GS. Đỗ Nguyên Phương, PTS. Nguyễn Khánh Bật, BS. Nguyễn Cao Thâm
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về y đức
Không có nghề nào lại đi vào đời sống con người một cách sâu sắc và cấp thiết như nghề y. Không có nghề nào như nghề y mà một lỗi lầm hay một thiếu sót, dù nhỏ nhất, lại có thể gây nên những tác hại lớn nhất đến sức khoẻ và tính mạng của con người. Từ lâu đời, từ Âu sang á, người ta đã coi nghề y là một nghề quan trọng, một nghề nhân đạo có quan hệ đến đời sống và tính mạng con người, đến hạnh phúc của từng gia đình, tương lai nòi giống, đến sức khoẻ và sự cường thịnh của một dân tộc, của toàn xã hội.
Chính vì vị trí đặc biệt của ngành y, mà hàng ngàn nǎm trước Công nguyên, lúc xã hội cũng như nghề y còn phụ thuộc vào thần quyền, vào thế quyền hay vào tôn giáo, cả dưới các chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản, loài người từ Đông sang Tây, dưới nhiều hình thức đã ngày càng nêu cao vấn đề y đức. Những lời thơ dân gian, những đạo luật, những điều thuyết giảng trong tôn giáo, những phần thưởng và hình phạt, những điều rǎn trong triết học, những lời cầu xin và những lời thề của thầy thuốc, những lời dạy và cách ngôn của các bậc danh y, những tiêu chuẩn, quy chế và luật pháp về y đức trong hành nghề y, dược, v.v. đã được sử dụng trong các thời đại khác nhau để giáo dục người thầy thuốc và bảo đảm những người làm nghề y phải giữ gìn đạo đức.
Hippocrate, ông tổ nghề y, 377 nǎm trước Công nguyên đã nêu lên những nội dung cụ thể về y đức trong lời thề mà đến nay từ thầy giáo đến các học sinh trường y, từ bác sĩ đến các nhân viên điều dưỡng, hộ lý đều ghi nhớ:
- "Tôi sẽ cho chế độ ǎn uống có lợi cho bệnh nhân phù hợp với bệnh trạng, thể theo quyền hạn và suy xét của tôi, tôi sẽ không cho thuốc giết người, nếu có ai yêu cầu và cũng không khởi xướng một gợi ý như vậy".
- "Tôi giữ gìn sao cho đời sống và nghề nghiệp của tôi được trong trắng và thần thánh".
- "Tới nhà ai, tôi cũng chỉ vì quyền lợi của bệnh nhân, sẽ tránh tất cả mọi hành động đồi bại và nhất là những cử chỉ lả lơi trên thân thể nữ giới cũng như nam giới, bất kể người đó là người tự do hay nô lệ".
- "Những điểm liên quan đến đời sống của người khác, đáng phải bảo mật, mà trong phạm vi hay ngoài phạm vi nghề nghiệp, tôi nhìn thấy hay nghe thấy, tôi sẽ không bao giờ thổ lộ".
Nǎm 1924, trong Hội nghị cán bộ y tế Liên Xô trước đây, M.I. Kalinin, một nhà chính trị lỗi lạc đã trả lời một câu hỏi về luân lý nghề y như sau: "Không thể đem so sánh người cán bộ y tế với những người làm công tác khác được. Những đức tính mà các nghề khác cần đến thì lại chưa đủ đối với người làm công tác y tế. Còn những đức tính vừa đủ cho những người lao động khác để có thể đạt được những kết quả tốt thì lại còn là rất ít ỏi đối với người cán bộ y tế".
ở Việt Nam, các bậc danh y như Tuệ Tĩnh, Nguyễn Đình Chiểu, đặc biệt là Hải Thượng Lãn Ông đã có những di huấn về y đức quý báu để lại. Tuệ Tĩnh cǎn dặn:
"Cõi trời Nam gấm vóc
Nước sông Hồng chảy dài
Vườn hạnh phúc nghĩa nhân
Gió mùa xuân áp rộng
Thương nhân dân chết chóc
Chọn hiền triết phương thang".
Hơn 200 nǎm trước đây, ở nước ta, nhà đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông đã từng nói: "Suy nghĩ sâu xa, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ tính mạng con người: sống chết trong tay mình nắm, phúc hoạ trong một tay mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành vi không thận trọng mà dám liều lĩnh học đòi cái nghề cao quý đó chǎng!". Và ông đã nêu lên chín điều rǎn dạy rất cụ thể và sâu sắc ở nhiều trường hợp mà thầy thuốc thường gặp, đến nay vẫn còn nguyên giá trị:
1. Người học thuốc phải hiểu thấu lý luận đạo nho, luôn nghiên cứu sách thuốc xưa nay, phát huy biến hoá, thâu nhập vào tim, mới tránh phạm sai lầm.
2. Đi thǎm bệnh, nên tuỳ bệnh cần kíp hay không mà thǎm trước, thǎm sau. Chớ nên vì giàu sang hay nghèo hèn mà đến trước đến sau, hay bốc thuốc lại phân biệt hơn kém.
3. Khi xem bệnh cho đàn bà con gái, bà goá, ni cô, phải có người nhà của họ ở bên cạnh mới được bước vào phòng thǎm bệnh, tránh mọi sự nghi ngờ.
