà tù Côn Đảo, Bác Tôn đã sống cực kỳ gian khổ nhưng cũng vô cùng oanh liệt, vẻ vang. Bác đã biến ngục tù thành lò luyện ý chí đấu tranh, thành trường học cộng sản. Cuộc đấu tranh kiên cường suốt 15 năm ở nhà tù Côn Đảo làm rực sáng lên những phẩm chất tận trung với nước, tận hiếu với dân của Bác, làm sáng lên tình người, tình đồng chí và Bác đã nêu một gương sáng về tinh thần bền bỉ rèn luyện, học tập cho muôn đời con cháu. Đồng chí Lê Duẩn cùng ở Côn Đảo với Bác nhận xét: "Trong tù đầy vô cùng khắc nghiệt, vậy mà Bác Tôn luôn luôn lạc quan, giữ lòng tin tưởng, sống với anh em chân tình, ấm áp".
Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Chính phủ tổ chức ra Côn Đảo đón Bác Tôn và các đồng chí tù chính trị trở về đất liền. Ngày 23-9-1945, Bác Tôn và những chiến sĩ tù Côn Đảo anh hùng về đến đất liền. Nhưng thời gian đó cũng là ngày thực dân Pháp trở lại nổ súng xâm lược nước ta một lần nữa. Do đó, Bác Tôn chưa thể về thăm vợ con, mà đến ngay Cần Thơ nhận nhiệm vụ, và phải đến năm 1954, tại Hà Nội, gia đình Bác mới được trùng phùng. Thật là một trường hợp tiêu biểu nhất về gương sáng "vì nước quên nhà".
Năm 1946, theo điều động của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác Tôn ra nhận công tác ở ngoài miền Bắc. Ở vị trí công tác mới - là người đứng đầu Mặt trận dân tộc thống nhất, Phó Chủ tịch rồi sau này thay Bác Hồ làm Chủ tịch nước. Bất kỳ ở vị trí nào, Bác Tôn vẫn luôn luôn hết lòng vì công việc, nêu một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng. Bác Tôn luôn luôn "là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn kết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh". Và như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu mực đạo đức cách mạng: suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Là người đụng đầu Mặt trận và Nhà nước, sống giữa Thủ đô, Bác Tôn vẫn giữ được nếp sống, tác phong và đạo đức của người công nhân. Chủ nhật hoặc ngày lễ vẫn thấy Bác tự sửa chữa, lau chùi chiếc xe đạp mà Bác vẫn thường sử dụng hoặc mài giũa, chữa đồ dùng trong gia đình. Ở nhà, lúc nào vợ chồng Bác cũng mặc quần áo nâu sòng và nghỉ ở nhà ngang. Mẫu mực về đạo đức của Bác Tôn chẳng những con gái, con rể Bác noi theo mà còn là điểm chuẩn cho các thế hệ mãi mãi phấn đấu, rèn luyện để trở thành con người có ích góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam muôn ngàn yêu quý ngày càng giàu đẹp.
Dù công việc bận nhiều, song hàng tháng, hàng quý, Bác Tôn vẫn dành thời gian thăm bạn bè. Nhất là những người bạn tù đã nghỉ hưu, Bác thường chủ động đến thăm hỏi chân thành, cởi mở như bạn bè khi còn cùng tù đày, xóa đi tâm lý cách biệt giữa lãnh tụ và người dân.
Nhân dân Việt Nam, thế hệ trẻ Việt Nam tự hào đã có Bác Tôn - một chiến sĩ cộng sản gương mẫu, suốt đời vì nước quên thân, vì dân quên nhà. Bác đã sống một cuộc đời cực kỳ gian truân và Bác đã chiến thắng vẻ vang. Cuộc đời Bác Tôn là cuộc đời trọn vẹn thủy chung với nước, với dân, với lý tưởng cộng sản, với bạn bè đồng đội, với bạn bè quốc tế và với gia đình.
CÔN ĐẢO VỚI NHỮNG KỶ NIỆM VỀ BÁC TÔN
HỨA PHƯỚC NINH131
Chủ tịch Tôn Đức Thắng - người đồng chí, người bạn chiến đấu thân thiết, gần gũi và đáng kính của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác Tôn đã trọn một đời chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Tôn đã có 17 năm bị tù đày trong Khám Lớn Sài Gòn và địa ngục Côn Đảo. Năm tháng cứ thế trôi qua nhưng mảnh đất Côn Đảo vẫn mãi khắc ghi về những kỷ niệm cao đẹp một thời của người cộng sản trung kiên bất khuất và mẫu mực như Bác Tôn kính mến.
Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888 tại An Giang. Cuối năm 1929, Bác Tôn bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Tháng 6-1930, địch kết án Bác 20 năm tù khổ sai và đày ra Côn Đảo. Vào thời điểm này, nhà tù Côn Đảo có gần 2.000 tù nhân, trong đó có khoảng 300 người mang án tù chính trị bị chúng giam ở Banh II, riêng Bác Tôn bị chúng giam ở Banh I cùng với hơn 1.000 tù án khổ sai, trong đó có nhiều người hoạt động chính trị thuộc các đảng phái khác nhau như Việt Nam Quốc dân Đảng, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đảng viên Đảng Cộng sản và các xu hướng chính trị khác. Năm 1932, số tù nhân ở Côn Đảo tăng lên trên 2.000 người, phần lớn là những đảng viên Đảng Cộng sản bị địch bắt giữ trong Cao trào 1930-1931. Trước yêu cầu tiếp tục hoạt động của những đảng viên cộng sản, Chi bộ nhà tù Côn Đảo được thành lập tại Banh I năm 1932, trong đó nhờ có sự hoạt động tích cực của đồng chí Nguyễn Hới, Tống Văn Trân, Tạ Uyên..., và đồng chí Tôn Đức Thắng. Sau chuyến tàu đày những người vừa bị địch xử lý trong vụ án “Đảng Cộng sản Đông Dương” ra Côn Đảo ngày 4-5-1933, Chi ủy Chi bộ nhà tù tiếp tục được bổ sung thêm nhiều đồng chí có năng lực cao như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Diểu, Trần Quang Tặng... Đồng chí Ngô Gia Tự được cử làm Bí thư Chi bộ, Bác Tôn được Chi ủy cử phụ trách Hội tù nhân.
Cuối năm 1932, Bác Tôn bị chúng phạt giam ở Hầm xay lúa. Xay lúa là một công việc quen thuộc với nông dân Việt Nam. Nhưng tại nơi đây bọn Chúa ngục Côn Đảo đã biến nó thành một hình phạt đối với tù nhân. Tù nhân bị nếm hình phạt này thì chỉ đôi ba tháng là kiệt sức, toét mắt và mang bệnh lao phổi. Bởi vậy nên Hầm xay lúa được mệnh danh là “nhà tù trong nhà tù, địa ngục trong địa ngục".
Vào thời kỳ này, thực dân Pháp chọn những tên lưu manh "loại anh chị" làm cặp rằng (caporal: cai tù) để tiếp tay cho chúng áp bức, bóc lột tù nhân. Bọn này tập hợp lũ đàn em, toàn những tay "dao búa" sử dụng “luật giang hồ" bắt tù nhân trong kíp phải phục tùng theo lệnh chúng. Trong khám, chỗ nào thoáng mát chúng nằm, có miếng ăn tươi chúng giành, công việc nặng nhọc chúng bị người khác làm. Cặp rằng ở Hầm xay lúa lại còn dữ dằn hơn các chỗ khác. Trong tình thế khó khăn, Bác Tôn đã cùng với anh em tù chính trị vô hiệu hóa chế độ cặp rằng, tập hợp đoàn kết lực lượng tù nhân, bất kể là tù nhân thuộc diện nào. Đó chính là bước khởi đầu cho việc đoàn kết, tập hợp lực lượng, tổ chức tù nhân thành đội ngũ, chuẩn bị cho cao trào đấu tranh cải biến chế độ lao tù trong những năm tiếp theo. Mãn hạn phạt ở Hầm xay lúa, Bác Tôn được ra lao động khổ sai ở bên ngoài, tranh thủ sự sơ hở của địch, Bác tạo dựng và giữ đầu mối thông tin liên lạc với đất liền, qua đó Chi bộ nhà tù tiếp nhận được nhiều thông tin và sách báo mang tính lý luận quan trọng.
Sau hàng loạt cuộc đấu tranh và vượt ngục của tù nhân, tháng 3-1945, Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh cấm cố toàn bộ số tù chính trị đang làm ở các sở ngoài vào Banh I. Bác Tôn cũng bị đưa vào cấm cố ở tại Khám 8. Đây là thời kỳ học tập lý luận và hoạt động sôi nổi, đi vào chiều sâu của tù chính trị Banh I. Bác Tôn rất tâm đắc với sách lược đấu tranh linh hoạt, phong phú và mềm dẻo mà Đảng ta chủ trương trong thời kỳ Mặt trận dân chủ. Những vấn đề lý luận học được ở trong tù và kinh nghiệm tổ chức Công hội đỏ ở Sài Gòn cũng như thực tiễn đấu tranh của Hội tù nhân Côn Đảo đã giúp Bác Tôn rất nhiều khi trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước ta sau này.
Cũng là một cựu tù chính trị Côn Đảo, trong lần trở lại thăm Côn Đảo vào ngày 27-8-1976, đồng chí Lê Duẩn đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân Côn Đảo về Bác Tôn: "Bác Tôn bị tù đày ở Côn Đảo 15 năm nhưng lúc nào cũng lạc quan, yêu đời. Đó là một chiến sĩ cách mạng không bao giờ và không gì lay chuyển được, một con người hết sức nhiệt thành, trung thực, quên mình, nay đã tuổi 88 rồi mà vẫn luôn nhẹ nhàng, thanh thản. Tuổi già vậy mà Bác luôn trẻ, đối với kẻ thù thì bất khuất, đối với anh em thì thương yêu vô cùng, có cọng rau, củ lạc cũng chia sẻ cho nhau. Nay Bác là Chủ tịch nước, vậy mà tình nghĩa với anh em cùng ở tù ngày trước vẫn như xưa, không khác chút nào hết. Đến nay, khi gặp nhau nói chuyện, Bác vẫn yêu cầu chúng tôi phải xưng hô với Bác như ngày còn ở trong tù vậy, xưng hô khác là Bác không chịu đâu.
Sau ngày giải phóng, Nhà tù Côn Đảo từng bước được trùng tu, tôn tạo, bảo vệ và tổ chức phát huy giá trị của một Khu di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia. Do vậy, ngay sau khi Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo được thành lập (30-5-1979), trong một công văn đề ngày 20-1-1980, đồng chí Lê Quang Thành, nguyên Bí thư Đặc khu ủy thay mặt Ban Thường vụ Đặc khu báo cáo với Bác Tôn, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rằng: "Ngoài nhiệm vụ phát triển kinh tế và quốc phòng, Đảng bộ và nhân dân Đặc khu còn có trách nhiệm nặng nề là phải xây dựng Vũng Tàu - Côn Đảo, nhất là Côn Đảo thành một bảo tàng cách mạng. Đây là một công việc lớn lao, phải có sự đóng góp của các ngành, các cấp và đồng bào đồng chí trong cả nước, nhưng chúng ta xác định sự nỗ lực chủ quan của mình là quan trọng… Chúng cháu quyết định làm một số việc thiết thực cho Khu bảo tàng cách mạng Côn Đảo, trong đó việc sưu tầm hồi ký, bút tích, lời phát biểu của các đồng chí đã từng bị giam cầm, đày ải tại Côn Đảo. Bắt tay vào việc này, chúng cháu nhớ ngay đến Bác Tôn kính yêu, người đồng chí cộng sản nhiều tuổi, một trong những người tù cộng sản đầu tiên bị địch giam cầm lâu nhất tại Côn Đảo, đã để lại nhiều kỷ niệm sâu sắc tại ngục tù nổi tiếng năm xưa, nhưng mai đây nhân dân ta sẽ xây dựng thành viên ngọc quý của đất nước như đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ thị".
Thực hiện lời hứa trên đây, Đảng bộ và nhân dân Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo nói chung và Côn Đảo nói riêng đã từng bước đưa các hoạt động bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị của Khu di tích lịch sử cách mạng Nhà tù Côn Đảo đi vào nền nếp, tích cực sưu tầm các tư liệu, hiện vật, tổ chức trùng tu tôn tạo các khu, các điểm di tích tương xứng với giá trị lịch sử của nó, đặc biệt với các điểm di tích là nơi giam cầm, đày ải Bác Tôn trong những tháng năm tại ngục tù Côn Đảo. Tất cả các địa điểm đó đều được lưu giữ một cách trân trọng, nhất là các điểm như Hầm xay lúa (trại II), Sở Lưới, v.v...
Để tỏ lòng ghi nhớ công lao của Bác Tôn cũng như ghi nhớ những kỷ niệm của Bác Tôn tại Côn Đảo, Đảng bộ và nhân dân Côn Đảo đã lấy tên Bác đặt cho một con đường - đường Tôn Đức Thắng - con đường đẹp nhất Côn Đảo hiện nay. Trong thời gian tới, lãnh đạo huyện Côn Đảo sẽ triển khai thực hiện chủ trương: Phối hợp với Bảo tàng Tôn Đức Thắng ở Thành phố Hồ Chí Minh hình thành một phòng lưu niệm về Bác Tôn, đồng thời thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp công viên Bác Tôn trên đường Tôn Đức Thắng và đặt ở đây một tượng đài Bác Tôn với hy vọng các công trình này sẽ góp phần giáo dục, nhắc nhở các thế hệ nhân dân Côn Đảo và du khách đến Côn Đảo có thêm hiểu biết về công ơn trời biển của Bác Tôn ngay trên mảnh đất Côn Đảo thiêng liêng này.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 220-221.
2. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa III, ngày 23-9-1969, nhân dịp đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3. Cố Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Thủ tướng Chính phủ.
5. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Đầu đề là của Ban Biên tập.
7. Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
8. Đầu đề là của Ban Biên tập.
9. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
10. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
11. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
12. Chủ tịch đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Ủy viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị.
13. Năm 1975 khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng chí Trần Quốc Hoàn và đồng chí Hoàng Quốc Việt đã tìm được học bạ gốc của Bác Tôn còn lưu giữ tại trường.
14. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
15. Hiện nay còn có những ý kiến chưa thống nhất về thời gian Bác Tôn sang Pháp, nên chúng tôi vẫn giữ nguyên ý kiến của tác giả (B.T.).
16. Nay là đường Lý Trần Quán – Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
18. Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
19. Nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.220.
21. Trong cuộc gặp cán bộ, chiến sĩ Thông tin liên lạc (T.G)
22. Giáo sư, tiến sĩ Việt kiều tại Pháp.
23. Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh.
24. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr. 416.
25. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 314.
26. Đầu đề là của Ban Biên tập.
27. Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
28. Nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư Tưởng - Văn hóa Trung ương.
29. T F: Chữ viết tắt của Traveaux Forcés (lao dịch khổ sai).
30, 31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr. 220, 221.
32. Nguyên Trợ lý Tổng Bí thư, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
33. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 506.
34. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.11, tr. 507.
35, 36, 37. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9. tr 220, 221.
38. Ôxtrâylia.
39. Tên bài là của Ban Biên tập.
40. Giáo sư Sử học.
41. Bí danh An, nguyên Bí thư Kỳ bộ Nam Kỳ. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên 1927-1928.
42. Năm 1925, Bác Hồ đã mở những lớp ngắn hạn cho các đồng chí trong “Tâm tâm xã" và những thuỷ thủ như Nguyễn Lương Bằng…
43. Các đồng chí đó là: Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Phan Trọng Quảng, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Bình.
44. Về thời gian học ở Trường Bá Nghệ, có ý kiến là niên khóa 1915- 1917 (B.T).
45. André Marty hơn Bác Tôn 2 tuổi, là sĩ quan máy tàu, sếp trực tiếp của Bác Tôn, người lãnh đạo cuộc binh biến ở Biển Đen bị kết án, ngồi tù đến năm 1923 được đại xá. Ông vào Đảng Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc hội mấy khóa liền và là người nhiệt tình với cách mạng Đông Dương. Bất đồng ý kiến với Trung ương Đảng Cộng sản Pháp nên năm 1953 bị khai trừ khỏi Đảng. Ông mất năm 1956.
46. Nguyên Phó Chủ tịch ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, nguyên Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn, nhà Sử học, nhà nghiên cứu.
48. Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
49. Nhà văn
50. Nay là đồng chí Trần Diệp.
51. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.9. tr. 220-221.
52. Giáo số số học.
53. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ An Giang: Bác Tôn - Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1988, tr. 53.
54. Đến giữa năm 1983, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới ra Quyết định lấy ngày 28-7-1929, ngày họp Đại hội thành lập Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, làm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam - Theo Thông báo số 222/CT-TƯ ngày 25-6-1983 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Đỗ Quang Hưng "Công hội đỏ Việt Nam", Nxb. Lao động, Hà Nội, 1989, tr. 130).
55. Đại học Quốc gia Hà Nội.
56. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 114.
57. Xem: Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Leenin và các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1980, tr. 22-24.
58. Một số vấn đề lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb.Lao động, Hà Nội, 1974, tr. 228.
59. Trong “Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội V.N.K.M.T.N” (1929) ghi rõ tên hội là “Hội Việt Nam Cách mang Thanh niên”. Sau đó lại có tên là: “Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội” (Theo: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 1, tr. 83).
60. Góp vào lịch sử các phong trào chính trị ở Đông Pháp, tiếng Pháp, 1933, t.IV, tr. 48.
61. Tài liệu của Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Xem: Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 25.
63. Năm 1927, số hội viên Thanh niên một số địa phương như sau: Hà Nội: 40; Nam Định: 40; Nghệ Tĩnh: 30; Sài Gòn: 30; Thái Bình: 20; Quảng Nam: 15; Hà Bắc: 10; Hải Phòng: 10 (theo Nguyễn Thành, Phạm Xanh, Đặng Hòa, Đào Phiếu. Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, tr.167).
64. Nhà văn.
65. PGS.TS, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng.
66. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr. 114.
67. Nguyên Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang.
68. Lọp: loại công cụ để đánh bắt cá của người dân Nam Bộ.
69. Lê Minh: Người thợ máy Tôn Đức Thắng, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1987.
70. Có tài tiêu ghi khoảng 1.800 người (B.T).
71. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.181.
72. Giảng viên Trường Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
73. PGS. TS, Nguyên Thư ký Hội đồng lý luận Trung ương.
74. Nguyên thư ký của Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
75. Bác Tôn có một người con trai ra đời lúc Bác bị giam trong Khám Lớn Sài Gòn. Trước khi bị đày đi Côn Đảo đã nhìn thấy mặt con, không may năm 3 tuổi con trai bác đã mất (T.G).
75. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr. 221.
76. Nguyên Tổng thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa (BT).
77. Phân phối cung cấp 13 đồng.
78. Áo lá: áo lót miền Nam, như may ô ba lỗ may bằng vải mỏng, có hai túi cài cúc như áo bà ba (T.G).
79. Cũng dịp này tôi mới biết trong Nhà thờ Đa Minh có gian phòng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh theo truyền thống dân tộc: Chân dung, bát hương, tam sự. Tôi được tiếp ở phòng đó (T.G).
80. Bác sĩ.
81. Ban quản lý Khu di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo.
82. Tiến sĩ Sử học.
83. Nhiều tài liệu viết rằng từ năm 1922, Bác Hồ đã xây dựng đường dây liên lạc về nước trong số thủy thủ tàu buôn Pháp, đồng chí Bùi Lâm là một trong những người thường mang tài liệu về Sài Gòn, Hải Phòng. Có lẽ tài liệu, báo chí Bác Tôn nhận được là qua hệ thống liên lạc này.
84, 85. Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 122.
86. Trích theo Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961, tr. 356.
87. Đại biểu Đông Dương ở Đại hội VI Quốc tế Cộng sản là đồng chí Nguyễn Văn Tạo (bí danh lúc đó là Nguyễn An), thành viên của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp tại đại hội - Dẫn theo Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1961, tr. 357.
88. Năm 1920 Bác Tôn thuê nhà ở số 63 đường Phơlăngđe (nay là Bà Huyện Thanh Quan). Năm 1921 dời đến số nhà 22 Mayde (nay là Võ Thị Sáu). Năm 1925 dời đến đường Pônbơlăngsi (nay là Hai Bà Trưng ở ngay dốc Cầu Kiệu - phía chợ Tân Định). Năm 1926 dời đến số 72 đường Pônbơlăngsi nối dài ngang chợ Xã Tài (nay là chợ Phú Nhuận). Bác ở đó luôn cho tới ngày bị bắt (23-7-1929).
89. Hồi ký của Dương Quang Đông “Đốm lửa đầu tiên của Nam Kỳ lục tỉnh trong những tháng năm chưa có Đảng”. Theo đồng chí Dương Quang Đông thì phần lớn các đồng chí liên lạc về các tỉnh như anh Kỉnh, Năm Đông về Trà Vinh, anh Thiệt về Vĩnh Long, anh Thành về Tây Ninh, anh Trực về Tân An, anh Châu về Biên Hòa, v.v. và một số anh khác như Ka Him vào làm công nhân Hãng rượu Bình Tây, anh Mười Giao xây dựng Nông hội ở Bình Đông (quận 8), anh Khánh phụ trách đềpô xe lửa Dĩ An, Hãng dầu Nhà Bè, v.v ..
90. Tổ chức Nông hội được xây dựng ở Vĩnh Kim, Kim Sơn, Long Hưng, Cái Bè, v.v. (Mỹ Tho) do Bảy Nhu, Sáu Dung (cậu ruột của Bác Tôn gái), chị Năm Thìn, anh Ba Chè, v.v. làm nòng cốt.
91. Như ở Long Xuyên địch lục soát, tiệm may Mỹ Quang, trụ sở của Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội bắt đồng chí Nguyễn Văn Cung (Bí thư Tỉnh bộ) và đồng chí Nguyễn Văn Cái. Sau đó chúng phải thả ra vì không có chứng cứ kết tội.
92. Quyết định kết nạp được đồng chí Nguyễn Thị Nhỏ thông báo qua hệ thống liên lạc bí mật ở Khám Lớn - Sài Gòn.
93. Trích Bài đăng trên Tạp chí: Thất Sơn, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh An Giang, số 44, 1-1999, tr. 8 – 9.
94, 95. Đầu đề là của Ban biên tập.
96. Được Bác Tôn nhận làm con nuôi từ năm 1946 (B.T).
97. Bức thư Bác trả lời cho Chi bộ Trường phổ thông Lao động Phú Thọ, trước khi tôi được kết nạp đảng (T.G).
98. Ông Dương Bạch Mai lúc ấy là Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt - Xô. (T.G).
99. Bộ trưởng Bộ Lao động trước đây (T.G).
100. Báo Đưa tin (T.G).
101. Nguyên Giám đốc Khu lưu niệm Bác Tôn tại Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
102. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr. 221.
103. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
104, 105. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, (1945 – 1947), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 69, 71.
106. Chủ tịch Hồ Chí Minh là Chủ tịch danh dự. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội Liên Việt, Tổng Thư ký là Cù Huy Cận, các ủy viên là Trần Huy Liệu, Phạm Ngọc Thạch, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Tường Long.
107. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 9, tr. 29.
108. Bác Tôn – Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1988, tr. 157.
109. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 487, 488.
110. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr. 181.
111. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 – 1980), An Giang, 1988, tr. 216.
112. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 9, tr. 221.
113. Đồng chí Tôn Đức Thắng – Người chiến sĩ cộng sản kiên cường mẫu mực, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr. 35.
114. Sở Văn hóa và Thông tin An Giang: Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980), An Giang, 1988, tr. 312.
115. Sđd, tr. 317 -318.
116. Điếu văn do đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc trong Lễ truy điệu Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ngày 3-4-1980. Báo Nhân Dân, ngày 4-4-1980.
117. Thông cáo đặc biệt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hội đồng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (ngày 30-3-1980).
118. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
119. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp đã huy động 90.000 người Đông Dương, trong đó có 51.000 lính thợ đưa sang Pháp.
120. Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Sở Văn hóa Thông tin An Giang, 1988, tr.229-230.
121. Một con người bình thường, vĩ đại, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, 1988, tr.31.
122. Điếu văn do đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội đọc trong Lễ truy điệu Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ngày 3-4 -1980, Báo Nhân Dân ngày 4-4-1980.
123. Đặng Hòa: “Những ghi chép nhỏ về hai tâm hồn lớn”, trong cuốn: Những mẩu chuyện về Bác Tôn, Sở Văn hóa Thông tin An Giang, 1988, tr. 52, 53.
124. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 489.
125. Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Sở Văn hóa Thông tin An Giang, 1988, tr. 328.
126. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 9, tr. 221.
127. Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
128. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 9, tr. 220-221.
129, 130. Ban liên lạc tù chính trị: Côn Đảo - Ký sự, Sở Văn hóa - Thông tin và Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, tr. 197.
131. Nguyên Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Côn Đảo.
Phần thứ ba: TÔN ĐỨC THẮNG - MỘT SỐ BÀI NÓI VÀ VIẾT CHỌN LỌC THƯ CHÚC MỪNG SINH NHẬT HỒ CHỦ TỊCH
Kính gửi Hồ Chủ tịch
Thưa Cụ Chủ tịch,
Nhân ngày kỷ niệm sinh nhật 60 tuổi của Chủ tịch hôm nay, chúng tôi thay mặt Quốc hội và toàn thể nhân dân trân trọng dâng lên Chủ tịch lời chúc thọ.
Trước giai đoạn tổng phản công này, chúng tôi mong Chủ tịch được luôn luôn mạnh giỏi để lãnh đạo cuộc tranh đấu của dân tộc mau đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Xin Chủ tịch chấp nhận lời thành thực và lòng tin tưởng của chúng tôi.
Ngày 17 tháng 5 năm 1950
T/M BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI
TÔN ĐỨC THẮNG
Lưu tại Trung tâm
lưu dữ Quốc gia III.
DIỄN VĂN KHAI MẠC ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ II ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
(Ngày 11 tháng 2 năm 1951)
Thưa Hồ Chủ tịch và các anh chị em đại biểu!
Đây là Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Về dự Đại hội có đông đủ đại biểu của các Đảng bộ toàn Đảng; trong đó, có đủ các lớp đồng chí từ ngày Đảng mới thành lập đến nay: già có, trẻ có, trai có, gái có. Đây là sự phản ánh rõ rệt nhất của trang lịch sử vẻ vang và của tinh thần đoàn kết nhất trí của Đảng.
Đây là một điểm thắng lợi của Đảng và của nhân dân trong cuộc kháng chiến khó khăn, gian khổ này.
Đại hội lại được hân hạnh đón tiếp các đồng chí đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, một đảng đàn anh đã giúp đỡ nhiều cho Đảng ta và hiện nay là trụ cột của cách mạng ở châu Á.
Và đồng chí đại biểu của Đảng Cộng sản Xiêm, một đảng anh em hiện đang chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai của chúng, giành tự do độc lập cho nhân dân Xiêm và chống âm mưu của bọn đế quốc muốn biến nước Xiêm làm một căn cứ để tấn công Lào, Miên, Việt Nam và Trung Quốc của chúng.
Sự có mặt đại biểu của hai Đảng bạn làm cho Đại hội phấn khởi thêm; và tỏ rõ chúng ta đã liên lạc chặt chẽ để phá tan mọi kế hoạch xâm lược của đế quốc ở Đông Nam Á.
Tôi đề nghị với Đại hội hoan hô đại biểu của hai Đảng bạn và gửi lời chào mừng các Đảng anh em.
Các đoàn đại biểu đảng bộ địa phương tiêu biểu cho cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân và của toàn Đảng. Nói chung, tất cả đều cố gắng và có thành tích.
Đoàn đại biểu Miên, Lào, đại diện cho hai Đảng bộ Miên, Lào đã có công trong việc xây dựng lực lượng võ trang, phát triển các chiến khu và xây dựng nền tảng cho chính quyền độc lập của hai dân tộc Miên, Lào.
Đoàn đại biểu của Nam Bộ anh dũng, đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến trước nhất, đã theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến tới.
Đoàn đại biểu của các Đảng bộ trong quân đội nhân dân đại diện những binh đoàn đã lập được những chiến công oanh liệt trong các chiến dịch. Một số trong những chiến sĩ thi đua cũng được mời đến dự hội nghị. Tôi đề nghị hoan hô các chiến sĩ ấy.
Thưa các đồng chí đại biểu!
Đại hội lần thứ II này của Đảng, cách Đại hội lần I họp ở Ma Cao, tháng 5-19351 mười lăm năm tám tháng. Trong hơn mười lăm năm ấy, tình hình thế giới và Đông Dương đã có nhiều thay đổi căn bản:
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã kết liễu với sự thất bại hoàn toàn của ba đế quốc Đức - Ý - Nhật, với sự thắng lợi của nhân dân và Hồng quân Liên Xô. Nó kết thúc với sự đổ vỡ quá nửa lâu đài của chủ nghĩa đế quốc, làm cho những phần còn lại của cái lâu đài ấy bị rung rinh đến tận nền móng. Trong ba đế quốc, hiện còn lại Pháp - Anh đã trở thành gần như chư hầu của Mỹ, Mỹ là kẻ gây chiến tranh, là tên trùm phản động thế giới.
Chủ nghĩa xã hội đã tỏ ra thắng hẳn chủ nghĩa đế quốc về mọi mặt. Sau thắng lợi vĩ đại của nhân dân Liên Xô, hơn mười nước dân chủ nhân dân xuất hiện. Phong trào đấu tranh của thợ thuyền và nhân dân các nước tư bản phát triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng ở thuộc địa và nửa thuộc địa lên cao: năm 1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc ra đời, đã thay đổi hẳn tương quan lực lượng giữa phe dân chủ và phe đế quốc, lợi cho phe dân chủ. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam, Miên, Lào, những cuộc đấu tranh gay go quyết liệt của nhân dân các nước Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai, Diến Điện2 và cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Triều Tiên đều là những lát búa nặng, bổ vào nền tảng đế quốc.
Trong mười lăm năm ấy, lực lượng cộng sản thế giới đã mạnh lên gấp bao lần, đã được thử thách trong cuộc chiến tranh chống phát xít và đấu tranh giải phóng dân tộc. Các Đảng Cộng sản đã tỏ ra là người lãnh tụ chân chính của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của các dân tộc. Phong trào công nhân, phong trào giải phóng dân tộc, hòa bình và dân chủ thế giới mật thiết hòa hợp với nhau, đồng thời phát triển mạnh mẽ, có tổ chức thống nhất, dưới sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản và công nhân, có Đảng Bônsêvích Liên Xô và nhà lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới: đồng chí Xtalin.
Lực lượng hòa bình dân chủ thế giới ngày nay đã mạnh hơn hẳn lực lượng của bọn đế quốc gây chiến. Hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn ra và vững thêm; hệ thống tư bản chủ nghĩa yếu xuống. Trước cơn tổng khủng hoảng cực kỳ trầm trọng, bọn đế quốc do bọn tài phiệt phátxít Mỹ cầm đầu, đang ra sức sửa soạn một cuộc chiến tranh thứ ba, mong thực hiện cái mộng làm bá chủ hoàn cầu. Chúng ráo riết tăng binh bị, chế bom nguyên tử, trực tiếp can thiệp vào nội tình nhiều nước, để biến các nước đó thành căn cứ quân sự và tiếp tục thực hiện những cuộc chiến tranh xâm lược, đàn áp phong trào hòa bình, dân chủ và phong trào giải phóng dân tộc, tăng cường những tổ chức gián điệp, khuyến khích và nâng đỡ các tổ chức phát xít, v.v.. Bọn đế quốc muốn thoát khỏi nạn khủng hoảng bằng chiến tranh như trước đây chúng đã làm.
Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng: con đường ấy chính là con đường tự sát của chúng. Tuy nhiên, trước khi giãy chết, chúng sẽ càng thâm độc, hung ác hơn, và sẽ không từ một thủ đoạn hung ác nào để tàn sát nhân loại. Chính vì thế, nhiệm vụ của các Đảng cộng sản thế giới hiện nay là phải hết sức tỉnh táo đề phòng mọi mưu mô xâm lược của phe Mỹ. Song, tương quan lực lượng giữa những kẻ muốn gây chiến và những người kiên quyết bảo vệ hòa bình hiện nay, không giống những năm 1913-1914, 1938-1939. Lực lượng hòa bình dân chủ thế giới không những cản được bàn tay đẫm máu của chúng, mà nhất định sẽ san phẳng lâu đài của chủ nghĩa đế quốc, nếu đại chiến thứ ba nổ ra.
Trên đây, là những biến chuyển lớn của tình hình thế giới sau mười lăm năm. Tình hình các dân tộc trên bán đảo Đông Dương cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình hình đó.
Đại hội Ma Cao họp, trong khi ách thống trị của đế quốc Pháp, còn đè nặng trên vai nhân dân của ba dân tộc Việt - Miên - Lào; những tổ chức quần chúng cách mạng, là cơ sở của Đảng còn yếu ớt. Đến nay, tình thế đã khác hẳn: nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám: đánh đổ phát xít Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhân dân Cao Miên, Ai Lao đã khởi nghĩa, lập chính quyền, tổ chức quân đội.
Nhưng, giặc Pháp tham tàn quay trở lại. Sáu năm nay, nhân dân Việt, Miên, Lào đã chung lưng đấu cật kháng chiến trường kỳ để tiêu diệt thực dân xâm lược Pháp, chống bọn can thiệp Mỹ, thực hiện độc lập, thống nhất, tự do, dân chủ, phú cường.
Cuộc kháng chiến của ba dân tộc đến nay đã tiến được những bước khá dài: địa vị của nước Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế. Liên Xô, Trung Hoa và các nước dân chủ nhân dân đã lập ngoại giao với Việt Nam. Phong trào giải phóng Miên, Lào cũng được chú ý. Mới đây, ta lại giành được những thắng lợi quân sự quan trọng làm một đà mới đẩy mạnh cuộc chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Đông Dương hiện nay là tiền đồn của phe dân chủ và cũng là một vị trí chiến lược quan trọng của đế quốc chủ nghĩa ở Đông Nam châu Á. Cho nên, đi đôi với cuộc chiến tranh xâm lược Triều Tiên và chiếm cứ Đài Loan, Mỹ đã can thiệp mạnh hơn vào Đông Dương. Tình thế ấy, đã gây cho ta những khó khăn mới; và do đó, chúng ta phải nắm vững tư tưởng trường kỳ kháng chiến, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn.
Tóm lại, mười lăm năm qua, đã mang lại cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt, Miên, Lào: một nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, một nước Miên giải phóng với hai phần ba đất đai, một nước Lào với những chiến khu rộng rãi ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào.
Nhân dân Việt Nam từ chỗ trong tay không có một khẩu súng, đã gây dựng được những đội du kích nhỏ dần dần thành một quân đội nhân dân anh dũng gồm mấy chục vạn người và những đội quân địa phương, quân du kích mạnh mẽ khắp trong nước. Nhân dân Cao Miên, Ai Lao cũng có những lực lượng vũ trang khá mạnh.
Nhưng, một của quý nhất mà chúng ta nắm được là, đã xây dựng được một Đảng tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, gần một triệu người đã được rèn luyện trong hơn hai mươi năm đấu tranh vô cùng gian khổ, người trước ngã, người sau lên, một người hy sinh, hàng trăm ngàn người khác thay thế. Các đồng chí chúng ta, kể từ ngày thành lập và kể từ đồng chí Trần Phú trở đi, đã oanh liệt hy sinh hàng vạn, để xây dựng sự nghiệp cách mạng ngày nay. Thừa kế những gương hy sinh của các đồng chí tiền bối, trong sáu năm kháng chiến này, các đồng chí ta lại càng hy sinh oanh liệt bội phần, hy sinh trong lúc xung phong giết giặc, trong những công tác nguy hiểm, trong những vùng tạm bị chiếm đóng.
Để tưởng nhớ tới những đồng chí chúng ta đã vui vẻ nhận lấy cái chết của mình để bảo vệ sống còn của dân tộc, của giai cấp và của Đảng Cộng sản Đông Dương, và đặc biệt để tưởng nhớ tới những đồng chí lãnh tụ thân yêu: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, và các đồng chí khác, tôi đề nghị Đại hội đứng dậy im lặng một phút.
Thưa các đồng chí!
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân dựng nên sự nghiệp lớn như tôi đã nói, và có những đồng chí hy sinh anh dũng cho Đảng và dân tộc như vậy, là nhờ ở một người lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam: Hồ Chủ tịch, người cộng sản Đông Dương đầu tiên và là sáng lập viên của Đảng. Người đã đem thân thế và tài năng của mình hoàn toàn cống hiến cho Đảng và cho công cuộc giải phóng của giai cấp công nhân và dân tộc. Người đã cùng một số đồng chí khác thành lập và thống nhất Đảng, và chính Người đã đào tạo cho Đảng những cán bộ lãnh đạo, kể từ Trần Phú, Lê Hồng Phong trở đi; tất cả các lãnh tụ của Đảng đều trực tiếp hưởng thụ sự giáo dục của Người, rồi đem kết quả của sự giáo dục đó, truyền lại cho toàn thể đảng viên của Đảng. Đường lối chính trị, nền nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác phong và đạo đức của Hồ Chủ tịch; đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin ở Việt Nam. Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch, sự học tập ấy, là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn toàn.