4. Không tự ý cầu vui, vắng mặt ở nhà, có bệnh cấp cứu phải chờ, hại đến tính mạng.
5. Gặp chứng bệnh nguy cấp, phải hết sức cứu chữa, song phải nói rõ cho gia đình biết trước, rồi mới cho thuốc, lại có khi cần cho không cả thuốc.
6. Cần bào chế thuốc và cất giữ thuốc men cho cẩn thận, có thêm thuốc hoàn, tán để ứng dụng kịp thời khi có bệnh, khỏi phải bó tay.
7. Gặp bạn đồng nghiệp thì khiêm tốn hoà nhã, học hỏi giúp đỡ lẫn nhau.
8. Khi đến xem bệnh ở những nhà nghèo, mồ côi, goá bụa, hiếm hoi, càng phải chǎm sóc đặc biệt. Vì người giàu không lo không có người chữa, còn người nghèo thì không đủ sức đón được thầy giỏi. Còn những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc, lại tuỳ sức mình mà chu cấp cho họ nữa, vì có thuốc mà không có ǎn, thì vẫn đi đến chỗ chết.
9. Chữa khỏi bệnh, chớ mưu cầu quà cáp, vì nhận của người khác cho thường sinh ra nể nang, huống chi đối với kẻ giàu sang, tính khí thất thường, mà mình cầu cạnh thường bị khinh rẻ. Nghề làm thuốc là nghề thanh cao, ta càng phải giữ khí tiết cho trong sạch. Đạo làm thuốc là một nhân thuật, phải lo cái lo của người và vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình, không nên cầu lợi kể công...".
Nguyễn Đình Chiểu trong Ngư tiều y thuật vấn đáp đã tâm niệm:
Xưa rằng thầy thuốc học thông
Thể theo trời đất một lòng hiếu sinh.
Giúp đời chẳng vụ tiếng danh
Chẳng màng của lợi, chẳng ganh kẻ tài"...
..."Thấy người đau giống mình đau,
Phương nào cứu đặng, mau mau trị lành.
Ǎn mày cũng đứa trời sinh
Bên còn cứu đặng, thuốc đành cho không"...
Kế thừa truyền thống y đức của ông cha ta, tiếp thu tinh hoa y đức nhân loại, trên cương vị là lãnh tụ kính yêu của dân tộc và một nhà vǎn hoá lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc trau dồi, rèn luyện y đức - đạo đức của người thầy thuốc, người cán bộ y tế.
Hồ Chí Minh là một trong những lãnh tụ cách mạng bàn nhiều nhất về đạo đức. Nếu như mọi người đều có thể tìm thấy trong di sản Hồ Chí Minh những quan điểm, tư tưởng đạo đức phù hợp với mình thì cán bộ, nhân viên ngành y, nhận rõ điều đó nhất. Có thể nói, sau đạo đức của người cán bộ cách mạng nói chung, đạo đức ngành y được Hồ Chí Minh bàn đến nhiều nhất, Hồ Chí Minh đã tặng cán bộ, nhân viên ngành y danh hiệu cao quý và đẹp đẽ nhất: "Thầy thuốc phải như mẹ hiền". Hầu như mỗi lần có dịp tiếp cận với ngành y, điều đầu tiên Hồ Chí Minh nhắc tới vẫn là: "Thầy thuốc phải như mẹ hiền". Đây chính là yêu cầu Hồ Chí Minh đặt ra trong phương châm xử thế, phương châm hành động và phục vụ của cán bộ và nhân viên ngành y đối với người bệnh.
Sau Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945, trong những bức thư gửi Trường Quân y nǎm 1946, Hội nghị Quân y nǎm 1948, Trường y tá Liên khu I nǎm 1949, Hội nghị y tế toàn quốc nǎm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ và tình thương, lòng bác ái, hy sinh, sự tận tâm phục vụ, tinh thần đoàn kết học tập tiến bộ và ý thức kỷ luật của cán bộ, nhân viên ngành y.
Trong Thư gửi Hội nghị Quân y tháng 3-1948, Hồ Chí Minh viết: "Người ta có câu: "Lương y kiêm từ mẫu", nghĩa là người thầy thuốc đồng thời phải là một người mẹ hiền"...
Trong Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc nǎm 1953, Hồ Chí Minh cǎn dặn cán bộ y tế cần phải: thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Cần phải tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân"Lương y kiêm từ mẫu".
Cùng với tư tưởng về y đức, Hồ Chí Minh viết trong Thư gửi Hội nghị cán bộ y tế tháng 2-1955: "cán bộ cần phải thương yêu, sǎn sóc người bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn. "Lương y phải như từ mẫu", câu nói ấy rất đúng". Theo Hồ Chí Minh, một trong những đặc điểm của các thầy thuốc là "phải có chí chịu khó, chịu khổ, phải giàu lòng bác ái, hy sinh".
Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh trở đi trở lại với luận điểm: "Lương y phải như từ mẫu", nghĩa là "Thầy thuốc phải như mẹ hiền". Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, gốc của cán bộ nhân viên ngành y chính là lương y phải như từ mẫu.
Trong tình thương yêu, có lẽ không có tình thương yêu nào đầm ấm, sâu sắc bằng tình thương của người mẹ. Trong cuộc sống, không có mối tình nào so sánh được với tình mẫu tử.
Người thầy thuốc tận tâm, tận lực cứu sống những người bệnh thập tử nhất sinh cũng được coi như người mẹ tái sinh cuộc sống cho họ.
Từ tấm lòng lương y như từ mẫu mà nảy sinh ra những đức tính cần thiết của người cán bộ y tế như niềm nở, dịu dàng trong tiếp xúc, tận tình, cẩn trọng, chu đáo khi chǎm sóc, ân cần, tỉ mỉ lúc dặn dò và trong những trường hợp khó khǎn, nguy kịch thì sẵn sàng chịu khó, chịu khổ, hy sinh, quên mình để làm tròn phận sự cứu người.
Có tình thương của người mẹ hiền thì người thầy thuốc tránh được những thói xấu như cầu lợi, kể công, phân biệt đối xử giữa giàu, nghèo, sang, hèn, hách dịch, lạnh lùng khi tiếp xúc, qua loa, tắc trách trong phục vụ, đố kỵ, kèn cựa với đồng nghiệp... "Thầy thuốc như mẹ hiền" là cốt lõi của đạo đức ngành y.
Điều làm cho những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thuyết phục và sức cảm hoá rất mạnh là vì Người đã nêu tấm gương sáng chói nhất trong lịch sử nước ta về lòng thương yêu vô hạn đối với nhân dân, về đức hy sinh cao cả, hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, mưu độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc, về lối sống lão thực, giản dị, mẫu mực và trong sáng tuyệt vời.
Nhiều cán bộ ưu tú của ngành y tế mang trong tim mình những hình ảnh, những lời giáo huấn về y đức vô cùng sâu sắc của Hồ Chí Minh, tự nguyện đi theo con đường vì nước, vì dân mà Người đã vạch ra.
Đó là Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Người Bộ trưởng Y tế đáng kính, người thầy thuốc có tấm lòng Bồ Tát. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Phạm Ngọc Thạch đã luôn luôn tâm niệm và làm theo hai câu thơ chữ Hán mà Hồ Chí Minh thường dùng để nhắc nhở những thanh niên yêu nước khi ở nước ngoài:
"Khí dĩ gian nan tráng
Hoài nhân tụng độc tân"
(đại ý là người có chí khí là người đã trải qua nhiều gian nan, khổ cực. Biết được cái mới là do ta đọc sách và học hỏi nhiều). Trên cương vị là người đứng đầu ngành y tế nhưng chỗ nào có dịch, có bệnh là ông tìm đến. Phạm Ngọc Thạch đã vượt qua bom đạn, rừng núi vào tận chiến trường với quyết tâm tìm ra phương thức, cách chữa đạt hiệu quả cao đối với đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Ngày 7-11-1968, ông đã hy sinh trên chiến trường trong khi thực hiện sứ mệnh cao cả đó.
Đó là Giáo sư Tôn Thất Tùng với hai bàn tay vàng đã cứu sống biết bao nhiêu người, đã nhiều nǎm, ngày đêm miệt mài nghiên cứu phương pháp mổ gan không chảy máu nổi tiếng trên thế giới. Nǎm 1969, ông viết về xúc cảm của mình trong lần đầu gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: "Nhớ ngày gặp Bác đầu tiên ở Bắc Bộ phủ: một cụ già ǎn mặc rất giản dị, gầy gò, trán cao, hai mắt sáng và toàn thân toát ra một sức hấp dẫn lạ thường. Ngay giờ phút ấy, tôi đã biết cuộc đời của tôi từ đây sẽ hoàn toàn thay đổi. Ngay giờ phút ấy, tâm hồn và trí tuệ của tôi đã đi theo Bác".
Đó còn là Giáo sư Đặng Vǎn Ngữ, người thầy thuốc có công to lớn trong công cuộc chống sốt rét ở nước ta thời chống Pháp và chống Mỹ. Khi đang là bác sĩ nghiên cứu ở Nhật Bản nǎm 1945, ông đã không cầm được nước mắt khi nghe Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Do đó, ông đã kiên quyết tìm đường về với Hồ Chí Minh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Người giao cho.
Không chỉ bộ trưởng, giáo sư nổi tiếng mới thấm nhuần và hành động theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh mà trong y tá, hộ lý cũng xuất hiện những người tiêu biểu về y đức, được chính Hồ Chí Minh ghi nhận, khen ngợi.
Nǎm 1952, Hồ Chí Minh có bài viết mang tựa đề: Một anh "mẹ thương binh", biểu dương y tá Đàm Vǎn Hoạch. Hồ Chí Minh viết: đồng chí Hoạch tận tuỵ trong chǎm sóc sức khoẻ cán bộ, chiến sĩ, dũng cảm cứu chữa thương binh, tích cực, chủ động trong vệ sinh phòng bệnh. Từ đó, Hồ Chí Minh kết luận: đồng chí Hoạch xứng đáng với danh hiệu "Người làm thuốc phải như người hiền, chị tốt", xứng đáng là đại biểu dự Đại hội toàn quốc chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu.