Mười lăm năm nay Đại hội mới họp được. Nhưng trong khoảng thời gian đó, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, Đảng đã vượt qua những khó khăn, khúc khuỷu của phong trào cách mạng và đưa cách mạng tiến lên. Tuy nhiên, Đại hội lần thứ II chậm họp cũng là một thiệt thòi lớn của Đảng và dân tộc.
Do sự cố gắng của toàn Đảng và của Trung ương, Đại hội lần thứ II của Đảng đã được triệu tập. Đại hội lần thứ I của Đảng họp ở nước ngoài, số đại biểu chỉ có hơn 10 người, đại diện cho một số Đảng bộ mới gây dựng lại được, sau một thời kỳ dài khủng bố, Đại hội lần thứ II này họp ở trung tâm khu tự do rộng lớn với hơn 200 đại biểu đại diện cho hơn 75 vạn đảng viên.
Cuộc Đại hội này có một ý nghĩa lịch sử trọng đại. Nó quyết định những công việc chính sau đây:
Xét tình hình thế giới và trong nước, định rõ chính cương, sách lược của Đảng trong cuộc cách mạng dân chủ nhân dân. Công việc này rất quan trọng. Chúng ta cần căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Miên, Lào, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các Đảng anh em, căn cứ vào những lời huấn thị của Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin - Mao Trạch Đông, vạch ra một đường lối cụ thể cho cách mạng Việt Nam, Miên, Lào.
Tình hình cách mạng Đông Dương có những thay đổi căn bản, nhất là sau Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam không còn là một thuộc địa của Pháp; Miên, Lào cũng đã có Chính phủ kháng chiến, có Mặt trận dân tộc, có khu căn cứ. Hoàn cảnh lại cho phép Đảng ra công khai, nên Đại hội cần bàn việc Đảng ra công khai và xây dựng một Đảng mới và mạnh, sửa đổi lại Điều lệ cho thích hợp.
Công việc cách mạng và công việc Đảng ngày càng nhiều, nhiệm vụ Đảng ngày càng nặng nề, nhiệm kỳ của Trung ương đã quá kéo dài, Trung ương đề nghị: Đại hội cử ra một Ban Chấp hành Trung ương với một số người đông hơn hiện nay, để sau khi Đại hội bế mạc, thay mặt Đại hội, chỉ đạo công việc của toàn Đảng.
Thưa các đồng chí!
Sau Đại hội Ma Cao, thế giới đã bước vào một thời đại mới, Đảng ta cũng bước vào một giai đoạn mới của lịch sử. Cuộc kháng chiến trường kỳ còn gặp nhiều khó khăn, nhưng do đường lối, chủ trương sáng suốt của Đại hội, chúng ta sẽ giành được nhiều thắng lợi mới và mau chóng hoàn thành chuẩn bị tổng phản công.
Như Hồ Chủ tịch đã nói, trong bức thư gửi các đại biểu mới đây, chúng ta hãy tập trung nghị lực bàn những công việc giết giặc, giải phóng dân tộc. Chúng ta hãy bắt tay vào công việc với tinh thần phấn khởi cách mạng và thi đua ái quốc. Các đại biểu về họp tại đây nhận lấy trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, làm cho Đại hội hoàn thành nhiệm vụ một cách vẻ vang.
Thay mặt Trung ương, tôi trịnh trọng tuyên bố Đại hội khai mạc và chúc Đại hội thành công.
Sách Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, t.12, t.3-11.
DIỄN VĂN BẾ MẠC ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ II ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM3
(Ngày 19 tháng 2 năm 1951)
Thưa Hồ Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu,
Sau 8 ngày làm việc, thực ra là sau 19 ngày làm việc, chúng ta đã làm tròn nhiệm vụ mà toàn Đảng đã giao cho.
Cuộc Đại hội lần thứ II này của Đảng đã diễn ra dưới dấu hiệu:
Đoàn kết, nhất trí giành
Độc lập cho Tổ quốc
Dân chủ cho nhân dân và
Hòa bình cho thế giới.
Hoàn cảnh họp Đại hội của chúng ta như thế nào?
Đại hội này đã làm việc trong hoàn cảnh quốc tế và quốc gia như thế nào?
Đế quốc Mỹ và phe lũ chuẩn bị chiến tranh ngày thêm gấp rút. Chúng lập lại quân đội Đức, Nhật, đấy là một chứng cớ.
Phong trào hòa bình, dân chủ thế giới ngày một lên cao. Quân đội nhân dân Triều Tiên và quân tình nguyện
Trung Quốc đang bắt đầu một đợt phản công mới, đuổi quân xâm lược Mỹ chạy dài.
Nhân dân Pháp đang chống đế quốc Mỹ và Chính phủ Plêven, tay sai của Mỹ.
Các dân tộc ở Đông Nam Á đang đấu tranh chống bọn đế quốc xâm lược và bù nhìn.
Trong nước, cuộc kháng chiến đang lên mạnh sau hai chiến dịch thắng lợi: Cao Bằng - Lạng Sơn và Trung du. Gần đây trong khi ta họp Đại hội, quân ta đánh ở Long Xuyên, Bắc Thừa Thiên, v.v..
Đó là nhìn xa. Bây giờ nhìn gần, chúng ta đã họp Đại hội trong một khung cảnh như thế nào? Như các đồng chí đã thấy, do bao nhiêu cố gắng, Đại hội của chúng ta đã họp trong rừng, nhưng trong một khu rừng thật xứng đáng với những vần thơ của Tố Hữu. Các đồng chí hãy tưởng tượng một quả đồi kín, chỉ trong 4 tháng đã mọc lên 30 nóc nhà bằng nứa, bằng gỗ, chính giữa có một hội trường lớn kiến trúc theo một phương châm đúng: giản tiện và trang nhã. Được thế cũng là nhờ sự cố gắng của 300 anh chị em công nhân do các đồng chí Đắc Xích Di và Quang lãnh đạo, và nhờ có kiến trúc sư đã đem kinh nghiệm chuyên môn phụng sự cho Đảng. Sau nữa, nhờ sự tận tâm cố gắng của Ban tổ chức Đại hội do các đồng chí Minh và Tùng điều khiển.
Tôi thay mặt các đồng chí, thay mặt Đại hội tỏ lời khen ngợi và cảm ơn anh chị em công nhân và các đồng chí phụ trách.
Đại hội có tất cả 191 đại biểu:
158 chính thức,
33 dự khuyết,
thay mặt cho hơn 73 vạn đảng viên Việt - Miên - Lào.
Lại có 7 đồng chí được mời và 25 đồng chí dự thính.
Thành phần xã hội của đại biểu như sau:
- Công nhân hơn 20% (89 đồng chí),
- Nông dân 22,5% (43 đồng chí),
- Ngoài ra là tiểu tư sản và các tầng lớp khác (109 đồng chí).
Trong số đại biểu, có 9 phụ nữ, 44 cán bộ quân sự, gồm cả những chiến sĩ vừa ngừng bắn ở mặt trận về dự Đại hội, 35 cán bộ chính quyền, 37 cán bộ Mặt trận và dân vận, và 75 cán bộ công tác đảng.
Đồng chí Việt, Miên, Lào đều có. Đồng chí hoạt động trong nước có, ngoài nước có. Đồng chí hoạt động ở vùng tự do có, vùng tạm bị chiếm có.
Lại có một đồng chí người Đức: đồng chí Chiến Sĩ đến dự Hội nghị với chúng ta.
Về tuổi, đồng chí cao nhất là đồng chí Tôn Đức Thắng: 62 tuổi và đồng chí trẻ nhất: 22 tuổi.
Về tuổi đảng, có những đồng chí vào Đảng đã 21 năm, từ khi Đảng mới ra đời, và một đồng chí vào Đảng mới 8 tháng.
Trong số đại biểu, có 19 đảng viên vào Đảng từ khi Đảng mới thành lập, và 3 sáng lập viên của Đảng: Hồ Chủ tịch, đồng chí Lê Đình, tức Cửu và đồng chí Quốc Anh, tức Cung.
Trong số các đồng chí được mời, có các anh hùng thi đua giết giặc và sản xuất, và mấy nữ đồng chí có công trong thời kỳ bí mật.
Hân hạnh nhất cho chúng ta là Đại hội được tiếp vị đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc: đồng chí Quý4 và vị đại biểu Đảng Cộng sản Xiêm: đồng chí V5, đồng chí Trưởng Đoàn cố vấn quân sự và các đồng chí Cố vấn kinh tế, tài chính.
Tôi xin thay mặt Đại hội cảm ơn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đến dự cuộc Đại hội của chúng tôi và cho chúng tôi những lời khuyên bảo quý báu. Xin cảm ơn vị đại biểu Đảng Cộng sản Xiêm và cảm ơn các đồng chí Cố vấn.
Xin đồng chí đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển lời cảm ơn của chúng tôi đến Mao Chủ tịch và...6 đã ân cần giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt, và xin chuyển lời cảm ơn của chúng tôi đến Trung ương hai Đảng Liên Xô và Trung Quốc đã giúp đỡ chúng tôi về đường lối đề ra trong văn kiện trọng yếu mà toàn thể Đại hội đã biểu quyết, hoan nghênh. Chúng tôi im xin nguyện cùng các đồng chí Xiêm liên hiệp hành động với Đảng Cộng sản Xiêm và nhân dân Xiêm, chống bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập tự do cho các dân tộc Xiêm, Việt, Miên, Lào.
Bây giờ tôi nói về nội dung công việc và cách làm việc của Đại hội.
Đại hội là một Đại hội lịch sử của Đảng.
15 năm mới họp được một cuộc Đại hội, lại họp trong hoàn cảnh kháng chiến. Tất cả ý nghĩa của Đại hội là ở đó. Đại hội đã quyết định những vấn đề quan hệ đến tư tưởng, hành động của hơn 73 vạn đảng viên và vâng lệnh của 25 triệu nhân dân ba nước Việt, Miên, Lào. Đại hội đã bàn định:
- Đảng ra công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam;
- Đường lối cách mạng Việt, Miên, Lào;
- Chính cương và Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam.
- Tuyên ngôn của Đảng.
Những vấn đề quan trọng khác cũng đã được thảo luận và thông qua: quân sự, Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền, kinh tế tài chính, thi đua, đấu tranh tư tưởng...
Đại hội quyết định xuất bản báo Nhân dân, cơ quan Trung ương của Đảng.
Đại hội đã bầu Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương được bầu hợp thức trong Đại hội. Trước kia, chỉ bầu trong Hội nghị toàn quốc (như Hội nghị Tân Trào) hoặc chỉ định.
Cách làm việc của Đại hội cũng rất đáng chú ý. Vì các đề án, báo cáo không gửi xuống dưới thảo luận trước, trừ vấn đề đổi tên Đảng và một phần Chính cương, nên chúng ta đã làm việc theo một cách thức hợp lý. Trong 10 ngày, các tổ thảo luận dự thảo báo cáo, báo cáo viên luôn lấy ý kiến bổ sung cho dự thảo báo cáo. Rồi Đại hội mới khai mạc. Những vấn đề lớn, những văn kiện quan trọng đều được chuẩn bị trong các tiểu ban của Đại hội. Cách làm việc như thế phát huy được sáng kiến, tinh thần tự động và ý thức dân chủ của các đại biểu.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch và Chủ tịch đoàn, Đại hội đã làm việc trong bầu không khí đoàn kết, thân mật, vui vẻ, đôi khi cảm động nữa - trong bầu không khí gia đình mà sau bao nhiêu năm lăn lộn, các con em hoạt động bốn phương về với vị già trưởng, là đồng chí Hồ Chí Minh thân mến của chúng ta.
Đại hội đã bàn đến những vấn đề lớn thuộc về lý luận cách mạng Việt Nam và chính sách của Đảng. Thảo luận rất náo nhiệt là những vấn đề sau đây:
- Cách mạng Việt Nam hiện thời,
- Bước đường tiến lên của cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề giai đoạn và chính sách ruộng đất.
- Vấn đề Đảng Lao động Việt Nam là đảng của ai?
Tôi xin nhắc lại nhận định của Đại hội về những vấn đề căn bản đó, để các đồng chí chú ý, đặng tránh mọi nhận định và giải thích lộn xộn, không thống nhất.
1. Về vấn đề cách mạng Việt Nam: Đại hội nhận rằng: cách mạng Việt Nam hiện thời là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Nhiệm vụ cơ bản của nó là:
- Đánh đổ đế quốc xâm lược,
- Bài trừ thế lực phong kiến,
- Phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Mục đích của nó là thực hiện một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ nhân dân, dân chủ mới, và dần dần tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Con đường từ nay đến chủ nghĩa xã hội phải kinh qua nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm của nó.
Trong giai đoạn hiện tại, nhiệm vụ trung tâm, nhiệm vụ chủ yếu là đánh bại đế quốc xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc. Nhưng không phải chỉ đánh bại đế quốc xâm lược mà thôi.
Trái lại, trong khi đánh bại đế quốc bên ngoài vẫn phải thu hẹp bóc lột phong kiến, làm yếu thế lực phong kiến và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tức là ít nhiều gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội. Song những nhiệm vụ đó đều phải phục vụ nhiệm vụ đánh bại đế quốc xâm lược.
Quan niệm cho rằng, trong giai đoạn hiện tại nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến ngang nhau, hay kháng chiến căn bản chưa thành công, hai nhiệm vụ đó đã ngang nhau, là sai.
Quan niệm cho rằng trong giai đoạn này, chỉ phản đế, cách mạng chỉ nhằm một đối tượng là đế quốc xâm lược, khi nào chuyển sang giai đoạn sau mới phản phong kiến, cũng sai.
3. Về chính sách ruộng đất, chúng ta nhận rằng: đại đa số nhân dân nước ta là nông dân. Nguyện vọng tha thiết của nông dân là độc lập, dân chủ và ruộng đất.
Nông dân hiện tham gia và đóng góp rất nhiều cho kháng chiến.
Muốn cho nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, việc liên minh nông dân với giai cấp công nhân và lao động trí óc là rất cần. Muốn cho nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, không những chỉ mưu độc lập, tự do cho họ là đủ. Đảng còn phải mang lại quyền lợi thiết thực cho họ nữa. Có quyền lợi vật chất thiết thực thì độc lập mới có nội dung, tự do mới được đảm bảo.
Đảng ta đã và đang mang lại cho nông dân những gì? Độc lập và dân chủ,
Giảm tô giảm tức,
Quy chế lĩnh canh,
Tạm cấp ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian, Chia lại công điền,
Sử dụng ruộng đất vắng chủ và ruộng bỏ hoang, v.v.
Phải triệt để thi hành những chính sách đó để động viên quần chúng nông dân đông đảo kháng chiến.
Hôm nọ báo cáo về quân sự đồng chí Văn có nói một điều rất đáng chú ý: Sau một chiến dịch, các chiến sĩ về kiểm thảo với nhau, có bàn đến quyền lợi ruộng đất, quyền lợi về giảm tô, giảm tức họ được hưởng như thế nào. Do đó, phải cải thiện đời sống cho nông dân để người nông dân khoác áo nhà binh hăng hái giết giặc hơn nữa. Cải cách ruộng đất để thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi, chứ không phải cải cách để mà cải cách, không phải cải cách biệt lập đối với mục đích kháng chiến
Những chính sách như giảm tô giảm tức, tạm cấp, chia lại công điền, v.v. không phải cố định, nhưng có thể theo đà phát triển của cách mạng mà nhích dần lên. Nhích dần trong kháng chiến. Nhích mạnh sau kháng chiến. Nhưng trong kháng chiến, nhích ăn phải có hạn độ. Hạn độ đó tác bảo đảm chính sách đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ. Phải thi hành chính sách ruộng đất tùy theo điều kiện khác nhau của từng địa phương Nam Bộ khác Trung, Bắc Bộ; vùng tự do khác vùng bị địch kiểm soát, v.v.. Như ở Nam Bộ, ruộng đất tập trung, cần làm khác Bắc Bộ và Trung Bộ. Làm khác như thế nào, Trung ương và Chính phủ cần có chỉ thị. Các nơi không nên tự ý làm bừa để hại cho chính sách chung. Đảng bộ Nam Bộ cần đề ra những cải cách thích hợp với điều kiện thực tế của địa phương và thích hợp với đường lối chính sách chung của Đảng.
Trong trường hợp có lợi và cần thiết cho kháng chiến, tùy theo tương quan lực lượng giữa ta và địch, tùy theo hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến ta, có thể cải cách ruộng đất theo một mức cao hơn. Nghĩa là thực hiện một phần khẩu hiệu người cày có ruộng. Nhưng không phải vì thế mà đặt ngang hai nhiệm vụ cải cách ruộng đất và đánh đuổi đế quốc.
4. Chính sách đại đoàn kết để kháng chiến và kiến quốc, Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh trong bản Báo cáo chính trị. Chính sách mặt trận của ta là chính sách liên minh giai cấp để kháng chiến. Không phải liên minh giai cấp suông, mà liên minh giai cấp để kháng chiến. Đã là liên minh giai cấp để kháng chiến thì những mâu thuẫn quyền lợi giữa các giai cấp phải được diễn giải hợp lý. Nhưng bao giờ chúng ta cũng đặc biệt chú trọng đến quyền lợi của quần chúng cần lao và đông đảo vì họ là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất, là lực lượng chủ yếu của kháng chiến. Cho nên chúng ta vừa đoàn kết vừa đấu tranh. Song chúng ta tiến hành đấu tranh trong nội bộ Mặt trận dân tộc một cách có lợi, có lý, có chừng mực, đặng chĩa mũi nhọn vào bọn đế quốc xâm lược.
5. Qua vấn đề nhân dân dân chủ chuyên chính. Đây là một vấn đề rất trọng yếu, chúng ta thường nói đến nhưng nhiều đồng chí chúng ta nhận định còn lộn xộn do đó hành động lại lộn xộn hơn.
Hình thức Nhà nước của chúng ta là cộng hòa dân chủ nhân dân. Nội dung của nó là nhân dân dân chủ chuyên chính. Thực chất của nhân dân dân chủ chuyên chính là công nông chuyên chính. Không nên nói, hình thức là nhân dân dân chủ chuyên chính, mà nói đúng là công nông chuyên chính. Khi nói ra ngoài thì không nên nhắc đến công nông chuyên chính vì thật ra chế độ của ta không giống hệt như công nông chuyên chính. Vì công nông chuyên chính chỉ công, nông và tiểu tư sản tham chính, còn nhân dân dân chủ chuyên chính gồm tất cả các giai cấp trong nhân dân: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những thân sĩ yêu nước và tiến bộ cùng tham chính. Nếu nói là công nông chuyên chính thì hẹp hòi và không đúng. Công nông chuyên chính theo hình thức cộng hòa Xôviết, còn nhân dân dân chủ chuyên chính theo hình thức cộng hòa dân chủ nhân dân. Song nhân dân dân chủ chuyên chính giống công nông chuyên chính ở chỗ:
- Phản đế,
- Phản phong,
- Tiến tới vô sản chuyên chính và chủ nghĩa xã hội, v.v..
Cho nên chúng ta có thể nói: nhân dân dân chủ chuyên chính căn bản làm nhiệm vụ lịch sử của công nông chuyên chính. Và chính vì thế, thực chất của nhân dân dân chủ chuyên chính là công nông chuyên chính.
6. Về lãnh đạo kháng chiến, Hồ Chủ tịch đã nhấn mạnh, đồng chí đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhắc lại Đảng ta muốn lãnh đạo kháng chiến, phải tập trung cán bộ, phải dốc lực lượng vào cuộc chiến tranh giải phóng. Phải chấm dứt tình trạng: công việc quân sự giao mặc cán bộ quân sự. Phải chấm dứt tình trạng coi vấn đề quân sự là vấn đề phụ thuộc, đặt vào cuối chương trình nghị sự, không chịu bàn đến kỹ càng. Không biết rằng thắng lợi hay thất bại về quân sự là trách nhiệm của Đảng. Phải nhận rõ muốn kháng chiến thắng lợi thì trước hết, đấu tranh quân sự phải thắng lợi. Cho nên Đảng phải trực tiếp lãnh đạo kháng chiến, lãnh đạo chiến tranh nhân dân. Đảng phải ném thêm cán bộ khá vào quân đội và cán bộ các cấp của Đảng phải học quân sự, hiểu quân sự, làm quân sự.
7. Tôi qua vấn đề Đảng Lao động là Đảng của ai?
Đây là một vấn đề được bàn cãi nhiều và đã đi đến thống nhất ý kiến:
Đại hội đã nhận Đảng Lao động Việt Nam là “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động".
Nói cách khác, Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Song thực chất Đảng Lao động Việt Nam vẫn là Đảng của giai cấp công nhân, vẫn là đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, vì Đảng Lao động Việt Nam có đủ những tính chất căn bản của một đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân:
1- Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
2- Đảng lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức,
3- Đảng lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển.
Ngoài ra, Đảng có một chính cương xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng lại luôn luôn mật thiết liên hệ với quần chúng. Cho nên, nói Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, không phải làm cho Đảng biến thành một khối liên minh giai cấp, mà cốt là để:
- Tất cả các tầng lớp nhân dân lao động thành thị và thôn quê, chân tay và trí óc ở Việt Nam đều nhận Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của mình.
- Định rõ hướng để kết nạp đảng viên mới là: công nhân và các từng lớp nhân dân lao động khác. Nước ta công nhân ít. Đảng lại phải là một đảng quần chúng mạnh mẽ. Nên hướng phát triển tất nhiên phải như thế. Những người lao động không phải là công nhân, vào Đảng, sẽ được Đảng giáo dục cho thành những "người công nhân" mất những tính chất phi vô sản đi và trở thành người vô sản cách mạng chân chính. Vì thế, các đảng viên phải có ý thức giai cấp rõ ràng, không phải vì nói Đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động mà ý thức giai cấp của các đảng viên nhạt đi.
Những vấn đề trên đây, toàn Đảng phải nhận thức cho thật rõ.
Bây giờ tôi nhận xét về Đại hội.
Đại hội này đã tỏ ra gì? Đại hội đã tỏ ra:
a) Đảng ta đang tiến bộ về cả ba mặt: lý luận, chính trị và tổ chức.
b) Tinh thần phấn khởi của Đại hội phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc ta và cuộc đấu tranh sâu rộng vì hòa bình, dân chủ của nhân dân toàn thế giới,
c) Tinh thần dân chủ và óc phê bình trong Đảng ta đang phát triển,
d) Tinh thần đoàn kết, ý chí thống nhất trong Đảng về những vấn đề căn bản thuộc chính cương, sách lược của Đảng rất rõ rệt.
Tuy nhiên, Đại hội này cũng chỉ cho ta thấy những thiếu sót của Đảng ta:
Trước hết, lý luận chưa được sâu, chính sách chưa cụ thể lắm:
- Chúng ta học tập chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đủ, học tập kinh nghiệm nước ngoài còn ít.
- Chúng ta điều tra, nghiên cứu thực tiễn Việt Nam chưa đủ, tổng kết kinh nghiệm cách mạng Việt Nam chưa đủ.
- Trong lúc thảo luận, nhiều đồng chí còn luyến tiếc nhũng cái cũ chưa nhìn rõ những cái mới, hoặc bị tình cảm chi phối, nên có nhiều nhận định sai lệch. Còn những đồng chí nhận ra cái mới, lại chưa nhận được sâu sắc, thật sáng rõ; vì chưa đủ lý luận và tài liệu thiết thực, nên nhiều khi chưa thuyết phục nổi đối phương. Cho nên, từ Đại hội này trở đi, chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, điều tra, học tập thêm nhiều nữa.
Ngoài ra có nhiều vấn đề đáng lẽ phải bàn kỹ, vì đã 15 năm nay, bây giờ Đảng mới họp Đại hội, nhưng vì hoàn cảnh kháng chiến không tiện kéo dài thời gian, nên lại không bàn được kỹ. Như:
- Vấn đề quân sự,
- Vấn đề kinh tế, tài chính,
- Vấn đề đấu tranh tư tưởng,
- Vấn đề tổ chức mà chúng ta nhận là nhược điểm của chúng ta,
- Thi đua ái quốc, v.v.
Những vấn đề chưa bàn được kỹ, chúng ta đành giao lại cho Trung ương mới giải quyết, và các đồng chí về tiếp tục nghiên cứu thêm.
Có đồng chí cho rằng: Đại hội tham nhiều vấn đề quá. Tôi không đồng ý, 15 năm nay mới có một cuộc Đại hội, xây dựng Chính cương và Điều lệ, sơ kết kinh nghiệm vận động cách mạng của chúng ta từ bao nhiêu năm, đúc thành cơ sở lý luận và chính trị của Đảng, Đại hội làm việc trong bằng ấy ngày, bàn đến bằng ấy vấn đề, tôi thiết tưởng không phải nhiều, mà chưa đủ là đằng khác.
Qua đến vấn đề bầu cử Trung ương mới.
Chúng ta đã cử Trung ương theo đúng Điều lệ Đảng.
Chúng ta đã bầu được Ban Trung ương mới trong một Đại hội có đông đủ đại biểu toàn quốc.
Trung ương mới, nhận trách nhiệm trước toàn Đảng kể từ hôm nay.
Trung ương mới quyết không phụ lòng tin cậy của các đồng chí, nguyện làm tròn nghĩa vụ đối với Đảng, kiên quyết chấp hành đường lối của Đại hội. Ngược lại, toàn Đảng có nhiệm vụ, chẳng những thi hành đúng Nghị quyết của Đại hội dưới sự lãnh đạo của Trung ương, mà còn thi hành đúng chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, giúp đỡ Trung ương, kiểm soát Trung ương.
Các đồng chí đại biểu,
Hôm nay, công việc Đại hội đã xong. Các đồng chí sắp lên đường về công tác. Các đồng chí hãy xuống đồng ruộng, nhà máy cơ quan, hãy xuống quần chúng, làm cho đường lối chính sách của Đảng thấu suốt đến tận chi bộ, đến mọi đảng viên, đến tận quần chúng nhân dân, để biến những nghị quyết của Đại hội thành một sức mạnh vô địch của hàng chục triệu nhân dân, đập nát quân xâm lược, đánh bại thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
Trong khi thi hành chính sách của Đảng, các đồng chí phải kiểm tra, tìm hiểu xem nghị quyết và chủ trương của Đảng có đúng hay không. Thấy tình hình phát triển, chính sách của Đảng thiếu sót chỗ nào, thì đề nghị Trung ương bổ sung chỗ đó. Trong khi thi hành chính sách của Đảng, cần chống những khuynh hướng sai lệch: hoặc cô độc, hoặc thủ tiêu. Cần phối hợp tinh thần thi đua ái quốc mà Hồ Chủ tịch và luôn luôn nhắc nhở với tinh thần cảnh giác cách mạng - cảnh giác về tổ chức cũng như về chính trị.
Các đồng chí về địa phương, hãy mang tin thành công của Đại hội báo cáo cho tất cả các đảng viên, làm cho ai nấy hăng hái, tin tưởng, đoàn kết, nhất trí, làm nhiệm vụ Đảng.
Các đồng chí! chúng ta có thể nào không nói được rằng cuộc Đại hội này là một thành công lớn của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, của kháng chiến Việt Nam?
Chúng ta có thể nào không nói được rằng Đại hội này là một đòn rất nặng đánh vào đầu quân địch? Mặc dầu những khuyết điểm và thiếu sót của chúng ta, tôi thấy có thể nói như thế và các đồng chí cũng nhận như thế. Quả thật chúng ta đã tiến một bước lớn. Chúng ta hãy gắng nữa lên!
Rồi đây, Đảng ra công khai.
Trách nhiệm của chúng ta rất nặng.
Toàn thể đảng viên, cán bộ, phải ra sức học tập, gắng làm gương mẫu cho quần chúng, gắng xứng đáng là đảng viên của đảng tiên phong lãnh đạo toàn giai cấp và dân tộc kháng chiến và kiến quốc.
Khi chưa ra công khai thì việc nhận xét và phê bình của quần chúng ít, vì quần chúng chưa thấy rõ ai là đảng viên, ai không. Nhưng khi Đảng ra công khai thì đảng viên càng phải thận trọng làm sao cho xứng đáng với nhiệm vụ và dũng cảm phụ trách trước Đảng, trước quần chúng.
Về việc Đảng ra công khai, phải đề phòng những khuynh hướng dưới đây:
Chủ nghĩa công khai. Đừng tưởng Đảng ra công khai là ra tuốt một lượt, hay bất cứ đảng viên nào cũng vỗ ngực trước quần chúng: mình là đảng viên. Phải phân biệt vùng tạm bị chiếm và vùng tự do, vùng tôn giáo và không tôn giáo, vùng ta yếu và vùng ta mạnh. Phải phân biệt vùng nào nên ra trước, vùng nào nên ra sau, và ai nên ra công khai, ai không.
Phải đề phòng chủ nghĩa hình thức, tức là treo cho nhiều cờ, lập trụ sở cho đẹp, đàn hát, tiệc tùng, mít tinh, diễn thuyết không có nội dung, không có điều độ, mất thời giờ vô ích.
Cũng phải đề phòng bệnh bí mật. Đảng đã ra công khai, mà lề lối làm việc vẫn nhập nhằng, luộm thuộm như cũ.
Phải đề phòng xu hướng tiên phong chủ nghĩa (avant gardisme). Việc gì cũng lấy danh nghĩa Đảng ra mà làm, chỉ hô đảng viên xung phong làm để lấy tiếng, bỏ quần chúng nhân dân đông đảo lại sau.
Phải đề phòng chủ nghĩa mệnh lệnh: lợi dụng uy tín của Đảng trong quần chúng mà hạ lệnh làm bừa, không chịu khó thuyết phục, giải thích, làm cho quần chúng tự giác, tự động thi hành chính sách của Đảng.
Các đồng chí!
Chặng đường trước mắt của chúng ta là chặng đường chuyển sang tổng phản công, chặng đường nhiều khó khăn, hiểm trở nhất. Vì quân Pháp càng gần thất bại càng hung ác, đế quốc Mỹ càng hăm hở can thiệp vào Đông Dương. Tình hình có thể trở nên phức tạp hơn ta tưởng...
Chúng ta phải chuẩn bị đối phó, sẵn sàng và tỉnh táo vượt mọi khó khăn, thi hành Nghị quyết của Đại hội với một tinh thần quả cảm, xung phong, bách chiến bách thắng.
- Toàn Đảng hãy đoàn kết chung quanh Hồ Chủ tịch và Trung ương!
- Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!
- Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!
- Cách mạng Việt – Miên - Lào thành công muôn năm!
- Hòa bình thế giới muôn năm!
- Đồng chí Xtalin muôn năm!
- Mao Chủ tịch muôn năm!
- Hồ Chủ tịch muôn năm!
Sách Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đảng Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, t.12, tr.480-495.
THƯ CỦA BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI GỬI ĐỒNG BÀO NAM BỘ
Cùng anh chị em bộ đội, dân quân, cán bộ,
Cùng toàn thể đồng bào NAM BỘ.
Nhân dịp ông Nguyễn Oắng, đại biểu Quốc hội ở tỉnh Gia Định về Nam, tôi xin thay mặt Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam kính gửi toàn thể đồng bào lời chào thân ái và quyết thắng.
Công việc Ban Thường trực Quốc hội mấy lâu nay, ông Nguyễn Oắng trước khi lên đường đã được báo cáo rõ và có dịp sẽ báo cáo lại trước đồng bào.
Ban Thường trực Quốc hội rất lấy làm tiếc là mấy lâu nay vì công việc bận và đường giao thông khó khăn, nên chưa khi nào thân hành vào Nam để được tiếp xúc với đồng bào và học hỏi thêm đồng bào. Tuy thế Ban vẫn theo dõi đồng bào trên mọi ngành công tác và rất hiểu sự hy sinh chiến đấu của đồng bào.
Được tin một số lớn các vị đại biểu Quốc hội trong ấy đã tích cực tham gia kháng chiến, Ban Thường trực Quốc hội rất lấy làm vui lòng. Có vị đã hy sinh trong cuộc chiến tranh, Ban rất lấy làm đau đớn.
Trong bảy năm kháng chiến, bộ đội và nhân dân Nam Bộ đều tỏ ra là anh dũng, bền bỉ, xứng đáng với truyền thống cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Đồng bào đã chịu đựng gian khổ khắc phục khó khăn để một mặt chống lại bọn thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bè lũ Việt gian phản quốc, một mặt thực hiện được một số chủ trương chính sách của Chính phủ để cải thiện dân sinh và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân cho càng ngày càng vững chắc thêm.
Tuy xa Chính phủ Trung ương mà cuộc kháng chiến ở Nam Bộ vẫn càng ngày càng tiến triển mạnh, ăn nhịp với những thắng lợi chính trị cũng như quân sự của toàn quốc, đó là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của chính quyền và các đoàn thể địa phương, nhờ sự nỗ lực của các cán bộ, của bộ đội, dân quân và của tất cả nhân dân.
Lòng tin tưởng vào chủ trương chính sách đúng đắn của Chính phủ, sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch và thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến tranh chính nghĩa của chúng ta là cái động cơ chính để làm cho chúng ta thêm cố gắng về mọi mặt.
Nhưng Hồ Chủ tịch đã nói "càng gần thắng lợi càng nhiều khó khăn". Bọn giặc đến lúc quân số hao hụt, tài chính khủng hoảng đã triệt để thực hiện cái âm mưu tối xảo quyệt của chúng là “dùng người Việt Nam đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; chúng đã củng cố cho ngụy quyền, thành lập các ngụy đảng và tuyển mộ ngụy binh; chúng đã cố sức phá hoại kinh tế của ta bằng cách phá đê, đập, đốt phá nhà cửa, mùa màng, cướp bóc của cải dân chúng, không trừ một thủ đoạn dã man nào mà chúng không dùng tới.
Cuộc chiến tranh trường kỳ của chúng ta giai đoạn này là giai đoạn rất gian khổ; nhưng cũng là giai đoạn sẽ đưa ta đến bước đường vinh quang.
Chúng ta phải thực hiện chính sách đại đoàn kết của Hồ Chủ tịch, đề phòng âm mưu chia rẽ của giặc, nhưng không khi nào quên tinh thần cảnh giác chính trị, chúng ta phải thực hiện chính sách sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ, để tự lực cánh sinh; bộ đội thi đua giết giặc, đồng bào thi đua tăng gia, chúng ta chuẩn bị được đầy đủ chừng nào thì cuộc kháng chiến sẽ mau thắng lợi chừng ấy.
Đồng bào Nam Bộ hãy cố gắng tiến lên!
Ngày 15 tháng 9 năm 1952
T/M BAN THƯƠNG TRỰC QUỐC HỘI VIỆT NAM
Quyền trưởng ban
TÔN ĐỨC THẮNG
Lưu tại Trung tâm
lưu trữ Quốc gia III.
KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM, NGÀY THỐNG NHẤT VIỆT MINH – LIÊN VIỆT, NGÀY THÀNH LẬP KHỐI LIÊN MINH VIỆT - MIÊN - LÀO
Hôm nay, ngày 3-3, chúng ta kỷ niệm lần thứ hai ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam, ngày thống nhất Việt Minh - Liên Việt toàn quốc, ngày thành lập Khối liên minh Việt - Miền - Lào.
Kỷ niệm ngày ấy tức cũng là kỷ niệm một thắng lợi về chính trị của ta, nó đã mở đầu cho nhiều thắng lợi khác trong hai năm vừa qua. Từ ngày 8-3-1951, trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố thêm và cuộc liên minh ba dân tộc Việt - Miên - Lào được thiết lập chặt chẽ, ta đã đẩy mạnh cuộc kháng chiến tiến vượt hẳn lên về mọi mặt và mỗi ngày một thu được nhiều thành tích chiến thắng to lớn.
Năm 1952 vừa qua, Chính phủ và Mặt trận đề ra ba nhiệm vụ chính là:
- Tiêu diệt sinh lực địch.
- Phá âm mưu của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.
- Bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng kháng chiến.
Và bốn công tác chính là:
- Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm.
- Đẩy mạnh công tác trong vùng tạm bị chiếm.
- Chỉnh huấn quân đội.
- Chỉnh huấn cán bộ.
*
* *
Nói chung, các nhiệm vụ và công tác đó đều thực hiện có thành tích.
Đại hội các chiến sĩ thi đua toàn quốc tháng 5 đã chứng tỏ quân và dân ta đều tiến bộ mọi mặt.
Bộ đội ta tiến nhiều về mặt tinh thần chiến đấu, kỹ thuật chiến đấu, nhất là trình độ chính trị. Đầu năm, ta chiến thắng ở Hòa Bình và trong vùng sau lưng địch ở trung du và Liên khu III, tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phá vỡ hàng mảng lớn hệ thống chiếm đóng của địch, mở rộng nhiều vùng du kích và căn cứ du kích. Bước vào thu đông, ta mở chiến dịch Tây Bắc, bộ đội ta liên tục quét địch từ sông Thao qua sông Đà đến sông Mã, tiêu diệt hơn 6 ngàn quân địch, giải phóng 80 phần trăm đất đai trước đây tạm bị chiếm và 25 vạn đồng bào Tây Bắc, phá được phần lớn mưu mô của địch lập “xứ Thái tự trị" để dùng người Việt đánh người Việt. Ở vùng đồng bằng, ta liên tiếp đánh thắng địch, mở rộng vùng du kích và củng cố các căn cứ du kích. Đồng thời, ta lại đánh mạnh ở Liên khu V, làm cho địch đã lúng túng bị động lại càng lúng túng bị động thêm.