Điều này cho thấy những lời chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về y đức đã được các thế hệ thầy thuốc Việt Nam tiếp thu, vận dụng và được thể hiện trong chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
2. Ngành y tế và việc giáo dục y đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Công tác giáo dục y đức theo lời dạy của Hồ Chí Minh được ngành y tế nước nhà tiến hành trong nhiều nǎm nay đã cho chúng ta những bài học kinh nghiệm về nội dung và cách làm phong phú.
Câu nói: "Lương y phải như từ mẫu" do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên như một điều tâm niệm của người cán bộ y tế cần được hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc. Cần làm rõ nguồn gốc, ý nghĩa, tầm quan trọng của y đức trong việc giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ y tế (kể cả sinh viên, học sinh các trường y, dược) trong việc xây dựng ngành, trước hết là trong việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác cứu chữa người bệnh và chǎm sóc sức khoẻ nhân dân.
Câu Thầy thuốc phải như mẹ hiền càng có sức cảm hoá mãnh liệt khi nó được Hồ Chí Minh kính yêu nêu lên và nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Cho nên, mỗi khi giáo dục tư tưởng "Thầy thuốc phải như mẹ hiền", ngành y tế thường gắn với việc nêu cao cuộc đời vĩ đại và giản dị của Hồ Chí Minh, cùng những câu chuyện cảm động, thân thương mà Người dành cho ngành y tế, từ người lãnh đạo cao cấp đến nhân viên ở cơ sở, ở xã.
Biến đau thương thành hành động, tháng 11-1969, sau khi Hồ Chí Minh qua đời, ngành y tế tổ chức đợt sinh hoạt chính trị "toàn ngành đoàn kết, thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm túc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Lương y phải như từ mẫu"". Ngành đã tổ chức các đợt sinh hoạt nhân ngày truyền thống y tế (từ ngày 27-2-1975), ngày Thầy thuốc Việt Nam (từ ngày 27-2-1983), các đợt vận động tự phê bình và phê bình theo nội dung thư Hồ Chí Minh vào cuối nǎm. Đây là những đợt sinh hoạt có tác dụng giáo dục tư tưởng, nâng cao y đức.
Trên cơ sở học tập, quán triệt tư tưởng "Thầy thuốc như mẹ hiền", từ kinh nghiệm phục vụ ở các cơ sở khám, chữa bệnh, cố Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đã nêu lên ba yêu cầu ngắn gọn, để cán bộ, nhân viên dễ nhớ, dễ làm theo là:
- Đến, tiếp đón niềm nở,
- ở, chǎm sóc tận tình,
- Đi, dặn dò ân cần.
Đối với các trường đào tạo cán bộ, các đơn vị làm vệ sinh phòng dịch, các cơ sở làm công tác dược, các phòng y tế huyện và trạm y tế xã, Bộ Y tế đều từng bước vạch ra những tiêu chuẩn đạo đức cụ thể.
Nǎm 1979, quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Thầy thuốc phải như mẹ hiền", Bộ đã đề ra nǎm tiêu chuẩn người cán bộ y tế nhân dân để cán bộ, nhân viên toàn ngành dựa vào đó tự rèn luyện và giúp đỡ nhau tiến bộ:
1. Hết lòng phục vụ người bệnh và chǎm lo sức khoẻ nhân dân.
2. Thường xuyên học tập chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và vǎn hoá.
3. Trung thực, khiêm tốn, đoàn kết, tương trợ và hợp tác xã hội chủ nghĩa.
4. Gương mẫu chấp hành kỷ luật lao động, các chủ trương, chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước và của ngành.
5. Thấu suốt, bảo vệ và thực hiện đường lối, quan điểm cách mạng và y tế của Đảng nhằm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và ngành y tế xã hội chủ nghĩa.
Đối với từng tiêu chuẩn, Bộ Y tế còn nêu ra những yêu cầu cụ thể để tạo thuận lợi cho việc bồi dưỡng và bình chọn những cán bộ, nhân viên tiên tiến.
Nǎm 1982, trong Chỉ thị "Về thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình hằng nǎm theo thư của Hồ Chủ tịch", Bộ Y tế còn nêu rõ những yêu cầu cụ thể về lòng "thương yêu người bệnh" cho từng loại cán bộ, nhân viên ở các lĩnh vực công tác khác nhau, để việc liên hệ, kiểm điểm và rèn luyện được dễ dàng. Chỉ thị nêu lên những việc cần làm đối với cán bộ, nhân viên từng lĩnh vực của ngành y tế:
- Đối với cán bộ, nhân viên làm công tác vệ sinh phòng chống dịch, thì cần nhấn mạnh thêm tinh thần khắc phục khó khǎn, bám sát thực địa, nắm chắc tình hình, vừa làm đầy đủ và có hiệu quả công tác chuyên môn, kỹ thuật, vừa làm tốt công tác vận động quần chúng, phối hợp với các ngành và các đoàn thể áp dụng các biện pháp vệ sinh, để ngǎn ngừa dịch, bệnh, theo dõi, phát hiện và dập dịch nhanh chóng. Đồng thời chống mọi hiện tượng ngại khó, ngại khổ, quan liêu, đại khái, lơ là thiếu cảnh giác, thiếu trách nhiệm.