Trong vùng sau lưng địch, ta đã giữ vững được cơ sở, phá tan được hết những trận càn quét nhớn nhỏ mà giặc buộc phải mở liên miên để đối phó với ta từ sau trận thất bại Hòa Bình. Chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ. Phong trào đấu tranh trong vùng tạm bị chiếm được đẩy lên cao, chống bắt lính, chống thu thuế, đòi quyền lợi thiết thực hàng ngày, làm cho mưu mô của địch "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" bị vấp phải nhiều thất bại.
Ở vùng tự do cũng như ở các vùng mới được giải phóng, nhân dân ta hăng hái thi đua sản xuất tiết kiệm và mặc dầu địch phá hoại mùa màng, đê điều, công trình thủy lợi ở nhiều nơi, ta vẫn thu được nhiều thành tích về tăng năng suất nông nghiệp, cải tiến kỹ thuật canh tác. Thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp được đồng bào nhiệt liệt hoan nghênh, công tác thuế tiến hành trong điều kiện rất thuận lợi vì được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ, tích cực nộp thuế và đấu tranh chống những phần tử khai man, dây dưa thuế...
Việc chỉnh huấn quân đội đã thu được những kết quả rực rỡ, thể hiện ra bằng những chiến thắng Hòa Bình và Tây Bắc. Việc chỉnh huấn cán bộ đã làm cho một số đông được nâng cao thêm về trình độ tư tưởng, ý thức tổ chức, tư tưởng chính sách và do đó các mặt công tác được đảm bảo tiến bộ thêm nhiều.
Năm 1952, sự quan hệ của ta với quốc tế cũng được phát triển. Chính phủ và mặt trận Liên - Việt bằng những công tác thực tế đã thắt chặt thêm tình anh em với nhân dân Miên, Lào. Chính phủ đã cử ông Nguyễn Lương Bằng làm đại sứ của Việt Nam ở Liên Xô và đổi đoàn đại biểu đại sứ của Việt Nam tại Trung Quốc ra đại sứ chính thức Hội Việt - Hoa, Việt - Xô được chấn chỉnh. Ở Hội nghị Liên hiệp quốc, đế quốc Mỹ đã bác đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc của Chính phủ ta và nhiều nước khác, thì đại biểu Liên Xô đã đứng lên phản đối và nêu cao danh hiệu nước ta. Hội nghị hòa bình châu Á và Thái Bình Dương họp ở Bắc Kinh và Đại hội nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình họp ở Viên, ta đều có đại biểu tới tham dự cùng với đại biểu Miên, Lào. Phái đoàn hòa bình Việt, Miên, Lào tới đâu cũng gây được cảm tình nhiệt liệt đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước: cả hai hội nghị hòa bình đều đồng tình đòi quân đội ngoại quốc xâm lược phủ rút khỏi ba nước Việt, Miên, Lào, ba nước Việt, Miên, Lào độc lập hoàn toàn và thực sự.
Những thắng lợi lớn của ta trong năm vừa qua lại hòa nhịp với những thắng lợi của phe dân chủ và hòa bình thế giới do Liên Xô lãnh đạo.
Hội nghị hòa bình châu Á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh và Đại hội nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình ở Viên, thành phần rất rộng rãi chính kiến khác nhau nhưng ai nấy đều kịch liệt phản đối chính sách gây chiến của Mỹ, tán thành chính sách hòa bình của Liên Xô, ai nấy đều tỏ ý cùng nhau đoàn kết, chống chiến tranh bảo vệ hòa bình. Đó là một thành công to lớn của phong trào hòa bình thế giới.
Giữa lúc bọn đế quốc điên cuồng gây chiến, Liên Xô hoàn thành việc kiến thiết chủ nghĩa xã hội, đương tiến dần qua chủ nghĩa cộng sản. Các nước dân chủ nhân dân Đông Âu bắt đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội đã thu được nhiều kết quả. Trung Quốc thắng lợi trong công cuộc phục hưng và phát triển kinh tế, chống Mỹ và giúp Triều Tiên, năm nay bắt đầu thực hiện chương trình kiến thiết đại quy mô. Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, nhất là ở các nước Đông Nam Á, Bắc Phi, phong trào giải phóng dân tộc lên đều và mạnh ở các nước tư bản, nhất là ở Pháp, Ý, Anh và nhiều nước châu Mỹ, phong trào dân chủ, dân tộc cũng lên cao.
Trong khi đó, Đại hội lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô họp đã vạch rõ sự suy vong của chủ nghĩa tư bản đế quốc, tương lai rực rỡ của nhân loại cần lao và tiến bộ, soi sáng thêm con đường đi của nhân dân thế giới. Nhất là quyển sách "Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô" của Đại nguyên soái Xtalin và bài diễn văn của Người hôm bế mạc Đại hội càng chỉ cho ta thấy rõ ràng: “chủ nghĩa tư bản đế quốc nhất định phải đi đến sụp đổ, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản nhất định hoàn toàn thành công. Nếu đế quốc Mỹ cứ liều lĩnh gây chiến tranh thế giới thì không những đế quốc Mỹ mà cả bè lũ đế quốc nhất định hoàn toàn thất bại".
Trong năm qua, ta đã thu được nhiều thắng lợi cả trong nước và trên thế giới.
Kiểm điểm năm qua, ta càng thấy rõ ý nghĩa lớn lao của ngày 3-3, mà ta kỷ niệm hôm nay. Ta càng thêm phấn khởi và tin tưởng ở lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân, ở đường lối trường kỳ kháng chiến, ở sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam. Ta càng thêm tin tưởng ở lực lượng phe dân chủ hòa bình do Liên Xô lãnh đạo, thêm tin tưởng ở Đại nguyên soái Xtalin, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân lao động toàn thế giới.
Năm nay, ta có triển vọng thu được những thắng lợi rực rỡ hơn nữa.
Năm nay, ngoài ba nhiệm vụ và bốn công tác chính năm ngoái, Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra chủ trương phóng tay phát động quần chúng để thi hành đầy đủ chính sách ruộng đất của Chính phủ, Đảng và Mặt trận, đặc biệt là triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức.
Nông dân chiếm đại đa số trong nhân dân, nông dân đóng góp nhiều nhất cho kháng chiến. Vậy mà chính sách ruộng đất của Chính phủ, Đảng và Mặt trận đề ra để thỏa mãn tối thiểu cho quyền lợi chính đáng của anh em nông dân, từ bẩy năm nay vẫn chưa được thực hiện đến nơi đến chốn. Nguyên do là có nhiều chủ điền không chú ý đến quyền lợi của anh em nông dân, chống lại chính sách; chính quyền và Mặt trận ở nhiều địa phương không chấp hành đúng chính sách. Thậm chí, có những phần tử phản động lén lút trong chính quyền và Mặt trận xuyên tạc và phá hoại chính sách. Vì vậy cần phải phóng tay phát động quần chúng nông dân đứng dậy giành lấy quyền lợi chính đáng của mình.
Phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức là mang lại quyền lợi cho nông dân sẽ thúc đẩy cho mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa tiến lên, sẽ bồi dưỡng được lực lượng nhân dân, đẩy mạnh kháng chiến. Do đó, phát động quần chúng không những chỉ có lợi cho nông dân mà còn lợi cho tất cả tầng lớp nhân dân khác nữa.
Kỷ niệm ngày 3-3, chúng ta hãy thấm nhuần chủ trương chính sách của Chính phủ, Đảng Lao động Việt Nam và Mặt trận và hãy sẵn sàng hưởng ứng tham gia cuộc phát động quần chúng, một công tác trung tâm năm nay, để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành lấy những thắng lợi ngày một nhiều, một lớn.
Ta càng thắng, địch càng thua, chúng càng giở nhiều thủ đoạn tàn ác khốc liệt hơn nữa. Một mặt, chúng van xin lạy lục quan thầy Mỹ của chúng giúp chúng nhiều hơn, một mặt chúng tìm cách thực hiện triệt để mưu mô "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến
Tranh nuôi chiến tranh”. Trong vùng tạm bị chiếm chúng thẳng tay cướp của, bắt người, phát triển ngụy quyền ngụy quân, đồng thời cho bù nhìn bày trò tuyển cử lừa bịp, cải cách ruộng đất giả dối để che lấp tội ác của chúng. Ở vùng tự do, chúng ra sức phá hoại mùa màng, đê điều, công trình thủy lợi và đường giao thông vận tải của ta. Cả ở vùng tạm bợ chiếm và vùng tự do, chúng đều tăng cường tổ chức gián điệp và tìm đủ cách chia rẽ ta về tôn giáo, chủng tộc. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ vẫn cố đánh cướp nước ta làm thuộc địa, biển nước ta và Miên, Lào thành căn cứ quân sự để tấn công Trung Quốc và Liên Xô. Do đó chúng cố bám lấy Việt, Miên, Lào và không từ một thủ đoạn thâm độc tàn ác nào. Cuộc kháng chiến của ta còn phải trường kỳ gian khổ.
Nhưng chúng ta có sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng Lao động Việt Nam, có khối đoàn kết toàn dân vững chắc, cô sự ủng hộ của lực lượng dân chủ hòa bình thế giới hùng mạnh, nhất định chúng ta sẽ toàn thắng.
Báo Cứu quốc, số 2285, ngày 3-3-1953,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
ÔN LẠI MỘT BÀI HỌC LỊCH SỬ
Cách đây mười hai năm, ngày 22-6-1941, bọn kẻ cướp Đức quốc xã đã phản lại Hiệp ước bất xâm phạm ký với Liên Xô và dốc hầu hết lực lượng của chúng và chư hầu chúng ở châu Âu sang xâm phạm vào Tổ quốc của nhân dân Xôviết. Với cái mộng tưởng làm bá chủ châu Âu để làm bá chủ toàn thế giới, tên trùm phátxít Hítle đã huênh hoang tuyên bố là sẽ tiêu diệt nước xã hội chủ nghĩa trong vòng bẩy tuần lễ, cho đến ba tháng là cùng.
Trên đất Liên Xô, bọn giặc phát xít đã hành động như loài thú dữ. Chúng đã ra sức tàn phá, giết chóc, vơ vét. Chúng đã chồng chất không biết bao nhiêu tội ác tầy trời.
Quân giặc càng hung hãn bao nhiêu thì nhân dân Liên Xô càng căm thù chúng bấy nhiêu, càng cố gắng hy sinh chiến đấu bấy nhiêu để tiêu diệt chúng. Dưới sự lãnh đạo của Đại nguyên soái Xtalin, của Đảng Cộng sản Bônsêvích và của Chính phủ Xôviết, nhân dân Liên Xô ra sức chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc đồng thời cũng bảo vệ tự do và hòa bình của thế giới. Trong cuộc chiến tranh vĩ đại ấy, nhân dân và bộ đội Liên Xô đã tỏ rõ một tinh thần cao tột bậc, một sức chiến đấu anh dũng phi thường, một lực lượng hầu như vô tận, làm cho giặc Hítle không ngờ mà chính thế giới tư bản cũng không ngờ. Kết quả sau ngót bốn năm gian khổ, hy sinh không bờ bến của bộ đội và nhân dân Liên Xô, quân đội phát xít Đức đã bị tan tành, mà chế độ quốc xã Đức cũng theo tên đầu sỏ Hítle mà xuống hố. Toàn bộ kế hoạch xâm lược Liên Xô của đế quốc chủ nghĩa đã bị đập tan.
Hồng quân Liên Xô không những đã tự giải phóng cho Tổ quốc mình, giúp nhiều nước Trung, Đông Âu lật đổ ngoại xâm và nội phản, bước vào con đường kiến thiết dân chủ nhân dân tiến lên xã hội chủ nghĩa mà còn sang phương Đông đánh bại phát xít Nhật, cứu hàng trăm triệu nhân dân Đông Nam Á ra khỏi họa phát xít. Nhờ đó Bắc Triều Tiên được giải phóng, Cách mạng Tháng Tám của Việt Nam được thành công. Tiếp đến Trung Quốc hoàn toàn thắng lợi, thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Rồi lần lượt phong trào giải phóng dân tộc của các nước nhược tiểu châu Á cũng như khắp thế giới ngày càng lan rộng, làm lay chuyển cả hệ thống đế quốc chủ nghĩa.
Cuộc chiến tranh lịch sử này đã để lại cho chúng ta những bài học gì?
- Liên Xô là thành trì của cách mạng và hòa bình thế giới.
Chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ đảm bảo đầy đủ cho quyền lợi vật chất và tinh thần của nhân dân nên được nhân dân hoàn toàn ủng hộ và kiên quyết bảo vệ. Hễ kẻ nào âm mưu xâm phạm vào là bị thất bại đau đớn. Vì thế ngay sau khi chế độ Xôviết vừa thành lập, nhân dân Liên Xô đã đánh bại 14 nước tư bản cấu kết nhau mưu đánh Liên Xô. Đến khi Đức quốc xã xâm lược Liên Xô thì không những chúng đã bị đánh lui mà còn bị truy đến tận tổ, hoàn toàn tiêu diệt. Chiến tranh để bảo vệ quyền lợi cho quốc gia, cho quốc dân, cho nhân loại là chiến tranh chính nghĩa. Chiến tranh chính nghĩa mưu lợi ích chính đáng cho quảng đại nhân dân thì được quảng đại nhân dân tham gia và ủng hộ, lúc đầu tuy có gặp khó khăn, nhưng cuối cùng vẫn vượt qua được mà vẫn tiến tới thắng lợi.
Chiến tranh để xâm lược đất nước dân tộc khác là chiến tranh phi nghĩa. Chiến tranh phi nghĩa chỉ mưu lợi ích cho một số người thống trị, một giai cấp bóc lột, nên bị quảng đại nhân dân phản đối và nhất định đi đến thất bại. Bọn gây chiến càng hung hãn thì lại càng chóng bị tiêu diệt. Nếu bè lũ đế quốc phát xít hiện nay do Mỹ cầm đầu cứ liều lĩnh gây chiến tranh chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân thì nhất định chúng sẽ đi vào vết xe đổ của Hítle và toàn bộ chế độ đế quốc chủ nghĩa sẽ không còn có thể tồn tại trên thế giới được nữa.
Nước Việt Nam chúng ta ở vào phe hòa bình dân chủ và xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo. Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh chính nghĩa, đánh bại đế quốc Pháp - Mỹ là bọn xâm lược, cố gây chiến tranh. Không những thế giới tiến bộ, mà chính ngay cả nhân dân Pháp và các thuộc địa Pháp cũng cực lực phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và ủng hộ cuộc kháng chiến của ta.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, Đảng, Chính phủ, được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân tiến bộ trên hoàn cầu, cuộc kháng chiến của ta dù phải trường kỳ gian khổ nhưng nhất định đi đến thắng lợi cuối cùng.
Báo Cứu quốc,
số 2364, ngày 22-6-1953.
DIỄN VĂN KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ BA QUỐC HỘI KHÓA I7
Thưa các đại biểu,
Từ Đại hội Quốc hội lần thứ hai (11-1946) đến nay đã trên 7 năm. Lần trước, Quốc hội họp ở Thủ đô giữa lúc thực dân Pháp đang khiêu khích gây chiến, hôm nay Quốc hội họp lần thứ ba, cuộc kháng chiến của ta đã gần bước sang năm thứ tám. Trong lúc chúng ta hội họp ở đây để giải quyết một vấn đề cực kỳ quan trọng, đặng đẩy mạnh kháng chiến, tiến mau đến thắng lợi cuối cùng, thì quân và dân ta vừa đánh bại cuộc tấn công của giặc ra miền Nho Quan, Ninh Bình, phá kế hoạch hành quân của chúng; quân và dân ta đang anh dũng chiến đấu ở Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, làm cho hậu phương của chúng, chỗ dựa của chúng bị lung lay đến căn bản. Tại Nam Bộ và Trung bộ, ta đều hoạt động mạnh. Nói chung thế ta mạnh hơn thế giặc.
Chúng tôi đề nghị các đại biểu hoan hô quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, đang hy sinh, chiến đấu vô cùng oanh liệt trên khắp các chiến trường để bảo vệ đất nước, quyết tiêu diệt quân xâm lược, làm cho Tổ quốc độc lập và thống nhất hoàn toàn.
Thưa các đại biểu,
Tám năm qua, theo trách nhiệm của Quốc hội đã giao cho, Ban Thường trực Quốc hội luôn luôn ở bên cạnh Chính phủ, theo dõi và giúp đỡ Chính phủ trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Nhưng cuộc kháng chiến của ta đang tiến tới một giai đoạn mới, đòi hỏi ở nhân dân toàn quốc một nỗ lực phi thường. Việc bồi dưỡng dân sinh, cung cấp nhu cầu cho kháng chiến là một vấn đề căn bản phải giải quyết. Do đó, Chính phủ đề ra dự án luật cải cách ruộng đất, nhằm mục đích làm cho người cày có ruộng, phát triển sản xuất, đem quyền lợi về cho đại đa số trong dân tộc là nông dân. Đó chẳng những là một quyết sách để đảm bao cho kháng chiến thành công, mà còn là một nhiệm vụ căn bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của ta. Với tầm quan trọng của nó, nó phải được Quốc hội, cơ quan tối cao thay mặt cho toàn thể nhân dân thông qua. Vì vậy, theo đề nghị của Chính phủ. Ban Thường trực Quốc hội triệu tập Quốc hội để thảo luận bản dự án Luật cải cách ruộng đất của Chính phủ và biểu quyết luật đó.
Thưa các đại biểu,
Chắc các đại biểu cũng nhận thấy như chúng tôi, việc họp Quốc hội trong kháng chiến là một cố gắng lớn lao của ta. Vì vậy các đại biểu đến đây sẽ làm việc với tinh thần hăng hái của kháng chiến, với tác phong nhanh và gọn của kháng chiến. Các đại biểu đến đây đều có trách nhiệm quan trọng trong quân đội, trong chính quyền, trong đoàn thể, trong các ngành chuyên môn. Hoàn cảnh không cho phép chúng ta ngồi lâu. Chúng ta chỉ bàn một vấn đề là cải cách ruộng đất. Chúng tôi rất vui mừng thấy các vị đại biểu hăng hái đến dự Đại hội, mặc dầu hoàn cảnh khó khăn, mặc dầu một số lớn đại biểu bận công việc cần kíp.
Quốc hội hôm nay là hình ảnh của toàn dân. Các đại biểu đến đây đem theo ý chí, nguyện vọng của toàn dân để quyết định một việc lớn, quan hệ đến kháng chiến, đến hạnh phúc của nhân dân. Quyền của dân ngày càng phát triển và củng cố với sức kháng chiến ngày càng lớn mạnh. Toàn dân đang chờ thành công vĩ đại của Quốc hội.
Chúng tôi xin thay mặt Ban Thường trực Quốc hội khai mạc Đại hội Quốc hội lần thứ ba này.
Báo Nhân Dân, số 156,
từ ngày 26-12 đến ngày 31-12-1953,
lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III.
LỜI KÊU GỌI CỦA BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI NHÂN NGÀY TỔNG TUYỂN CỬ MỒNG 6 THÁNG GIÊNG
Thưa toàn thể đồng bào,
Lễ kỷ niệm tổng tuyển cử năm nay có một tính chất đặc biệt: Đầu tháng 12-1953 vừa qua, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp Đại hội lần thứ III và đã nhất trí thông qua Luật cải cách ruộng đất của Chính phủ. Đó là một thắng lợi lớn của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kết quả của sự hy sinh của bộ đội và nhân dân trong cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược và Việt gian bán nước. Đó cũng chứng tỏ Quốc hội ta là Quốc hội chân chính, do nhân dân tự do bầu ra để phục vụ cho nhân dân và được tín nhiệm của nhân dân.
Qua bảy năm toàn quốc kháng chiến, bộ đội và nhân dâu ta càng đánh càng mạnh, vì chế độ dân chủ nhân dân, dân chủ thật sự đã đem lại tin tưởng cho toàn dân và sức mạnh cho chính quyền.
Nhưng chúng ta cần phải mạnh hơn nữa để vượt quá địch và tiêu diệt địch. Muốn thế cần phải tiêu hao lực lượng của địch và bồi dưỡng lực lượng của nhân dân hơn nữa.
Trước những thất bại nặng nề, đế quốc Pháp - Mỹ càng câu kết chặt chẽ hơn với bọn Việt gian bù nhìn, phong kiến phản động, hòng thực hiện âm mưu mùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Việc cải cách ruộng đất thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến tức là đánh đổ chỗ dựa của đế quốc.
Nông dân là lực lượng chủ yếu của kháng chiến, của cách mạng. Nông dân cung cấp hầu hết sức người cho bộ đội và dân công; nông dân sản xuất để cung cấp phần lớn sức của cho nhu cầu kháng chiến. Thực hiện người cày có ruộng tức là làm cho sản xuất được phát triển, kháng chiến được đẩy mạnh hơn.
Cuộc toàn quốc kháng chiến của ta đã bước sang năm thứ tám và đã đến một giai đoạn quyết liệt. Chúng ta nhất định thắng lợi, nhưng phải chịu đựng gian khổ và phải cố gắng nhiều.
Lễ kỷ niệm tổng tuyển cử hôm nay nhắc lại cho nhân dân ta những quyền lợi đã giành được, đồng thời cũng thúc giục nhân dân ta làm trọn nhiệm vụ với Tổ quốc, với dân tộc, để đảm bảo các quyền lợi ấy.
Hồ Chủ tịch đã đề ra cho chúng ta hai nhiệm vụ trung tâm hiện nay là đẩy mạnh kháng chiến và cải cách ruộng đất. Chúng ta phải kháng chiến mạnh, diệt nhiều sinh lực địch ở trên tuyến, ở hậu phương, phá tan mọi âm mưu thâm độc của chúng.
Chúng ta phải theo đúng chính sách của Chính phủ, thận trọng và kiên quyết chấp hành cải cách ruộng đất, đem lại ruộng đất cho dân cày.
Kháng chiến mạnh tức là đảm bảo cho cải cách ruộng đất thành công.
Cải cách ruộng đất tức là bồi dưỡng lực lượng cho kháng chiến.
Hai nhiệm vụ dính liền với nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Bọn giặc trước khi giãy chết đang dùng đủ mọi thủ đoạn phá hoại cuộc kháng chiến của ta để duy trì vận mệnh của chúng; đồng thời với các hành động dã man giết người, cướp của, đốt nhà ở một vài chỗ, chúng đã bày ra độc lập và dân chủ giả hiệu, bầu cử gian dối và chính sách ruộng đất lừa bịp. Nhân dân ta đã biết rõ mặt thật của chúng và đã phỉ nhổ chúng. Tuy vậy đối với bọn địch hung tàn xảo quyệt, chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng những hành động dã man và những luận điệu xuyên tạc của chúng.
Tích cực kháng chiến và sản xuất, tích cực đề cao tinh thần cảnh giác, đó là những điều kiện cần thiết để mau đi đến thắng lợi.
Thưa toàn thể đồng bào,
Trong hơn bay năm toàn quốc kháng chiến, chúng ta đã thấy rõ sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch, sự đồng tâm nhất trí của Quốc hội và Chính phủ trong các chủ trương chính sách.
Luật cải cách ruộng đất mà Quốc hội vừa thông qua sẽ giúp cho nhân dân no ấm để đánh giặc mạnh hơn.
Toàn thể đồng bào không kể già hay trẻ, gái hay trai, không kể dân tộc nào; tôn giáo gì, hãy mạnh bước tiến lên để mưu hạnh phúc cho nhân dân, giành lại độc lập cho Tổ quốc.
Ngày 6 tháng giêng năm 1954
T/M BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI Quyền Trưởng ban
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Nhân Dân, số 158,
từ ngày 6-1 đến ngày 10-1-1954,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
ĐIỆN VĂN GỬI HỒ CHỦ TỊCH VÀ CHÍNH PHỦ
Kính gửi Hồ Chủ tịch và Chính phủ,
Hội nghị liên tịch Ban Thường trực Ủy ban Liên - Việt toàn quốc và Ban Thường vụ Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam mở rộng, họp từ ngày 28 đến ngày 30-5-1954, để nhận định về công tác của đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơnevơ, đã quyết nghị hoàn toàn ủng hộ lập trường và những đề nghị cụ thể của đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơnevơ.
Gần 9 năm nay, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch và Chính phủ, nhân dân Việt Nam đoàn kết đấu tranh gian khổ, đã thu được nhiều thắng lợi lớn trong kháng chiến và kiến quốc. Nhân dân Việt Nam càng tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Chủ tịch và Chính phủ trong cuộc đấu tranh ngoại giao của ta hiện nay.
Toàn thể Hội nghị chúng tôi nguyện ra sức động viên toàn dân đoàn kết chặt chẽ, đẩy mạnh cuộc đấu tranh ái quốc, thực hiện cải cách ruộng đất, để thiết thực ủng hộ đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơnevơ và kiên quyết đấu tranh để thực hiện độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình ở Việt Nam cũng như ở Khơme và Pathét Lào.
Ngày 30 tháng 5 năm 1954
T/M CHỦ TỊCH
ĐOÀN HỘI NGHỊ LIÊN TỊCH
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Nhân Dân,
số 192, từ ngày 7-6 đến ngày 9-6-1954,
lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
THƯ GỬI CÁC CHIẾN SĨ, THƯƠNG BINH, CÁN BỘ VÀ GIA ĐÌNH CÁN BỘ Ở MIỀN NAM RA BẮC
Các đồng chí thân mến,
Thay mặt Mặt trận Liên - Việt và nhân danh cá nhân tôi, tôi chào mừng các đồng chí đã ra tới đây, và thân ái thăm hỏi sức khỏe các đồng chí.
Tôi rất tiếc vì công việc chung bận rộn, nên không thể đích thân đến tận nơi để gặp các đồng chí từ xa tới, gặp những người con của Tổ quốc, đã đứng lên kháng chiến trước tiên, đã anh dũng chiến đấu 8, 9 năm trường trong hoàn cảnh khó khăn và đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi hòa bình.
Ngày nay, do hòa bình thắng lợi, nên các đồng chí ra đây chính cũng để làm nhiệm vụ quang vinh củng cố hòa bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ. Vì thế nên đồng bào miền Bắc tự thấy được vinh dự tiếp đón những người ruột thịt của mình từ miền Nam ra, những người đã nêu cao truyền thống anh dũng, vẻ vang của dân tộc, và từ nay có nghĩa vụ tiếp đón ân cần, thềm nở, có nghĩa vụ giúp đỡ khi cần thiết.
Đó là biểu hiện của tình đoàn kết Bắc - Nam khăng khít một nhà để cùng nhau xây dựng tương lai tươi sáng của toàn dân và đoàn kết không những với chiến sĩ, thương binh, cán bộ cùng gia đình cán bộ ở miền Nam ra đây, mà còn với hàng chục triệu đồng bào miền Nam yêu mến.
Cuối cùng, tôi chúc các đồng chí ở miền Nam ra được khỏe mạnh, để hăng hái phục vụ nhân dân, xứng đáng với lòng mong mỏi của đồng bào toàn quốc, Bắc cũng như Nam.
Ngày 8 tháng 9 năm 1954
Chủ tịch ủy ban Liên - Việt toàn quốc
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Nhân Dân, số 230,
Ngày 23-9 đến ngày 24-9-1954.
DIỄN VĂN TRONG LỄ KỶ NIỆM NGÀY THỐNG NHẤT VIỆT MINH - LIÊN VIỆT
Thưa các vị đại biểu,
Ngày hôm nay, kỷ niệm lần thứ tư ngày Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Thay mặt Ban Thường trực Ủy ban Liên - Việt toàn quốc, tôi kính chào các anh hùng, chiến sĩ thi đua, các vị đại biểu Ban vận động Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc, các vị đại biểu nhân dân Thủ đô và toàn thể các vị đại biểu đã đến dự lễ kỷ niệm này.
Thưa các vị đại biểu,
Năm 1951, sau khi quân dân ta thắng lợi ở chiến dịch Biên giới, đế quốc Mỹ tích cực can thiệp vào Đông Dương, giúp thực dân Pháp kéo dài chiến tranh xâm lược, hòng biến Đông Dương thành căn cứ để gây thảm họa chiến tranh thế giới. Trước tình hình ấy, Đại hội đại biểu Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã thống nhất hai tổ chức thành một Mặt trận dân tộc thống nhất duy nhất: Mặt trận Liên - Việt. Đại hội đã tuyên bố. "Mặt trận Liên - Việt là một tổ chức rộng lớn của dân tộc Việt Nam, là bạn liên minh của các dân tộc Khơ mê, Lào, là một bộ phận của Mặt trận hòa bình thế giới". Thế là với Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Mặt trận dân tộc thống nhất đã mở rộng và củng cố thêm một bước, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thực dân Pháp càng thất bại, đế quốc Mỹ càng tích cực can thiệp vào Đông Dương. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ngày càng gay go quyết liệt, nhưng nhân dân Việt Nam tin tưởng vững chắc rằng: đoàn kết là thắng lợi. Nhân dân Việt Nam ghi nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch trong Đại hội thống nhất Việt Minh và Liên Việt "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công". Bốn năm qua, mặc dầu âm mưu chia rẽ thâm độc của đế quốc Mỹ, Pháp và bè lũ tay sai khối đoàn kết của toàn dân vẫn luôn luôn phát triển và ngày càng củng cố. Tại sao nhân dân ta ngày càng đoàn kết, tại sao Mặt trận dân tộc thống nhất của chúng ta ngày càng vững mạnh? Trong buổi kỷ niệm này, tôi tưởng cũng nên nhắc tới kinh nghiệm quý báu đó.
Kinh nghiệm đoàn kết kháng chiến đã chứng tỏ: Mặt trận Liên - Việt ngày càng rộng rãi và vững chắc là nhờ có đường lối chính sách thích hợp với quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân.
Chính cương của Mặt trận Liên - Việt là chính cương đoàn kết toàn dân kháng chiến kiến quốc nhằm làm cho nước nhà được hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ. Chính cương đó đã chung đúc, hòa hợp tất thẩy những nguyện vọng tha thiết của các tầng lớp nhân dân, các tôn giáo, các dân tộc trong đất nước Việt Nam. Hết thảy những nguyện vọng đó, nhân dân Việt Nam quyết phấn đấu tới cùng để thực hiện cho kỳ được.
Do đó mà tình đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất của chúng ta là tình đoàn kết lâu dài thành thật. Chúng ta đã cùng chung nguyện vọng, cùng chung quyền lợi, thì không có gì mà không bàn bạc, thỏa thuận với nhau được. Những thành kiến, nghi ngờ do đế quốc và phong kiến gây ra, đều có thể xóa bỏ; trái lại, tình thân ái, giúp đỡ, nhường nhịn lẫn nhau sẵn có trong nhân dân đều có thể phát triển.
Dân tộc ta đã có hàng ngàn năm lịch sử anh dũng, bao nhiêu lần chống ngoại xâm, đã hun đúc cho mọi người dân tấm lòng nồng nàn yêu nước, yêu đồng bào. Vì quyền lợi thiêng liêng của Tổ quốc, vì nguyện vọng tha thiết của các tầng lớp nhân dân, cho nên, cả nước đồng lòng, muôn người như một", xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững mạnh, không sức gì phá nổi.
Nhân dịp này, tôi xin thay mặt Mặt trận Liên - Việt, kính cẩn tỏ lòng biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã sáng suốt lãnh đạo Mặt trận dân tộc thống nhất dược kết quả như ngày nay.
Ngày nay, hòa bình đã lập lại trên toàn thể Đông Dương.
Thắng lợi vĩ đại đó là do sự cố gắng chung của các tầng lớp nhân dân, các nhân sĩ yêu nước. Nhất là các anh chị em công nông, anh chị em đã tỏ ra là lực lượng hùng hậu vô tận của nước nhà, là lực lượng trụ cột của Mặt trận dân tộc thống nhất. Cùng với anh chị em công nông, các tầng lớp nhân dân khác và các nhân sĩ yêu nước đều đã đóng góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Kháng chiến đã thắng lợi, nhưng nguyện vọng của toàn dân còn chưa đạt được. Hòa bình chưa được thật vững chắc, thống nhất còn chưa thực hiện, độc lập và dân chủ chưa hoàn thành. Đế quốc Mỹ, những phần tử thực dân Pháp phá hoại hiệp định đình chiến và bè lũ tay sai đang ráo riết phá hoại những thắng lợi mà nhân dân ta đã giành được qua bao năm gian khổ. Hội nghị khối quân sự xâm lược Đông Nam Á ở Băng Cốc vừa tan, tên Đalét đã lê gót chân hiếu chiến đẫm máu của nó trên miền Nam yêu quý của chúng ta, để bày mưu kế, tăng cường hoạt động, nhằm chia rẽ dân tộc ta, chia cắt đất nước ta, đưa miền Nam ruột thịt của chúng ta và Cao Miên, Do vào khối quân sự xâm lược Đông Nam Á.
Trước tình hình đó, chủ trương mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất do Hội nghị đại biểu Liên - Việt toàn quốc đề ra, cách đây hơn một tháng, đã trở thành yêu cầu cấp thiết của toàn dân Ban vận động Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc đã thành lập, gồm các thành phần tiêu biểu cho Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Nhân dân Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho Đại hội để thực hiện lời huấn thị của Hồ Chủ tịch đầu năm 1955, "sẵn sàng thật thà đoàn kết với bất kỳ người nào bất kỳ nhóm nào, nên họ tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Thưa các vị đại biểu,
14 năm trước đây, Mặt trận Việt Minh thành lập, nhờ chủ trương đoàn kết toàn dân mà tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, giành lại chính quyền về tay nhân dân. Năm 1946, Hội Liên Việt thành lập bên cạnh Mặt trận Việt Minh, đã mở rộng khối đoàn kết toàn dân. Năm 1951, lúc đế quốc Mỹ tích cực can thiệp vào Đông Dương, Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã đoàn kết toàn dân rộng rãi và vững chắc hơn nữa, do đó đã đẩy mạnh kháng chiến, tranh thủ hòa bình thắng lợi.
Với 14 năm kinh nghiệm đoàn kết và đấu tranh đó, nhân dân Việt Nam tin tưởng rằng: mở rộng và củng cố hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất, nhân dân ta sẽ đập tan mọi âm mưu của bọn hiếu chiến. Hòa bình nhất định được củng cố, thống nhất đất nước nhất định được thực hiện, do đó độc lập, dân chủ nhất định sẽ hoàn thành.
Để kết luận, tôi nhắc lại lòng tin tưởng sắt đá đó của toàn dân.
Báo Nhân Dân,
số 367, ngày 4-3-1955.
DIỄN VĂN KHAI MẠC KỲ HỌP THỨ TƯ QUỐC HỘI KHÓA I
Thưa Chủ tịch Đoàn,
Thưa các vị đại biểu,
Thay mặt Ban Thường trực Quốc hội, tôi nhiệt liệt hoan hô Hồ Chủ tịch, người công dân thứ nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vị đại biểu vinh dự nhất của Quốc hội Việt Nam, vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, người lãnh đạo toàn dân đấu tranh đến thắng lợi vĩ đại ngày nay.
Tôi thân ái chào mừng toàn thể các vị đại biểu đã cố gắng đến họp đông đủ, khỏe mạnh, vui vẻ hăng hái.
Khóa họp này là khóa thứ tư, cũng là khóa thứ nhất trong hòa bình thắng lợi, giữa Thủ đô giải phóng.
Được hội họp ở đây, chúng ta rất cảm phục quân và dân ta đã anh dũng, bền bỉ đấu tranh, trong công cuộc giải phóng dân tộc.
Để tỏ lòng biết ơn và mến tiếc các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, trong đó có một số đại biểu Quốc hội, tôi đề nghị toàn thể các vị đứng lên, mặc niệm một phút.
Thưa các vị,
Khóa họp này có đông đủ các vị đại biểu thuộc các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở khắp Nam, Bắc, Trung, không phân giới tuyến.
Khóa họp này là khóa đấu tranh để thi hành Hiệp định Giơnevơ, để đẩy mạnh cải cách ruộng đất, để phục hồi và phát triển kinh tế, để nâng cao đời sống nhân dân, để củng cố chính quyền, tiến lên thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ.
Vì khóa họp này có một tính chất quan trọng lịch sử cho nên nhân dân từ các nơi đã dồn dập gửi thư từ, điện văn về chào mừng khóa họp.
Tôi tin rằng khóa họp này sẽ thành công rực rỡ, sẽ đáp ứng nhu cầu cần thiết và cấp bách của tình thế và lòng mong mỏi của toàn dân.
Chúng ta là chính nghĩa, chúng ta có Hồ Chủ tịch, Đảng Lao động Việt Nam, có Chính phủ Dân chủ Cộng hòa lãnh đạo, có nhân dân hết lòng ủng hộ, chúng ta đã thắng trong kháng chiến, nhất định sẽ thắng trong hòa bình. Hòa bình nhất định sẽ củng cố, thống nhất nhất định sẽ thực hiện, độc lập và dân chủ nhất định sẽ hoàn thành.
Nhân danh Ban Thường trực, tôi trân trọng tuyên bố khai mạc khóa họp lịch sử này.
Báo Nhân Dân, số 384,
ngày 21-3-1955.
DIỄN VĂN BẾ MẠC KỲ HỌP THỨ TƯ QUỐC HỘI KHÓA I
Thưa các vị đại biểu,
Khóa họp thứ tư của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hôm nay đã kết thúc. Giờ đây, thay mặt Chủ tịch Đoàn, tôi sung sướng tuyên bố: khóa họp của chúng ta sau một tuần lễ làm việc khẩn trương và liên tục đã thành công, và thành công to lớn.
Quốc hội đã nhất trí xác nhận rằng: đường lối kháng chiến, nội chính và ngoại giao của Chính phủ hoàn toàn hợp với lợi ích của dân tộc. Quốc hội đã đồng thanh hoan hô nhiệt liệt sự lãnh đạo thiên tài của Hồ Chủ tịch, Đảng Lao động Việt Nam và của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã đưa toàn dân đến thắng lợi rực rỡ ngày nay.
Quốc hội đã nhất trí thông qua một đường lối, chính sách chung trong giai đoạn hiện nay do Chính phủ đề ra, nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ. Đường lối đó tiêu biểu cho quyết tâm sắt đá của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt Nam Bắc, quyết tâm đấu tranh giải phóng hoàn toàn dân tộc.
Quốc hội đã nhất trí thông qua các chính sách và biện pháp nhằm đẩy mạnh củng cố miền Bắc. Các chính sách và biện pháp đó không những đoàn kết và động viên nhân dân miền Bắc mạng khả năng vô tận của mình tô bồi cho miền Bắc ngày càng tốt đẹp, mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân miền Nam.
Những điều Quốc hội đã thông qua trên đây có một tác dụng quyết định trong cuộc đấu tranh hiện nay của toàn dân. Thành công của khóa họp chứng tỏ: nhân dân Việt Nam, Quốc hội và Chính phủ là một khối.
Quốc hội Việt Nam là Quốc hội nhân dân, do tổng tuyển cử tự do chọn lên giữa lúc khói lửa xâm lược của thực dân Pháp bắt đầu ở miền Nam, đã tiêu biểu cho ý chí kiên quyết bảo vệ thành tích Cách mạng tháng Tám, bảo vệ độc lập và tự do của nước nhà.
Trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ, đại biểu Quốc hội chúng ta đã cùng nhân dân chiến đấu ở khắp nơi, trên một ngành, mọi mặt, do đó càng được hun đúc thêm tình yêu nước, yêu dân. Vì thế, ích nước, lợi dân là lập trường duy nhất của Quốc hội.
Xuất phát từ lập trường cao quý đó, trong khi nghiên cứu, thảo luận, chúng ta, đại biểu các tôn giáo, các dân tộc, các tầng lớp nhân dân trong toàn quốc, đã đi đến nhất trí hoàn toàn.
Sự nhất từ đó, như Hồ Chủ tịch đã nói trong khi chào mừng Quốc hội, là “Quyết tâm đấu tranh, quyết tâm thắng lợi”. Sự nhất trí đó là chính nghĩa, là ý chí mạnh mẽ của toàn dân không phân biệt Nam Bắc, là quyền lực tối cao của dân tộc, là lực lượng tất thắng. Sự nhất trí đó là nguyên nhân căn bản đưa khóa họp chúng ta thành công, là nguồn tin tưởng cho nhân dân toàn quốc phấn khởi thực hiện chủ trương của Quốc hội và Chính phủ trong khóa họp thứ tư này.
Chắc chắn rằng nghị quyết của khóa họp này, khi được và phổ biến, sẽ thành sức mạnh của toàn dân, đập tan mọi âm mưu của bọn xâm lược điên cuồng, hiếu chiến.
Với niềm tin tưởng vững chắc ở thắng lợi hoàn toàn của dân tộc, tôi tuyên bố bế mạc khóa họp thứ tư này.
Và thân ái chúc các đại biểu ra về mạnh khỏe, phấn khởi.
Báo Nhân Dân, số 391,
ngày 28-3-1955.
ĐIỆN VĂN CHÀO MỪNG HỘI NGHỊ Á - PHI
Thay mặt cho các chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam, chúng tôi nhiệt liệt chúc Hội nghị Á - Phi.
Mục đích cuộc hội nghị rất phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân các nước châu Á và châu Phi. Vì nhân dân châu Á và châu Phi hiện nay đều cùng chung một ý muốn là chấm dứt ách thống trị của đế quốc thực dân, tự mình nắm lấy vận mệnh của mình; muốn bảo vệ chủ quyền và độc lập của nước nhà; muốn chung sống hòa bình, đoàn kết với nhau để xây dựng những quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc.
Hiện những lực lượng đế quốc hiếu chiến đang mưu duy trì chế độ thực dân chống lại cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc và chuẩn bị gây chiến tranh thế giới.
1.400 triệu nhân dân châu Á và châu Phi đang kiên quyết tiến trên con đường giải phóng. Hội nghị Á - Phi là đại biểu của lực lượng to lớn và đoàn kết ấy.
Chúng tôi xin chúc Hội nghị thành công rực rỡ.
Ngày 14 tháng 4 năm 1955
CHỦ TỊCH
ỦY BAN LIÊN - VIỆT TOÀN QUỐC
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Nhân Dân, số 412,
ngày 18-4-1955.
THƯ CHÚC MỪNG SINH NHẬT HỒ CHỦ TỊCH
Kính thưa Hồ Chủ tịch
Năm nay, ngày mừng thọ Cụ 65 tuổi đến giữa niềm vui tưng bừng của đồng bào toàn quốc mừng miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng.
Mỗi tuổi của Cụ là một trang lịch sử đấu tranh anh dũng, mỗi bước tiến vẻ vang của dân tộc. Dân tộc ta giành được thắng lợi to lớn ngày nay chính là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ.
Một trong những vũ khí sắc bén mà Cụ đã rèn đúc cho dân tộc để chiến thắng quân thù là đoàn kết, đại đoàn kết. Cũng như Mặt trận Việt Minh trước kia, Mặt trận Liên - Việt do chính tay Cụ sáng lập và luôn luôn được sự chỉ đạo của Cụ, đã trở nên lực lượng đoàn kết lớn mạnh của toàn dân.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam lại càng tích cực thực hiện lời dạy của Cụ, mở rộng và củng cố hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất để đoàn kết "bất kỳ người nào, bất kỳ nhóm nào, miễn là họ tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Nhân dịp Cụ 65 tuổi, Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, thay mặt nhân dân cả nước, kính dâng lên Cụ lòng kính mến và biết ơn sâu sắc, và xin hứa với Cụ ra sức thực hiện chính sách đại đoàn kết của Cụ, học tập tinh thần kiên quyết cách mạng và đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Cụ, đẩy mạnh mọi công tác để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc.
Kính chúc Cụ sống lâu muôn tuổi để đưa dân tộc đến toàn thắng.
ỦY BAN LIÊN - VIỆT TOÀN QUỐC
Chủ tịch
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Nhân Dân, số 444,
ngày 21-5-1955.
QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA LÀ QUỐC HỘI VẺ VANG CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM
Ngày 6-1-1946, sau hơn bốn tháng thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam, từ miền biển đến miền núi đã nô nức đi bỏ phiếu chọn người thay mặt cho mình trong Quốc hội. Lần đầu tiên trong lịch sử mấy nghìn năm, người dân Việt Nam được sử dụng quyền công dân của mình và trực tiếp tham gia định đoạt vận mệnh nước nhà.
Cuộc tổng tuyển cử đã thực hiện trong hoàn cảnh khó khăn và phức tạp.
Ở Bắc, theo lệnh Đồng minh, quân đội Tưởng Giới Thạch kéo vào từ vĩ tuyến 16 trở ra để tiếp thu sự đầu hàng của quân đội Nhật. Chúng đã dùng một bọn Việt gian bán nước phá rối khắp nơi, gây hoang mang trong nhân dân.
Ở miền Nam, từ vĩ tuyến thứ 16 trở vào, thực dân Pháp được sự giúp đỡ cửa quân đội Anh và lợi dụng tàn quân của phát xít Nhật dã chiếm đóng nhiều đô thị, gây nhiều cảnh đốt nhà, cướp của, tàn sát nhân dân. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của chúng ta đã gặp một sự phá hoại của thù trong giặc ngoài không phải nhỏ. Nhiều nơi nhân dân đã đi bỏ phiếu dưới làn súng đạn của địch: ở Buôn Briêng (tỉnh Đắc Lắc - Tây Nguyên) nhân dân phải đấu tranh phá một cuộc bao vây của địch để bảo vệ một số cán bộ đang cổ động cho tổng tuyển cử ở nơi khác, người dân Êđê phải mang hòm phiếu chạy vào rừng để tránh sự càn quét của địch; ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã có hàng trăm cử tri hy sinh trong khi đi bỏ phiếu; ở Tân An 50 cán bộ đã bị địch giết trong lúc vận động tổng tuyển cử. Cuộc đầu phiếu 6-1-1946 là một cuộc đấu tranh gay go, gian khổ và vô cùng anh dũng.
Mặc dù tình hình khó khăn phức tạp, số cử tri đi bỏ phiếu trung bình là 85%. Ở Thành phố Hà Nội, nơi mà tình hình chính trị lúc bấy giờ rất phức tạp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng củ với số phiếu của hơn 99% cử tri thành phố.
Quốc hội của nước ta thành lập trong hoàn cảnh như thế.
*
* *
Tin tưởng tuyệt đối vào Hồ Chủ tịch, trong khóa họp thứ nhất, Quốc hội đã ủy cho Người trọng trách thành lập chính phủ. Quốc hội lại bầu ra một Ban Thường trực bên cạnh Chính phủ để giúp ý kiến với Chính phủ. Đồng thời, một tiểu ban hiến pháp được thành lập có nhiệm vụ dự thảo bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; bản hiến pháp ấy đã được thông qua trong khóa họp Quốc hội thứ hai và đã ghi những tiến bộ rõ rệt về quyền lợi và nhiệm vụ của người công dân như quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa các dân tộc, quyền tự do tín ngưỡng... Trên thực tế, những nguyên tắc lớn nêu lên trong hiến pháp đều đã được thực hiện.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Ban Thường trực Quốc hội đã phái một số ủy viên đi các địa phương động viên nhân dân tích cực tham gia kháng chiến.
Tiếng nói của Quốc hội về cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân và toàn diện đã làm cho nhân dân thêm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng mà bền bỉ chịu đựng gian khổ và anh dũng chiến đấu cho đến kháng chiến thắng lợi.
Các đại biểu Quốc hội, ngoài nhiệm vụ thay mặt cho nhân dân, phần lớn lại giữ những trọng trách ở các giới, các ngành: bộ đội, chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các ngành chuyên môn khác.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, một số đại biểu đã bỏ mình vì nước. Các vị đã không chịu khuất phục trước uy vũ của địch, đã anh dũng hy sinh, để xứng đáng với Tổ quốc, với lòng tin cậy của nhân dân. Tiêu biểu nhất là nhà cựu học Lê Thế Hiếu, đại biểu Quảng Trị; Luật sư Thái Văn Lung, đại biểu Gia Định; bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, đại biểu Hà Nội; nhà học giả Nguyễn Văn Tố, đại biểu Nam Định. Các vị đều đã chết vì súng đạn của địch, vì đã chống lại địch, mắng vào mặt địch, không chịu khuất phục địch. Ngoài ra còn có các vị như Ngô Huy Diệu tức Ngô Duy Đích, đại biểu Lâm Viên; Nguyễn Hữu Nghị, đại biểu Long Xuyên; Nguyễn Văn Nghĩa, đại biểu Biên Hòa; bác sĩ Huỳnh Bá Nhung, đại biểu Rạch Giá; Nguyễn Hữu Quỳnh, đại biểu Lào Cai; Nguyễn Văn Tiết, đại biểu Thủ Dầu Một; Trần Kim Xuyến, đại biểu Bắc Giang; ông Siêng, đại biểu Biên Hòa; Lý Chính Thắng, đại biểu Sài Gòn - Chợ Lớn, cũng đều bị địch giết. Đó là chưa kể một số không ít đại biểu khác đã hy sinh trong khi chiến đấu, hoặc bị tai nạn trong khi làm nhiệm vụ, hoặc vì công tác gian khổ mà mắc bệnh.
Sự hy sinh của các vị đại biểu làm cho nhân dân thêm tin cậy những người thay mặt của mình và thêm căm thù địch, tăng sức chiến đấu.
*
* *
Trước kháng chiến cũng như trong kháng chiến, trong khi Quốc hội không họp, Ban Thường trực Quốc hội đã làm những nhiệm vụ mà Quốc hội đã giao phó cho. Ở Hà Nội cũng như Ở chiến khu Việt Bắc, Ban Thường trực Quốc hội mật thiết cộng tác với Chính phủ lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc. Các sắc lệnh của Chính phủ ban hành đều có sự đồng ý của Ban Thường trực Quốc hội, các nghị định quan trọng của Chính phủ, Ban Thường trực Quốc hội đều nghiên cứu và góp phần xây dựng. Một đặc điểm cần nêu lên là trong mọi công việc và chủ trương, đường lối, Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội hoàn toàn nhất trí. Mỗi lúc Chính phủ đề ra những chính sách lớn, Ban Thường trực Quốc hội đã cử đại biểu tham dự các phái đoàn đi để giải thích cho nhân dân thấm nhuần chính sách và triệt để thực hiện các chính sách đó.
Lòng tin tưởng của nhân dân đối với Quốc hội ngày càng vững chắc thêm. Mọi người thấy rằng Quốc hội do nhân dân cử ra là của nhân dân, làm việc cho nhân dân. Chính phủ do quốc hội cử ra là một Chính phủ trong sạch, hết lòng phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc.
*
* *
Đầu năm 1953, lúc mà cuộc kháng chiến đang gay go, ác liệt, Ban Thường trực Quốc hội đã họp liên tịch với Ủy ban Liên - Việt toàn quốc để thảo luận và thông qua bản đề án do Đảng Lao động Việt Nam đưa ra: “phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức”. Từ đó người nông dân Việt Nam càng thêm phấn khởi, tích cực đóng góp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Nhằm mục đích triệt để giải phóng nông dân, giải phóng sản xuất, để cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân và đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi, cuối năm 1953 mặc dù hoàn cảnh rất khó khăn, Quốc hội đã họp khóa thứ ba ở khu tự do Việt Bắc.
Các vị đại biểu ở Tây Bắc, một số ở Liên khu V và Nam Bộ đã băng ngàn vượt suối đi bộ hàng nghìn cây số đến họp Quốc hội cùng các đại biểu khác trong toàn quốc. Sau bốn ngày thảo luận sôi nổi, Luật cải cách ruộng đất đã được nhất trí thông qua. Trong khóa họp, Quốc hội đã nhận được 1.108 bức điện ở vùng tự do, vùng tạm bị chiếm, của đồng bào miền xuôi, đồng bào miền ngược tỏ lời nồng nhiệt chào mừng và hoan nghênh Quốc hội.
Lòng phấn khởi của nông dân phối hợp với tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội ở các chiến trường đã giáng cho địch những thất bại nặng nề, ta thu được nhiều thắng lợi lớn, nhất là thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ,
*
* *
Theo đúng chủ trương hòa bình trước sau như một của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ban Thường trực Quốc hội đã cùng Chính phủ cử đoàn đại biểu đi Hội nghị Giơnevơ và ký Hiệp định đình chiến ngày 20-7-1954.
Hòa bình được lập lại ở Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chuyển sang một giai đoạn mới.
Khóa họp thứ tư của Quốc hội tại Thủ đô đã tập hợp hơn 200 đại biểu từ Bắc đến Nam. Các vị đã mang nguyện vọng tha thiết của nhân dân từ các địa phương đến để xây dựng những chính sách quan trọng về các vấn đề: thi hành hiệp định đình chiến, cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, phát triển văn hóa, mở rộng hoạt động ngoại giao, chính sách tự do tín ngưỡng, chính sách và quyết định lập Khu tự trị Thái - Mèo ở Tây Bắc.
Sau 8, 9 năm kháng chiến, uy tín của Quốc hội càng cao.
Các tầng lớp nhân dân thủ đô đã nhiệt liệt đến hội trường chào mừng những người thay mặt nhân dân và từ khắp nơi, các giới, các ngành, các đoàn thể nhân dân, các chiến sĩ, anh hùng... đã gửi 4.443 bức điện về Quốc hội tỏ lòng tin tưởng đối với Quốc hội.
Đối với miền Nam, Quốc hội đặc biệt chú ý. Tin tưởng vào Hiệp định Giơnevơ là một định ước quốc tế được các nước lớn trên thế giới thừa nhận, Quốc hội nhấn mạnh việc chia giới tuyến quân sự chỉ là việc tạm thời. Đất nước Việt Nam nhất định phải thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước.
Ngày 6-6-1955, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố đòi mở hội nghị hiệp thương để bàn về tổng tuyển cử, Ban Thường trực Quốc hội họp hội nghị mở rộng đã tỏ thái độ đối với việc này bằng một bản tuyên ngôn. Các vị dại biểu Nam Bộ, Liên khu V và Quảng Trị, Thừa Thiên đã lần lượt lên tiếng phản đối những hành động của đối phương trong các cuộc tàn sát, bắt bớ trả thù những người đã tham gia kháng chiến, trà đạp trên quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam, phá hoại Hiệp định đình chiến, phá hoại tổng tuyển cử; các vị đại biểu đã kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi mở hội nghị hiệp thương để bàn về việc tổng tuyển cử tự do. Trong một ngày gần đây, Quốc hội sẽ họp khóa thứ năm để nhận xét tình hình mới và nhận định rõ thêm đường lối chính sách đấu tranh của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại nhằm mục đích củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
*
* *
Nói tóm lại Quốc hội của ta do toàn dân từ Mục Nam Quan tới mũi Cà Mau bầu ra, đã theo nguyện vọng của toàn dân làm những nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Quốc hội ta là Quốc hội lập hiến, Quốc hội kháng chiến, Quốc hội cải cách ruộng đất, Quốc hội hòa bình. Quốc hội ta là Quốc hội vẻ vang của nhân dân. Mỗi lần Quốc hội ta họp là một cuộc chuyển biến quan trọng trong vận mệnh của dân tộc. Mười năm qua, Quốc hội Việt Nam đã luôn luôn tiêu biểu cho ý chí thống nhất của dân tộc. Đó là cơ quan dân cử duy nhất hợp pháp của cả nước. Đất nước ta hiện nay tạm thời chia làm hai miền nhưng Quốc hội vẫn thay mặt cho nhân dân cả nước.
Mười năm qua, Quốc hội đã luôn luôn nhất trí với Chính phủ do Quốc hội bầu ra. Trong quá trình kháng chiến và kiến quốc Chính phủ đã tỏ ra xứng đáng với sự tín nhiệm của Quốc hội, của toàn dân.
Mười năm qua, các đại biểu Quốc hội đã đi sát nguyện vọng của nhân dân, đã hòa mình với nhân dân trong thời kỳ gian khổ của cuộc trường kỳ kháng chiến cũng như trong niềm vui mừng, phấn khởi khi kháng chiến thắng lợi, hòa bình được lập lại.
Nay hòa bình đã được lập lại nhưng chưa được củng cố, đất nước ta tạm thời chia thành hai miền, nền độc lập dân tộc chưa hoàn thành và nhân dân miền Nam chưa được hưởng mọi quyền tự do dân chủ.
Nhiệm vụ của Quốc hội nước ta hiện nay là phải sát cánh cùng Chính phủ và đoàn kết nhân dân kiên quyết đấu tranh để hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình và giàu mạnh.
Nhân dân ta rất anh dũng. Quốc hội thay mặt cho nhân dân anh dũng ấy thì không một âm mưu nào có thể chia rẽ được khối đoàn kết của chúng ta, không một lực lượng nào ngăn cản được sức đấu tranh hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc của chúng ta.
Trong 8, 9 năm kháng chiến, với sự cố găng của toàn dân, chúng ta đã vượt mọi khó khăn, gian khổ đưa kháng chiến đến thắng lợi.
Từ nay sắp tới, khó khăn, gian khổ còn nhiều, nhưng chúng ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đi tới thắng lợi cuối cùng:
Hòa bình nhất định phải được củng cố,
Thống nhất nhất định phải được thực hiện,
Độc lập và dân chủ trong toàn quốc nhất định sẽ được hoàn thành.
Báo Nhân Dân số 548,
ngày 2-9-1955.
DIỄN VĂN KHAI MẠC ĐẠI HỘI MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TOÀN QUỐC
Thưa các vị đại biểu,
Thay mặt Ban Vận động Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc, tôi xin kính gửi Đại hội lời chào mừng đầy tin tưởng.
Tôi vui mừng báo cáo với Đại hội, Hồ Chủ tịch kính mến hôm nay sẽ đến cùng chúng ta.
Đại hội sẽ có dịp nhiệt liệt hoan hô vị lãnh tụ vĩ đại sáng lập Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên - Việt và thành kính dâng lên Người lòng biết ơn sâu sắc của đồng bào toàn quốc. Hồ Chủ tịch nêu tấm gương sáng đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc. Đại hội này là một thắng lợi mới của chính sách đại đoàn kết của Người.
Tôi kính chào các vị trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các vị đại biểu Ban Thường trực Quốc hội. Sự có mặt của các vị chứng tỏ Chính phủ và Quốc hội ta luôn luôn săn sóc đến việc đoàn kết toàn dân.
Đến tham gia Đại hội có các vị đã nhiệt tình giúp đỡ cách mạng trong những ngày khó khăn nhất, và các vị anh hùng, chiến sĩ thi đua quân đội và các ngành công nghiệp, nông nghiệp. Thay mặt Đại hội, tôi hoan nghênh các vị, những người đã có công lớn với dân, với nước.
Một vinh dự đặc biệt cho Đại hội chúng ta, là đại biểu Đoàn nghệ thuật Trung Quốc và đại biểu Đoàn đại biểu nhân dân Triều Tiên cùng đến dự lễ khai mạc của Đại hội. Sự gặp gỡ của các bạn với chúng tôi ở Đại hội này là sự gặp gỡ của ba dân tộc Việt - Trung - Triều cùng chung chí hướng, là lời giao ước quyết thắt chặt tình hữu nghị anh em và tình tương trợ trong cuộc đấu tranh vì chính nghĩa. Đại hội chúng tôi nhiệt liệt hoan nghênh các bạn, mong rằng tiếng hoan hô đó nói lên phần nào tình cảm sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với các bạn, và nhân dân hai nước Trung, Triều.
Trong Đại hội, có các vị đại biểu miền Nam. Các vị đến đây với ý chí của những người con của dân tộc đã đứng lên trước tiên kháng chiến anh dũng và bền bỉ trong suốt 9 năm trường, và ngày nay đang dũng cảm đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà, chống những kẻ đang chà đạp lên mọi quyền tự do dân chủ ở miền Nam. Tôi chào các vị với mối tình ruột thịt nồng nàn, với tấm lòng mến phục của nhân dân toàn quốc.
Tôi chào mừng các vị đại biểu miền Bắc, chào mừng thắng lợi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, kết quả của ngót trăm năm đấu tranh của toàn thể đồng bào; chào mừng quyết tâm của nhân dân miền Bắc, đang ra sức củng cố miền Bắc về mọi mặt, để cho xứng đáng với xương máu của các đấng tiên liệt, với hy sinh gian khổ của toàn dân trong kháng chiến trường kỳ và xứng đáng với lòng mong mỏi của đồng bào toàn quốc.
Cùng với các đại biểu trong nước, các đại biểu kiều bào ở nước ngoài đã kịp thời về dự Đại hội. Những người con của Tổ quốc ở nơi xa xôi, có nơi phải chịu nhiều nỗi áp bức bất công, vẫn một dạ trung thành với Tổ quốc, cùng chung gian khổ và vinh quang với đồng bào trong nước. Tinh thần ấy thật xứng đáng với truyền thống anh dũng, bất khuất của dân tộc ta.
Thưa các vị đại biểu,
Đại hội gồm hơn 300 đại biểu trong nước và kiều bào, thuộc các chủng tộc, tôn giáo, tầng lớp khác nhau, ở các đảng phái, đoàn thể khác nhau. Xu hướng chính trị của chúng ta cũng không giống nhau. Nhưng chúng ta cùng chung một Tổ quốc, cùng chung hàng ngàn năm lịch sử, đau khổ có nhau, vinh quang có nhau. Điều đó đã gắn liền đồng bào toàn quốc, gắn liền các đại biểu chúng ta làm một khối.
Mấy năm nước đây, họa thực dân xâm lược đã ngăn cách chúng ta, người ở vùng tự do, kẻ ở vùng tạm bị chiếm. Đó cũng là một trong những lý do chính, khiến cho một số trong chúng ta ở đấy không ở trong Mặt trận Liên - Việt. Ngày nay, kháng chiến đã thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chúng ta lại cùng nhau xum họp một nhà. Vì tương lai sáng lạn của dân tộc, chúng ta sát cánh kề vai gánh vác việc nước, việc dân, tình đoàn kết thật là mật thiết.
Thành phần rộng rãi của Đại hội chúng ta chứng tỏ khối đoàn kết toàn dân mà Hồ Chủ tịch thường săn sóc tới, nay đã mở rộng và củng cố thêm một bước.
Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất chúng ta là sự phát triển của Quốc dân Đại hội Tân Trào và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Sự nghiệp Đại hội chúng ta không tách rời khỏi sự nghiệp hai cuộc Đại hội lịch sử đó.
14 năm trước đây, nhân dân ta đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh kiên quyết chống phát xít Nhật và thực dân Pháp thống trị. Tháng 8-1945, Quốc dân Đại hội Tân Trào, tiêu biểu đầy đủ cho tinh thần đoàn kết và kiên quyết đó của toàn dân, đã nhất trí thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa của Tổng bộ việt Minh. Do đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập.
Hội Liên - Việt ra đời năm 1946 đã mở rộng hơn nữa khối đoàn kết toàn dân để bảo vệ chính quyền dân chủ cộng hòa. Năm 1951, cuộc kháng chiến càng quyết liệt; giữa lúc đó, Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã quyết định chính cương kháng chiến toàn dân toàn diện và trường kỳ. Đại hội đã tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh kháng chiến đến những thắng lợi mới và cuối cùng là thắng lợi Điện Biên Phủ và thắng lợi Hiệp định Giơnevơ.
Lịch sử 14 năm qua đã chứng tỏ, mỗi lần Mặt trận dân tộc thống nhất họp Đại hội là một lần đoàn kết được tăng cường, lực lượng càng thêm mạnh, thắng lợi càng thêm lớn. Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc lần này chính là để đưa sự nghiệp của Quốc dân Đại hội Tân Trào và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt tiến lên một bước mới, hoàn thành giải phóng dân tộc.
Hiện nay, miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng. Tuy còn gặp nhiều khó khăn, việc củng cố miền Bắc đã thu được nhiều thành tích đáng kể. Nhưng miền Bắc chưa được thật vững mạnh, miền Nam đang sống đau khổ dưới ách thống trị phát xít của đế quốc và bè lũ tay sai của chúng. Làm thế nào để thực hiện thống nhất đất nước, để miền Nam không bị biến thành thuộc địa của Mỹ, không bị chúng dùng làm căn cứ quân sự gây lại chiến tranh? Làm thế nào để củng cố hòa bình ở Việt Nam, gìn giữ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới? Làm thế nào để miền Bắc trở nên thật vững mạnh, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân toàn quốc? làm thế nào để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
Bấy nhiêu câu hỏi, bấy nhiêu nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta, bấy nhiêu nhiệm vụ đặt ra trước Đại hội.
Để làm tròn nhiệm vụ đó, vũ khí sắc bén nhất của toàn dân ta là đoàn kết và đấu tranh. Đó là tinh thần lời nói của Hồ Chủ tịch: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công". Câu nói của Người đã chung đúc kinh nghiệm đấu tranh của dân tộc ta và của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Lịch sử đấu tranh của dân tộc ta trong ngót một trăm năm gần đây đã chứng tỏ điều đó. Năm 1930 trở về trước, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta tuy anh dũng, nhưng đều thất bại, một trong những nguyên nhân chính là do nhân dân ta chưa có Mặt trận dân tộc thống nhất, chưa đoàn kết chặt chẽ và có tổ chức. Từ năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các Mặt trận dân tộc và dân chủ kế tiếp nhau thành lập, các cuộc khởi nghĩa đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân. Nhưng cho đến khi Mặt trận Việt Minh thành lập, Mặt trận dân tộc thống nhất mới trưởng thành. Cách mạng Tháng Tám thành công, chính là nhờ lực lượng đoàn kết của nhân dân ta đã trở nên lớn mạnh và có tổ chức. Lực lượng đó càng lớn mạnh và càng có tổ chức chặt chẽ trong Mặt trận Liên - Việt, đã giúp kháng chiến thắng lợi.
Bài học đoàn kết đó, nhân dân ta cũng học được trong kinh nghiệm cách mạng Trung Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong ba phép quý1, nhờ đó mà nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi vĩ đại ngày nay.
Trong tình thế hiện tại, Hồ Chủ tịch trong buổi lễ mừng Quốc khánh vừa qua, đã dạy chúng ta: "Lực lượng đoàn kết sẽ động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong cả nước".
Để lực lượng đoàn kết đó được phát triển và có tổ chức vững mạnh, Đại hội chúng ta họp để quyết định Cương lĩnh sát đúng và điều lệ thích hợp cho Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện tại. Dựa trên Cương lĩnh đó, chúng ta mở rộng đoàn kết; dựa trên Cương lĩnh đó, chúng ta đẩy mạnh đấu tranh; dựa trên điều lệ đó, chúng ta tổ chức Mặt trận rộng rãi và vững chắc.
Cương lĩnh đó sẽ gồm những điểm mà những người yêu nước và dân chủ, tán thành hòa bình, thống nhất đều có thể đồng ý với nhau, đoàn kết với nhau và thực hiện.
Cương lĩnh đó sẽ tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình, đấu tranh kiên quyết chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng.
Cương lĩnh đó sẽ nói lên quyết tâm không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam, là thực hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập và dân chủ. Nó sẽ nói lên trước thế giới ý chí hòa bình và mục đích chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Cương lĩnh đó vạch ra con đường tất thắng của toàn dân.
Thưa các vị đại biểu,
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi rực rỡ trên con đường độc lập và dân chủ của Tổ quốc. Nhưng sự nghiệp giải phóng dân tộc còn chưa hoàn thành, bước đường trước mắt còn đầy chông gai trở ngại.
Đại hội chúng ta đánh dấu đoạn đường đã đi, mở rộng và củng cố thêm hàng ngũ, vạch con đường thắng lợi ngày mai của dân tộc.
Đại hội chúng ta thật là một Đại hội lịch sử, có ý nghĩa trọng đại đối với vận mệnh Tổ quốc, có quan hệ đến hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Nhân dân toàn quốc đang hướng về Đại hội và mong mỏi ở Đại hội. Thế giới đang chăm chú theo dõi công việc của Đại hội.
Tôi tin rằng, với lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước nhân dân, các vị sẽ làm cho Đại hội chúng ta thành công mỹ mãn, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của lịch sử, nguyện vọng của toàn dân.
Dân tộc chúng ta đã có hàng ngàn năm lịch sử anh dũng, đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến trường kỳ thắng lợi, dân tộc chúng ta quyết không bao giờ lùi bước trước bất cứ khó khăn gian khổ nào.
Chúng ta lại có sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới. Trong bức điện mừng ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mao Chủ tịch có nói: “Tất cả những người chính nghĩa nhất định không tha thứ những hành động phá hoại Hiệp định Giơnevơ".
Tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của chính mình và tin tưởng ở sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta nhất định sẽ đấu tranh thắng lợi.
Với lòng tin tưởng vững chắc như thế, tôi tuyên bố Đại hội khai mạc và chúc Đại hội thành công.
Báo Cứu quốc, số 2725,
Ngày 11-9-1955.
DIỄN VĂN BẾ MẠC ĐẠI HỘI MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TOÀN QUỐC
Thưa các đại biểu,
Đại hội đã thành công lớn. Đại hội đã:
- Nhất trí thông qua Nghị quyết thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
- Nhất trí thông qua Cương lĩnh và Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc,
- Cử một Ủy ban Trung ương của Mặt trận Tổ quốc tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân.
Trong các buổi thảo luận, trên diễn đàn Đại hội, cũng như trong khi biểu quyết, toàn thể chúng ta, 361 đại biểu, đều nhất trí nhận rằng: Cương lĩnh và Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc hoàn toàn phù hợp với quyền lợi của dân tộc, của mọi tầng lớp nhân dân, mọi tôn giáo, mọi chủng tộc, mọi người Việt Nam yêu nước trong toàn quốc. Sự nhất trí của Đại hội nói lên tinh thần quyết tâm của toàn dân ta đấu tranh cho thống nhất nước nhà. Sự nhất trí của Đại hội đã báo cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng biết rằng: vận mệnh của Tổ quốc Việt Nam phải do người Việt Nam tự quyết định; bất cứ kẻ xâm lược hay can thiệp nào, dù thâm độc, hung ác tới đâu cũng không thể đi ngược lại ý chí của nhân dân Việt Nam với thành công của Đại hội, với Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc, con đường thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã vạch rõ. Trên con đường đó, toàn dân ta đồng lòng, chung sức đẩy bánh xe lịch sử Việt Nam tiến lên nghiến nát mọi chướng ngại, vượt qua mọi khó khăn, đi tới thống nhất nước nhà, hoàn toàn giải phóng dân tộc.
Chính vì thành công của Đại hội có ý nghĩa trọng đại như thế, cho nên khi thông qua nghị quyết, toàn thể Đại hội đã sôi nổi reo mừng: Tiếng reo mừng đó rồi đây sẽ biến thành tiếng reo mừng của đồng bào cả nước. Ở miền Nam, mặc dù sự ngăn cấm, khủng bố, đồng bào cũng sẽ phấn khởi trước thành công của Đại hội. Nhân dân trong nước và kiều bào ở nước ngoài sẽ phấn khởi đón chào thành công của Đại hội, biến tinh thần phấn khởi đó thành lực lượng đoàn kết và phấn đấu vô địch, vì nó sẽ "động viên nhân dân từ Bắc đến Nam đấu tranh để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước".
Đại hội thành công, đó là do toàn thể chúng ta đã cố gắng làm trọn nhiệm vụ mà nhân dân đã giao phó. Đó là lập trường của chúng ta là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, mục đích chung của chúng ta là ích nước, lợi dân. Đó là vì chúng ta đồng tâm nhất trí đưa Đại hội tới thành công.
Trong không khí làm việc thân ái, chúng ta đã cùng nhau nghiên cứu mọi vấn đề trong bản dự thảo cương lĩnh và điều lệ, đi sâu vào các khía cạnh của mỗi vấn đề. Điều đó chứng tỏ tinh thần phụ trách của các vị và cũng chứng tỏ cách làm việc của Đại hội là dân chủ. Phát triển hơn nữa tinh thần làm việc đó, chúng ta sẽ làm cho Mặt trận Tổ quốc lớn mạnh hơn, để làm tròn nhiệm vụ mà Đại hội đã nêu lên.
Trong Đại hội, Hồ Chủ tịch đã ba lần đến cùng chúng ta, ân cần thăm hỏi. Thái độ ân cần, đầm ấm, tiếng nói thân mật của Người, sự chú ý săn sóc chu đáo của Người là một khuyến khích rất lớn cho Đại hội.
Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ sáng lập ra Mặt trận Việt Minh và Liên - Việt, Người đã suốt đời phấn đấu cho Tổ quốc, ngày nay là Chủ tịch danh dự của Mặt trận Tổ quốc. Đó là một vinh dự của Mặt trận và một đảm bảo cho thắng lợi ngày mai của dân tộc, của Mặt trận chúng ta. Xung quanh Người, dưới sự lãnh đạo thiên tài của Người, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi, vững mạnh, nhất định sẽ củng cố được hòa bình, thực hiện được thống nhất, hoàn thành được độc lập và dân chủ trong cả nước; nhất định sẽ xây dựng được một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
Thưa các vị đại biểu,
Nhiệm vụ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam rất lớn. Chúng ta cần làm cho tinh thần nghị quyết của Đại hội thấm nhuần sâu rộng trong toàn thể nhân dân, tạo thành sức mạnh to lớn đẩy cuộc đấu tranh chính trị và sự nghiệp củng cố miền Bắc tới những thắng lợi mới.
Thay mặt Chủ tịch đoàn, tôi nhiệt liệt cảm tạ các chính đảng, các đoàn thể, các giới, các địa phương trong toàn quốc đã gửi điện chào mừng Đại hội; cảm ơn các nhà báo đã theo dõi công việc của Đại hội và tuyên truyền cho Đại hội; cảm ơn các đại biểu nhân dân Thủ đô Hà Nội và đại biểu đồng bào miền Nam đã đến chào mừng Đại hội; cảm ơn đội nhạc binh và công nhân viên và các anh em bảo vệ đã đóng góp vào sự thành công của Đại hội.
Xin chúc các vị đại biểu ra về mạnh khỏe, tin tưởng, phấn khởi và mong các vị tích cực, động viên toàn dân thực hiện bản Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, góp phần xây dựng tương lai tươi sáng của Tổ quốc.
Tôi xin tuyên bố Đại hội Mặt trận dân tộc thống nhất toàn quốc bế mạc.
Báo Nhân Dân, số 560,
ngày 14-9-1955.
Báo Cứu quốc, số 1242.
ngày 18-9-1955.