- Đối với cán bộ, nhân viên ở các cơ sở khám và chữa bệnh, cần phải có thái độ niềm nở, hoà nhã, quý trọng, lễ độ và thông cảm với người bệnh; cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh, cho thuốc, làm các thủ thuật một cách kịp thời, chu đáo, tỉ mỉ, thận trọng, chính xác; tiếp đón, sǎn sóc về ǎn, ở, về vệ sinh trật tự một cách ân cần, chu tất; thực hiện các chức trách, chế độ một cách nghiêm ngặt... Không được có thái độ coi thường, lạnh nhạt, dùng những lời nói xách mé, vô lễ đối với người bệnh và gia đình; không được đùn đẩy, gây phiền hà cho bệnh nhân; không được tuỳ tiện, qua loa, tắc trách... dẫn đến bỏ sót bệnh, nhầm lẫn, sai sót có hại cho sức khoẻ và tính mệnh người bệnh; không được lợi dụng nghề nghiệp, hối lộ, bớt xén thuốc men và tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm của người bệnh...
- Đối với cán bộ, công nhân làm công tác dược,cần nhấn mạnh tinh thần tự lực, quyết tâm phấn đấu tạo thêm nguồn nguyên liệu, vật tư, bao bì, thi đua sản xuất, pha chế thuốc men đạt nǎng suất và chất lượng cao, đồng thời đẩy mạnh phong trào thuốc Nam, đáp ứng được những nhu cầu về phòng bệnh và chữa bệnh của nhân dân, phân phối thuốc đến tay người dùng một cách thuận tiện..., không ỷ lại, chờ đợi, bó tay trước khó khǎn; không được chạy theo lợi nhuận mà làm bừa, làm ẩu, thiếu quan tâm đến các mặt hàng cần thiết, đến công thức và tiêu chuẩn chất lượng thuốc; không được móc ngoặc, trao đổi hàng hoá, lấy cắp và tuồn thuốc ra thị trường tự do...
- Đối với các trường đào tạo cán bộ y, dược,cần đề cao trách nhiệm, khắc phục khó khǎn để dạy tốt, học tốt và chǎm lo đời sống và điều kiện giảng dạy, học tập. Thầy phải gương mẫu, giáo dục học sinh một cách toàn diện, trò phải chǎm học và thường xuyên rèn luyện về đạo đức, về ý thức tổ chức kỷ luật, về tinh thần phục vụ, nhân viên phải bảo đảm các mặt công tác tổ chức và hậu cần... Chống mọi hiện tượng thiếu mẫu mực, thiếu nghiêm túc, tự do, tuỳ tiện trong đào tạo và chǎm sóc học sinh, coi nhẹ chất lượng toàn diện, những hiện tượng chây lười, vô tổ chức, vô kỷ luật, buông thả về đạo đức và lối sống trong học sinh...
- Đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý, lòng thương yêu người bệnh phải được thể hiện ở tinh thần phụ trách cao, ở lề lối làm việc có chương trình, kế hoạch và có biện pháp kiên quyết thực hiện kế hoạch, ở tác phong sâu sát cơ sở, sâu sát quần chúng, ở thái độ rõ ràng trước cái đúng và cái sai, tận tuỵ và hết lòng phục vụ sức khoẻ nhân dân, chǎm lo giáo dục tư tưởng và đời sống cán bộ, ở tinh thần không ngừng nâng cao trình độ công tác và nǎng lực lãnh đạo. Đồng thời khắc phục tư tưởng thiếu trách nhiệm, ngại quản lý, sợ va chạm, lùi bước trước khó khǎn, bỏ qua những sai lầm của cán bộ, nhân viên; quan liêu, bảo thủ, trì trệ; thiếu gương mẫu trong công tác, học tập và sinh hoạt...
Những nǎm gần đây, dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường, y đức trở thành vấn đề bức xúc. Trước tình hình đó, ngành y tế đã có những chủ trương, biện pháp với quyết tâm xây dựng y đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày 23-3-1996, Bộ Y tế đã có Chỉ thị số 04-BYT về vấn đề y đức. Tiếp đó, ngày 6-11-1996, Bộ Y tế lại có Quyết định số 2088/BYT-QĐ, 12 điều về y đức. Tóm tắt nội dung chính của 12 điều như sau:
1. Phải có lương tâm và trách nhiệm cao, hết lòng yêu ngành, yêu nghề, luôn rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức của người thầy thuốc. Không ngừng học tập và tích cực nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ chuyên môn.
2. Tôn trọng pháp luật và thực hiện nghiêm túc các quy chế chuyên môn.
3. Tôn trọng quyền được khám chữa bệnh của nhân dân, không phân biệt đối xử đối với người bệnh.
4. Khi tiếp xúc với người bệnh và gia đình người bệnh, luôn có thái độ niềm nở, tận tình, tạo niềm tin cho người bệnh và gia đình họ.