SỨC MẠNH ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN SỨC MẠNH QUYẾT ĐỊNH
Ngày 3-3 năm năm trước đây, Đảng Lao động Việt Nam ra mắt quốc dân, cũng là ngày khai mạc Đại hội lịch sử thống nhất Việt Minh và Liên Việt, ngày đánh dấu sự trưởng thành của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trong kháng chiến. Chỉ cần nhớ lại khung cảnh làm việc của Đại hội cũng đủ thấy rõ kháng chiến của chúng ta lúc đó đã bước vào thời kỳ quyết liệt. Máy bay Mỹ đã bay ngày càng nhiều tên trời Việt Nam, chứng tỏ sự can thiệp của Mỹ ngày càng trắng trợn.
Từ các nơi trong toàn quốc, từ khu V, Nam Bộ xa xôi, từ nơi hiểm nghèo sau lưng địch, các nhân sĩ và cán bộ kháng chiến, đại biểu cho ý nguyện cao cả của nhân dân, trèo đèo lội suối dưới bom đạn và sự kiểm soát gắt gao của địch, vượt bao nhiêu gian nguy để tới núi rừng Việt Bắc. Các đại biểu còn phải đi sâu, đi sâu nữa vào khu rừng kín đáo, mới đến địa điểm Đại hội. Đến nơi, trước mắt các đại biểu mở ra một quang cảnh mới lạ hẳn tưởng chừng như đến một thành phố nào: nhà cửa san sát, từng dãy, từng khu, toàn bằng tre nứa nhưng với nhiều kiểu kiến trúc mới, cao ráo, sạch sẽ, trang nhã ở đây cũng có đèn điện, có công viên, dưới rừng cây có những con đường rộng thênh thang lên đồi xuống suối. Đúng như lời Hồ Chủ tịch nói sau này ở Đại hội: Cuộc kháng chiến trường kỳ của chúng ta cũng như người leo dốc.
Chúng ta leo dốc tuy mệt thật, nhưng lên đến đỉnh núi thì là cả một bầu trời quang đãng, tương lai tươi sáng!
Các đại biểu vượt muôn ngàn gian khổ tới đây, bao nhiêu là đồi, là núi, nhưng tới đây là xây dựng tương lai, là bàn bạc với nhau để giành lấy thắng lợi huy hoàng của dân tộc. Chính vì thế mà công nhân cùng với nhân dân thiểu số địa phương đã phấn khởi xây dựng khu nhà này, xây dựng nền móng tương lai của dân tộc.
Buổi chiều trước hôm khai mạc, các đại biểu thuộc đủ các địa phương, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo gặp nhau tay bắt mặt mừng, tình đoàn kết thật là thấm thía. Mọi người khoan khoái nghe Đoàn quân nhạc cử những bài hùng tráng, dưới sự điều khiển tài tình của một nhạc trưởng già. Nhưng bỗng nhiên khu rừng náo động, mọi người đều đổ xô tới một phía. Hồ Chủ tịch tới. Ai nấy vui mừng, cảm động đến rơi nước mắt. Rất nhiều đại biểu chưa từng gặp Người, từ lâu đã nhận rõ con đường của Người, đã theo lời Người phấn đấu vì dân vì nước, uy vũ không khuất, gian khổ không sờn, ngày nay Người ở trước mặt, không cảm động sao được. Và cũng trong buổi hòa nhạc đó, một câu nói của Hồ Chủ tịch đã khiến mọi người không bao giờ quên. Hồ Chủ tịch nói: Ông nhạc trưởng đã khéo đoàn kết các thanh âm, hòa thành bản nhạc hay. Nếu không thì trống đánh xuôi kèn thổi ngược sẽ không ra bài gì. Dân tộc ta cũng vậy. Nếu biết đoàn kết chặt chẽ, cả nước đồng lòng, muôn người như một, thì chúng ta sẽ hát lên bài ca chiến thắng!
Các đại biểu đã thấm thía lời nói đó và đã thực hiện lời nói đó trong Đại hội, đã thực hiện thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành một Mặt trận dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Liên - Việt, đã nhất trí thông qua bản chính cương đúng đắn của Mặt trận Liên - Việt, nêu rõ nhiệm vụ và đường lối như sau:
“Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn này là:
- Đánh bại thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ, trừng trị Việt gian phản quốc,
- Củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
- Phối hợp đấu tranh với mọi lực lượng bảo vệ hòa bình thế giới, đặng xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường và góp sức cùng nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình lâu dài.
Để làm tròn nhiệm vụ, Mặt trận Liên - Việt chủ trương đoàn kết hết thẩy các đoàn thể nhân dân và cá nhân yêu nước, không phân biệt nam, nữ, chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, thành một khối dân tộc vững chắc làm nền tảng cho chính quyền nhân dân, thực hiện chính sách kháng chiến kiến quốc".
Các chủ trương chính sách của Mặt trận đều nhằm đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho kỳ đạt được mục đích đó.
Ngày nay, mọi người đều rõ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Hồ Chủ tịch, toàn dân ta, cả nước đồng lòng, muôn người như một, đã hát lên lời ca chiến thắng. Hiệp nghị Giơnevơ đã được ký trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của các dân tộc Việt Nam, Cao Miên, Lào. Hòa bình đã thắng lợi trên toàn cõi Đông Dương, miền Bắc Việt Nam đã giải phóng. Kế hoạch Nhà nước năm 1956 để củng cố miền Bắc vững mạnh đang được thực hiện.
Nhưng, nhiệm vụ đã đề ra trong Chính cương Liên - Việt vẫn chưa làm tròn. Độc lập, dân chủ, tự do mới thực hiện trong một nửa đất nước ta. Hòa bình chưa thật vững chắc. Đế quốc Mỹ và bọn Ngô Đình Diệm đang dùng muôn nghìn mưu thâm kế độc để chia cắt đất nước ta, đế quốc Mỹ hòng chiếm lấy miền Nam yêu quý của chúng ta, hòng bắt dân tộc ta trở lại vòng nô lệ, chúng lại định xô đẩy nhân dân Đông Dương và Đông Nam Á vào vòng khói lửa. Những hành động phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ trong hơn một năm nay đã vạch rõ bộ mặt gian ác đó của đế quốc Mỹ và bọn Ngô Đình Diệm. Cái trò hề tuyển cử giả hiệu ở miền Nam hiện nay là một bước trong âm mưu thâm độc đó.
Nhưng trước sự đe dọa quyền lợi thiêng liêng của Tổ quốc, đại biểu của những người Việt Nam yêu nước, đã họp Đại hội tháng 9 năm ngoái, thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Hơn nữa Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tiêu biểu ý chí của toàn dân Việt Nam đoàn kết đấu tranh cho một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh, và nhiệm vụ trước mắt là thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập dân chủ bằng phương pháp hòa bình. Năm năm trước, việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã mở rộng và củng cố khối đoàn kết của nhân dân ta. Trong tình hình mới, Mặt trận Liên - Việt hòa mình trong Mặt trận Tổ quốc, khiến cho khối đoàn kết toàn dân đã rộng rãi lại càng thêm vững mạnh. Mới đây, cùng với Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra bản tuyên bố hưởng ứng bức công hàm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đòi triệu tập lại Hội nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương để bàn biện pháp bảo đảm thực hiện Hiệp định Giơnevơ năm 1954. Chủ trương đó càng được mọi người Việt Nam yêu chuộng hòa bình và thống nhất tán thành, càng được nhân dân thế giới ủng hộ.
Mỹ - Diệm dầu gian ác, xảo quyệt đến đâu, chúng không thể tránh khỏi thất bại trước sức đoàn kết ngày càng lớn mạnh của nhân dân ta. Đoàn kết, chúng ta từ chỗ tay không đến chỗ có lực lượng, từ chỗ rên xiết trong tay thực dân đến chỗ một nửa đất nước được tự do, từ núi rừng mà ra thành phố, từ kháng chiến đến hòa bình.
Nhân dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ mấy chữ của Hồ Chủ tịch trong cuốn sổ vàng Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, mấy chữ đơn giản, vắn tắt, nhưng mạnh mẽ, đanh thép.
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Chúng ta đã thực hiện lời dạy đó của Người, đã đoàn kết, đoàn kết để kháng chiến thành công, đã đoàn kết, đoàn kết để hòa bình thắng lợi.
Ngày nay chúng ta quyết đoàn kết, đoàn kết để chống mọi hành động phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ ở miền Nam; đoàn kết, đoàn kết để đòi họp lại Hội nghị Giơnevơ như đề nghị của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đoàn kết, đoàn kết để thực hiện vượt mức Kế hoạch Nhà nước năm 1956 làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh chính trị của toàn dân thắng lợi.
Hôm nay, nhớ ngày thống nhất Việt Minh - Liên Việt, những người được vinh dự có mặt trong ngày đó ai là không nhớ núi rừng Việt Bắc bao la, ai là không nhớ quang cảnh tưng bừng phấn khởi, thân ái trong ngày hội thống nhất. Càng nhớ, chúng ta càng mừng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có Mặt trận Liên - Việt hòa bình càng ngày càng phát triển. Đó là lực lượng đoàn kết vĩ đại của dân tộc.
Lực lượng đoàn kết ấy nhất định phá tan mọi âm mưu của bọn xâm lược, bọn bán nước. Lực lượng đoàn kết ấy nhất định xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
Báo Cứu quốc, số 2750,
ngày 4-3-1956.
LỜI CHÀO MỪNG ĐẠI HỘI LẦN THỨ II ĐẢNG XÃ HỘI VIỆT NAM
Thưa Đại hội
Thưa các bạn,
Thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi thân ái chào mừng Đại hội lần thứ II của Đảng Xã hội Việt Nam, một Đảng đã 10 năm chiến đấu tích cực trong Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam.
Do lòng yêu nước và tinh thần tích cực thực hiện chính cương của Mặt trận Liên - Việt và Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các bạn đã góp một phần quan trọng vào sự nghiệp đoàn kết giữa lao động trí óc và lao động chân tay, và do đó, đã góp phần xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ngày càng vững mạnh. Chúng tôi vui mừng nhận thấy rằng, sát cánh với công nông, đoàn kết với mọi tầng lớp nhân dân yêu nước, người trí thức Việt Nam đã phát huy mạnh mẽ mọi khả năng của mình và trên mọi ngành công tác, trong đấu tranh vũ trang cũng như trong hòa bình, đã tỏ ra xứng đáng là người con tốt của Tổ quốc.
Tôi xin phép được nói với các bạn rằng: trong thắng lợi vẻ vang ngày nay của dân tộc, các bạn ở đây, những người trí thức tiến bộ yêu nước, đều có thể tự hào về phần đóng góp của mình.
Chúng tôi cũng vui mừng nhận thấy mối quan hệ giữa Đảng Xã hội Việt Nam với các chính đảng và đoàn thể trong Mặt trận trong hơn 10 năm qua là mối quan hệ của những người bạn chí thiết, gian khổ có nhau, quang vinh có nhau, thành thật chăm lo giúp đỡ nhau tiến bộ. Mối tình thân hữu đó càng ngày càng phát triển. Đó là một chứng minh hùng hồn về tinh thần đoàn kết thành thật, lâu dài của các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hiện nay, cuộc đấu tranh của toàn dân để thực hiện nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh đang tiến lên những bước thắng lợi mới. Nhưng, chúng ta cũng đang đứng trước những âm mưu mới thâm độc và xảo quyệt của những kẻ phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, phá hoại hòa bình và thống nhất. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta hết lòng cố gắng, tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh đấu tranh. Tôi tin tưởng rằng, Đại hội lần thứ II của các bạn sẽ động viên toàn Đảng thực hiện Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc. Thành công của Đại hội sẽ giúp đoàn kết và động viên những người trí thức yêu nước trong toàn quốc, không phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo, tùy hoàn cảnh mà hết sức tham gia vào cuộc đấu tranh thực hiện Hiệp nghị Giơnevơ, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất.
Với lòng tin tưởng đó, tôi nhiệt liệt chúc mừng Đại hội thành công.
Báo Cứu quốc, số 2756.
ngày 15-4-1956
TRÁCH NHIỆM CHUNG8
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời được một năm. Chương trình của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được nhân dân cả nước hưởng ửng và tham gia đấu tranh để thực hiện.
Trong cuộc đấu tranh đó, để thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã rút ra được nhiều kinh nghiệm phong phú. Một trong những kinh nghiệm lớn nhất là kinh nghiệm sau đây: Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là Cương lĩnh của toàn dân, 10 Điều cương lĩnh bao gồm mọi mặt đấu tranh của toàn dân, cần phải được toàn thể cán bộ ở mọi ngành và toàn thể nhân dân ở khắp nơi thấm nhuần và ra sức thực hiện. Ở đâu, trong công tác nào, nếu cán bộ và nhân dân nghiêm chỉnh làm đúng tinh thần Cương lĩnh thì công tác được kết quả tốt, khối đoàn kết thêm rộng rãi, lực lượng thêm lớn mạnh, đảm bảo thành công của các công tác khác, đảm bảo thắng lợi trong các bước đấu tranh về sau. Trái lại, nếu không thấm nhuần Cương lĩnh, thì chẳng những công tác không có kết quả tốt, mà khối đoàn kết toàn dân còn bị tổn thương.
Chúng ta đã thấy rõ kinh nghiệm quý báu đó trong công tác cải cách ruộng đất.
Theo tinh thần Cương lĩnh của Mặt trận thì cải cách ruộng đất là một chính sách lớn để mở rộng và củng cố Mặt trận.
Trong cuộc cải cách này, chỉ trừ bọn địa chủ phong kiến, còn toàn dân từ thôn quê đến thành thị đều có lợi. Do đó, chúng ta hoàn toàn có khả năng thực hiện một mặt trận chống phong kiến rộng rãi ở nông thôn, mặt trận đó là lực lượng vĩ đại của Mặt trận dân tộc. Thực hiện được mặt trận chống phong kiến rộng rãi như thế, chúng ta mới huy động lực lượng đấu tranh mạnh mẽ của toàn dân, phân hóa và đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ. Và khi đánh đổ được toàn bộ giai cấp địa chủ, thực hiện người cày có ruộng, toàn dân sẽ càng đoàn kết với nhau, thân yêu nhau hơn, tương trợ nhau đẩy mạnh sản xuất.
Đó là tinh thần của chủ trương cải cách ruộng đất trong Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cán bộ và nhân dân ở vùng cải cách ruộng đất là những người thực tế thi hành chủ trương đó, tức là những người thực tế xây dựng Mặt trận đoàn kết dân tộc. Có nơi làm đúng như trên đã đưa lại kết quả tốt, làm cho cơ sở Mặt trận nông thôn thêm vững mạnh. Trái lại, những nơi làm lệch lạc đã làm hạn chế thắng lợi cải cách ruộng đất, ảnh hưởng không tốt tới mặt trận đoàn kết dân tộc.
Trong công tác cải cách ruộng đất, trách nhiệm của cán bộ và nhân dân đối với công tác mặt trận như thế, trong các công tác khác, trách nhiệm của cán bộ và nhân dân cũng như thế.
Từ các công tác chính trị, cho đến các công tác kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội, quân sự, v.v,. mọi công tác củng cố miền Bắc cũng như đấu tranh chính trị ở miền Nam, đều có quan hệ chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, do đó không thể tách rời khỏi chính sách đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc.
Chính sách đoàn kết của Mặt trận phải thể hiện đầy đủ trong mọi chủ trương chính sách, trong mọi công tác lớn nhỏ, thậm chí trong việc đối xử với nhau hàng ngày. Toàn thể cán bộ, toàn thể nhân dân cần tự mình nhận rõ trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng khối đoàn kết dân tộc, không làm công tác đó là rừng của các Ủy ban Mặt trận.
Ai làm đúng với trách nhiệm đó, tức là yêu nước, yêu dân, chúng ta cần học tập. Ai chưa hiểu rõ mà làm sai với chính sách đoàn kết, người đó cần vì nước, vì dân mà tự phê bình và thành thật sửa chữa, mọi người cũng vì nước, vì dân mà thân ái phê bình và chân thành giúp đỡ họ sửa chữa. Hiện nay, những sai lầm trong cải cách ruộng đất, trong chỉnh đốn tổ chức v.v… đã được Chính phủ thấy rõ, việc sửa chữa đang được tiến hành. Nó không ngoài mục đích là đoàn kết toàn dân, đoàn kết cán bộ. Vì lòng yêu nước, nhân dân và cán bộ nhiều nơi đã đoàn kết với nhau để sửa chữa sai lầm. Chúng ta tin rằng Mặt trận đoàn kết dân tộc của chúng ta đã được thử thách và lớn lên trong kháng chiến và đấu tranh hòa bình, sẽ không ngừng mở rộng và củng cố, để có thể làm tròn sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
Để thiết thực kỷ niệm một năm ngày thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chúng ta cần nhắc nhở nhau trách nhiệm xây dựng khối đoàn kết dân tộc, khuyến khích nhau làm tròn trách nhiệm chung đó một trách nhiệm rất quan trọng và vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Báo Cứu quốc, số 2777,
ngày 9-9-1956.
NHƯNG GIỜ HẮC HẢI ĐỐI VỚI TÔI9
Hắc Hải! Mùa hè năm 1919, chiến hạm Pháp mang trên Thủ đô Pari, nơi đã diễn ra lịch sử công xã oanh liệt, được lệnh tiến về Hắc Hải. Đến Hắc Hải mà làm gì? Đánh đế quốc Đức chăng? Không phải, đế quốc Đức đầu hàng rồi. Bọn chỉ huy không hề cho thủy thủ chúng tôi biết về mục đích cuộc hành quân này. Nhưng chúng tôi đã tự biết. Giấu sao nổi những tin tức đấu tranh sôi nổi trên bờ biển nước Pháp; giấu sao nổi những cuộc nổi dậy của lục quân và hải quân Pháp ở Xêbáttôpôn, Ôđétxa; giấu sao nổi cả phong trào đấu tranh rộng lớn chống chiến tranh can thiệp.
Trên tàu, kỷ luật quân sự hầu như không có nữa. Đây đó túm năm, tụm ba bàn tán xôn xao "chiến tranh chấm dứt rồi, về đi thôi, về quê hương, gia đình". Những người Pháp nói với nhau, và nói với tôi như vậy. Quê hương - Gia đình. Đối với tôi, người của một dân tộc thuộc địa không tên tuổi, những điều tha thiết đó tôi chưa thể nghĩ tới.
Tôi nhớ ngày tôi rời đất nước thân yêu. Cuộc bãi khóa đình công của học sinh bách công Sài Gòn và thợ thuyền Ba Son (xưởng chữa tàu thủy ở Sài Gòn) thắng lợi, cũng là lúc tôi phải cải trang, đổi tên tuổi, xuống tàu Pháp để trốn truy nã.
Từ đó, bắt đầu cuộc đời trên mặt biển, với một nhiệt tình yêu nước và lòng mong được học hỏi để về nước đấu tranh có hiệu quả hơn. Đã bao lần tôi đi tìm đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) nhưng không gặp.
Cách mạng Nga, Bônsêvích, Lênin, những tiếng đó đến với tôi trước hết qua những báo chí không bị kiểm duyệt, những báo chí mà quân đội được phép đọc. Ít nhất, báo chí đó đã giúp tôi thấy cuộc cách mạng Nga là cái gì khiến đế quốc tư bản phải run sợ, hằn học. Sự tiếp xúc với một số công nhân Pháp đã giúp tôi thấy rõ hơn: Đây là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, cuộc cách mạng của những người lao động nghèo khổ. Họ nói ở Pháp cũng đã có cách mạng Balê công xã nhưng thất bại. Công nhân Pháp tụ hào về truyền thống cách mạng của mình. Nhưng bây giờ người Nga đã thành công trước.
Dần dần tôi còn được anh em cho biết thêm rằng tất cả các dân tộc trong đế quốc Nga đều cùng nhau đoàn kết để làm cách mạng. Lênin chủ trương các dân tộc bình đẳng và hợp tác với nhau.
Tất cả những điều đó khiến cho tôi càng hâm mộ cách mạng Nga, tin tưởng ở đó nhân dân lao động đang đứng lên xóa bỏ những điều bất công, mà tôi, một trong những người thợ của một dân tộc thuộc địa da vàng, đã từng chịu đựng. Tôi tin tưởng ở đó đang xây dựng những điều thật công bằng, tốt đẹp, chỉ có hại cho bọn đế quốc tư bản mà thôi. Nhiều anh em công nhân thủy thủ Pháp nói chuyện với tôi tỏ lòng kính phục Lênin và công nhân Nga và tỏ rõ quyết tâm không để cho bọn đế quốc tư bản lợi dụng chung lại nhân dân Nga.
Còn tôi, tôi cũng không thể để cho chúng lợi dụng.
Trời đã tối, tàu đã sắp qua Đácđanen. Không khí trên tàu càng sôi sục. Một số anh em vận động thủy thủ họp míttinh để đấu tranh với bọn chỉ huy. Anh em bảo tôi: "Trước khi mít tinh, mày ra kéo cờ đỏ nhé! Kéo để cho chiến hạm Hồng quân biết chúng ta là bạn, không phải là thù”. Tôi rất thích được tự tay mình làm việc đó. Lúc đó vào quãng gần sáng, chiến hạm đã lọt vào Hắc Hải. Tiếng kèn tập họp vừa nổi lên (cũng là tiếng kèn tập họp thường ngày của thủy quân, nhưng lần này không phải do lệnh chỉ huy), thì ngọn cờ đỏ cũng đã được kéo lên trên cột cờ đô đốc. “Các bạn Nga ơi! Tàu của chúng tôi còn xa bến các bạn, các bạn còn chưa thấy ngọn cờ đỏ này. Nhưng với ngọn cờ này, giữa Hắc Hải, chúng tôi chào các bạn. Tôi mong ước với lá cờ đỏ này, chiến hạm sẽ chạy vào hải cảng các bạn, và tôi sẽ lên bộ để may ra được tham gia cách mạng và được học hỏi về nước làm cách mạng.
Tôi tiếc rằng: Trong cuộc mít tinh, một ý kiến đề nghị cho lái chiến hạm về với cách mạng bị thiểu số. Cuối cùng, mọi người đều tán thành bắt tay chỉ huy phải cho tàu quay trở về Pháp, nếu không sẽ chạy sang với cách mạng.
Chỉ huy lúc đó đã chạy ra, không phải để chỉ huy, mà để chịu những câu chất vấn của anh em. Sau một hai lời ấp úng, nó biết không thể cưỡng nổi "mệnh lệnh" của anh em, cũng như bao nhiêu tàu khác đã không cưỡng nổi.
Thế là chiến hạm Pari, sau mấy giờ lênh đênh giữa Hắc Hải đã phải quay mũi trở ra Địa Trung Hải. Khác với khi đi là khi về ở cột cờ có thêm lá cờ đỏ. Dọc đường về, chúng tôi gặp một chiếc thủy phi cơ của hải quân Pháp. Mệnh lệnh của tư lệnh hải quân Pháp bắt chúng tôi phải hạ cờ, nếu không sẽ bị ném bom đánh đắm. Chúng tôi cười mũi, yên trí rằng chúng nó không bao giờ dám đánh đắm một chiến hạm to như thế này chỉ vì một lá cờ đỏ. Và điều chúng tôi yên trí nhất là phi công Pháp từ trên máy bay nhô người ra để ném xuống chúng tôi không phải là bom, mà là ném xuống những dấu hiệu bạn bè, những cái vẫy chào thân ái.
Lá cờ đỏ ấy và hình ảnh cuộc binh biến của thủy thủ chiến hạm Pari từ đó ghi sâu vào tâm hồn tôi. 38 năm đã qua, trí nhớ kém cỏi của tôi không còn ghi lại được đủ tên người, giờ khắc, khung cảnh của cuộc nổi dậy đó. Nhưng mỗi năm qua, cứ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười là mỗi lần hình ảnh của cuộc binh biến với lá Cờ đỏ như hiện ra trước mặt tôi, mỗi năm thêm rạng rỡ dưới ánh sáng mới của tình hình phát triển phong trào phát triển của cách mạng, dưới ánh sáng mới của những nhận thức mới mà tôi tiếp thu được trong lịch trình hoạt động cách mạng.
Hồi đó, tôi đã biết đâu rằng, Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử cách mạng toàn thế giới trong lịch sử cách mạng của mỗi một dân tộc trên thế giới.
Tôi đã biết đâu rằng, cuộc binh biến của thủy quân Pháp ở Hắc Hải ký một bộ phận của phong trào vô sản quốc tế đang sôi nổi ở khắp các nước.
Sau này, sự thất bại nhục nhã của cuộc chiến tranh can thiệp đã cho tôi thấy sức mạnh vĩ đại của khẩu hiệu “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại", khẩu hiệu đó đã trở thành hành động quyết liệt của đông đảo nhân dân lao động thế giới, chặn tay bọn phản động quốc tế, góp phần bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga.
Và sau này, tôi càng thấy rõ tính chất vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười là ở chỗ nó được cảm tình tự nhiên của hàng triệu người bình thường trên thế giới. Cũng như tôi, người dân mỗi một dân tộc chỉ bằng cảm tình của mình cũng đủ thấy rằng chống lại Cách mạng Tháng Mười, tức là chống lạm quyền lợi của chính dân tộc họ, chống lại quyền lợi của giai cấp và bản thân họ. Bởi vì chỉ có kẻ thù của giai cấp của dân tộc họ, đang điên cuồng hoảng hốt với Cách mạng Tháng Mười.
Cuộc binh biến ở Hắc Hải, trong một thời gian ngắn, đã tràn lan trong tất cả các đơn vị hải, lục quân Pháp bị điều động đi tấn công cách mạng Nga, đã hoàn toàn chứng tỏ điều đó. Đế quốc nhất thời có thể dùng bọn phản bội trong xã hội Đệ nhị quốc tế để lừa bịp công nhân và nhân dân lao động thế giới, đưa họ vào cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa, nhưng không thể lừa bịp đưa họ vào cuộc chiến tranh can thiệp chống Liên Xô.
Tôi tin rằng, bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào, nhất là một công nhân, có mặt trong những giờ phút lịch sử ở Hắc Hải, cũng không thể có hành động khác với tôi, vì đã yêu nước, ghét đế quốc, tất nhiên là yêu Cách mạng Tháng Mười và ghét bọn chống Cách mạng Tháng Mười.
Cách mạng Tháng Mười, tinh thần quốc tế của cuộc binh biến Hắc Hải, đó chính là một trong những nhân tố thúc đẩy tôi khi về nước tổ chức Công hội bí mật, rồi tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, một tổ chức tiền bối của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cách mạng Tháng Mười với ánh sáng rực rỡ của nó, với sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân các nước, đã cho tôi lòng tin tưởng và chỉ cho tôi thấy cái hướng giải phóng ở nước mình. Trong những ngày ở tù Côn Đảo, khi phát xít Hítle tấn công gần đến Mátxcơva, tôi cũng như nhiều đồng chí khác lo lắng theo dõi tình hình, nhưng vẫn giữ vững tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của Liên Xô. Chúng tôi đã nghĩ một cách đơn giản rõ ràng rằng: Nhân dân Liên Xô đã tự sức mình, cùng với sức mạnh đoàn kết của vô sản quốc tế, đã phá tan cuộc chiến tranh can thiệp của bọn đế quốc liên minh Liên Xô sau hơn 20 năm lớn mạnh, lại được sự đoàn kết rộng rãi của Mặt trận chống phát xít toàn thế giới, nhất định sẽ thắng lợi. Lợi ích của Liên Xô trong năm 1919, cũng như lợi ích của Liên Xô trong đại chiến thứ hai, hoàn toàn gắn chặt với lợi ích của nhân dân lao động thế giới, gắn chặt với lợi ích của các dân tộc bị áp bức.
Tháng 9-1945, một chiếc thuyền máy, trước mũi phấp phới ngọn cờ đỏ sao vàng, cập bến Côn Đảo. Sau binh biến Hắc Hải, đây là lần thứ hai trong đời, tôi được thấy lá cờ nền đỏ, lá cờ cách mạng. Chúng tôi xuống thuyền ra khỏi ngục tù Côn Đảo, đất nước chúng tôi thoát khỏi ngục tù đế quốc. Nước tôi được độc lập. Lá cờ đỏ trong bàn tay những chiến sĩ cộng sản Việt Nam từ nay mãi mãi phất cao trên trời Tổ quốc Việt Nam.
Cảm ơn Cách mạng Tháng Mười Nga, cảm ơn Liên Xô đã đánh bại bọn phát xít, trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi giải phóng đất nước.
Sau đó là những năm kháng chiến gay go rồi thắng lợi Điện Biên Phủ, thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ năm 1954, rồi đến công cuộc kiến thiết để phục hồi kinh tế và đấu tranh thống nhất đất nước.
Mỗi một khó khăn nhân dân Việt Nam đã vượt qua, mỗi một thắng lợi nhân dân Việt Nam giành được, đều không tách rời khỏi sự tồn tại và lớn mạnh của Liên Xô và thắng lợi của sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Đông Âu, không tách rời khỏi sự quan tâm và giúp đỡ vô tư của Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc.
Ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười lần thứ 40 đang đến. 38 năm qua, kể từ khi binh biến Hắc Hải, kể từ khi bọn đế quốc mở cuộc chiến tranh can thiệp với quy mô rộng lớn tấn công Liên Xô trẻ tuổi, nhưng Liên Xô không bị tiêu diệt, trái lại hùng mạnh hơn bao giờ hết. Xã hội chủ nghĩa không bị tiêu diệt, trái lại đã trở thành một hệ thống quốc tế vững vàng, trong đó có nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tôi nhớ lại năm ngoái, được sung sướng cùng với đoàn đại biểu Quốc hội tới thăm Liên Xô. Mắt tôi đã thấy, tai tôi đã nghe những người dân Xôviết anh hùng sáng tạo ra lịch sử Liên Xô quang vinh. Tôi đã tới Lêningơrát với chiến hạm Bình Minh đã nổ súng báo hiệu thời đại xã hội chủ nghĩa bắt đầu, với những di tích của Lênin kính mến, của toàn thể nhân loại, tôi đã hôn nắm đất Xtalingơrát anh hùng, đã được thấy lại nước biển Hắc Hải Ôđétxa, đã thấy đà tiến mạnh mẽ của các dân tộc Kiếcghidi, Ácmêni trong chế độ Xôviết, được biết một cách cụ thể mối tình cảm nồng thắm của người Xôviết đối với chúng tôi, được chứng kiến khung cảnh tưng bừng đầy sức sống ở Mátxcơva trong ngày lễ Kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga lần thứ 39, điều sung sướng nhất là tôi được trực tiếp nói với nhân dân Liên Xô lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đối với những cống hiến lớn lao của Liên Xô cho nhân loại trong 40 năm qua.
Báo Tiền phong, số 232,
ngày 26-10-1957
LỜI PHÁT BIỂU TRONG BUỔI LỄ NHẬN HUÂN CHƯƠNG SAO VÀNG
Thưa Hồ Chủ tịch kính mến,
Thưa các vị, các đồng chí,
Trong buổi lễ quang vinh này, tôi nghĩ đến thời kỳ tôi còn ấu trĩ, nghĩ đến những lúc khó khăn, hiểm nghèo, Đảng đã dìu dắt, giáo dục tôi, nhân dân đã rèn luyện và giúp đỡ tôi để có được ngày nay.
Huân chương này là một sự chiếu cố đặc biệt đối với tôi.
Sự chiếu cố đó, trong đời tôi chưa bao giờ tôi dám nghĩ tới.
Trong dịp 70 tuổi này, sự chiếu cố đó làm cho tôi cảm thấy trẻ lại, trái tim tôi như có thêm máu nóng.
Huân chương này mãi mãi nhắc nhở tôi, lời Hồ Chủ tịch nói hôm nay sẽ mãi khuyến khích tôi trung thành đến phút cuối cùng trong cuộc đấu tranh cho hòa bình và thống nhất của đất nước thân yêu, cho chủ nghĩa xã hội, cho hạnh phúc yên vui của toàn thể nhân loại.
Trong giờ phút cảm động này, tôi không biết nói gì hơn là hứa lấy cố gắng của tôi để đền đáp công ơn Đảng, công ơn Hồ Chủ tịch, người sáng lập và xây dựng Đảng, đã đưa tôi vào con đường vẻ vang, và để đền đáp sự tín nhiệm của nhân dân và Chính phủ.
Báo Cứu quốc, số 2876,
ngày 24-8-1958
THƯ KHEN NGỢI CÁC CHÁU HỌC SINH MIỀN NAM10
Bác rất vui mừng khi được báo cáo rằng các cháu đã làm tốt công tác hè lao động và diệt dốt.
Riêng về thành tích diệt dốt, các cháu đã vận động được 12.158 đồng bào đi học. Có những trường đã làm tốt như: Trường 16, có 151 cháu tham gia dạy cho 4.281 người. Trường 23 có 104 cháu tham gia và dạy cho 4.140 đồng bào.
Ngoài ra, các cháu lại còn giúp đỡ 25 vạn đồng giấy, bút, sách vở và vận động được 2.914 người ra làm cán bộ, giáo viên bình dân học vụ, 2.652 người tham gia các tổ khuyến học.
Mặc dầu công việc vận động đồng bào đi học đối với các cháu có rất nhiều khó khăn, nhưng các cháu đã nỗ lực, nhẫn nại kiên trì công tác. Nhiều cháu đã khéo biết kết hợp vừa tham gia làm việc với đồng bào, vừa tuyên truyền vận động đồng bào đi dạy, đi học.
Nhờ công tác tốt, các cháu đã góp phần vào việc thực hiện chủ trương xóa nạn mù chữ của Đảng và Chính phủ, đồng thời các cháu đã làm cho đồng bào thông cảm với các cháu, quý mến các cháu hơn, thắt chặt được tình đoàn kết giữa học sinh miền Nam và đồng bào miền Bắc.
Thay mặt Ban lãnh đạo Trung ương thanh toán nạn mù chữ, Bác nhiệt liệt hoan nghênh kết quả đó và khen ngợi tinh thần bền bỉ, nhẫn nại của các cháu trong công tác diệt dốt.
Nghe theo lời dạy của nhà trường, các cháu làm việc đó rất tốt, tức là các cháu góp phần xây dựng miền Bắc vững mạnh. Miền Bắc càng vững mạnh thì việc đấu tranh thống nhất nước nhà càng có thuận lợi và mau đi tới đích. Như thế là các cháu đã góp phần vào công cuộc đấu tranh cho Nam Bắc mau thống nhất.
Các cháu cần nhớ rõ ý nghĩa đó, khi về trường các cháu ra sức học tập và đồng thời tiếp tục tham gia bình dân học vụ ở địa phương các cháu học. Những cháu nào chưa tham gia bình dân học vụ hãy noi gương các bạn tham gia kèm cặp, giảng dạy cho đồng bào để công cuộc thanh toán nạn mù chữ hoàn thành tốt về căn bản vào cuối năm nay.
Một lần nữa, Bác hoan hô các cháu, chúc các cháu vui mạnh, học tập giỏi, ngoan và diệt dốt hăng.
Báo Thống nhất, số 67,
ngày 14-9-1958
CƯƠNG QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG NHỮNG HÀNH ĐỘNG TỘI ÁC KHÔNG THỂ THA THỨ ĐƯỢC CỦA MỸ - DIỆM ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO YÊU NƯỚC Ở MIỀN NAM11
Sau cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ thắng lợi, hòa bình lập lại trên đất nước ta, đáng lẽ sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, hoàn thành độc lập dân chủ của nhân dân ta đã được thực hiện trong cả nước như Hiệp nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương quy định, nhưng đế quốc Mỹ can thiệp vào nước ta, dựng lên ở miền Nam chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam nước ta thành thuộc địa và căn cứ quân sự Mỹ. Đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm đã và đang thi hành mọi thủ đoạn phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, phá hoại hòa bình thống nhất Tổ quốc ta, chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược miền Bắc, và chống lại phong trào hòa bình độc lập ở Đông Dương và Đông Nam Á.
Dưới chế độ Mỹ - Diệm, những quyền lợi về kinh tế, chính trị của đồng bào ta ở miền Nam đã giành được trong Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến đã bị xóa bỏ dần, những quan hệ sản xuất thực dân phong kiến lỗi thời được khôi phục lại. Chính sách nô dịch và gây chiến của Mỹ - Diệm ngày càng đưa tình hình miền Nam vào chỗ bế tắc: công, nông, thương nghiệp đình đốn suy sụp; nạn thất nghiệp lan tràn, nạn đói kém diễn ra ở nhiều nơi; các quyền tự do dân chủ tối thiểu bị chà đạp trắng trợn; tệ nạn xã hội ngày càng phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng thêm điêu đứng, tiền của bị vơ vét; đất đai bị cướp đoạt, sức người bị hao mòn, tính mạng bị đe dọa từng giờ từng phút... Chế độ Mỹ - Diệm ở miền Nam là một chế độ cấu kết giữa bọn đế quốc cướp nước và bọn phong kiến bán nước. Nó đi ngược lại mọi nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân ta, bị nhân dân oán ghét và căm thù đến cực độ, cho nên từ trước đến nay, căn bản nó vẫn phải dựa vào bạo lực để tồn tại. Nhưng mặc dầu chính sách vô cùng hung bạo của chúng, phong trào yêu nước của đồng bào miền Nam vẫn giữ vững và ngày càng phát triển.
Gần đây tình hình miền Nam biến chuyển càng không có lợi cho địch: kinh tế càng khủng hoảng và suy sụp; những bị động và thất bại về chính trị của Mỹ - Diệm đã liên tiếp xảy ra, những thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc dội vào, ảnh hưởng của phong trào cách mạng trên thế giới dồn dập đến sự căm thù và phẫn nộ của quần chúng, uy thế và lực lượng của cách mạng ở miền Nam ngày càng lên cao và lan rộng, nội bộ hàng ngũ chính quyền miền Nam càng thêm dao động và phân hóa, Mỹ - Diệm bị cô lập hơn bao giờ hết.
Để cứu vãn tình thế nguy ngập ấy, để củng cố và duy trì ách thống trị độc tài của chúng, để thực hiện âm mưu chuẩn bị chiến tranh xâm lược miền Bắc và chống lại phong trào độc lập dân tộc ở Đông Nam Á, Mỹ - Diệm kẻ thù độc ác nhất của nhân dân ta đã và đang tăng cường đàn áp khủng bố đồng bào miền Nam với những biện pháp ngày càng khốc liệt, ra sức tăng cường quân bị gây không khí căng thẳng, khiêu khích và chuẩn bị chiến tranh.
Chúng tự ý đặt miền Nam "ở trong tình trạng chiến tranh" đòi được thoát khỏi sự ràng buộc của Hiệp nghị Giơnevơ, tiếp tục đưa vũ khí và nhân viên quân sự vào miền Nam, tăng cường xây dựng căn cứ quân sự và giao thông chiến lược, cấu kết ngày càng chặt chẽ với khối quân sự xâm lược Đông Nam Á, đứng đầu là đế quốc Mỹ.
Chúng kiện toàn và mở rộng bộ máy mật thám, cảnh sát, dân vệ, bảo an đã sẵn có đầy rẫy khắp nơi của chúng vào tận thôn xóm. Chúng tổ chức thêm những đơn vị khủng bố bí mật giả thường dân đi lưu động, trang bị cho bọn này những vũ khí nhẹ và bắn mau, hỏa lực mạnh, những phương tiện thông tin nhanh chóng, nhỏ gọn, phương tiện đi lại tối tân. Chúng huấn luyện cho bọn này những thủ đoạn rình mò, phao vu, bắt cóc, tra tấn, ám sát, đầu độc theo lối Mỹ, những thủ đoạn cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ, đốt nhà nhân dân, v.v.. Vụ thảm sát hàng nghìn đồng bào yêu nước ở trại tập trung Phú Lợi và vụ tra tấn cực kỳ dã man chị Trần Thị Lý là một điển hình.
Mặt khác, bè lũ Ngô Đình Diệm từ cuối năm 1958 đến nay thường xuyên dùng hàng vạn quân chính quy với vũ khí tối tân, có cơ giới, phi cơ, thủy quân phối hợp dưới sự chỉ huy của bọn sĩ quan Mỹ như Uyliam, Léttơ mở các cuộc càn quét khắp miền Nam, đánh giết thường dân không có chút vũ trang tự vệ. Những đội quân tổ chức và huấn luyện theo kiểu Mỹ, ăn mặc rằn ri quỷ quái, tự xưng là đội quân tàn ác nhất Đông Dương, được tung về nông thôn, bắn giết bừa bãi, đốt nhà cướp của, hãm hiếp phụ nữ, phá hoại một cách dã man thi thể người bị giết, nướng thịt người để đánh chén, gây không khí khủng khiếp trong nhân dân. Tiếp theo chiến dịch Nguyễn Trãi ở miền Tây Nam Bộ, là chiến dịch đánh vào nhân dân miền Đông Nam Bộ, và các chiến dịch đánh vào miền núi các tỉnh Trung Bộ. Ở Biên Hòa nhiều lần máy bay Mỹ đã ném bom tàn sát đồng bào.
Đồng thời với những biện pháp khủng bố bằng lực lượng công an, cảnh sát, bảo an, dân vệ và những biện pháp khủng bố quy mô lớn bằng hàng vạn quân đội chính quy, về phương diện pháp lý, tiếp theo các dụ số 6, số 47, chúng vừa buộc cái gọi là Quốc hội miền Nam thông qua Đạo luật 10-59. Đạo luật mới này thiết lập ba tòa án quân sự đặc biệt đặt trụ sở ở Sài Gòn, Ban Mê Thuột, Huế, quản hạt của ba tòa án này bao trùm tất cả các tỉnh ở miền Nam, và tùy theo nhu cầu có thể thiết lập thêm những tòa án quân sự đặc biệt khác, các tòa án này xét xử tại trụ sở hay xét xử lưu động ngoài trụ sở nếu cần. Đạo luật này quy định những quyền xét xử độc đoán là không cần thẩm cứu, không cho chống án, chỉ kết án tử hình và khổ sai chung thân, không được hưởng trường hợp giảm khỉnh, và bản án thi hành ngay. Đạo luật này không phải chỉ xử những điều mà bị cáo đã có làm, mà còn xử cả tội mới có trong ý định mà họ gọi là toan phạm.
Một đạo luật như thế - thật là một quái thai về pháp lý.
Nó chỉ có thể so sánh với những "tòa án giáo hội" vào thời Trung cổ, nắm mọi quyền sinh sát trong tay đối với mọi người. Nó cho phép và xui giục bọn tay chân của Ngô Đình Diệm tha hồ bắt bớ giam cầm, giết chóc những người kháng chiến cũ, những người yêu nước, yêu hòa bình, tha thiết với sự nghiệp thống nhất nước nhà và bất cứ ai không tán thành chính sách cướp nước bán nước và chuẩn bị chiến tranh của Mỹ - Diệm.
Những thủ đoạn khủng bố tàn khốc kể trên biểu thị một cách tập trung tính chất cực kỳ hung bạo - hung bạo một cách trắng trợn và man rợ - của đế quốc Mỹ, một đế quốc hiếu chiến nhất phản động nhất, kẻ thù ác hại nhất của nhân dân thế giới, cộng với tính chất hết sức tàn nhẫn và dã man của bọn hỗn quân bạo chúa thời Trung cổ mà Diệm là tên đại biểu trung thành.
Những thủ đoạn đó đi ngược lại với công bằng và đạo lý, đi ngược lại tính chất văn minh tiến bộ của thời đại chúng ta, thời đại mà mọi chế độ áp bức bóc lột và gây chiến đều bị toàn thể nhân loại coi là một sự nhục nhã không thể nào tha thứ được.
Những thủ đoạn đó chẳng những vi phạm một cách hết sức nghiêm trọng và thô bạo Hiệp nghị Giơnevơ mà còn bóc trần bộ mặt bất nhân phi nghĩa, phản nước hại dân của bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, xúc phạm tàn nhẫn đến tình đồng bào, tình dân tộc trong cả nước.
Những biện pháp khủng bố tàn khốc ấy cùng với những thủ đoạn bóc lột tàn tệ, những cuộc bắt phu bắt lính, đốt nhà, dồn dân lên rừng sâu nước độc, gây cảnh gia đình ly tán, sinh mạng thường xuyên bị đe dọa, tang tóc chồng chất lên đầu, làm cho đồng bào miền Nam phải chịu một cảnh hết sức thương tâm.
Nhưng một chính sách khủng bố tàn bạo như thế không hề nói lên sức mạnh và thắng lợi của chế độ Mỹ - Diệm, mà trái lại nó biểu thị sự suy yếu và hèn nhát, sự thất bại căn bản về chính trị đến hành động điên cuồng trước phong trào đấu tranh mãnh liệt của nhân dân ta chống lại chính sách cướp nước, bán nước và gây chiến của chúng.
Mỹ - Diệm hy vọng dùng bạo lực để dập tắt phong trào yêu nước ở miền Nam, nhưng đồng bào miền Nam anh dũng của chúng ta với truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, không thể để cho một thế lực tàn bạo nào đè bẹp được. Đồng bào đã và đang quyết liệt đấu tranh chống Mỹ - Diệm tăng cường quân sự, chuẩn bị chiến tranh, chống chính sách của Mỹ lũng đoạn kinh tế và chính trị ở miền Nam, chống chính sách xâu thuế, phạt vạ nặng nề, bần cùng hóa nhân dân, bóp nghẹt tự do dân chủ, chống Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước những hành động tấn công điên cuồng của Mỹ - Diệm, đồng bào lại càng xiết chặt hàng ngũ đấu tranh quyết liệt chống lại bằng mọi hình thức thích hợp để tự cứu mình.
Cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam, cuộc đấu tranh của toàn dân ta cho hòa bình và thống nhất được nhân dân thế giới luôn luôn theo dõi, đồng tình và ủng hộ. Cũng như nhiều hội nghị quốc tế trước đây, khóa họp đặc biệt của Hội đồng hòa bình thế giới vừa rồi ở Xtốckhôm đã lên án tất cả những vi phạm đến quyền dân tộc và dân chủ ở miền Nam Việt Nam, đã yêu cầu Ủy ban quốc tế lập tức mở cuộc điều tra về vụ thảm sát Phú Lợi, đòi chấm dứt sự can thiệp của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, đòi nhà cầm quyền miền Nam chấm dứt ngay những hành động khủng bố, giải tán tất cả các lại tập trung và thi hành đầy đủ Hiệp nghị Giơnevơ nhằm thống nhất Dược Việt Nam. Đặc biệt Hội đồng hòa bình thế giới trong khóa họp quan trọng này đã tặng thưởng cho Phong trào bảo vệ hòa bình miền Nam Việt Nam, và truy tặng cho Giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng, Thư ký của Phong trào bảo vệ hòa bình miền Nam Việt Nam đã hy sinh tháng 7 năm 1958 do sự giam cầm tra tấn dã man của chính quyền Ngô Đình Diệm, Huy chương Vàng "Hòa bình" trong số bốn mươi huy chương mà Hội đồng hòa bình thế giới tặng thưởng cho các tổ chức và cá nhân đã có nhiều thành tích đóng góp cho Phong trào hòa bình thế giới.
Đó là một phần thưởng rất vẻ vang cho đồng bào miền Nam và là một vinh dự, một cổ vũ lớn lao đối với nhân dân ta từ Bắc chí Nam.
Kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của chính dân tộc ta và kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới chứng minh rằng mọi cuộc đấu tranh cách mạng đều phải trải qua gian khổ, lâu dài, nhưng nhất định thắng lợi; bọn phản nước hại dân dù hung bạo đến đâu cuối cùng cũng phải thất bại thảm hại. Bọn Mỹ - Diệm càng hung bạo chúng càng không cứu vãn nổi sự sụp đổ tất yếu của chúng, miền Nam nước ta nhất định sẽ được giải phóng, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Thưa các vị đại biểu,
Thưa các đồng chí,
Nước Việt Nam ta là một, dân tộc Việt Nam ta là một khối thống nhất, đồng bào từ Bắc chí Nam trong những ngày vinh quang của dân tộc đều chung niềm phấn khởi và trong những ngày đen tối đau khổ cũng cùng sát cánh bên nhau. Tháng 8-1945, 25 triệu đồng bào cả nước đã xiết chặt hàng ngũ dưới một ngọn cờ độc lập và dân chủ vùng lên đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công, đã chiến đấu gian khổ 9 năm để đưa cuộc kháng chiến trường kỳ đến thắng lợi. Ngày nay, chúng ta đây đang sống trên một nửa nước hoàn toàn giải phóng và đang thu nhiều thành tích tốt đẹp trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, nghe đến tình hình đồng bao miền Nam bị Mỹ - Diệm đầy đọa cùng cực, khủng bố tàn sát hết sức dã man, lòng chúng ta muôn người như một đều vô cùng đau xót, vô cùng phẫn nộ.
Chúng ta đều thấy là phải có hành động tích cực để phối hợp với phong trào đấu tranh anh dũng và bền bỉ của đồng bào miền Nam, để chặn tay bọn Mỹ - Diệm sát nhân hiếu chiến cướp nước và bán nước.
Chúng ta đều thấy cần phải tiếp tục tố cáo trước dư luận trong nước và trên thế giới mọi chính sách can thiệp và gây chiến của đế quốc Mỹ. Chúng ta thấy cần phải kịch liệt lên án những âm mưu và hành động khủng bố tối dã man của Mỹ - Diệm, từ việc chúng đã đầu độc giết chết hàng ngàn đồng bào ở trại tập trung Phú Lợi, đến những thủ đoạn bắt cóc, ám sát theo kiểu Mỹ, đối với những người yêu nước, yêu hòa bình, những cuộc càn quét quy mô lớn có cả trọng pháo, phi cơ oanh tạc để tàn sát đồng bào, đến Đạo luật số 10-59 và các đạo luật phátxít khác.
Chúng tôi đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Trung ương, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các địa phương, các chính đảng, đoàn thể, các vị nhân sĩ trí thức trong Mặt trận sẽ lên tiếng biểu thị thái độ của mình và:
- Kêu gọi đồng bào miền Bắc, cán bộ và đồng bào miền Nam tập kết hãy kịch liệt lên án hành động đàn áp khủng bố vô cùng tàn khốc dã man của bè lũ Mỹ - Diệm, hãy biến căm thù thành sức mạnh vật chất thành hành động thực tế, nỗ lực xây dựng miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
- Nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam, nhiệt liệt ủng hộ đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống ách áp bức bóc lột của Mỹ - Diệm chống chính sách đàn áp khủng bố của chúng để bảo vệ đời sống của mình và tiến lên cùng đồng bào toàn quốc thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Kêu gọi kiều bào ở nước ngoài hãy tăng cường đoàn kết và bằng một hình thức phương pháp thích hợp ủng hộ và tham gia công cuộc đấu tranh chống đàn áp khủng bố của Mỹ - Diệm ở miền Nam, góp phần vào công cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà.
- Kêu gọi nhân dân yêu chuộng tự do, hòa bình và công lý trên thế giới hãy tiếp tục lên tiếng ủng hộ nhân dân Việt Nam và kịp thời hành động để chặn bàn tay phát xít và gây chiến của Mỹ - Diệm.
- Kêu gọi những người trong quân đội và chính quyền miền Nam hãy nhận rõ âm mưu đầy tội ác của Mỹ - Diệm và không nên tiếp tục đi theo con đường cướp nước và bán nước của Mỹ - Diệm, hãy cùng với nhân dân toàn quốc bền bỉ phấn đấu chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm, hãy nhận rõ rằng chính sách đàn áp khủng bố khốc liệt của Mỹ - Diệm không những chỉ nhằm đánh vào những người yêu nước tán thành hòa bình thống nhất ở miền Nam mà còn nhằm cả những người không ăn cánh với gia đình Diệm trong chính quyền và quân đội miền Nam.
Thưa các vị đại biểu,
Thưa các đồng chí,
Nhân dân ta luôn luôn yêu chuộng hòa bình, kiên quyết đấu tranh buộc chính quyền miền Nam phải từ bỏ chính sách lệ thuộc vào Mỹ, từ bỏ chính sách gây chiến và khủng bố tàn sát đồng bào miền Nam. Nhân dân ta kiên quyết đấu tranh đòi chính quyền miền Nam thi hành đúng Hiệp định Giơnevơ, phải lập lại quan hệ bình thường Bắc Nam, phải hiệp thương bàn việc tổng tuyển cử thống nhất nước nhà theo các đề nghị hợp tình hợp lý của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong các công hàm ngày 7-3 và 22-12-1958.
Trong khi trên thế giới, những thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của phong trào hòa bình dân chủ và độc lập dân tộc đang dồn dập, thì bọn Mỹ - Diệm ở miền Nam lại thiết lập ra một chế độ nô lệ, hiếu chiến, phát xít, phục thù, khủng bố dã man như thời Trung cổ. Một chế độ như thế nhất định phải bị lên án và sụp đổ. Dân tộc Việt Nam ta, một thời kỳ dài đằng đẵng đã đổ bao nhiêu xương máu để giành lấy độc lập tự do, hạnh phúc cho mình, nay một nửa nước, một nửa dân tộc bị bọn đế quốc Mỹ và bọn tay sai Ngô Đình Diệm dày bừa chà đạp, dìm trong nước sôi lửa bỏng. Hành động tội ác ấy của chúng nhất định không thể nào tha thứ được, nhất định chúng ta phải cương quyết cùng với đồng bào miền Nam đấu tranh chống lại.
Chúng ta tin tưởng sắt đá rằng cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng và bền bỉ của đồng bào miền Nam nhất định sẽ thắng lợi, cuộc đấu tranh kiên quyết và bền bỉ của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam đứng đầu là Hồ Chủ tịch, được sự ủng hộ và đồng tình của nhân dân thế giới, cuối cùng sẽ đánh bại được âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng ở miền Nam để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
- Đả đảo Mỹ - Diệm khủng bố tàn sát đồng bào yêu nước ở miền Nam!
- Chính quyền miền Nam phải thủ tiêu ngay "Đạo luật 10 - 59”!
- Đả đảo Mỹ - Diệm đầu độc và thảm sát hơn nghìn đồng bào yêu nước ở trại tập trung Phú Lợi!
- Phản đối chính sách tăng cường quân sự chuẩn bị chiến tranh của Mỹ - Diệm!
- Phản đối Mỹ - Diệm khủng bố đồng bào miền núi Liên khu V!
- Giải tán các phái đoàn quân sự Mỹ ở miền Nam!
- Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam!
- Yêu cầu Ủy ban Quốc tế mở cuộc điều tra đầu độc ở trại giam Phú Lợi và các vụ khủng bố những người kháng chiến cũ!
- Chính quyền miền Nam phải trả lời bức công hàm ngày 7-3 và ngày 22/12/1958 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Tích cực xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà!
- Nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm!
Báo Cứu quốc, số 2914,
ngày 31-5-1959.
DIỄN VĂN KHAI MẠC KỲ HỌP LẦN THƯ 11 QUỐC HỘI KHÓA I (18-12-1959)
(Trích)
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Tôi xin thay mặt Ban Thường trực Quốc hội hoan nghênh các vị đại biểu đã về dự Hội nghị đông đủ và xin gởi tới các vị lời chào nồng nhiệt và thân ái nhất.
Kỳ họp lần thứ 11 của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hôm nay tiến hành trong những ngày cuối của năm 1959 là năm bản lề của kế hoạch 3 năm. Tiếp tục đà chuyển biến cách mạng từ giữa năm 1958, miền Bắc nước ta đang tiến với một nhịp độ mạnh mẽ và vững chắc trong công cuộc phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa theo đúng phương hướng của các nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14 và lần thứ 16 và các nghị quyết của Quốc hội kỳ họp thứ 9 và kỳ họp thứ 10. Chúng ta đã vượt được nhiều khó khăn và thu được nhiều thành tích to lớn về mọi mặt. Những thắng lợi mà nhân dân ta thu được trong năm nay sẽ là một cái đà thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch năm 1960 và có ảnh hưởng tốt đến kế hoạch dài hạn sau này.
Trong lúc nhân dân miền Bắc sau một năm lao động sản xuất, tích cực xây dựng và đấu tranh thống nhất nước nhà, thì ở miền Nam phong trào đấu tranh đòi thống nhất Tổ quốc, đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống ngày càng phát triển lên cao, mặc dù chính quyền Mỹ - Diệm liên tiếp đàn áp và khủng bố dã man. Nhân dân miền Nam, hàng ngày hướng về miền Bắc của Tổ quốc, hướng về chế độ tốt đẹp của chúng ta, một lòng tin tưởng vào những ngày mai tươi sáng. Hiện nay, bọn đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm đang dùng đủ âm mưu quỷ kế, hòng lung lạc tinh thần của đồng bào ta, hòng dập tắt ngọn lửa đấu tranh của nhân dân miền Nam, nhưng chắc chắn chúng sẽ thất bại như chúng đã thất bại từ trước đến nay. Đồng bào miền Nam vốn có một quá khứ anh dũng nhất định sẽ không khi nào chịu khuất phục, thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ về nhân dân Việt Nam. Chúng ta hãy nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần đấu tranh bền bỉ và vô cùng anh dũng của đồng bào miền Nam.
Trên thế giới Liên Xô thành công trong việc phóng tên lửa lên mặt trăng, mở đầu một kỷ nguyên mới trong việc nghiên cứu chinh phục vũ trụ. Thắng lợi này đã nêu cao tính chất hơn hẳn của nền khoa học Liên Xô. Tương quan lực lượng đã nghiêng hẳn về phe xã hội chủ nghĩa. Do cố gắng của Liên Xô, của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, và của tất cả một lực lượng yêu chuộng hòa bình, nhân loại có triển vọng đẩy lùi lực lượng gây chiến, bảo vệ hòa bình.
Kỳ họp của chúng ta lần này, dựa trên cơ sở những thành tích đã đạt được, trong đà phát triển của tình hình chung, Quốc hội ta sẽ bàn đến một số vấn đề lớn, quan hệ mật thiết đến đời sống của nhân dân ta.
Trước hết Quốc hội sẽ thảo luận và thông qua bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiếp đó Quốc hội sẽ thảo luận và thông qua các đạo luật về tuyển cử Quốc hội, về hôn nhân và gia đình, và sau nữa, căn cứ theo báo cáo của Chính phủ, Quốc hội sẽ tổng kết công tác nhà nước năm 1959, và quyết định phương hưởng công tác năm 1960.
Việc Quốc hội thông qua Hiến pháp mới là một sự kiện vô cùng quan trọng trong đời sống về mọi mặt của nhân dân ta. Bản hiến pháp mới - kết tinh của bao nhiêu thắng lợi của nhân dân ta từ Cách mạng Tháng Tám tới nay và đã được đông đảo nhân dân tham gia ý kiến - sẽ là mẫu mực để tổ chức đời sống của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Được là những người sẽ thông qua đạo luật cơ bản này của nước nhà, chúng ta mang cả một nhiệm vụ quang vinh.
Thông qua luật tuyển cử Quốc hội, chúng ta sẽ chuẩn bị cho việc bầu cử lại Quốc hội, làm cho Quốc hội ta đổi mới và tham mạnh mẽ, phù hợp với yêu cầu của giai đoạn kiến thiết chủ nghĩa xã hội hiện tại. Việc làm này sẽ có tác dụng phát triển thêm một mức chế độ dân chủ của ta.
Việc thông qua Luật hôn nhân và gia đình cũng có một ý nghĩa to lớn, nó tỏ rõ sự tốt đẹp của chế độ ta, nó sẽ đáp ứng nguyện vọng của toàn thể nhân dân ta nhất là các thanh niên nam nữ đang giữ một vai trò quan trọng trong lao động sản xuất, xây dựng Tổ quốc.
Tổng kết công tác Nhà nước năm 1959 và quyết định phương hướng công tác năm 1960, nhân dân ta sẽ đánh giá đúng những thành tích đã thu được và rút ra những kinh nghiệm của việc thực hiện kế hoạch nhà nước một năm qua, đồng thời sẽ thấy rõ nhiệm vụ và con đường đi của mình trong năm tới đặng hoàn thành tốt đẹp kế hoạch ba năm.
Nội dung của kỳ họp chúng ta lần nay quan trọng như thế, các cuộc thảo luận trong kỳ họp này, và những ý kiến đóng góp của mỗi đại biểu, sẽ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả của kỳ họp.
Tôi tin chắc rằng, đã sẵn có một ý thức đầy đủ về nhiệm vụ nặng nề và quang vinh của mình, các vị đại biểu sẽ làm việc với một nhiệt tình sôi nổi, với sự nhận xét sâu sắc và thận trọng để bồi bổ cho các bản dự thảo, các đề án sẽ được trình bày trước Quốc hội.
.....
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Tất cả công tác của chúng ta không có gì ngoài mục đích đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần bảo vệ hòa bình ở châu Á và trên thế giới.
Trước những thắng lợi của nhân dân ta trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước, trên đà phát triển thuận lợi của tình hình thế giới, các đại biểu chúng ta sẽ làm việc với tinh thần phụ trách trước nhân dân, để đạt nguyện vọng của nhân dân trước Quốc hội, đem hết hiểu biết và kinh nghiệm của mình góp phần tích cực xây dựng Hội nghị.
Tôi xin chúc các vị đại biểu Quốc hội thành công, chúc kỳ họp thứ 11 của Quốc hội thắng lợi.
Sách Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980),
Sở Văn hóa thông tin An Giang, 1988, tr. 232-235.
BA MƯƠI NĂM XÂY DỰNG MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT CỦA ĐẢNG
Mọi người đều biết Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đã đảm nhiệm sứ mệnh nặng nề của lịch sử cách mạng Việt Nam giao phó cho: sứ mệnh lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng đánh đổ đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
Vận dụng sáng tạo chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, ngay từ khi thành lập đã đặt chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất lên hàng quan trọng. Ba mươi năm lịch sử của Đảng một phần lớn cũng là ba mươi năm phấn đấu xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất.
*
* *
Năm 1930, cuộc Hội nghị thành lập Đảng đã nêu rõ chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi trên cơ sở công nông liên minh do giai cấp công nhân lãnh đạo. Từ đó đến nay, căn cứ tình hình và nhiệm vụ cách mạng từng thời gian, Đảng đã lần lượt chủ trương thành lập các tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất và thi hành những chính sách cụ thể thích hợp từng thời kỳ để không ngừng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc.
Năm 1931, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận phản đế đồng minh, nhằm tập hợp tất cả những lực lượng phản đế ở Đông Dương để lật đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Đông Dương, để giành lại độc lập cho đất nước. Đảng là chính đảng đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam đã nêu khẩu hiệu “liên minh công nông", "ruộng đất về tay dân cày", và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng đã huy động được quần chúng công nông rộng rãi và nhiều tầng lớp nhân dân khác từ Bắc chí Nam tham gia đấu tranh.
Năm 1936, phát xít Đức, Ý, Nhật chuẩn bị gây Chiến tranh thế giới lần thứ hai, phát xít Nhật lăm le xâm lược Đông Dương. Ở Pháp, Mặt trận nhân dân do Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo lên nắm chính quyền chủ trương bảo vệ quyền lợi nhân dân thuộc địa, nhưng bọn thực dân Pháp ở Đông Dương vẫn không chịu thay đổi chính sách. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3-1936 chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ để liên hiệp rộng rãi các giai cấp các đảng phái và tất cả các phần tử tiến bộ trong nước để chống chiến tranh phát xít xâm lược, đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân. Kết quả chủ yếu của phong trào Mặt trận dân chủ là đã tập hợp và giác ngộ quần chúng rộng rãi, củng cố thêm một bước khối công nông liên minh, do đó mở rộng được nhanh chóng các lực lượng yêu nước, tiến bộ, tranh thủ được thêm nhiều tầng lớp trung gian. Thắng lợi đó có ý nghĩa to lớn và sâu sắc đối với việc mở rộng và củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và đối với bước tiến lên mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam sau này.
Giữa năm 1940, phátxít Nhật kéo quân vào Đông Dương cùng thực dân Pháp đua nhau áp bức bóc lột, các từng lớp nhân dân ta. Trước tình hình đó, Đảng nhận định: nhiệm vụ cấp bách của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, và đề ra chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết toàn dân chống Nhật, chống Pháp giành độc lập. Với Mặt trận Việt Minh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công. Nhưng sau đó, thực dân Pháp trở lại xâm lược miền Nam, quân dội Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc giúp bọn phản động Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh hoạt động mưu lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trước hoàn cảnh rất khó khăn đó, Đảng chủ trương thành lập Hội Liên Việt, bao gồm cả các tổ chức Việt Minh và nhiều tổ chức mới, nhằm tăng cường đoàn kết giữ vũng chính quyền cách mạng làm cho quân đội Tưởng phải rút khỏi Việt Nam, và bọn tay sai của chúng phải thất bại nhục nhã. Trong khi đó, thực dân Pháp điên cuồng gây chiến tranh toàn quốc, dùng đủ mọi âm mưu thâm độc để chia rẽ nhân dân ta. Nhưng nhờ thi hành nhiều chính sách cụ thể để không ngừng củng cổ và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, đánh tan âm mưu chia rẽ của đế quốc, Đảng đã thực hiện được khối đoàn kết toàn dân vững chắc, triệu người một lòng, kiên quyết kháng chiến bảo vệ Tổ quốc cho đến thắng lợi Giơnevơ.
Hòa bình lập lại, để tăng cường và mở rộng đoàn kết hơn nữa, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với phương châm “đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn kết được tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập được, cố nhằm phân hóa kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng, đồng thời kiếm thêm nhiều bạn ở trong nước và ngoài nước".
Thực tiễn cách mạng trong gần 5 năm qua đã chứng tỏ rằng Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc là chương trình hành động chung cho toàn thể dân tộc ta nhằm phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Ngay từ khi ra đời, bản Cương lĩnh đã được mọi tầng lớp nhân dân từ Bắc chí Nam, từ thôn quê đến thành thị, từ vùng tự do đến vùng mới giải phóng nhiệt liệt hưởng ứng.
Dưới ánh sáng của bản Cương lĩnh này, nhân dân Việt Nam, đồng bào trong cả nước, kiều bào ở nước ngoài đã giương cao ngọn cờ vì hòa bình và thống nhất, kiên quyết đấu tranh chống Mỹ - Diệm.
Cũng như trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Đảng vẫn cho rằng liên minh công nông là vấn đề then chốt trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Muốn tăng cường liên minh công nông, Đảng chủ trương đưa nông dân tiến vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, bằng con đường hợp tác hóa nông nghiệp, cải tiến kỹ thuật canh tác và đẩy mạnh tăng gia sản xuất nông nghiệp để vĩnh viễn giải phóng nông dân khỏi số phận nghèo khổ lạc hậu ngàn năm. Đảng cũng rất coi trọng vai trò của trí thức. Đảng chủ trương đoàn kết, bồi dưỡng và cải tạo trí thức cũ và đào tạo trí thức mới và làm cho hàng ngũ trí thức ngày thêm đông đảo, đủ sức đủ tài để phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ bóc lột tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ giai cấp tư sản. Căn cứ hoàn cảnh nước ta và căn cứ tính chất riêng biệt của giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, Đảng chủ trương trong cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục coi giai cấp tư sản là một thành viên của nhân dân, của Mặt trận dân tộc thống nhất, và dùng phương pháp hòa bình để cải tạo họ.
Từ trước đến nay, Đảng vẫn đánh giá rất đúng vai trò các đảng phái, các nhân sĩ dân chủ trong việc đoàn kết tranh thủ giới trí thức và giai cấp tư sản dân tộc. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng chủ trương tiếp tục giúp đỡ các đảng phái, các nhân sĩ dân chủ phát huy tác dụng ấy của họ và cùng họ thành thật đoàn kết, hợp tác lâu dài trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đối với các tôn giáo, Đảng chủ trương thi hành chính sách tự do tín ngưỡng, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống bọn phản động tay sai của đế quốc đội lốt tôn giáo, nhất thiết không để chúng lừa bịp quần chúng.
Đối với các dân tộc thiểu số, Đảng nghiêm chỉnh thi hành chính sách đoàn kết, bình đẳng, tương trợ", vừa tôn trọng các phong tục tập quán các dân tộc, vừa kiên trì áp dụng chính sách cải cách dân chủ ở vùng dân tộc thiểu số để giúp đỡ các dân tộc trong nước ta cùng nhau đoàn kết tiến bộ. Ngoài ra, từ khi cách mạng thắng lợi, trong kháng chiến cũng như trong những năm hòa bình, Đảng luôn luôn cố gắng xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hợp tác thân ái giữa người trong Đảng và người ngoài Đảng làm việc trong các ngành hoạt động của Nhà nước và của Mặt trận.
Với những chính sách sáng suốt ấy của Đảng, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất không những không bị thu hẹp, ngược lại còn mở rộng và củng cố thêm, và nhờ đó miền Bắc, một nửa Tổ quốc chúng ta đang vững bước tiến nhanh trên con đường rộng rãi của chủ nghĩa xã hội. Quá trình 30 năm xây dựng khối đoàn kết dân tộc là một cống hiến vĩ đại của Đảng, của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam, là một thành công to lớn của Đảng và của cả dân tộc ta.
Tại sao Đảng của giai cấp công nhân lại có thể thực hiện được chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất tốt đẹp như vậy? Chúng ta có thể kể ra nhiều nguyên nhân quan trọng. Nhưng trong những nguyên nhân ấy, điểm cốt yếu nhất là Đảng của giai cấp công nhân, là Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đã có lập trường dân tộc, lập trường cách mạng đúng đắn nhất.
Lập trường ấy thể hiện trong đường lối cách mạng và các chính sách sáng suốt của Đảng, trong các chương trình vận động Mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ, bao trùm và hợp nhất được ý chí nguyện vọng và quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Sống trong chế độ đen tối của đế quốc và phong kiến, các tầng lớp nhân dân ta đều nhìn thấy rõ tương lai tươi đẹp của mình trong con đường cách mạng do Đảng vạch ra, nên đã kiên quyết bước theo ngọn cờ cách mạng của Đảng.
Lập trường của Đảng lại thể hiện trong tinh thần chiến đấu vô cùng bền bỉ và kiên quyết nhất của những người đảng viên của Đảng cho sự nghiệp giải phóng của Tổ quốc và nhân dân. Tinh thần dũng cảm và ý chí kiên quyết cách mạng của những người đảng viên của Đảng đã hấp dẫn cả dân tộc ta đứng lên theo Đảng làm cách mạng và đã đem lại cho nhân dân ta, ngay cả trong những giờ phút khó khăn và đen tối của lịch sử, niềm tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
Những nhân tố căn bản ấy đã làm cho uy tín chính trị của Đảng trở nên rất to, kết tinh vào người đảng viên sáng suốt nhất, người lãnh tụ vĩ đại của nhân dân và dân tộc ta: Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó làm cho mọi người dễ hiểu tại sao toàn dân ta hoàn toàn tin cậy ở Đảng, coi Đảng là ngọn cờ giải phóng của dân tộc, vị cứu tinh của nhân dân và ra sức đoàn kết lại trong một mặt trận chính trị rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng của Tổ quốc, của nhân dân.
Báo Cứu quốc, số 2945,
Ngày 6-1-1960.
THƯ CHÚC TẾT ĐỒNG BÀO MIỀN NAM NHÂN DỊP XUÂN CANH TÝ 1960
Đồng bào miền Nam thân mến,
Nhân ngày Tết đến, thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi xin gởi đến đồng bào lời thăm hỏi thân thiết nhất.
Như đồng bào đã biết trong mấy năm qua, cứ mỗi lần xuân tới, cùng với muôn hoa nở, nhân dân ta ở miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hồ Chủ tịch, lại tiến lên giành thêm nhiều thắng lợi huy hoàng, làm cho đất nước thêm giàu đẹp, đời sống nhân dân thêm no ấm, vui tươi. Trong khi đó, cảnh sống của đồng bào ruột thịt ở miền Nam thì mỗi ngày càng thêm điêu đứng và đau thương dưới chế độ đầy tội ác của Mỹ - Diệm.
Hiện nay, trong khi ở miền Bắc, nhân dân ta đang tưng bừng đón mừng một năm mới đầy ý nghĩa lớn lao, đang phấn khởi vươn lên để miền Bắc tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội phồn vinh và hạnh phúc, để mừng Hiến pháp mới vừa được công bố, mừng Đảng 30 tuổi, mừng chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 15 tuổi và mừng thọ Hồ Chủ tịch 70 tuổi, thì đồng bào ở miền Nam ta chịu đựng bao cảnh đàn áp, khủng bố hung tàn của bè lũ cướp nước và bán nước.
Giữa ngày đầu xuân tươi đẹp ở miền Bắc, thông cảm sâu sắc với nỗi niềm đau đớn của đồng bào ở miền Nam, tôi nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần đoàn kết đấu tranh bền bỉ và anh dũng của đồng bào.
Tôi chúc đồng bào một năm mới mạnh khỏe, để tiếp tục thắt chặt đoàn kết, kiên quyết bền gan phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tôi tin chắc chắn rằng Tổ quốc thân yêu của chúng ta nhất định sẽ thống nhất sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh nhất định sẽ thành công.
Sách Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888-1980),
Sở Văn hóa thông tin An Giang, 1988, tr. 236-237.
VẤN ĐỀ MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT12
Thưa các đồng chí,
Tôi hoàn toàn tán thành bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, do đồng chí Lê Duẩn trình bày, bản Dự thảo Điều lệ mới của Đảng, do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày, bản dự thảo Nhiệm vụ và phương hướng kế hoạch 5 năm, do đồng chí Nguyễn Duy Trinh trình bày.
Ở đây, tôi xin nói thêm về công tác mặt trận của Đảng ta.
Căn cứ vào chủ nghĩa Mác - Lênin và hoàn cảnh Việt Nam, Đảng ta từ khi mới thành lập đã chủ trương lập Mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên nền tảng liên minh công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng, để tập hợp các lực lượng cách mạng, đồng thời phân hóa, cô lập kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất, cuối cùng đánh đổ kẻ thù chung của cách mạng.
Trong những năm 1930-1931, Đảng ta lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương, xây dựng được khối liên minh công nông, nhằm đánh đổ chủ nghĩa đế quốc xâm lược và giai cấp phong kiến, đã đưa quần chúng tiến tới cao trào cách mạng.
Trong những năm 1936-1939, Đảng ta lập Mặt trận dân chủ Đông Dương dựa vào lực lượng công nông, tranh thủ các tầng lớp trên, nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đòi hòa bình, cơm áo và tự do, đã làm cho phong trào cách mạng phát triển rộng rãi.
Năm 1941, Đảng ta lập Mặt trận Việt Minh, tập hợp quần chúng cách mạng ngày càng đông đảo, nhằm đánh đổ để quốc Pháp - Nhật, đã dẫn tới Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tạo điều kiện cho kháng chiến thắng lợi.