5. Khi cấp cứu phải khẩn trương chẩn đoán, xử trí kịp thời, không được đùn đẩy.
6. Kê đơn phải phù hợp với chẩn đoán, bảo đảm dùng thuốc hợp lý, an toàn.
7. Không được rời bỏ vị trí khi làm nhiệm vụ, theo dõi và xử trí kịp thời các diễn biến của người bệnh.
8. Khi người bệnh ra viện, phải dặn dò, hướng dẫn chu đáo.
9. Khi người bệnh tử vong phải thông cảm sâu sắc, chia buồn, hướng dẫn và giúp đỡ gia đình họ làm các thủ tục cần thiết.
10. Thật thà đoàn kết, tôn trọng đồng nghiệp, kính trọng các bậc thầy, sẵn sàng truyền thụ kiến thức, học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
11. Khi bản thân có thiếu sót, tự giác nhận trách nhiệm về mình, không đổ lỗi cho đồng nghiệp.
12. Hǎng hái tuyên truyền giáo dục sức khoẻ, phòng chống dịch bệnh, gương mẫu thực hiện nếp sống vệ sinh, giữ gìn môi trường trong sạch.
Có thể nói những quy định về y đức nêu trên được dư luận trong ngành và cả nước ủng hộ. Những điều quy định đó đã giúp cho việc giáo dục, rèn luyện, tự phê bình và phê bình, cũng như cổ vũ phong trào thi đua phấn đấu trở thành những cán bộ, nhân viên, học sinh ưu tú... ở các cơ sở y, dược, các trường đào tạo của ngành.
Đi đôi với những nội dung về y đức đã được cụ thể hoá thành các tiêu chuẩn của người cán bộ y tế, ngành y tế còn xây dựng các điều lệ, chức trách, chế độ, quy trình kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng... cho các cơ sở điều trị, phòng bệnh, sản xuất và phân phối thuốc. Việc Nhà nước ban hành các điều luật và các vǎn bản dưới luật về bảo vệ sức khoẻ, về môi trường, về hành nghề y, dược, đã tạo cơ sở để cán bộ, nhân viên ngành y tế nâng cao trách nhiệm và y đức.
Để rèn luyện và nâng cao y đức theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những nǎm qua, Bộ Y tế đã tǎng cường công tác chính trị, tư tưởng. Tại cơ quan Bộ đã thành lập Vụ công tác chính trị (lĩnh vực công tác này hiện nay do Vụ pháp chế đảm nhiệm), kiện toàn bộ môn Mác-Lênin và phòng giáo dục chính trị ở các trường, phối hợp với các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ để làm tốt việc giáo dục lý luận và đường lối cách mạng, tình hình nhiệm vụ chung và nhiệm vụ của ngành, của đơn vị, trên cơ sở đó, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng đạo đức cách mạng và đạo đức "Thầy thuốc phải như mẹ hiền" cho cán bộ, công nhân viên và sinh viên, học sinh trong ngành.
Trong quá trình tiến hành giáo dục chính trị và chỉ đạo phong trào thi đua, ngành y tế coi trọng phát hiện những cán bộ, công nhân, viên chức và sinh viên, học sinh xuất sắc, những người thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tinh thần đoàn kết vươn lên, yêu thương và tận tuỵ phục vụ người bệnh, phục vụ nhân dân để có kế hoạch khen thưởng, bồi dưỡng, đào tạo, đề bạt và sử dụng với những chế độ, chính sách xứng đáng. Càng làm tốt việc này, càng hỗ trợ có hiệu quả việc giáo dục, nâng cao đạo đức trong ngành. Nhiều cơ quan, đơn vị y, dược đã chú trọng kết hợp chặt chẽ công tác chính trị, tư tưởng với công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý. Thông qua đó, để xây dựng, rèn luyện y đức cho đội ngũ cán bộ.
3. Y đức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Bước vào thời kỳ mới, ngành y tế nước ta có nhiều điều kiện phát triển, đội ngũ cán bộ y tế có nhiều tiến bộ và cống hiến to lớn, nhưng cũng đứng trước những thách thức mới, trong đó có sự xuống cấp về y đức.
Nước ta là một nước nghèo, chậm phát triển và trải qua chiến tranh lâu dài nên để lại những hậu quả nặng nề về sức khoẻ cho nhân dân.
Những bệnh dịch và bệnh xã hội như sốt rét, lao, bướu cổ... còn đang là mối lo của đất nước, thì những bệnh và tệ nạn của thời đại đã lan tràn đến Việt Nam: bệnh HIV/AIDS, các bệnh nhiễm khuẩn đường tình dục, tai nạn giao thông, bệnh ung thư và tim mạch, bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ em, bệnh suy giảm miễn dịch do suy dinh dưỡng... đã trở thành gánh nặng của ngành y tế nước ta.
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý cũng làm cho y đức đứng trước những thử thách. Thực tế phong phú và phức tạp đó đang đặt ra trước mắt mỗi người thầy thuốc những vấn đề cần giải quyết, khiến cho y đức trở nên bức xúc hơn.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nội dung y đức về cơ bản không thay đổi. Tuy vậy, người thầy thuốc hiện nay đứng trước cơ chế mới phải đấu tranh để giữ vững bản chất nghề nghiệp, bảo vệ sự trong sáng của y đức. Trước những cám dỗ của đồng tiền, trước một đối tượng phục vụ đủ mọi thành phần giai cấp, đủ mọi tầng lớp của xã hội, với mạng lưới y tế Nhà nước và mạng lưới y tế tư nhân song song tồn tại, y đức thực sự đứng trước những thách thức.