Năm 1946, Đảng ta lập Hội Liên - Việt và năm 1951 thống nhất Việt Minh - Liên Việt thành Mặt trận Liên - Việt, đã đoàn kết được toàn dân, huy động được mọi lực lượng kháng chiến, đánh bại được thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ, giải phóng được hoàn toàn miền Bắc, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Từ năm 1955, đến nay, Đảng ta lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mở rộng thêm khối đoàn kết dân tộc, chống đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam và bọn tay sai của chúng, để thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới ở miền Bắc, thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Lịch sử đã chứng tỏ một trong những nhân tố thắng lợi của cách mạng nước ta là việc lập Mặt trận dân tộc thống nhất. Chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh câu nói của đồng chí Hồ Chí Minh kính mến, có tính chất đúc kết về chính sách Mặt trận của Đảng ta:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!”.
Từ ngày hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đã hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng miền Nam vẫn còn ở dưới ách đế quốc, phong kiến, cụ thể là dưới ách bọn Mỹ - Diệm hiếu chiến, trước tình hình ấy, bản báo cáo chính trị nêu lên nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn này là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới". Đó là chủ trương đúng đắn và phù hợp với tình hình nước ta, phù hợp với hoàn cảnh quốc tế hiện nay.
Muốn làm tốt được nhiệm vụ cách mạng to lớn và quang vinh ấy, toàn dân ta phải tăng cường đoàn kết. Tôi rất đồng ý trong bản Báo cáo chính trị nói rằng: “Muốn củng cố hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân ta, cần phải tăng cường công tác Mặt trận".
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam của chúng ta hiện nay nói chung là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhưng vì nước ta còn tạm thời bị chia làm hai miền Nam - Bắc, mỗi miền có một nhiệm vụ cách mạng khác nhau cho nên Mặt trận ở miền Nam thực chất là Mặt trận dân tộc dân chủ, còn Mặt trận ở miền Bắc thực chất là Mặt trận yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội.
Mặt trận ở miền Nam, đứng về giai cấp mà nói, bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc; cụ thể là công nhân, nông dân những người làm nghề thủ công buôn bán nhỏ, dân nghèo thành thị, trí thức, tư sản dân tộc, dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số, các đảng phái, các tôn giáo yêu nước và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mặt trận ở miền Nam muốn vững mạnh, tất nhiên phải theo nguyên tắc dựa trên nền tảng liên minh công nông và dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Công nhân, nông dân là lực lượng cách mạng to lớn và vững chắc nhất. Bên cạnh đó, còn có binh lính, tuy phần đông cũng từ công nông và quần chúng lao khổ mà ra, nhưng trong tay cầm vũ khí và đang bị bọn Mỹ - Diệm lợi dụng để đàn áp cách mạng, là lực lượng cần hết sức chú ý. Cho nên, trong công tác mặt trận ở miền Nam phải dựa trên khối liên minh của quần chúng công nông cách mạng mà tiến hành vận động liên hiệp công, nông, binh để chống lại bọn Mỹ - Diệm một cách sắc bén.
Trước những hành động hiếu chiến, độc tài phát xít, bóc lột tàn tệ nhân dân và chia cắt lâu dài đất nước ta của bọn Mỹ - Diệm, bản Báo cáo chính trị đã nêu rất đúng mục tiêu đấu tranh của Mặt trận dân tộc thống nhất ở miền Nam là hòa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải thiện dân sinh và hòa bình thống nhất đất nước. Công tác mặt trận ở miền Nam phải rất linh hoạt, để đoàn kết tất cả lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ bất cứ lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung lập, thu hút được đông đảo lực lượng và phong trào đấu tranh chung chống Mỹ - Diệm. Đó là một Mặt trận rộng rãi với những hình thức đấu tranh sinh động để tiến tới hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Còn Mặt trận ở miền Bắc hiện nay, bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc tiếp thụ cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trong các giai cấp ấy, có cả các dân tộc, các tôn giáo, các chính Đảng, các đoàn thể, ngoài ra còn có các nhân sĩ tiến bộ. Mục tiêu đấu tranh của Mặt trận ở miền Bắc là chủ nghĩa xã hội và hòa bình thống nhất nước nhà.
Như vậy, Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thông qua năm 1955 phải được áp dụng ở miền Nam và miền Bắc như thế nào?
Theo ý tôi, Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nêu mục tiêu phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đó là mục tiêu chung cho cả nước từ Nam đến Bắc. Miền Nam thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là nhằm đi tới mục tiêu chung ấy. Vì tình hình hai miền khác nhau, cho nên miền Nam căn cứ tinh thần Cương lĩnh chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mà đề ra Cương lĩnh riêng thích hợp với tình hình miền Nam. Còn ở miền Bắc, Cương lĩnh chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được thể hiện trong bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được công bố ngày 1 tháng 1 năm 1960, rất thích hợp với tình hình miền Bắc.
Duy vấn đề thống nhất nước nhà nêu trong Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì cả miền Nam, miền Bắc đều vẫn coi là một điểm cương lĩnh cụ thể của mình. Chúng ta chủ trương hòa bình, thống nhất nước nhà cho nên chúng ta tán thành nguyên tắc: hai miền cùng bàn bạc, cùng thỏa thuận, không bên nào cưỡng ép và thôn tính bên nào, như trong Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, lâu dài, gian khổ và phức tạp chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Nếu chúng ta đồng ý với nhận định trong bản Báo cáo chính trị: trên bước đường đấu tranh của nhân dân ta có thể nảy ra những hình thức thống nhất nước nhà từng bước, thì cách thức thống nhất nước nhà như trong Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nêu ra là một trong những bước ấy.
Tôi xin nói đến các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận ở miền Bắc.
Chúng ta trước sau vẫn nhận định rằng: bên cạnh giai cấp công nhân, có giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số trong nhân dân là lực lượng to lớn của cách mạng. Để củng cố khối liên minh công nông, Đảng ta đã tiến hành cải cách ruộng đất, đánh đổ giai cấp địa chủ, đem lại ruộng đất cho nông dân, giúp đỡ nông dân tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống và đang đưa nông dân để vào con đường hợp tác hóa nông nghiệp. Chúng ta dựa hẳn vào bần cố nông trước kia và bần nông, trung nông lớp dưới ngày nay, đồng thời chúng ta rất chú ý tranh thủ đoàn kết trung nông và thi hành chính sách cải tạo tốt với phú nông. Nông dân ta rất tin tưởng vào Đảng ta, nhưng chúng ta không thể nóng vội và không thể dùng mệnh lệnh đối với nông dân, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục để đưa nông dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những người làm nghề thủ công, buôn bán nhỏ và lao động riêng lẻ khác cũng là bạn gần gũi của giai cấp công nhân. Chúng ta cần chú ý công việc làm và đời sống của họ, tiếp tục đưa họ vào con đường hợp tác hóa và giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa của họ.
Trí thức có vai trò quan trọng trong cách mạng dân tộc dân chủ, càng quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã thực hiện chính sách đoàn kết cải tạo trí thức cũ là những người phần đông xuất thân từ giai cấp phong kiến, tư sản và tiểu tư sản lớp trên, được rèn luyện trong hệ tư tưởng tư sản ở các nhà trường của đế quốc thực dân, và chúng ta đào tạo trí thức mới là những người xuất thân từ gia đình công nông, nhân dân lao động và cán bộ cách mạng. Từ nay, chúng ta vẫn tiếp tục chính sách đó để mau chóng có một đội ngũ trí thức đông đảo phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trung thành với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động với sự nghiệp xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản dân tộc ở nước ta bị đế quốc đè nén và phong kiến chèn ép nên cũng có tinh thần dân tộc dân chủ trên một chừng mực nhất định. Vì lợi ích cách mạng, chúng ta đã tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong khi cùng đi với giai cấp công nhân trên con đường cách mạng, giai cấp tư sản dân tộc với bản chất của mình thường dễ dao động, dễ thỏa hiệp cải lương, luôn luôn muốn phát triển chủ nghĩa tư bản, chúng ta phải vừa đoàn kết, vừa đấu tranh với họ. Từ ngày miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, với điều kiện giai cấp tư sản dân tộc vốn nhỏ yếu, giai cấp công nhân giờ địa vị lãnh đạo cách mạng có chính quyền dân chủ nhân dân, có lực lượng kinh tế quốc doanh vững mạnh, với hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, chủ nghĩa xã hội đã thành một hệ thống thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ và vượt chủ nghĩa tư bản, có ảnh hưởng tốt đến tình hình nước ta, chúng ta đã áp dụng chính sách hòa bình cải tạo đối với giai cấp tư sản dân tộc, coi giai cấp tư sản dân tộc vẫn là một thành phần trong nhân dân, một thành viên trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Làm như thế có lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, có lợi đấu tranh thống nhất nước nhà. Thực tế chứng tỏ chính sách của chúng ta là đúng. Giai cấp tư sản dân tộc, nói chung chịu tiếp thu chính sách đó của chúng ta. Cho đến nay, có thể nói, việc cải tạo giai cấp tư sản dân tộc về kinh tế đã căn bản hoàn thành. Đó là một thắng lợi lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên chúng ta còn để cho người tư sản dân tộc lĩnh một số lãi và việc cải tạo tư tưởng đối với giai cấp tư sản dân tộc mới chỉ là bước đầu. Chúng ta còn phải giúp đỡ người tư sản dân tộc tiếp tục cải tạo để hoàn thành việc xóa bỏ giai cấp tư sản và làm cho người tư sản dân tộc trở thành người lao động chân chính trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đảng Dân chủ Việt Nam tiêu biểu cho xu hướng tiến bộ trong một lớp người tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên và Đảng Xã hội Việt Nam tiêu biểu cho xu hướng tiến bộ trong một số trí thức lớp lên từ trước đến nay đi theo đường lối cách mạng do Đảng ta vạch ra. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, hai Đảng đã có góp phần cống hiến quan trọng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng Dân chủ đã góp phần giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc tiếp thu chính sách cải tạo của Đảng ta, Đảng Xã hội đã góp phần giúp đỡ anh chị em trí thức tự cải tạo và phục vụ chủ nghĩa xã hội. Từ nay về sau, hai Đảng vừa tự rèn luyện mình theo chủ nghĩa xã hội, vừa tiếp tục giúp đỡ những tầng lớp tư sản, trí thức mà mình có liên hệ. Sự tồn tại của hai Đảng có tác dụng tốt đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Chúng ta trước sau như một, giữ tình đoàn kết anh em với hai Đảng: Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam, cùng hai Đảng hợp tác lâu dài giúp đỡ lẫn nhau trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đất nước ta đại bộ phận là rừng núi. Các dân tộc miền núi giữ vai trò quan trọng về địa lý, kinh tế, chính trị và có lịch sử cách mạng vẻ vang. Chúng ta phản đối sự chia rẽ dân tộc, phản đối chủ nghĩa dân tộc lớn, coi thường dân tộc nhỏ. Chính sách của chúng ta là đoàn kết các dân tộc, bình đẳng giữa các dân tộc, các dân tộc giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ. Dân tộc Kinh phải tích cực và thân ái giúp đỡ các dân tộc miền núi để các dân tộc anh em mau chóng tiến kịp với đà tiến bộ chung. Khu tự trị Tây Bắc, Khu tự trị Việt Bắc được thành lập và việc cải cách dân chủ ở miền núi đã thể hiện chính sách dân tộc của Đảng ta. Song chúng ta còn phải ra sức khắc phục những khuyết điểm, nhược điểm trong khi thực hiện chính sách dân tộc để công tác dân tộc của chúng ta ngày càng thu được kết quả tốt.
Nước ta có nhiều tôn giáo: đạo Phật, đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Cao đài, đạo Hòa hảo. Bọn đế quốc thường gây ra thù hằn, chia rẽ giữa các tôn giáo với nhau, và lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng. Chúng ta là những người theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta là không theo tôn giáo nào, nhưng chúng ta biết rằng tôn giáo là một vấn đề xã hội tồn tại lâu dài, cho nên chúng ta tôn trọng sự tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của mọi người. Chúng ta có thiện cảm với những nhà hoạt động tôn giáo yêu nước, yêu hòa bình, tán thành chủ nghĩa xã hội, đồng thời chúng ta không dung thứ những kẻ đội lốt tôn giáo để làm tay sai cho đế quốc. Mấy năm nay, ở miền Bắc, chúng ta đã tăng cường đoàn kết lương giáo và tăng cường đoàn kết với các tôn giáo khác. Khi làm công tác, các đồng chí ta biết lấy việc dựa vào quần chúng cơ bản, đoàn kết quần chúng cơ bản làm chủ yếu, đồng thời chú ý tranh thủ tầng lớp trên. Chúng ta sẽ tiếp tục làm như thế và cố gắng làm ngày càng tốt hơn.
Những nhân sĩ dân chủ nước ta thuộc tầng lớp trên của xã hội kể cả bên lương, bên giáo và trong các dân tộc miền núi. Đối với họ, trước đây chúng ta đã tranh thủ được sự tán thành cách mạng dân tộc dân chủ, ngày nay chúng ta lại tranh thủ được sự tán thành chủ nghĩa xã hội và hòa bình thống nhất nước nhà. Chúng ta tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ để có lợi cho cách mạng.
Việt kiều ở nước ngoài đã từng hướng về Tố quốc, hướng về miền Bắc và Hồ Chủ tịch. Chính sách của chúng ta bây giờ cũng như trước đây là phải đoàn kết đồng bào trong cả nước và kiều bào ở nước ngoài ủng hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều, khuyến khích Việt kiều ở các nước xã hội chủ nghĩa, tích cực tham gia công cuộc kiến thiết ở nước bạn.
Khuyến khích Việt kiều ở những nước khác tôn trọng pháp luật và phong tục địa phương, tăng cường hữu nghị với nhân dân nước mình cư trú; chúng ta hoan nghênh Việt kiều trở về miền Bắc tham gia kiến thiết Tổ quốc.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nói chung tiêu biểu cho thành phần của khối đại đoàn kết dân tộc, đã có tác dụng lớn đối với đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng miền Bắc vững mạnh. Chúng ta không ngừng củng cố và mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và phát huy tác dụng của nó. Về lề lối làm việc trong các Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng như trong các cơ quan, các xí nghiệp, đối với những công việc chung, chúng ta cần bàn bạc dân chủ với người ngoài Đảng, lắng nghe ý kiến của họ, ý kiến đúng chúng ta hoan nghênh, ý kiến sai chúng ta giải thích và chúng ta thực hiện phương pháp thân ái phê bình, tự phê bình trong nội bộ Mặt trận. Chính sách Mặt trận của Đảng thể hiện ở các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, công tác Mặt trận quán triệt tất cả các ngành các giới ở đâu các Đảng bộ các Đảng đoàn, các đồng chí ta chú ý đến chính sách Mặt trận đến công tác Mặt trận, thì ở đấy thường hoàn thành tốt được nhiệm vụ của Đảng, của đoàn thể, của Nhà nước giao cho. Làm trái lại, thì dễ mắc khuyết điểm, sai lầm có khi nghiêm trọng. Vì vậy chúng ta không thể không phê phán những tư tưởng xem nhẹ chính sách Mặt trận công tác Mặt trận.
Trong khi làm công tác Mặt trận, chúng ta cần chú ý:
1- Nêu cao sự lãnh đạo của Đảng. Quyền lãnh đạo của Đảng quyết không thể chia sẻ cho ai và quyết không thể làm lu mờ được. Vì thực tế ở nước ta đã chỉ rõ, chỉ có Đảng của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác - Lênin mới có đường lối cách mạng đúng đắn và kiên quyết dẫn dắt các bạn đồng minh đi tới đích. Đảng ta cần phải liên hệ tốt với quần chúng, cần phải đoàn kết chung quanh Đảng, các giai cấp, các tầng lớp nhân dân cách mạng hiểu rõ chỉ có tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng và đoàn kết chung quanh Đảng mới giành được thắng lợi.
2- Cần phải luôn luôn tăng cường liên minh công nông, dựa vào lực lượng công nông để tranh thủ các tầng lớp nhân dân khác. Nếu không như thế thì việc tranh thủ các tầng lớp trên sẽ gặp khó khăn, hoặc có tranh thủ được, Mặt trận cũng không có cơ sở vững chắc.
3- Công tác Mặt trận là một hình thức đấu tranh giai cấp đặc biệt, cho nên đối với các bạn đồng minh, phải vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, đoàn kết để giữ vững Mặt trận cách mạng, đấu tranh để đi đến đoàn kết cao hơn. Không thể đoàn kết một chiều thủ tiêu đấu tranh, cũng không thể đấu tranh vô nguyên tắc để ảnh hưởng xấu đến đoàn kết.
Thưa các đồng chí,
Mặt trận, một chính sách lớn, một công tác lớn, giữ một địa vị quan trọng trong đấu tranh cách mạng. Với thực tế của Việt Nam, với tinh thần bản Báo cáo chính trị của Trung ương Đảng, tôi tin rằng sau Đại hội này, công tác Mặt trận sẽ càng được quán triệt và tiến bộ hơn nữa.
Báo Nhân Dân, số 2369,
ngày 13-9-1960.
THƯ GỬI ĐỒNG BÀO MIỀN NAM NHÂN DỊP TẾT TÂN SỬU (1961)
Cùng đồng bào miền Nam thân mến,
Nhân dịp Tết Tân Sửu, tôi thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chúc đồng bào miền Nam một năm mới đoàn kết, phấn đấu tin tưởng và thắng lợi.
Tôi thay mặt nhân dân miền Bắc gửi làm quà chúc Tết đồng bào những thành tích tốt đẹp trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội: đó là thắng lợi hoàn thành kế hoạch 3 năm và bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, sức sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân ngày thêm cải thiện; gần hết nông dân ta đã vào hợp tác xã, các nhà tư sản dân tộc đã hợp doanh với Nhà nước để phục vụ cho quốc kế dân sinh, ích nước lợi nhà. Đồng bào miền Bắc đã gửi gắm trong những thắng lợi ấy tất cả nhiệt tình yêu nước, lòng tha thiết với sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Trong thắng lợi đó, có bàn tay cố gắng của anh chị em miền Nam tập kết, có cả bàn tay nhỏ bé của các cháu học sinh miền Nam rất đáng yêu.
Nam - Bắc cùng chung một đất nước. Từ xưa, Tết đã không riêng cho Nam hay Bắc, xuân không hề phân biệt Bắc hay Nam. Thế mà đã từ mấy xuân nay, ở miền Nam bọn Mỹ - Diệm cấm pháo giao thừa không được nổ, chúng lại tha hồ nổ súng ném bom, gây ra tang tóc, tù đày, cỏ cây cũng tan nát, cụ già, con nít đều đau thương, khiến cho bao nhiêu gia đình không được sum họp đón xuân.
Những tội ác chồng chất của Mỹ - Diệm như đổ dầu vào lửa, lửa căm thù càng cháy to. Cuộc đấu tranh của đồng bào chống Mỹ - Diệm, một cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng, đã có những bước tiến mới, ngày càng lan rộng từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng, bao gồm mọi hình thức từ thấp đến cao, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân, các dân tộc không phân biệt xu hướng chính trị, tín ngưỡng tôn giáo. Khí thế đấu tranh ngày càng mãnh liệt, làm cho nội bộ địch ngày càng mâu thuẫn nhau và làm cho nền thống trị của chúng đang bị lung lay tận gốc. Nhân dịp Tết này, tôi xin gửi lời nhiệt liệt hoan nghênh những thắng lợi và tinh thần quật cường bất khuất, lòng yêu nước nồng nàn của các tầng lớp nhân dân miền Nam ruột thịt.
Xuân năm nay ở miền Nam là mùa xuân năm mới đẩy mạnh đấu tranh, tôi thân ái chúc đồng bào đã anh dũng thêm anh dũng đã kiên quyết lại càng kiên quyết trên con đường giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Trong lời chúc đầu năm của Hồ Chủ tịch có câu:
“Chúc miền Nam đoàn kết tiến tới,
Chúc hòa bình thống nhất thành công”.
Xuân năm nay ở miền Nam, cây đoàn kết đã nảy lộc, nở hoa, Mặt trận đoàn kết dân tộc ngày thêm phát triển. Đoàn kết mới nhất định sẽ dân tới thắng lợi mới.
Thời đại chúng ta là thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của phong trào giải phóng dân tộc giành tự do dân chủ và bảo vệ hòa bình trên thế giới. Trong thời đại đó, cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta vì hòa bình, vì thống nhất Tổ quốc tuy còn khó khăn gian khổ nhưng nhất định thành công. Toàn thể đồng bào ta tin tưởng mãnh liệt, tiến tới một mùa xuân tươi sáng, một mùa xuân Bắc Nam sum họp một nhà.
Báo Cứu quốc, số 3001-3002,
Xuân Tân Sửu.
CHÀO MỪNG 45 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
Cùng với nhân dân Liên Xô và toàn thể nhân loại tiến bộ, nhân dân Việt Nam nhiệt liệt chào mừng ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười lần thứ 45. Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã đánh đổ Nhà nước tư sản, đồng thời tiêu diệt chế độ người bóc lột người trên một đất nước mênh mông chiếm một phần sáu diện tích thế giới. Cách mạng Tháng Mười là một bước ngoặt lớn của lịch sử nhân loại, mở đầu cho một thời đại mới, thời đại xã hội chủ nghĩa tiến lên cộng sản chủ nghĩa.
Những thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức vùng dậy đấu tranh giành tự do đã cổ vũ phong trào vô sản quốc tế. Vinh quang thay Cách mạng Tháng Mười!
45 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, nước Nga từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã trở thành một cường quốc công nghiệp và đứng đầu thế giới về mặt khoa học kỹ thuật chủ yếu nhất. Dân tộc Nga cùng các dân tộc anh em khác đã đoàn kết thành một khối và thành Liên bang Cộng hòa Xôviết vĩ đại.
Như mọi người chúng ta đều biết, chính bàn tay của nhân dân Xôviết - quê hương của Cách mạng Tháng Mười - đã lần đầu tiên trong lịch sử loài người, chế tạo ra nhà máy điện nguyên tử, tầu phá băng nguyên tử, vệ tinh của quả đất, hành tinh của mặt trời, những con tầu vũ trụ có người điều khiển phóng lên rồi lại trở về trái đất.
Cũng lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa cộng sản đã được tiến hành vừa đúng một năm. Một năm qua, hàng trăm nhà máy mới đã bước vào sản xuất, trung bình cứ mỗi ngày có hai nhà máy bắt đầu hoạt động. Trong một năm qua, Liên Xô sản xuất mỗi phút được một xe hơi, 2 phút một máy kéo, 7 phút một máy gặt đập. Tổng sản lượng một năm qua tăng khoảng 10 phần trăm. Riêng sản lượng thép, gang, thép dát của 6 tháng đầu năm 1962 đã bằng cả sản lượng các loại tương tự của cả năm 1954, riêng sản lượng máy kéo 6 tháng đầu năm 1962 đã nhiều hơn cả sản lượng máy kéo năm 1954, sản lượng điện 6 tháng đầu năm 1962 đã tăng hơn 10 tỷ kilôoát giờ so với sản lượng của cả năm 1955.
Cuộc phấn đấu để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô thật là phi thường.
Về mặt đối ngoại, chính sách bảo vệ hòa bình của Liên Xô, nhằm đảm bảo hòa bình lâu dài giữa các dân tộc nhằm thủ tiêu chiến tranh lạnh chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang đang được nhân dân thế giới nhiệt liệt ủng hộ.
Nhân dân Việt Nam nhận thấy rằng thắng lợi của Cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Cách mạng Tháng Mười. Cách mạng Tháng Mười đã đem chủ nghĩa Mác - Lênin đến chiếu rọi cho nhân dân Việt Nam.
Sự giúp đỡ vô tư của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân Việt Nam từ trước tới nay thật là quý báu. Với sự cố gắng của bản thân mình, với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác trong phe xã hội chủ nghĩa, nhân dân Việt Nam đang tiến mạnh trên con đường xã hội chủ nghĩa, để biến Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học văn hóa tiên tiến.
Nhân dân Việt Nam trước sau như một luôn luôn biết ơn Liên Xô và các nước anh em và cho rằng sự tăng cường tình đoàn kết hợp tác giữa nhân dân hai nước Việt - Xô, cũng như sự tăng cường tình đoàn kết hợp tác giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa theo tinh thần quốc tế vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin là đảm bảo chắc chắn nhất cho sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam chúc nhân dân Liên Xô thu được nhiều thắng lợi hơn nữa trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản trong công cuộc đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới.
Báo Cứu quốc, số 3092,
Ngày 4-11-1962.
CHUNG SỨC, CHUNG LÒNG VỚI ĐỒNG BÀO MIỀN NAM13
Thưa đồng bào miền Nam thân mến,
Ngày kỷ niệm ba năm thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã được sự hưởng ứng nhiệt tình và sâu rộng ở trong nước và trên thế giới. Thắng lợi rực rỡ đó làm cho chúng tôi hết sức vui mừng.
Tuy nhiên, trước cuộc đấu tranh tất thắng nhưng còn lâu dài gian khổ của đồng bào miền Nam, chúng tôi cũng như toàn thể đồng bào miền Bắc không thỏa mãn với những kết quả đã thu được mà sẽ tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tiếp tục ủng hộ thiết thực đồng bào miền Nam, chung lòng chung sức với đồng bào đấu tranh chống kẻ thù chung của nhân dân cả nước là đế quốc Mỹ và tay sai. Như Hồ Chủ tịch đã dạy, chừng nào miền Nam chưa được giải phóng, Tổ quốc chưa được thống nhất thì đồng bào miền Bắc vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ yên, vẫn canh cánh bên lòng nghĩa vụ thiêng liêng đối với sự nghiệp cách mạng ở miền Nam. Đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chúng tôi quyết tâm làm cho miền Bắc ngày càng xứng đáng là "căn cứ địa chung của cách mạng cả nước", nhưng chúng ta cũng không bao giờ quên rằng phong trào đấu tranh anh dũng tuyệt vời và ngày càng thắng lợi của đồng bào miền Nam đang góp phần quan trọng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng hòa bình ở miền Bắc.
Đồng bào miền Nam thân mến,
Trên 30 triệu đồng bào chúng ta trong cả nước đoàn kết một lòng là một khối vững chắc như dãy Trường Sơn, có thể đương đầu với mọi phong ba bão táp. Chúng ta lại được sự đồng tình và ủng hộ của cả nhân loại cần lao và tiến bộ. Như dòng sông Cửu Long và dòng sông Hồng Hà ngày đêm cuồn cuộn chảy không có gì ngăn lại được, dân tộc ta, một dân tộc anh hùng từ nghìn xưa đã bao lần oanh liệt chiến thắng ngoại xâm, nhất định sẽ Bắc Nam một dạ kiên quyết tiến lên, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của đế quốc xâm lược Mỹ và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Xin chúc đồng bào miền Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, giành nhiều thắng lợi mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thực hiện độc lập dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình, trung lập ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 1963
T/M HỘI NGHỊ SƠ KẾT "TUẦN ĐẤU TRANH CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ VÀ TAY SAI, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, ỦNG HỘ ĐỒNG BÀO MIỀN NAM"
Chủ tịch Chủ tịch Đoàn
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Thống nhất, số 341,
ngày 3 - 1- 1964.
TẰNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU14
Nhân dân ta vừa kỷ niệm những ngày lịch sử vĩ đại của cách mạng. Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta vô cùng sung sướng thấy rằng nhờ có sự lãnh đạo tài tình của Đảng đứng đầu là Hồ Chủ tịch, nhân dân ta đoàn kết một lòng đã đưa con thuyền cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ; cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ đã thắng lợi vẻ vang; ngày nay nhân dân ta đang dốc sức mình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và kiên quyết đấu tranh thống nhất nước nhà.
Chúng ta tự hào với những thành tích vĩ đại của sự nghiệp cách mạng cả nước, đồng thời chúng ta vui mừng nhận thức sâu sắc rằng mọi thắng lợi từ trước đến nay cũng như từ nay về sau chủ yếu là do sức đoàn kết đấu tranh của nhân dân ta theo đường lối đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Thật vậy, do đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta vùng lên làm Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Do đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Việt Minh - Liên Việt, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã vượt qua biết bao khó khăn gian khổ tiến tới chiến thắng Điện Biên Phủ. Từ hòa bình lập lại, do xiết chặt hàng ngũ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, anh dũng hàn gắn vết thương chiến tranh đang ra sức xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm cho đời sống của mọi người ngày càng được cải thiện. Bài học hiện thực ở miền Nam lại chứng minh hùng hồn sức mạnh của đoàn kết đấu tranh. Dưới lá cờ vẻ vang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, nhân dân miền Nam anh hùng đã nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, ý chí bất khuất, giáng cho địch những đòn chí mạng.
Sức mạnh đoàn kết toàn dân là sức mạnh vô địch!
Sức mạnh đoàn kết toàn dân là sức mạnh chiến thắng!
Đúng như Hồ Chủ tịch đã nói:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công!
Chúng ta đánh giá rất cao vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Hôm nay, mừng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 9 tuổi, chúng ta rất phấn khởi thấy khối đoàn kết toàn dân ngày càng củng cố và phát triển, công tác Mặt trận luôn luôn được cải tiến và phát huy tác dụng tích cực trong việc đoàn kết, động viên nhân dân nêu cao tinh thần tự hào dân tộc, tự lực cánh sinh, truyền thống cách mạng vẻ vang, hoàn thành những nhiệm vụ to lớn do Đảng và Chính phủ đề ra.
Chín năm qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã vận động nhân dân hoàn thành thắng lợi kế hoạch nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa, với đà thi đua ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng, nhất là đợt thi đua “mỗi người làm việc bằng hai" để bảo vệ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tích cực ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam. Mặt trận Tổ quốc việt Nam cũng đã tham gia đắc lực vào việc cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế cá thể và tư bản chủ nghĩa, củng cố chính quyền nhân dân, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Những đợt đấu tranh nhân dịp 20-7, phong trào kết nghĩa Bắc - Nam, cuộc tiếp đón thân thiết đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu dẫn đầu, số tiền một ngày công lao động của đồng bào miền Bắc ủng hộ miền Nam với kết quả tốt đẹp là 10 triệu đồng nhân dịp 20-12-1963, tất cả những việc 1àm đó nói lên tình ruột thịt Bắc Nam không có sức mạnh nào lay chuyển nổi và nhân dân miền Bắc luôn luôn sát cánh với đồng bào miền Nam, kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng đất nước thân yêu. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tích cực ủng hộ chính sách ngoại giao hòa bình, độc lập của Chính phủ, đã góp phần rất tốt tăng cường đoàn kết hữu nghị với nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân các nước độc lập dân tộc và tranh thủ rộng rãi sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Chúng ta nhiệt liệt cảm ơn nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, cám ơn những tổ chức quốc tế, những nhân sĩ tiến bộ ở các nước đã ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào miền Nam, lên án đế quốc mở rộng chiến tranh xâm lược ở miền Nam và mới đây kịch liệt phản đối hành động khiêu khích phá hoại của đế quốc Mỹ đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Hiện nay, ở miền Bắc đồng bào ta đang phát huy thắng lợi của đợt thi đua “mỗi người làm việc bằng hai", đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu cần kiệm xây dựng Tổ quốc, phấn đấu thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, làm cho đời sống ngày càng tươi vui lành mạnh. Trong lúc đó thì đồng bào miền Nam chiến đấu vô cùng oanh liệt chống đế quốc Mỹ và tay sai đang mở rộng chiến tranh xâm lược, đã gây cho chúng nhiều thất bại nặng nề và đẩy chúng vào con đường hầm không lối thoát. Để gỡ thế bí ở miền Nam, những ngày đầu tháng 8, đế quốc Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến bắn phá nhiều địa điểm trên miền Bắc nước ta. Rõ ràng đế quốc Mỹ và tay sai đã sắp sẵn một âm mưu thâm độc là đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, tăng cường khiêu khích phá hoại miền Bắc nước ta.
Nhân dân Việt Nam hiểu rất rõ rằng đế quốc Mỹ và tay sai đang thất bại nặng nề ở miền Nam, tớ thầy chúng đang mâu thuẫn sâu sắc, nội bộ chia rẽ, nao núng. Âm mưu độc ác của chúng có nghĩa là những hành động điên cuồng phiêu lưu của những kẻ đang đi trên bước đường cùng. Thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ ngày 5-8 là một bài học đích đáng mà tớ thầy chúng cần suy nghĩ về tinh thần sẵn sàng chiến đấu của quân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu đế quốc Mỹ càng liều lĩnh, hung hăng thì trước sức mạnh đoàn kết chiến đấu của trên 30 triệu đồng bào cả nước ta, chúng càng nhanh chóng đi đến thất bại hoàn toàn. Con đường thoát duy nhất hợp tình hợp lý là chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đế quốc Mỹ phải rút hết quân đội, vũ khí ra khỏi miền Nam, sự nghiệp hòa bình thống nhất Tổ quốc sẽ do nhân dân Việt Nam tự định đoạt lấy. Tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Hồ Chủ tịch đã tuyên bố. "Về vấn đề hòa bình thống nhất nước Việt Nam Chính phủ ta đã tỏ rõ quan điểm và thái độ của mình theo tinh thần bản Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và bản Chương trình của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam".
“Đế quốc đến chết, cái nết không chừa", nhân dân ta phải mài sắc tinh thần cảnh giác cách mạng, rèn luyện ý chí chiến đấu kiên cường, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động tội ác mới của đế quốc Mỹ và tay sai.
Đồng bào miền Nam quyết xiết chặt hàng ngũ, đứng vững trên tuyến đầu của Tổ quốc, phất cao lá cờ quyết chiến quyết thắng, đẩy mạnh đấu tranh, gây cho địch nhiều thất bại nặng nề hơn nữa.
Đồng bào miền Bắc quyết tăng cường đoàn kết, vững tay cày, tay búa, phấn đấu hoàn thành thắng lợi Kế hoạch Nhà nước năm 1964 và Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, làm cho miền Bắc càng vững mạnh, đồng thời chắc tay súng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta quyết thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch: "đoàn kết, cảnh giác, sản xuất. Giặc đến là đánh, đánh là phải thắng".
Chúng ta tin tưởng sắt đá rằng với sức mạnh đoàn kết đấu tranh của toàn dân Việt Nam, được sự đồng tình ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của nhân dân thế giới, đế quốc Mỹ và tay sai nhất định thất bại. Thắng lợi nhất định về nhân dân ta! Sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà nhất định thành công! Bắc - Nam nhất định sum họp một nhà!
Lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh,
Báo Cứu quốc, số 3188,
ngày 6-9-1964.
THƯ CỦA ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM MỪNG THỌ HỒ CHỦ TỊCH 77 TUỔI (19-5-1890 - 19-5-1967)
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 1967
Thưa Chủ tịch kính mến,
Nhân dịp mừng thọ Chủ tịch 77 tuổi, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thay mặt các chính đảng các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ở nước ngoài, kính gửi Chủ tịch lời chúc mừng kính mến nhất.
Đồng bào cả nước rất tự hào và biết ơn sâu sắc Chủ tịch, người lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do dân chủ, thống nhất Tổ quốc và hòa bình thế giới.
Trên 37 năm qua dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch, nhân dân ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác vô cùng vẻ vang. Ngày nay, trước họa xâm lăng của đế quốc Mỹ, thấm nhuần chân lý sáng ngời trong lời dạy của Chủ tịch “Không có gì quý hơn độc lập, tự do", toàn dân ta đã tăng cường đoàn kết, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.
Miền Nam thành đồng ngày càng đánh giỏi, thắng to đã bước đầu đánh bại cuộc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.
Miền Bắc anh hùng ngày càng đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết làn tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam tiền tuyến lớn của Tổ quốc, đồng thời chiến đấu kiên cường, đập tan mọi bước “leo thang" trong cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.
Cả nước một lòng, triệt để thực hiện lời kêu gọi cứu nước thiêng liêng của Chủ tịch, quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc.
Thưa Chủ tịch kính mến!
Giặc Mỹ đã và đang thua to, nhưng vẫn còn ngoan cố và càng ngày càng tàn bạo và xảo quyệt. Chúng ảo tưởng dùng bạo lực, dùng sắt thép hòng buộc nhân dân ta phải khuất phục. Nhưng chúng đã lầm to, chúng chưa thấy hết lực lượng to lớn và vô tận của cuộc chiến tranh nhân dân mà đồng bào cả nước ta đang tiến hành.
Để phát huy hơn nữa sức chiến đấu, quân và dân cả nước đang ra sức học tập tinh thần cách mạng triệt để và đạo đức cao quý của Chủ tịch. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xin hứa với Chủ tịch động viên toàn dân tăng cường đoàn kết nâng cao hơn nữa sự nhất trí về chính trị và tinh thần, đưa cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Kính chúc Chủ tịch mạnh khỏe và sống lâu.
T/M ỦY BAN TRUNG ƯƠNG
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Cứu quốc, số 3329,
ngày 21-5-1967
NHIỆT LIỆT HOAN NGHÊNH VÀ TRIỆT ĐỂ ỦNG HỘ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM15
Thưa các cụ,
Thưa các đồng chí,
Trong những ngày “tin mừng thắng trận nở như hoa" trên cả hai miền nước ta nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, toàn dân ta vô cùng hân hoan đón chào bản Cương lĩnh chính trị mà Đại hội bất thường của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam vừa nhất trí thông qua.
Ban Cương lĩnh chính trị, kế tục Chương trình mười điểm của Mặt trận là ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc ngọn cờ quyết chiến quyết thắng của mười bốn triệu đồng bào miền Nam anh hùng.
Bảy năm qua, từ Chương trình mười điểm của Mặt trận ra đời đến Cương lĩnh chính trị ngày nay, đồng bào miền Nam đã vượt qua một chặng đường cách mạng đầy hy sinh gian khổ, nhưng cũng đầy thắng lợi vẻ vang. Dưới sự lãnh đạo kiên quyết và đúng đắn của Mặt trận đồng bào miền Nam đã tiến hành một cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng và giành những thắng lợi ngày càng to lớn. Đồng bào đã không ngừng phát triển đến cao độ cuộc chiến tranh nhân dân vô địch, liên tục giữ thế chủ động tiến công, đánh bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ, đập tan hai kế hoạch phản công chiến lược mùa khô, bước đầu đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, dồn 1 triệu 20 vạn quân Mỹ, quân ngụy và quân chư hầu vào thế sa lầy và bế tắc.
Thắng lợi của đồng bào miền Nam là những thắng lợi to lớn và toàn diện: thắng lợi về quân sự và chính trị, thắng lợi trong việc xây dựng vùng giải phóng rộng lớn bao gồm hai phần ba số dân và bốn phần năm đất đai thắng lợi về ngoại giao. Những thắng lợi vẻ vang của đồng bào miền Nam dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc giải phóng đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, động vốn và cổ vũ mạnh mẽ đồng bào miền Bắc ra sức chiến đấu thống chiến tranh phá hoại của Mỹ, đồng thời thi đua phát triển sản xuất, thực hiện kế hoạch Nhà nước, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, hăng hái làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Những thắng lợi kỳ diệu và có ý nghĩa chiến lược trong bảy năm qua đã chứng minh hùng hồn rằng đường lối chống Mỹ, cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.
Đế quốc Mỹ tuy đã bị thua to nhưng vẫn rất ngoan cố.
Chúng đang điên cuồng tăng cường chiến tranh xâm lược nước ta, đưa thêm quân lính và vũ khí vào miền Nam tăng cường bắn phá dã man miền Bắc. Trong khi đó, chúng vẫn “rêu rao hòa bình" bịp bợm bày ra trò hề bầu cử tổng thống và nghị viện bù nhìn hòng lừa bịp nhân dân miền Nam Việt Nam, nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới.
Nhưng tình hình thực tế trong những năm qua, nhất là từ khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp tàn sát đồng bào ta ở miền Nam và dùng máy bay, tàu chiến bắn phá miền Bắc, đã làm cho mọi người dân yêu nước và biết tự trọng cảm thấy tinh thần dân tộc bị xúc phạm nghiêm trọng. Đúng như Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã vạch ra trong Báo cáo tại Đại hội bất thường của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, tai họa chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây nên đang đè nặng lên mọi từng lớp nhân dân miền Nam, không trừ một ai, từ công nhân, nông dân đến trí thức, các nhà công thương, các vị tu hành, cho đến cả những người đang ở trong bộ máy ngụy quyền, ngụy quân...; không một người lương thiện nào không thấm thía nỗi nhục phải sống trong cảnh nô lệ, lại không nuôi mối thù sâu sắc đối với bọn quỷ xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai bán nước Thiệu - Kỳ. Không một người nào muốn sống cho ra sống, có một chút lương tri và tự trọng mà lại có thể thờ ơ trước sự tồn vong của dân tộc, lại có thể đứng ngoài cuộc chiến đấu của toàn dân. Hơn bao giờ hết, chính sách cướp nước và bán nước ngày càng trắng trợn và tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ Việt gian đã đào sâu mâu thuẫn giữa cả dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ và tay sai làm cho mọi người đều nhận rõ bộ mặt thật của chúng căm thù chúng và muốn góp phần vào sự nghiệp thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước.
Bước phát triển mới của tình hình miền Nam nước ta đặt ra cho Mặt trận Dân tộc giải phóng yêu cầu phải đề ra một Cương lĩnh chính trị có khả năng tập hợp nguyện vọng của mọi từng lớp mọi người có tinh thần yêu nước và chống Mỹ ở miền Nam, để tiến lên hoàn thành sứ mệnh lịch sử của Mặt trận.
Thưa các cụ,
Thưa các đồng chí,
Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một văn kiện lịch sử tổng kết toàn diện và chính xác những thắng lợi vẻ vang và những kinh nghiệm quý báu của đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh thiêng liêng, chống Mỹ, cứu nước. Bản Cương lĩnh chính trị đã đề ra đường lối, chính sách chống Mỹ, cứu nước rất hợp tình, hợp lý, đáp ứng đúng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của mười bốn triệu đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bản Cương lĩnh đã vạch rõ: kẻ thù nguy hại nhất hiện nay của nhân dân miền Nam là đế quốc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai bán nước. Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân "Nhiệm vụ là mục tiêu cứu nước của nhân dân miền Nam Việt Nam hiện nay là: đoàn kết toàn dân, hiện quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai của chúng, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc và dân chủ rộng rãi, xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập là phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc".
Cương lĩnh chính trị của Mặt trận biểu thị mạnh mẽ ý chí quyết chiến quyết thắng gốc Mỹ xâm lược, quyết tâm đưa sự nghiệp giải phóng miền Nam đến toàn thắng.
Trải qua hệ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây và chống đế quốc Mỹ xâm lược hiện nay, trải qua hơn 20 năm cầm vũ khí chống giặc ngoại xâm, đồng bào miền Nam ruột thịt hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do thật sự và hòa bình chân chính. Cho nên đồng bào quyết không từ một hy sinh, gian khổ nào, quyết chiến và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, để giành lấy “hòa bình trong độc lập".
Bản Cương lĩnh đã khẳng định: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Chỉ có độc lập, thật sự mới có hòa bình chân chính…"
“Để chiến thắng giặc Mỹ và tay sai, nhân dân ta không từ một hy sinh nào, hăng hái góp sức người, sức của và tài trí cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, theo tinh thần: Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".
Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng được bản Cương lĩnh chính trị soi sáng và cổ vũ đồng bào và chiến sĩ miền Nam nhất định càng hăng hái tiến lên, đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân vô địch, quyết giành những thắng lợi mới ngày càng to lớn hơn.
Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam là một mẫu mực xuất sắc về chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống Mỹ, cứu nước. Đoàn kết là sức mạnh vô địch, bảo đảm chiến thắng mọi kẻ thù ngoại xâm. Đó là chân lý sáng ngời rút ra từ kinh nghiệm chiến đấu và chiến thắng trong cuộc đấu tranh lâu dài chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam ta.
Mặt trận Dân tộc giải phóng giương cao ngọn cờ đại đoàn kết chống Mỹ, cứu nước. Cương lĩnh chính trị của Mặt trận chủ trương đoàn kết tất cả các từng lớp các giai cấp trong nhân dân, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước và tất cả mọi người và mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, không phân biệt xu hướng chính trị, để chống đế quốc Mỹ và tay sai giành lại các quyền dân tộc thiêng liêng và xây dựng nước nhà. Bản Cương lĩnh chủ trương không những tàng cường thống nhất hành động giữa các thành viên của Mặt trận mà còn chủ trương thực hiện liên hiệp hành động với một lực lượng còn ở ngoài Mặt trận, nhưng có nguyện vọng đánh đổ kẻ thù chung là đế quốc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai bán nước.
Mọi người, mọi từng lớp nhân dân miền Nam đều vui mừng thấy Cương lĩnh chính trị bảo đảm đầy đủ cho mình những nguyện vọng và quyền lợi chính đáng nó gắn liền tiền đồ xán lạn của quê hương đất nước với tiền đồ tươi đẹp của gia đình mình và bản thân mình. Cương lĩnh chính trị, đáp ứng đúng những yêu cầu và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, chắc chắn sẽ cổ vũ và động viên mạnh mẽ các từng lớp công nhân, nông dân và toàn thể những người lao động ra sức phát huy tác dụng ngày càng lớn của mình trong mọi lĩnh vực đấu tranh giết giặc cũng như xây dựng đất nước. Đồng thời, bản Cương lĩnh khuyến khích và giúp đỡ các từng lớp khác hăng hái tham gia đấu tranh để giải phóng dân tộc và xây dựng miền Nam sau này. Qua bản Cương lĩnh chính trị, những nhà công thương, những tiểu thương, tiểu chủ, những người trí thức và những nhân sĩ yêu nước, mọi từng lớp, mọi dân tộc, mọi tôn giáo ở miền Nam đều thấy rõ nghĩa vụ và vị trí của mình trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Đối với những người trong ngụy quân và ngụy quyền, con đường để trở về với chính nghĩa, với nhân dân cũng được mở rộng.
Dưới ánh sáng của bản Cương lĩnh, các từng lớp nhân dân, các lực lượng chống Mỹ, cứu nước của Thành đồng Tổ quốc nhất định càng thêm tin tưởng, phấn khởi càng đoàn kết chặt chẽ, càng tiến công mạnh mẽ và càng chiến thắng vẻ vang.
Cương lĩnh chính trị đã khẳng định quyết tâm của nhân dân miền Nam phấn đấu xây dựng một chế độ chính trị bảo đảm độc lập, chủ quyền của dân tộc và tự do hạnh phúc của nhân dân. Đồng thời, bản Cương lĩnh đã đề ra các chính sách cụ thể nhằm xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh. Nước Việt Nam ta là một, dân tộc Việt Nam ta là một.
Không một lực lượng nào có thể chia cắt được đất nước ta.
Biểu thị mạnh mẽ tinh thần đoàn kết ruột thịt Bắc Nam và ý chí sắt đá thống nhất Tổ quốc, đồng thời nêu rõ chủ trương hợp tình, hợp lý để tiến tới thống nhất Tổ quốc, bản Cương lĩnh chính trị càng cổ vũ và động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước thêm nức lòng phấn khởi, tăng cường đoàn kết, kề vai sát cánh quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Ra đời từ tuyến đầu chống Mỹ, bản Cương lĩnh đã vang lên như lời kêu gọi đoàn kết chiến đấu, biểu thị quyết tâm của mười bốn triệu đồng bào miền Nam bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế và tích cực góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội. Đường lối đối ngoại đúng đắn nêu ra trong bản Cương lĩnh nhất định sẽ làm cho đồng bào miền Nam tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ ngày càng rộng rãi và mạnh mẽ của anh em và bè bạn khắp năm châu và nâng cao hơn nữa uy tín của Mặt trận trên trường quốc tế.
Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam chẳng những đáp ứng đúng những yêu cầu và nguyện vọng của các từng lớp nhân dân miền Nam và nhân dân cả nước mà còn phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân và các dân tộc trên thế giới.
Bản Cương lĩnh này càng làm sáng tỏ vai trò của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam là người đại diện chân chính duy nhất của đồng bào miền Nam anh hùng đang chiến thắng và nhất định sẽ chiến thắng hoàn toàn giặc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước.
Với bản Cương lĩnh này, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhất định sẽ đoàn kết và động viên được mọi người, mọi lực lượng yêu nước, củng cố và mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi hơn nữa trên thế giới, thúc đẩy sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta mau đến thắng lợi cuối cùng.
Chính vì vậy mà mấy hôm nay đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai choáng váng trước ánh sáng chói ngời của bản Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, còn nhân dân ta thì nức lòng phấn khởi, bàn tán sôi nổi về bản Cương lĩnh và nguyện ra sức phấn đấu để góp phần thực hiện nó.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và mười bảy triệu đồng bào miền Bắc nhiệt liệt hoan nghênh và triệt để ủng hộ bản Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Đồng bào miền Bắc tin chắc rằng Cương lĩnh chính trị của Mặt trận nhất định sẽ được thực hiện và nhận rõ nhiệm vụ của mình là tích cực góp sức với đồng bào miền Nam để thực hiện bản Cương lĩnh đó.
Thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do", thấm nhuần tình nghĩa ruột thịt Bắc Nam ghi lòng tạc dạ những cống hiến cao cả của đồng bào miền Nam đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, nhân dân miền Bắc nhất quyết thực hiện lời nói chí tình, chí nghĩa của Hồ Chủ tịch: mười bảy triệu đồng bào miền Bắc quyết giữ trọn lời thề cùng mười bốn triệu đồng bào miền Nam ruột thịt sát cánh kề vai, chiến đấu để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước".
Để thiết thực hưởng ứng Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, đồng bào và chiến sĩ miền Bắc sẽ ra sức thi đua sản xuất, chiến đấu và tổ chức đời sống tốt hơn nữa, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Thưa các cụ,
Thưa các đồng chí,
Đại đoàn kết là một trong những nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chủ tịch nói:
"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công".
Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống lâu đời đại đoàn kết chống ngoại xâm.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đang giương cao ngọn cờ chống Mỹ, cứu nước. Bão táp càng làm cho ngọn cờ đó phấp phới tung bay, và mọi lực lượng, mọi người yêu nước, các chiến sĩ ở tiền tuyến cũng như nhân dân ở hậu phương càng chăm chú hướng theo nó, thừa thắng xông lên tiêu diệt thật nhiều quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, đưa sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Trước mắt nhân dân hai miền nước ta là một thời kỳ chiến đấu gian khổ, quyết liệt hơn bao giờ hết và cũng là thời kỳ chiến thắng to lớn và vẻ vang hơn bao giờ hết. Đồng bào và chiến sĩ cả nước: Hãy nêu cao truyền thống đoàn kết, vượt mọi khó khăn, xông lên với khí thế của người chiến thắng, quyết giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần bảo vệ hòa bình ở châu Á và thế giới.
Đế quốc Mỹ xâm lược nhất định thua!
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng!
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh muôn năm!
Hồ Chủ tịch muôn năm!
Báo Cứu quốc, số 3345, ngày 10-9-196~
Sách Tôn Đức Thắng:
Về Mặt trận dân tộc thống nhất,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 67-77.
THƯ CHÚC MỪNG SINH NHẬT HỒ CHỦ TỊCH
Kính gửi Hồ Chủ tịch,
Thưa Chủ tịch kính mến,
Nhân dịp mừng thọ Chủ tịch 79 tuổi, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thay mặt các chính đảng, các đoàn thể, các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ở nước ngoài, kính gửi đến Chủ tịch những lời chúc mừng thành kính nhất.
Theo lời dạy của Hồ Chủ tịch:
"Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào"
nhân dân ta từ Bắc chí Nam đoàn kết triệu người như một nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy những thắng lợi huy hoàng trong năm 1968, đã và đang giành được những thắng lợi mới rất to lớn về mọi mặt trong những tháng đầu năm 1969.
Miền Nam Thành đồng đang lập công rực rỡ nhất là từ ngày 23-2-1969 đến nay, liên tiếp tiến công và nổi dậy, đánh mạnh, đánh đều khắp và rất trúng vào hàng loạt căn cứ của Mỹ, ngụy, đẩy chúng ngày càng lún sâu hơn vào một thế vô cùng bị động, lúng túng. Giải pháp toàn bộ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam về vấn đề miền Nam Việt Nam đã trình bày trong phiên họp thứ 16 của Hội nghị Pari, được đồng bào trong nước triệt để ủng hộ và dư luận rộng rãi của nhân dân tiến bộ Mỹ và nhân dân thế giới nhiệt liệt đồng tình, thể hiện rõ ràng lập trường chính nghĩa và thái độ thiện chí của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, đồng thời cũng phản ánh thế thắng, thế tiến công toàn diện của quân và dân ta đối với bọn xâm lược Mỹ và tay sai.
Miền Bắc anh hùng đánh thắng vẻ vang cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, đang đẩy mạnh đà xây dựng chủ nghĩa xã hội tích cực thực hiện các nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước trong khí thế sôi nổi hết lòng hết sức làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Phấn khởi trước những thắng lợi mới, đồng bào cả nước vô cùng tự hào được đoàn kết và chiến đấu dưới lá cờ quang vinh của Đảng, vô cùng biết ơn Chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu nhất của mình. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các chính đảng, các đoàn thể, các tổ chức thành viên trong Mặt trận nguyện học tập đạo đức cách mạng của Hồ Chủ tịch, ra sức xây dựng con người mới, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch, động viên đồng bào đem hết sức mình thực hiện khẩu hiệu: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
Nhận thức rõ tình hình và nhiệm vụ mới, quân và dân miền Bắc quyết thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng; xây dựng và củng cố miền Bắc xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; kề vai sát cánh cùng 14 triệu đồng bào miền Nam vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình, thừa thắng xông lên đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.
Kính chúc Chủ tịch mạnh khỏe, sống lâu.
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 1969
Chủ tịch
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Thống nhất, số 818,
ngày 20-5-1969.
LỜI CÁM ƠN QUỐC HỘI KHI NHẬN CHỨC CHỦ TỊCH NƯỚC16
Thưa các đồng chí đại biểu Quốc hội,
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Quốc hội đã tín nhiệm và bầu chúng tôi làm Chủ tịch và Phó chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về phần tôi được kế tiếp chức vụ của Hồ Chủ tịch là điều rất vinh quang đối với tôi, nhưng cũng là điều mà tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến.
Hiện nay dân tộc Việt Nam ta đang đoàn kết một lòng kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mặc dù còn phải trải qua gian khổ, hy sinh, nhất định dân tộc Việt Nam ta kiên quyết chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn. Hiện nay nhân dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất định nhân dân miền Bắc nước ta sẽ thành công trong công cuộc xây dựng đời sống mới.
Trong chức vụ của mình, chúng tôi luôn luôn hết lòng hết sức đóng góp phần lớn nhất vào toàn bộ sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, thực hiện lời di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch. Mặc dù tài hèn, đức kém, chúng tôi xin thề trước anh linh của Hồ Chủ tịch và trước Quốc hội: chúng tôi sẽ cố gắng hết sức mình để làm tròn trách nhiệm mà Quốc hội giao phó.
Chúng tôi mong ước luôn luôn được Quốc hội cũng như quốc dân, đồng bào theo dõi và giúp đỡ, để chúng tôi làm tốt hơn công việc to lớn của mình.
Một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cảm ơn Quốc hội.
Báo Nhân dân, số 641, ngày 25-9-1969.
Báo Cứu quốc, số 3452, ngày 28-9-1969.
Lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
LỜI KHAI MẠC TẠI LỄ KỶ NIỆM LẦN THỨ 80 NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Thưa các đồng chí và các bạn thân mến,
Hôm nay, nhân dân cả nước ta long trọng kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, người thầy và vị lãnh tụ thiên tài của Đảng ta và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam, người chiến sĩ lỗi lạc gương mẫu của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế trong thế kỷ XX này.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song niềm kính yêu và biết ơn ở dân tộc ta đối với Bác Hồ, cũng như muôn vàn tình thân yêu của Bác Hồ đối với toàn dân tộc ta, đời đời khắc sâu trong trái tim, khối óc mỗi người Việt Nam chúng ta. Bác Hồ sống mãi với non sông đất nước ta, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Hiện nay, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cữu nước đang đứng trước tình hình mới: chính quyền Níchxơn ngoan cố thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa" chiến tranh để kéo dài chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta. Chúng lại ồ ạt đưa quân xâm lược Campuchia mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương chồng chất những tội ác man rợ đối với nhân dân Việt Nam Campuchia và Lào, gây ra tình hình rất nghiêm trọng ở Đông Nam Á.
Đồng bào và chiến sĩ cả nước ta quyết thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng, đoàn kết chiến đấu cùng nhân dân hai nước láng giềng Campuchia và Lào anh em, đập tan kế hoạch "Việt Nam hóa" chiến tranh, đánh bại chính sách kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Dưới ngọn cờ trăm trận đánh trăm trận thắng của Hồ Chủ tịch và của Đảng ta, nhân dân ta quyết hoàn thành vẻ vang sự nghiệp cách mạng của mình: đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giai phóng miền Nam bảo vệ và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới hòa bình thống nhất đất nước góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng trên thế giới, như Hồ Chủ tịch hằng mong muốn.
Thay mặt Đoàn chủ tịch, tôi xin tuyên bố khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của Hồ Chủ tịch và nhiệt liệt hoan nghênh các đồng chí, các bạn và các vị khách quốc tế đã đến dự buổi lễ trọng thể này.
Báo Thống nhất, số 41,
Ngày 22-5-1970.
DIỄN VĂN ĐỌC TẠI LỄ MỪNG CHIÊN THẮNG Ở SÀI GÒN
Ngày 15 tháng 5 năm 1975
Đồng bào và các chiến sĩ thân mến!
Hôm nay, đồng bào Sài Gòn đang cùng với đồng bào Hà Nội, Huế và cả nước tổ chức lễ mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, nước nhà hoàn toàn giải phóng, miền Nam không còn bóng một tên xâm lược nữa, nhân dân ta đã hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình, hòa bình đã được lập lại trong độc lập và tự do.
Trong giờ phút lịch sử trọng đại này, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và nhân danh cá nhân, tôi gửi tới đồng bào và chiến sĩ thành phố Sài Gòn - Gia Định, đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ở nước ngoài, lời chào mừng nhiệt liệt nhất, thắm thiết nhất.
Tôi cũng xin gửi tới các gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, anh chị em thương binh, bệnh binh, lời thăm hỏi ân cần và lòng biết ơn sâu sắc nhất.
Thắng lợi rực rỡ của nhân dân ta ngày nay là kết quả của cuộc chiến đấu suốt 30 năm qua của đồng bào và chiến sĩ cả nước ta. Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, thắng lợi của sức mạnh đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, của tinh thần không có gì quý hơn độc lập tự do; thắng lợi của truyền thống yêu nước nồng nàn, đấu tranh kiên cường bất khuất trong bốn ngàn năm lịch sử của dân tộc.
Mừng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại này, chúng ta vô cùng nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã cống hiến trọn đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân, ngày đêm tưởng nhớ đồng bào miền Nam "đi trước về sau”.
Chúng ta tỏ lòng biết ơn nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, nhân dân và chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước dân tộc chủ nghĩa, bầu bạn khắp năm châu mấy chục năm nay đã kiên trì ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta.
Sau chiến thắng oanh liệt này là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của dân tộc ta. Nhất định 45 triệu đồng bào cả nước ta sẽ đoàn kết một lòng, thương yêu đùm bọc nhau như con một nhà, chung lòng, chung sức bảo vệ độc lập tự do, hàn gắn những vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước, xây dựng cuộc sống mới hòa bình và hạnh phúc.
Chúng ta quyết biến khí thế cách mạng hào hùng hôm nay thành cao trào thi đua thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, ra sức củng cố độc lập và xây dựng nước nhà bền vững.
Đồng bào cả nước hãy hăng hái tiến lên.
Lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Báo Thống nhất, số 20, ngày 22-5-1975.
“TẾT TRỒNG CÂY ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN BÁC HỒ” NĂM 1972
Hồ Chủ tịch kính yêu đã đề ra “Tết trồng cây" vừa ích nước, vừa lợi nhà.
Qua phong trào trồng cây đã nổi lên nhiều gương tốt. Thí dụ: Năm 1971, các tỉnh Quảng Ninh, Hà Bắc, Ninh Bình, một số lâm trường đã thực hiện vượt mức kế hoạch trồng cây.
Tỉnh Hà Tĩnh có 84 trường học các cấp, 41 đơn vị xã, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh và Thanh niên xung phong gồm 35.750 người tham gia trồng rừng được gần 680 hécta.
Huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) đã trồng được hàng chục triệu cây, tạo thành hệ thống đai rừng chắn gió trên đồng ruộng, đường đi trong năm qua đã tự túc được củi đun và một phần gỗ.
Xã Vĩnh Tú (Vĩnh Linh) trong 10 năm đã trồng 3 triệu 30 vạn cây các loại, đặc biệt trong 4 năm chiến tranh phá hoại, đã trồng được 175 vạn cây phi lao trên bãi cát ven biển nước ta.
Hợp tác xã Nà Bó (Hòa Bình) đã bảo vệ được 37 hécta rừng, trồng được 283,14 hécta rừng mới.
Đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã Đại Nguyên (Quảng Ninh), ngoài việc lãnh đạo hợp tác xã trồng hàng chục vạn cây, riêng mình cũng trồng được gần ba vạn rưỡi cây sa mộc, quế và một số loại cây ăn quả.
Tuy nhiên, còn nhiều địa phương chưa làm tốt, như chặt nhiều nhưng trồng lại ít, không ngăn chặn kịp thời những người lợi dụng bão lụt chặt phá cây; kỹ thuật gieo, ươm, trồng, chưa được chú ý đầy đủ cho nên cây trồng bị chết nhiều. Việc trồng rừng và bảo vệ rừng nói chung còn chưa được coi trọng đúng mức.
Những khuyết điểm trên đây đã hạn chế kết quả và tốc độ phát triển của phong trào.
Các ngành, các địa phương, các đơn vị và mỗi người hãy ra sức phát huy những kinh nghiệm hay, sửa chữa những thiếu sót, đẩy mạnh phong trào trồng cây, gây rừng, bảo vệ rừng, phát triển hơn nữa.
Năm 1972 này, chúng ta tổ chức thật sôi nổi, thiết thực "TẾT TRỒNG CÂY ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN BÁC HỒ".
Phải có kế hoạch và biện pháp cụ thể, tránh làm hình thức ồ ạt. Phải chú trọng làm tốt từ việc chuẩn bị giống, xây dựng vườn ươm, đến việc tổ chức gieo trồng, chăm sóc cây, chăm sóc rừng. Mỗi địa phương, đơn vị phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình và phương hướng nhiệm vụ chung mà có kế hoạch đẩy mạnh trồng rừng tập trung quy mô lớn, bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây dựng và phục vụ đời sống nhân dân; trồng rừng đầu nguồn và bảo vệ rừng đầu nguồn, trồng rừng chắn gió, chống cát, chống sóng, trồng cây phân tán chung quanh trường học, cơ quan, doanh trại, hai bên đường đi, trong thôn xóm, v.v..
Phải khuyến khích động viên, bồi dưỡng và phát huy lực lượng của các cụ phụ lão.
Thanh niên phải nêu cao vai trò xung kích của mình trong phong trào trồng cây gây rừng.
Thiếu niên, nhi đồng hãy thực hiện khẩu hiệu "ông, cha trồng, con, cháu bảo vệ".
Toàn dân ta hãy nhiệt liệt hưởng ứng “TẾT TRỒNG CÂY ĐỜI ĐỜI NHỚ ƠN BÁC HỒ" năm 1972.
Lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Báo Quân đội nhân dân,
số 3856, ngày 6-2-1972.
Lưu tại Bảo tàng Tôn Đức Thắng.
THƯ GỬI THƯƠNG BINH, BỆNH BINH, GIA ĐÌNH LIỆT SĨ, GIA ĐÌNH BỘ ĐỘI NHÂN NGÀY 27-7-1976
Thân ái gửi các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội,
Ngày 27-7 năm nay đến giữa lúc nhân dân ta phấn khởi trước thành công rực rỡ của kỳ họp đầu tiên của Quốc hội chung cả nước đang bước vào một kỷ nguyên mới rực rỡ nhất của dân tộc, kỷ nguyên độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.
Thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, tôi kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ đến các liệt sĩ, các đồng bào, đồng chí đã anh dũng hy sinh mang lại vinh quang đời đời cho Tổ quốc. Tôi thân ái gửi lời thăm hỏi ân cần và thắm thiết nhất đến anh chị em thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội đã có những cống hiến xứng đáng cho dân tộc. Đảng, Chính phủ và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, mãi mãi biết ơn các anh chị em thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang đem hết sức lực, tài năng, đoàn kết phấn đấu xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, quốc phòng vững mạnh, văn hóa và khoa học tiên tiến, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc. Tôi mong các đồng chí thương binh, bệnh binh hãy luôn luôn phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, nêu cao ý chí phấn đấu cách mạng, tinh thần khiêm tốn, đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao cho, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ người công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tôi mong các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội hãy tiếp tục nêu cao truyền thống vẻ vang, hăng hái tham gia sản xuất, công tác, học tập, xây dựng đời sống mới, gương mẫu chấp hành tốt mọi chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tôi tin chắc chắn rằng, các anh chị em thương binh, bệnh binh, các gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội là những người con trung hiếu, những gia đình gương mẫu trong kháng chiến cứu nước sẽ mãi mãi xứng đáng là những người con trung hiếu, những gia đình gương mẫu trong xây dựng hòa bình và bảo vệ đất nước.
Tôi cũng mong các cơ quan đảng, chính quyền, các đoàn thể, các xí nghiệp, các hợp tác xã và toàn thể đồng bào hãy nghiêm chỉnh chấp hành chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội, thực hiện đúng mọi chính sách, chủ trương của Đảng về công tác thương binh và xã hội sau chiến tranh.
Tôi thân ái gửi đến các cháu thanh niên, thiếu niên, nhi đồng con của các liệt sĩ, của các anh chị em thương binh bệnh binh, bộ đội những cái hôn âu yếm nhất. Các cháu hãy luôn luôn xứng đáng là những cháu ngoan của Bác Hồ kính yêu.
Chào thân ái và quyết thắng
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Quân đội nhân dân
số 5471, ngày 27-7-1976,
lưu tai Bảo tàng Tôn Đức Thắng.
LỜI ĐÁP TRONG BUỔI LỄ TRAO HUÂN CHƯƠNG CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI
(Ngày 8 tháng 9 năm 1978)
Thưa đồng chí Đại sứ B. Saplin,
Thưa các đồng chí,
Tôi xin chân thành cảm ơn Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô tặng tôi Huân chương Cách mạng Tháng Mười. Đây không những chỉ là vinh dự riêng đối với tôi mà còn là vinh dự chung đối với những người cộng sản và nhân dân Việt Nam vốn có tình cảm nồng nàn và sâu sắc đối với Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, đối với Đảng của Lênin quang vinh, đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử, ngày nay là thành trì vững chắc và chỗ dựa đáng tin cậy của các lực lượng cách mạng và hòa bình trên thế giới.
Tôi tin chắc rằng tình đoàn kết chiến đấu, tình hữu nghị vĩ đại và quan hệ hợp tác anh em dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn bó chặt chẽ hai Đảng, hai nước chúng ta sẽ ngày càng củng cố vững chắc và phát triển tốt đẹp trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, vì những lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Xin chúc nhân dân Liên Xô anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô quang vinh do đồng chí L.Brêgiơnép đứng đầu, hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ trọng đại do Đại hội lần thứ XXV Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra, đưa đất nước Xôviết tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Xin cảm ơn đồng chí Đại sứ B.Saplin đã thay mặt Đoàn Chủ tịch Xôviết tối cao Liên Xô trao cho tôi Huân chương cao quý này.
Xin cảm ơn các đồng chí có mặt ở đây hôm nay.
Lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
THƯ CHÚC MỪNG NĂM MỚI
Hà Nội, ngày 1 tháng 1 năm 1979
Thân ái gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước,
Nhân dịp năm mới, thay mặt Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi thân ái gửi lời chúc mừng tốt đẹp nhất và lời thăm hỏi ân cần nhất đến đồng bào và chiến sĩ cả nước, đến các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, gia đình bộ đội, các dân tộc, các tôn giáo, các cụ phụ lão, các cháu thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và kiều bào ở nước ngoài.
Tôi thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gửi đến các đảng anh em, các nước anh em và bầu bạn trên toàn thế giới lời chúc mừng nhiệt liệt và lời cảm ơn chân thành.
Năm vừa qua, nhân dân ta phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, nhưng đã tỏ rõ tinh thần anh dũng, kiên cường, vượt qua mọi thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng chúng ta không ngừng tiến lên.
Tôi nhiệt liệt khen ngợi anh chị em công nhân, nông dân, lao động trí óc, các tầng lớp đồng bào, cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đã hăng hái đẩy mạnh sản xuất, anh dũng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự an ninh. Tôi khen ngợi cán bộ các cấp, các ngành đã giữ gìn phẩm chất cách mạng làm tròn nhiệm vụ của mình.
Bước sang năm mới này, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải cố gắng hết sức mình, thi đua lao động sản xuất tốt hơn nữa, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt hơn nữa. Chúng ta phải phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, thực hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ IV của Đảng.
Hồ Chủ tịch dạy chúng ta: Không có gỗ quý hơn độc lập, tự do.
Tất cả mọi người chúng ta hãy phát huy truyền thống anh dũng, ra sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng cuộc sống văn minh hạnh phúc.
Chào thân ái và quyết thắng
Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
TÔN ĐỨC THẮNG
Báo Sài Gòn giải phóng,
Số 1129, ngày 2-l-1979,
lưu tại Bảo tàng Tôn Đức Thắng.
__________
Chú thích:
ĐIẾU VĂN DO ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH,
ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, CHỦ TỊCH ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI ĐỌC TRONG LỄ TRUY ĐIỆU ĐỒNG CHÍ CHỦ TỊCH TÔN ĐỨC THẮNG
Thưa các đồng chí và đồng bào!
Đồng chí Tôn Đức Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã qua đời ngày 30 tháng 3 năm 1980, hưởng thọ 92 tuổi.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng đau đớn vĩnh biệt đồng chí.
Đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trần, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân Việt Nam mất một chiến sĩ cách mạng kiên cường, mẫu mực, một người lãnh đạo kính mến và thân thiết.
Đồng chí là một trong các chiến sĩ lớp đầu của phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta, là một trong những người bạn chiến đấu thân thiết lâu năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Từ những năm đầu thế kỷ này, đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã tham gia lãnh đạo phong trào yêu nước của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, và đứng vào hàng ngũ những chiến sĩ tiên phong.
Đồng chí là một trong những công nhân Việt Nam đầu tiên hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đồng chí đã tham gia cuộc nổi dậy của hải quân Pháp ở Biển Đen, kéo lá cờ đỏ trên một chiến hạm Pháp, ủng hộ nước Nga Xôviết, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, chống sự can thiệp vũ trang của bọn đế quốc đối với Nhà nước Xôviết còn non trẻ.
Cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài của đồng chí đầy gian lao, thử thách. Đồng chí bị bọn đế quốc bắt giam giữa lúc đang hoạt động sôi nổi trong hàng ngũ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Bộ. Gần 17 năm bị tù đày ở Khám Lớn Sài Gòn và Côn Đảo, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần cách mạng kiên cường, tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, từ Côn Đảo trở về, đồng chí liền hoạt động tích cực, góp phần cùng với Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ… và bè lũ tay sai, vì độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí là người tiêu biểu nhất cho chính sách đại đoàn hết của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bất kỳ ở cương vị công tác nào, mặc dù tuổi cao, đồng chí luôn luôn phấn đấu quên mình để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị.
Toàn thể đồng chí và đồng bào chúng ta rất tự hào về sự nghiệp và đạo đức cách mạng của đồng chí. Chúng ta quyết mãi mãi noi gương cao cả của đồng chí để khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng.
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Vĩnh biệt Bác Tôn kính mến, chúng ta nguyện quyết tâm phấn đấu tiếp tục thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện những điều mà Bác Tôn thiết tha mong muốn: tăng cường đoàn kết, ra sức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chống mọi âm mưu và hành động xâm lược của bọn đế quốc và bọn phản động quốc tế; tăng cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
THÔNG CÁO ĐẶC BIỆT CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨAVIỆT NAM, HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ ĐOÀN CHỦ TỊCH ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vô cùng đau đớn báo tin để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và kiều bào ở nước ngoài biết:
Đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VI, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã từ trần hồi 6 giờ 35 phút, ngày 30 tháng 8 năm 1980 tại Hà Nội, sau một cơn suy tim và suy hô hấp nặng, hưởng thọ 92 tuổi. Trong thời gian đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng lâm bệnh, Đảng và Nhà nước ta đã cử một tập thể giáo sư, bác sĩ và nhân viên y tế ngày đêm chăm sóc, cứu chữa bằng mọi khả năng và phương tiện, nhưng vì tuổi cao, bệnh nặng. đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng không qua khỏi được đã vĩnh biệt chúng ta.
Đồng chí Tôn Đức Thắng là nhà yêu nước vĩ đại, người cộng sản kiên cường mẫu mực, người lãnh đạo kính mến của giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc nước ta, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ hết sức trung thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đồng chí đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, đồng chí đã suốt đời phấn đấu cho sự phát triển tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị anh em giữa nhân dân ta với nhân dân Liên Xô, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và phát triển tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới vì lợi ích của sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời là một tổn thất to lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Để tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Hội nghị liên tịch giữa Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định:
1. Tổ chức quốc tang với nghi thức trọng thể của nước ta.
2. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta để tang đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng năm ngày, kể từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 4 năm 1980.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ tổ chức Lễ truy điệu trọng thể đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
4. Thành lập Ủy ban Lễ tang nhà nước gồm một số đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong những ngày đau thương này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ và Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hãy biến đau thương thành hành động cách mạng, noi gương cao cả của đồng chí Chủ tịch Tôn Đức Thắng, ra sức làm tròn mọi nhiệm vụ nhằm xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hà Nội, ngày 30 tháng 3 năm 1980
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM,
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM,
ĐOÀN CHỦ TỊCH ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Trụ sở: 1A Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Email:congdcsvn@vptw.dcs.vn