Ngành y tế và người cán bộ y tế phải làm gì để không phân biệt đối xử trước đối tượng bệnh nhân cả giàu lẫn nghèo, người có quyền lực và người dân thường? Tâm lý xã hội cũng có sự thay đổi. Đó là tâm lý những người bỏ tiền đi chữa bệnh, thích thuốc mới, thuốc khó kiếm, tin vào thầy cho đơn thuốc đắt tiền và lấy tiền công đắt. Số này không chỉ thích đưa phong bì, mà còn thích đưa trước cuộc điều trị hoặc phẫu thuật. Tâm lý này đã ảnh hưởng cả đến lớp cán bộ nghèo, người dân nghèo. Nhiều bệnh nhân và gia đình hoàn cảnh khó khǎn, do chịu ảnh hưởng của những suy nghĩ trên nên xoay xở, chạy tiền chữa bệnh, lâm vào cảnh khốn quẫn. Đối với mọi người bênh, y đức đòi hỏi người thầy thuốc phải giữ bản lĩnh của mình, nhìn thẳng vào cǎn bệnh, vào thể trạng bệnh nhân mà điều trị, không phân biệt giàu, nghèo để có sự quan tâm hơn, kém. Nói chung, không có loại thuốc, loại xét nghiệm nào dùng riêng cho người giàu sang, loại thuốc và xét nghiệm nào dành riêng cho người nghèo khó. Tuy nhiên, cũng không buộc phải bình quân. Tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện về ngân sách và thuốc men, người thầy thuốc sẽ dùng thuốc sao cho hợp lý với khả nǎng và đối tượng. Người cán bộ và nhân viên ở cơ sở điều trị còn phải đấu tranh với hiện tượng thu "phí ngầm" với mọi khâu phục vụ (từ tiêm chích đến thay áo, quần...), thiếu nhiệt tình trong khám, chữa bệnh vì không có tiền bồi dưỡng thêm hoặc làm việc qua quýt trong giờ để kéo người bệnh về phòng mạch ngoài giờ, hay thiếu trung thực trong kê đơn, kê nhiều thuốc đắt tiền rồi móc ngoặc với cửa hàng thuốc để nhận tiền hoa hồng, v.v..
Với y tế tư nhân, y đức cũng phải được coi trọng. Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh hành nghề y, dược tư nhân. Do đó, hiện nay y tế tư nhân hành nghề song song với y tế nhà nước. Điều này tạo thêm thuận lợi cho người dân được khám chữa bệnh, đỡ phải chờ đợi và đi xa, cũng là để góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng điều trị. Lương tâm thầy thuốc và nền kinh tế thị trường, đã thúc đẩy người thầy thuốc tư chǎm sóc tốt người bệnh, không ngừng nâng cao trình độ khám, chữa bệnh, có được nhiều tín nhiệm và giữ được mối quan hệ gắn bó với người bệnh. Thực tế đã có không ít thầy thuốc tư trở nên gần gũi với bệnh nhân như người thân, hết lòng chǎm sóc họ, thông cảm với những người bệnh nghèo. Nhưng bên cạnh mặt được vừa nêu, y tế tư nhân cũng có những mặt trái, mặt tiêu cực, vi phạm tiêu chuẩn nghề nghiệp và y đức như kê đơn quá mức cần thiết, bán thuốc với giá cao, kéo dài thời gian điều trị..., gây khó khǎn và tốn kém cho người bệnh. Vì vậy, thầy thuốc tư cần luôn cảnh giác để giữ cho y đức của mình được trong sáng. Cần nhận rõ là giữa họ với người bệnh không chỉ là quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân mà còn là quan hệ giữa người bỏ công lao động và người trả công lao động. Người thày thuốc tư nhân nhận tiền công khám, chữa bệnh từ người bệnh là đúng, hợp pháp, không vi phạm đạo dức. Vấn đề là ở chỗ đánh giá công lao bỏ ra như thế nào để giữ được y đức và tính giá trị lao động bỏ ra đối với người nghèo, người thuộc diện chính sách như thế nào?
Y tế trên đường hiện đại hoá, ngày càng được ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, công nghệ mới vào phục vụ nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị. Cố gắng dùng máy móc để cứu chữa người bệnh, đó cũng là y đức. Nhưng người thầy thuốc có y đức không bao giờ ỷ lại hoàn toàn vào máy móc mà coi nhẹ việc trực tiếp khám bệnh và thǎm hỏi bệnh nhân. Vì máy móc dù tinh vi đến đâu cũng không thay thế được người thầy thuốc. Kể cả khi có đủ phương tiện theo dõi người bệnh từ xa, nhưng nếu để họ nằm trơ trọi một mình thì cũng là thiếu y đức. Người bệnh có nhu cầu được tiếp xúc, không những lợi cho việc theo dõi bệnh mà còn lợi cho cả tinh thần bệnh nhân. Người y tá lặng lẽ vào buồng bệnh tiêm cho bệnh nhân, rút kim ra rồi đi thẳng, chẳng một lời hỏi han, như vậy chưa thể nói tới "Thầy thuốc như mẹ hiền".
Trong khám, chữa bệnh, y đức đang đòi hỏi những người cán bộ quản lý ngành phải đi sâu vào thực tiễn khá phức tạp hiện nay để làm tốt hơn việc tổ chức mạng lưới điều trị từ trung ương đến cơ sở, thôn, bản, với cán bộ nhân viên và những trang bị cần thiết, hợp lý, thuận tiện, đạt hiệu quả đối với người bệnh và nhân dân. Cách đây hơn 40 nǎm, vào nǎm 1953, Hồ Chí Minh đã nói tới sự cần thiết phải chỉnh đốn, kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới gọn gàng, hợp lý, ít tốn kém mà làm được nhiều việc có lợi cho dân. Cần thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách bảo hiểm y tế, miễn giảm viện phí đối với các đối tượng chính sách và người nghèo cũng như các chế độ chính sách đối với cán bộ, nhân viên y tế. Trong lúc chính sách lương của cán bộ y tế chưa được giải quyết thoả đáng, việc tổ chức dịch vụ và tạo điều kiện cho anh chị em làm thêm để tǎng thu nhập, cải thiện đời sống là hết sức cần thiết. Nhưng đây chính là khâu cần phải đề cao y đức, cần quán triệt tư tưởng "Thầy thuốc như mẹ hiền" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong tình hình hiện nay, việc nêu cao y đức "Thầy thuốc như mẹ hiền" đối với công tác vệ sinh phòng dịch, với ngành dược cũng cần được coi trọng.
Gần đây, phong trào quần chúng thực hiện vệ sinh phòng bệnh, xây dựng các công trình vệ sinh cũng như phong trào trồng và sử dụng thuốc Nam ở các xã, thôn có phần giảm sút. Cần động viên cán bộ y, dược ở các tuyến trên và đặc biệt là huyện, xã nêu cao tinh thần trách nhiệm, sâu sát cơ sở, sát các hộ gia đình để tuyên truyền vận động, hướng dẫn nhân dân khôi phục và đẩy mạnh các phong trào nói trên, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ chǎm sóc sức khoẻ ban đầu.
Hiện nay, trong sản xuất và phân phối thuốc, y đức cũng có những đòi hỏi bức thiết không thể xem nhẹ. Vấn đề đặt ra là cần có đủ thuốc sản xuất ở trong nước, kể cả biệt dược, giá rẻ hơn so với thuốc nhập khẩu, với mạng lưới phân phối tận xã, phường và những cán bộ, nhân viên tận tình, chân thật quan tâm đến chất lượng, hiệu quả của thuốc, đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu phòng bệnh và chữa bệnh của nhân dân. Đáp ứng yêu cầu này đòi hỏi phải đề cao y đức. Đồng thời phải đấu tranh khắc phục mọi hiện tượng tiêu cực, chỉ biết đến lợi nhuận mà coi thường chất lượng, coi thường hiệu quả, coi thường nguyện vọng và lợi ích của người bệnh. Việc cho nhập khẩu tràn lan một số thuốc, nhất là biệt dược giá cao gấp một, hai chục lần những thứ thuốc mà trong nước đã sản xuất được và có đủ khả nǎng phân phối là một việc làm vi phạm y đức.
Một vấn đề cần được quan tâm hiện nay là tǎng cường việc giáo dục y đức trong tất cả các trường, các loại hình đào tạo cán bộ của ngành y. Đồng chí Phạm Vǎn Đồng cho rằng đạo đức học phải trở thành một môn học không thể thiếu trong các nhà trường. Việc giảng dạy đạo đức trong các nhà trường thuộc ngành y tế cần tập trung nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Người về y đức.
Y học bao gồm y đức, y lý, y thuật. Điều đáng suy nghĩ là hiện nay các loại sách viết về y đức, y tâm còn quá ít. Việc đẩy mạnh giáo dục y đức trong ngành y nói chung, trong các trường đào tạo cán bộ y tế nói riêng đòi hỏi cần sớm khắc phục tình trạng này. Cố giáo sư Hồ Đắc Di, một trong những thầy thuốc tiêu biểu của ngành y tế Việt Nam (người rất cảm phục Hồ Chí Minh khi cả hai người còn ở Pháp trước nǎm 1920) đã nói với nhiều lớp học viên ngành y: "Trong mọi nghề, có lẽ nghề thầy thuốc và nghề thầy giáo là hai nghề cao thượng nhất: một mang lại sự sống, một mang lại trí tuệ. Cả hai đều đòi hỏi lương tâm trong sáng".
Tư tưởng "Thầy thuốc như mẹ hiền" được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên và khẳng định nhiều lần ngay trong những nǎm kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ đó đến nay, ngành y tế nước nhà, những chiến sĩ áo trắng nhất quán trong việc học tập, vận dụng lời cǎn dặn của Người. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về y đức cốt lõi là tư tưởng "Thầy thuốc phải như mẹ hiền" đang soi đường và chắp cánh cho đội ngũ cán bộ y tế nước ta vượt qua mọi khó khǎn và thử thách, nắm vững vận hội, vượt qua thách thức, góp phần đưa nước ta tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh.