LỜI GIỚI THIỆU
Tiếp theo cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản việt Nam, tập I – Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam (1911-1929), Viện Lịch sử Đảng trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam tập II - Đảng lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền và thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1930-1945).
Những sự kiện được trình bày trong tập II tập trung phản ánh quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền. Đó là quá trình Đảng ta từng bước xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng phác họa những nét cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Đó cũng đồng thời là quá trình Đảng ta lãnh đạo các cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh điểm là Xô viết Nghệ Tĩnh, quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh phục hồi tổ chức Đảng và lực lượng cách mạng 1932-1935 tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng, cao trào dân chủ 1936-1939 và cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1939-1945 với thắng lợi rực rỡ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Với những nội dung nói trên, những sự kiện được trình bày trong cuốn sách được lựa chọn, biên soạn trên cơ sở những tư liệu mới, kết qua nghiên cứu mới và những nhận định đánh giá mới mang tính khoa học, đưa lại cho bạn đọc cái nhìn đúng đắn về lịch sử Đảng lãnh đạo cuộc cách mạng giành chính quyền trong những năm 1930-1945.
Mặc dù tập thể tác giả đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn nội dụng cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của đông đảo bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG
Năm 1930 TỪ NGÀY 6 - 1 ĐẾN ĐẦU THÁNG 2
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Được nghe báo cáo về tình hình không thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở trong nước và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị tan rã, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm tới Trung Quốc vào ngày 23-12-1929. Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công ngày 6-1-1930 để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-2-1930, các đại biểu về nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960 quyết nghị "từ nay trở đi lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng".
Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự phê bình và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình trạng xung đột, công kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và thành thật hợp tác để thống nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thảo luận thông qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán thành và thực hiện.
Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện công nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng quá khắt khe.
Đông Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện công nhận đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và Tân Việt.
Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản.
Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, thông qua kế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thống nhất cách cử Ban Chấp hành Tung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có năm ủy viên do Đông Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có tổng số bảy ủy viên1.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản đế. Theo đó, Công hội và Nông hội sẽ thu hút những công nhân và nông dân không thể kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội Phản đế. Hội nghị xác định rõ thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là cử cán bộ vào Nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ chức này vào Hội Phản đế, đối với Tân Việt thì không giải tán và cũng đưa vào Hội Phản đế, kết nạp những người ưu tú trong tổ chức đó vào Đảng. Đảng chủ trương tranh thủ Quốc dân Đảng, thu nạp đảng viên của Đảng này vào Hội Phản đế. Để thực hiện chủ trương đoàn kết các tố chức cách mạng trong Mặt trận phản đế, "Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng, Đảng Nguyễn An Ninh, v.v. để thành lập Mặt trận phản đế và về sau cá nhân hoặc tổ chức đều có thể gia nhập".
Đảng sẽ thành lập Hội Cứu tế do những đảng viên được Đảng cử ra phụ trách và tuyên truyền phát triển hội viên. Hội Cứu tế làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ những chiến sĩ cách mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất khi họ bị chính quyền thực dân bắt bớ, kết án và tù đày…
Về báo chí của Đảng, Hội nghị thành lập Đảng quyết định bỏ những tờ báo của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng xuất bản trước đây. Xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là mốc son đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng Việt Nam, là bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt Nam. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 10-13.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 21, tr. 904.
- Tạp chí Lịch sử Đảng số 3-2000.
TỪ NGÀY 6-1 ĐẾN ĐẦU THÁNG 2
Chánh cương văn tắt, Sách lược văn tắt của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng chủ trương làm “tư sản dân quyền c.m2 và thổ địa c.m để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cuộc cách mạng ấy, về phương diện xã hội thì làm sao cho dân chúng được tự do, nam nữ bình quyền và phổ thông giáo dục theo công nông hóa; về phương diện chính trị: đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, tổ chức ra chính phủ công nông binh và quân đội công nông; về phương diện kinh tế thì phải thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc Pháp giao cho Chính phủ công nông binh quản lý, thu hết ruộng đất chia cho dân nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày mở mang công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ.
Sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng phải tập hợp được đại bộ phận giai cấp và làm cho giai cấp lãnh đạo được dân chúng. Đảng phải đoàn kết được đại đa số nông dân, phải dựa vững vào nông dân nghèo, phải hết sức lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ đại địa chủ và phong kiến, Đảng phải "hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ.
Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp". Hơn nữa khi tuyên truyền khẩu hiệu "nước An Nam độc lập", Đảng phải đồng thời nêu khẩu hiệu đoàn kết chặt chẽ với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Chánh cương vắn tắt của Đảng, sách lược vắn tắt của Đảng là cương lĩnh cách mạng đầu tiên vạch ra con đường đi cho cách mạng Việt Nam. Chánh cương, Sách lược vắn tắt có giá trị vô cùng to lớn - là một trong những nền tảng quan trọng xây dựng nên đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr 2-5.
TỪ NGÀY 6-1 ĐẾN ĐẦU THÁNG 2
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định những vấn đề về: tên Đảng, tôn chỉ, điều lệ, hệ thống tổ chức, trách nhiệm và quyền lợi của đảng viên, các cấp Đảng chấp hành ủy viên, kinh phí và kỷ luật.
Điều lệ ghi rõ tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôn chỉ của Đảng là "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Điều kiện gia nhập Đảng là những ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng thì sẽ được kết nạp vào Đảng; đồng thời, Điều lệ cũng quy định rõ thời gian dự bị vào Đảng và tuổi vào Đảng.
Hệ thống tổ chức Đảng gồm: chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ, hay đặc biệt bộ; Trung ương.
Điều lệ chỉ rõ đảng viên có trách nhiệm tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng, tham gia mọi sự tranh đấu về chính trị và kinh tế của công nông; phải thực hành chính sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản;... Đồng thời đảng viên cũng có quyền tham gia và phát biểu ý kiến trong các cuộc hội nghị của chi bộ.
Điều lệ Đảng cũng quy định rõ nhiệm vụ các cấp ủy Đảng; kinh phí và kỷ luật Đảng.
- Đảng Cộng sản việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 7-9.
THÁNG 1
Thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Campuchia
Đầu năm 1930, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Campuchia được thành lập tại Trường trung học Xixôvát (Phnômpênh) do đồng chí Nguyễn Xuân Phương làm Bí thư.
Tiếp sau đó một số chi bộ cộng sản lần lượt được thành lập như Chi bộ đồn điền cao su Chúp (Côngpôngchàm), Chi bộ tỉnh Campốt và các chi bộ ở ba thị trấn khác cũng được thành lập.
Sự ra đời của các chi bộ Đảng nói trên là kết quả của phong trào yêu nước, phong trào công nhân tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, có tác dụng thúc đẩy phong trào cách mạng Campuchia tiến lên những bước mới. Đồng thời, góp phần vào việc thống nhất chiến lược chung chống thực dân Pháp ở Đông Dương.
- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam: Tìm hiểu đất nước Campuchia anh hùng, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1979, tr. 68-69.
NGÀY 3-2
Cuộc đấu tranh của công nhân Đồn điền cao su Phú Riềng
Giai cấp công nhân nói chung và công nhân đồn điền nói riêng từ khi ra đời đã bị giới chủ tư bản áp bức, bóc lột thậm tệ. Công nhân đồn điền phải chịu thân phận của người nô lệ.
Công nhân Đồn điền cao su Phú Riềng, thuộc Công ty Misơlanh (Michelin) cũng phải chịu tình cảnh như vậy. Cho nên, họ luôn vùng dậy phản kháng. Nhưng, chỉ từ khi có cán bộ cách mạng đến tuyên truyền, giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo thì những cuộc đấu tranh của công nhân mới có tổ chức, mới giành được thắng lợi. Tháng 10-1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Phú Riềng gồm có 6 đảng viên3. Các tổ chức nghiệp đoàn, Đội tự vệ cũng ra đời và tích cực hoạt động. Phong trào đấu tranh của công nhân Phú Riềng càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Ngày 3-2-1930, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng đồn điền, 5.000 công nhân nam, nữ vùng dậy bãi công, đòi bãi bỏ thuế thân; không được cúp phạt lương của công nhân, cấm đánh đập công nhân; cấp gạo cho công nhân nữ trong thời kỳ sinh đẻ; trả lại tự do cho những công nhân bị bắt.
Chủ đồn điền gọi lính của đồn binh Phú Riềng đến đàn áp cuộc bãi công. Đội xích vệ của công nhân xông ra chống đàn áp và tước súng của quân địch. Tên chỉ huy người Pháp và binh lính phải chạy khỏi đồn điền. Giới chủ, giám thị người Pháp cũng chạy về Sài Gòn. Bãi công chuyển thành biểu tình chính trị. Công nhân chiếm giữ tất cả các nhà máy và kho tàng phục vụ cho việc sản xuất cao su, lục soát các văn phòng, đốt giấy tờ. Toàn bộ Đồn điền Phú Riềng biến thành "Khu đỏ", đặt dưới quyền quản lý của công nhân; có Ban chỉ đạo đấu tranh; có Đội xích vệ, có bộ phận rời kho lương thực đem cất giấu vào rừng.
Trước tình hình đó, chi bộ Đảng họp nhận định rằng, cuộc bãi công đã vượt ra ngoài phạm vi đấu tranh chính trị và biến thành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền riêng lẻ ở địa phương và như thế địch sẽ tập trung lực lượng đàn áp công nhân và tiêu diệt phong trào cách mạng tại chỗ. Chi bộ chủ trương lãnh đạo công nhân chuyển hướng về đấu tranh kinh tế và chính trị công khai hợp pháp đề hạn chế tổn thất cho phong trào. Cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục dưới hình thức bãi công quần chúng đưa yêu sách đòi quyền lợi dân sinh và dân chủ.
Hôm sau, Thống đốc Nam Kỳ Cơrôhâyme (Krauheimer), Chánh mật thám Đông Dương Ácnu (Arnoux), Chánh và Phó chủ tịch tỉnh Biên Hòa Mácti và Vinmông chỉ huy 300 lính Pháp và 500 lính khố đỏ kéo đến Phú Riêng để đàn áp. Nhưng trước thái độ đấu tranh với những yêu sách hợp lý của quần chúng, nhà cầm quyền và giới chủ phải nhượng bộ chấp nhận một số yêu sách của công nhân. Cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân Phú Riềng kết thúc thắng lợi.
Cuộc đấu tranh của công nhân Đồn điền cao su Phú Riềng ảnh hưởng trực tiếp đến công nhân Đồn điền cao su Dầu Tiếng ở Thủ Dầu Một, thị xã Biên Hòa, Thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn và góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam. Bài học quan trọng của cuộc đấu tranh là biết ngăn chặn những hành động phiêu lưu, kịp thời chuyển hướng đấu tranh, biết kết thúc đúng lúc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đông Nai (1930-1995), Nxb. Đồng Nai, 1997, t.1.
NGÀY 9 - 2
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái và thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đêm 9-2 rạng ngày 10-2, Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành khởi nghĩa tại tỉnh lỵ Yên Bái, các huyện lỵ Lâm Thao và Hưng Hóa (Phú Thọ), ngày 15-2, ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hai Dương), Kiến An, Phụ Dực (Thái Bình).
Trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả, nhưng có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại Thủ đô Pari (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam tuy không tán thành chủ trương khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng khi cuộc khởi nghĩa nổ ra và khi các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng bị đế quốc tàn sát và bắt giam, Đảng Cộng sản Việt Nam liền kêu gọi toàn Đảng và nhân dân cả nước đấu tranh chống khủng bố trắng của đế quốc và đòi trả lại tự do cho những chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng. Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã, chủ nghĩa quốc gia trở thành trái mùa, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi "trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo".
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.I.
- Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr. 39-40.
NGÀY 18-2
Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, quần chúng bị áp bức, bóc lột. Người nêu rõ: "Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng: có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết. Chính vì vậy, phong trào cách mạng ngày càng lớn mạnh: công nhân bãi công, học sinh bãi khóa, nông dân đòi ruộng đất, nhà buôn nhỏ đóng cửa hàng, nhân dân cả nước đang vùng dậy chống bọn đế quốc".
Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ những nguyên nhân làm cho cách mạng Việt Nam không thể bị tiêu diệt: ‘Nếu đế quốc Pháp tưởng có thể dùng khủng bố trắng hòng tiêu diệt cách mạng An Nam thì chúng đã lầm to! Một là, cách mạng An Nam không bị cô lập, trái lại nó được giai cấp vô sản thế giới nói chung và giai cấp cần lao Pháp nói riêng ủng hộ. Hai là, giữa lúc các cuộc khủng bố trắng lên đến đỉnh cao thì những người cộng sản An Nam trước kia chưa có tổ chức đang thống nhất lại thành một đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam, để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm cách mạng".
Cuối cùng Người kêu gọi: "Đảng Cộng sản An Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay anh chị em chúng ta cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng" để hoàn thành những nhiệm vụ mà Đảng đề ra.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 14-17.
NGÀY 18-2
Báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản
Ngày 18-2-1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản. Bản báo cáo trình bày rõ những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm, Lào, Trung Quốc và tình hình chính trị ở Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Quốc tế Cộng sản về Hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 6-1, Nguyễn Ái Quốc triệu tập đại biểu của hai nhóm Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng. Tại cuộc họp đó “với tư cách là phái viên Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề có liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương", Người thống nhất các tổ chức cộng sản vào một Đảng duy nhất; các đại biểu xác định cương lĩnh và đường lối chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản; đồng thời, các đại biểu tổ chức Ban Chấp hành Trung ương lâm thời gồm bảy ủy viên chính thức và bảy ủy viên dự khuyết. Ngày 8-2, đại biểu các tổ chức cộng sản trở về Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam lúc mới thành lập có 310 đảng viên và hàng nghìn hội viên các tổ chức quần chúng. Báo cáo của Nguyễn Ái Quốc còn nêu lên phong trào đấu tranh đã diễn ra ở hầu khắp các tỉnh, nhất là phong trào đình công của công nhân.
Phần cuối bản báo cáo, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những kiến nghị gửi tới Quốc tế Cộng sản: về vấn đề của Đảng bộ Xingapo, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ được sự chỉ dẫn từ Thượng Hải qua Hồng Công và Đảng Cộng sản Việt Nam phải quan hệ chặt chẽ với Xingapo; Nguyễn Ái Quốc cũng yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi thư và địa chỉ của một số đồng chí lãnh đạo tại Xiêm để tiện liên lạc cho các đồng chí An Nam; ở Sài Gòn có khoảng 200 đồng chí Trung Quốc hoạt động, Nguyễn Ái Quốc để nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc cử một số đồng chí lãnh đạo đến đó và các Đảng bộ Trung Quốc, An Nam sẽ cử đại biểu để đến thành lập một văn phòng, nhằm phối hợp công tác và giúp đỡ lẫn nhau.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.18-25.
THÁNG 2
Thành lập Ban lâm thời Chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nam Kỳ
Trung tuần tháng 2-1930, hai đồng chí Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu về tới Sài Gòn và bắt liên lạc với các đồng chí trong Ban lâm thời chỉ đạo của An Nam Cộng sản Đảng và với đồng chí Ngô Gia Tự (tức Bách), đại diện cho Đông Dương Cộng sản Đảng tại Nam Kỳ để thành lập Ban lâm thời Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nam Kỳ.
Cuộc họp được tiến hành tại một căn nhà ở xóm lao động Khánh Hội. Hội nghị quyết định thành lập Ban lâm thời Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nam Kỳ do đồng chí Ngô Gia Tự làm Bí thư, trụ sở đặt tại đường Kítsơnơ (Kitchener) và Grimô (Grimaua) (nay là đường Nguyễn Thái Học và Phạm Ngũ Lão).
Sau khi thành lập, Ban lâm thời Chấp ủy tiến hành việc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Sài Gòn và các tỉnh cho đến tận các chi bộ cơ sở và các hội quần chúng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954) sơ thảo. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995. T.1.
NGÀY 24-2
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời nhưng chưa có lực lượng, tổ chức, chánh cương không cụ thể, chưa phải là một đoàn thể Bônsơvích chân chính "nhưng có tinh thần cộng sản" và muốn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Xét nguyện vọng chính đáng của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, ngày 24-2-1930, hai đồng chí thay mặt cho đại biểu của Quốc tế Cộng sản (tức Nguyễn Ái Quốc) là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu, hai đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) và Phạm Hữu Lầu cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời Chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ đã họp Hội nghị, chấp nhận sự sáp nhập của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nghị quyết chỉ rõ Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cử một người tham gia Lâm thời Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ; đồng thời, Lâm thời Chấp ủy của Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Chấp ủy Liên đoàn phải thông báo để cho các đồng chí trong Đảng biết Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 26-27.
NGÀY 24-2
Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa ra đời
Ngày 24-2-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Cán sự Đông Dương Cộng sản Liên đoàn của tỉnh Khánh Hòa được chuyển thành Tỉnh ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa. Tỉnh ủy gồm các đồng chí: Trần Hữu Duyệt, Lê Dung, Đỗ Long... do đồng chí Trần Hữu Duyệt làm Bí thư.
Sau khi được thành lập, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa đề ra nhiệm vụ quan trọng là nắm vững tình hình cơ sở đảng lựa chọn các đảng viên ưu tú của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chuyển thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; củng cố các chi bộ cộng sản, kết nạp đảng viên mới; vận động các tổ chức cách mạng.
Sau mấy tháng hoạt động ở Ninh Hòa, Tỉnh ủy lâm thời Khánh Hòa kết nạp được 20 đảng viên và nhiều quần chúng cũng được kết nạp vào các hội. Ở Nha Trang, trong Sở Kiểm lâm gây dựng được cơ sở Đảng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (1930-1975), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Khánh Hòa xuất bản, 2001, t.1.
NGÀY 5-3
Báo cáo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về tình hình cách mạng Việt Nam
Ngày 5-3-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản, khái quát tình hình đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam từ khi bị đế quốc Pháp xâm lược đến đầu năm 1930, rút ra những đặc điểm và nguyên nhân thất bại của mỗi giai đoạn đấu tranh.
Từ khi bị đế quốc Pháp xâm lược đến đầu năm 1905, nhân dân Việt Nam liên tiếp nổi dậy chống đế quốc: giành độc lập dân tộc. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương và cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Song, lúc bấy giờ, ngọn cờ dân tộc chủ yếu là do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo và chưa có phong trào quần chúng, chưa có tổ chức nên các cuộc đấu tranh ấy đã không thành công.
Từ năm 1905 đến năm 1910, nổi bật lên là phong trào Đông Du do Phan Bội Châu đề xướng. Nhiều sĩ phu yêu nước tìm đường sang Nhật học tập và cầu viện. Rút cuộc, Nhật câu kết với Pháp, thẳng tay trục xuất du học sinh Việt Nam.
Nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục! Các cuộc đấu tranh của nông dân ở Trung Kỳ (1908), vụ Hà Thành đầu độc, cuộc bạo động ở Thái Nguyên (1917), v.v. lại liên tiếp bùng lên. Các cuộc đấu tranh ấy vẫn bị thất bại, vì còn “thiếu tổ chức lãnh đạo của một đảng chính trị", nhưng cũng đã làm cho bọn đế quốc phải hoảng sợ.
Năm 1919, “một số những người quốc gia Việt Nam trẻ tuổi gửi một bản yêu cầu cho Hội nghị hòa bình ở Vécxây. Họ nhận được những bức thư rất hay của các phái đoàn hứa sẽ “chú ý xem xét” . Thế là hết”.
Năm 1924, Phạm Hồng Thái tiến hành mưu sát Toàn quyền Đông Dương Méclanh ở Sa Diện (Quảng Châu). Năm 1925, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập. Nguyễn Ái Quốc cho đó là một sự kiện có ý nghĩa to lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam, vì “nó sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn...". Trong lúc đó một phong trào quốc gia bùng lên mạnh mẽ, nổi bật là đám tang Phan Chu Trinh và cuộc đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu. Tiếp đó, nhiều đảng phái chính trị như Tân Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng,... liên tiếp được thành lập, các đảng phái này còn nặng về xu hướng quốc gia, nhưng cũng đã chứng minh bước phát triển mới của phong trào vận động cách mạng Việt Nam.
Trong lúc ấy, Việt Nam Cách mạng Thanh niên vẫn phát triển theo xu hướng chủ nghĩa cộng sản. Từ sau Đại hội lần thứ nhất (tháng 5-1929), hai tổ chức cộng sản ra đời, hai tổ chức này tuy công kích lẫn nhau, nhưng đều tích cực đi vào quần chúng vận động công nhân và nông dân, đều ra báo chí để tuyên truyền, cho nên ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ngày càng lan rộng, phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng phát triển.
"Ngày nay các nhóm cộng sản đã thống nhất vào một đảng, hoạt động nhất định sẽ tốt hơn trước nhiều”. Chính vì vậy, mặc dù cách mạng đang bị đế quốc Pháp đàn áp, khủng bố dã man, đồng chí Nguyễn Ái Quốc vẫn khẳng định chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng với kinh nghiệm và lòng hy sinh, với quần chúng ở bên cạnh, những người cộng sản nhất định sẽ chiến thắng”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 28-36.
THÁNG 3
Thành lập Ban lâm thời Chấp ủy Đảng bộ Thành phố Sài Gòn
Sau khi thành lập, Ban lâm thời Chấp ủy Nam Kỳ đã tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản và thành lập các chi bộ mới của Đảng bộ Sài Gòn.
Trong tháng 3-1930, Ban lâm thời Chấp ủy Đảng bộ Thành phố Sài Gòn được chỉ định gồm năm đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Lợi (tức Hữu Dũng) làm Bí thư.
Sau khi thống nhất, Đảng bộ Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn có các chi bộ ở Xưởng Ba Son, Hãng FACI, Đềpô xe lửa Dĩ An, Đềpô xe lửa Sài Gòn, Nhà đèn Chợ Quán, Nhà đèn Chợ Rẫy, Hãng rượu Bình Tây, Hãng dầu Nhà Bè, Hãng xây cất Bờrốtxa Môpanh (Brossard Mopin), Hãng buôn Sácne (Charner), Hãng xe điện và ô tô buýt, bến cảng, trong giới thủy thủ, thợ may, bồi bếp, xe kéo, cắt tóc học sinh, dân phố... tổng cộng khoảng 20 chi bộ với tổng số đảng viên khoảng 130 người.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954) sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
THÁNG 3
Thành lập Địa bộ phận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ
Với tư cách Uỷ viên Ban Chấp hành lâm thời Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Phong Sắc triệu tập Kỳ bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Trung Kỳ và các đại biểu Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Nghệ - Tĩnh, họp tại thành phố Vinh, thành lập Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ để thống nhất việc chỉ đạo thành lập Đảng trong xứ.
Địa bộ phận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gồm các đồng chí: Nguyễn Phong Sắc (tức Thịnh), Lê Mao (tức Cát), Lê Viết Thuật (tức Luyện)... do đồng chí Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư.
Trên cơ sở các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Địa bộ phận Trung ương lần lượt chỉ định Ban Chấp hành lâm thời ở Nghệ - Tĩnh: Tỉnh bộ Vinh bao gồm các Đảng bộ ở thành phố Vinh, Bến Thủy, hai huyện Hưng Nguyên, Nghi Lộc và thị xã Thanh Hóa do đồng chí Lê Mao phụ trách; Tỉnh bộ Nghệ An gồm các đảng bộ ở những huyện còn lại trong tỉnh do Nguyễn Liễn4, Uỷ viên Địa bộ phận Trung ương phụ trách, Tỉnh bộ Hà Tĩnh do đồng chí Trần Hữu Thiều (tức Nguyễn Trung Thiên) - phái viên của Phân cục Trung ương phụ trách.
Dưới sự lãnh đạo của Địa bộ phận Trung ương và các tỉnh bộ Ban Chấp hành Thị bộ Vinh - Bến Thủy và các huyện bộ: Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Nam Đàn, Thanh Chương, Anh Sơn, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Can Lộc, Đức Thọ, Nghi Xuân, Hương Sơn, Hương Khê, Kỳ Anh cũng lần lượt được thành lập.
Các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, các nhóm Đông Dương Cộng sản Liên đoàn và nhóm cộng sản do đồng chí Nguyễn Sỹ Sách xây dựng đều chuyển thành chi bộ hoặc liên chi bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam làm hạt nhân cho việc phát triển các chi bộ Đảng và các tổ chức quần chúng trong vùng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh 1930-1954, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1.
NGÀY 17-3
Thành ủy Hà Nội ra đời
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngày 17-3-1930, tại nhà số 42 phố Hàng Thiếc, dưới sự lãnh đạo của Lâm thời Chấp ủy Bắc Kỳ, Thành ủy lâm thời Hà Nội được thành lập gồm ba đồng chí: Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Ngọc Vũ và Lều Thọ Nam, do đồng chí Đỗ Ngọc Du làm Bí thư. Cuối tháng 4-1930, đồng chí Đỗ Ngọc Du, Bí thư Thành ủy lâm thời được Trung ương điều đi công tác ở nước ngoài. Tháng 6-1930, đồng chí Trần Văn Lan, Ủy viên Trung ương Đảng triệu tập cuộc họp ở 177 phố Hàng Bông để tổ chức lại Thành ủy. Thành ủy Hà Nội được chính thức thành lập do đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ làm Bí thư cùng hai ủy viên là Lê Đình Tuyển và Đỗ Danh Cưu. Văn phòng Thành ủy do đồng chí Tạ Quang Sần phụ trách.
Việc thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hà Nội là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách mạng của Thủ đô. Đó là kết quả của phong trào công nhân, phong trào yêu nước của Hà Nội trong những năm sôi sục cách mạng trước và sau cuộc vận động thành lập Đảng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930 - 2000), Nxb Hà Nội, 2004.
TỪ NGÀY 25-3 ĐẾN NGÀY 16-4
Cuộc bãi công của công nhân Nhà máy sợi Nam Định
Quán triệt chủ trương của Tỉnh ủy Nam Định, Chi bộ Nhà máy sợi Nam Định tích cực củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân. Tổ chức Công hội đỏ ở các phân xưởng khẩn trương, bí mật vận động công nhân chuẩn bị đấu tranh.
Từ ngày 25-3 đến ngày 16-4-1930, công nhân Nhà máy sợi Nam Định bãi công.
Cuộc bãi công do Tỉnh ủy Nam Định và Chi bộ Nhà máy sợi tổ chức và lãnh đạo, nhằm phát động phong trào công nhân ở thành phố và thúc đẩy sự phát triển phong trào nông dân ở các huyện; chào mừng sự kiện thành lập Đảng và chuẩn bị kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, một ban chỉ đạo đấu tranh được thành lập. Từ mục tiêu đấu tranh ban đầu là chống đánh đập, công nhân đã từng bước nêu lên các yêu sách: đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ những quy định vô lý, đuổi những đốc công và giám thị độc ác, không được khủng bố những công nhân bãi công... cuộc đấu tranh nổ ra từ xưởng dệt sang xưởng sợi bao gồm trên 4.000 công nhân, làm tê liệt toàn bộ hệ thống sản xuất dây chuyền của nhà máy.
Trước sức đấu tranh của công nhân, bọn chủ tư bản câu kết với nhà cầm quyền thuộc địa đưa ra mọi thủ đoạn chống phá bãi công: mua chuộc một số người tiếp tục trở lại làm việc, nhận tăng lương ngay cho một số công nhân sợi để cô lập công nhân dệt, đàn áp công nhân biểu tình, bắt giam những người mà chúng nghi là cầm đầu.
Về phương pháp đấu tranh công nhân cử đại biểu đi gặp chủ đưa yêu sách, đồng thời, tiến hành biểu tình để gây sức ép cho các cuộc thương lượng giữa thợ và chủ. Nông dân ở một số xã của các huyện Xuân Trường, Ý Yên, Nghĩa Hưng... trong tỉnh; Công hội một số nhà máy ở các Thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương... quyên góp tiền, viết thư, ra nghị quyết bày tỏ sự ủng hộ và hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi Nam Định.
Sau 21 ngày đấu tranh, cuộc bãi công giành được những thắng lợi bước đầu: giới chủ buộc phải tăng lương 10% và giảm mỗi ngày nửa giờ làm việc cho công nhân và hứa thực hiện các yêu cầu khác. Cuộc đấu tranh thắng lợi, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc và toàn diện của đội ngũ công nhân nhà máy.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Công ty dệt Nam Định: Lịch sử Đảng bộ Công ty dệt Nam Định (1930- 1975), Nam Định xuất bản, 2000.
THÁNG 3
Thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên tỉnh Bình Định
Nhằm phát triển mạnh các cơ sở Đảng ở Nam Trung Bộ, đầu tháng 3-1930, đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam cử cán bộ vào xây dựng chi bộ ở Quy Nhơn.
Qua một thời gian hoạt động, các cán bộ được cử vào Quy Nhơn lập được chi bộ cộng sản ở Nhà máy đèn Quy Nhơn gồm năm đồng chí do đồng chí Lê Xuân Trữ làm Bí thư. Địa bàn hoạt động của chi bộ mở rộng ra một số huyện An Nhơn, Bình Khê, Phù Mỹ.
Chi bộ cũng chú ý phát triển lực lượng trong một số xí nghiệp nhà đèn, hãng vận tải đường thủy, các gara và một số trường học. Để mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, chi bộ còn tích cực xây dựng các tổ chức: Sinh viên đỏ, Công hội đỏ, Cứu tế đỏ, Chi bộ còn phân công đảng viên thâm nhập vào các xóm lao động, các công trường.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t.I.
NGÀY 28-3
Thành lập Tỉnh ủy Quảng Nam
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Tỉnh bộ lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng ở Quảng Nam nhất trí thực hiện chủ trương hợp nhất của Trung ương Đảng.
Ngày 28-3-1930, Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam được thành lập, Tỉnh ủy lâm thời gồm các đồng chí Phan Văn Định, Phạm Thâm, Nguyễn Thái do Phan Văn Định làm Bí thư.
Về sau, Tỉnh ủy lâm thời được tăng cường thêm ba cán bộ, đồng chí Phạm Thâm được đề cử làm Bí thư Tỉnh ủy.
Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam ra đời vào lúc cơ sở Đảng và lực lượng quần chúng trung kiên đã lớn mạnh có hệ thống chỉ đạo bí mật từ tỉnh đến phủ, huyện và cơ sở. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh đấu tranh cách mạng.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
CUỐI THÁNG 3
Thành lập Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh
Cuối tháng 3-1930, được sự ủy nhiệm của Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Trung Kỳ, đồng chí Trần Hữu Thiều triệu tập Hội nghị thành lập Đảng bộ lâm thời tỉnh Hà Tĩnh tại bến đò Thượng Trụ (xã Thiên Lộc, Can Lộc) có sự tham dự của đại biểu các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Hội nghị chủ trương đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức cơ sở, thống nhất tên gọi chung cho tất cả các cơ sở Đảng đã xây dựng là chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị cũng chủ trương tiếp tục xây dựng các tổ chức quần chúng, trước hết là Nông hội đỏ nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Hội nghị cử Ban Chấp hành lâm thời của Đảng bộ do đồng chí Trần Hữu Thiều (tức Lai, tức Trung Thiên) làm Bí thư.
Đảng bộ Hà Tĩnh ra đời, trực tiếp lãnh đạo công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng trong tỉnh. Phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Tĩnh dưới sự lãnh đạo của Đảng bùng phát mạnh mẽ trong cao trào 1930-1931.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh 1930-1954, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1.
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 4
Các chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Hòn Gai, Cẩm Phả - Cửa Ông, Uông Bí - Vàng Danh lần lượt ra đời
Sau khi Chi bộ Đảng ở Mạo Khê ra đời, Chi bộ Đảng ở Hòn Gai được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Khắc Khang, Vũ Văn Hiếu, Trần Văn Nghệ, Nguyễn Văn Xứng (tức Lê Thanh Nghị)... do đồng chí Nguyễn Khắc Khang làm Bí thư.
Trong các xí nghiệp lớn và hầu hết các cơ sở sản xuất quan trọng ở Hòn Gai như Bến cảng, Nhà máy sàng, Nhà máy cơ khí, Nhà máy điện cọc 5, các mỏ Hà Tu, Hà Lầm, Cái Đá… đều có đảng viên hoạt động.
Chi bộ còn lập ra các tổ kinh tế, giao thông, ấn loát để làm công tác chuyên môn của Đảng.
Tháng 3-1930, Ban Cán sự Mỏ Hòn Gai được thành lập gồm ba đồng chí Nguyễn Khắc Khang, Vũ Văn Hiếu, Trần Văn Nghệ, do đồng chí Nguyễn Khắc Khang làm Bí thư.
Ở Cẩm Phả, Cửa Ông, Chi bộ Đảng được thành lập gồm các đồng chí Bùi Đắc Thanh, Đỗ Huy Liêm... do đồng chí Bùi Đắc Thanh làm Bí thư.
Cùng với việc thành lập các chi bộ Đảng, các tổ chức quần chúng cũng được xây dựng với nhiều hình thức phong phú như Công hội đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn, Hội Phụ nữ, Hội đá bóng, Hội học chữ quốc ngữ... Thời kỳ này cơ sở của Đảng ở vùng mỏ đã ăn sâu bám rễ trong quần chúng, tạo điều kiện cho phong trào công nhân vùng mỏ phát triển mạnh mẽ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t.1.
THÁNG 4
Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên ra đời
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tại các địa phương trong cả nước, công việc hợp nhất các tổ chức cộng sản được tiến hành khẩn trương.
Ở Thừa Thiên, việc hợp nhất hội tổ chức cộng sản trở thành nhiệm vụ hết sức cấp thiết của phong trào cách mạng.
Tháng 3-1930, đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ đến Huế để vận động thống nhất các tổ chức cộng sản ở Thừa Thiên.
Tại cơ quan liên lạc ở Bến Ngự (Huế), hội nghị bàn việc thống nhất hai tổ chức cộng sản thành một Đảng bộ được tiến hành. Đồng chí Nguyễn Phong Sắc thay mặt cho Phân cục Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ở Trung Kỳ giới thiệu hai Đảng bộ gặp nhau.
Đồng chí Dương Văn Lan thay mặt Đông Dương Cộng sản Đảng tỉnh Thừa Thiên và đồng chí Lê Viết Lượng đại diện Đông Dương Cộng sản Liên đoàn Thừa Thiên gặp gỡ để bàn việc thống nhất hai tổ chức.
Tháng 4-1930, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên họp, tuyên bố thống nhất hai tổ chức cộng sản thành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Năm tỉnh Thừa Thiên. Hội nghị thảo luận Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, cử Ban Chấp hành Đảng bộ gồm năm đồng chí, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư.
Sau khi được thành lập, Tỉnh ủy phân công các đồng chí ủy viên về các địa phương hoạt động cách mạng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên – Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
THÁNG 4
Thành lập Đảng ủy Mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả và Đảng ủy Mỏ Uông Bí - Vàng Danh
Sự phát triển sâu rộng của tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng ở vùng mỏ Quảng Ninh đòi hỏi phải có bộ máy lãnh đạo tập trung thống nhất để đưa phong trào tiến lên. Khoảng tháng 4-1930, Ban lâm thời Chấp ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Đảng ủy Mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả và Đảng ủy Mỏ Uông Bí - Vàng Danh.
Đảng ủy Mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả có ba đồng chí, do đồng chí Vũ Văn Hiếu làm Bí thư; về sau, được bổ sung đồng chí Nguyễn Công Hòa ở Thành ủy Hải Phòng về. Đảng ủy Mỏ Uông Bí - Vàng Danh có ba đồng chí do đồng chí Phạm Văn Ngọc làm Bí thư.
Tháng 9-1930, Ban lâm thời Chấp ủy Bắc Kỳ quyết định tách Đảng ủy Hòn Gai - Cẩm Phả thành hai Đảng ủy. Đồng chí Vũ Văn Hiếu được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy Cẩm Phả - Cửa Ông, đồng chí Trần Văn Nghệ làm Bí thư Đảng ủy Hòn Gai.
Đến tháng 9-1930, ở vùng mỏ Quảng Ninh có ba Đảng ủy khu vực, chứng tỏ sự lớn mạnh nhanh chóng của tổ chức Đảng và phong trào công nhân ở Quảng Ninh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t. 1.
THÁNG 4
Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại Lâm Viên được thành lập
Tháng 4-1930, sau khi dự Hội nghị ở Tân Mỹ về, đồng chí Trần Diệm triệu tập hội nghị để thực hiện quyết định về việc giải thể Chi bộ Tân Việt và thành lập chi bộ Cộng sản.
Hội nghị thành lập chi bộ Cộng sản họp tại căn buồng số 2 của Khách sạn Palát (Palace) với sự tham gia của ba đảng viên Tân Việt. Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Lâm Viên được thành lập gồm ba đồng chí, do đồng chí Trần Diệm làm Bí thư.
Chi bộ kết nạp được năm đảng viên mới, cuối năm được bổ sung ba đồng chí từ Ninh Thuận, Khánh Hòa đến nâng tổng số đảng viên lên 11 đồng chí và chia làm hai chi bộ: Chi bộ Palace có năm đảng viên do đồng chí Trần Diệm làm Bí thư, hoạt động trong công nhân khách sạn, nhà máy đèn, đường xe lửa; Chi bộ Cầu Quẹo có sáu đảng viên, do đồng chí Nguyễn Sĩ Quế làm Bí thư, hoạt động trong công nhân xây dựng, thợ may.
Hai chi bộ do đồng chí Trần Hữu Duyệt trực tiếp chỉ đạo.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Lâm Đồng: Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (1930-1945), Lâm Đồng, 1981, t.1.
THÁNG 4
Thành lập Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Ban lâm thời Chấp ủy Nam Kỳ ra đời và phân công cán bộ về các tỉnh để hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Ban lâm thời Chấp ủy đã phân công một nhóm cán bộ về Tiền Giang tiến hành thống nhất các tổ chức cơ sở Đảng. Chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 2 đến tháng 4-1930, các chi bộ Đảng Cộng sản ở Tiền Giang được thống nhất, hoặc được xây dựng thêm ở Thị xã Mỹ Tho, các huyện Châu Thành, Chợ Gạo, Cai Lậy...
Cuối tháng 4-1930, Tỉnh ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Mỹ Tho được thành lập do đồng chí Nguyễn Thiệu làm Bí thư. Tỉnh ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Thiệu, Nguyễn Hanh (tức Nhuận), đồng chí Lưu. Tỉnh ủy đóng tại nhà đồng chí Mai Bạch Ngọc (nay là xóm Dầu, phường 3, thành phố Mỹ Tho).
Đảng bộ ra đời có vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân trong tỉnh.
- Tỉnh uỷ Tiền Giang. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tiền Giang (1927-1954), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tiền Giang xuất bản, 1985, t.1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Mỹ Tho: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Mỹ 1927-1975, Mỹ Tho, 1999.
CUỐI THÁNG 4
Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bến Tre ra đời
Tháng 4-1930, Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho thực hiện quyết định của Ban lâm thời Chấp ủy Nam Kỳ cử một Ban cán sự gồm ba đồng chí: Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Văn Trí đến Bến Tre hoạt động để gây dựng cơ sở Đảng.
Đồng chí Nguyễn Văn Ân được phân công đến Tân Xuân (Cù Lao Bảo) để tuyên truyền cách mạng. Đồng chí đã cùng với đồng chí Trần Văn An bí mật hoạt động, tuyên truyền giáo dục, tập hợp quần chúng vào tổ chức Nông hội. Từ các hội viên Nông hội này, hai đồng chí Ân và An đã chọn một số người tích cực kết nạp Đảng và tiếp tục phát triển Nông hội sang các xã Phú Lễ, Phú Ngãi.
Cuối tháng 4-1930, đồng chí Nguyễn Văn Ân đã thay mặt Tỉnh ủy lâm thời Mỹ Tho thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Bến Tre tại xã Tân Xuân (Ba Tri). Chi bộ gồm 11 đồng chí, do đồng chí Trần Văn An làm Bí thư. Chi bộ Tân Xuân ra đời đã vận động, tổ chức nhân dân trong tỉnh diễn thuyết, rải truyền đơn, treo cờ Đảng, dán khẩu hiệu... tuyên truyền, giáo dục sâu rộng đường lối cách mạng của Đảng trong quần chúng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bến Tre: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930-2000). Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2003.
NGÀY 1-5
Phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931
Nhân ngày Quốc tế Lao động, hưởng ứng Lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân trong cả nước dấy làn làn sóng đấu tranh dân tộc và dân chủ mạnh mẽ.
Ở Bắc Kỳ, công nhân khu Mỏ Hòn Gai bãi công, biểu tình. Lần đầu tiên ở vùng mỏ, lá cờ đỏ búa liềm được treo trên đỉnh núi Bài Thơ.
Tại Thái Bình, hơn 1.000 nông dân Duyên Hà - Tiên Hưng biểu tình lên thị xã Thái Bình đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống và chống khủng bố.
Ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh. Ngày 1-5-1930, cờ đỏ búa liềm lần đầu tiên xuất hiện ở Quảng Nam. Tại thị xã Hội An và các vùng nông thôn Duy Xuyên, Điện Bàn, Đại Lộc, Quế Sơn... đều có rải truyền đơn treo cờ Đảng.
Đặc biệt, sáng ngày 1-5, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh ủy Nghệ An, công nhân và nông dân Vinh - Bến Thủy đã vùng dậy biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố đòi bồi thường thiệt hại cho các gia đình bị tàn sát trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi Nam Định, ủng hộ Liên Xô. Chính quyền thực dân thẳng tay đàn áp. Chúng huy động binh lính đến bắn vào đoàn biểu tình, nhưng anh em binh sĩ người Việt chống lệnh của bọn chỉ huy Pháp không bắn vào đồng bào mình.
Mặc dù vậy, bọn giám binh, chánh mật thám tỉnh, bọn chủ người Pháp đã tức tối bắn vào đoàn biểu tình làm 7 người chết và 18 người bị thương.
Trong khi làn sóng đấu tranh của quần chúng đang dâng lên ở thành phố Vinh - Bến Thủy, 3.000 nông dân tập trung tại đình làng Hạnh Lâm (huyện Thanh Chương - Nghệ An) tổ chức mít tinh, biểu tình vào đồn điền của tên ký Viễn đòi trả lại ruộng đất và con đường giao thông độc đạo hắn đã lấn chiếm của dân. Tên ký Viễn phải bỏ trốn. Mấy ngày sau, bọn đế quốc tập trung binh lính đến đàn áp làm 17 nông dân bị chết và một số khác bị thương.
Tại Nam Kỳ, khoảng 1.000 nông dân quận Đức Hòa (Chợ Lớn) đã biểu tình đến quận lỵ đòi giảm thuế, bỏ sưu. Bọn Pháp đàn áp dã man làm 9 người chết, 50 người khác bị thương. Nhưng đoàn biểu tình vẫn không lùi bước, buộc địch phải nhượng bộ, nhận bản yêu sách, giảm thuế, giảm sưu.
Tại Sa Đéc và Long Xuyên, các cuộc biểu tình của nông dân quận Cao Lãnh và quận Chợ Mới đều giành được thắng lợi. Hai tên chủ quận Chợ Mới và Cao Lãnh buộc phải giải quyết yêu sách của quần chúng: hoãn thuế 2 tháng, thả những nông dân bị bắt vì thiếu thuế.
Máu của công nhân và nông dân Việt Nam đã đổ trong dịp kỷ niệm 1-5-1930. Nhưng sự đàn áp dã man của địch không dập tắt được phong trào. Khắp nơi, quần chúng họp mít tinh, truy điệu những người đã hy sinh để nung nấu thêm chí căm thù đế quốc, phong kiến và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Những cuộc mít tình, biểu tình, bãi công vẫn tiếp tục dâng cao. Trong tháng 5, 54 cuộc đấu tranh đã nổ ra (Bắc Kỳ có 21 cuộc, Trung Kỳ có 21 cuộc, Nam Kỳ có 12 cuộc), trong số đó có 18 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc của nông dân.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào bãi công của công nhân ở nhà máy và phong trào biểu tình của nông dân ở nông thôn đã hình thành khối liên minh đấu tranh của hai giai cấp nông dân và công nhân, làm cho đế quốc Pháp vô cùng lúng túng và bị động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 70.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 81-82.
THÁNG 6
Thành lập Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
Trong khoảng thời gian từ tháng 8-1929 đến tháng 2-1930, những hội viên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Ngãi chưa bị lộ, thực hiện chủ trương chung của Tổng bộ, được cử vào nhà máy, đồn điền, bến cảng để vô sản hóa và tìm bắt liên lạc với Đảng, đồng chí Nguyễn Nghiêm triệu tập đại biểu các huyện và các đồng chí ở Nam Bộ về làng Tân Hội (Đức Phổ) để truyền đạt nghị quyết thống nhất Đảng toàn quốc, đồng thời, tuyên bố chính thức thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi và chuyển những chi bộ "dự bị cộng sản" thành những chi bộ cộng sản. Hội nghị bầu ra Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Nguyễn Nghiêm làm Bí thư.
Đến tháng 6-1930, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi được triệu tập tại Hùng Nghĩa (Đức Phổ), bầu ra Tỉnh ủy chính thức do đồng chí Nguyễn Nghiêm làm Bí thư.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
GIỮA NĂM
Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Rạch Giá ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước ngoặt vĩ đại chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam nói chung và của phong trào cách mạng hai tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên nói riêng.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, khoảng giữa năm 1930, Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Mỹ Quới tự giải tán và thành lập Chi bộ Cộng sản. Chi bộ gồm có các đồng chí: Trần Văn Bảy, Lê Giáo Huấn, Trương Quý Thể, Trần Văn Tám… Đây là Chi bộ Cộng sản đầu tiên của tỉnh Rạch Giá.
Chi bộ Mỹ Quới ra đời, lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân trong tỉnh đi vào quỹ đạo chung của phong trào cả nước.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Kiên Giang (1930-1945), sơ thảo, Kiên Giang, 1985.
NGÀY 25 THÁNG 6
Phiên tòa xét xử đồng chí Tôn Đức Thắng
Năm 1927, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử vào Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ của Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Đồng chí đã cùng với các đồng chí khác ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin trong giai cấp công nhân ở Nam Bộ, làm cho phong trào công nhân và tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng vững mạnh.
Quá trình hoạt động của đồng chí Tôn Đức Thắng bị mật thám Pháp theo dõi ráo riết, năm 1929, đồng chí bị địch bắt giữa lúc phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đang lên mạnh, giữa lúc các cán bộ của Việt Nam Cách mạng Thanh niên đang tích cực vận động thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Ngày 25-6-1930, thực dân Pháp lập tòa án đặc biệt và đưa đồng chí ra xét xử. Luật sư Giắcơbi từ Pari sang để bào chữa cho đồng chí.
Tại tòa án, nổ ra cuộc tranh luận gay gắt giữa một bên là luật sư và đồng chí Tôn Đức Thắng và một bên là Tòa án thực dân. Mặc dù không đủ chứng lý để kết tội, song cuối cùng Toà án vẫn kết án đồng chí Tôn Đức Thắng 20 năm tù khổ sai. Tháng 6-1930, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo với dòng ghi chú trong hồ sơ “phần tử nguy hiểm" và số tù 5289.
Trong thời gian bị lưu đày, đồng chí Tôn Đức Thắng đã cùng với tù chính trị cộng sản trong Nhà tù Côn Đảo đấu tranh anh dũng chống chế độ nhà tù, giữ vững khí tiết người cộng sản.
- Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh (Chủ biên): Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 404.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Đồng chí Tôn Đức Thắng người chiến sĩ cộng sản kiên cường mẫu mực, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1982, tr 16-17.
THÁNG 6
Thành ủy Hà Nội chính thức thành lập
Cuối tháng 4-1930, đồng chí Bí thư Thành ủy được Trung ương điều đi công tác ở Thượng Hải (Trung Quốc). Đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ, Ủy viên Thành ủy tạm thay. Để kiện toàn Ban lãnh đạo, đầu tháng 6-1930, đồng chí Trần Văn Lan, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập cuộc họp ở 177 phố Hàng Bông để tổ chức lại Thành uỷ, gồm ba đồng chí do đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Ngọc Vũ phụ trách chung và giới bếp, hai đồng chí ủy viên phụ trách phong trào công nhân.
Để thực hiện nghị quyết của Trung ương và Ban lâm thời Chấp ủy Bắc Kỳ về đẩy mạnh đấu tranh, phát triển tổ chức, chống khủng bố của quân thù và hưởng ứng phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, Thành ủy lập đội tuyên truyền xung phong do đồng chí Lê Đình Tuyển làm Đội trưởng, ngoài ra, công tác vận động các giới được chú ý như phân công các đồng chí Lều Thọ Nam phụ trách học sinh, đồng chí Đặng Xuân Khu phụ trách sinh viên, binh lính, một số đồng chí phụ trách thanh niên, phụ nữ...
Từ những chủ trương đó, tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng ngày càng phát triển. Cơ sở Đảng được thành lập ở Ga Hà Nội, Nhà máy Xe lửa Gia Lâm, Sở Xe điện, các nhà máy Điện, Nước, Diêm, Bia, Nước đá, gạch Hưng Ký, Gạch Năm Diệm, các xí nghiệp sửa chữa ô tô, gara Avia, Stai, Boalô, Anhđôtô, nhà bán ô tô Sơvôrơlê, các nhà in Trung Bắc, Lê Cường, Iđêô (Viễn Đông), Tôpanh (nay là Nhà in báo Nhân Dân), Sở ươm cây La pho, Sở Vô tuyến điện Bạch Mai,... Đảng viên làm ở nhà công chức cao cấp của thực dân như 90 phố Thợ Nhuộm, 9 phố Savátxiơ (Lê Thạch) đã tạo trụ sở bí mật cho Trung ương, Ban lâm thời Chấp ủy, Thành ủy.
Ở ngoại thành, cơ sở Đảng phát triển chậm hơn nội thành, theo địa bàn của Hà Nội bấy giờ thì cơ sở Đảng lại phát triển mạnh ở nhiều xã, huyện thuộc các tỉnh giáp với Hà Nội như Đông Phù, Đông Trạch, Sét thuộc Hà Đông cũ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930 – 2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
CUỐI THÁNG 6 ĐẦU THÁNG 7
Thành lập Tổng Công hội Nam Kỳ
Trong quá trình tham gia cách mạng, đồng chí Ngô Gia Tự đặc biệt chú trọng xây dựng cơ sở đảng, cơ sở cách mạng trong phong trào công nhân. Vì vậy, từ cuối năm 1929 đầu năm 1930, nhiều Công hội ở Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập: Công hội rượu Phôngten, Công hội FACI, Công hội thợ may, Công hội hỏa xa, Công hội thủy thủ, Công hội Nhà máy điện...
Trên cơ sở nhiều tồ chức Công hội đã hình thành ở các cơ sở công nghiệp và các địa phương, Ban lâm thời Xứ ủy Nam Kỳ quyết định triệu tập Hội nghị để thành lập Tổng Công hội Nam Kỳ vào cuối tháng 6 đầu tháng 7-1930, nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng sâu rộng trong giai cấp công nhân.
Hội nghị họp tại Sài Gòn với sự dại diện có mặt của 700 hội viên Công hội đỏ ở các địa phương.
Hội nghị cử Ban Chấp hành Tổng Công hội gồm năm đồng chí, do Võ Phong (Nguyễn Thái) làm Thư ký. Công hội quyết định cử thêm người xuống các địa phương chưa thành lập Công hội để giúp đỡ tổ chức các Công hội cơ sở.
Tổng Công hội Nam Kỳ ra đời đã đẩy mạnh sự thành lập các tổ chức Công hội ở các địa phương, đồng thời tăng cường tinh thần đoàn kết đấu tranh của giai cấp công nhân, đưa phong trào công nhân phát triển lên một trình độ mới.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954) sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
THÁNG 7
Cuộc đấu tranh của nông dân xã Bàn Môn (Phú Lộc, Thừa Thiên)
Tháng 7-1930, địa chủ và hương lý ở xã Bàn Môn (Phú Lộc) lợi dụng tình hình mất mùa bất nhân dân đi lấn phá, khai hoang 40 mẫu ruộng ở đầm Cầu Hai. Hàng nghìn nông dân phải lao động hết sức nặng nhọc và chỉ được trả tiền công bằng 250 gam gạo một ngày. Trước tình hình này, Chi bộ Truồi đã lãnh đạo nông dân đình công, đòi tăng tiền công. Cuộc đấu tranh thu được kết quả, bọn cường hào buộc phải trả thêm tiền cho nông dân.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh gây tiếng vang trong toàn tỉnh. Nông dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và khả năng sức mạnh của chính mình.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên – Huế (1930 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.I .
THÁNG 7
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập
Được sự ủy nhiệm của Ban lâm thời Chấp ủy Bắc Kỳ, đồng chí Nguyễn Doãn Chấp trở về Thanh Hóa vận động thành lập Đảng bộ. Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Doãn Chấp, Hội nghị thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Thanh Hóa được triệu tập tháng 6-1930 tại Hàm Hạ (Đông Sơn) gồm bảy đồng chí.
Hội nghị nhất trí tuyên bố thành lập Chi bộ Cộng sản và cử đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư Chi bộ. Sau khi ra đời, Chi bộ Hàm Hạ tích cực tuyên truyền, phát triển đảng viên. Chỉ trong một thời gian ngắn, số đảng viên đã lên tới 12 đồng chí.
Một tháng sau, Chi bộ Phú Lộc (Thiệu Hóa) và Chi bộ Yên Trường (Thọ Xuân) cũng ra đời. Như vậy, đến đầu tháng 7-1930, Thanh Hóa đã có ba Chi bộ Cộng sản hoạt động rất sôi nổi. Tên cơ sở phong trào cộng sản phát triển nhanh chóng, ngày 29-7-1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được triệu tập tại Yên Trường. Hội nghị thảo luận Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt Điều lệ tóm tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua.
Hội nghị Đảng bộ Thanh Hóa nhất trí đề ra những chủ trương: phát triển tổ chức Đảng, bồi dưỡng đảng viên, xây dựng các tổ chức quần chúng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ... và quyết định ra tờ báo Tiến lên làm cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời, gồm các đồng chí: Lê Thế Long, Vương Xuân Cát, Lê Văn Sỹ, do đồng chí Lê Thế Long làm Bí thư.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa ra đời đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách mạng của nhân dân Thanh Hóa.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hóa, 2000, t. I.
NGÀY 1-8
Nông dân Can Lộc đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế chống chiến tranh đế quốc
Hưởng ứng chủ trương của Tỉnh ủy Hà Tĩnh, ngày 1-8- 1930, nông dân huyện Can Lộc biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế chống chiến tranh đế quốc.
Mờ sáng ngày 1-8, hơn 500 nông dân hai tổng Phù Lưu, Lai Thạch tập hợp tại bến đò Hạ Vàng, giương cao cờ Đảng và biểu ngữ kéo về huyện lỵ. Được tin quần chúng biểu tình, tri huyện Can Lộc cùng năm lính vội ra cầu Nghẽn để ngăn chặn. Trước uy thế của quần chúng, tên tri huyện phải nhận bản yêu sách của quần chúng và hứa sẽ gửi lên quan tỉnh giải quyết.
Cuộc biểu tình của nông dân Can Lộc ngày 1-8-1930 là cuộc vùng dậy đầu tiên của quần chúng, có sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất của các cấp bộ đảng. Thắng lợi của cuộc biểu tình của nông dân Can Lộc có tiếng vang lớn.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh 1930-1954, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, t.1.
NGÀY 5-8
Tạp chí Đỏ ra đời
Thi hành chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và quyết định của Hội nghị thành lập Đảng, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản Tạp chíĐỏ. Ngày 5-8-1930, Tạp chí ra số đầu tiên mỗi số 100 bản (in rônêô). Song do điều kiện khó khăn, Tạp chí ra khoảng 1-2 tuần, một số.
Tạp chí đăng các bài về tin tức thế giới, kinh nghiệm cách mạng của các nước, các công tác Đảng, kinh nghiệm công tác bí mật, phê bình các khuynh hướng sai lầm.. Tạp chí Đỏ đóng vai trò là tài liệu huấn luyện và nghiên cứu cho toàn Đảng.
Tạp chí tồn tại đến tháng 10-1930 thì được thay bằng Tạp chí Cộng sản - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925 - 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984. tr.89.
- Đỗ Quang Hưng (chủ biên): Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 10.
NGÀY 15-8
Báo Tranh đấu ra đời
Mười ngày sau khi Tạp chí Đỏ ra đời, ngày 15-8-1930, Trung ương Đảng xuất bản báo Tranh đấu.
Để mở rộng ảnh hưởng của tờ báo, ngoài việc in bằng chữ quốc ngữ, báo Tranh đấu còn in chữ Nôm (lúc đó chữ Nôm còn thịnh hành ở thành thị và một số vùng nông thôn).
Tôn chỉ của báo Tranh đấu là: Để thống nhất tư tưởng, tổ chức, hành động cho toàn Đảng và quần chúng lao khổ. Báo đăng các văn kiện của Quốc tế Cộng sản nói lên mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng, khẳng định vai trò quyết định của quần chúng trong lịch sử, tin tưởng vào năng lực cách mạng và trí sáng tạo của quần chúng.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, báo Tranh đấu ngừng xuất bản, thay thế vào đó là tờ Cờ vô sản - cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1984, tr. 89-91.
- Đỗ Quang Hưng (chủ biên): Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 102-103.
TỪ THÁNG 8 ĐẾN CUỐI NĂM
Một số tờ báo của Xứ ủy, Thành ủy, Tỉnh ủy ra đời
Nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề, đặc biệt là nhiệm vụ tuyên truyền cho quần chúng công, nông hiểu rõ sứ mệnh của mình trong cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Trong công tác tuyên truyền báo chí là một vũ khí sắc bén, cho nên cùng với việc Trung ương Đảng xuất bản tờ Tranh đấu, các Xứ ủy, Tỉnh ủy, Thành ủy cho ra đời các tờ báo của mình.
Xứ ủy Bắc Kỳ xuất bản tờ báo Tiến lên, Xứ ủy Trung Kỳ với tờ báo Người lao khổ, Công nông binh, Xứ ủy Nam Kỳ có Tạp chí Cộng sản,Lao khổ.
Các Thành uỷ, Tỉnh ủy đều cho ra đời các tờ báo để phục vụ mục đích đấu tranh cách mạng. Thành phố Hà Nội là điển hình với ba tờ, nhằm tuyên truyền cho công nhân phụ bếp, học sinh và tờ Bếp (Boy Bếp), hai tờ Hồng quân và Giác ngộ tuyên truyền vận động binh lính Pháp và Việt. Tỉnh Nghệ An có tờ Nghệ An đỏ, Hà Tĩnh có tờ Bước tới, Hà Nam có tờ Dân cày, Quảng Nam có tờ Lưỡi cày, Đặc khu ủy Vàm Cỏ Đông có tờ Giải phóng.
Một số huyện ủy cũng ra báo: Huyện ủy Nam Đàn tờ Giác ngộ, Quỳnh Lưu tờ Lao động, Thanh Chương tờ Nhà quê.
Sự ra đời các tờ báo cách mạng phản ánh sự cố gắng của các cấp ủy Đảng trong việc tuyên truyền vận động quần chúng. Đồng thời những tờ báo đó đã góp phần tích cực cho việc tăng cường ảnh hưởng sâu rộng của Đảng trong nhân dân.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925- 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 91.
NGÀY 15-8
Nghị quyết của Đại hội Công hội đỏ Quốc tế về tình hình và nhiệm vụ của Công hội đỏ Đông Dương
Từ ngày 15 đến ngày 30-8-1930, Đại hội lần thứ V Quốc tế Công hội đỏ họp tại Mátxcơva. Dự Đại hội có 538 đại biểu đến từ 61 quốc gia. Đại biểu Công hội đỏ Việt Nam có ba đồng chí: Hoàng Bình, Phạm Văn Đức, Lê Văn Kiệt. Đại hội đã ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ của Công hội đỏ Đông Dương.
Căn cứ vào bản báo cáo của Đoàn đại biểu Công hội đỏ Đông Dương đọc tại Đại hội, Nghị quyết của Đại hội đã phân tích và nhận định về tình hình đời sống và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Đông Dương; đề ra nhiệm vụ thành lập Tổng Công hội Đông Dương; giúp cho nông dân lập ra Nông hội, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi ngày làm 8 giờ, tự do hội họp; tự do ngôn luận; công khai tổ chức Công hội..., và gắn khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày với khẩu hiệu đấu tranh đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến.
Nghị quyết của Đại hội Quốc tế Công hội đỏ có tác dụng hướng dẫn phong trào công nhân Đông Dương và cổ vũ cao trào cách mạng của công nhân và nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.315-318.
NGÀY 30-8
Cuộc biểu tình của nông dân Nam Đàn (Nghệ An)
Từ cuối tháng 8, đầu tháng 9-1930, phong do cách mạng ở Nghệ An phát triển lên định cao với các cuộc đấu tranh ngày càng quyết liệt, mở đầu là cuộc đấu tranh của 3.000 nông dân Nam Đàn, ngày 30-8-1930. Quần chúng tập trung mít tinh ở ba địa điểm trong huyện rồi cùng kéo về thị trấn Sa Nam, đập phá đại lý rượu ty, tràn vào huyện đường, đốt hồ sơ lưu trữ, phá nhà giam, giải thoát tù nhân. Đại biểu đoàn biểu tình đã đấu lý và buộc tri huyện Nam Đàn Lê Khắc Tưởng phải ký và đóng dấu vào bản yêu sách. Đạt được yêu cầu định trước, đoàn biểu tình phân tán về từng tổng, đốt phá các điếm canh, trấn áp bọn tổng lý gian ác có nợ máu với nông dân.
Tin thắng lợi của cuộc đấu tranh ở Nam Đàn lan nhanh ra các nơi, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân Vinh, Hưng Nguyên, Thanh Chương, Đô Lương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 84.
NGÀY 1-9
Cuộc đấu tranh của nông dân Thanh Chương
Ngày 1-9-1930, tại Thanh Chương diễn ra cuộc biểu tình với quy mô lớn của 20.000 nông dân.
“Toàn huyện Thanh Chương nổi dậy tranh đấu. Cuộc biểu tình 20.000 người... sớm ngày 1-9, nông dân các xã tụ họp diễn thuyết rồi cờ dong, trống đánh đến chợ Rộ và làng Nguyệt Bồng ở hai bên bờ sông Cả (chỗ huyện lỵ đóng). 20.000 anh em, chị em tụ họp trên đầu phấp phới 200 lá cờ đỏ vẽ búa liềm và viết các khẩu hiệu…”. Tri huyện Phan Sĩ Bàng và Đồn trưởng Thanh Quả người Âu ra lệnh cho lính bắn súng về phía tả ngạn sông Lam (nơi đoàn biểu tình hai tổng Đại Đồng và Xuân Lâm đang tập trung), làm chết một người (anh Nguyễn Công Thường). Lập tức, quần chúng vượt sông cùng với các đoàn bên hữu ngạn sông Lam tràn vào huyện đường. Tri huyện, nha lại, lính tráng bỏ chạy lên phía đồn Tây ở Thanh Quả. Quần chúng phá đại lý rượu ty, đốt huyện đường, bao gồm cả tư thất quan lại, đánh chết con ngựa bạch của Phan Sĩ Bàng, đốt phá luôn cả nhà Cửu Ngạc (cha đẻ tri huyện Phan Sĩ Bàng) ở cửa phủ (thuộc xã Võ Liệt, cách huyện lỵ 2km). Quần chúng còn truy kích tri huyện và lính tráng đến tận đồn Thanh Quả.
Cuộc biểu tình lịch sử ngày 1-9-1930 ở Thanh Chương được coi là mốc mở đầu đánh dấu sự ra đời của chính quyền Xô viết Nghệ - Tĩnh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tính Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.I.
- Báo Người lao khổ ngày 6-9-1930, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 7-9
Cuộc biểu tình của nông dân Can Lộc (Hà Tĩnh)
Ngày 7-9-1930, Huyện ủy Can Lộc lãnh đạo trên 1.500 nông dân biểu tình có vũ trang tự vệ tiến lên huyện lỵ đòi tri huyện giải quyết những yêu sách của quần chúng đã chấp nhận trong cuộc đấu tranh ngày 1-8: giảm các thứ thuế, loại bỏ các khoản công ích, tư ích, trả lại cho dân số tiền tư ích trong năm; chia lại ruộng đất cho nông dân nghèo; bỏ thuế chợ, thuế đò, thuế muối; bỏ lệ tuần canh; cấm lính vào làng xóm nhiễu hại nhân dân.
Trước sức mạnh đấu tranh của nông dân, tri huyện phải bỏ trốn. Quần chúng phá trại giam để giải phóng tù chính trị, vào công đường đốt sạch hồ sơ, phá hủy bàn ghế làm việc. Được bọn tay sai báo tin có sự biến ở Can Lộc, tên giám binh Pháp từ thị xã Hà Tĩnh đưa lính đến đàn áp bắt đi hai người.
Cuộc biểu tình của nông dân Can Lộc là nguồn cổ vũ lớn cho nông dân các địa phương khác đứng lên đấu tranh giành lại quyền lợi về cho mình.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh 1930-1954, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào công dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 84.
NGÀY 12-9
Cuộc biểu tình của nông dân phủ Hưng Nguyên (Nghệ An)
Từ đầu tháng 9-1930, nhân dân Nghệ - Tĩnh bước vào thời kỳ đấu tranh sôi nổi và quyết liệt.
Hưởng ứng phong trào đấu tranh đang rầm rộ khắp tỉnh và phản đối chính sách khủng bố dã man của đế quốc Pháp và phong kiến, ngày 12-9-1930, hơn 8.000 nông dân phủ Hưng Nguyên biểu tình đến phủ lỵ với khẩu hiệu: đả đảo chủ nghĩa đế quốc, đả đảo phong kiến, bỏ sưu giảm thuế, chia ruộng đất…
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Vinh - Bến Thủy và Phủ ủy Hưng Nguyên, từng đoàn nhân dân các làng xã phủ Hưng Nguyên hàng ngũ chỉnh tề, từ 3-5 giờ sáng đã tấp nập đến tập trung ở ga Yên Xuân. Tại đây, khi các đoàn đã đến đông đủ, một nữ đồng chí đứng lên diễn thuyết, cổ động. Đoàn biểu tình đã đồng thanh hô vang khẩu hiệu, các đội tự vệ phân công nhau đi cắt dây điện thoại và bắt giữ trưởng ga để cắt đứt đường dây liên lạc của đế quốc, rồi biểu tình đưa yêu sách vào phủ đường Hưng Nguyên. Đoàn biểu tình vừa kéo đến ngã ba Thái Lão, thực dân Pháp hai lần cho máy bay đến ném bom làm 217 người chết và 125 người bị thương.
Vụ thảm sát này càng làm bốc cao ngọn lửa căm thù của nhân dân trong tỉnh và cả nước. Hưởng ứng cuộc đấu tranh của nông dân Hưng Nguyên, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra. Ngay trong đêm 12-9, Huyện ủy Nam Đàn họp các tổ chức cơ sở Đảng và các hội quần chúng, vận động trên 5.000 người biểu tình kéo lên huyện đường phản đối hành động dã man của thực dân Pháp.
Xứ ủy Trung Kỳ, các Tỉnh ủy Nghệ An, Hà Tĩnh đều phát truyền đơn, đăng báo vạch tội ác của thực dân Pháp và tay sai, kêu gọi quần chúng nổi dậy đấu tranh chống lại sự tàn sát của chúng. Các cuộc mít tinh, biểu tình, truy điệu những đồng bào bị sát hại ở Hưng Nguyên được tổ chức ở khắp nơi trong tỉnh, lớn nhất là ba cuộc lễ truy điệu do các Tỉnh ủy tổ chức ở làng Lộc Đa (Hưng Nguyên), Can Lộc và Chợ Cồn (Thanh Chương).
Mặt khác, các cấp ủy Đảng tiếp tục phát động quần chúng đấu tranh phản đối sự đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với cuộc biểu tình Hưng Nguyên. Công nhân các nhà máy ở Vinh - Bến Thủy liên tiếp bãi công. Tù chính trị ở Nhà lao Vinh tuyệt thực. Học sinh các trường bãi khóa, nhân dân Nghi Lộc bãi thị. Nhân dân các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu... biểu tình kéo lên phủ, huyện đưa yêu sách phản đối.
Cuộc biểu tình của nhân dân Hưng Nguyên chứng minh sức mạnh to lớn của nông dân, đồng thời là bằng chứng tố cáo sự dã man của thực dân Pháp và tay sai. Chính vì vậy, cuộc biểu tình Hưng Nguyên đã khích lệ, lôi cuốn hàng trăm cuộc đấu tranh khắc của nông dân Nghệ An nói riêng và cả nước nói chung.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930- 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1998, t. I.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 85.
- Tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ An: Xô viết Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ An, 2000.
TỪ THÁNG 9-1930 ĐẾN THÁNG 6-1931
Xôviết Nghệ - Tĩnh - đỉnh điểm của cao trào 1930-1931
Xôviết Nghệ - Tĩnh - Xôviết Việt Nam đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam là sự phát triển tất yếu của cao trào đấu tranh cách mạng của công nhân và nông dân cả nước trong những năm 1930-1931. 97 cuộc bãi công và biểu tình của công nhân và nông dân Nghệ - Tĩnh từ ngày 1-5 đến tháng 8-1930 là “đêm trước" của Xôviết Nghệ - Tĩnh.
Từ tháng 9 trở đi, sau hai cuộc biểu tình lớn của nông dân hai huyện Nam Đàn, Thanh Chương, cao trào cách mạng ở Nghệ - Tĩnh chuyển biến vượt ra ngoài dự kiến của các cấp bộ Đảng. Bằng những cuộc biểu tình có vũ khí thô sơ và có các đội tự vệ đỏ hỗ trợ, nông dân các huyện Nam Đàn, Thanh Chương và nhiều huyện trong hai tỉnh dồn dập tấn công vào chính quyền thực dân, phong kiến từ huyện đến xã, trước bão táp cách mạng của quần chúng hệ thống chính quyền của thực dân, phong kiến ở Nghệ - Tĩnh bị rối loạn. Các quan lại và viên chức người Pháp ngày đêm sống trong tâm trạng lo âu. Ở Vinh, mỗi người Pháp đã chuẩn bị sẵn một nơi trú ẩn, phòng khi bị tấn công. Trong giới quan lại phong kiến Nam triều, số xin nghỉ việc, số xin đổi đi nơi khác. Số quan lại được cử ra thay thế cũng dè dặt trong khi làm nhiệm vụ.
Trong vòng 6 tháng cuối năm 1930, Khâm sứ Trung Kỳ và tiều đình Huế đã phải thay tới ba tổng đốc ở Nghệ An và hai tuần vũ ở Hà Tĩnh. Bộ máy chính quyền cơ sở hết sức rối ren. Tại Thanh Chương, tri huyện, nha lại không dám trở lại làm việc. Chính quyền huyện Nam Đàn bị tê liệt. Tri huyện Nghi Lộc và đội lệ Hưng Nguyên bị giết. Tri huyện và nha lại các huyện khác mất tinh thần. Binh lính các đồn không dám hoạt động, một số ngả theo cách mạng. Chính quyền địch ở nhiều làng đã bị tê liệt hoặc tan rã.
Việc giành chính quyền chưa phải là mục tiêu trước mắt của cách mạng. Xứ ủy Trung Kỳ và các cấp ủy Đảng ở hai tỉnh cũng không có chủ trương khởi nghĩa giành chính quyền. Nhưng khi diễn ra tình huống lực lượng cách mạng áp đảo và làm tan rã bộ máy chính quyền địch, các cấp ủy Đảng ở cơ sở đã kịp thời lãnh đạo Ban Chấp hành Nông hội đỏ ở thôn xã (tức Xã bộ nông) đứng ra đảm nhiệm các chức năng chính quyền cách mạng. Tại Nghệ An, Nông hội nắm chính quyền ở các làng xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu; tại Hà Tĩnh chính quyền Xôviết hình thành ở 172 xã, phần lớn ở các huyện Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thọ.
Ngay từ khi ra đời Nông hội đã thực hiện các quyền lợi về chính trị kinh tế văn hóa - xã hội cho nông dân. Về chính trị: Nông hội không thừa nhận bộ máy chính quyền của thực dân, phong kiến và những luật lệ do chúng đặt ra để kìm kẹp, bóc lột nhân dân, thực hiện các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân như tự do hội họp, tự do đi học, nam nữ bình quyền.., trấn áp bọn phản động làm tay sai cho thực dân Pháp, giao nhiệm vụ giữ gìn trật tự trị an và bảo vệ cách mạng cho các Đội tự vệ đỏ...
Về kinh tế, không nạp sưu thuế cho Pháp và buộc các tổng lý phải trả lại cho nhân dân số tiền thuế đã thu, buộc các chủ ruộng, các nhà giàu phải giảm tô, hoãn nợ và bỏ các khoản địa tô phụ cho nông dân, quy định lại mức tiền công cho những người làm thuê chia lại ruộng công... một số nơi còn sử dụng ruộng đất công tổ chức cho nhân dân sản xuất tập thể theo hình thức hợp tác xã nông nghiệp như ở làng Thượng Thọ (huyện Thanh Chương), làng Thượng Hà, Thuận Thiên (huyện Can Lộc). 631 làng thuộc bảy huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Anh Sơn, Thạch Hà, Can Lộc đã tịch thu được 5.599 mẫu ruộng đất công, 2.975 tạ thóc và 10.394 đồng bạc quỹ công của làng xã.
Về văn hóa - xã hội: bài trừ các hủ tục lạc hậu, cấm hút thuốc phiện, uống rượu, đánh bạc… giáo dục, trừng trị bọn lưu manh trộm cắp, mở những lớp dạy chữ quốc ngữ, tổ chức nhân dân giúp đỡ lẫn nhau…
Những chính sách và biện pháp được các Xã bộ nông - Xôviết thực hiện đã tạo ra một khí sắc mới trong nông thôn. Lòng tin của quần chúng đối với Đảng và cách mạng được biểu hiện rõ rệt. Những tiếng gọi "cộng sản", “xã hội” bao hàm ý nghĩa thiêng liêng, vừa là lý tưởng vừa là khẩu hiệu hành động của quần chúng. Họ sẵn sàng hy sinh tính mạng và tài sản để chống lại chính sách khủng bố của đế quốc Pháp, bảo vệ Xôviết.
Cuối năm 1930, cuộc đấu tranh giữa ta và địch vẫn diễn ra gay go ác liệt. Trong những tháng đầu năm 1931, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn và tổn thất nặng vì nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng ở Nghệ - Tĩnh bị địch bắt. Phong trào đấu tranh của quần chúng dần dần lắng xuống; các Xôviết lần lượt bị giải tán trong tháng 6-1931. Cuối năm 1931, một số cuộc mít tinh và biểu tình nhỏ của quần chúng còn nổ ra ở một số xã; việc rải truyền đơn và treo cờ đỏ còn kéo dài đến năm 1932. Một số cán bộ và đảng viên còn lại vẫn kiên trì hoạt động gây nhân mối trong quần chúng.
Ảnh hưởng của phong trào cách mạng Việt Nam và Xôviết Nghệ - Tĩnh trong những năm 1930-1931 đã vang dội trong cả nước và thế giới. Đánh giá về Xôviết Nghệ - Tĩnh trong dịp kỷ niệm lần thử 30 ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng Xôviết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này".
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Nghệ An: Xô viết Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ An, 2000, tr. 89-100.
THÁNG 9
Chỉ thị của Trung ương Đảng gửi Chấp ủy Trung Kỳ
Nhận được báo cáo về việc thành lập chính quyền Xôviết ở Thanh Chương, Nam Đàn (Nghệ An), tháng 9-1930, Trung ương Đảng gửi ngay chỉ thị cho Chấp ủy Trung Kỳ. Trung ương Đảng phê bình Chấp ủy Trung Kỳ, cho rằng làm như vậy là quá sớm, không đúng thời cơ, vì trong cả nước chưa có tình thế cách mạng trực tiếp. Đồng thời, Trung ương Đảng cũng góp ý kiến cho Chấp ủy là phải làm thế nào để duy trì được ảnh hưởng của Đảng và chính quyền Xôviết trong quần chúng nhân dân; uốn nắn một số sai sót trong việc tổ chức biểu tình và chia ruộng đất công...
Chỉ thị của Trung ương Đảng đã kịp thời giúp Chấp ủy Trung Kỳ và Đảng bộ Nghệ An và Hà Tĩnh sửa chữa những thiếu sót trong việc chỉ đạo phong trào. Đến tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra thông cáo cho toàn Đảng biết rõ tình hình. Bản thông cáo nhắc nhở các địa phương phải lấy việc xảy ra ở Nghệ An làm kinh nghiệm để vận động quần chúng, nhất là quần chúng nhân dân cho đúng với nhiệm vụ chính tả của Đảng. Trung ương chỉ thị cho toàn Đảng phải ra sức vận động quần chúng đấu tranh chống khủng bố trắng của đế quốc Pháp để ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ.
- Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 55-59.
THÁNG 9
Tuyên bố của Đảng về việc bảo vệ Nghệ An đỏ, chống khủng bố trắng
Các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ An, Hà Tĩnh bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng ra tuyên bố về việc bảo vệ Nghệ An đỏ chống khủng bố trắng của bọn đế quốc. Cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân ngày càng quyết liệt, đế quốc Pháp và tay sai khủng bố ngày càng tàn bạo. Trung ương Đảng kêu gọi "Tất cả chúng ta, nhân dân trong nước chúng ta cần thiết phải phát động một phong trào rộng lớn, một làn sóng biểu tình to lớn trong suốt chiều dài đất nước để giữ vững những thắng lợi giành được ở Bến Thủy trong tỉnh Nghệ An đỏ, để ủng hộ những người biểu tình ở Nam Định”.
Trung ương Đảng chỉ rõ kế hoạch thực hiện đấu tranh là: khẩn trương thành lập các ủy ban cách mạng gồm có những đội công nhân và nông dân cảm tử. Phải tuyên truyền trong quần chúng nhân dân thông qua các cuộc họp và thành lập các hiệp hội để bảo vệ Nghệ An đỏ chống khủng bố trắng. Các địa phương phải in truyền đơn để thúc đẩy công nhân bãi công, nông dân biểu tình tổ chức những đội dự bị và tăng viện để đương đầu với "khủng bố trắng" và ra lệnh ngăn cản bãi công, biểu tình ở Nghệ An, Bến Thủy. Những cuộc đấu tranh này phải giành được các quyền lợi cho công nhân, nông dân.
Nhờ có sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng công nông cả nước nổi lên mạnh mẽ, chống lại những thủ đoạn của đế quốc Pháp và tay sai, bảo vệ Nghệ An đỏ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 60-69.
THÁNG 9
Thành lập Tỉnh ủy Hà Nam
Từ năm 1925 đến năm 1930, do ảnh hưởng của các phong trào yêu nước và dưới sự lãnh đạo của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Hà Nam lên mạnh, điển hình là việc lấy chữ ký đòi ân xá Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh và phong trào đấu tranh chống tham quan ô lại.
Để tạo điều kiện cho phong trào cách mạng của tỉnh Hà Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa, trên cơ sở các tổ chức Đảng đã được xây dựng ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh, Ban lâm thời Chấp ủy Bắc Kỳ chỉ thị cho đồng chí Lê Công Thanh xúc tiến việc thành lập Đảng bộ Hà Nam. Tháng 9-1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ Hà Nam được tổ chức tại thôn Lũng Xuyên với sự tham gia đầy đủ của các đại biểu các huyện, thị xã.
Hội nghị đề ra nghị quyết về phát triển Đảng, phát triển Nông hội đỏ và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống áp bức bóc lột, giành quyền lợi hàng ngày. Hội nghị cử Ban Tỉnh ủy lâm thời Hà Nam gồm ba đồng chí: Lê Công Thanh, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Duy Huân, đồng chí Lê Công Thanh làm Bí thư Tỉnh ủy.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t.1.
CUỐI THÁNG 9
Thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại Nhà lao Kon Tum
Khi thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị ở tỉnh Kon Tum, một trong những công việc đầu tiên của chúng là tuyển một đội quân đánh thuê, dựng nhà tù và tạo lập những công cụ bạo lực để đàn áp bất kỳ ai chống lại chúng.
Nhà lao Kon Tum sau này còn gọi là lao trong, là nhà lao cấp tỉnh nằm ở phía tây thị xã Kon Tum. Lúc đầu, tại Nhà lao Kom Tum, thực dân Pháp chỉ giam giữ những người địa phương mà chúng ghép vào "tội" chống đối hoặc vi phạm "pháp luật". Nhưng về sau (cuối năm 1929), thực dân Pháp đưa tù chính trị lên giam giữ như Đồng Sĩ Bình (quê ở Thừa Thiên làm thông phán ở tòa xứ Quy Nhơn, do viết báo công kích Pháp nên bị địch kết án 9 năm tù, chúng đày ông từ Nhà lao Buôn Ma Thuột, Nhà lao Thừa Phủ đến Nhà lao Kon Tum), Ngô Đức Đệ (đồng chí bị thực dân Pháp bắt trong cuộc họp thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở bến đò Trai (Hà Tĩnh), chúng giam đồng chí ở Nhà lao Vinh, rồi lại đày lên Kon Tum).
Thực hiện chủ trương của Đảng, các tù nhân cộng sản nhận định tại Nhà lao Kon Tum có thể tiến hành được công tác binh vận và tích cực vận động, giác ngộ binh lính địch.
Người đầu tiên được giác ngộ cách mạng tại Nhà lao Kon Tum là Huỳnh Đăng Thơ (đội Thơ hay còn gọi là đội Phụng). Sau một thời gian thử thách, tháng 8-1930, đội Thơ được gia nhập tổ chức bí mật và được tổ chức tuyên bố kết nạp Đảng ngày 10-9-1930, tại một địa điểm trong Nhà lao Kon Tum. Huỳnh Đăng Thơ là người đảng viên cộng sản đầu tiên được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Kon Tum.
Đến cuối tháng 9-1930, Chi bộ Đảng Cộng sản trong binh lính Nhà lao Kon Tum được thành lập gồm bốn đảng viên: Ngô Đức Đệ, Huỳnh Đăng Thơ, Huỳnh Liễu, (cai Liễu), Nguyễn Cừ (cai Cừ), do Ngô Đức Đệ làm Bí thư.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Kon Tum: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 1.
NGÀY 2-10
Đảng Cộng sản Việt Nam ra Lời kêu gọi phản đối việc đế quốc Pháp thành lập Đội dân vệ làng
Với mưu đồ "dùng người Việt trị người Việt", thực dân Pháp ra lệnh thành lập các đội dân vệ làng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra Lời kêu gọi phản đối việc thành lập các đội dân vệ làng.
Lời kêu gọi chỉ rõ âm mưu thành lập các đội dân vệ làng của chính quyền thực dân, phong kiến là để đối phó, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân, phá hoại khối đoàn kết nhân dân ở các làng xã phục vụ âm mưu chia để trị của chính quyền thực dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam kêu gọi những nông dân bị bắt buộc tham gia đội dân vệ làng nhận rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, tăng cường đoàn kết giai cấp, ủng hộ phong trào đấu tranh của nông dân chống chính sách áp bức bóc lột của chính quyền thực dân, phong kiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 86-87.
NGÀY 5-10
Thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên
Tháng 8-1930, đồng chí Phan Lưu Thanh được kết nạp vào Đảng tại Chi bộ Thị Nghè (Sài Gòn) và được cử vào La Hai (Phú Yên). Tại đây, đồng chí đã tập hợp được một số thanh niên tiến bộ từng hoạt động trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi treo cờ búa liềm, rải truyền đơn ở La Hai, Tuy An, Tuy Hòa, tỉnh lỵ Sông Cầu. Những hoạt động này đã gây được ảnh hưởng trong quần chúng, tạo điều kiện cho quần chúng công nông tiếp xúc với chủ trương của Đảng, kích thích tinh thần yêu nước trong thanh niên, học sinh.
Qua tuyên truyền, giác ngộ, thử thách trong công tác đồng chí Phan Lưu Thanh đã kết nạp một số đồng chí vào Đảng như Bùi Xuân Cảnh, Phan Ngọc Bích (Việt Hồng), Nguyễn Thạnh, Nguyễn Phục Hưng, Nguyễn Hữu Tánh, Nguyễn Diệp, Nguyễn Thị Hảo.
Ngày 5-10-1930, tại thôn Đồng Bé, xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân, đồng chí Phan Lưu Thanh tổ chức Hội nghị toàn thể các đảng viên và tuyên bố thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên. Sau khi thành lập, Chi bộ Đảng đề ra chương trình hoạt động như: tuyên truyền tôn chỉ mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam sâu rộng vào quần chúng công nhân nông dân, trí thức, học sinh; ra sức tổ chức các hội quần chúng: Nông hội đỏ, Tự vệ đỏ, Cứu tế đỏ, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Hội Phụ nữ giải phóng; tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, qua đó lựa chọn những quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng; huấn luyện đảng viên về công tác bí mật.
Sự ra đời của Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Phú Yên đánh dấu sự khởi đầu cho một thời kỳ mới của phong trào cách mạng Phú Yên. Đến 1-1931, Tỉnh ủy Phú Yên được thành lập do đồng chí Phan Lưu Thanh làm Bí thư.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945) Phú Yên, 1999.
NGÀY 7-10
Cuộc biểu tình của nông dân huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi)
Từ tháng 10-1930, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động Quảng Ngãi ngày càng mạnh mẽ.
Phối hợp với cao trào toàn quốc và hưởng ứng Xôviết Nghệ - Tĩnh, sáng ngày 7-10-1930, được sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Quảng Ngãi, 5.000 nông dân ở các vùng Tân Hội, Hùng Nghĩa, Vạn Lý, Nhơn Phước, An Tây, Lệ Bàn, Mỹ Thuận, Liên Chiểu, Văn Trường, kéo về bao vây và chiếm lĩnh huyện đường Đức Phổ. Nhân dân phản đối đế quốc tàn sát công nông Nghệ - Tĩnh và đòi bỏ thuế thân, giảm các thứ thuế khác. Đoàn biểu tình vào huyện đường, dán truyền đơn lên tường và hô các khẩu hiệu cách mạng. Tri huyện Phan Lang, nha lại và lính lệ đều chạy trốn. Quần chúng đập phá công đường, thiêu hủy hồ sơ sổ sách, giải phóng tù chính trị, làm chủ tình hình ở huyện lỵ.
Đây là cuộc đấu tranh lớn nhất của nông dân huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi). Sức mạnh của cuộc đấu tranh đã lan truyền sang các huyện lân cận.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 91.
NGÀY 14-10
Cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải (Thái Bình)
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng về việc ủng hộ phong trào công nông Nghệ - Tĩnh và dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy Thái Bình, ngày 14-10-1930, hơn 700 nông dân từ các thôn xã Nho Lâm, Đông Cao, Thanh Giám, hàng ngũ chỉnh tề, cờ đỏ búa liềm đi đầu, rầm rập kẻo nhau lên huyện lỵ Tiền Hải.
Đoàn biểu tình tiến thẳng đến cổng huyện lỵ, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: "Không được động đến công nông Nghệ - Tĩnh”, “Giảm sưu, giảm thuế, xóa bỏ việc bắt rượu, bắt muối", “trả lại tiền đào sông Cốc"...
Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng, Tri huyện Phan Duy Tiếp bỏ chạy. Tên lục sự gian ác đã bắt lính bắn xả vào đoàn biểu tình làm 8 người chết, 12 người bị thương.
Được tin báo, Tổng đốc Vi Văn Định, Chánh mật thám Xôđa, Thanh tra Varêga đưa lính về tận làng xã có người đi biểu tình để khủng bố và bắt giữ 78 người, trong đó có 33 đảng viên và 8 phụ nữ, đốt 100 nóc nhà.
Mặc dù bị khủng bố, nông dân Tiền Hải vẫn kiên trì đấu tranh buộc địch phải nhượng bộ một số quyền lợi như trả tiền đào sông Cốc, rút một số ruộng "tư điền gián" (ruộng công của làng bị bọn cường hào chiếm đoạt làm ruộng tư của chúng) đem chia cho nông dân.
Tháng 9-1931, bọn đế quốc lập phiên tòa đặc biệt tại thị xã Thái Bình xử những đảng viên và nông dân Tiền Hải mà chúng ghép cho “tội" chống lại các nhà chức trách địa phương. Chúng kết án 63 người với tổng số 291 năm tù và giam giữ tại các nhà tù Hải Phòng, Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo.
Cuộc đấu tranh của nông dân Tiền Hải đã gây tiếng vang lớn. Nhân dân nhiều địa phương ở Hải Phòng, Hòn Gai, Hải Dương, Nam Định vùng dậy đấu tranh phản đối khủng bố trắng ở Tiền Hải, ủng hộ Xôviết Nghệ - Tĩnh.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 92.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1999.
NGÀY 20-10
Cuộc biểu tình của nhân dân huyện Bình Lục (Hà Nam)
Ngay từ đầu năm 1930, nhân dân các vùng Hưng Công, Bình Chung, Ngọc Lũ thuộc huyện Bình Lục (Hà Nam) đã biểu tình lên huyện lỵ. Các cuộc biểu tình đòi bãi bỏ sổ chi thu - một thứ sổ do bọn thống trị lập ra để tăng các loại thuế và hào lý cũng lợi dụng sổ này để phù thu lạm bổ.
Tri huyện phải nhận yêu sách. Nhiều cuộc mít tinh và tuần hành cũng được tổ chức liên tiếp ở Đồn Lãnh, Chợ Lương, Chợ Chầm.
Ngày 20-10-1930, nhằm ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ và hưởng ứng phong trào đấu tranh của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), nông dân huyện Bình Lục lại tổ chức cuộc biểu tình lớn.
Cuộc tuần hành thị uy làm cho bọn quan lại trong huyện khiếp sợ. Hàng nghìn người đã hưởng ứng cuộc biểu tình.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam, (1927-1975), Hà Nam, 2000, t.1.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 92.
TỪ NGÀY 14 ĐẾN NGÀY 31-10
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Từ sau khi về nước và tham gia Ban lâm thời Chấp uỷ Trung ương, đồng chí Trần Phú khẩn trương chuẩn bị Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Hồng Kông (Trung Quốc), đồng chí Trần Phú điều hành Hội nghị.
Hội nghị thảo luận và thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng do đồng chí Trần Phú chủ trì khởi thảo; thông qua nghị quyết về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng. Nghị quyết ghi rõ những quyết định quan trọng của Hội nghị.
Hội nghị phân tích tình hình trước mắt ở Đông Dương, do khủng hoảng kinh tế và đế quốc Pháp tăng cường bóc lột nên đời sống của nhân dân lao động ngày càng khổ cực - và cũng vì bị bóc lột nên công nông vùng dậy đấu tranh, phong trào công nông rầm rộ từ đầu năm 1930. Đối phó với phong trào của quần chúng công nông, đế quốc Pháp ra sức khủng bố trắng. Đảng Cộng sản đi sâu vào quần chúng và lãnh đạo họ đấu tranh. Tuy vậy, trong quá trình đó sự lãnh đạo của Đảng còn bộc lộ nhiều thiếu sót.
Hội nghị kiểm điểm những thiếu sót của Đảng: trong công tác có những chi bộ không liên lạc mật thiết với quần chúng, chưa thật tin vào sức mạnh quần chúng, làm những điều trái với chủ trương và phương pháp cách mạng của Đảng như ám sát cá nhân, bạo động non... Hội nghị phân tích, phê phán khuynh hướng lệch lạc cho rằng củng cố tổ chức rồi mới đấu tranh, chờ hết khủng bố rồi mới hoạt động; đồng thời Hội nghị chỉ rõ, phải thông qua đấu tranh hàng ngày của quần chúng mới phát triển được cơ sở, rèn luyện và thanh lọc được đội ngũ, chấn chỉnh được tổ chức.
Trước tình hình phong trào cách mạng bị khủng bố trắng, Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là phải mở rộng phong trào đấu tranh rộng khắp Đông Dương nhằm thu hút đông đảo quần chúng nhân dân. Trong đấu tranh phải chống khuynh hướng bạo động, khởi nghĩa non, phải gây thanh thế cho Đảng, tuyên truyền đường lối của Đảng thông qua việc treo cờ đỏ búa liềm, diễn thuyết, rải truyền đơn, ra sách báo… Bằng các biện pháp đó, tuyên truyền, giáo dục quần chúng tin theo Đảng và đấu tranh theo đường lối của Đảng; khi đấu tranh phải chú ý giữ gìn lực lượng, tránh những tổn thất không cần thiết.
Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị nhấn mạnh việc thảo luận những nghị quyết của Đảng và của Quốc tế Cộng sản trong các chi bộ để nâng cao trình độ chính trị cho đảng viên; phái đảng viên vào các xí nghiệp quan trọng; tăng thêm thành phần công nhân và phụ nữ trong Đảng; kết nạp đảng viên phải căn cứ vào tinh thần hăng hái đấu tranh và giác ngộ giai cấp của quần chúng. Hệ thống tổ chức của Đảng, phải tổ chức ra các xứ ủy, tổ chức giao thông liên lạc.
Về công tác quần chúng, Hội nghị cho rằng phải tăng cường công tác vận động công nhân mở rộng Công hội, chuẩn bị lập Tổng Công hội Đông Dương, mở rộng phong trào đấu tranh của nông dân, chuẩn bị lập Tổng Nông hội Đông Dương; phân công các đồng chí phụ trách Hội Phản đế đồng minh, Hội Cứu tế và Thanh niên Cộng sản Đoàn; lập Bộ quân sự của Đảng.
Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và cũng xuất phát từ thực tế ba nước Việt, Lào, Campuchia đều là thuộc địa của Pháp, đều chịu sự thống trị của Pháp, Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm bảy đồng chí: Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, Lê Mao, Trần Văn Lan, Nguyễn Phong Sắc, A Lầu (Lưu Lập Đạo), đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư của Đảng5.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10- 1930 có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trực tiếp là đối với cao trào cách mạng 1930-1931.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 88.
- Lê Mậu Hãn (chủ biên): Đảng Cộng sản Việt Nam - các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr 20-22.
THÁNG 10
Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương
Sau thời gian học tập ở Liên Xô, đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động và được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, sau đó ít lâu vào Ban Thường vụ Trung ương, đồng chí đã chủ trì dự thảo Luận cương chánh trị của Đảng6.
Trong khi chuẩn bị bản Luận cương (tại nhà số 7 phố Giăng Xôle (Jean Soler), nay là số nhà 90 phố Thợ Nhuộm, Hà Nội), đồng chí Trần Phú đã vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm phong trào cộng sản quốc tế và Đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản; kết hợp với việc đi khảo sát thực tế phong trào công nhân và nông dân ở Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, đồng thời dựa trên ý kiến của Ban Thường vụ Trung ương lâm thời. Sau một quá trình làm việc miệt mài, nghiêm túc, đồng chí Trần Phú viết ra Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng.
Dự thảo Luận cương được Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hồng Kông tháng 10- 1930 thông qua.
Luận cương chính trị của Đảng (thường gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) gồm ba phần:
1.Tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương.
2. Những đặc điểm về tình hình ở Đông Dương.
3. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương.
Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới và Đông Dương, Luận cương chính trị nêu rõ tính chất của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền.
Cách mạng tư sản dân quyền là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ khăng khít với nhau.
“Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được".
Luận cương cũng phân tích rõ vai trò địa vị của mỗi giai cấp:
Đối với các đảng phái quốc gia cải lương, Đảng phải kiên quyết vạch trần tính chất nguy hiểm, lừa gạt và phá hoại phong trào cách mạng công nông. Đối với các đảng phái tiểu tư sản, Đảng có thể tạm thời hợp tác, với điều kiện là họ phải thật sự chống đế quốc, không ngăn trở công tác tuyên truyền cộng sản trong công nông, Đảng phải luôn giữ tính chất độc lập về tuyên truyền và tổ chức của mình và phê phán tính do dự của họ. Luận cương chính trị khẳng định, cách mạng Đông Dương phải có một Đảng Cộng sản vững mạnh lãnh đạo.
"Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật tập trung mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".
Luận cương còn chỉ rõ: muốn giành được thắng lợi Đảng phải thu phục được đông đảo quần chúng lao động bằng cách tổ chức ra các đoàn thể cách mạng như Công hội, Nông hội...
Ngoài những vấn đề về đường lối chiến lược, Luận cương đã vạch ra những vấn đề hình thức và phương pháp cách mạng. Luận cương chỉ rõ khi chưa có tình thế cách mạng, phải đặt khẩu hiệu "phần ít" như tăng cường giảm giờ làm, chống thuế… qua cuộc đấu tranh hàng ngày giáo dục cho quần chúng ý thức đánh đổ đế quốc giành độc lập, đánh đổ phong kiến giành ruộng đất cho dân cày.
Nhiệm vụ của Đảng là "phải lấy những sự nhu yếu hằng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng".
Về thời cơ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Luận cương viết: “Đến lúc sức cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa đã muốn bỏ về phe cách mạng, quần chúng công nông thì sôi nổi cách mạng, quyết hy sanh phấn đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông".
Về phương pháp cách mạng, Luận cương cho rằng khởi nghĩa "không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại theo khuôn phép nhà binh… Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ kịch liệt tranh đấu; nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo động quá sớm, mà cốt là để suy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi công, v.v. , để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này".
Luận cương cũng nhắc nhở nguy cơ chiến tranh đế quốc ngày càng gần, cho nên phải làm cho khẩu hiệu chống chiến tranh đế quốc ăn sâu trong quần chúng như khẩu hiệu "đổi chiến tranh đế quốc ra chiến tranh cách mạng”, "phản đối binh bị"...; đồng thời tăng cường công tác vận động binh lính địch, tổ chức tự vệ của công nông.
Cuối cùng, Luận cương chánh trị của Đảng chỉ rõ: cách mạng Đông Dương là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới.
Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song, Luận cương còn một số mặt hạn chế, không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không nêu được nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Do vậy, chưa phát huy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đoàn kết các lực lượng yêu nước. Luận cương chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tinh thần yêu nước của tư bản dân tộc và một bộ phận địa chủ nhỏ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 88-103.
THÁNG 10
Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng 10-1930 đã thảo luận và thông qua Điều lệ Đảng.
Điều lệ Đảng chỉ rõ tên Đảng là “Đảng Cộng sản Đông Dương".
Điều kiện gia nhập Đảng: Hễ ai công nhận Chương trình và Điều lệ của Quốc tế Cộng sản của Đảng và nộp lệ phí Đảng thì được vào Đảng.
Nguyên tắc và hệ thống tổ chức Đảng, Điều lệ ghi: Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như các chi bộ của Quốc tế Cộng sản phải tổ chức theo lối dân chủ tập trung; Đại hội Đảng và Hội nghị Đảng sẽ cử ra các "Đảng bộ hạ cấp" và “thượng cấp". Hệ thống tổ chức Đảng bao gồm: chi bộ, tổng bộ, huyện bộ, tỉnh bộ, xứ bộ và Trung ương. Như vậy điểm mới của Điều lệ về hệ thống tổ chức Đảng là bổ sung cấp bộ xứ.
Đồng thời, Điều lệ Đảng cũng chỉ rõ về vấn đề kỷ luật, tài chính và Đảng đoàn.
Về kỷ luật: trách nhiệm của đảng viên và các Đảng bộ là chấp hành kỷ luật Đảng một cách nghiêm túc. Tất cả đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng và Trung ương. Những đảng viên không chấp hành là sai lầm và sẽ bị kỷ luật, hội nghị chi bộ hoặc các cấp đảng bộ sẽ xem xét mức kỷ luật.
Về tài chính Đảng: tài chính của Đảng từ đảng phí và lạc quyên. Nguyệt phí sẽ do Trung ương quy định.
Về Đảng đoàn: ở Công hội, Nông hội và các đoàn thể khác, có ba đảng viên thì lập ra Đảng đoàn. Nhiệm vụ của Đảng đoàn là phát huy sức mạnh của Đảng, thực hiện tốt chính sách của Đảng.
Đảng có mối liên hệ chặt chẽ với Đoàn Thanh niên Cộng sản, Đoàn Thanh niên Cộng sản có quyền cử đại biểu tham dự Hội nghị Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 118-129.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng
Cùng với việc thông qua Luận cương chánh trị, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10- 1930 còn ra Nghị quyết Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm trụ cần kíp của Đảng.
Trước hết, Nghị quyết phân tích tình hình Đông Dương, do khủng hoảng kinh tế và đế quốc Pháp tăng cường bóc lột nên đời sống của nhân dân lao động mỗi ngày một sa sút, phong trào cách mạng nổi lên rầm rộ từ đầu năm 1930, nổi bật là phong trào công nông. Đảng Cộng sản đã đi sâu vào quần chúng và lãnh đạo quần chúng. Đế quốc Pháp vừa ra sức khủng bố trắng vừa rêu rao những cải cách lừa bịp.
Nghị quyết Hội nghị kiểm điểm những thiếu sót của Đảng trong thời gian qua: “Những điều kiện khách quan cho cuộc tư sản dân quyền ở Đông Dương đã sẵn có, phong trào c.m đã nổi lên cao. Nhiệm vụ chánh của Đảng là lãnh đạo cho công nông và quần chúng lao khổ ra tranh đấu để cướp chánh quyền. Bấy lâu nay Đảng vẫn cố công, cố sức thâm nhập vào quần chúng công nông để lãnh đạo họ tranh đấu. Ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng mỗi ngày mỗi lan rộng thêm lớn, nhưng lúc đầu các chủ trương của Đảng trong nội bộ có nhiều điều sai lầm, công tác của Đảng trong quần chúng hãy còn nhiều điều khuyết điểm".
Trong công tác, công việc của Đảng không được thảo luận trong các đảng bộ; trình độ chính trị của đảng viên chậm phát triển; các cấp đảng bộ không liên lạc mật thiết với nhau, chi bộ phụ thuộc vào mệnh lệnh cấp trên, chưa thật tin vào sức mạnh quần chúng, làm những điều trái với chủ trương và phương pháp cách mạng của Đảng như ám sát cá nhân, bạo động non...
Nghị quyết phân tích, phê phán khuynh hướng lệch lạc cho rằng củng cố tổ chức rồi mới đấu tranh, chờ hết khủng bố rồi mới hoạt động; và vạch rõ, chỉ có thông qua đấu tranh hằng ngày mới phát triển được cơ sở, rèn luyện và thanh lọc được hàng ngũ, chấn chỉnh được tổ chức.
Về sai lầm chính trị, Nghị quyết chỉ rõ, vấn đề thổ địa “không rõ ràng và có chỗ không đúng như chia địa chủ làm đại, trung và tiểu địa chủ”. Vấn đề tư bản thì “Trong sách lược nói phải lợi dụng bọn tư bổn mà chưa rõ mặt phản c.m. Vẫn biết có bọn ấy, song chúng nó không đi một phe với mình được, mà cũng không thể lợi dụng chúng nó được".
Sai lầm về Điều lệ và tên Đảng, Nghị quyết cho rằng việc hệ thống tổ chức Đảng bỏ mất xứ bộ là sai, vì Trung ương chỉ có bảy người nên không chỉ đạo chu đáo cho mỗi tỉnh được. Trong Điều lệ Công, Nông hội thì tôn chỉ không rõ ràng. Gọi Đảng là “Việt Nam Cộng sản Đảng” thì không gồm được Cao Miên và Lào.
Trước những điều sai lầm đó và theo tình hình hiện tại ở Đông Dương, Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ chính trị của Đảng: "Chiếu theo tình hình hiện tại ở ĐD7 thì nhiệm vụ của Đảng là phải khoách trương phong trào tranh đấu cho đều khắp xứ ĐD phải làm cho phong trào tranh đấu ở những chỗ đã có được thêm sâu thêm mạnh và phải hết sức làm cho phong trào c.m (cách mạng) lan rộng ra những chỗ chưa có". Phải đẩy mạnh việc tuyên truyền cương lĩnh, chính sách và gây thanh thế cho Đảng bằng những biện pháp thích hợp như treo cờ đỏ búa liềm, diễn thuyết, rải truyền đơn, ra sách báo... làm sao cho quần chúng hiểu rõ và đi theo Đảng nhưng phải giữ kín lực lượng, tránh những hy sinh tổn thất không cần thiết.
Về công tác xây dựng Đảng, Nghị quyết nhấn mạnh việc thảo luận những nghị quyết của Đảng và của Quốc tế Cộng sản trong các chi bộ để nâng cao trình độ chính trị cho đảng viên: phái đảng viên vào các xí nghiệp quan trọng; tăng thêm thành phần công nhân và phụ nữ trong Đảng; chọn đảng viên mới phải lấy sự hăng hái đấu tranh và giác ngộ giai cấp làm cốt yếu.
Ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia đều là thuộc địa của Pháp. Ba dân tộc khác nhau nhưng cùng chung một ách thống trị của thực dân Pháp, có quan hệ mật thiết với nhau về chính trị, kinh tế, địa lý, do đó cần phải liên lạc chặt chẽ với nhau, đoàn kết và thống nhất hành động để chống Pháp. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, án nghị quyết đã thủ tiêu Chánh cương, Sách lược và Điều lệ cũ của Đảng, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Án nghị quyết của Trung ương Đảng đã kịp thời đề ra những nhiệm vụ căn bản cho toàn Đảng và nhân dân ta. Nhưng do hạn chế về nhận thức lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, án nghị quyết đã thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ của Đảng được thông qua tại Hội nghị hợp nhất.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 104-11.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vận động công nhân
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội quan trọng nhất của Đảng. Cho nên vấn đề sống còn của Đảng là phải vận động, tổ chức được phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Ngay từ khi ra đời giai cấp công nhân đã đấu tranh đòi những quyền lợi của mình và phong trào công nhân đã phát triển từ tự phát lên tự giác với sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, phong trào công nhân vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của Đảng. Vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về vận động công nhân.
Nghị quyết chia làm bốn phần.
Phần 1: Tình hình công nhân Đông Dương và sự phát triển phong trào công nhân.
Giai cấp công nhân Đông Dương chiếm 5% dân số, đông nhất là công nhân đồn điền, mỏ, vận tải, trong đó phụ nữ công nhân và trẻ em chiếm đa số. Công nhân bị bóc lột thậm tệ, ngày làm từ 11 - 12 giờ, có nơi tới 18 giờ nhưng tiền công rẻ mạt, không bảo đảm cho đời sống tối thiểu, lại hay bị đánh đập, mất tự do.
Do đó, các cuộc đấu tranh của công nhân ngày một tăng, các cuộc bãi công lớn ngày càng nhiều: tiêu biểu là công nhân Nhà máy sợi Nam Định, công nhân Vinh - Bến Thủy, công nhân cao su Phú Riềng. Những cuộc đấu tranh của công nhân từ mục đích kinh tế đến mục đích chính trị, chứng tỏ giác ngộ của giai cấp công nhân.
Nhiệm vụ công vận đóng vai trò quan trọng vì giai cấp vô sản là một động lực chính trong cuộc cách mạng ở Đông Dương. Cách mạng Đông Dương muốn giành thắng lợi phải do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Vì vậy, vận động công nhân là vấn đề cần kíp, nếu không nhận thức đúng vai trò của công tác công vận, sẽ phạm sai lầm lớn.
Phần 2: Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác vận động công nhân.
Tổ chức Công hội chưa có hệ thống và chưa thành một đoàn thể quần chúng vì tiêu chuẩn tham gia Công hội còn quá khắt khe. Đảng chưa giải thích cho công nhân nhận rõ ý nghĩa của việc tham gia Công hội và tổ chức đấu tranh, giai cấp công nhân chưa nhận rõ sức mạnh của giai cấp mình. Muốn cho Công hội phát triển thì phải bài trừ những tư tưởng sai lầm, phải tuyên truyền cho đại đa số quần chúng tham gia đấu tranh cho đến thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Về tổ chức, Công hội phải theo từng sản nghiệp và Công hội sản nghiệp trong một địa phương sẽ tổ chức với nhau thành Tổng Công hội ở địa phương. Trong các cấp Công hội cần phải tổ chức ra các ban chuyên môn để vận động riêng các hạng thợ thuyền.
Phần 3: Lãnh đạo công nhân tranh đấu.
Sử dụng các hình thức lãn công, bãi công, biểu tình thị uy hoặc đưa yêu sách. Khi đấu tranh phải có mục đích, kế hoạch yêu cầu rõ ràng.
Phần 4: Những yêu cầu cụ thể trong khi tranh đấu.
Khi tranh đấu phải đòi cho được các quyền lợi về chính trị, kinh tế và về đối xử. Về chính trị đòi tự do tổ chức ngôn luận, tụ họp, bãi công...; về kinh tế đòi ngày làm 8 giờ, tiền công đủ ăn, nghỉ ngày chủ nhật, cấm sử dụng trẻ em dưới 14 tuổi…; về đối xử, công xưởng phải sạch sẽ, không được cúp phạt, đánh đập.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 130-144.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vận động nông dân
Giai cấp nông dân cùng với giai cấp công nhân là đội quân chủ lực của cách mạng. Nhận rõ vai trò to lớn của nông dân, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 ra Nghị quyết về vận động nông dân.
Nghị quyết chia làm ba phần:
Phần 1: Tình hình và sự tranh đấu của nông dân.
Nông dân chiếm hơn 90% dân số nhưng chỉ chiếm một phần rất ít ruộng đất và bị bóc lột nặng nề: “Đông Dương đã là một xứ nông nghiệp rất nhiều di tích phong kiến, lại thêm đế quốc chủ nghĩa thống trị nữa, cho nên quần chúng dân cày bị bóc lột, đè nén tới ba từng".
Trước hết là cách bóc lột của phong kiến. Phần nhiều ruộng đất nhất là ruộng đất tốt nằm trong tay giai cấp địa chủ. Chúng cho nông dân thuê cày cấy và nộp địa tô rất nặng, tá điền bị phụ thuộc vào địa chủ gần như nông nô.
Cách bóc lột của tư bản: những công nhân nông nghiệp đi làm thuê cho phú nông, địa chủ, tiền không đủ sinh sống và lại phải làm việc ởnhững nơi rừng thiêng, nước độc.
Cách bóc lột của đế quốc chủ nghĩa: ngoài cách bóc lột kinh tế ra, đế quốc chủ nghĩa còn dùng chế độ sưu thuế với hàng trăm thứ thuế; thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế trường học, đánh vào đầu nông dân làm cho đời sống của người nông dân càng thêm cơ cực.
Chế độ bóc lột ấy ở nông thôn làm cho nông dân thất nghiệp, chết đói tràn lan. Tức nước vỡ bờ, giai cấp nông dân đã vùng lên đấu tranh “những cuộc tranh đấu của dân cày ở Trung Kỳ, Nam Kỳ và Bắc Kỳ ngày càng thêm sâu, thêm rộng", và đã phát triển thành một phong trào cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp công nhân phải tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân theo con đường cách mạng thì cách mạng mới thắng lợi được. "Bởi vậy cho nên công tác trong nông dân là một việc rất quan trọng và cần kíp trong Đảng".
Phần 2: Những sai lầm và khuyết điểm trong công tác vận động nông dân.
Nông hội ở Đông Dương phát triển khá nhưng chưa đáp ứng được tình hình vì các cấp Đảng bộ ở nông thôn trong công tác có nhiều sai lầm, khuyết điểm. Về tổ chức Nông hội, tôn chỉ không rõ ràng, tổ chức chậm và hẹp hòi, lại không có phụ nữ và thanh niên tham gia. Tuyên truyền tranh đấu không mạnh, không đều khắp và chỉ chú trọng tuyên truyền phản đế quốc và ít chú ý phản địa chủ; chỉ huy biểu tình, thị uy không cương quyết. Kế hoạch lại sơ sài.
Phần 3: Công tác vận động nông dân.
Nông hội là tổ chức của nông dân để tranh đấu cho đến lúc cách mạng thổ địa thắng lợi. Nông hội phải chú ý lãnh đạo nông dân đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thực hằng ngày tuyên truyền khẩu hiệu cách mạng thổ địa trong quần chúng làm cho giai cấp nông dân hiểu rằng chỉ có đoàn kết với giai cấp công nhân và đấu tranh dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mới giành được thắng lợi. Xây dựng hệ thống tổ chức Nông hội từ cơ sở (làng) đến toàn Đông Dương. Nông hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Việc lãnh đạo tranh đấu: “Sách lược chung về nông dân vận động hiện nay thâu phục quảng đại quần chúng bần và trung nông, mở rộng tổ chức, khoách trương tranh đấu cho sâu, rộng, đều ra, thêm sức lãnh đạo của vô sản giai cấp trong nông dân, chớ không phải là chủ trương địa phương bạo động".
Lãnh đạo nông dân tranh đấu đòi những quyền lợi trước mắt. Về chính trị: tự do tổ chức, hội họp, ngôn luận, phản đối khủng bố trắng, hội đồng cải cách, hội đồng quản hạt... Về kinh tế: giảm thuế, bỏ thuế thân, bớt địa tô, chống địa tô, bỏ sưu dịch công ích...
Nghị quyết có phần phụ thêm về Điều lệ Tổng Nông hội Đông Dương, Điều lệ Nông hội làng, Điều lệ Ban Chấp hành Nông hội xã.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998, t.2, tr.150-157.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Đoàn Thanh niên Cộng sản
Nhận rõ tầm quan trọng của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, Hội nghị tháng 10-1930 đã thông qua Nghị quyết về vận động thanh niên.
Nghị quyết khẳng định tầm quan trọng của Thanh niên Cộng sản Đoàn. Ở Đông Dương thanh niên chiếm một số lượng khá đông và là lực lượng có tinh thần đấu tranh hăng hái. Những đảng phái quốc gia cải lương đều hiểu rõ vai trò của thanh niên và cố gắng gây ảnh hưởng trong thanh niên. Đảng cần phải lãnh đạo thanh niên lao động thoát khỏi ảnh hưởng trên. Muốn được như vậy thì phải tổ chức ra một đoàn thể của thanh niên. Nhưng từ trước tới nay, Đảng bộ các địa phương chưa nhận thức được tầm quan trọng của đoàn thanh niên. Nghị quyết nhấn mạnh tất cả đảng viên phải hiểu công việc của Đoàn Thanh niên Cộng sản là nhiệm vụ cần kíp của Đảng.
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định: Thanh niên Cộng sản Đoàn là đại biểu duy nhất của thanh niên công nông ở thành thị cũng như nông thôn. Đoàn đại biểu quyền lợi cho thanh niên lao động và tranh đấu để bênh vực những quyền lợi ấy. Thanh niên có quyền lợi chính đáng và không trái với quyền lợi của người lớn. Muốn cho thanh niên tranh đấu vững vàng phải lập ra Thanh niên Cộng sản Đoàn để chỉ đạo toàn bộ cuộc đấu tranh của thanh niên lao động.
Thanh niên Cộng sản Đoàn không phải là một Đảng Cộng sản thứ hai cho thanh niên, mà là một tổ chức của những thanh niên cộng sản thừa nhận và thi hành Chương trình, Điều lệ của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên, về tổ chức, Thanh niên Cộng sản Đoàn là một đoàn thể độc lập, nó là đoàn thể rộng rãi của thanh niên nên phải thu hút được thanh niên. Muốn cho ảnh hưởng cộng sản lan rộng trong quần chúng thanh niên lao động, phải tổ chức những bộ phận phụ trách công tác thanh niên trong các Công hội, Nông hội, Hội Phản đế...
Cách tổ chức Đông Dương Cộng sản Thanh niên Đoàn, Trung ương và các cấp lấy những đồng chí trẻ tuổi nhất trong cấp ủy để tổ chức Cộng sản Thanh niên Đoàn. Mỗi chi bộ Đảng phụ trách tổ chức ra chi bộ Đoàn. Báo Đảng phải để một phần mà công bố, tuyên truyền cho Thanh niên Cộng sản Đoàn. Cộng sản Thanh niên Đoàn sẽ hoạt động theo Chương trình, Điều lệ của Đảng Cộng sản và phải tham gia hết thảy các cuộc tranh đấu giúp cho Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 166-172.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vận động phụ nữ
Phụ nữ Đông Dương chiếm một phần lớn trong giai cấp vô sản và đóng vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng. Nhận rõ điều đó, cùng với việc ra nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1980 đã ra Nghị quyết về vận động phụ nữ.
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế, bọn đế quốc thực hiện “hợp lý hóa", sử dụng công nhân là nữ để giảm chi phí lao động nên công nhân nữ ngày càng đông. Tình hình sinh hoạt của phụ nữ rất cực khổ, xã hội phong kiến khinh rẻ phụ nữ, cho họ là người tôi mọn hèn kém, mất tự do. Thực tế các cuộc tranh đấu vừa qua chứng minh phụ nữ là một lực lượng quan trọng. Nếu quảng đại phụ nữ không tham gia cách mạng thì cách mạng không thể thành công. Cho nên, vận động phụ nữ là nhiệm vụ lớn và quan trọng của Đảng.
Nhưng trong thực tế, các cấp bộ Đảng ít chú ý tới vận động phụ nữ. Những tổ chức phụ nữ phần lớn không được huấn luyện, trong các cuộc tranh đấu không có những điều yêu cầu bênh vực riêng cho quyền lợi của phụ nữ. Đảng chủ trương phải tăng cường lãnh đạo công tác phụ nữ.
Trong các cơ quan lãnh đạo Đảng và thanh niên cộng sản từ địa phương cho đến Trung ương, phải tổ chức ra Ban Phụ nữ hoặc phân công người chuyên trách công tác vận động phụ nữ. Trong đấu tranh, phải đưa ra những yêu sách có gắn quyền lợi phụ nữ. Cấm dùng phụ nữ vào việc nguy hiểm và phải có chế độ nghỉ sinh đẻ cho phụ nữ; bỏ chế độ cưới vợ, gả chồng như mua, bán... muốn thu hút được đông đảo phụ nữ, Đảng phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ như "Phụ nữ hiệp hội" để đem lại quyền lợi cho phụ nữ, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ.
Việc tuyên truyền, cổ động cho phụ nữ là nhiệm vụ của các báo Đảng, Thanh niên Đoàn Công hội và Nông hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 188-191.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề phản đế
Phản đế là nhiệm vụ chiến lược trong cách mạng tư sản dân quyền. Vì vậy, Hội nghị tháng 10-1930 đã ra Nghị quyết về vấn đề phản đế nhằm tập hợp các đoàn thể quần chúng vào một tổ chức thống nhất chống đế quốc. Nghị quyết chỉ rõ, thế giới hiện tại chia làm hai phe rõ rệt, một bên là chủ nghĩa đế quốc; một bên là các dân tộc bị áp bức. Các nước đế quốc câu kết với nhau để thống trị các dân tộc, như đế quốc Pháp, Anh, Hà Lan bí mật liên kết với nhau để áp bức các dân tộc Đông Dương, Ấn Độ, Mã Lai (Malaixia). Vì vậy các dân tộc bị áp bức đã đoàn kết thành một mặt trận và tổ chức ra một đoàn thể có tính chất quốc tế lấy tên là Đại đồng minh phản đế quốc chủ nghĩa và mưu dân tộc độc lập.
Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương ở vào phe bị áp bức. Sự bóc lột đè nén của đế quốc Pháp ngày càng nặng nề, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân ngày càng mạnh, các đoàn thể quần chúng công, nông, học sinh, binh lính và tiểu tư sản mau chóng ra đời. Điều đó chứng tỏ ở Đông Dương có nhiều lực lượng phản đế, đòi hỏi Đảng phải tổ chức ra ở Đông Dương một phân bộ của Đại đồng minh phản đế.
Nghị quyết chỉ rõ việc tổ chức phản đế là trách nhiệm cần kíp của Đảng. Nhưng từ trước đến nay, Đảng chưa có phương pháp tổ chức đúng đắn nên chưa tập hợp tất cả các lực lượng phản đề trong một mặt trận thống nhất.
Tổ chức Hội Phản đế là phải làm cho Hội có tính chất quần chúng chứ không tổ chức từng người một.
Giai cấp vô sản phải chỉ đạo công tác vận động phản đế thì mới có tính chất triệt để. Hội Phản đế phải tham gia vào các cuộc tranh đấu hằng ngày của công nông.
Trong công tác hằng ngày, Hội Phản đế đồng minh ở Đông Dương phải chú ý hoạt động công khai trong quần chúng, cổ động tranh đấu với mục tiêu là: chống khủng bố trắng, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên bang Xôviết.
Nghị quyết cũng thông qua điều lệ “Đồng minh phản đế ở Đông Dương”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 194-196 .
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vận động binh lính
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10 - 1930 đã thông qua Nghị quyết về vận động binh lính. Nghị quyết nêu rõ, binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp chủ yếu xuất thân từ công nông, cũng bị áp bức, đè nén. Đảng phải vận động họ tranh đấu chống lại ách áp bức, bóc lột.
Quân đội của đế quốc Pháp ở Đông Dương có hai bộ phận: phần đông là người bản xứ, một phần là quân đội viễn chinh đến từ Pháp và các nước thuộc địa Pháp. Vận động cách mạng trong binh lính địch phải làm cho họ nhận thức được mình là công cụ trong tay chính quyền thực dân để tiến hành những cuộc chiến tranh phi nghĩa, từ đó xây dựng cho họ tinh thần phản chiến, ủng hộ Liên Xô, quay súng về với đồng bào mình.
Nghị quyết nhấn mạnh, muốn huy động được binh lính đấu tranh chống đế quốc chủ nghĩa, Đảng cần phải tích cực tuyên truyền cách mạng trong binh lính, đặc biệt chú ý tìm ra phương pháp vận động thích hợp, đồng thời phải chú ý tổ chức chi bộ Đảng trong các trại lính để lãnh đạo phong trào đấu tranh.
Công tác cách mạng trong binh lính phải mật thiết liên lạc với công tác cách mạng trong quần chúng công nông; những cuộc tranh đấu của binh lính phải phối hợp với sự tranh đấu của công nhân và nông dân. Như vậy, sự tranh đấu cách mạng mới thống nhất và có sức mạnh. Vận động binh lính đấu tranh đòi những yêu cầu: tăng tiền lương, cải thiện chế độ ăn uống, tổ chức các ban quản đốc của binh lính để chăm sóc mọi việc trong trại, bỏ chế độ trừng phạt, bỏ lệ chào quan binh...
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 204-208.
THÁNG 10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề cứu tế
Chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp và tay sai làm cho đời sống nhân dân Đông Dương từng ngày, từng giờ bị đe dọa. Chúng đàn áp dã man các cuộc biểu tình, triệt hạ làng mạc, bắt giam, tra khảo hàng nghìn người. Yêu cầu bức thiết là phải thành lập Hội Cứu tế đỏ để giúp đỡ những nạn nhân của chính sách khủng bố, đàn áp.
Hội Cứu tế đỏ là tổ chức tương trợ cách mạng của đại đa số quần chúng, đồng thời là một đoàn thể đấu tranh cách mạng. Vì vậy, Hội phải thu hút được đông đảo quần chúng, kể cả tầng lớp trên, để tăng cường sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất, ủng hộ một cách có hiệu quả cuộc đấu tranh của quần chúng.
Nghị quyết nêu rõ trách nhiệm của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải tích cực tham gia tổ chức, lãnh đạo Hội Cứu tế đỏ, đẩy mạnh hoạt động của Hội, giúp đỡ các nạn nhân của chính sách đàn áp của chính quyền thực dân, phong kiến.
Hội Cứu tế đỏ phải được tổ chức rộng khắp, có hệ thống từ địa phương đến toàn xứ Đông Dương, tổ chức ở nơi cơ sở nhà máy, xí nghiệp, công sở, trường học... để quy tụ mọi tầng lớp nhân dân tham gia.
Mục tiêu đấu tranh của Hội Cứu tế đỏ là chống khủng bố trắng, bỏ án tử hình, chống các hành động tra tấn tù nhân, chống chế độ lao tù hà khắc; giúp đỡ chính trị phạm và gia đình những người bị nạn; tham gia các cuộc vận động của Quốc tế Cứu tế đỏ...
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, trr. 199-201.
THÁNG 10
Thành lập Đặc khu ủy mỏ
Sau khi Đảng ra đời, ở khu mỏ đã có tổ chức cộng sản. Từ trung tuần tháng 5-1930, mặc dù bọn chủ mỏ tìm mọi cách đàn áp, khủng bố phong trào, nhưng chúng vẫn không phá được tổ chức Đảng của khu mỏ. Xứ ủy Bắc Kỳ rất quan tâm đến phong trào cách mạng khu mỏ, Xứ ủy đã cử đồng chí Nguyễn Công Hòa và một số cán bộ tăng cường cho khu mỏ.
Đến tháng 9-1930, ở khu Mỏ Quảng Ninh có ba Đảng ủy mỏ: Uông Bí - Vàng Danh, Cẩm Phả - Cửa Ông, Hòn Gai, cần có một tổ chức Đảng cấp trên chỉ đạo. Đáp ứng yêu cầu ấy, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 quyết định thành lập ở khu mỏ một khu đặc biệt và tổ chức Đặc khu uỷ Đông Triều - Hòn Gai - Cẩm Phả để trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân mỏ.
Thực hiện quyết định của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ cử đồng chí Phạm Văn Ngọc, Xứ ủy viên trực tiếp chỉ đạo Hội nghị đại biểu ba Đảng ủy mỏ họp tại Hải Phòng. Đồng chí Phạm Văn Ngọc phổ biến Nghị quyết của Hội nghị Trung ương về công tác của khu mỏ và tuyên bố thành lập Đảng bộ Đặc khu (tương đương một đảng bộ cấp tỉnh do Xứ ủy Bắc Kỳ trực tiếp chỉ đạo) để lãnh đạo phong trào cách mạng toàn khu mỏ.
Ban Chấp hành Đảng bộ Đặc khu do Xứ ủy chỉ định gồm ba đồng chí: Vũ Văn Hiếu - đại biểu Đảng ủy Cẩm Phả, Trần Văn Nghệ - đại biểu Đảng ủy Hòn Gai, Phạm Gia - đại biểu Đảng ủy Đông Triều. Đồng chí Vũ Văn Hiếu được phân công làm Bí thư Đặc khu uỷ và trực tiếp phụ trách khu vực Cẩm Phả - Cửa ông.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t. 1.
THÁNG 10
Thông cáo của Trung ương Đảng về việc đối phó chính sách tàn sát quần chúng
Trong tháng 8 và tháng 9 năm 1930, những cuộc đấu tranh ở Nghệ An và Hà Tĩnh có tính chất bạo động và có đến 40.000 quần chúng tham gia, gây chấn động trong cả nước và trên thế giới.
Thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man các cuộc đấu tranh của quần chúng. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng ra Thông cáo gửi các cấp bộ Đảng, nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh về đối phó chính sách tàn sát của đế quốc. Trung ương Đảng kêu gọi phải khẩn trương tổ chức ngay các cuộc đấu tranh khác, để ngăn chặn bàn tay tàn sát của đế quốc. Đồng thời, Thông cáo chỉ rõ những chủ trương của Trung ương là:
1. Yêu cầu quốc tế hưởng ứng, nhất là Đảng Cộng sản Pháp.
2. Đăng báo quốc tế, tố cáo tội ác của đế quốc Pháp.
3. Phát truyền đơn khắp toàn quốc phản đối.
4. Vận động nhân dân các địa phương tranh đấu để bênh vực nông dân Nghệ An, Hà Tĩnh và công nhân Bến Thủy.
5. Tổ chức tranh đấu ở Nghệ An, Hà Tĩnh.
Thông cáo cho rằng, hoàn cảnh đã khác trước, đế quốc Pháp đang hết sức tìm cớ để đàn áp quần chúng. Nên phải thay đổi phương pháp tranh đấu, tổ chức biểu tình với những khẩu hiệu chính là:
1. Không được động đến nông dân Nghệ - Tĩnh.
2. Phản đối ném bom tàn sát.
3. Tự do bãi công, tự do biểu tình.
4. Lấy thóc gạo của địa chủ chia cho dân bị đói.
5. Lấy ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 215-217.
THÁNG 10
Nông dân Vĩnh Yên ủng hộ "Nghệ - Tĩnh đỏ"
Để ủng hộ phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh, chống đế quốc đàn áp công nông hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Trung ương Đảng ra Thông cáo kêu gọi toàn Đảng tổ chức đấu tranh.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương, các cơ sở Đảng ở Vĩnh Yên đã tổ chức đấu tranh tố cáo tội ác của thực dân Pháp và bày tỏ tình đoàn kết với công nông Nghệ - Tĩnh.
Những ngày cuối tháng 10-1930, truyền đơn khẩu hiệu với nội dung "phản đối đế quốc chủ nghĩa Pháp thảm sát công nông Nghệ - Tĩnh đỏ"... “Công nông binh liên hiệp lại ủng hộ Nghệ - Tĩnh đỏ”... được rải, được treo ở nhiều nơi trong thị xã và các huyện Vĩnh Tường, Tam Dương, Lập Thạch.
Các tổ Nông hội đỏ tổ chức diễn thuyết công khai, tuyên truyền cho phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh và phản đối đế quốc Pháp tàn sát công nông Nghệ - Tĩnh ở chợ Kiệu (Vĩnh Tường) và chợ Quán (Lập Thạch). Ngoài ra, các hội viên Nông hội đỏ xã Đại Đồng còn vận động công nhân làm than ở Bỉnh Di (Lập Thạch) đình công đòi tên chủ người Pháp tăng lương và phản đối đánh đập công nhân.
Phong trào đấu tranh ở Vĩnh Yên có ảnh hưởng sâu rộng trong toàn tỉnh và các tỉnh lân cận.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
NGÀY 31-10
Cuộc biểu tình của nông dân huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi)
Hưởng ứng cuộc đấu tranh của nông dân huyện Đức Phổ, sáng 31-10-1930, hơn 2000 nông dân huyện Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) mít tinh để nghe cán bộ của Đảng nói chuyện về tình hình cách mạng trong nước, sau đó đoàn biểu tình tiến lên huyện lỵ phản đối đế quốc Pháp đàn áp công nông Nghệ - Tĩnh.
Đoàn biểu tình đưa ra các yêu sách: đòi bãi bỏ thuế thân, giảm thuế điền và hoãn thuế, trừng trị bọn tham quan ô lại và cường hào gian ác, đòi tự do lập hội và hội họp, mở trường học để phổ cập giáo dục cho nhân dân...
Trước sức đấu tranh của quần chúng nông dân, nhà cầm quyền thực dân phải nhận yêu sách của quần chúng, nhưng chúng vẫn bắt giữ một số chiến sĩ cách mạng và dùng binh lính gây áp lực, buộc đoàn biểu tình phải giải tán. Ngay chiều hôm đó, Ban tổ chức cuộc biểu tình tập hợp quần chúng lại để ổn định tư tưởng, bảo toàn lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 91.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
NGÀY 1-11
Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga
Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời kêu gọi quần chúng công nông noi gương Liên Xô và ủng hộ nước Nga Xôviết, chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đang bao vây lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Lời kêu gọi chỉ rõ: Phong trào công nhân ở các nước tư bản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương phải bổ sung khẩu hiệu: "Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc”, “Đả đảo chiến tranh đế quốc", “Cuộc cách mạng vô sản toàn thắng và cuộc cách mạng của nhân dân bị áp bức toàn thế giới muôn năm".
Thực dân Pháp đang ra sức bóc lột nhân dân Việt Nam: tiền lương giảm, công nhân bị sa thải, nạn thất nghiệp tăng, giai cấp địa chủ chiếm tất cả đất đai của nông dân, những người buôn bán nhỏ bị bần cùng hóa, sinh viên bị đuổi học, thanh niên bị bắt lính. Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, cứu đói, việc làm cho người thất nghiệp; chia ruộng đất của địa chủ cho nông dân; chống tăng thuế, chống đối xử xấu với sinh viên; chống bắt lính Việt Nam ra nước ngoài.
Trung ương Đảng chỉ rõ: trong mấy tháng qua, phong trào đấu tranh của quần chúng công nông đã nổi lên mạnh mẽ từ Nam chí Bắc, thu hút trên 500.000 người. Bọn đế quốc, quan lại đã dùng hình thức đàn áp dã man, tàn bạo, chúng càn quét phá hủy nhiều làng mạc ở Nghệ -Tĩnh, Thái Bình. Cho nên, phải ngăn chặn sự đàn áp của chúng, kiên quyết đấu tranh đòi: hủy bỏ Hội đồng tòa án; xóa bỏ án tử hình; không được đụng đến công nhân và nông dân Nghệ - Tĩnh, Thái Bình, Phủ Lý và Nam Kỳ; phản đối sự phá hủy làng mạc;...
Cuối cùng, Trung ương Đảng kêu gọi: “Hỡi các anh chị em, chúng ta phải làm cách mạng. Các bạn phải đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản. Các bạn cần phải tuyên truyền cho các anh chị em bị bóc lột trong nước để họ ủng hộ Đảng Cộng sản, để họ đứng lên làm cách mạng tiêu diệt tận gốc toàn bộ kẻ thù”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 218-222.
NGÀY 5-11
Thư của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Nông dân
Phong trào cách mạng của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng trong năm 1930 được Nguyễn Ái Quốc theo dõi chặt chẽ và báo cáo thường xuyên cho Quốc tế Cộng sản.
Ngày 5-11-1930, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Quốc tế Nông dân, trình bày về phong trào nông dân Việt Nam nói chung và Xôviết Nghệ -Tĩnh nói riêng.
Từ tháng 5 đến tháng 11-1930, phong trào đấu tranh của giai cấp nông dân diễn ra hết sức mạnh mẽ tử Nam chí Bắc.
Tại Nam Kỳ, mặc dù bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp dã man, nông dân các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho liên tục đấu tranh.
Tại Trung Kỳ, phong trào nông dân phát triển mạnh mẽ tử đầu tháng 8. Chỉ tính từ ngày 20-8 đến ngày 6-10-1930, có 39 cuộc biểu tình và mít tinh, với 69.350 nông dân tham gia.
Giai cấp nông dân tích cực tham gia tổ chức Nông hội đỏ. Từ ngày 1-5 đến ngày 1-10, hơn 50.000 nông dân ở Nam Kỳ và Trung Kỳ đã vào Nông hội.
Đế quốc Pháp đàn áp phong trào nông dân một cách dã man. Chúng cho binh lính xả súng, cho máy bay ném bom vào các đoàn biểu tình làm hàng trăm người chết. Mặc dù vậy, phong trào vẫn tiếp tục lan rộng ra Bắc Kỳ. Nhân dân các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Kiến An bắt đầu đứng dậy đấu tranh.
Bức thư của Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời thông báo cho Quốc tế Nông dân về tình hình phong trào nông dân và sự đàn áp của đế quốc Pháp đối với nông dân Đông Dương. Điều đó có tác dụng lớn trong việc tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Quốc tế Nông dân đối với phong trào nông dân Đông Dương.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 53-54.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 223-224.
NGÀY 7-11
Nông dân một số địa phương đấu tranh nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga
Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11), Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho thông qua các tổ chức Nông hội phát động nhân dân tham gia mít tinh nhằm biểu dương sức mạnh của quần chúng.
Sáng ngày 7-11, hơn 400 nông dân các xã Đạo Thành, Trung An tập trung nghe cán bộ diễn thuyết về ý nghĩa Cách mạng Tháng Mười. Sau đó quần chúng tuần hành, thị uy qua các xã dưới sự lãnh đạo của Nông hội. Cùng ngày, hơn 200 nông dân xã Hưng Long (Châu Thành) tổ chức mít tinh, nghe diễn thuyết.
Tại Nghệ - Tĩnh, các tổ chức Đảng đã vận động quần chúng treo cờ búa liềm, rải truyền đơn, mít tinh, biểu tình. Sáng sớm ngày 7-11, Huyện ủy Hương Khê huy động khoảng hơn 5.000 nông dân biểu tình thị uy, trấn áp bọn phản cách mạng, đốt 22 điếm canh của đế quốc Pháp và Nam triều. Tại Diễn Châu, Huyện ủy huy động 1.500 quần chúng kéo đến huyện đường đòi giảm sưu thuế. Huyện ủy Yên Thành huy động 1000 quần chúng từ hai ngả biểu tình kéo vào huyện đường đòi xóa sưu, giảm thuế, bỏ công ích cho nông dân.
Nhân dân các huyện Thanh Chương, Anh Sơn, Nam Đàn biểu tình cổ vũ lớn cho nhân dân các tỉnh vùng dậy đấu tranh.
Các cuộc đấu tranh này chứng tỏ trình độ giác ngộ giai cấp, tinh thần đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam ngày càng được nâng cao.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh 1930-1954 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Mỹ Tho: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Mỹ Tho (1927-1975), Mỹ Tho, 1999.
NGÀY 13-11
Thư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương
Sau khi nhận được các văn kiện của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930, Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ rõ một số vấn đề trọng tâm của cách mạng Đông Dương:
1. Tính chất và động lực của cuộc cách mạng Đông Dương.
Cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chống đế quốc với nhiệm vụ trước mắt là: giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị và áp bức của đế quốc, đồng thời tiến hành cuộc cách mạng điền địa triệt để, xóa bỏ mọi tàn tích phong kiến. Động lực của cách mạng Đông Dương là: giai cấp vô sản và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
2. Mục tiêu của cách mạng điền địa là xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến và chia đều ruộng đất cho dân cày nghèo.
3. Vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản: không có sự hướng dẫn và lãnh đạo tích cực của giai cấp vô sản, thì cách mạng điền địa không thể thắng lợi. Do đó, Đảng phải tranh thủ và tổ chức lãnh đạo đa số các bộ phận quan trọng nhất của giai cấp vô sản ở các ngành công nghiệp và trung tâm công nghiệp quan trọng nhất, chú ý tổ chức và mở rộng Công hội đỏ.
4. Những nhiệm vụ tổ chức trước mắt của Đảng:
Xây dựng sự đoàn kết, thống nhất của Đảng, khắc phục chủ nghĩa cục bộ địa phương. Xây dựng Ban Chấp hành Trung ương có tính đại diện mạnh với những hoạt động phối hợp với các tỉnh ủy. Xây dựng cơ sở Đảng ở các thành thị là trung tâm công nghiệp. Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ xuất thân từ công nhân. Cần thành lập Thanh niên Cộng sản Đoàn và chú trọng xây dựng bộ máy bất hợp pháp của Đảng, đồng thời lợi dụng khả năng và cơ hội hoạt động hợp pháp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 274-283.
NGÀY 18-11
Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xôviết Nghệ - Tĩnh đã có tác động mạnh, làm phân hóa các giai cấp và tầng lớp trên. Nhưng vì chưa quán triệt đường lối chiến lược và sách lược của Đảng, cho nên phong trào chưa thu hút được những người có tinh thần phản đế vào một mặt trận dân tộc rộng rãi chống đế quốc. Trước tình hình ấy, ngày 18- 11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh gửi cho các cấp ủy Đảng và toàn thể đảng viên.
Trước hết, chỉ thị nhắc lại đường lối chiến lược và sách lược mà Luận cương cách mạng tư sản dân quyền của Đảng đã nêu rõ: Nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải kết hợp chặt chẽ với nhau, công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, công nhân phải liên minh chặt chẽ với nông dân thì cách mạng mới thắng lợi, nếu giai cấp công nhân không tổ chức được toàn dân thành một lực lượng thật rộng, thật vững thì cách mạng cũng khó thành công. Từ trước đến nay, ta chưa nhận rõ vấn đề ấy, cho nên tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông, "thiếu mặt tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc... cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia...".
Chúng ta chưa nhận thức rõ: tổ chức Hội Phản đế đồng minh là một nhiệm vụ của đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác ở thời đại đế quốc chủ nghĩa . “Do đó, chúng ta đã tách rời dân tộc cách mạng với giai cấp cách mạng làm hai đường mà chưa nhận định đúng là dân tộc cách mạng vẫn là một nhiệm vụ trong giai cấp cách mang. Sự chuyển biến lối này hay lối khác đó là hoàn cảnh từng nơi từng lúc, chứ không phải hai đường sai trái nhau”.
Thường vụ Trung ương Đảng nêu rõ: Tổ chức Hội Phản đế đồng minh là chủ trương đúng đắn và khẩn thiết. Chỉ thị hướng dẫn cách thức tổ chức Hội Phản đế đồng minh trên cơ sở phong trào mạnh, yếu ở các địa phương khác nhau.
Ở những nơi phong trào đấu tranh mạnh mẽ như: Nghệ - Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, có thể thành lập ngay Ban Chấp hành Hội Phản đế, rồi tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân tham gia, mở hội nghị đại biểu, quy tụ các tổ chức quần chúng (Nông hội, Công hội, Hội Phụ nữ...) và các đoàn thể có tính chất phường hội của nhân dân gia nhập.
Ở những nơi phong trào còn thấp, sử dụng các hình thức tổ chức biến tướng để tập hợp các tầng lớp nhân dân, sau đó tuyên truyền vận động hướng họ vào con đường cách mạng.
Chỉ thị về thành lập Hội Phản đế đồng minh thể hiện sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ chỉ nhấn mạnh vấn đề đoàn kết giai cấp đến chỗ thấy được tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong cách mạng giải phóng dân tộc. Đó cũng là sự trở lại tư tưởng đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc về đoàn kết dân tộc và đặt cơ sở cho việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất sau này.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 227-232.
NGÀY 9-12
Thư của Thường vụ Trung ương Đảng gửi các cấp đảng bộ
Ngày 9-12-1930, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho các cấp uỷ Đảng nhằm thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng.
Trung ương Đảng phê phán một số nhận thức và hành động được cho là "chưa đúng” của Hội nghị hợp nhất.
Thứ nhất: Phương pháp thành lập Đảng không theo chỉ dẫn của Quốc tế Cộng sản là chọn lựa kết nạp những người ưu tú của các tổ chức tiền thân vào Đảng mà chuyển nguyên khối các tổ chức cộng sản vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai: Lấy tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam chưa thể hiện tinh thần quốc tế vô sản vì chưa bao gồm giai cấp vô sản Cao Miên và Lào. Trung ương giải thích lý do lấy tên Đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương vì ba nước Đông Dương có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về kinh tế, cùng có kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược cho nên phải đoàn kết các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, đánh đổ ách cai trị của đế quốc, giải phóng dân tộc.
Thứ ba: Phải nhìn nhận giai cấp địa chủ và tư sản trên phương diện giai cấp đối kháng với các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân và nông dân, do đó không thể chia giai cấp này ra các bộ phận khác nhau.
Thứ tư: Hệ thống tổ chức Đảng theo Điều lệ tóm tắt thiếu cấp xứ bộ nên hoạt động lãnh đạo của Đảng không thông suốt.
Thứ năm: Hướng dẫn cách thức xây dựng và tổ chức các đoàn thể quần chúng còn thiếu cụ thể, chưa quan tâm đến quyền lợi hàng ngày của quần chúng nên không tập hợp được quần chúng, ngay cả Hội Phản đế đồng minh có tính chất rộng rãi nhất cũng trong tình hình như vậy.
Thứ sáu: Các Đảng bộ trong nước chưa chấp hành nghiêm đường lối của Quốc tế Cộng sản. Ngay cả việc tổ chức Hội nghị hợp nhất cũng không theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Trung ương Đảng chỉ đạo các Đảng bộ trong nước tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau, thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng.
1. Xây dựng, củng cố Thanh niên Cộng sản Đoàn.
2. Xây dựng và phát triển Công hội đỏ rộng khắp theo ngành nghề, địa phương tiến tới Đại hội Công hội đỏ toàn Đông Dương.
3. Củng cố và phát triển Nông hội đỏ các cấp tiến tới Đại hội Nông hội đỏ toàn Đông Dương.
4. Tổ chức các Đội tự vệ công nông để bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng.
5. Xây dựng, mở rộng Hội Phản đế đồng minh trên cơ sở đoàn kết rộng rãi tất cả các giai cấp, tầng lớp.
6. Tăng cường công tác vận động phụ nữ, củng cố Hội Phụ nữ các địa phương.
Thực tế lịch sử sau này đã chứng minh những điểm bị coi là “sai lầm" của Hội nghị hợp nhất chính là những sáng tạo đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 233-242.
TỪ NGÀY 22 ĐẾN NGÀY 27-12
Hội nghị cán bộ Xứ uỷ Trung Kỳ
Từ ngày 22 đến ngày 27-12-1930, Xứ uỷ Trung Kỳ tổ chức Hội nghị cán bộ cấp xứ. Dự Hội nghị có chín đại biểu cấp trung ương, xứ uỷ và tỉnh uỷ. Hội nghị đã bàn bạc và góp nhiều ý kiến xây dựng đường lối cách mạng của Trung ương Đảng, đề ra nhiệm vụ cụ thể của đảng bộ trong tình hình phong trào cách mạng đang ở thế thoái trào.
Hội nghị thảo luận và ủng hộ nghị quyết của Trung ương Đảng đồng thời góp ý kiến bổ sung một số vấn đề cụ thể mà nghị quyết Trung ương chưa đề cập đến như chính sách đối với tư bản người Hoa ở Đông Dương, vấn đề lĩnh canh, vấn đề thuỷ lợi, vấn đề địch lợi dụng tôn giáo để cai trị quần chúng, phá hoại phong trào...
Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở Trung Kỳ, Hội nghị đề ra nhiệm vụ của Đảng bộ là: tăng cường tuyên truyền, vận động quần chúng ở những nơi phong trào đấu tranh còn yếu, đấu tranh bảo vệ những thành quả đã giành được, chống áp bức bóc lột, chống chiến tranh đế quốc, đòi những quyền lợi thiết thân hàng ngày, tăng cường xây dựng Đảng và Nông hội.
Xứ uỷ thống nhất nhận định: thời gian qua, phong trào đấu tranh cách mạng trong xứ hết sức mạnh mẽ do sự giác ngộ chính trị của quần chúng và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên Đảng bộ còn nhiều khuyết điểm trong lãnh đạo như chưa hiểu rõ điều hiện và đánh giá thấp sức mạnh của quần chúng; trong lãnh đạo lúc tả khuynh, lúc hữu khuynh, nơi phong trào yếu thì rụt lại, nơi phong trào mạnh thì thúc đẩy vượt quá khả năng, khi địch khủng bố trắng thì mất phương hướng, nhiều nơi dùng những biện pháp đấu tranh quá tả, tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng còn lỏng lẻo, để nhiều phần tử xấu chui vào, chưa làm tốt công tác vận động binh lính địch.
Hiện tại, tư bản Pháp đang thi hành chính sách "hợp lý hoá" sản xuất mà thực chất là sa thải công nhân ngày càng nhiều, làm hàng nghìn người thất nghiệp. Do đó, đảng bộ đề ra nhiệm vụ đấu tranh chống sa thải, đòi việc làm, chống "hợp lý hoá" sản xuất. Đối với phong trào chống chiến tranh đế quốc, Hội nghị tán thành nghị quyết của Trung ương Đảng và đề nghị tổ chức "Hội Bảo vệ nước Nga Xôviết".
Trước chính sách hai mặt của đế quốc Pháp, vừa khủng bố trắng vừa ra sức lừa bịp quần chúng, Xứ uỷ đề ra những nhiệm vụ cụ thể lãnh đạo nhân dân chống những chính sách cải lương lừa bịp như giảm thuế thân nhưng lại tăng thứ thuế khác, lập Uỷ ban điều tra tình hình nông thôn, lập quỹ tín dụng nông nghiệp, Hội đồng cải cách... của địch. Phát triển Hội Phản đế đồng minh và phong trào ủng hộ Liên Xô. Chống khủng bố trắng bằng tuyên truyền vận động binh lính không bắn vào nhân dân, quần chúng không tấn công và đốt phá trụ sở chính quyền địch và gia đình địa chủ, thông tin rộng rãi về chính sách khủng bố trắng của địch để gây một phong trào chống khủng bố trắng mạnh mẽ ở Đông Dương cũng như trên toàn thế giới.
Xứ uỷ Trung Kỳ nhận thấy Đảng bộ còn nhiều điểm yếu như đảng viên tích cực còn ít, chi bộ yếu và phát triển chậm, không nắm được tình hình phong trào cộng sản trong nước và thế giới.
Do đó, Hội nghị quyết định một số vấn đề về công việc nội bộ của Đảng là tổ chức Đảng cấp trên định kỳ hàng tháng gửi tài liệu học tập cho các chỉ bộ. Chi bộ phải nhanh nhạy đề ra đường lối đấu tranh bảo vệ quyền lợi của quần chúng. Chi bộ phải thường xuyên phát triển đảng viên, chú ý thành phần công nhân, nông dân, khai trừ ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách. Chú ý công tác đào tạo, đề bạt cán bộ là công nhân, nông dân nghèo vào các cấp uỷ. Chấn chỉnh bộ máy của Đảng, xoá bỏ những cấp uỷ chỉ có tên trên danh nghĩa, huấn luyện đảng viên phương pháp hoạt động bất hợp pháp, tổ chức lại các ngành chuyên môn của Đảng như giao thông, tài chính...
Hội nghị cán bộ Xứ uỷ Trung Kỳ tháng 12-1930 đề ra được nhiệm vụ trước mắt để duy trì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng và củng cố tổ chức Đảng trong tình hình đế quốc Pháp và tay sai đang khủng bố ác liệt.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 2, tr. 319-332.
CUỐI THÁNG 12
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương xuất bản báo Cờ vô sản và Tạp chíCộng sản
Cuối tháng 12-1930, Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng tại số nhà 192 đường Mayê (Mayer) - Sài Gòn bàn về đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đồng chí Trần Phú chủ trì Hội nghị.
Trước tình hình thực dân Pháp và tay sai đang ra sức xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, đồng chí Trần Phú nêu rõ nhiệm vụ của những người cộng sản lúc này là phải sử dụng vũ khí báo chí để vạch trần âm mưu của đế quốc xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản. Đồng chí nêu bật tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Hội nghị quyết định xuất bản báo Cờ vô sản ra hàng tháng, mỗi số 3.000 bản và Tạp chí lý luận chính trị Cộng sản, ra không đều kỳ. Tờ báo và tạp chí là cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 1-1931, báo Cờ vô sản phát hành số đầu tiên. Ngày 11-2-1931, Tạp chí Cộng sản ra số đầu.
- Đức Vượng: Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng (1930-1931), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 68.
- GS. Nguyễn Đức Bình, GS, TS. Trịnh Nhu: "Những cống hiến của đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương cho Đảng ta", Báo Nhân Dân số 17789 - 17791, ngày 13 - 15-4-2004.
CUỐI NĂM
Chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bình Thuận được thành lập
Khoảng giữa năm 1930, đồng chí Dương Chước (Trợ Châm) đảng viên Chi bộ Hòn Khói, Ninh Hòa, Khánh Hòa đến làng Đại Nẫm, phủ Hàm Thuận sống trong nhà cụ Lê Trọng Thiều. Đồng chí Chước tiếp xúc với quần chúng, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản cho một số thanh niên trong hai làng Đại Nẫm, Phú Hội. Sau một thời gian xây dựng, đồng chí kết nạp được một số đảng viên: Nguyễn Tỵ, Phan Xích, Ngô Đức Tốn. Đồng chí Ngô Đức Tốn sau khi tiếp thu được chủ nghĩa cộng sản qua đồng chí Dương Chước, đã về làng Tam Tân, nơi đồng chí đang dạy học, tập hợp quần chúng tốt trong vùng, lập tổ chức "Phản đế đồng minh Hội". Hội Phản đế đồng minh từ một số cốt cán ban đầu, đã phát triển trong thanh niên, giáo viên trường làng, công chức và nông dân với số hội viên 30 người. Từ những hạt nhân của Hội Phản đế đồng minh, 6 quần chúng tốt đã được kết nạp vào Đảng là: Cao Có, Lê Chạy, Lê Thanh Lư... trên cơ sở số đảng viên đó, Chi bộ Cộng sản Tam Tân là chi bộ đầu tiên dược thành lập ở Bình Thuận cuối năm 1930 do đồng chí Ngô Đức Tốn làm Bí thư.
Chi bộ Đảng đầu tiên của Bình Thuận được thành lập đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách mạng trong tỉnh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (1930-1954), Bình Thuận, 1994, t. I.
CUỐI NĂM
Thông cáo của Trung ương gửi cho các xứ ủy
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10- 1930, Trung ương Đảng gửi thông cáo cho các xứ ủy.
Thông cáo nêu rõ: Trung ương cùng với các lâm thời kỳ ủy cũ, tổ chức lại các xứ ủy. Hoàn cảnh bây giờ không thể bảo đảm thực hiện được nguyên tắc dân chủ tập trung, nhưng cũng phải theo lối bầu cử hẹp, chứ không dùng cách chỉ định. Vì vậy, mỗi tỉnh ủy, thành ủy phải cử ra một đại biểu để khai hội nghị xứ, bầu ra xứ ủy mới gồm năm người. Trong xứ ủy phải có một người công nhân, công nhân sản nghiệp thì càng tốt. Ở những thành phố mà xứ ủy đứng chân thì giải tán thành ủy, lập ra các khu ủy, do Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo. Những nơi có một tỉnh ủy kiêm nhiều tỉnh thì phải lập ra tỉnh ủy mới.
Các xứ ủy phải nhanh chóng giải thích lý do đổi tên Đảng tới các chi bộ và cán bộ đảng viên bằng cách đăng báo, rải truyền đơn. Trung ương sẽ ra một tờ báo nội bộ lấy tên là Cộng sản để bàn luận, giải thích về lý do đổi tên Đảng và các tỉnh có thể đăng bài góp ý kiến.
Các xứ ủy phải huấn định cho các địa phương thi hành án nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930. Ban Công vận các xứ ủy, tỉnh thành, đặc ủy phải xây dựng kế hoạch lập các Tổng Công hội các tỉnh. Báo chí của đảng bộ và của Công hội phải bàn đến vấn đề tổ chức Tổng Công hội ở địa phương và Tổng Công hội Đông Dương.
Vấn đề thu nạp hội viên công hội: công nhân có tinh thần đoàn kết tranh đấu đòi quyền lợi giai cấp thì đủ điều kiện vào Công hội. Công hội phải gia nhập và liên minh tranh đấu với các đoàn thể phản đế khác trong Hội Phản đế đồng minh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr. 209-212.
Năm 1931 NGÀY 3-1
Thông cáo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi các xứ uỷ về việc chống chính sách khủng bố trắng của địch
Những tháng cuối năm 1930, trước chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, trong tư tưởng một số đảng viên và cấp uỷ Đảng cũng như phong trào quần chúng diễn ra sự mất phương hướng, xuất hiện những quan điểm và hành động sai lầm. Ngày 3-1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo gửi các xứ uỷ về việc chấn chỉnh một số quan điểm sai lầm trong Đảng, tổ chức Đội tự vệ và phương pháp đấu tranh chống khủng bố trắng.
Trung ương Đảng phê phán những quan điểm sai lầm của một số đảng viên như: không tin vào sức mạnh của quần chúng và năng lực lãnh đạo của Đảng, đấu tranh vũ trang một cách nóng vội, không thấy mối quan hệ giữa tổ chức và đấu tranh…
Trung ương Đảng nhắc nhở các cấp uỷ (xứ uỷ, tỉnh uỷ, thành uỷ, đặc uỷ) phải tăng cường lãnh đạo quần chúng và năng lực lãnh đạo quần chúng đấu tranh hơn nữa.
Thông cáo đề ra một số điểm cụ thể:
1. Các cấp uỷ căn cứ vào tình hình cụ thể ở địa phương mà đề ra phương thức đấu tranh thích hợp, nhưng phải quán triệt quan điểm kiên trì, cương quyết tuyên truyền cổ động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
2. Lãnh đạo quần chúng đi từ đấu tranh đòi những quyền lợi kinh tế thiết thân tiến lên đấu tranh chính trị, đi từ những cuộc đấu tranh nhỏ lẻ đến phong trào cách mạng rộng lớn, đoàn kết vận động đông đảo quần chúng tham gia.
3. Xây dựng các Đội tự vệ công nông (ở mỗi nhà máy, mỗi làng) làm nòng cốt và bảo vệ đấu tranh chính trị. Chú ý công tác vận động binh lính địch. Đây là hai công việc cần làm ngay. Xây dựng các Đội tự vệ đồng thời phải duy trì, phát triển lực lượng này thành lực lượng lâu dài của quần chúng.
4. Bảo vệ Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng bằng cách tăng cường cảnh giác, giữ đúng nguyên tắc hoạt động bí mật và kết nạp đảng viên có chọn lọc...
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tin tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 1 - 10.
NGÀY 5-1
Thư của Quốc tế Cộng sản gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương về việc thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản
Ngày 5-1-1931, Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương nêu lên việc cần kíp thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Quốc tế Cộng sản nêu rõ: Đoàn Thanh niên Cộng sản là đại diện duy nhất của thanh niên và là đội tiên phong cua thanh niên lao động. Thanh niên có những yêu cầu riêng biệt của mình, vì vậy, phải thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản với vai trò là đội tiên phong và lãnh tụ của thanh niên lao động để đấu tranh đòi những quyền lợi đó.
Đoàn Thanh niên Cộng sản là một tổ chức độc lập, có cơ quan lãnh đạo riêng, nhưng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và đấu tranh thực hiện cương lĩnh của Đảng.
Về tổ chức, Đoàn Thanh niên Cộng sản là tổ chức rộng rãi của thanh niên lao động, đấu tranh cho đường lối của Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản ở nước mình, chống lại các tổ chức thanh niên tư sản, dân chủ - xã hội.
Ở Đông Dương, trong điều kiện hoạt động bất hợp pháp, không thể thu nạp tất cả mọi thanh niên, nhưng về nguyên tắc, thanh niên từ 14 đến 23 tuổi đều có thể trở thành đoàn viên nếu họ thừa nhận và đấu tranh cho Cương lĩnh, Điều lệ của Quốc tế Cộng sản, khi kết nạp cần ưu tiên thanh niên công nhân và nông dân.
Đoàn Thanh niên Cộng sản có thể tổ chức các đoàn thể phụ thuộc như Đội cận vệ thanh niên, Công đoàn thanh niên, các tổ chức thiếu nhi, các hội thể thao... đặt dưới sự lãnh đạo của Đoàn.
Quốc tế Cộng sản nêu rõ cách tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản là Trung ương Đảng giao nhiệm vụ cho nhóm cán bộ Đảng trẻ tuổi thành lập tổ chức kết nạp đoàn viên. Mỗi chi bộ Đảng phải tổ chức một chi đoàn thanh niên. Đảng viên dưới 23 tuổi phải tích cực hoạt động Đoàn. Đảng xây dựng cương lĩnh, điều lệ Đoàn. Tích cực xây dựng hệ thống tổ chức Đoàn từ dưới lên trên tiến tới Đại hội Đoàn Thanh niên Cộng sản toàn Đông Dương. Các tổ chức Đoàn Thanh niên phải nhanh chóng tham gia cuộc đấu tranh cách mạng ở địa phương mình do Đảng lãnh đạo. Hết sức chú ý phát triển đoàn viên thanh niên trong công nhân và xây dựng các đội cận vệ trẻ với vai trò là lực lượng bán quân sự của Đảng và Đoàn.
Bức thư của Quốc tế Cộng sản đã giúp Đảng ta nhận rõ hơn về vị trí, vai trò của thanh niên, tầm quan trọng của công tác vận động thanh niên trong sự nghiệp cách mạng, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức thanh niên của Đảng, chỉ ra mục đích, tính chất, phương pháp tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. t 3, tr. 217-221.
NGÀY 9-1
Cuộc bãi công của công nhân Hãng dầu Stenđớt Oi (Standard Oil)
Sài Gòn là nơi tập trung nhiều cơ sở công nghiệp và số lượng công nhân đông đảo. Tại đây, tổ chức Công hội và phong trào đấu tranh của công nhân chống giới chủ, đòi quyền lợi của mình, xuất hiện từ khá sớm.
Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 và ngày càng trầm trọng, giới chủ tư bản không từ một thủ đoạn nào để tìm kiếm lợi nhuận cao nhất.
Cũng như ở các nơi khác trong toàn xứ Đông Dương giai cấp công nhân ở Sài Gòn phải chịu sự áp bức, bóc lột thậm tệ của giới chủ làm đời sống công nhân ngày càng cơ cực. Không còn con đường nào khác, họ phải đứng dậy đấu tranh.
Ngày 9-1-1931, dưới sự chỉ đạo của Tổng Công hội đỏ Nam Kỳ, toàn thể công nhân Hãng dầu Stenđớt Oi bãi công chống giới chủ, đòi tăng lương 1 cắc 1 ngày, trả lương đúng kỳ hạn và không được tự ý sa thải thợ, giảm giờ làm việc xuống 8 giờ/ngày, thợ được tự do hội họp, tự do biểu tình, bãi công, chống đánh thợ và nhận lại thợ bị đuổi, trẻ em dưới 16 tuổi làm 6 giờ/ngày... Cuộc bãi công được sự hưởng ứng, ủng hộ của công nhân các hãng dầu khác như Hãng Franco-Asiatique (Pháp Á), Shell, trở thành cuộc tổng bãi công của công nhân các hãng dầu ngoại quốc.
Ngày 14-1-1931, hàng nghìn công nhân các hãng dầu và nông dân làng Phú Xuân tập trung tại cửa hãng, nghe đại biểu của Tổng Công hội đỏ Nam Kỳ diễn thuyết, động viên nhau tiếp tục đấu tranh tiến tới kỷ niệm “ngày 3L” 21-1 sắp đến. Thực dân Pháp cho lính đến giải tán, nổ ra xung đột giữa binh lính đến đàn áp và công nhân làm hàng chục người bị thương.
Cuộc đấu tranh mở đầu phong trào công nhân năm 1931 ở Sài Gòn và Nam Kỳ, thể hiện tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột giai cấp và dân tộc, đoàn kết với giai cấp nông dân chống đế quốc và tay sai.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930 - 1954) sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Nguyễn Trọng Cổn: Phong trào công nhân trong cao trào Xôviết Nghệ Tĩnh, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1980, tr. 93.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công 1930- 1935, Nxb. Sử học, Hà Nội. 1962, t. I, tr . 93-94.
NGÀY 18-1
Báo Pravđa (Sự thật) đăng bài giới thiệu và ủng hộ cách mạng Việt Nam
Cao trào cách mạng 1930-1931 của nhân dân Việt Nam và Đông Dương có tiếng vang lớn trên trường quốc tế. Đảng Cộng sản (b) và nhân dân Liên Xô chú ý theo dõi, tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam. Ngày 18-1-1931, báo Pravđa đăng bài Hai năm của Đảng Cộng sản Đông Dương, giới thiệu cuộc đấu tranh kiên cường của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam.
Bài báo phân tích những nguyên nhân chủ yếu đưa đến cao trào cách mạng ởViệt Nam trong năm 1930 và nêu lên những đặc điểm của phong trào như "tính quần chúng rộng rãi, quy mô bao trùm cả nước, đặc biệt là có sự lãnh đạo của đảng cộng sản, và tính tổ chức cao của phong trào tinh thần kiên cường đấu tranh, sự kết hợp giữa đấu tranh của công nhân và phong trào nông dân". Trong cao trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tăng cường ảnh hưởng của mình trong công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Mặc dù biết rõ rằng, trong thời gian sắp tới, Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương sẽ gặp muôn ngàn khó khăn do chính sách khủng bố tàn bạo của đế quốc Pháp, nhưng Đảng và nhân dân Liên Xô tin tưởng cách mạng Đông Dương nhất định sẽ thắng lợi. Tác giả bài báo viết: "Đấu tranh để giành bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong phong trào cách mạng dân tộc, Đảng nhất định sẽ dẫn dắt cách mạng Đông Dương tới thắng lợi hoàn toàn đối với chủ nghĩa đế quốc Pháp, giai cấp tư sản bản xứ và chế độ phong kiến nước mình”.
Bài báo Hai năm của Đảng Cộng sản Đông Dương đăng trên báo Pravđa đã giới thiệu cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường của nhân dân Việt Nam, góp phần xây dựng mối quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô với Đảng Cộng sản và nhân dân Đông Dương.
- Viện Mác – Lênin: Sự hợp tác quốc tế giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Việt Nam - lịch sử và hiện tại, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987. tr. 138.
NGÀY 20-1
Thành lập Ban Công vận Trung ương
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã chú ý vận động công nhân. Qua quá trình đấu tranh cách mạng, phong trào công nhân ngày càng lớn mạnh. Để thống nhất lãnh đạo các tổ chức Công hội đỏ, thực hiện Nghị quyết Đại hội Quốc tế Công hội đỏ lần thứ V tháng 8-1930 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương 10- 1930, ngày 20-l-1931, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Công nhân Đông Dương lần thứ nhất họp tại nhà một Hoa kiều ở phố Lơgơrăng đơla Liray (Le grand de la Liraye) dưới sự chủ tọa của đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú. Hội nghị nghe đồng chí Lê Văn Kiệt, người được Đảng cử đi dự Đại hội Quốc tế Công hội đỏ tháng 8-1930 ở Mátxcơva báo cáo kết quả Đại hội và Nghị quyết Đại hội về nhiệm vụ vận động công nhân Đông Dương.
Hội nghị quyết định thành lập Ban Công vận Trung ương gồm bốn đồng chí, do đồng chí Trần Phú làm Trưởng ban. Hội nghị thông qua bản "Luận cương và Nghị quyết của Hội nghị Công nhân Đông Dương lần thứ nhất" trong đó nêu bật hai vấn đề lớn:
- Tầm quan trọng của công tác vận động công nhân.
- Tình hình giai cấp vô sản Đông Dương và đường lối công vận của Đảng.
Tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1931, Trung ương Đảng tiếp tục bàn về kiện toàn tổ chức và thảo luận đường lối hoạt động của Công hội để đẩy mạnh công tác lãnh đạo, phát triển Công hội đỏ trong tình hình chưa có hệ thống Công hội đỏ toàn quốc.
Ban Công vận Trung ương phê phán nhận thức sai lầm của một số đồng chí cho rằng Công hội đỏ chỉ là tổ chức của những công nhân giác ngộ nhất, không hiểu rõ Công hội là tổ chức đấu tranh của quần chúng vô sản, phải bao quát quảng đại quần chúng vô sản. Trung ương Đảng và Ban Công vận Trung ương cũng phê phán, uốn nắn những sai lầm của nhiều địa phương như chỉ đạo thiếu cương quyết, biến cuộc đấu tranh thành yêu sách hoà bình, không dám đấu tranh cho mục tiêu chính trị, không nhận rõ rằng các hình thức đấu tranh kinh tế ở Việt Nam đều mang tính chính trị, sai lầm tả khuynh nội bộ Đảng trong công nông Nghệ - Tĩnh ...
Ban Công vận Trung ương đã bước đầu tổng kết các kinh nghiệm của cao trào cách mạng 1930-1931 và định hướng phục hồi phong trào công nhân trước sự khủng bố ác liệt của địch.
- Theo gương những người cộng sản, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1990. tr. 14
- Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam 1860-1945, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1977, tr. 102-103.
- Đỗ Quang Hưng: Công hội đỏ Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1989, tr. 153.
NGÀY 21-1
Nhân dân nhiều địa phương đấu tranh kỷ niệm ngày "3L"
Bắt đầu từ năm 1931, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương chính thức kỷ niệm ngày mất của Lênin và hai chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc là Rôđa Luýchxămbua, Các Lépnếch (gọi là kỷ niệm ba đồng chí L).1
Trong cao trào 1930- 1931, Đảng phát động nhiều cuộc vận động chính trị lớn, trong đó có cuộc vận động kỷ niệm ngày mất của ba chiến sĩ cộng sản quốc tế nói trên nhằm mục đích tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin trong đông đảo quần chúng nhân dân lao động và biểu thị tinh thần quốc tế cộng sản cũng như rèn luyện tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân.
Ngày 19 và 20-1-1931, nhân dân nhiều địa phương ở Nam Bộ như Bến Tre, Long Xuyên, Trà Vinh tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình kỷ niệm ngày mất của Lênin, Rôđa Luýchxămbua và Các Lépnếch.
Tính chung trong cao trào 1930-1931, giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam đã tố chức 55 cuộc mít tinh, biểu tình tại các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ kỷ niệm ngày 21-1.
Phong trào kỷ niệm ngày mất của Lênin, Rôđa Luýchxămbua và Các Lépnếch của giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam góp phần tăng thêm ảnh hưởng quốc tế của cách mạng Đông Dương và thắt chặt thêm mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
- Trần Văn Hùng: "Kỷ niệm ngày mất của Lênin ở Việt Nam từ khi nào và tổ chức như thế nào?". Tạp chí Lịch sử Đảng số 2-1999, tr. 42, 54.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. t. 3, tr. 19-21.
NGÀY 25-1
Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra “đầu thú”
Một trong những thủ đoạn nham hiểm của đế quốc Pháp để đàn áp phong trào cách mạng là cưỡng bức nông dân ra "đầu thú”. Ngày 25-1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo gửi các cấp Đảng bộ chỉ đạo cuộc đấu tranh chống lại thủ đoạn nham hiểm ấy của địch.
Thông cáo nêu rõ: huy động đông đảo quần chúng đấu tranh chống chính sách cưỡng bức đầu thú là phương pháp duy nhất để duy trì và phát triển phong trào cách mạng.
Các cấp Đảng bộ cần căn cứ vào tình hình địa phương mình mà đề ra hình thức đấu tranh cho thích hợp ở những nơi xảy ra việc "đầu thú”, Đảng phải một mặt vạch rõ âm mưu thủ đoạn của địch, tội ác của đế quốc, phong kiến, mặt khác phải kiên trì giáo dục, thuyết phục những người "đầu thú”, chỉ cho họ thấy sai lầm và kêu gọi họ trở lại con đường đấu tranh của cách mạng.
Ở những nơi sắp xảy ra "đầu thú”, Đảng phải ra sức tuyên truyền chống lại sự "đầu thú”, tố cáo âm mưu của địch, của những phần tử cơ hội, cải lương, xây dựng cho quần chúng tinh thần đấu tranh bền bỉ, chống địch dùng các quyền lợi nhỏ mua chuộc nông dân, phá những cuộc diễn thuyết lừa bịp của địch đón đường thuyết phục những người đi "đầu thú”, kêu gọi họ trở về... ở những nơi khác, Đảng cũng phải ra sức tuyên truyền vạch trần âm mưu địch, tác hại của việc “đầu thú”, kêu gọi đấu tranh giành những quyền lợi thiết thân hàng ngày. Đi đôi với tuyên truyền, cổ động cần tổ chức đông đảo quần chúng mít tinh, biểu tình chống địch cưỡng bức “đầu thú” và khủng bố trắng. Phát động phong trào công nhân ở các thành thị đoàn kết với nông dân, đấu tranh phản đối việc cưỡng ép “đầu thú”.
Do địch vừa tiến hành lừa bịp, vừa khủng bố dữ dội nên các địa phương cần tổ chức các Đội tự vệ công nông để bảo vệ các cuộc đấu tranh phản đối “đầu thú”.
Thông cáo chỉ rõ: Cuộc đấu tranh chống địch cưỡng bức nông dân “đầu thú” sẽ lâu dài, quyết liệt, các cấp bộ Đảng phải cương quyết, gắng sức, nhẫn nại, vượt mọi khó khăn nguy hiểm để lãnh đạo cuộc đấu tranh này.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiên Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t 3, tr. 31-38.
NGÀY 26-1
Cuộc đấu tranh của các chiến sĩ cộng sản trước Toà án Kiến An
Ngày 26-1-1931, đế quốc Pháp mở phiên toà đặc biệt ở Kiến An để xử 99 đảng viên Quốc dân Đảng và 72 đảng viên cộng sản trong đó có đồng chí Hạ Bá Cang, nguyên Uỷ viên Ban lâm thời Chấp uỷ Trung ương.
Tại toà án, các đảng viên cộng sản đã thể hiện tinh thần anh dũng, bất khuất trước những lời buộc tội và tỉnh táo trước sự dụ dỗ mua chuộc của kẻ thù tố cáo xã hội thối nát đương thời và khẳng định quyết tâm làm cách mạng dù có gian khổ, hy sinh.
Đồng chí Hạ Bá Cang nói: "Tôi không cần từ chối gì về hoạt động cách mạng của tôi cả vì đó là bổn phận của tôi phải góp sức cứu vớt 20 triệu đồng bào và đánh đổ giai cấp tư sản đế quốc".
Các đồng chí khác cũng lần lượt đứng lên trả lời:
- Tôi là công nhân, tôi theo Đảng để bênh vực quyền lợi cho vô sản.
- Tôi vào Đảng để đấu tranh cho hạnh phúc của nhân loại.
- Tôi vào Đảng Cộng sản để đánh đổ đế quốc, tư bản và phong kiến Pháp.
- Đánh đổ đế quốc và tư bản là điều chúng tôi cần làm, đó là lời khai của tôi, các ông muốn làm gì tôi thì làm...
Những chiến sĩ cộng sản đứng lên tiến công quân thù ngay trước toà án của chúng làm kẻ địch lúng túng. Sau khi địch tuyên án, đồng chí Nguyễn Phú Cường phất cao lá cờ đỏ búa liềm, đồng chí Hoàng Nghiêm đứng dậy hô lớn khẩu hiệu. Lập tức, toàn thể các chiến sĩ cộng sản hô vang các khẩu hiệu:
- Đả đảo đế quốc Pháp!
- Đả đảo khủng bố trắng!
- Đả đảo Hội đồng đề hình!...
Tinh thần đấu tranh của tù chính trị cộng sản ảnh hưởng tích cực đến nhận thức và hành động của nhiều tù chính trị Quốc dân Đảng. Về sau, nhiều đảng viên Quốc dân Đảng giác ngộ và trở thành đảng viên cộng sản
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 55-58.
- Đạp lên đầu thù, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1971, tr. 10-11.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
NGÀY 27-1
Đồng chí Ngô Gia Tự lên án chủ nghĩa thực dân, bảo vệ lý tưởng cộng sản trước toà án của chinh quyền thuộc địa
Đồng chí Ngô Gia Tự là một trong những cán bộ lãnh đạo của Đảng. Ngày 31-5-1930, khi đang giữ chức Bí thư Chấp uỷ lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam xử Nam Kỳ, đồng chí bị đế quốc Pháp bắt.
Biết đồng chí là người gây dựng cơ sở và phong trào cách mạng ở hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, đế quốc Pháp đưa đồng chí về Bắc Ninh xử án để uy hiếp phong trào cách mạng của quần chúng.
Ngày 27-l-1931, trước những lời buộc tội của kẻ thù ở Toà án Bắc Ninh, đồng chí dõng dạc nói: "Tôi kiên quyết không thừa nhận bất cứ một hành động nào mà người ta định gán ghép cho tôi. Tôi không phải là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản chính là do thời thế tạo nên, nghĩa là chính sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản thế giới đã tạo nên nó. Không có gì lạ cả". Đó là lời buộc tội đanh thép chủ nghĩa đế quốc ở Đông Dương thời đó trực tiếp là đế quốc Pháp.
Tuy không đủ chứng lý buộc đồng chí phải khuất phục, Toà án Bắc Ninh và sau đó là Toà thượng thẩm Hà Nội vẫn xử đồng chí án khổ sai chung thân.
Cuối năm 1931, lấy cớ đồng chí hoạt động ở Nam Kỳ, đã tham gia “cách mạng hoá" (giác ngộ lý tưởng cách mạng) cho tầng lớp thanh niên Sài Gòn, thực dân Pháp đưa đồng chí từ Hoả Lò vào Khám Lớn (Sài Gòn) để tiếp tục đưa ra toà xét xử.
Từ ngày 2 đến ngày 9-5-1933, Toà Đại hình Sài Gòn mở phiên toà xét xử 120 chiến sĩ cộng sản trong vụ án được gọi là "vụ án Đảng Cộng sản Đông Dương". Tại phiên toà, địch vu cáo những người cộng sản tội cướp của, giết người, kích động thù hằn dân tộc... Đồng chí Ngô Gia Tự lên tiếng đanh thép: “Các ông nói không đúng, Đảng Cộng sản không phải là ăn cướp, giết người. Chính đế quốc Pháp đến cướp nước Việt Nam, nô dịch nhân dân chúng tôi. Đế quốc Pháp đã câu kết với phong kiến lập nên một chế độ hà khắc, áp bức, bóc lột nhân dân chúng tôi hết sức tàn bạo. Chính điều đó thúc đẩy chúng tôi đứng lên làm cách mạng để giành độc lập cho Tổ quốc chúng tôi, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân chúng tôi”. Bác bỏ những lời bào chữa của các luật sư thực dân đồng chí nói “các ông vu khống cho Đảng chúng tôi, trước hết phải cho chúng tôi bào chữa cho Đảng chúng tôi đã".
Đồng chí bị kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo. Cuối tháng 12-1934, đồng chí đã hy sinh trong khi vượt ngục về đất liền.
- Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Bắc (1926- 1945). Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Bắc xuất bản, 1981, t. 1.
- Thế Văn: Ngô Gia Tự, người cộng sản lỗi lạc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 70-85.
TỪ THÁNG 1 ĐẾN THÁNG 5
Nông dân tỉnh Quảng Ngãi liên tục đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Quảng Ngãi là tỉnh Trung Bộ có phong trào đấu tranh mạnh mẽ.
Ngay từ đầu năm 1931, phong trào đấu tranh của nông dân nhiều nơi trong tỉnh liên tục diễn ra.
Ngày 15-1-1931, quần chúng cách mạng vùng đông Tư Nghĩa tuần hành thị uy tại Vạn Tượng.
Ngày 17-1-1931, quần chúng tây Tư Nghĩa và bắc- đông bắc Sơn Tịnh biểu tình, tuần hành.
Ngày 18-1-1931, nông dân các làng Thọ Lộc, Trường Xuân, Hà Nhai, Ngân Giang, Lâm Lộc... biểu tình.
Ngày 19-1, đồng bào tây Sơn Tịnh và đông Tư Nghĩa đấu tranh, kéo về huyện lỵ, tỉnh lỵ.
Ngày 28-1, quần chúng đông bắc Bình Sơn biểu tình.
Ngày 30-1, quần chúng cách mạng Trà Bồng biểu tình.
Ngày 29 và 31-1-1931, quần chúng đông Mộ Đức biểu tình có vũ trang thị uy.
Trước các cuộc đấu tranh liên tục của quần chúng, đế quốc Pháp và tay sai một mặt hứa giải quyết những yêu cầu của quần chúng, mặt khác chúng tìm cách truy bắt những người cầm đầu và đàn áp quần chúng làm nhiều người chết và bị thương.
Sang tháng 2-1931, quần chúng ở đông Nghĩa Hành, nam Tư Nghĩa, Đức Phổ, đảo Lý Sơn liên tục nổi dậy đấu tranh.
Phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng làm kẻ địch hoảng sợ, bọn tay sai chạy trốn vào các thị xã, thị trấn, đồn bốt. Tại các làng, nhân dân mít tinh, hội họp nhiều đêm. Các đoàn thể quần chúng như: Công hội đỏ, Nông hội, Hội Phụ nữ, Hội Cứu tế đỏ, Hội Phản đế phát triển nhanh. Các Đội tự vệ công nông được thành lập để bảo vệ các cuộc đấu tranh (điển hình như ở tây Sơn Tịnh). Cơ sở Đảng phát triển, toàn tỉnh có 110 chi bộ, riêng huyện Sơn Tịnh có 25 chi bộ với 100 đảng viên. Ở nhiều vùng nông thôn, lực lượng cách mạng đã áp đảo kẻ địch, thông qua các tổ chức cách mạng, lần đầu tiên quần chúng bắt đầu giành quyền làm chủ từng phần, tự quản công tác xã hội, thực hiện từng bước các quyền lợi về kinh tế, giữ gìn trật tự thôn xóm.
Ngày 16,17,18-2-1931 là ba ngày Tết Nguyên đán, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi phát động "ba ngày căm thù” nhân dân không cúng lễ, không ăn uống linh đình, không tổ chức vui xuân, đốt pháo...
Từ ngày 16 đến ngày 23-2-1931, quần chúng cách mạng ở Ba Tơ biểu tình thị uy.
Đầu tháng 3-1931, do có kẻ phản bội, địch bắt đồng chí Nguyễn Nghiêm, Bí thư Tỉnh uỷ. Tỉnh uỷ họp, cử đồng chí Phan Thái Ất lên thay. Xứ uỷ Trung Kỳ cử đồng chí Trần Hường về Quảng Ngãi lãnh đạo phong trào.
Từ ngày 26-4 đến ngày 1-5-1931, cao trào đấu tranh của quần chúng đồng loạt nổ ra mạnh mẽ trong tỉnh. Đây là đợt đấu tranh rầm rộ, sôi nổi có quy mô lớn và mạnh mẽ nhất của cao trào cách mạng 1930-1931 ở Quảng Ngãi.
Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, thực dân Pháp và tay sai thẳng tay đàn áp. Ở đông Mộ Đức, địch tàn sát 73 người và làm nhiều người bị thương, địch sát hại 20 người ở Sơn Tịnh, 12 người ở tây Tư Nghĩa...đồng thời dùng các thủ đoạn dụ dỗ lừa bịp như treo cờ vàng, thẻ quy thuận ...
Trong cao trào cách mạng 1930-1931 ở Quảng Ngài, địch đã xử 2 án tử hình, 9 án chung thân, 19 án tù từ 11-13 năm, 500 án tù từ 5-10 năm, 900 án từ 2-5 năm. Địch đày lên Buôn Ma Thuột hơn 300 người, Lao Bảo 20 người, Bà Ná 120 người. Tổng số người bị giam giữ lên tới trên 6000 người, hơn 1000 người bị kết án.
Đến tháng 7-1931, Huỳnh Tú phản bội, đồng chí Phan Thái Ất bị bắt. Nhiều cán bộ tỉnh uỷ viên, huyện uỷ viên và cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng bị bắt, phong trào đấu tranh bắt đầu lâm vào thoái trào.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
NGÀY 7-2
Đảng bộ Nghệ An lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thủ đoạn "rước cờ vàng" và phát “thẻ quy thuận”
Nhằm mục đích dụ dỗ, lôi kéo quần chúng xa rời con đường đấu tranh cách mạng và chia rẽ lực lượng quần chúng, từ tháng 1-1931, Nguyễn Khoa Kỳ, Tổng đốc Nghệ An tổ chức lễ “rước cờ vàng” và phát "thẻ quy thuận". Ngày 7-2-1931, các đồng chí cán bộ Tỉnh uỷ Nghệ An: Tôn Gia Chung, Tôn Thị Quế, Nguyễn Trình chỉ đạo cuộc đấu tranh của nhân dân phá lễ quy thuận của địch tại làng Tràng Kè (Trụ Pháp), tổng Vân Tụ, Yên Thành, Nghệ An.
Tri huyện Phạm Minh Bật mời cả Công sứ Pháp và Tổng đốc Nguyễn Khoa Kỳ cùng tên giám binh Pơti về dự. Địch dự định bố trí một tên tay sai đứng ra làm lễ quy thuận, vái cờ vàng và hô to những khẩu hiệu đã ghi trong thẻ quy thuận: "Xin nguyện một lòng quy thuận, nghe lệnh triều đình bảo vệ an toàn, nếu theo Đảng chống đối, cam chịu tội chết". Đúng thời điểm cờ vàng được kéo lên, Tổng đốc Nguyễn Khoa Kỳ chưa kịp đăng đàn diễn thuyết thì truyền đơn xuất hiện khắp nơi. Buổi lễ trở nên hỗn loạn, không thể kiểm soát được. Thực dân Pháp và tay sai vô cùng tức tối, đã giết cả tên chỉ điểm Nguyễn Loan.
Cuộc đấu tranh đã phá tan âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ địch, khích lệ ý chí đấu tranh cách mạng của quần chúng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. t. I.
NGÀY 8-2
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng Đông Dương
Trong năm 1931, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thường xuyên cung cấp thông tin về hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng Đông Dương cho Quốc tế Cộng sản thông qua Ban Phương Đông. Ngày 8-2-1931, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.
Theo dõi chặt chẽ tình hình trong nước, Người thông báo với Ban Phương Đông về một số cuộc đấu tranh lớn của nhân dân: ngày 11-12-1930, hơn 1.000 nông dân các huyện Anh Sơn, Thanh Chương, Nam Đàn tổ chức biểu tình kỷ niệm Công xã Quảng Châu và sau đó là cuộc đấu tranh của 400 nông dân làng Đạo Ngạn ngày 12-12-1930. Người cũng đưa tin về cuộc đấu tranh của 3000 công nhân Nhà máy Xi măng Hải Phòng.
Về hoạt động của Đảng, Nguyễn Ái Quốc nêu lên nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương gửi xứ uỷ, vừa là nhiệm vụ của xứ uỷ và các Đảng bộ cấp dưới, vừa để báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu các xứ uỷ, tỉnh uỷ, đặc uỷ củng cố tổ chức bằng cách bầu cử Ban Chấp hành và lập ra các ban chuyên môn của Đảng như Ban Tuyên truyền, Ban Công vận, Ban Nông vận, Ban Ấn loát. Các cấp uỷ phải tiến hành tuyên truyền rộng rãi về vấn đề đổi tên Đảng, để đảng viên của Đảng và quần chúng hiểu rõ, đồng thời phải xúc tiến việc thi hành các nghị quyết của Đảng. Việc tổ chức hội nghị Đảng bộ các cấp phải được chuẩn bị chu đáo được tiến hành bàn bạc trước trong Công hội.
Người nhắc nhở các tổ chức Đảng về vấn đề kết nạp hội viên Công hội. Tổ chức Công hội là tổ chức đoàn kết đông đảo công nhân, kể cả những người giác ngộ chính trị chưa cao. Do vậy, những người hiểu rõ cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản và những công nhân thấy cần thiết phải có một tổ chức để bênh vực quyền lợi cho mình cũng có thể vào Công hội. Khi họ vào rồi, tổ chức Công hội và thực tế đấu tranh cách mạng sẽ giáo dục họ. Khi hội viên ít hoạt động hoặc hoạt động dè dặt cũng không nên khai trừ họ ra khỏi Công hội. Công hội phải tham gia vào “Mặt trận phản đế”, cùng với các tổ chức quần chúng khác đấu tranh chống đế quốc.
Là người hiểu rõ nhân dân nước mình hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc đề nghị với Ban Phương Đông - Quốc tế Cộng sản về thành lập Tổng Nông hội toàn quốc vì chỉ có như vậy, Đảng mới tập trung lãnh đạo và đoàn kết được sức mạnh của nông dân cả nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 47-50.
NGÀY 8-2
Cuộc mít tinh lớn của nhân dân lao động Sài Gòn và hành động anh dũng của Lý Tự Trọng
Thực hiện nhiệm vụ Xử uỷ giao, Tổng Công hội Nam Kỳ tổ chức một cuộc mít tinh kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái vào chiều 8-2-1931 trước sân bóng đá ở phố La Rênhơrơ (La Régnère - nay là đường Trương Định).
Vào lúc 18 giờ 15 phút, khi trận đấu bóng kết thúc, quần chúng ùa ra khỏi cổng theo đường La Rênhơrơ thì thấy cờ đỏ trương lên và có tiếng hô mời đồng bào đứng lại nghe nói chuyện. Đồng chí Phan Bôi (tức Quảng, Hoàng Hữu Nam) đứng lên diễn thuyết. Cuộc diễn thuyết chớp nhoáng vừa kết thúc thì cảnh sát ập tới. Tên cò Lơ Giăng (Le Grand) bắt đồng chí Phan Bôi, lập tức Lý Tự Trọng, một đảng viên trẻ tuổi trong ban tổ chức đấu tranh rút súng lục bắn tên cò Lơ Giăng. Lý Tự Trọng chạy, tên cò Bơren và bọn cảnh sát đuổi theo, bắt được anh và một số người tham gia tổ chức đấu tranh.
Hành động anh dũng và quyết liệt của Lý Tự Trọng đã gây một tiếng vang lớn. Nhân dân ta hết sức khâm phục và ca ngợi. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở ngoài nước đã theo dõi sát tình hình và tìm cách cứu Lý Tự Trọng. Trong thư gửi Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản ngày 21-2-1931, Người đề nghị Ban Phương Đông yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp đấu tranh đòi trả tự do cho Lý Tự Trọng. Trước những đòn tra tấn dã man và những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc thâm độc của kẻ thù Lý Tự Trọng không hề hé răng khai nửa lời có hại cho cách mạng. Biết không thể khuất phục nổi anh, đế quốc Pháp đã xử anh án tử hình.
Trong Khám Lớn Sài Gòn, phong trào đấu tranh phản đối đánh đập tàn bạo và phản đối án tử hình Lý Tự Trọng diễn ra mạnh mẽ. Ở bên ngoài, hàng loạt truyền đơn rải ở Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phản đối án tử hình Lý Tự Trọng. Nhà báo Pháp, bà Anđrê Viôlít (Andre Violis) đã đến thăm Lý Tự Trọng và khi về Pháp, bà viết nhiều bài báo và cuốn sách Đông Dương kêu cứu tố cáo chính sách thống trị tàn bạo của đế quốc Pháp ở Đông Dương và phản đối án tử hình Lý Tự Trọng.
Sáng sớm ngày 20-11-1931, đế quốc Pháp đem Lý Tự Trọng ra xử chém. Khi bước lên máy chém, anh hô to khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc Pháp", "Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm", "Liên bang Xôviết muôn năm" ..Tù nhân Khám Lớn hô khẩu hiệu hưởng ứng vang dậy cả khu vực nhà tù. Bọn lính ra sức đàn áp nhưng không khuất phục nổi ý chí đấu tranh của những chiến sĩ cộng sản.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954) sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
NGÀY 16-2
Cuộc mít tinh lớn ở chợ Cao Mại (Kiến Xương, Thái Bình)
Mặc dù cuộc biểu tình của nông dân Duyên Hà - Tiên Hưng và Tiền Hải bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp khốc liệt, nhưng cơ sở cách mạng và khí thế của quần chúng vẫn còn thạnh. Trên cơ sở đó, Tỉnh uỷ Thái Bình chủ trương đưa quần chúng ra đấu tranh để cổ vũ và phát triển phong trào cách mạng. Được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ trực tiếp chỉ đạo, Chi bộ Đa Cao (của hai tổng Đa Cốc và Cao Mại) huyện Kiến Xương lập kế hoạch tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại chợ Cao Mại.
Các đảng viên bắt tay vào chuẩn bị có người diễn thuyết, mang cờ, lực lượng bảo vệ, vận động quần chúng đi chợ dự mít tinh.
Đúng phiên chợ Cao Mại ngày 29 Tết Tân Mùi (16-2-1931) là ngày mít tinh. Khi chợ đã họp đông, cuộc mít tinh bắt đầu. Quần chúng dự mít tinh đông nhất là ở Hữu Tiệm, Kênh Son, Nguyệt Giám, người kéo đến ngày một đông, lực lượng tự vệ làm hàng rào bảo vệ diễn giả. Người diễn thuyết phất cao cờ rồi diễn thuyết, vạch trần sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, lên án tội ác đốt làng, giết người ở Nghệ - Tĩnh và Tiền Hải, khích lệ quần chúng hăng hái đấu tranh, noi gương các liệt sĩ Tiền Hải. Quần chúng hô vang khẩu hiệu "Đả đảo đế quốc khủng bố trắng phong trào dân cày Tiền Hải và Nghệ - Tĩnh”.
Cuộc mít tinh kết thúc thắng lợi, ảnh hưởng của nó lan rộng khắp vùng Kiến Xương, Tiền Hải.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
NGÀY 19-2
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc ca ngợi cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh
Vừa mới ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên cao trào cách mạng 1930-1931, tiêu biểu là Xô viết Nghệ - Tĩnh, làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai.
Tuy hoạt động ở nước ngoài, đồng chí Nguyễn Ái Quốc luôn luôn theo sát tình hình phong trào cách mạng trong nước. Quê hương Nghệ - Tĩnh, nơi chôn rau cắt rốn của Người, nơi có phong trào cách mạng mạnh mẽ, quyết liệt nhất luôn được Người dành cho những tình cảm và sự quan tâm đặc biệt.
Ngày 19-2-1931, Người liên tiếp viết hai bài báo ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Nghệ - Tĩnh và tố cáo tội ác tàn bạo của đế quốc Pháp đối với đồng bào Nghệ - Tĩnh.
Trong bài Nghệ - Tĩnh đỏ, trước hết Người nói về điều kiện tự nhiên và xã hội của Nghệ - Tĩnh và đời sống khổ cực của nhân dân dưới ách áp bức bóc lột của đế quốc Pháp. Tự hào với truyền thống đấu tranh anh dũng của quê hương từ khi thực dân Pháp xâm lược những năm đầu thế kỷ XX, Người nêu bật tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Nghệ - Tĩnh trong cao trào 1930-1931. Từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1930, công nhân thành phố Vinh đã tám lần bãi công, biểu tình với 2.500 người tham gia. Cùng thời gian đó, có 137 cuộc biểu tình với 300.000 nông dân tham gia. Ở hai tỉnh, hơn 60.000 nông dân đã tham gia các tổ chức quần chúng. Đặc biệt, ngày 11-2-1930, hơn 4.000 công nhân thành phố Vinh và nông dân Hưng Nguyên, Nghi Lộc mít tinh kỷ niệm Công xã Quảng Châu.
Tuy bị đế quốc Pháp đàn áp dã man nhưng tinh thần đấu tranh anh dũng của đồng bào khiến Người phải thốt lên: "Nghệ - Tĩnh thật xứng đáng với danh hiệu "đỏ"" và khẳng định: "Bom đạn, súng máy, đốt nhà, đồn binh... tuyên truyền của chính phủ, báo chí...đều bất lực không dập tắt nổi phong trào cách mạng của Nghệ - Tĩnh". Đồng thời, với lối bình luận sắc sảo, Người đã giáng một đòn mạnh vào chiêu bài “quy thuận” lừa bịp của đế quốc Pháp và tay sai.
Trong bài Khủng bố trắng ở Đông Dương, Người tố cáo những tội ác tàn bạo của đế quốc Pháp ở nhiều địa phương Trung Kỳ và Bắc Kỳ: đốt phá làng mạc, giết hại nhân dân, bắt bớ tù đầy hàng ngàn người. Người đặc biệt ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của những chiến sĩ cộng sản và người yêu nước Việt Nam trước toà án kẻ thù qua đó khẳng định không gì có thể làm lung lay ý chí chiến đấu giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân ta.
Thông qua Nguyễn Ái Quốc và những bài báo của Người, Quốc tế Cộng sản có thể theo dõi chặt chẽ tình hình phong trào cách mạng Đông Dương để có sự chỉ đạo kịp thời. Nguyễn Ái Quốc là một cầu nối cách mạng Việt Nam với cách mạng quốc tế và Quốc tế Cộng sản. Ca ngợi tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân Nghệ - Tĩnh, Người đồng thời phân tích rõ: trong tình hình lúc đó việc nổi dậy đấu tranh như vậy là quá sớm, là chưa đúng lúc, nhưng khi đã nổi dậy rồi thì cố gắng phát huy tác dụng cao nhất của phong trào đấu tranh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr 51-55.
NGÀY 22-2
Xứ uỷ Nam Kỳ kêu gọi phụ nữ và các tầng lớp nhân dân đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3
Ngày 22-2-1931, Xứ uỷ Nam Kỳ ra bản Luận cương tuyên truyền, kêu gọi phụ nữ và các tầng lớp nhân dân đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3.
Bản Luận cương nêu rõ, ngày 8-3, giai cấp vô sản và phụ nữ thế giới đấu tranh chống áp bức bóc lột đòi những quyền lợi của phụ nữ và người lao động. Phụ nữ Việt Nam và giai cấp vô sản Việt Nam cũng phải đấu tranh, thể hiện tinh thần đoàn kết với phụ nữ thế giới và đòi những quyền lợi của mình. Dưới chế độ thực dân phong kiến, phụ nữ Đông Dương trong các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền đang bị áp bức bóc lột thậm tệ. Do vậy, nhiệm vụ của những người lao động nữ ở Đông Dương là hiểu rõ vị trí, vai trò của mình, đấu tranh phá bỏ những tàn tích phong kiến lạc hậu, tham gia vào các phong trào đấu tranh của các tổ chức quần chúng như Nông hội, Công hội, Thanh niên, Đảng Cộng sản; tham gia tích cực mọi công tác xã hội; đấu tranh nhân ngày 8-3 để biểu thị tình đoàn kết với phụ nữ thế giới.
Bản Luận cương nêu lên 15 khẩu hiệu đấu tranh chính thể hiện tinh thần đoàn kết với phụ nữ quốc tế, đòi những quyền lợi thiết thân, đòi giải phóng phụ nữ, công bằng, bình đẳng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1999. t 3, tr. 59-68.
NGÀY 29-2
Xứ uỷ Trung Kỳ ra Thông cáo về tổ chức kỷ niệm ngày Công xã Pari và ngày Quốc tế Cộng sản
Thông cáo nêu rõ: trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hai sự kiện có ý nghĩa và ảnh hưởng hết sức to lớn là sự kiện Công xã Pari ngày 18-3-1871 và sự kiện thành lập Quốc tế Cộng sản ngày 19-3-19192.
Ở Đông Dương và trên toàn thế giới, giai cấp vô sản đang tập hợp quanh các Đảng Cộng sản. Phong trào công nông ngày càng có tính chất chính trị và sự liên kết ngày càng chặt chẽ. Chủ nghĩa đế quốc đang ra sức khủng bố đàn áp phong trào công nhân, bao vây và xuyên tạc tình hình Liên Xô, chia rẽ phong trào cộng sản quốc tế ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Nhưng trên thực tế, Liên Xô đang phát triển mạnh mẽ, còn chủ nghĩa đế quốc đang chìm sâu vào khủng hoảng.
Trước tình hình đó, Xứ uỷ yêu cầu các cấp uỷ trong xứ chuẩn bị kế hoạch kỷ niệm hai ngày lễ lớn nói trên với một số nhiệm vụ cụ thể sau:
Trước ngày kỷ niệm, các địa phương lập Ban tổ chức lễ kỷ niệm ở địa phương mình, lập kế hoạch đấu tranh và phát động quần chúng, chuẩn bị cờ, truyền đơn, yết thị, tuyên truyền vận động nhân dân ở các trung tâm kinh tế chính trị của địa phương.
Trong ngày kỷ niệm: ngày 18, 19-3-1931, các khu bộ, chi bộ nhà máy, đồn điền phát động bãi công biểu tình ở khu phố, nhà máy mình. Các huyện vận động công nhân đi làm muộn nửa giờ, hoặc nghỉ nửa giờ trong khi đang làm việc. Vận động nông dân biểu tình tuần hành sôi nổi.
Trước, trong và sau ngày lễ kỷ niệm: cấp ủy các cấp phải xây dựng kế hoạch cụ thể, phối hợp hoạt động giữa các địa phương chặt chẽ để phong trào phát triển sâu rộng. Chủ trương trên của Xứ uỷ Trung Kỳ biểu thị tinh thần đoàn kết giữa công nhân, nông dân Việt Nam với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 2
Hội nghị cán bộ Xứ uỷ Bắc Kỳ
Cuối năm 1930 đầu năm 1931, đế quốc Pháp thực hiện chính sách khủng bố trắng, đồng thời dùng các thủ đoạn dụ dỗ mua chuộc như chiêu hàng, “đầu thú”, phát thẻ quy thuận, nhằm cô lập Đảng và tiêu diệt phong trào cách mạng. Chính vì vậy, nhiều cuộc đình công lớn của công nhân, biểu tình của nông dân đều bị đàn áp, khủng bố, thu được rất ít kết quả.
Trước tình hình khó khăn đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ triệu tập Hội nghị cán bộ vào tháng 2-1931. Dự Hội nghị còn có đại biểu Trung ương đại biểu các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Thái Bình...
Hội nghị đã nghe báo cáo về tình hình kinh tế, về phong trào quần chúng, về chính sách đàn áp của đế quốc, về công tác và tinh thần đoàn kết cũng như những kinh nghiệm thu được trong thời gian lãnh đạo đấu tranh vừa qua.
Hội nghị đã thảo luận kế hoạch do Trung ương dự thảo và quyết nghị các vấn đề sau đây:
1. Về phương pháp tiến hành.
2. Về nội dung chuyên môn của mỗi ban.
3. Về việc đào tạo cán bộ.
4. Giải thích cho đảng viên hiểu những vấn đề mà dự thảo của Trung ương đã nêu.
5. Về phong trào công nhân.
6. Về phong trào nông dân.
Để tìm ra những nguyên nhân thất bại của các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Bắc Kỳ, Hội nghị đã tập trung phân tích những ưu, khuyết điểm về công tác tổ chức, lãnh đạo thực hiện, phương pháp tiến hành ... của cuộc bãi công của công nhân. Nhà máy điện, Nhà máy dệt Nam Định và cuộc đấu tranh của nông dân Thái Bình. Hội nghị kết luận: phong trào đấu tranh ở Bắc Kỳ chưa thu được kết quả vì Đảng chưa đủ lực lượng để lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng; thiếu sự liên hệ giữa Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ; chưa kịp thời rút kinh nghiệm; các tổ chức Đảng chưa liên hệ mật thiết với nhau.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 2
Thành lập Ban Binh vận thuộc Xứ uỷ Trung Kỳ
Thực hiện Nghị quyết ngày 27-12-1930 của Xứ uỷ Trung Kỳ, khoảng đầu tháng 2-1931, Xứ uỷ Trung Kỳ quyết định thành lập Ban Binh vận của Xứ uỷ do Thái Văn Giai, Xứ uỷ viên phụ trách. Sau khi thành lập, Ban Binh vận cùng với Thành uỷ Vinh - Bến Thuỷ và một số đảng viên đang bị giam trong Nhà lao Vinh hoạt động tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho binh lính lê dương đóng ở Vinh.
Nhờ hoạt động binh vận này, một số lính lê dương tiến bộ đã lập ra một Chi bộ Đảng Cộng sản trong đơn vị lính lê dương đóng ở Vinh. Chi bộ này do Mangiăng (người Đức) là Bí thư. Cũng qua vận động tuyên truyền, nhiều binh lính người Việt trong các đơn vị đóng ở Vinh đã tỏ thái độ ủng hộ, một số đã giúp đỡ cách mạng thực sự.
Ngày 9-3-1931, nhân kỷ niệm 100 năm ngày thành lập binh chủng lê dương, chi bộ này rải truyền đơn, kêu gọi binh lính ủng hộ cách mạng Việt Nam. Địch phát hiện tổ chức chi bộ, bắt một số người và Mangiăng bị xử tại Toà án binh ở Hà Nội với án sáu tháng tù.
Sự kiện trên chứng tỏ chủ trương xây dựng cơ sở cách mạng trong binh lính địch và đấu tranh binh vận là hoàn toàn có khả năng thực hiện được, mở rộng các hình thức đấu tranh, góp phần đẩy mạnh tuyên truyền và đấu tranh cách mạng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Vinh: Những sư kiện lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Vinh,Nxb. Nghệ Tĩnh, 1988, t.1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930- 1954). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t I.
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 5
Nông dân Bến Tre đấu tranh chống thủ đoạn của thực dân Pháp bắt nông dân ra “đầu thú”
Tháng 2-1931, dưới sự lãnh đạo của Liên Tỉnh uỷ Bến Tre - Mỹ Tho, nông dân nhiều nơi ở Bến Tre như Long Mỹ, Bình Thành, Giồng Trôm biểu tình chống khủng bố, chống thủ đoạn thực dân Pháp bắt nông dân ra “đầu thú”.
Từ tháng 3 đến tháng 5-1931, phong trào đấu tranh lên tới đỉnh cao với 16 cuộc biểu tình lớn, nhỏ nổ ra ở khắp nơi trong tỉnh như tại Tân Thuỷ, Tân Hưng, Tân Xuân, Châu Bình, Long Mỹ, Bình Thành (huyện Ba Tri), Phú Nhuận, Phước Long (huyện Châu Thành), An Thạch, Phước Hiệp (huyện Mỏ Cày), An Thạnh, An Quy (huyện Thành Phú), Lộc Thuận (huyện An Hoá). Đặc biệt, ngày 18-4-1931 có tám cuộc biểu tình lớn nổ ra trong tỉnh. Quần chúng cách mạng đã đốt cháy bốn nhà làm việc. Tháng 5-1931, tại thị xã Bến Tre, Tỉnh uỷ Bến Tre chính thức thành lập do đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn làm Bí thư. Tỉnh uỷ ra báo Búa liềm làm cơ quan tuyên truyền.
Sau đó phong trào bị đàn áp khốc liệt, gặp nhiều khó khăn.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bến Tre: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930-1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t I, tr. 115.
NGÀY 3-3
Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đấu tranh ủng hộ Xôviết Nghệ - Tĩnh
Để ủng hộ nhân dân Xôviết Nghệ - Tĩnh, ngày 3-3-1931, Đảng bộ Quảng Trị tổ chức treo cờ Đảng và rải truyền đơn ở nhiều nơi trong tỉnh. Cờ đỏ búa liềm được các đảng viên và quần chúng cách mạng treo tại cột cờ thành cổ Quảng Trị, trước công đường các phủ Triệu Phong, Hải Lăng, thị xã Đông Hà, trên nhiều ngọn cây cao và một số đình chùa.
Nội dung truyền đơn kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi chấm dứt khủng bố phong trào cách mạng Nghệ - Tĩnh, đòi hoãn, miễn sưu thuế, thả tù chính trị...
Đến ngày 12-4-1931, Quảng Trị đã có 82 đảng viên, tăng gấp đôi so với tháng 4-1930, các tổ chức quần chúng có 657 hội viên. Để chuẩn bị kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5, ngày 23-4-1931, quần chúng cách mạng rải truyền đơn chống thuế ở thị xã và nhiều nơi khác. Trong ngày 1-5-1931, hơn 150 nông dân họp mít tinh tại Quảng Lương. Ở Hải Lăng, Cam Lộ cán bộ đảng đã tổ chức diễn thuyết, tuyên truyền và vận động cách mạng tri thức đông đảo quần chúng.
Sau đợt đấu tranh l-5-1931, phong trào cách mạng ở Quảng Trị bị khủng bố ác liệt. Từ tháng 5 đến tháng 11, toàn tỉnh có hơn 500 người bị bắt, trong đó 300 người bị địch kết án tù từ 1 đến 13 năm.
Từ tháng 8-1931, đồng chí Nguyễn Nhuệ, Xứ uỷ viên Trung Kỳ phụ trách Quảng Trị bị bắt, từ đó tỉnh mất liên lạc với Xứ uỷ Trung Kỳ và Trung ương Đảng. Phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống.
- Quảng Trị - 60 năm những chặng đường, Sở Văn hoá Thông tin Quảng Trị xuất bản, 1990.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. I.
TỪ NGÀY 13-3 ĐẾN NGÀY 1-4
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
Cuối năm 1930 đầu năm 1931, đế quốc Pháp tăng cường chính sách khủng bố đàn áp, đồng thời với lừa bịp xảo quyệt, gây nhiều thiệt hại và khó khăn to lớn cho phong trào cách mạng. Qua một thời gian thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương (10-1930), nhiều vấn đề về tổ chức và lãnh đạo của Đảng đang đặt ra cấp bách. Trước tình hình đó, từ ngày 13-3 đến ngày 1-4-1931, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại nhà 236 phố Risô (Richaud) (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trần Phú, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Trọng Nhã, Trần Văn Lan, Lê Mao, Ngô Đức Trì... do đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú chủ trì.
Phân tích tình hình thế giới và Đông Dương, Hội nghị chỉ rõ đế quốc Pháp và tay sai đang ra sức đàn áp, đồng thời đưa ra những thủ đoạn lừa bịp, thâm hiểm, đối phó với phong trào cách mạng đang rất mạnh mẽ.
Hội nghị kiểm điểm và đi sâu phân tích, phê phán những sai lầm và thiếu sót của Đảng trong thời gian qua. Về chính trị, tư tưởng: trong Đảng còn tồn tại nhiều tư tưởng phi vô sản, nhiều cán bộ đảng viên chưa nhận rõ vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản, của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù.
Về công tác tổ chức: phát triển Đảng còn chậm, thành phần công nhân trong Đảng còn ít, chưa quán triệt nguyên tắc tập trung; chỉ huy thiếu thống nhất, kỷ luật Đảng lơi lỏng có nơi lại quá nghiêm khắc; tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản, Công hội còn phát triển chậm, tổ chức Nông hội phát triển nhanh nhưng thành phần phức tạp...
Trong lãnh đạo cách mạng còn khuynh hướng sai lầm như: chưa tin vào năng lực cách mạng của quần chúng; tách rời vấn đề tổ chức và đấu tranh; coi nhẹ công tác tuyên truyền; tả khuynh trong phát động quần chúng; hữu khuynh sợ gian khổ hy sinh.
Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Đó là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân; chấn chỉnh các Xứ uỷ, tăng cường đào tạo cán bộ Đảng, kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội, thực hiện nghiêm nghị quyết của Đảng, chú ý xây dựng chi bộ nhà máy, tăng cường công tác báo chí tuyên truyền; nhanh chóng thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản; phát triển mạnh Công hội, củng cố Nông hội, nhất là bộ máy lãnh đạo; chú ý vận động phụ nữ, vận động binh lính địch thành lập Hội Cứu tế đỏ. Các cấp bộ Đảng và đảng viên phải tăng cường vận động tổ chức quần chúng đấu tranh với các khẩu hiệu thích hợp với từng giai cấp tầng lớp, coi đó là môi trường rèn luyện mình. Trước sự khủng bố của địch, tổ chức các Đội tự vệ công nông để bảo vệ phong trào. Lập ra các uỷ ban tranh đấu có tổ chức, mục tiêu đấu tranh chặt chẽ và rõ ràng.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương cũng thảo luận và thông qua nghị quyết về vấn đề tổ chức và cổ động tuyên truyền Trung ương Đảng phê phán những quan điểm sai lầm về hai vấn đề này từ trước đến nay và đề ra những nguyên tắc, những nhiệm vụ về tổ chức và tuyên truyền cổ động nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng trong tình hình đang rất khó khăn.
Đường lối cách mạng được đề ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1931 đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng cũng như duy trì phong trào cách mạng trước sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t 3, tr. 81-129.
- Trần Phú – Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng, một tấm gương bất diệt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 166-168.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954) sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, t. 1.
NGÀY 20-3
Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, tổ chức Nông hội đỏ phát triển nhanh, tháng 10-1930 có 53.000 hội viên, đến tháng 3-1931 tăng lên 64.000. Trong quá trình phát triển, Nông hội đỏ đã kết nạp cả phú nông, ở một vài nơi phú nông tham gia Ban chấp hành. Do đó, một số hội viên Nông hội đỏ không thể tránh khỏi biểu hiện hoang mang dao động khi địch khủng bố trắng, không thực hiện triệt để những nhiệm vụ cấp bách lúc đó như vay thóc nhà giàu để cứu đói... Trước tình hình đó, cấp uỷ nhiều địa phương có chủ trương “túc thanh Nông hội đỏ”3. Để giúp các cấp uỷ địa phương có chủ trương và hành động đúng, ngày 20- 3-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ.
Xuất phát từ đường lối chiến lược của cách mạng Đông Dương, vai trò và vị trí của nông dân trong cách mạng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn và tình hình thực tế lúc đó của Nông hội đỏ ở Nghệ - Tĩnh, Chỉ thị nêu rõ: cần phải củng cố khối bần, cố nông, đoàn kết với trung nông, bảo đảm vai trò lãnh đạo của vô sản ở nông thôn, đề phòng quyền lãnh đạo rơi vào tay giai cấp tư sản và không thể để phú nông trong Nông hội đỏ. Chỉ thị hướng dẫn cách tiến hành chỉnh đốn Nông hội đỏ là phải dùng phương pháp thuyết phục, giải thích cho phú nông để họ tự rút ra khỏi Nông hội đỏ và vào các nhóm lao động tương trợ.
Trung ương Đảng nhắc các địa phương phải làm thật tốt công tác chỉnh đốn Nông hội đỏ để động viên được tầng lớp phú nông và trung nông lớp trên hăng hái tham gia mọi công tác cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1999, t. 3, tr 77-79.
NGÀY 23-3
Công nhân Hãng dầu Xôcôny (Socony) đấu tranh
Trong thời kỳ kinh tế khủng hoảng giới chủ nghĩa tư bản càng tăng cường áp bức, bóc lột công nhân. Chúng không từ một thủ đoạn nào từ bớt xén quyền lợi, xúc phạm nhân phẩm, thậm chí đánh đập dã man người lao động. Đúng vào dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Phụ nữ 8-3-1931, một nữ công nhân có thai bị người của Hãng Xôcôny đánh trọng thương. Sự kiện này gây phẫn nộ trong công nhân. Cuộc bãi công do chi bộ gồm các đồng chí đảng viên nữ phát động nổ ra. Cuộc đấu tranh được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Lê Văn Lương và một số đồng chí trong Xứ uỷ Nam Kỳ, Thành uỷ Sài Gòn.
Ngày 23-3-1931, cuộc đấu tranh của hơn 400 công nhân nổ ra. Trước giờ làm việc, chị em tập trung tại cửa hãng. Đồng chí Trần Thị Ngọc Hân đứng lên diễn thuyết vạch tội ác của chủ hãng, nói lên nỗi khổ cực của công nhân nói chung và của công nhân nữ nói riêng. Chị em đưa ra nhiều yêu sách như phản đối chủ đánh đập công nhân, đòi bồi thường cho người bị hại, tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc...
Thực dân Pháp cho lính tới đàn áp, xung đột nổ ra quyết liệt giữa binh lính và những người đấu tranh. Địch bắt những người lãnh đạo cuộc đấu tranh, đồng chí Lê Văn Lương sau đó cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Cuộc đấu tranh vang dội khắp Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và sang tận Pháp. Quốc tế Công hội đỏ cử một phái đoàn sang điều tra tình hình, bào chữa cho các bị cáo trước toà án đế quốc. Do sức mạnh của dư luận trong và ngoài nước, đế quốc Pháp buộc phải giảm án cho đồng chí Lê Văn Lương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954) sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t 1.
NGÀY 23-3
Thư của Xứ uỷ Bắc Kỳ gửi các cấp bộ Đảng trong xứ
Ngày 23-3-1931, Xứ uỷ Bắc Kỳ gửi thư cho tất cả cấp bộ Đảng trong xứ. Bức thư nêu rõ: Sau cao trào 1930- 1931 ở Nghệ - Tĩnh, các cuộc đấu tranh nhỏ lẻ ở Bắc Kỳ vẫn tiếp tục. Cuộc biểu tình ở Tiền Hải (Thái Bình) là bước mở đầu cho phong trào phát triển mạnh mẽ. Khi phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ lên đến cao độ như ở Trung Kỳ, Nam Kỳ thì Đảng có thể đưa ra khẩu hiệu tổng khởi nghĩa vũ trang.
Các cấp bộ Đảng ở Bắc Kỳ phải tăng cường lãnh đạo đưa phong trào đấu tranh ở Bắc Kỳ lên thành cao trào. Những thời cơ phát động đấu tranh là: cuộc biểu tình đổ máu của nông dân Tiền Hải, Hội đồng đề hình họp ở Hải Dương, kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga 7-11, ngày lễ đình chiến 11-11; ngày toàn quyền Inđônêxia đến Bắc Kỳ. Các hình thức đấu tranh là bãi công, biểu tình, rải truyền đơn, treo cờ, mít tinh...Trong các cuộc đấu tranh, giương cao các khẩu hiệu "Đoàn kết với công nhân, nông dân Nghệ-Tĩnh, Thái Bình", "Chống khủng bố man rợ ở Thái Bình", "Đả đảo khủng bố trắng", "Bảo vệ Liên Xô".
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
THÁNG 3
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao vị trí, vai trò của thanh niên và công tác vận động thanh niên. Ngày 16-4-1930, Ban Chấp hành Thanh niên Cộng sản quốc tế gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương đặt vấn đề thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản ở Đông Dương. Tháng 10-1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về vận động thanh niên. Ngày 5-1-1931, Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương về việc cần kíp tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Trong cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương, qua cao trào 1930- 1931, vị trí, vai trò của thanh niên đã được xác định rõ, cơ sở Đoàn đã phát triển ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, tuy nhiên tổ chức Đoàn chưa thống nhất. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 3-1931 quyết định: "Cần kíp tổ chức ra Cộng sản Thanh niên Đoàn, Đảng cần kíp đánh tan cái thái độ hững hờ lãnh đạm với vấn đề đó... Đảng bộ địa phương phải gây ra cơ sở của Đoàn. Các chi bộ Đoàn phải chỉ huy cho các bộ thanh niên trong Công Nông hội và khoách trương tranh đấu của quần chúng thanh niên lao động"...
Thi hành quyết định này, các cấp bộ Đảng nhất là ở Trung Kỳ đã lập ra các Đoàn hay Ban Cán sự Đoàn ở các cấp. Từ năm 1931 trở đi, tổ chức Đoàn dần dần được thống nhất từ dưới lên trên lúc này. Đoàn có 1500 đoàn viên trong cả nước và được công nhận là một phân bộ của Quốc tế Cộng sản Thanh niên.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (3-1961) quyết định lấy 26-3-1931, một ngày trong thời gian cuối của Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm ngày kỷ niệm thành lập Đoàn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 98 - 99.
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ Đại hội đến Đại hội, Nxb.Thanh niên Hà Nội, 1999, tr. 7.
NGÀY 11-4
Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ độc lập và đề nghị Đại hội VII Quốc tế Cộng sản thông qua Nghị quyết này
Cho đến tháng 4 năm 1931, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn là một phân bộ của Đảng Cộng sản Pháp ở thuộc địa.
Nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương đã phát động được cao trào cách mạng 1930-1931 gây tiếng vang lớn trên thế giới, uy tín của Đảng ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Do đó, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, trong phiên họp thứ 25, ngày 11-4-1931, quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản và sẽ đưa ra thông qua tại Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.
Sự kiện trên đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng của Đảng Cộng sản Đông Dương trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đồng thời có tác dụng động viên cổ vũ toàn Đảng, toàn dân ta trên con đường đấu tranh cách mạng. Ngày 5-8-1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết kết nạp vào Quốc tế Cộng sản một số Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đây Đảng Cộng sản Đông Dương chính thức là Phân bộ của Quốc tế Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 309.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002, t 5, tr. 467.
NGÀY 12-4
Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo tổ chức cấp xứ, xuất bản báo Người Cộng sản và tăng cường lãnh đạo Công hội
Ngày 12-4-1931, Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho các xứ uỷ.
Trước tình hình các xứ uỷ bị địch khủng bố gắt gao, nhiều cán bộ bị bắt, Ban Thường vụ Trung ương Đảng yêu cầu các xứ tiến hành bầu cử xứ uỷ mới, cử Ban Thường vụ xứ uỷ ba người, trong đó phải có một người thuộc thành phần giai cấp công nhân Xứ uỷ lập ra các ban công tác như Ban Tuyên truyền cổ động, Ban Công vận, Ban Nông vận.
Các xứ uỷ có nhiệm vụ tuyên truyền giải thích cho các chi bộ và đảng viên lý do đổi tên Đảng, tổ chức cho đảng viên thảo luận rộng rãi: chủ trương đường lối của Đảng. thực hiện tự phê bình và phê bình, đưa chủ trương đường lối vào tổ chức thực hiện. Trung ương Đảng quyết định xuất bản tờ báo Người Cộng sản làm cơ quan ngôn luận tuyên truyền cho đường lối, chính sách của Đảng.
Trung ương Đảng cũng quyết định chuẩn bị thành lập Tổng Công hội xứ, hoạt động bảo vệ quyền lợi công nhân. Công hội có thể kết nạp những công nhân chưa thực sự giác ngộ lý tưởng cách mạng. Tổ chức Công hội có nhiệm vụ liên minh với các tổ chức quần chúng khác trong Hội Phản đế đồng minh để đấu tranh chống đế quốc.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 18-4
Đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng bị sa vào tay giặc
Đầu năm 1931, đế quốc Pháp và tay sai tiến hành khủng bố trắng đối với phong trào cách mạng và truy lùng gắt gao những đảng viên cộng sản, nhất là cán bộ Đảng ở Bắc Kỳ, địch đã phá vỡ nhiều cơ quan đảng từ cấp trung ương, xứ uỷ, tỉnh uỷ và cơ sở, bắt hàng loạt cán bộ đảng viên.
Ở Nam Kỳ, sau Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng, địch lùng sục gắt gao, bắt được một số cán bộ Đảng. Do có sự phản bội, 8 giờ sáng ngày 18-4-1931, đế quốc Pháp bắt được đồng chí Trần Phú tại số nhà 66 Sămpanhơ (Champagne - nay là đường Lý Chính Thắng).
Kẻ địch giải đồng chí qua khắp các bốt, nhà lao khét tiếng ở Sài Gòn. Những đòn tra tấn cực kỳ dã man của mật thám Pháp không thể khuất phục ý chí kiên cường của người chiến sĩ cộng sản, không thể buộc đồng chí khai ra những bí mật của Đảng.
Ở trong các nhà tù đế quốc, đồng chí thường xuyên tổ chức đấu tranh phản đối chế độ nhà tù hà khắc, huấn luyện chính trị cho những bạn tù cộng sản, giác ngộ tù không cộng sản về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, kiên quyết đấu tranh chống các phần tử Tờrốtkít. Những đòn tra tấn dã man của kẻ thù và chế độ nhà tù hà khắc làm sức khoẻ đồng chí suy giảm nhanh. Đến tháng 8-1931, do mắc bệnh lao nặng, địch phải đưa đồng chí vào nhà thương Chợ Quán. Tại đây, đồng chí đã qua đời ngày 6-9-1931. Trước khi mất, người cộng sản trung kiên còn dặn lại đồng bào, đồng chí “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.
Tấm gương chiến đấu, hy sinh anh dũng của đồng chí Trần Phú đã cổ vũ Đảng ta, nhân dân ta tiếp tục con đường đấu tranh cách mạng, tiến lên giành thắng lợi.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1998, t. 1, tr. 642.
- Đức Vượng: Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng (1930-1931), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 76-85.
NGÀY 20-4
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
Trong những năm 1930-1931, tuy hoạt động ở ngoài nước, nhưng đồng chí Nguyễn Ái Quốc luôn theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và thường gửi thư cho Trung ương Đảng, góp những ý kiến chỉ đạo quan trọng về nhiều vấn đề.
Ngày 20-4-1931, Người gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương thẳng thắn phê bình những khuyết điểm của Xứ uỷ Trung Kỳ và Bắc Kỳ về tổ chức và xây dựng lực lượng trong thời gian qua. Trước hết, Người phê bình “cách khai hội" Hội nghị Xứ uỷ Trung Kỳ và Bắc Kỳ, thời gian quá dài (Trung Kỳ 18 buổi, Bắc Kỳ 13 ngày), các xứ uỷ không thảo luận kỹ các vấn đề từ trước làm việc không theo trật tự sắp sẵn. Điều đó không thích hợp với hoàn cảnh hoạt động bí mật. Một địa phương quan trọng ở Bắc Kỳ như Hải Phòng lại không có đại biểu tham dự. Người phê phán cách thảo luận ở các hội nghị không thiết thực, tầm chương trích cú, đại biểu ít phát biểu ý kiến, lại vắng nhiều nên những nội dung hội nghị chưa được bàn bạc kỹ. Về kế hoạch xứ uỷ chưa đề ra được kế hoạch tổ chức thực hiện hoặc hướng dẫn các địa phương tổ chức thực hiện. Các xứ uỷ chưa thấm nhuần tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện tốt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản về vấn đề giải thích việc đổi tên Đảng.
Về xây dựng và phát triển lực lượng của Đảng, bằng những số liệu thống kê cụ thể, rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra sự phát triển chưa đều khắp và mạnh mẽ của các tổ chức quần chúng như Công hội, Nông hội, Hội Phụ nữ, Thanh niên. Ở Bắc Kỳ, đoàn thể quần chúng còn quá yếu. Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ chưa có các tổ chức "Mặt trận phản đế” và "Cứu tế đỏ” , "Cứu tế thất nghiệp".
Từ việc chỉ ra những khuyết điểm về xây dựng lực lượng nói trên, Nguyễn Ái Quốc đề nghị các cấp bộ Đảng phải nhanh chóng sửa chữa sai lầm, phân công điều động cán bộ, đảng viên cho hợp lý phát triển phong trào cách mạng rộng rãi và đều khắp. Các tổ chức Đảng phải xây dựng được kế hoạch hoạt động, nắm được tình hình đảng viên và quần chúng cách mạng, phát triển mạnh tổ chức Thanh niên Cộng sản Đoàn và Công hội.
Để thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng và không chệch chủ trương, đường lối của Quốc tế Cộng sản, Người nêu rõ: Các cấp uỷ Đảng khi ra nghị quyết, chỉ thị phải được Trung ương Đảng và Quốc tế Cộng sản thông qua. Có như vậy cách mạng vô sản ở Đông Dương mới thực sự trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản trên thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 130-134.
TỪ NGÀY 22 ĐẾN NGÀY 29-4
Hội nghị Xứ uỷ Trung Kỳ mở rộng
Từ ngày 22 đến ngày 29-4-1931, Xứ uỷ Trung Kỳ họp Hội nghị mở rộng, đồng chí Nguyễn Phong Sắc chủ trì.
Hội nghị kiểm điểm, chỉ ra những sai lầm khuyết điểm của Đảng bộ trong lãnh đạo phong trào cách mạng thời gian qua, trong đó nhấn mạnh khuyết điểm về công tác tư tưởng và công tác tổ chức. Các cấp đảng bộ trong xứ xem Đảng là tổ chức của thợ thuyền và dân cày chứ không phải là tổ chức của giai cấp vô sản, do đó không làm nổi bật tính tiên phong và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết nạp đảng viên thiếu thận trọng. Mặt khác, Đảng chưa tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng tham gia đấu tranh cách mạng, có nơi nặng tư tưởng tiểu tư sản, có nơi lại phân biệt đối xử với các đảng viên thuộc thành phần tiểu tư sản...
Trong bối cảnh đế quốc Pháp và tay sai đang ra sức đàn áp phong trào cách mạng một cách khốc liệt, Xứ uỷ Trung Kỳ đề ra hai nhiệm vụ khẩn cấp.
Một là, cương quyết lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đoàn kết đông đảo quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là, bài trừ chủ nghĩa cơ hội trong Đảng, tạo nên một nền tư tưởng thống nhất Bônsêvích trong Đảng. Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt của Đảng bộ là:
- Lãnh đạo quần chúng đấu tranh, kết hợp xây dựng củng cố Đảng và các tổ chức quần chúng với những khẩu hiệu thiết thực chống sưu thuế, đòi giảm tô, chống bớt lương, giảm giờ làm, chống cải lương lừa bịp, chống khủng bố trắng, chống sinh hoạt đắt đỏ, đòi việc làm, chống chiến tranh đế quốc...
- Bài trừ chủ nghĩa cơ hội trong Đảng bằng cách tự chỉ trích vạch ra sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa. Chống các khuynh hướng tả khuynh, hữu khuynh, biệt phái, chống các tư tưởng cầu an, ngại gian khổ hy sinh...
- Tổ chức lại việc tuyên truyền, cổ động mỗi cấp bộ Đảng phải có một Ban Tuyên truyền, căn cứ vào tình hình địa phương mình mà tổ chức tuyên truyền cho thích hợp. Các cấp uỷ phải lãnh đạo chặt chẽ công tác tuyên truyền. Ra sức phát triển báo chí cách mạng, tài liệu, sách để giáo dục cán bộ đảng viên và quần chúng.
- Tổ chức lại các cấp chỉ huy từ Xứ uỷ xuống các cấp dưới, tăng cường thành phần công nhân và bần cố nông trong các cơ quan chỉ huy của Đảng. Tăng cường công tác vận động các tầng lớp nhân dân để xây dựng các đoàn thể quần chúng như Thanh niên Cộng sản Đoàn, Công hội, Nông hội, Cứu tế đỏ, cơ sở cách mạng trong binh lính địch...
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 1-5
Nông dân nhiều tỉnh đấu tranh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động
Những tháng đầu năm 1931, cao trào cách mạng 1930-1931 ở vào giai đoạn bị khủng bố khốc liệt nhưng phong trào đấu tranh của quần chúng vẫn diễn ra ởnhiều nơi. Nông dân các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bến Tre, Vĩnh Long... tổ chức mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1931. Hàng nghìn người tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế, chống khủng bố trắng ủng hộ Liên Xô... Mỗi địa phương lại có thêm những mục tiêu đấu tranh riêng của mình. Ở Quảng Ngãi, hàng vạn nông dân biểu tình phản đối đế quốc Pháp xử án tử hình đồng chí Nguyễn Nghiêm, Bí thư Tỉnh uỷ.
Đế quốc Pháp và tay sai tăng cường đàn áp, nhiều cuộc đấu tranh bị đàn áp đẫm máu như ở Mộ Đức (Quảng Ngãi) có tới 100 người hy sinh, bị thương và bi bắt.
Ngày Quốc tế Lao động trở thành một trong những ngày công nông cả nước đấu tranh cho những quyền lợi của mình, chống đế quốc Pháp và tay sai.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 103.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930- 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Tỉnh uỷ Vĩnh Long: Lịch sử tỉnh Vĩnh Long (1732-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
NGÀY 12-5
Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản gửi thư cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc
Ngày 12-5-1931, Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản gửi thư cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Quốc tế Cộng sản đánh giá cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và chỉ rõ: qua cao trào 1930-1931, ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng ngày càng tăng, đồng thời với nó là sự suy sụp của các đảng phái theo khuynh hướng quốc gia cải lương. Tình hình hiện tại ở Đông Dương là thực dân Pháp và tay sai đang ra sức lùng bắt cán bộ đảng viên và đàn áp khốc liệt phong trào quần chúng.
Trước tình hình đó, Ban Phương Đông đề ra những nhiệm vụ cấp bách của Đảng Cộng sản Đông Dương là:
1. Duyệt lại đường lối cho đúng với đường lối của Quốc tế Cộng sản, thực hiện đầy đủ nội dung Cương lĩnh chính trị, chống “manh động”, “cực đoan tả khuynh", tổ chức vận động đông đảo quần chúng đấu tranh, đi từ đấu tranh kinh tế lên đấu tranh chính trị.
2. Đảng phải cải tiến ngay phương pháp hoạt động. Hiện tại hoạt động của Đảng quá lộ liễu, thời gian họp quá dài. Ban Phương Đông nêu ra một số biện pháp cụ thể trong hoạt động bảo vệ cách mạng là: trong Đảng dùng bí danh thay cho tên thật; cán bộ ở phân tán, chỉ có đồng chí Bí thư chi bộ mới nắm địa chỉ các đồng chí khác; hội nghị họp ngắn ngày, bí mật hạn chế đi lại, không gặp gỡ liên lạc ngoài đường; ăn mặc phải phù hợp với nơi ở, thường xuyên đổi địa điểm họp; mỗi người chỉ biết rõ công tác của mình... Những nguyên tắc hoạt động bí mật đó sẽ giúp Đảng tránh được thiệt hại do sự truy lùng, khủng bố của địch.
3. Trung ương Đảng cần có bức thư ngỏ gửi đảng viên toàn Đảng, trình bày những vấn đề về vận động quần chúng, tổ chức các hội đoàn, sự nguy hại của những tư tưởng sai lầm giải thích đường lối Quốc tế Cộng sản. Ban Phương Đông bày tỏ quyết tâm ủng hộ cách mạng Đông Dương và tin tưởng vào tinh thần và khả năng cách mạng của nhân dân Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng
NGÀY 13-5
Tổ chức lại Xứ uỷ lâm thời Bắc Kỳ
Đầu năm 1931, hoạt động của Xứ uỷ Bắc Kỳ ngày càng bộc lộ một số nhược điểm như tả khuynh, lộ liễu, vi phạm nguyên tắc bí mật, không kịp thời bổ sung số uỷ viên thay thế những đồng chí bị bắt, nội bộ Xứ uỷ nảy sinh mâu thuẫn, xuất hiện kẻ cơ hội...
Những ảnh hưởng đó ảnh hưởng xấu tới tổ chức Đảng và phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ.
Tháng 4-1931, sự phản bội của Nghiêm Thượng Biền- Bí thư Xứ uỷ đã gây tổn thất lớn cho tổ chức Đảng từ Trung ương đến xứ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Đồng chí Trần Quang Tặng (tức Không), cán bộ tuyên huấn Xứ uỷ Bắc Kỳ do bận mở lớp huấn luyện ở Hà Nam và Thái Bình, nên may mắn thoát khỏi lưới vây bắt của kẻ thù. Sau đó, đồng chí đã tích cực hoạt động nhằm chắp nối, khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ.
Ngày 13-5-1931, ở Hải Phòng, đồng chí Trần Quang Tặng tổ chức lại Xứ uỷ lâm thời gồm ba đồng chí do đồng chí Trần Quang Tặng làm Bí thư và các đồng chí uỷ viên Nguyễn Chí Hiền, Trần Như Hoàn. Tháng 9-1931, khi Thành uỷ Hà Nội được thành lập, đồng chí kiêm nhiệm cương vị Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Cơ quan Xứ uỷ đặt tại Hà Nội, Xứ uỷ ra báo Tiến lên, in lại nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, của Quốc tế Cộng sản để giáo dục động viên đảng viên và quần chúng đấu tranh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
NGÀY 20-5
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị gửi Xứ uỷ Trung Kỳ vềvấn đề thanh Đảng
Trước sự khủng bố tàn bạo của đế quốc Pháp, trong một số ít cán bộ đảng viên xuất hiện tư tưởng cầu an, dao động. Giữa lúc đó Xứ uỷ Trung Kỳ đã có sai lầm, quay sang chỉnh đốn tổ chức, tháng 4-1931, ra chỉ thị thanh Đảng, chủ trương: trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ.
Khi được báo cáo về chủ trương này, ngày 20-5-1931, Thường vụ Trung ương Đảng4 ra Chỉ thị gửi Xứ uỷ Trung Kỳ để phê phán sai lầm trên. Trung ương chỉ rõ: "Xứ uỷ Trung Kỳ nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chí tướng".
Trung ương Đảng nhắc lại nguồn gốc của Đảng ta được xây dựng theo những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác -Lênin và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Đảng được xây dựng từ sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta, Đảng ta kế thừa truyền thống đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm của dân tộc ta. Từ khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng chống đế quốc mạnh mẽ. Hiện tại, trong cuộc đấu tranh quyết liệt một mất một còn với kẻ thù, không tránh khỏi xuất hiện những tư tưởng hoang mang, dao động, bi quan, những phần xử đầu hàng phản bội. Điều đó không có gì lạ, mà là việc thường xảy ra đúng với quy luật đấu tranh cách mạng. Trung ương Đảng nhận xét: những đảng viên như vậy không sao tránh khỏi trong hàng ngũ, nhưng là số ít, còn thì giai tầng nào mặc dầu, nhưng đa số đồng chí hết sức trung thành hiến thân cho Đảng đến giọt máu cuối cùng. Qua những cuộc đấu tranh trong mật thám, trường hình chính đế quốc Pháp phải lè đầu tặc lưỡi. Sự thật rõ ràng là oanh liệt”.
Trung ương Đảng Chỉ thị cho Xứ ủy Trung Kỳ phải nghiên cứu thẩm tra lại tình hình cụ thể từng đảng bộ, từng cấp uỷ và toàn thể đảng viên tiến hành tự phê bình và phê bình, kiểm điểm sắp xếp lại lực lượng. Xứ uỷ còn căn cứ vào đường lối, chính sách của Trung ương Đảng để đề ra chủ trương và hành động của mình nhằm làm cho Đảng Bônsêvích hoá để cách mạng hoá quần chúng, qua đó mà duy trì cơ sở, phát triển phong trào cách mạng, đồng thời qua thử thách đấu tranh mà vận động phát triển Đảng”.
Chỉ thị của Trung ương Đảng đã góp phần uốn nắn những lệch lạc, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng về tư tưởng và tổ chức hướng tới nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc. Chỉ thị có giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng Đảng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, góp phần làm phong phú kinh nghiệm xây dựng Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr 155-158.
NGÀY 20-5
Xứ uỷ Trung Kỳ ra Nghị quyết về việc sáp nhập bộ phận cách mạng Thanh Hoá vào Đảng Cộng sản Đông Dương
Trong cao trào 1930-1931, cùng với lực lượng cách mạng ở Nghệ An, Hà Tĩnh và nhiều địa phương khác, đảng viên và nhân dân Thanh Hoá đã có những hoạt động đấu tranh như rải truyền đơn, treo cờ đỏ... Nhưng cuộc đấu tranh ở Thanh Hoá không sôi nổi, mạnh mẽ bởi vì bộ phận cách mạng Thanh Hoá có đảng viên mà chưa lập ra các hội quần chúng, Đảng chưa có cơ quan chỉ huy, đảng viên còn hoạt động riêng rẽ; tư tưởng và hành động của đảng viên và quần chúng Thanh Hoá còn nhiều biểu hiện tiểu tư sản của các tổ chức Thanh niên, Tân Việt.
Trước tình hình đó, Nghị quyết của Xứ uỷ nêu rõ: Chưa công nhận bộ phận cách mạng Thanh Hoá là một chi bộ chính thức của Đảng, Xứ uỷ sẽ tiến hành lãnh đạo chặt chẽ hơn đối với Thanh Hoá. Về phần mình, bộ phận cách mạng Thanh Hoá có nhiệm vụ thảo luận và thi hành đúng Điều lệ, Luận cương chính trị của Đảng và các án nghị quyết của Trung ương và Xứ uỷ. Bộ phận cách mạng Thanh Hoá phải bầu ngay một cơ quan chỉ huy chung để mở rộng nền tảng tổ chức của Đảng, thành lập các tổ chức quần chúng như Công hội, Nông hội, Cứu tế hội... và vừa tiến hành đấu tranh, vừa xây dựng tổ chức. Chú ý bầu thành phần công nhân, nông dân giác ngộ chính trị khá vào cơ quan chỉ huy và giữ liên lạc, báo cáo đầy đủ với Xứ uỷ. Nếu bộ phận cách mạng Thanh Hoá thi hành tốt đường lối của Trung ương Đảng và Xứ uỷ, sẽ được công nhận là chi bộ chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t 3, tr. 159-162.
NGÀY 5-6
Ban Chấp hành Quốc tế Công hội đỏ chỉ đạo hoạt động của Công hội cách mạng Đông Dương
Ngày 5-6-1931, Ban Chấp hành Quốc tế Công hội đỏ họp, bàn về nhiệm vụ của Công hội cách mạng ở Đông Dương.
Quốc tế Công hội đỏ phân tích tình hình cách mạng ở Đông Dương và hoạt động của Công hội Đông Dương thời gian qua, đã chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh bước đầu mang tính chất chính trị. Tuy nhiên, Công hội ở Đông Dương còn phạm nhiều sai lầm như không đấu tranh cho sự công khai của Công hội, không đấu tranh trong khi kinh tế khủng hoảng, chưa lập ra các uỷ ban bãi công...
Quốc tế Công hội đỏ tăng cường sự lãnh đạo phong trào công nhân và Công hội đỏ ở Đông Dương, đề ra những nhiệm vụ cho tổ chức Công hội.
1. Phát triển tổ chức, thanh thế của Công hội đấu tranh kinh tế với giới chủ và đòi những quyền lợi thiết thực hàng ngày, bầu ra các Uỷ ban đình công, thảo luận công khai mục tiêu đấu tranh, tập hợp đông đảo quần chúng, liên hiệp đấu tranh với nông dân, liên kết đấu tranh giữa các nhà máy.
2. Đấu tranh đòi những mục tiêu thiết thực, cụ thể của giai cấp công nhân như tăng lương, giảm giờ làm trả lương đầy đủ, bình đẳng nam nữ.
3. Xây dựng tổ chức Công hội để biến mỗi nhà máy xí nghiệp thành một thành trì đấu tranh.
4. Thành lập các Ban công xưởng uỷ viên để làm trung tâm tập hợp công nhân.
5. Đấu tranh cho Công hội đỏ được hoạt động công khai Tổ chức các đoàn thể quần chúng công khai, lợi dụng mọi hình thức công khai, nửa công khai. Mặt khác phải lập những cơ quan bí mật đề phòng địch đàn áp khốc liệt.
6. Tổ chức Công hội của công nhân xí nghiệp và liên lạc với Nông hội.
7. Tổ chức thợ thất nghiệp đấu tranh đòi quyền lợi như việc làm, trợ cấp.
8. Chú trọng công tác cán bộ.
9. Tiến lên lập Mặt trận thống nhất của công nhân các dân tộc Đông Dương liên kết với Công hội Trung Quốc.
10. Chuẩn bị Đại hội Công hội toàn Đông Dương.
11. Củng cố mối liên lạc với Công hội đỏ Quốc tế, Công hội đỏ Pháp, Trung Quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 313-340.
NGÀY 6-6
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hồng Kông và cuộc đấu tranh giải thoát Người khỏi nhà tù đế quốc
Sáng sớm ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc với thẻ căn cước mang tên Tống Văn Sơ bị một sĩ quan Anh và mấy cảnh sát Trung Quốc ập vào nơi ở số 168 đường Tam Lung (Cửu Long) bắt giải về Sở Cảnh sát Hồng Kông. Chúng vu cáo cho Người tội làm tay sai của Liên Xô, có âm mưu phá hoại chính quyền Hồng Kông. Người bị giam trong nhà tù của đế quốc Anh ở Hồng Kông.
Được tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt, Quốc tế Cộng sản nhờ ông Lôdơbi, một luật gia dân chủ tiến bộ người Anh, lúc đó là Chủ tịch Hội Luật gia Hồng Kông bào chữa giúp. Ông Lôdơbi đến thăm Người và khi Nguyễn Ái Quốc nói không có tiền để nhờ cãi, ông Lôdơbi đã hứa sẽ giúp vì danh dự chứ không cho vì tiền. Người đã cung cấp cho Luật sư Lôdơbi những thông tin cần thiết và thống nhất về phương hướng bào chữa.
Đế quốc Anh định trao Nguyễn Ái Quốc cho đế quốc Pháp, nhưng ông Lôdơbi kiên quyết phản đối và đòi đưa vụ này ra trước toà án tối cao tại Hồng Kông.
Từ tháng 6 đến tháng 9, Nguyễn Ái Quốc phải ra tòa chín phiên. Vì không có chứng cứ gì, toà án Hồng Kông phải tuyên bố trắng án nhưng đòi trục xuất Người về Đông Dương để đế quốc Pháp bắt, Người đã đệ đơn lên toà án tối cao ở Luân Đôn.
Trong thời gian ở tù, Người thường được ông bà Lôdơbi và con gái đến thăm. Cuối tháng 9, Nguyễn Ái Quốc bị tái phát bệnh lao phổi, nhờ sự can thiệp của Luật sư Lôdơbi, Người được chuyển đến điều trị tại bệnh viện nhà tù.
Đầu tháng 10, Nguyễn Ái Quốc tiếp bà Xtenla Benxơn, một người bạn của Luật sư Lôdơbi và là một nhà hoạt động văn học và sân khấu ở Hồng Kông. Với thiện cảm đặc biệt, bà Benxơn đã yêu cầu chồng mình- ông Tômát Xautôn lúc đó là Phó thống đốc Hồng Kông giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc.
Đầu tháng 7-1932, Nguyễn Ái Quốc biết tin đơn kháng án của Người đã được Hội đồng cơ mật Nhà vua Anh chấp nhận. Nhờ sự nỗ lực của Luật sư Nôoen Prít, sau một ngày biện luận, Toà án Hoàng gia ở Anh đã kết luận Nguyễn Ái Quốc vô tội và quyết định trả lại tự do cho Người.
Tháng 8-1932, với vé tàu thuỷ do ông bà Lôdơbi lo liệu giúp, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Hương Cảng đi Xingapo để tránh lưới mật thám đang rình bắt Người. Vừa đặt chân đến Xingapo, Người lại bị bắt và trả về Hồng Kông. Lấy cớ Người đi vào thuộc địa không có giấy phép, nhà cầm quyền Hương Cảng lại bắt giam Người một lần nữa. Đầu tháng 9, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Luật sư Lôdơbi báo tin mình lại bị bắt giam ở Hồng Kông.
Khoảng từ giữa tháng 9 đến cuối năm 1932, Nguyễn Ái Quốc được thả tự do nhờ sự giúp đỡ của Luật sư Lôdơbi, Người được ông bà Lôdơbi thu xếp vào ở trong ký túc xá của Hội những người Thiên chúa giáo trẻ Trung Quốc chờ dịp rời Hồng Kông.
Với sự giúp đỡ của Tômát Xautôn - Phó thống đốc Hồng Kông, Người được phép dùng ca nô riêng của Thống đốc rời bến cảng ra khơi, đánh tín hiệu bắt một chiếc tàu đang chạy từ hướng đông đi Hạ Môn.
Không bắt được Người, báo chí của đế quốc Pháp phao tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao trong Nhà tù Hồng Kông, làm nhiều đảng viên và người yêu nước Việt Nam bàng hoàng. Khi nghe tin Người đã thoát khỏi nhà tù đế quốc, bình an vô sự các đồng chí của Người vô cùng vui mừng, sung sướng.
Sau gần hai năm bị bắt giam, nhờ sự đấu tranh kiên trì và khéo léo của mình, sự can thiệp của các tổ chức quốc tế sự giúp đỡ tận tình của vợ chồng Luật sư Lôdơbi và một số cá nhân tiến bộ khác, đồng chí Nguyễn Ái Quốc được trả lại tự do hoàn toàn. Sau đó, Người sang Liên Xô.
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 71-76.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốcgia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 30-49.
- Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông 1931-1933 (Tư liệu và hình ảnh), Nxb. Chính trị quốc gia - Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004, tr 59-241.
NGÀY 27-6
Ban Bí thư chính trị Quốc tế Cộng sản gửi thư góp ý kiến về hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương
Quốc tế Cộng sản luôn theo dõi chặt chẽ tình hình phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Căn cứ vào những báo cáo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 27-6-1931. Ban Bí thư chính trị Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương, góp nhiều ý kiến về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.
Điểm lại quá trình đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân dân Đông Dương chống đế quốc Pháp và tay sai, Quốc tế Cộng sản khẳng định: sau khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại, quyền lãnh đạo phong trào cách mạng Đông Dương đã trao vào tay Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ thực tế của cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh điểm là Xô viết Nghệ - Tĩnh, Quốc tế Cộng sản nêu rõ lực lượng, tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương.
Những lực lượng cơ bản của cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân.
Tính chất của cách mạng Đông Dương là cách mạng dân chủ tư sản (cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất).
Nhiệm vụ trung tâm của cuộc cách mạng đó là:
1. Đánh đổ chính quyền của đế quốc Pháp và tay sai, giành độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông.
2. Tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ Việt Nam và tư bản Pháp chia cho nông dân, công nhân đồn điền. Quốc hữu hoá những xí nghiệp của giới tư bản Pháp, thủ tiêu toàn bộ chế độ nô dịch và bóc lột của thực dân Pháp và địa chủ phong kiến.
3. Ngày làm 8 giờ, cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt cho giai cấp công nhân.
4. Đoàn kết, liên minh với giai cấp vô sản quốc tế và phong trào cách mạng ở các thuộc địa, nhất là Trung Quốc, bảo vệ Liên bang Xôviết.
Quốc tế Cộng sản chỉ rõ: cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương được sự ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, thắng lợi cuối cùng tuỳ thuộc vào sức mạnh của quần chúng nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Đông Dương phải tăng cường đoàn kết tập hợp đông đảo nhân dân Đông Dương trong các tổ chức Nông hội, Công hội..., mở rộng phong trào trong cả nước, đấu tranh bằng mọi hình thức từ công khai đòi quyền lợi hàng ngày đến khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải gắn nhiệm vụ phản đế với nhiệm vụ phản phong vì điều đó liên quan đến việc tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp nhân dân Đông Dương và động viên được lực lượng cách mạng đông đảo nhất, hăng hái nhất là giai cấp nông dân. Để tập trung quyền lãnh đạo vào tay giai cấp vô sản Đảng phải đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cải lương và những tư tưởng sai lầm ngay ởtrong Đảng. Tuy nhiên, để mở rộng lực lượng cách mạng, Đảng phải tranh thủ những phần tử tích cực nhất theo chủ nghĩa cải lương chừng nào cuộc đấu tranh của họ còn có lợi cho cách mạng.
Quốc tế Cộng sản chỉ rõ nhiệm vụ cụ thể của Đảng Cộng sản Đông Dương là phát triển Nông hội, Công hội đỏ mạnh mẽ hơn nữa đẩy mạnh cuộc đấu tranh của tầng lớp tiểu tư sản thành thị, đoàn kết các dân tộc ít người ở Đông Dương, xây dựng các Đội tự vệ ở nông thôn, đẩy mạnh vận động binh lính, phát triển cơ sở cách mạng ở những vùng giáp giới với Trung Quốc... Phát triển đảng viên trong công nhân, tăng cường thành phần giai cấp công nhân trong các cơ quan lãnh đạo. Đảng phải ra một tờ báo thường kỳ làm cơ quan ngôn luận chính thức, tuyên truyền, cổ động quần chúng đấu tranh. Củng cố sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương từ việc ra nghị quyết đến lãnh đạo tổ chức thực hiện.
Bức thư của Ban Bí thư chính trị Quốc tế Cộng sản góp phần vào quá trình khôi phục củng cố Đảng Cộng sản Đông Dương cả về tư tưởng và tổ chức trong những năm sau đó, duy trì cuộc đấu tranh cách mạng trong thời điểm khó khăn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1999, t. 3, tr. 341-374.
THÁNG 6
Nông dân Ninh Bình đấu tranh chống thuế
Trong khí thế đấu tranh sôi sục của cao trào 1930- 1931, Đảng bộ Ninh Bình đã linh hoạt trong chỉ đạo, áp dụng nhiều hình thức hoạt động, thu hút đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh cách mạng.
Ngày 20-6-1931, nhân việc tri huyện Gia Viễn về làng Vân Trình đốc thuế, chi bộ Đảng kịp thời chỉ đạo, vận động nhân dân đấu tranh xin khất thuế. Tri huyện lúng túng buộc phải trả lời "về làm đơn mới xét”. Chi bộ có sáng kiến cho nhân dân làm đơn tập thể, ký tên theo vòng tròn để địch không tìm ra người đứng đầu.
Ngày 23-6, hàng nghìn nông dân tổng Vân Trình do đồng chí Đinh Tất Miên dẫn đầu kéo về huyện Gia Viễn xin khất thuế. Đế quốc Pháp và tay sai không giải quyết. Đoàn người lập tức kéo lên tỉnh đấu tranh. Nhân dân các làng Lạc Thoái, Bồ Đình, Liên Huy, Trường Yên nhập vào đoàn cùng tranh đấu.
Tuần phủ Ninh Bình thấy nhân dân kéo đến đông đảo phải nhượng bộ, chấp nhận cho nông dân nộp thuế dần dần.
Thắng lợi của nhân dân Vân Trình cổ vũ quần chúng nhiều nơi. Ngày 27-6-1931, nông dân tổng Lê Xá cũng giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh khất thuế. Cùng ngày, nông dân nhiều nơi trong tỉnh như Thần Thiệu, Sơn Quyết, Định Lộng... kéo lên tỉnh đấu tranh và cũng giành thắng lợi, địch hứa cho nộp thuế dần và giảm 10%.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh: Sư kiện lịch sử Đảng Hà Nam Ninh (1929- 1954), Hà Nam Ninh, 1976.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996.
THÁNG 6
Nhân dân Phú Yên đấu tranh chống sự đàn áp bóc lột của chính quyền thuộc địa
Đến giữa năm 1931, Phú Yên xây dựng được 15 chi bộ với trên 50 đảng viên, 400 hội viên Nông hội. Song song với việc phát triển tổ chức, Đảng bộ chú ý vận động quần chúng nhân dân. Cuộc mít tinh đầu tiên được tổ chức tại Bầu Rùa với trên 300 người tham dự. Cuộc mít tinh thứ hai diễn ra tại đèo Con Tôm thuộc xã Hà Trung với 150 người tham dự.
Trong tháng 6-1931, Đảng bộ liên tiếp tổ chức bốn cuộc mít tinh nữa tại Cồn Loi (Triêm Đức), Ba Cụm (Phước Long), Đồng Cỏ (Phước Lãnh) và Đá Mũ với sự tham gia của hàng trăm người mỗi cuộc. Trong các cuộc mít tinh đảng viên kêu gọi nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp và quan lại phong kiến, tố cáo bọn quan lại tham ô và ủng hộ đồng bào Nghệ - Tĩnh, Quảng Ngãi. Phong trào quần chúng nổi lên rất mạnh tại La Hai, Triêm Đức, Phước Lãnh, Thành Đức. Đảng bộ còn rải nhiều truyền đơn trong tỉnh, kêu gọi ủng hộ Liên Xô, phản đối chiến tranh đế quốc phản đối bắn giết đồng bào Nghệ - Tĩnh, Quảng Ngãi, đòi giảm sưu thuế bãi bỏ lệ tuần canh, thả hết chính trị phạm.
Do các hoạt động có phần lộ liễu, kẻ địch đã phát hiện ra kế hoạch của ta. Ngày 17-7-1931, chúng tập trung lực lượng đàn áp bắt bớ hơn 500 đảng viên và quần chúng. Kế hoạch biểu tình ngày 1-8-1931 không thực hiện được.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945), Phú Yên, 1999.
THÁNG 7
Tái lập Thành uỷ Hải Phòng
Tháng 4 và 5 năm 1931, thực dân Pháp khủng bố gắt gao Tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương hầu hết bị tan vỡ, hàng loạt cán bộ bị bắt.
Đồng chí Trần Quang Tặng (tức Khổng, Hồng Hải...) sau khi thoát khỏi sự vây bắt của kẻ thù đã về các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam... hoạt động, chắp mối xây dựng phong trào.
Tại Hải Phòng, thực dân Pháp khủng bố dữ dội nhưng cơ sở Đảng không tan rã hết, vẫn còn một số chi bộ với khoảng 20 đảng viên và nhiều hội viên Công hội đỏ, là hạt nhân tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh.
Về Hải Phòng hoạt động, đồng chí Trần Quang Tặng lấy danh nghĩa Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban cán sự có chức năng như một Ban Tỉnh uỷ gồm các đồng chí Nguyễn Đức Chuế, Bùi Đình Mỵ, Long và đồng chí Trần Quang Tặng phụ trách chung. Đồng chí Tặng cũng móc nối thành lập tổ Phụ nữ liên hiệp có các chị Bốn, Nghiêm, Khánh ...vào tháng 8-1931.
Những nỗ lực của những đảng viên trung kiên dựa vào tinh thần yêu nước của nhân dân Hải Phòng, nhất là giai cấp công nhân đã góp phần phục hồi tổ chức Đảng và duy trì phong trào đấu tranh cách mạng tại một trung tâm công nghiệp lớn ở Bắc Kỳ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925- 1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
- Nhớ mãi tên anh (Về những chiến sĩ cộng sản hoạt động tại Hải Phòng), Nxb. Hải Phòng, 1995, tr 50-51.
NGÀY 22-7
Nông dân phủ Hoài Nhơn (Bình Định) biểu tình có vũ trang tự vệ
Đầu tháng 7-1931, tại An Thái (Tam Quan Bắc, Hoài Nhơn), theo chủ trương hỗ trợ phong trào đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi và Nghệ- Tĩnh của Xứ uỷ Trung Kỳ, Đảng bộ Hoài Nhơn họp bàn kế hoạch tổ chức đợt đấu tranh nhân ngày Quốc tế chống chiến tranh đế quốc (1-8). Hội nghị thảo luận và quyết định các vấn đề về khẩu hiệu đấu tranh, kế hoạch huy động lực lượng, bố trí lực lượng bảo vệ biểu tình. Hội nghị phân công cán bộ chỉ huy các đoàn biểu tình, lập các chi bộ dự bị, chỉ định số cán bộ thoát ly đề phòng địch khủng bố ác liệt. Trung tuần tháng 7-1931, đồng chí Trần Hường, phái viên của Xứ uỷ Trung Kỳ tổ chức cuộc họp các đại biểu của các đảng bộ Phú Yên, Quy Nhơn, Hoài Nhơn tại Quy Nhơn. Hội nghị thảo luận chủ trương của Xứ uỷ Trung Kỳ mở đợt đấu tranh trong phạm vi hai tỉnh Bình Định, Phú Yên và kế hoạch hoạt động phối hợp giữa các địa phương vào ngày 28-7-1931.
Phát hiện được kế hoạch đó, từ ngày 13 đến ngày 20-7-1931, thực dân Pháp và tay sai tăng cường đàn áp bắt bớ, nhiều cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng ở Quy Nhơn, Hoài Ân, An Nhơn... Do đó, ngày 20-7-1931, Huyện uỷ Hoài Nhơn họp bất thường tại Hảo Thiện (Tam Quan Bắc) quyết định huy động quần chúng toàn huyện đấu tranh sớm hơn dự định.
Đêm 22 rạng ngày 23-7-1931, hơn 3000 nông dân Hoài Nhơn vũ trang bằng dao, rựa, gậy gộc, cờ giong trống thúc, đèn đuốc sáng rực rầm rộ tiến về huyện lỵ Bồng Sơn. Để bảo vệ cuộc đấu tranh, Tự vệ đỏ các làng từ Tài Lương đến Tam Quan đã chặt cây làm tắc giao thông, cắt dây điện thoại, tổ chức chốt cảnh giới ở Tài Lương và đèo Bình Đê. Tại nhiều làng các tổng phía bắc huyện, quần chúng tổ chức giám sát chặt chẽ bọn hương lý và tuần đinh của địch. Mờ sáng ngày 23-7, quần chúng cách mạng tiến về Bồng Sơn với khí thế sôi sục.
Do kế hoạch đấu tranh bị lộ, đế quốc và tay sai đã điều động binh lính chặn tại cây số 7 (Tài Lương - Hoài Thanh), đàn áp dã man làm nhiều người chết và bị thương. Các đồng chí lãnh đạo các đoàn biểu tình như Huỳnh Đôn Mậu, Đinh Thứ, Võ Tế, Lê Quyết, Huỳnh Lịch,Trịnh Khánh, Nguyễn Hằng, Ngô Lạc... đã hy sinh. Hàng trăm người bị thương, bị bắt. Kẻ địch phải thừa nhận khí thế các cuộc biểu tình thật sôi nổi, tinh thần đấu tranh của nhân dân anh dũng.
Cuộc biểu tình đêm 22,rạng ngày 23-7-1931 của nông dân Hoài Nhơn là đỉnh cao, tiêu biểu cho khí thế đấu tranh của công nông Bình Định trong cao trào 1930-1931.
Sau cuộc biểu tình, địch lập nhiều đồn binh mới. từ 23-7đến 1-8 bắt bớ 290 người ở Hoài Nhơn. Tuy nhiên, chúng cũng phải giảm bớt một số thứ thuế mới, giảm bớt dần chế độ tuần canh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945). Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t. I.
NGÀY 13-8
Xứ uỷ Trung Kỳ gửi thư cho các cấp bộ Đảng ở Hà Tĩnh
Trong thư, Xứ uỷ chỉ rõ thời gia qua, Đảng bộ Hà Tĩnh đã mắc phải những sai lầm như xa rời quần chúng, thiếu tinh thần giáo dục, giác ngộ quần chúng tả khuynh, thiên về xu hướng vũ trang ám sát... Trước tình hình đó, Xứ uỷ chỉ thị cho Đảng bộ phải "chấn chỉnh lại các cấp uỷ Đảng cho đúng với tính chất giai cấp và tư tưởng chính trị của Đảng. Những nơi tổ chức còn vững thì dùng cuốn Nhật ký chìm tàuđể tuyên truyền cuộc sống hạnh phúc của nhân dân nước Nga, kích thích quần chúng đấu tranh. Những nơi đã bị đế quốc phá vỡ thì tỉnh uỷ, huyện uỷ, tổng uỷ cử người đến tổ chức lại chi bộ, huấn luyện cho các đảng viên hoạt động bí mật theo từng tổ chức và từng hoàn cảnh để chống âm mưu phá hoại của địch. Bức thư của Xứ uỷ Trung Kỳ góp phần chỉnh đốn Đảng bộ Hà Tĩnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và lực lượng cách mạng.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử của Đảng bộ Nghê Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
NGÀY 17-8
Xứ uỷ Trung Kỳ kêu gọi "Phải lập tức gây dựng hệ thống tổ chức của tất cả các đoàn thể”
Ngày l7-8-1931, báo Chỉ đạo, cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung Kỳ, ra lời kêu gọi phải nhanh chóng xây dựng lại tổ chức của các đoàn thể.
Xứ uỷ nêu rõ thời gian qua, Đảng bộ chưa thực hiện tốt nghị quyết của Trung ương Đảng về gây dựng hệ thống tổ chức của các đoàn thể Thanh niên, Công hội, Nông hội, Cứu tế đỏ... Sở dĩ có tình trạng trên vì đế quốc Pháp đàn áp khủng bố ác liệt, các cấp đảng bộ ít họp bàn về chủ trương và tổ chức thực hiện, chưa nắm vững mối quan hệ giữa vừa đấu tranh vừa xây dựng tổ chức.
Do vậy, trong thời gian tới, đảng bộ địa phương các cấp phải tăng cường vừa lãnh đạo đấu tranh, vừa chú ý xây dựng tổ chức, cụ thể là:
Về tổ chức Đảng phải giữ vững hệ thống tổ chức, thực hiện nguyên tắc chỉ huy tập trung (thường vụ ba người giải quyết công việc hàng ngày), tăng cường thành phần vô sản vào cấp lãnh đạo, tổ chức tốt giao thông liên lạc, các đảng bộ đứt liên lạc phải căn cứ nghị quyết Trung ương, tự động công tác.
Đối với các đoàn thể khác phải xây dựng hệ thống từ dưới lên, cứ có từ ba đơn vị cùng cấp thì tổ chức đơn vị cấp trên chứ không chờ đầy đủ các địa phương, xây dựng phải gắn với hoạt động và phát triển trở lại tổ chức; nếu một bộ phận tổ chức bị vỡ, phải nhanh chóng kiện toàn bộ phận còn lại.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 31-8
Thường vụ Xứ uỷ Trung Kỳ ra Thông cáo gửi Tỉnh uỷ Nghệ An
Thông cáo của Xứ uỷ nói về việc người liên lạc của Tỉnh uỷ Nghệ An bị bắt, nên Xứ uỷ không nhận được tư liệu cần thiết. Vì vậy, Xứ uỷ thông báo cho Tỉnh uỷ Nghệ An phải chuyển cho Xứ uỷ những tài liệu, báo cáo về tình hình chính trị và tình hình Đảng.
Xứ uỷ chỉ thị cho Tỉnh uỷ Nghệ An phải chắp nối liên lạc để việc chỉ đạo của Xứ uỷ được thông suốt.
Xứ uỷ thông báo cho Tỉnh uỷ Nghệ An biết hoạt động của Huyện uỷ Hưng Nguyên và yêu cầu Tỉnh uỷ Nghệ An đề đạt những điều cần thiết với Xứ uỷ.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 10
Báo Vô sản của Đảng Cộng sản Pháp tuyên truyền ủng hộ phong trào cách mạng Việt Nam
Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp nên từ khi có phong trào Xôviết Nghệ - Tĩnh, Đảng Cộng sản Pháp xuất bản báo Vô sản ra hàng tháng bằng tiếng Việt đã thường xuyên phản ánh tình hình cách mạng ở Đông Dương do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Báo Vô sản số tháng 10-1931 viết: cuộc vận động Nghệ - Tĩnh hồi tháng chín năm ngoái là một bước dài trong đường cách mạng. Cuộc vận động này là một cuộc vận động có giác ngộ, có tổ chức, có Đảng Cộng sản và các đoàn thể giai cấp lãnh đạo. Cuộc vận động này có cội rễ sâu sắc trong đám nông dân, có tánh chất quần chúng và giai cấp rõ rệt: hàng chục ngàn người đánh phá đế quốc, phong kiến, tư bản, địa chủ hàng trăm ngàn người kéo vào trường tranh đấu và chiến đấu làm cho những kẻ cầm quyền thống trị tan hồn thất phách và không sao có thể đàn áp mau chóng như cuộc bạo động Yên Bái được. Cuộc vận động này là một bước lớn trong cuộc cách mạng phản đế và điền thổ có ảnh hưởng to trong lịch sử giải phóng ở Đông Dương".
Tờ báo đã góp phần tuyên truyền cho phong trào cách mạng Đông Dương, tranh thủ sự ủng hộ của giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ Pháp và bạn bè quốc tế.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 3, tr. 375-378.
- Nguyễn Trọng Cổn: Phong trào công nhân trong cao trào Xôviết Nghệ - Tĩnh, Nxb. Lao động, Hà Nội. 1989, tr. 96-97.
NGÀY 22-10
Thường vụ Xứ ủy Trung Kỳ gửi thư hướng dẫn Tỉnh uỷ Nghệ An chuyển vào hoạt động bí mật
Trước tình hình đế quốc Pháp và tay sai khủng bố dữ dội, cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng cách mạng bị phá vỡ nhiều, Xứ uỷ Trung Kỳ gửi thư cho Tỉnh uỷ Nghệ An nêu rõ: "Để giữ vững sự nghiệp của chúng ta, chúng ta phải biết tuỳ theo hoàn cảnh mà hoạt động. Dù sao đi nữa, cũng phải hết sức giữ bí mật. Ở những Huyện uỷ đã bị địch phá vỡ, phải tìm những đồng chí đứng đắn cẩn thận thành lập lại Ban chấp hành mới, chắp nối tổ chức lại các chi bộ. Khi đã phục hồi được tổ chức thì phải tiến hành hoạt động rất bí mật".
Đảng bộ phải tiến hành in cuốn Nhật ký chìm tàu phát cho quần chúng để cổ vũ tinh thần cách mạng của họ.
Ngày 18-11-1931, Xứ uỷ Trung Kỳ tiếp tục gửi thư nhắc nhở Tỉnh uỷ Nghệ An về phương pháp tổ chức và hoạt động trong điều kiện khủng bố ác liệt. Tỉnh uỷ phải tìm hiểu nguyên nhân các cơ sở bị địch phá vỡ để có kế hoạch khắc phục. Mỗi cấp Đảng bộ phải có cán bộ dự bị để thay thế khi bị địch bắt. Cấp trên hàng ngày phải kiểm tra công tác của cấp dưới và giúp đỡ các chi bộ tổ chức ở những nơi bị địch phá vỡ. Giáo dục quần chúng những âm mưu, thủ đoạn phá hoại cách mạng của đế quốc Pháp và tay sai quyên góp tiền bạc giúp đỡ nhân dân các vùng bị đói.
Ngày 30-11-1931, Xứ uỷ Trung Kỳ lại gửi thư căn dặn Tỉnh uỷ Nghệ An về vấn đề tự động công tác khi bị đứt liên lạc với Xứ uỷ và phân bố cán bộ cho hợp lý, vừa tránh địch khủng bố, vừa phát triển phong trào cách mạng ở những địa phương còn yếu.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử của Đảng bô Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 18- 11
Cuộc đấu tranh ở "Hội đồng đề hình" phản đối đế quốc Pháp xử tử hình đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân
Để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, ngoài các toà án thông thường, đế quốc Pháp còn lập thêm các loại toà án đặc biệt như: “Hội đồng đề hình" ở Bắc Kỳ, Toà "Đại hình" ở Nam Kỳ để xử các vụ án chính trị. “Hội đồng đề hình" đã xử các vụ khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), vụ Phan Bội Châu (1925), vụ khởi nghĩa Yên Bái (1930). Sau khi Đảng Cộng sản ra đời, phong trào cách mạng ngày càng lên cao, địch càng tăng cường khủng bố. Ở Bắc Kỳ trong hai năm 1930-1931, đế quốc Pháp đã mở 21 phiên toà đề hình để xử 1094 án, trong đó có 164 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân, 420 án đày biệt xứ...
Ở Hà Nội, từ ngày 16 đến ngày 18-11-1931, đế quốc Pháp xử án 100 chiến sĩ cách mạng, trong đó có 86 đảng viên cộng sản.
Trong quá trình xử án, do đã chuẩn bị trước, các đồng chí vạch tội ác của đế quốc Pháp và tuyên truyền cho cách mạng. Những lời tố cáo đanh thép của những người tù cộng sản làm bọn quan toà bối rối.
Đến buổi tuyên án, nhiều đồng chí bị tuyên án tù khổ sai, chung thân, đày biệt xứ... Riêng đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân5 bị đế quốc Pháp cố tình ghép vào “trọng tội" và tuyên án tử hình. Lúc ấy là 21 giờ 10 phút ngày 18-11-1931, khi địch tuyên án, hàng trăm tiếng hô vang dội “Đả đảo đế quốc”, “Đả đảo Hội đồng đề hình", “Không được giết các anh Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân", “Đả đảo khủng bố”... Đồng chí Vũ Thiện Chân, một trong số những người bị xét xử phất cao lá cờ búa liềm. Tiếng hô đả đảo lại vang lên. Bọn quan toà rung chuông, bọn lính xô vào đánh đập cũng không ngăn được khí thế đấu tranh của những người tù cộng sản.
Ngày 31-7-1932, đế quốc Pháp đem hai đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và Hồ Ngọc Lân xuống Hải Phòng xử chém. Khi đi qua xà lim các trại giam, tại Hoả Lò, hai đồng chí hô lớn "Đả đảo đế quốc Pháp và phong kiến", “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm". Tất cả tù chính trị hô vang hưởng ứng: "Đả đảo đế quốc Pháp dã man", "Phản đối án tử hình". Ngày hôm đó, tất cả anh chị em tù Hoả Lò tuyệt thực để tưởng nhớ hai đồng chí hy sinh vì sự nghiệp cách mạng. Nhân dân Hải Phòng cũng đã biểu thị lòng tiếc thương hai chiến sĩ cách mạng đã từng hoạt động ở đất Cảng và biểu tình phản đối tội ác của đế quốc Pháp.
- Đức Vượng: Nguyễn Đức Cảnh - Người lãnh đạo đầu tiên của Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1985, tr 90-93.
- Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại Nhà tù Hỏa Lò (1899-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 123-124.
TỪ NGÀY 12 ĐẾN NGÀY 16-12
Cuộc đấu tranh của tù chính trị chống chế độ nhà tù ở Ngục Kon Tum
Sau cao trào 1930-1931, địch đưa nhiều tù chính trị ở các tỉnh miền Trung đày lên Kon Tum với ba ý đồ: giảm bớt số lượng tù nhân trong các nhà lao ởđồng bằng miền Trung, dùng tù chính trị lao dịch làm đường 14 xuyên suốt các tỉnh Tây Nguyên và dùng nơi rừng thiêng nước độc ly gián tư tưởng cộng sản và giết dần, giết mòn tù chính trị. Địch tuyển mộ, nhồi sọ tư tưởng thù hằn dân tộc cho 200 lính người dân tộc thiểu số để cai quản tù nhân. Tại Kon Tum, địch thi hành chế độ nhà tù dã man tàn bạo và lao dịch nặng nề. Trong 6 tháng đầu năm 1931 đã có 150 tù chính trị trong tổng số 295 người bị chết khi làm đường 14 đoạn Dakpao- Dakpet. Tháng 6-1931, địch tiếp tục đày tù từ miền Trung lên Kon Tum, đưa số tù nhân ở đây lên đến 200 người.
Tháng 7-1931, tù chính trị Kon Tum thành lập Ban lãnh đạo gồm các đồng chí Ngô Đức Đệ, Lê Viết Lượng, Nguyễn Huy Lung, Trương Quang Trọng, Hồ Độ, Đặng Thái Thuyến để lãnh đạo tù nhân đấu tranh với địch, giữ vững khí tiết người cộng sản. Ban lãnh đạo đã liên tục tổ chức đấu tranh như truy điệu 150 tù nhân chết khi làm đường 14 (8-1931), chống lính đánh tù (9-1931), gửi kiến nghị 5 điểm cho công sứ Pháp (10-1931).
Ngày 12-12-1931, địch chia các toán tù nhân và đưa 40 người đi làm đường ở Dakpet, trong số đó có bốn đồng chí trong Ban lãnh đạo, còn lại đều là thành viên của đội cảm tử. Ban lãnh đạo tổ chức đóng cửa nhà lao, phản đối đi làm đường. Địch tiến hành đàn áp dã man làm chín người chết, tám người bị thương. Các đồng chí Trọng, Thuyến trong Ban lãnh đạo hy sinh. Ngày 13-12-1931, tù nhân làm lễ truy điệu các đồng chí hy sinh và gửi yêu sách sáu điểm cho nhà cầm quyền Pháp. Ngày 16-12-1931, địch tiếp tục ra tay đàn áp dã man làm tám người chết, tám đồng chí khác bị thương.
Trong cuộc đấu tranh tháng 12-1931, tổng cộng có 17 đồng chí hy sinh, hàng chục đồng chí khác bị thương. Cuộc đấu tranh gây chấn động, buộc toàn quyền Pháp Pátkiê và Khâm sứ Trung Kỳ Saten phải đến điều tra. Địch đã phải từ bỏ âm mưu đưa tù chính trị đi làm đường 14. Tuy nhiên, sau cuộc đấu tranh, 50 đồng chí đã bị địch tăng án tù.
Cuộc đấu tranh có tiếng vang lớn ở Kon Tum, Buôn Ma Thuột và lan ra toàn Đông Dương, thể hiện ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của những chiến sĩ cộng sản, góp phần giác ngộ cách mạng cho nhiều người trong hàng ngũ địch. Trước cuộc đấu tranh quyết liệt và bền bỉ của tù nhân, thực dân Pháp phải bỏ chế độ đưa tù nhân đi làm đường 14 và đến năm 1934 giải thể Nhà đày Kon Tum.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Kon Tum: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. I.
- Lê Văn Hiến: Ngục Kon Tum, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr. 56-69.
TRONG NĂM
Ban Bí thư Quốc tế Thanh niên Cộng sản gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Liên hiệp Thanh niên Cộng sản Trung Kỳ, Bắc Kỳ nêu rõ những vấn đề tổ chức và hành động của thanh niên Cộng sản Đông Dương
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tầng lớp thanh niên đã thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt. Thanh niên hăng hái tham gia các tổ chức quần chúng và các chi hội riêng của thanh niên Cộng sản.
Tuy nhiên, về tổ chức, đường lối và phương pháp đấu tranh, thanh niên Cộng sản Đông Dương còn nhiều khuyết điểm cần phải sửa chữa.
Vì thế, đầu năm 1931, Ban Bí thư Quốc tế Thanh niên Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương và Liên hiệp Thanh niên Cộng sản Bắc Kỳ và Trung Kỳ nêu rõ về vấn đề này.
Bức thư đề cập đến 11 nhiệm vụ mà Đảng Cộng sản Đông Dương và thanh niên Cộng sản Đông Dương phải thực hiện trong thời gian trước mắt.
1. Tổ chức hội nghị đại biểu các tổ chức Thanh niên Cộng sản toàn Đông Dương, bầu Ban Chấp hành Trung ương của thanh niên Cộng sản Đông Dương.
2. Ra sức phát triển số lượng đoàn viên thanh niên Cộng sản, thành lập các chi hội thanh niên trong các nhà máy, xí nghiệp, làng xã, trong học sinh, sinh viên, tăng cường vai trò xung kích của thanh niên Cộng sản trong hoạt động của các đoàn thể quần chúng.
3. Hướng cuộc đấu tranh của thanh niên vào chống chủ nghĩa đế quốc Pháp và giai cấp tư sản mại bản ở Đông Dương, đòi những yêu sách kinh tế theo Cương lĩnh của Quốc tế Thanh niên Cộng sản như tăng lương, việc làm, bảo hiểm xã hội...và những yêu sách riêng của ngành nghề, địa phương, nhà máy mình.
4. Chuẩn bị cán bộ, hệ thống giáo dục đào tạo cán bộ thanh niên cộng sản, tăng cường công tác bí mật để bảo vệ tổ chức.
5. Liên kết hoạt động với Công hội, thành lập các chi bộ thanh niên trong các Công hội, giúp đỡ Đảng, Công hội tổ chức và tham gia đấu tranh.
6. Không thành lập riêng tổ chức thanh niên Cộng sản trong giai cấp công nhân vìcó thể gây mất đoàn kết và phức tạp về tổ chức. Tuy nhiên, vai trò lãnh đạo thanh niên Cộng sản phải thuộc về thanh niên công nhân và có thể lập ra các tổ chức khác để thu hút thanh niên hoạt động như Hội thể thao, Hội đồng hương... và thanh niên Cộng sản lãnh đạo các tổ chức ấy.
7. Để Đảng có thể lãnh đạo chặt chẽ, trực tiếp Đoàn Thanh niên Cộng sản, đảng viên trẻ tuổi dưới 25 tuổi phải tham gia hoạt động trong tổ chức Đoàn.
8. Thanh niên Cộng sản có thể xây dựng các tổ chức vũ trang của mình như "Đội vệ binh thanh niên", “Đội tư vệ công nông”...và tăng cường vận động binh lính địch.
9. Thanh niên Cộng sản phải tăng cường công tác tuyên truyền cổ động, ra sách báo, truyền đơn, khẩu hiệu... nhất là nhân những ngày kỷ niệm lớn như 1-5, 1-8, 7-11 hằng năm.
10. Thanh niên Cộng sản phải tăng cường hoạt động trong học sinh, sinh viên vì hiện tại, các hoạt động đó rất yếu. Đoàn Thanh niên phải lập ra và lãnh đạo các tổ chức Thiếu nhi Cộng sản.
11. Quốc tế Thanh niên Cộng sản khẳng định Đoàn Thanh niên Cộng sản là trợ thủ đắc lực nhất của Đảng Cộng sản, có nhiệm vụ đấu tranh theo đường lối chủ trương của Đảng, do Đảng tổ chức và lãnh đạo. Mặt khác, thanh niên Cộng sản Đông Dương phải thiết lập quan hệ chặt chẽ với Quốc tế Thanh niên Cộng sản.
Tháng 3-1931, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai, Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản. Từ đó, tổ chức thanh niên không ngừng lớn mạnh, thực sự trở thành trợ thủ đắc lực của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr. 428.
CUỐI NĂM 1931
Thành lập Chi bộ Đảng và đẩy mạnh cuộc đấu tranh cách mạng trong Nhà tù Hoả Lò
Sau cao trào 1930-1931, nhiều chiến sĩ cộng sản và người yêu nước Việt Nam bị đế quốc Pháp bắt giam tại Nhà tù Hoả Lò, Hà Nội. Trong hai năm 1930-1931, địch đã bắt giam 126.161 người. Đầu năm 1931, tại Hoả Lò địch giam giữ 1800 tù nhân, trong đó có 1000 tù cộng sản, có các đồng chí Tống Văn Trân, Nguyễn Hới, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc Việt), Lương Khánh Thiện, Trịnh Đình Cửu, Khuất Duy Tiến, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), Lê Duẩn, Đặng Việt Châu ... Sau một thời gian vận động, khoảng cuối năm 1931, đầu năm 1932, Chi bộ Đảng ở Nhà tù Hoả Lò được thành lập do đồng chí Hạ Bá Cang làm Bí thư. Chi bộ được tổ chức và hoạt động rất bí mật. Chỉ có những đồng chí gia nhập Chi bộ rồi mới biết được Chi bộ và chỉ biết trong phạm vi tổ Đảng, Ban chi uỷ được chọn trong những đồng chí trung kiên, có quan điểm lập trường vững vàng. Chi bộ lãnh đạo thông qua các tổ chức quần chúng như Hội Lao tù Đoàn Thanh niên Cộng sản, Ban Trật tự, Ban Tranh đấu... Để giữ bí mật, tên của Chi bộ năm 1932 gọi là "Tổ chức bên trong”, năm 1933 gọi là C.H.M I., Chi bộ M.I. Năm 1933, Chi bộ có 20 đảng viên, chia làm ba bộ phận, Chi bộ ra báo Lao tù đỏ6, số 1, ra ngày 4-1-1932.
Trong thời kỳ 1930-1945, Nhà tù Hoả Lò còn có nhiều tổ chức quần chúng hoạt động dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng:
Hội Lao tù thành lập khoảng tháng 8-1932 với nhiệm vụ đoàn kết giúp đỡ nhau lúc ốm đau khi tự vệ chống sự đàn áp của kẻ thù, chăm lo nâng cao đời sống tinh thần của tù nhân. Mọi tù nhân không phân biệt đảng phái, giai cấp, dân tộc, tuổi tác, tù chính trị hay tù thường nếu tán thành Điều lệ Hội đều được gia nhập. Đến cuối 1933, Hội Lao tù có 107 hội viên/441 tù nhân.
Đoàn Thanh niên Cộng sản được tổ chức với nhiều tổ nhóm hoạt động nhưng không liên tục vì số tù nhân thanh niên không ổn định, tù nhân phải thuyên chuyển luôn. Phụ nữ liên hiệp Hội của tù nhân nữ hoạt động đến năm 1933, bảo vệ tù nhân nữ trước chế độ nhà tù hà khắc. Ngoài ra, còn có nhiều ban, hội, đội như Ban sinh hoạt, Ban cứu tế, Đội hồng thập tự, Ban ngoại giao, Hội giặt quần áo, Hội cai nghiện, Ban văn nghệ...
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng và các tổ chức quần chúng, tù nhân Hoả Lò nhất là tù cộng sản luôn nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường bất khuất.
- Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại Nhà tù Hoả Lò (1899-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 67-80.
NĂM 1931-1932
Báo chí cách mạng phát triển mạnh trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp và tay sai
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã rất chú ý tới công tác báo chí để tuyên truyền phổ biến mục đích, đường lối của Đảng và động viên nhân dân đấu tranh cách mạng. Trong cao trào cách mạng 1930-1931, báo chí cách mạng từ cấp Trung ương xuống các địa phương đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh.
Bước sang năm 1931, kẻ thù khủng bố gắt gao, sau Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (3- 1931), cơ quan Đảng bị lộ, các đồng chí Uỷ viên Trung ương sa vào tay giặc. Tháng 4-1931, đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú bị bắt, báo Cờ vô sản và Tạp chí Cộng sảnngừng xuất bản.
Trong năm 1931, do địch khủng bố dữ dội, các báo cấp xứ cũng phải ngừng xuất bản (Tờ Cờ đỏ của Xứ uỷ Nam Kỳ, tờ Tiến lên của Xứ uỷ Bắc Kỳ, tờ Công nông binh của Xứ uỷ Trung Kỳ).
Báo chí các tỉnh phát triển mạnh ở miền Nam: Sài Gòn có báo Thợ thuyền, Chợ Lớn có báo Nhà quê, Bến Tre có báo Tranh đất... ở Bắc Kỳ: Hà Nam có tờ Đỏ, Nam Định - Ninh Bình có tờ Hưởng ứng (sau đổi là Dân quê), Trung Kỳ: Thanh Hoá có tờ Hồn Lao động.
Báo chí của các huyện uỷ xuất hiện nhiều nhất ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Nghi Lộc có tờ Chỉ trích, Đức Thọ có tờ Cổ động, Anh Sơn có tờGương vô sản ...
Nhiều ngành nghề, giới cũng có báo của riêng mình như công nhân thổ mộ Sài Gòn có tờ Thổ mộ, công nhân xi măng Hải Phòng có tờ Ximoong.
Trong các nhà tù: Hoả Lò có báo Con đường chính, Lao tù tạp chí, Đuốc đưa đường. Côn Đảo có tờ Người tù đỏ, Hòn Gai, Tạp chí Ý kiến chung.
Báo chí cách mạng Việt Nam tập trung tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, phê phán chủ nghĩa quốc gia cải lương của Bùi Quang Chiêu. chủ nghĩa quốc gia bài ngoại của Việt Nam Quốc dân Đảng, những tư tưởng sai lầm trong Đảng như tả khuynh, hữu khuynh, cổ động trực tiếp cho phong trào cách mạng, xây dựng Đảng và các đoàn thể quần chúng...
Sự phát triển của báo chí cách mạng Việt Nam những năm 1931-1932 thực sự góp phần to lớn vào sự phát triển phong trào cách mạng cũng như tiếng vang của nó trên thế giới.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam 1925-1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 83-130.
NĂM 1931-1932
Sự ra đời và chuyển hóa của "Đảng Vừng hồng”
Sau khi bị chính quyền Quốc dân Đảng khủng bố (cuối năm 1928), Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Thanh niên chuyển cơ quan huấn luyện sang Xiêm. Hoàng Thế Thiện, hội viên thanh niên ở Anh Sơn được đưa sang Xiêm dự huấn luyện, sau đó trở về tổ chức ra nhóm Thanh niên vào đầu năm 1929. Vì không được tổ chức Thanh niên ở Nghệ An chấp nhận và mất liên lạc với Đảng bộ ở Xiêm nên nhóm này hoạt động độc lập. Năm 1930, họ xuất bản báo Vừng hồng, tuyên truyền quan điểm "tam vô nhị các" và phê phán, đả kích phương pháp đấu tranh trong cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh do Đảng bộ Đảng Cộng sản địa phương lãnh đạo. Họ còn kêu gọi quần chúng chống lại phong trào đang phát triển mạnh mẽ ở khắp nơi. Khi báo Vừng hồng xuất hiện (đầu năm 1931), Tỉnh uỷ Nghệ An cử phái viên đi điều tra. Căn cứ vào báo cáo của phái viên, Tỉnh uỷ phát truyền đơn vạch rõ Đảng Vừng hồng là tổ chức phản động do bọn mật thám lập ra (Vừng hồng là tên tờ báo của nhóm thanh niên Hoàng Thế Thiện). Từ đó, tổ chức Vừng hồng bị đảng bộ địa phương lên án, tẩy chay, đả kích mạnh.
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, Hoàng Thế Thiện và một số phần tử tiêu cực bị đào thải. Một số hội viên tích cực của nhóm sang Xiêm bắt liên lạc được với Đông Dương Viện trợ Bộ. Họ được Đông Dương Viện trợ Bộ chấp nhận và giao nhiệm vụ trở về nước hoạt động theo chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Dông Dương tại Ma Cao xác nhận tổ chức Vừng hồng đã tan rã và đa số hội viên đã chuyển sang Đảng Cộng sản hay chịu ảnh hưởng của Đảng Cộng sản.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 502.
NĂM 1931-1934
Đảng Cộng sản Đông Dương phát triển cơ sở Đảng, lãnh đạo phong trào cách mạng ở Campuchia
Cuối năm 1930, đầu năm 1931, một số đảng viên ở Thái Lan về Campuchia hoạt động, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản trong Việt kiều và các tầng lớp nhân dân lao động Campuchia. Một chi bộ cộng sản được thành lập tại Phnôm Pênh do đồng chí Nguyễn Tự Thuật làm Bí thư.
Cuối năm 1931, đầu năm 1932, Đặc uỷ Hậu Giang có cán bộ sang Campuchia hoạt động, xây dựng cơ sở tổ chức lại các chi bộ. Sau một thời gian đã phát triển thành 5 chi bộ, 1 ở Phnôm Pênh, 4 ở Căngđan và nhiều cơ sở cách mạng ở các tỉnh Crachê, Kôngpôngchàm. Số đảng viên lên tới 30 đồng chí và cơ sở cách mạng có đến hàng trăm người. Do yêu cầu của cách mạng, năm 1934, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập Ban Cán sự Đảng ở Campuchia do đồng chí Bùi Dự làm Bí thư. Ban Cán sự ra báo Cờ đỏ làm cơ quan tuyên truyền.
Trong thời kỳ này ở Campuchia có cuộc vận động đấu tranh của Acha Miết và Acha Pơrinh chống đàn áp, bóc lột, chống thuế. Những đảng viên cộng sản và quần chúng cách mạng đã tham gia đồng tình ủng hộ, lãnh đạo phong trào tạo nên một làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Campuchia.
Như vậy, trên bán đảo Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chú ý xây dựng và phát triển tổ chức, lực lượng một cách đều khắp để đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương đấu tranh chống kẻ thù chung.
- Quá trình hình thành Đảng nhân dân cách mạng Campuchia, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Uỷ ban khoa học xã Việt Nam: Tìm hiểu đất nước Campuchia anh hùng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, tr. 68-69.
___________
1.Các Lépnéch (1871-1919): Nhà hoạt động xuất sắc của phong trào công nhân Đức và quốc tế, chiến sĩ đấu tranh tích cực chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh đế quốc. Ông là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Đức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của công nhân năm 1919, bị kẻ thù giết hại trong nhà tù.
- Rođa Luýchxămbua (1871-1919): Nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào công nhân Ba Lan, Đức và quốc tế, một trong những thủ lĩnh cánh tả của Quốc tế thứ hai, là một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Đức. Tháng 1-1919, bà bị bắt và bị bọn phản cách mạng sát hại.
2. Ngày nay đã xác định lại là ngày 4-3-1919.
3. Tức là làm trong sạch Nông hội đỏ.
4. Đến nay chưa rõ người soạn thảo văn kiện này vì đến đầu tháng 5-1931 không còn Ban Chấp hành Trung ương. Các đồng chí ủy viên Trung ương, người bị bắt, người hy sinh.
5. Nguyễn Đức Cảnh: sinh ngày 2-2-1908 tại làng Diêm Điền, Thụy Hà, Thái Thụy, Thái Nình. Hoạt động từ năm 1926 trong nhóm Nam Đồng Thư xã. Tham gia Tỉnh bộ Thanh niên Hải Phòng. Năm 1928 được cử vào Kỳ Bộ Bắc Kỳ của Thanh niên, trực tiếp phụ trách Hải Phòng, Kiến An, khu mỏ Hòn Gai. Lăn lộn xây dựng cơ sở cách mạng trong công nhân và lãnh đạo phong trào công nhân. Tháng 3-1929, tham gia sáng lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên trong nước (5D Hàm Long). Tham gia sáng lập Tổng Công hội Bắc Kỳ. Dự Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930. Bị bắt vào cuối tháng 4-1931 tại một địa điểm gần thành phố Vinh và bị kết án tử hình.
Hồ Ngọc Lân, quê ở thị xã Bắc Ninh, ra Hà Nội là thợ giầy cho hiệu Bảo Long ở phố Hàng Đào. Năm 1928, gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929 vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Là một đồng chí trung thành, hăng hái nhưng ưa hoạt động mạo hiểm. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Bắc Ninh, Hải Phòng. Bị bắt đêm 7-11-1929 khi đang rải truyền đơn ở Hải Phòng nhân kỷ niệm 12 năm Cách mạng Tháng Mười. Bị thực dân Pháp kết án tử hình.
6. Sau đổi là Lao tù tạp chí.
Năm 1932 ĐẦU NĂM
Thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo
Côn Đảo là nơi thực dân Pháp đầy ải, giam giữ những tù nhân mà chúng cho là đặc biệt nguy hiểm. Được xây dựng từ năm 1862, đến những năm 1930, Côn Đảo trở thành địa ngực trần gian giam giữ hàng nghìn tù nhân. Vào những năm 1930-1931, tại Côn Đảo có khoảng 2000 tù nhân trong đó đa số là tù chính trị. Sau cao trào cách mạng 1930-1931, tù chính trị cộng sản bị đày ra Côn Đảo ngày càng tăng.
Đầu năm 1932, đồng chí Nguyễn Hới cùng các đảng viên cộng sản khác ở Nhà tù Côn Đảo đã lập ra Chi bộ Đảng đầu tiên. Lúc đầu, Chi bộ gồm khoảng 20 đồng chí: Nguyễn Hới, Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiểu, Tô Hiệu, Trần Văn Sửu, Tạ Uyên, Tống Văn Trân... Đồng chí Nguyễn Hới được bầu làm Bí thư Chi bộ. Chi uỷ có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiểu, Tạ Uyên, Tống Văn Trân, sau đó bổ sung các đồng chí Phan Đình Khác (Lê Đức Thọ) Trần Tử Bình... Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu là: lãnh đạo đấu tranh trong tù, giáo dục bồi dưỡng lý luận cho nhau, tuyên truyền giác ngộ binh lính, giám thị, liên hệ với tổ chức Đảng ở đất liền và tổ chức trốn khỏi tù Côn Đảo.
Sau một thời gian ngắn từ Khám Chỉ Tồn (Banh I), cơ sở Đảng lan ra các nơi khác trong hệ thống Nhà tù Côn Đảo như Khám 1, Khám 2,3,4, Nhà Đèn, An Hải, An Hội, Bến Đầm, Đá Trắng, Cỏ Ống, Sở Muối.
Từ năm 1932 trở đi, Chi bộ Đảng ở Nhà tù Côn Đảo đã tổ chức đấu tranh với nhiều hình thức chống chế độ nhà tù hà khắc, chống những tư tưởng phi vô sản, tuyên truyền nâng cao khí tiết cộng sản... thực sự biến nhà tù đế quốc thành trường học rèn luyện những chiến sĩ cộng sản. Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935), Chi bộ Cộng sản ở Côn Đảo được công nhận là chi bộ đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Nam Kỳ.
- Chúng tôi ở Côn Đảo, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ - Ban liên lạc cựu tù chính trị Côn Đảo tỉnh Nam Định xuất bản, 1998, tr. 38-40.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Nhà tù Côn Đảo (1862-1975) (Tái bản có bổ sung), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 103-107, 159.
THÁNG 2
Củng cố và phát triển các cơ sở Nông hội ở Thanh Hoá
Tháng 2-1932, tại làng Yên Lộ (Thiệu Hoá, Thanh Hoá) diễn ra Hội nghị đại biểu 7 cơ sở cách mạng trong tỉnh bàn về việc phát triển, củng cố cơ sở Đảng và tổ chức Nông hội để tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Hội nghị đề ra chủ trương tiếp tục phát triển các cơ sở Nông hội, lấy tổ chức đó làm nòng cốt để tập hợp đông đảo quần chúng nông dân tham gia các Hội đánh tranh, Hội lợp nhà, Hội hộ sản... Thông qua hoạt động của các tổ chức này, quần chúng đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, giải quyết những khó khăn trong đời sống. Đồng thời, tổ chức quần chúng đấu tranh chống phù thu lạm bổ chống những hủ tục ở làng, tổng...
Thi hành chủ trương đó, ở Thanh Hoá, các đồng chí đảng viên đã tích cực tuyên truyền vận động, tổ chức quần chúng vào Nông hội đỏ và các tổ chức biến tướng khác.
Nhờ hoạt động tích cực, đến giữa năm 1932, các tổ chức Nông hội ở nhiều nơi trong tỉnh được củng cố. Ở một số địa phương bắt đầu xuất hiện các cuộc đấu tranh đòi cải lương hương tục của nông dân.
Ở Thiệu Hoá, Nông hội đỏ phát triển ở Thuần Hậu, Phong Cốc, Ngô Xá Long Linh, Xá Lê - Căng Hạ, Bình Ngô, Yên Lộ.
Thọ Xuân có các cơ sở ở Vực Trung, Lễ Nghĩa, Phúc Bồi.
Yên Định có các cơ sở ở Phúc Tỉnh, Ngọc Vực, Phù Hưng.
Vĩnh Lộc có các cơ sở ở Yên Tôn Hạ, Cẩm Bào, Xuân Áng.
Tháng 8-1932, các đồng chí Lê Chủ, Hoàng Văn Mạch... triệu tập Hội nghị đại biểu các cơ sở cách mạng tại làng Ngọc Vực, huyện Yên Định bàn biện pháp tiếp tục phát triển tổ chức Đảng và Nông hội, lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân.
- Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá 1925-1945, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thanh Hoá xuất bản, 1978.
- Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Thanh Hoá 1930-1992,Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, tr. 29-30.
NGÀY 27-2
Quốc tế Cộng sản gửi thư đề nghị Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ giúp đỡ cách mạng Đông Dương
Ngày 27-2-1932, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản gửi Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Ấn Độ bức thư đề nghị các Đảng giúp đỡ cách mạng Đông Dương trên những phương diện sau:
1. Ban Chấp hành Trung ương các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ phải tìm cách truyền đạt cho những người cộng sản Đông Dương hiểu rõ rằng Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ dự bị của mình sau khi nhận thấy Đảng Cộng sản Đông Dương thực sự trở thành đội tiên phong của giai cấp vô sản, đi theo đường lối của Quốc tế Cộng sản, trực tiếp lãnh đạo công nhân, nông dân và nhân dân lao động Đông Dương kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và giai cấp địa chủ. Đó là biểu hiện của một Đảng Bônsơvích, tuy còn nhiều thiếu sót, nhưng phong trào cách mạng mạnh mẽ ở Đông Dương đã góp phần mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở các nước thuộc địa, nhất là ở các nước phương Đông.
2. Ban Chấp hành Trung ương các Đảng Cộng sản nói trên phải tìm mọi cách giúp đỡ những người cộng sản Đông Dương, nhất là trong lúc đế quốc Pháp và bọn phản cách mạng bản xứ đang ra sức đàn áp phong trào cách mạng nhằm phá vỡ tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương của Đảng Cộng sản Đông Dương.
3. Các Đảng Cộng sản nói trên phải huy động lực lượng cách mạng và tiến bộ ở nước mình đấu tranh ủng hộ phong trào cộng sản Đông Dương trên mọi phương diện như chống bắt bớ, sát hại nhưng người cộng sản và người yêu nước, vạch trần bản chất tàn bạo của đế quốc Pháp và tay sai phản động, cổ vũ tinh thần cách mạng anh dũng của nhân dân Đông Dương.
4. Về phần mình, những người cộng sản Đông Dương phải đem ý chí Bônsơvích, phấn đấu tiến lên chống tả khuynh, hữu khuynh, bi quan “phải đứng mũi vượt cơn phong ba bão táp do đế quốc và bọn phản động gây ra, kiên trì xây dựng và củng cố phong trào cộng sản ở xứ Đông Dương”.
Đồng thời Đảng Cộng sản Đông Dương dùng những người cộng sản Mã Lai giúp đỡ những người cộng sản xứ Xiêm tổ chức một Đảng Cộng sản chân chính đi đúng đường lối của Quốc tế Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 251-253.
TỪ NGÀY 12 ĐẾN NGÀY 20-3
Công nhân làm đường xe lửa ở miền Trung liên tục đấu tranh đòi tăng lương và trả lương đầy đủ
Năm 1932, khi tiến hành xây dựng tuyến đường sắt ở miền Trung, đoạn Đà Nẵng - Nha Trang, tư bản Pháp tuyển mộ nhiều công nhân với đồng lương rẻ mạt, và chúng lại không trả lương đầy đủ như giao kèo.
Vì vậy ngày 12-3-1932, 4500 công nhân làm đường xe lửa đoạn Đức Phổ - đèo Bình Đê bãi công, biểu tình vây xe ô tô của chủ thầu đòi tăng tiền công và trả lương đầy đủ, đúng hạn, giảm giờ làm.
Cũng trong ngày 12-3, công nhân làm đường xe lửa đoạn từ Phú Vang đến Bình Sơn cũng bãi công đòi trả lương đầy đủ.
Ngày 20-3, công nhân làm đường từ Quán Hành đến Huế bãi công ba ngày chống bớt lương.
Những cuộc đấu tranh liên tiếp của công nhân buộc giới chủ phải nhượng bộ, nhận giải quyết những yêu cầu của công nhân. Nhưng trên thực tế giới chủ vẫn cố tình dây dưa trong việc trả lương khiến cho các cuộc đấu tranh của công nhân kéo dài sang năm 1933.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đức Phổ: Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Phổ (1930- 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
NGÀY 18 - 3
Tù chính trị Nhà đày Buôn Ma Thuột đấu tranh chống chế độ lao tù
Nhà đày Buôn Ma Thuột do đế quốc Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930-1931, dùng để giam giữ đầy ải những phạm nhân mà chúng cho là nguy hiểm nhất. Sau cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ - Tĩnh, tù chính trị - đa số là tù cộng sản bị đày lên Buôn Ma Thuột ngày càng nhiều. Tử năm 1930 đến tháng 5-1935, riêng tù cộng sản bị đày lên Buôn Ma Thuột là 399 người.
Ăn khổ, mặc thiếu, chỗ ở tạm bợ, mất vệ sinh, khí hậu khắc nghiệt, lao dịch nặng nề... làm số tù nhân bị chết hàng năm lên tới 25%. Trong 2 năm 1931-1932, có hơn 100 tù nhân bị chết. Trong hoàn cảnh tù đày như thế, tù nhân Nhà đày Buôn Ma Thuột chỉ còn con đường đoàn kết tổ chức đấu tranh giành quyền sống, giữ vững khí tiết cách mạng, chống chế độ lao tù khắc nghiệt.
Bắt đầu là những cuộc đấu tranh lẻ tẻ chống chế độ ăn uống cực khổ và chống đánh đập tàn nhẫn, hò la phản đối, dần dần phong trào đấu tranh tiến lên những hình thức cao hơn.
Ngày 18-3-1932, một cuộc đấu tranh lớn, phản đối lính đánh đập tàn nhẫn và chống chế độ ăn uống tồi tệ nổ ra trên công trường làm đường chiến lược ở cây số 33. Tối hôm trước, một số tù nhân liên lạc với nhau bàn nhân kỷ niệm Công xã Pari (1871) để tổ chức đấu tranh và đưa ra ba yêu sách: không được đánh đập, phạt tù; phải cho ăn uống khá hơn, sạch sẽ hơn, mỗi tuần phải có một bữa thịt; phải có thuốc chữa bệnh, tắm rửa phải có xà phòng.
Khi tù nhân đưa yêu sách, bọn cai tù liền đánh tù nhân và bắt những người đưa yêu sách. Toàn thể tù nhân tuyệt thực để phản đối. Địch bắt những tù nhân chính, nghi là chủ mưu về giam ở nhà lao thị xã. Tù nhân trên công trường tiếp tục tuyệt thực, đình công phản đối. Sau ba ngày, các yêu sách của tù nhân được giải quyết nhưng địch vẫn giam những người đứng đầu cuộc đấu tranh ở nhà lao tỉnh, ba tháng sau mới trả về nhà đày.
Cuộc đấu tranh thắng lợi đã cổ vũ tù nhân tiến lên đấu tranh mạnh hơn, đi vào tổ chức đoàn kết đấu tranh. Tháng 10-1932, "Hội tương trợ" nhà đày được thành lập. Từ đó, phong trào đấu tranh của tù nhân tiến lên một bước mới có tổ chức với nhiều hình thức đấu tranh phong phú như: vận động binh lính Thượng, chống chia rẽ Kinh - Thượng, hò la phản đối khi bị đánh đập, giữ vệ sinh, trật tự, kể chuyện chính trị để giáo dục lòng trung thành với cách mạng.
Cuộc đấu tranh của tù nhân Nhà đày Buôn Ma Thuột hoà chung vào phong trào đấu tranh cách mạng trong nhà tù đế quốc thể hiện tinh thần anh dũng, bất khuất trước kẻ thù của những người cộng sản.
- Tỉnh uỷ Đắc Lắc - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột (1930 - 1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
NGÀY 18 - 4
Nông dân Hóc Môn biểu tình chống thuế và chống khủng bố trắng
Ngày 18-4-1932 ở Hóc Môn (Gia Định) nổ ra ba cuộc biểu tình của hơn 1.400 nông dân, giương cao khẩu hiệu chống thuế và chống khủng bố trắng. Chủ tỉnh Gia Định đưa lính đến đàn áp, bắn chết 4 người, bị thương 3 người và bắt hơn 40 người khác.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1
NGÀY 21 - 4
Nữ công nhân Hoa kiều bãi công và biểu tình phản đối chủ hạ tiền công
Ngày 21-4-1932. tại Sài Gòn - Chợ Lớn nổ ra đồng loạt nhiều cuộc đấu tranh của công nhân thuộc nhiều ngành nghề như công nhân Nhà in Ácđanh (Ardin), Téxtalanh (Teslalin), Opiniông (Opinion), Công Luận, lò sát sinh Chợ Lớn, xe kéo Gia Định...
Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của 500 nữ công nhân Hoa kiều, làm việc tại 13 xưởng dệt khăn ở Chợ Lớn, đồng loạt bãi công phản đối chủ hạ tiền công. Nguyên nhân cuộc đấu tranh là do giới chủ lợi dụng tình hình khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp gia tăng, hạ tiền công của công nhân mỗi chiếc khăn từ 5 xu xuống còn 2 xu. Vì vậy, chị em công nhân đã đồng loạt đấu tranh.
Thoạt đầu giới chủ chấp nhận yêu sách của công nhân, sau đó lại thôi. Do thái độ lật lọng đó, cuộc bãi công chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành trên đường phố. Chị em hô khẩu hiệu đòi tăng tiền công, phản đối sự bóc lột của giới chủ. Thanh tra lao động phải tới dàn xếp.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1995, t.1.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930-1935), Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, tr. 165.
THÁNG 4
Trung ương lâm thời Chấp ủy Đảng Cộng sản Đông Dương1 gửi thư cho các đồng chí trong Đảng Cộng sản Pháp
Bức thư nêu rõ những khó khăn mà Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng đang gặp phải trước sự đàn áp khốc liệt của đế quốc Pháp. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương xuống địa phương bị phá vỡ, những đồng chí lãnh đạo ưu tú của Đảng bị bắt, cách mạng Đông Dương đang ở thế thoái trào.
Điểm lại lịch sử đấu tranh của nhân dân Đông Dương hai năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân Đông Dương đã làm nên cao trào cách mạng 1930-1931 rung chuyển chế độ cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương. Với những khẩu hiệu cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tập hợp đông đảo quần chúng nông dân và công nhân đấu tranh vô cùng mạnh mẽ. Tiêu biểu là những cuộc biểu tình của nông dân Tây Nam Kỳ, Bắc Trung Kỳ như là những cuộc đấu tranh ở Chợ Mới, Tân Dương, Cao Lãnh, Nghệ An, Hà Tĩnh và những cuộc đấu tranh của công nhân Vinh, Bến Thuỷ, Hòn Gai, Nhà Bè. Tuy nhiên, trước sự đàn áp tàn bạo và những thủ đoạn lừa bịp xảo quyệt của đế quốc Pháp, trong khi đó, Đảng mới ra đời, còn thiếu kinh nghiệm lãnh đạo tổ chức đấu tranh... nên phong trào cách mạng dần dần đi xuống.
Tuy đang ở trong thời kỳ thoái trào, nhưng Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn khẳng định mình được "sinh ra trong những điều kiện khách quan thuận lợi nhất cho hoạt động và sự phát triển của một đảng cách mạng của giai cấp vô sản". Đó là một tất yếu lịch sử. Chính sự áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc Pháp tạo ra sức sống mãnh liệt cho Đảng và phong trào cách mạng quần chúng. Với những đặc điểm của mình, giai cấp công nhân Việt Nam trở thành người lãnh đạo duy nhất có thể dẫn dắt quần chúng bị áp bức tới thắng lợi. Liên minh giai cấp công nhân và nông dân là nền tảng của chuyên chính vô sản và chỉ có chuyên chính vô sản mới đem lại thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc, bao gồm cả cách mạng ruộng đất.
Qua hai năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng tự thấy những khuyết điểm là tổ chức chưa chặt chẽ, giai cấp công nhân chưa thực sự nắm quyền lãnh đạo, còn nhiều tư tưởng sai lầm trong Đảng, phong trào đấu tranh còn tự phát... Từ sự nghiêm khắc đó, Đảng chỉ ra phương hướng khắc phục là tự phê bình và phê bình để xây dựng một đường lối cách mạng đúng đắn, chỉnh đốn Đảng về tổ chức, củng cố vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân; phát triển và củng cố các tổ chức quần chúng, thanh lọc những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng... Chỉ có như vậy, Đảng mới phát triển và lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh không cân sức với kẻ thù.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 32 - 37.
THÁNG 5
Công nhân đồn điền ở Hà Tiên đấu tranh đòi việc làm
Tháng 5-1932, ở Hà Tiên nổ ra cuộc đấu tranh lớn của 2000 công nhân Đồn điền Cây Dừa (Phú Quốc). Đây là những người nông dân do tư sản Pháp và linh mục mộ từ miền Bắc vào làm phu đồn điền. Khi bị phá sản, chủ đồn điền phải bán đồn điền lại cho Quận trưởng Phú Quốc. Nhưng chủ mới không chịu thuê lại số công nhân cũ, buộc họ phải đi làm thuê cho viên cố đạo Mécđơrinhắc (Merdrignac) và bị bóc lột nặng nề hơn. Trước tình cảnh thiếu đói, thiếu việc làm, công nhân đã biểu tình, đi bộ từ Hà Tiên về Sài Gòn, đòi nhà cầm quyền Pháp phải cấp gạo cứu đói và đòi tiền về quê cũ. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của công nhân, thực dân Pháp phải chấp nhận yêu sách của công nhân, giải quyết công ăn, việc làm cho họ.
Cuộc đấu tranh của 2000 công nhân đồn điền ở Hà Tiên giành được thắng lợi, có tiếng vang rất lớn trong các vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá... Nó có ý nghĩa lớn trong việc duy trì, khôi phục phong trào đấu tranh cách mạng đang trong thời kỳ khó khăn; vạch trần bản chất vô nhân đạo của chính quyền thực dân và cổ vũ tinh thần đấu tranh chống Pháp của nhân dân.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Kiên Giang (1930-1945), sơ thảo, 1985.
NGÀY 1-6
Đảng Cộng sản Đông Dương ban hành Chương trình hành động
Từ giữa năm 1931 đến giữa năm 1932, trước chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp và tay sai, hệ thống tổ chức Đảng chịu những thiệt hại nghiêm trọng, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Tuy nhiên Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn không ngừng lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
Với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, một số đảng viên hoạt động trong và ngoài nước đã soạn thảo Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương2. Văn kiện đã được thảo luận kỹ và được Uỷ ban chính trị thuộc Ban Bí thư Chính trị của Ban Chấp ủy Quốc tế Cộng sản thông qua ngày 15-6-1932.
Chương trình hành động nêu lên chính sách hai mặt phản động và xảo quyệt của đế quốc Pháp là nguồn gốc của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Đông Dương từ hai năm qua; phân tích tình hình các đảng phái chính trị ở Đông Dương, chỉ rõ tính chất thoả hiệp, phản động và hạn chế của các đảng phái "quốc gia cải lương", “quốc gia cách mạng", các đảng phái tiểu tư sản đang nảy sinh mạnh mẽ.Chương trình hành động cũng đánh giá những hạn chế, thiếu sót trong sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong hai năm qua và khẳng định: Đảng Cộng sản Đông Dương là lực lượng duy nhất trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông Dương, có khả năng lãnh đạo thành công cách mạng ở Đông Dương. Tạm thời, Đảng Cộng sản đang bị đàn áp dữ dội, cách mạng đang ở thế thoái trào, nhưng tương lai thắng lợi nhất định sẽ thuộc về Đảng Cộng sản. Được sự giúp đỡ của giai cấp vô sản trên thế giới, “công nông Đông Dương dưới quyền chỉ đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thi hành cho được những nhiệm vụ sau này của cách mạng phản đế và điền địa, rồi sẽ cùng nhau giỏi bước tiến lên để đạt xã hội chủ nghĩa".
Chương trình hành động đề ra những nhiệm vụ về tổ chức và lãnh đạo đấu tranh cách mạng. Đảng Cộng sản Đông Dương phải được xây dựng "bí mật có kỷ luật nghiêm nhất, cứng như sắt, vững như đồng". Ra sức củng cố và phát triển Công hội đỏ, Nông hội đỏ, các Đội tự vệ công nông... Phương pháp hoạt động của Đảng và các đoàn thể quần chúng là bí mật, kết hợp bí mật với công khai, hợp pháp với không hợp pháp... để tuyên truyền đường lối, phát triển tổ chức. Trong đấu tranh, cần kết hợp giữa các mục tiêu hằng ngày với các mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng dân chủ tư sản.
Chương trình hành động đề ra bốn yêu cầu chung:
1. Đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động như tự do tổ chức, hội họp, ngôn luận, đi lại...
2. Thả hết tù chính trị, rút bỏ các đồn bốt, bãi bỏ các toà án binh, hội đồng đề hình, bỏ các bộ luật riêng cho người bản xứ.
3. Bỏ các loại thuế thân, thuế ngụ cư, thuế phụ và các khoản thuế khác. Đặt ra thuế luỹ tiến, người giàu phải nộp, người nghèo được miễn.
4. Bỏ độc quyền muối, rượu, thuốc phiện.
Chương trình hành động đề ra nhưng yêu sách kinh tế chính trị và xã hội cho các giai cấp, tầng lớp nhân dân Đông Dương. Đó là yêu sách của công nhân công nghiệp và nông nghiệp, nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, dân nghèo thành thị, binh lính, thuỷ thủ, phụ nữ, thanh niên và các dân tộc ít người. Hiểu rõ nguyện vọng của quần chúng nhân dân, các yêu sách đó sẽ cổ vũ các giai cấp, tầng lớp đứng lên đấu tranh mạnh mẽ rộng rãi chống đế quốc và phong kiến. Con đường đấu tranh mà Chương trình hành động đề ra là gắn liền cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc, gắn cuộc đấu tranh đòi các quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội, những mục tiêu trước mắt và lâu dài.
Trong quá trình đấu tranh luôn chú ý chuẩn bị lực lượng mọi mặt tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Trong tình hình cách mạng đang gặp nhiều khó khăn, Chương trình hành động chứng tỏ sức sống mãnh liệt của Đảng Cộng sản Đông Dương, vượt qua mọi sự đàn áp của kẻ thù, lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn và kịp thời phong trào đấu tranh cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 1-29, 307.
THÁNG 6
Nông dân nhiều tỉnh Nam Trung Bộ biểu tình đòi chính quyền thực dân trợ cấp cứu đói
Trong những năm 1930-1931, chính sách áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc Pháp cùng với thiên tai liên miên làm cho đời sống nông dân một số tỉnh Nam Trung Bộ như Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận vô cùng khó khăn. Nạn đói lan tràn khắp nông thôn. Trong tháng 6-1932, hàng ngàn nông dân phá sản tổ chức những cuộc tuần hành biểu tình đòi nhà cầm quyền thực dân trợ cấp thóc gạo để chống đói.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930 – 1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 106.
NGÀY 17 - 7
Đảng Cộng sản Pháp gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương về kế hoạch công bố bản Chương trình hành động
Sau khi Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương được Quốc tế Cộng sản thông qua ngày 15-6- 1932, Quốc tế Cộng sản yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương công bố Chương trình hành động đó.
Ngày 17-7-1932, Đảng Cộng sản Pháp gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương nói về kế hoạch công bố bản Chương trình hành động trên báo chí ở Pháp. Theo đó, Đảng Cộng sản Pháp sẽ viết một lời giới thiệu cho bản Chương trình hành động và chia nhỏ các phần cụ thể của bản Chương trình hành động đăng tải trên từng loại báo của các giai cấp tầng lớp khác nhau cho hợp lý. Phần yêu sách tổng quát, yêu sách của nam, nữ công nhân và cu li đưa vào tờ “V.O" (Tiếng nói công nhân), phần III "Yêu sách của nông dân nam và nữ" đưa vào tờTiếng nói nông dân... Riêng tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Pháp sẽ trích đăng phần I, phần quan trọng nhất của bản Chương trình hành động nói về những nhiệm vụ căn bản của cách mạng Đông Dương.
Trong một bức thư khác của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, đề ngày 17-7-1932, Đảng Cộng sản Pháp nhiệt liệt chào mừng Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương và nêu rõ văn kiện sẽ giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển của cách mạng Đông Dương. Nó chứng tỏ sự trưởng thành nhanh chóng về chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương một Đảng vừa mới ra đời, còn rất non trẻ. Nó cũng chứng tỏ, Đảng Cộng sản Đông Dương đã vượt qua sự khủng bố tàn bạo của đế quốc Pháp, tồn tại, lớn mạnh. Với Chương trình hành động của mình, Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ kêu gọi tập hợp hàng triệu người bị áp bức ở Đông Dương đi theo đường lối cách mạng của mình và đưa họ tới bến bờ tự do, độc lập.
Đảng Cộng sản Pháp kêu gọi toàn thể đảng viên và nhân dân tiến bộ Pháp chú ý tăng cường liên minh chiến đấu với nhân dân Đông Dương chống kẻ thù chung của giai cấp vô sản và những người tiến bộ Pháp là chủ nghĩa đế quốc Pháp đang phạm những tội ác ghê tởm ở các xứ thuộc địa và đang áp bức bóc lột chính nhân dân Pháp.
Đảng Cộng sản Pháp ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng của những người cộng sản ở Đông Dương coi đó là tấm gương cho giai cấp vô sản Pháp noi theo, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp ở thuộc địa cũng như ngay chính tại đất nước mình.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 309-310.
THÁNG 10
Công nhân Nhà in Textalanh đấu tranh đòi tăng lương thắng lợi
Tên tư bản Pháp Textalanh (Testalin), chủ Nhà in Môđécnơ (Moderne) viện cớ khủng hoảng kinh tế, nhà in gặp khó khăn để hạ tiền lương của công nhân.
Ngay từ tháng 4-1932, công nhân nhà in đã đấu tranh chống bớt lương. Đến tháng 10-1932, toàn thể công nhân lại tiếp tục bãi công phản đối hạ tiền lương và đòi giải quyết một số yêu sách khác.
Cuộc đấu tranh lần này kéo dài bốn đợt liên tục trong ba tháng cuối năm 1932 mới giành được thắng lợi, đảm bảo tiền lương, việc làm và cải thiện chế độ làm việc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930- 1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
NGÀY 20-11
Công hội giai cấp Đông Dương công bố Cương lĩnh
Trong quá trình đấu tranh đòi những quyền lợi của mình, giai cấp công nhân đã lập ra các tổ chức Công hội từ khá sớm. Nhưng chỉ từ sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng, tổ chức Công hội mới phát triển mạnh mẽ. Ngày 20-1-1931, Đảng thành lập Ban Công vận Trung ương do đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú làm Trưởng ban.
Qua cao trào cách mạng 1930-1931, cùng với sự phát triển tổ chức là sự trưởng thành về chính trị. Tháng 11-1932, Công hội Đông Dương công bố Cương lĩnh của mình, góp thêm tiếng nói chính trị vào cuộc đấu tranh của toàn dân tộc.
Trước hết, bản Cương lĩnh nêu lên tình cảnh khổ cực của giai cấp công nhân Đông Dương, tố cáo chế độ áp bức bóc lột tàn nhẫn và lừa mị xảo quyệt của giai cấp tư sản Pháp và tư sản mại bản Việt Nam.
Từ những bài học kinh nghiệm của quá trình đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và nông dân trong cao trào 1930 - 1931, đặc biệt là phong trào công nhân ở Phú Riềng, Bến Thuỷ, Sài Gòn, Cương lĩnh khẳng định: chỉ có bằng con đường đấu tranh cách mạng, giai cấp công nhân và nông dân mới giải phóng được mình khỏi áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến, giành cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Cương lĩnh chỉ ra những nhược điểm của cao trào 1930- 1931 là phong trào đấu tranh còn cục bộ, chưa đoàn kết tập hợp được công nông toàn xứ đấu tranh, chưa tổ chức tốt Công hội, Nông hội làm người lãnh đạo phong trào.
Để giữ vững và phát triển phong trào đấu tranh, các Công hội đỏ kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn Đông Dương đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa, đòi những yêu cầu cơ bản như: ngày làm 8 giờ, tăng lương, chống sa thải, cải thiện sinh hoạt, trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm lao động, tự do tổ chức Công hội, lập Đội tự vệ... Cương lĩnh cũng kêu gọi thợ nông phố và đồn điền đấu tranh đòi bảy yêu sách của ngành nghề mình như tăng lương, chống đánh đập, đi lại tự do, cấm sử dụng lao động trẻ em. Trong phong trào cách mạng thế giới, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở Đông Dương là một bộ phận của cuộc đấu tranh của công nhân khu vực châu Á Thái Bình Dương và thế giới, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Cương lĩnh chỉ ra con đường đi tới thắng lợi của giai cấp công nhân Đông Dương. Trước hết, toàn thể giai cấp công nhân phái đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng lập ra các chi bộ trong Công hội, vận động, tổ chức công nhân nhất là thanh niên, phụ nữ đấu tranh. Tổ chức Công hội ở mọi nhà máy xí nghiệp đồn điền, nếu chưa có điều kiện thành lập Công hội đỏ thì lập ra các Hội tương tế, ái hữu, các câu lạc bộ Hội đồng hương, Hội thể thao... lợi dụng hết các hình thức tổ chức công khai hợp pháp có thể được. Mặt khác phải đấu tranh để Công hội đỏ được ra hoạt động công khai, bảo vệ quyền lợi của công nhân. Hễ là công nhân bị áp bức, không phân biệt quốc tịch, nghề nghiệp, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, nếu “muốn tranh đấu để cải thiện số phận mình" đều được tham gia Công hội.
Cuối cùng, Cương lĩnh khẳng định: con đường cách mạng tuy còn nhiều gian khổ nhưng thắng lợi tất yếu sẽ thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông Dương mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.4, tr. 38-48.
NGÀY 15-12
Công nhân cao su Đồn điền Dầu Tiếng đấu tranh chống bớt lương, đòi cải thiện điều kiện làm việc
Đồn điền cao su Dầu Tiếng (tỉnh Thủ Dầu Một) là một trong hai đồn điền cao su lớn nhất của tập đoàn tư bản lũng đoạn Pháp trong ngành cao su, Công ty Misơlanh (Michelin) với 10.000 công nhân. Do khủng hoảng kinh tế, cao su mất giá trên thị trường thế giới, bọn chủ đồn điền câu kết với chính quyền thực dân tự ý hạ tiền lương công nhân, đàn ông từ 4 hào xuống 3 hào/ngày, phụ nữ từ 3,3 hào xuống 2,3 hào/ngày. Việc hạ tiền công trái với giao kèo đã ký.
Trước tình hình đó ngày 15-12-1932, hơn 1.000 công nhân đồn điền kéo tới văn phòng phản đối việc bớt lương, chống chế độ gạo mục cá thối, chống đánh đập ức hiếp công nhân, đòi thực hiện chế độ ngày làm việc 8 giờ... Giám đốc Sở cao su làm ngơ. Công nhân quyết định biểu tình tuần hành về Thủ Dầu Một tìm gặp thanh tra lao động để khiếu nại và nếu không được giải quyết sẽ kéo thẳng về Sài Gòn đòi Sở Thanh tra lao động Nam Kỳ can thiệp. Đoàn biểu tình đang trên đường tiến về thị xã Thủ Dầu Một thì nhà cầm quyền thực dân đưa lính tới chặn đường và nổ súng đàn áp đoàn biểu tình làm 3 người chết, 7 người bị thương nặng.
Cuộc thảm sát làm xôn xao dư luận thị xã Thủ Dầu Một và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Tin nhà cầm quyền thuộc địa đàn áp dã man công nhân cao su vang dội sang tận Pháp. Các nghị viên của Đảng Cộng sản Pháp lên tiếng chất vấn Chính phủ Pháp. Không thể bưng bít được sự thật, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp phải thú nhận rằng giới chủ đồn điền đã vi phạm hợp đồng lao động đã ký với công nhân và hứa lập Ban điều tra để giải quyết vấn đề này. Đông đảo dư luận tiến bộ Pháp cũng lên án chính sách cai trị phát xít của giới cầm quyền Pháp ở Đông Dương.
- Thành Nam: Phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su miền Đông Nam Bộ, Nxb. Lao động, 1982, tr 55.
- 70 năm lịch sử công nhân cao su Dầu Tiếng, Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1990, tr 41-42.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930-1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, tr. 166.
NGÀY 24-12
Cuộc vượt ngục đêm Noen của những chiến sĩ cộng sản Nhà tù Hoả Lò
Ngoài các cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù để bảo vệ cuộc sống, giữ vững khí tiết của người cách mạng, những người tù cộng sản còn luôn tìm cách vượt ngục trở về với Đảng, với dân, tiếp tục thực hiện mục tiêu cao cả của mình.
Cuối năm 1932, trước yêu cầu xây dựng, phục hồi cơ sở Đảng và phong trào cách mạng, các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Tạo, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Xuân Mẫn, Nguyễn Trọng Đàm, Nguyễn Tuấn Thức... bí mật bàn kế hoạch vượt ngục. Đây là số đồng chí có quyết tâm, dũng cảm và có điều kiện được giúp đỡ về vật chất. Có 10 đồng chí dự kiến vượt ngục nhưng đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Tuấn Thức bị bất ngờ chuyển vào giam trong xà lim, đồng chí Hiền đang nằm ở Nhà thương Phủ Doãn bị chuyển trở lại Hoả Lò nên ba đồng chí này không tham gia được.
Thực hiện kế hoạch đã bàn, các đồng chí Nguyễn Trọng Đàm, Bùi Xuân Mẫn, Hào Lịch, Lê Đình Tuyển, Nguyễn Tạo đã mưu trí tạo ra những "căn bệnh hiểm nghèo" để được ra Nhà thương Phủ Doãn chữa bệnh. Tại đây đồng chí Tuyển giả điên, la hét tạo điều kiện cho các đồng chí khác cưa song sắt cửa sổ. Hai đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Võ Duy Cương giả vờ ốm rồi giả tự tử, buộc địch phải đưa đến Nhà thương Phủ Doãn. Kế hoạch vượt ngục tiến triển thuận lợi.
Đêm Noen (24-12-1932), bảy đồng chí nhanh chóng chui qua cửa vượt tường dây thép gai của bệnh viện nhảy ra ngoài, hoà cùng dòng người đi lễ trốn thoát. Các đồng chí còn để lại lá thư đánh lạc hướng truy tìm của địch. Ra khỏi tù, các đồng chí Tạo, Đàm, Lịch, Mẫn, Tuyển tìm đường về Hà Nam, các đồng chí Bằng, Cương về Vĩnh Yên. Đây là cuộc vượt ngục thành công đầu tiên ở Nhà tù Hoả Lò. Vượt ngục là hình thức đấu tranh tích cực nhất, cao nhất và cũng nguy hiểm nhất của người cách mạng khi bị cầm tù, thể hiện tinh thần dũng cảm, quyết tâm và mưu trí cao độ của những người tù cộng sản trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù.
- Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại Nhà tù Hỏa Lò (1899-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 141-143.
CUỐI NĂM
Nông dân Hoà An (Cao Bằng) đấu tranh chống bắt phu làm đường, chống khủng bố trắng
So với nhiều địa phương khác trong cả nước ở các tỉnh miền núi phía bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng phát triển muộn hơn. Tuy nhiên, âm vang của cao trào cách mạng 1930- 1931 đã thức tỉnh đồng bào các dân tộc thiểu số đứng lên đấu tranh cách mạng.
Từ cuối năm 1932, nông dân Hoà An (Cao Bằng) biểu tình chống đế quốc Pháp bắt đi phu làm đường. Tuy lực lượng còn mỏng nhưng đảng viên và đoàn viên các tổ chức quần chúng ở Cao Bằng, Lạng Sơn đã tích cực lãnh đạo nông dân các dân tộc thiểu số đấu tranh chống bắt phu, chống khủng bố trắng. Phong trào kéo dài đến cuối năm 1934 mới giành được thắng lợi. Thành quả đạt được troug cuộc đấu tranh đã cổ vũ nông dân nhiều huyện hăng hái đứng lên chống ách áp bức, bóc lột, đòi các quyền lợi hàng ngày.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.106.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
NĂM 1932
Nông dân Thái Bình tích cực đấu tranh chống dế quốc, phong kiến
Thái Bình là tỉnh có phong trào đấu tranh của nông dân khá mạnh trong cao trào 1930-1931. Thực dân Pháp khủng bố ác liệt, phong trào chuyển sang hình thức tổ chức và đấu tranh mới để duy trì và phát triển phong trào...
Đầu năm 1932, tại làng Dương Thôn (Hưng Nhân), đồng chí Tú Chất (Học Phi) lãnh đạo việc xây dựng Nông hội đỏ. Hình thức Nông hội với tên công khai hợp pháp là Giáp Mới, số hội viên lên đến 20 người.
Hội chủ trương thành lập nhóm đọc sách báo để nâng cao kiến thức. Hội mở lớp dạy chữ quốc ngữ, phong trào học chữ quốc ngữ lan sang các thôn bên cạnh như Vũ Thôn, Hiệu Vũ, An Nhân. Học viên đủ các lứa tuổi, được giáo dục tư tưởng yêu nước.
Nông hội Dương Thôn phối hợp hoạt động với "Hội cùng đinh" (bên ngoài gọi là Hội Đồng lợi) ở làng Hú gần đó, đấu tranh chống bọn cường hào gian ác, đòi bỏ những tục lệ vô lý.
Hoạt động của Nông hội đỏ Dương Thôn là cơ sở để phát triển phong trào cách mạng sau này.
Ở một số huyện khác như Vũ Tiên, tổ chức Nông hội cũng được củng cố và phát triển làm cơ sở cho cuộc đấu tranh lớn của hơn 3.000 nông dân trên đê Thái Lai.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927 - 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
NĂM 1932
Cuộc đấu tranh công khai trên báo chí Sài Gòn
Đồng chí Nguyễn Văn Tạo là người cộng sản Việt Nam nổi tiếng tại Pháp, bị trục xuất về nước năm 1931. Ông là người dày dạn kinh nghiệm làm báo và đấu tranh báo chí, vận động dư luận xã hội.
Khi phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Sài Gòn lắng xuống thì nổ ra cuộc bút chiến giữa đồng chí Nguyễn Văn Tạo (sau đó là Nguyễn An Ninh) ở báo Trung lập với các báo Công luận, Sài Thành. Cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề có tán thành việc Bùi Quang Chiêu đại diện cho nhân dân Nam Kỳ tại Thượng hội đồng thuộc địa ở Pari hay không. Đồng chí Nguyễn Văn Tạo thừa dịp vạch rõ những cải cách lừa bịp mà Bộ trưởng thuộc địa Pôn Râynô đã hứa khi sang thanh tra tình hình Đông Dương. Đây là cuộc đấu tranh công khai chống chủ nghĩa cải lương phản động "Pháp - Việt đề huề” của Bùi Quang Chiêu. Cuộc tranh luận lan sang vấn đề phổ thông đầu phiếu hay hạn chế đầu phiếu trong cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn vào tháng 4- 1933.
Cuộc đấu tranh trên báo chí Sài Gòn là hình thức đấu tranh công khai hợp pháp đòi những quyền lợi tự do dân chủ cho nhân dân, vạch trần bộ mặt phản dân hại nước của những phần tử phản động cam tâm làm tay sai cho thực dân.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930-1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t.I, tr 179.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
TRONG NĂM 1932
Khôi phục, xây dựng cơ sở Đảng ở các địa phương Bắc Kỳ
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đế quốc Pháp và tay sai tăng cường khủng bố, tổ chức Đảng ở nhiều cấp, nhiều nơi bị địch phá vỡ.Tuy vậy, bất chấp những thủ đoạn khủng bố tàn bạo và lừa bịp thâm độc của địch, Đảng vẫn tồn tại. Trong năm 1932, Đảng đã nỗ lực khôi phục tổ chức và giữ vững vai trò lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Một số chi bộ Đảng được củng cố và xây dựng ở Cao Bằng, Phúc Yên, Hà Nam, Hà Nội. Các chi bộ tiếp tục lãnh đạo quần chúng đấu tranh như Chi bộ Lỗi Sơn (Gia Viễn, Ninh Bình) lãnh đạo nông dân đấu tranh đòi tăng công gặt, giảm nợ lãi. Chi bộ ở Hà Nội thành lập được một số tổ chức quần chúng. Ở Cao Bằng, tổ chức Cộng sản Đoàn ra đời, tập hợp thanh niên đấu tranh và làm nhiệm vụ liên lạc giữa các cơ sở Đảng và cấp bộ Đảng trong tỉnh. Ở Thái Bình, tháng 1-1932, thành lập Ban Tỉnh uỷ lâm thời (đến mùa hè 1932 lại bị phá vỡ).
Nhìn chung, trong năm 1932, tuy một vài địa phương khôi phục xây dựng được cơ sớ Đảng, nhưng hệ thống tổ chức Đảng từ cấp xứ đến tỉnh, thành, đặc khu, chi bộ và cán bộ đảng viên bị khủng bố gắt gao, thiệt hại nặng nề. Tuy nhiên, nó biểu hiện sức sống mãnh liệt của Đảng và là dấu hiệu bắt đầu quá trình khôi phục tổ chức Đảng từ đó về sau.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930 – 2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam (1927-1975), Hà Nam, 2000, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Hệ thống tổ chức Đảng cấp tỉnh, thành... Lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NĂM 1932
Thành lập Đông Dương Viện trợ Bộ
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, trước sự khủng bố ác liệt của đế quốc Pháp và tay sai, một số đảng viên và quần chúng yêu nước, phần đông là người Nghệ An, Hà Tĩnh rút sang Xiêm (Thái Lan). Họ thành lập Đông Dương Viện trợ Bộ (sau đổi là Lâm thời hoạt động của liên tỉnh Nghệ - Tĩnh) nhằm giúp đỡ bà con ở Việt Nam chạy sang lánh nạn và bảo vệ, nuôi dưỡng cán bộ hoạt động.
Đông Dương Viện trợ Bộ hoạt động khá mạnh, góp phần khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng trong nước, nhất là ở các tỉnh Trung Bộ như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình... Đông Dương Viện trợ Bộ đã giúp xây dựng lại cơ sở ở Nghệ An, thành lập Tỉnh uỷ lâm thời ở Nghệ An cuối năm 1933; phái các đồng chí Lê Lộc, Bùi Khương về hoạt động gây dựng cơ sở ở Hà Tĩnh; giúp Quảng Bình xây dựng Ban vận động xây dựng cơ sở Đảng ở Quảng Trạch tháng 9-1933.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930- 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình: Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình (1930-1954), sơ thảo, Quảng Bình, 1995, t. I.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ An: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
NĂM 1932
Cuộc đấu tranh chống những quan điểm sai lầm của tù chính trị Quốc dân Đảng trong Nhà tù Hoả Lò, Côn Đảo
Do có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và quan điểm, chủ trương cách mạng nên ở trong Nhà tù Hoả Lò, mâu thuẫn giữa tù chính trị cộng sản và tù Quốc dân Đảng nảy sinh và phát triển ngày càng sâu sắc.
Tháng 2-1932, có một bài báo của tù nhân cộng sản viết về cuộc khởi nghĩa Yên Bái, nêu lên những ưu điểm, khuyết điểm và kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa. Những người cầm đầu Việt Nam Quốc dân Đảng không tán thành bài báo và viết báo tranh luận. Do đó, nổ ra cuộc bút chiến giữa những người tù chính trị cộng sản và Quốc dân Đảng. Đóng vai trò tích cực trong cuộc bút chiến có đồng chí Lê Duẩn, chủ bút báo Đuốc đưa đường, đồng chí Trường Chinh chủ bút báo Con đường chính, Đuốc Việt Nam, đồng chí giáo Thẩm, Nguyễn Văn Chi (Chi con) với tờ Thế giới. Bên phía Quốc dân Đảng chủ yếu là tờ Bút tiêu sầu.
Nội dung cuộc bút chiến xoay quanh các vấn đề: giai cấp và đấu tranh giai cấp, Tổ quốc và gia đình, chủ nghĩa tam dân và chủ nghĩa cộng sản...
Về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, đảng viên Quốc dân Đảng phủ nhận sự phân chia giai cấp trong xã hội Việt Nam, cho rằng không có áp bức bóc lột giai cấp ở Việt Nam và những người cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp là sai, sẽ dẫn đến “huynh đệ tương tàn”. Họ còn phủ nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, cho rằng công nhân là những người “khố rách áo ôm", “ngu sĩ dốt nát" không đủ trình độ lãnh đạo cách mạng, chỉ có những người trí thức mới lãnh đạo được cách mạng.
Đáp lại quan điểm sai trái đó, báo chí của tù chính trị cộng sản đã phân tích rõ quy luật vận động chung của xã hội loài người cũng như ở Đông Dương là phân hoá giai cấp có kẻ giàu người nghèo... và tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp. Thực dân Pháp xâm lược đô hộ nước ta, sự phân hoá giai cấp càng rõ rệt, mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng, đấu tranh giai cấp giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ngày càng quyết liệt. Muốn thắng lợi nhân dân Việt Nam chỉ có con đường đi theo cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với đội tiên phong chính trị là Đảng Cộng sản mới có đủ năng lực trí tuệ lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi.
Báo của tù chính trị cộng sản nêu lên vấn đề quốc tế vô sản thế giới đại đồng. Phía Việt Nam Quốc dân Đảng hùa theo chủ nghĩa đế quốc lu loa rằng đó là xã hội “Tam vô" (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo), là "chung vợ chung chồng"... Họ cho rằng, Tổ quốc là của một số ít người thuộc về giai cấp địa chủ, tư sản mại bản, vua quan phong kiến, những người có tiền và có tri thức. Những người cộng sản đáp lại rằng: Tổ quốc là của nhân dân lao động, của công nhân, nông dân, trí thức yêu nước, những người đã đổ mồ hôi xương máu xây dựng đất nước. Còn bọn vua quan phong kiến, địa chủ, tư sản mới chính là người không có Tổ quốc, sẵn sàng bán rẻ Tổ quốc để mưu cầu lợi ích cá nhân. Đó chính là những kẻ muốn duy trì chế độ đa thê, chung vợ chung chồng, khuyến khích mại dâm, đĩ điếm...
Đuối lý, báo chí Quốc dân Đảng quay sang tuyên truyền cho chủ nghĩa “Tam dân”, nhưng họ hiểu chủ nghĩa này quá nông cạn, què quặt, không dám đưa ra hết những chính sách tiến bộ của chủ nghĩa tam dân như “bình quân địa quyền”, “tiết chế tư bản" cho nên những gì họ tuyên truyền chỉ mang tính nửa vời, sai lạc, dần ngả về phía chống chủ nghĩa cộng sản. Để phê phán lại, báo chí tù chính trị cộng sản đã trình bày một cách rõ ràng, khoa học, có hệ thống, đường lối cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã áp dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Đông Dương, đó là làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Bị đánh bại về mặt lý luận, những người cầm đầu của Việt Nam Quốc dân Đảng quay sang dùng thủ đoạn “thiệt chiến” (đấu tranh bằng lưỡi), “huyết chiến” (đánh nhau đổ máu, chém giết nhau) với tù chính trị cộng sản. Nhưng những người cộng sản đã lập ra Uỷ ban tranh đấu để bảo vệ mình, bảo vệ những người tù Quốc dân Đảng chân chính và những người đã giác ngộ lý tưởng cộng sản.
Cuộc bút chiến giữa tù chính trị cộng sản và Việt Nam Quốc dân Đảng trong Nhà tù Hoả Lò và cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng giữa giai cấp vô sản và tư sản. Thắng lợi này thể hiện tính đúng đắn sức thuyết phục của đường lối cách mạng vô sản, của chủ nghĩa cộng sản, tinh thần yêu nước chân chính. Mặt khác, chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi và hệ tư tưởng tư sản của Việt Nam Quốc dân Đảng cũng tự bộc lộ sự lạc hậu của nó.
Tại Côn Đảo, cuộc đấu tranh tư tưởng cũng diễn ra quyết liệt. Những phần tử Quốc dân Đảng cực đoan coi “cộng sản là kẻ thù số 1, đế quốc là kẻ thù số 2". Đội Sơn, trùm Quốc dân Đảng viết thư cho chúa đảo Buviê "Tôi rất đồng tình với ngài rằng bọn cộng sản còn nguy hiểm hơn cả bệnh dịch hạch". Tù nhân Quốc dân Đảng ra báo Tiêu sầu để chống lại những người cộng sản, Tâm Cụt âm mưu sát hại đồng chí Tôn Đức Thắng, Đội Sơn, Đội Lãng tổ chức ám sát đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, nhưng chúng đều thất bại trước trí tuệ và tinh thần anh dũng của những người cộng sản.
Cuộc đấu tranh đã làm phân hóa đội ngũ tù chính trị Quốc dân Đảng. Nhiều người như Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Đức Chính, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Xuân, Tô Chấn, Tô Hiệu... đã chuyển sang đứng trong hàng ngũ những người cộng sản. Một số cầu an, bọn cầm đầu phản động bị cô lập, tiếp tục lún sâu vào con đường chống lại nhân dân.
Qua cuộc đấu tranh, uy tín và ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương được nâng cao và lan rộng. Ngược lại những tư tưởng lạc hậu, lỗi thời cùng với bản thân tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng ngày càng đi vào con đường bế tắc. Phạm Tuấn Tài khi được ân xá đã viết “Quốc dân Đảng đã quá thời rồi, các anh em còn chân chính cách mạng nên đi theo con đường cộng sản".
- Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại Nhà tù Hỏa Lò (1899-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 130-137.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Nhà tù Côn Đảo (1862-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
___________
1. Hiện chưa rõ ai soạn thảo văn kiện này, đứng tên Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương.
2. Một số người tham gia soạn thảo Chương trình hành động: Hà Huy Tập, Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Dựt, Vaxiliêva (đảng viên Đảng Cộng sản Nga).
Năm 1933 THÁNG 1
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc được tự do
Ngày 6-6-1931, chính quyền Anh ở Hồng Kông đã bắt giam trái phép Nguyễn Ái Quốc. Cuối tháng 1- 1933, đế quốc Anh phải trả lại tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc được tự do là nhờ sự đấu tranh khôn khéo của chính Người và phong trào đấu tranh trong nước cũng như trên thế giới, đặc biệt là nhờ sự giúp đỡ vận động bí mật của Quốc tế Cộng sản, Luật sư Lôdơbi và một số luật sư tiến bộ khác đã tích cực đấu tranh buộc đế quốc Anh phải trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Trong thời gian Người bị bắt, Quốc tế Cộng sản đã lên án mạnh mẽ những hành động phi pháp những thủ đoạn đê hèn của bọn đế quốc Anh, Pháp. Quốc tế Cộng sản thông qua Liên đoàn chống chủ nghĩa đế quốc ra một bản kêu gọi nhan đề “Hãy cứu lấy nhà cách mạng Việt Nam Nguyễn Ái Quốc”, phản đối đế quốc Anh, yêu cầu tất cả các tổ chức chống chủ nghĩa đế quốc trên thế giới chống việc giao Nguyễn Ái Quốc cho đế quốc Pháp và đòi trả tự do cho Người: "Quốc tế Cộng sản phải thông qua Quốc tế Cứu tế công nhân của Pháp, có liên hệ với các tổ chức xã hội của Anh để ra sức vận động đưa Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi Nhà tù Hương Cảng. Quốc tế Cộng sản còn phải bí mật nhờ đến Luật sư Lôdơbi ở Hồng Công và Luật sư Nouen Pơrít, công tác tại Toà án cơ mật của đế quốc Anh để giúp đỡ bào chữa”.
Từ việc Nguyễn Ái Quốc được trả lại tự do, đến việc Người bắt được liên lạc với một số đảng anh em và sang Liên Xô là cả một quá trình đấu tranh kiên trì, khôn khéo và rất phức tạp của Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức cách mạng. Nó phải thông qua một hệ thống liên lạc, vận động bí mật, sự bố trí sắp xếp khôn khéo của Quốc tế Cộng sản. Điều đó nói đến sự quan tâm của Quốc tế Cộng sản không chỉ đối với phong trào cách mạng nước ta nói chung, mà còn đối với sinh mệnh của lãnh tụ Đảng ta một cách kịp thời và có hiệu quả.
- Tạp chí Những vấn đề Viễn Đông, số 1 -1979, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông 1931-1933 (Tư liệu và hình ảnh), Nxb. Chính trị quốc gia, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004, tr. 59-240.
THÁNG 3
Sự khôi phục tổ chức, lực lượng và phong trào đấu tranh cách mạng ở Quang Nam, Đà Nẵng
Mặc dù cơ sở và cách mạng ở Quảng Nam - Đà Nẵng bị thiệt hại lớn qua các đợt khủng bố (năm 1930, tháng 4 và tháng 6-1931), nhưng tổ chức Đảng và cách mạng nhanh chóng được khôi phục. Tháng 2-1933, Ban Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Nam được thành lập, tiếp đó, các chi bộ và đảng viên vận động thành lập các tổ chức quần chúng như Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn để tập hợp quần chúng, có khoảng 100 hội viên. Quần chúng còn lập ra các tổ chức biến tướng như Hội trồng dừa, Hội đồng dân, Hội trồng dương liễu... số lượng hội viên mỗi tổ chức ngày càng đông đảo, lên tới vài chục người. Phong trào phát triển mạnh ở các huyện Tam Kỳ, Đại Lộc, Quế Sơn, Hội An, Vĩnh Điện, thành phố Đà Nẵng...
Cuối tháng 2-1933, Hội nghị Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Nam nhận định: trước chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của đế quốc pháp và tay sai, “ai nấy đều giận đế quốc phong kiến”, “thợ thuyền, dân cày, binh lính, học sinh và các hạng người lao khổ không sợ cộng sản mà còn có xu hướng cộng sản”. “Càng cực khổ bao nhiêu lại xu hướng cách mạng thêm lên. Hoàn cảnh thế này làm cho đồng chí ta dễ đường vận động”. Về phong trào quần chúng, Hội nghị nhận định: "Từ sau khi bị khủng bố trắng, cách mạng vận động yếu nên đấu tranh của nhân dân cũng ít ỏi, gần đây phong trào đấu tranh có tiến bộ”. Ban Cán sự miền Nam Trung Kỳ xuất bản báo Cờ đỏ giao cho Tỉnh uỷ Quảng Nam đảm nhiệm biên tập và in ấn.
Do có sự khôi phục về tổ chức và lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi trong tỉnh. Ngày 14-2-1933, 150 công nhân làm đường xe lửa ở Trà Lý, Bích Ngô bãi công buộc chủ thầu phải giảm giờ làm. Tiếp đó, ngày 20 và 21- 2- 1933, 250 công nhân mỏ vàng Bồng Miêu đấu tranh đòi bảo hiểm xã hội, đòi phụ cấp đắt đỏ. Tháng 2-1933, cuộc đấu tranh của công nhân bốc vác bến tàu Đà Nẵng nổ ra, cũng thu được thắng lợi. Ở nông thôn, phong trào nông dân kêu kiện về nạn cường hào tham nhũng, xin hoãn thuế, xin miễn đi xâu rầm rộ. Đặc biệt, nông dân Trà My đã đánh bọn địa chủ ở Phương Xá, Đông Hội làm bọn chúng khiếp sợ. Ở Quế Sơn, nông dân tổng Phú Xuân kéo ra đình làng chống bọn hào lý tham nhũng, đòi cấp lại ruộng đất cho công bằng. Một số tù chính trị mãn hạn cũng đòi lại ruộng đất đã bị địa chủ cướp. Nông dân một số làng miền núi ở huyện Trà My, Đắc Lây đấu tranh chống lính tới đóng đồn và cướp phá.
Sự khôi phục tổ chức lực lượng và phong trào đấu tranh cách mạng cho thấy sức sống mãnh liệt của Đảng, tinh thần yêu nước giác ngộ cách mạng của nhân dân Quảng Nam, Đà Nẵng trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù dân tộc và giai cấp.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), Sơ thảo, NXb. Đà Nẵng, 1991, t.I.
NGÀY 9 - 3
Thành lập Uỷ ban Vận động toàn xá tù chính trị Đông Dương
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Pháp, phong trào chống khủng bố ở Đông Dương phát triển thành phong trào đòi ân xá tù chính trị. Đầu năm 1933, phong trào phát triển với nhiều hình thức phong phú lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Cũng theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Pháp, ngày 9-3-1933 Uỷ ban Vận động toàn xá tù chính trị Đông Dương được thành lập do P. Lănggiơvanh (P. Langevin) làm Chủ tịch. Tham gia ủy ban có những nhân vật có uy tín lớn như Phăngxi Giuốcđanh (F. Jourdam) - (lãnh đạo Hội Cứu tế đỏ), các văn hào Hăngri Bácbuýtxơ (Henri Barbusse) và Rômanh Rôlăng (Romin Rolland), nhà báo Ăngđrê Viôlit (Andrée Viollis), Sanlây Be (Challay Ben).
Trong nhiều tháng, nhân dân lao động Pháp dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban đã tổ chức biểu tình ở nhiều nơi đòi ân xá cho 10.000 chính trị phạm ở Đông Dương, đặc biệt đòi bỏ các án tử hình, quyên góp tiền gửi cho những người bị giam trong các nhà tù.
- Viện Mác-Lênin: Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt - Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, t4. 41, 314.
NGÀY 14-3
Đồng chí Môrixơ (Maurice Thorez), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp, lên tiếng ủng hộ cách mạng Đông Dương
Phong trào đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Đông Dương luôn được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, trong đó có những người cộng sản và nhân dân tiến bộ Pháp. Ngay từ những năm đầu thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp. Tại Đại hội lần thứ XVI Đảng Cộng sản Liên Xô (6- 1930), đồng chí Môrixơ Tôrê, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp đã tố cáo tội ác tàn bạo của đế quốc Pháp ở Đông Dương. Nhân ngày kỷ niệm 1-5-1931, tại Pháp, đồng chí kêu gọi “Giai cấp công nhân Pháp chúng ta nếu muốn xứng đáng với Quốc tế Cộng sản thì còn phải làm nhiều nghĩa vụ khác nữa, trước hết là đoàn kết chặt chẽ với hàng triệu công nhân và nông dân Đông Dương đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp, để giải phóng đất nước mình". Trong phiên họp ngày 14-3-1933 của Hạ nghị viện Pháp tranh luận về luật ân xá, đồng chí Môrixơ Tôrê đọc một diễn văn dài bênh vực nhân dân lao động Đông Dương. Đồng chí phản bác lại luận điệu xuyên tạc của Bộ trưởng thuộc địa Xarô vu cáo những tù chính trị Đông Dương là "quân trộm cướp bị kết án hình sự thông thường”, không phải là đối tượng của luật ân xá. Với những số liệu và chứng cứ cụ thể, đồng chí tố cáo đế quốc Pháp đang dìm nhân dân lao động Đông Dương trong bể máu. Đồng chí đọc lại cho toàn Hạ nghị viện nghe một thông cáo của toàn quyền Paxkiê ra lệnh cho bộ máy cai trị của hắn đàn áp ngay lập tức và không cần xét xử những người lao động Việt Nam bị tình nghi là cộng sản. Đồng chí cũng trình bày nội dung bản Luận cương chính trị của Đảng và tuyên bố rằng: “Chúng tôi tán thành cương lĩnh của Đảng Cộng sản. Chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh của những người anh em chúng tôi ở Đông Dương. Chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh đó với danh nghĩa của tình đoàn kết vô sản quốc tế. Chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh đó vì đó là lợi ích của chính những người lao động của nước Pháp bởi vì theo lời nói bất hủ của Mác, “Một dân tộc đi áp bức một dân tộc khác không thể là một dân tộc tự do".
Tiếp đó, ngày 4-4-1933, tham luận trước Hạ nghị viện, đồng chí nói: “Nhóm cộng sản chúng tôi đề nghị Hạ nghị viện sẽ thông qua văn kiện bao gồm việc ân xá hoàn toàn tất cả nạn nhân của sự khủng bố kinh khủng và tai hại ở thuộc địa, nhất là ở Đông Dương".
Sự ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp là nguồn cô vũ to lớn đối với Đảng Cộng sản Đông Dương và nhân dân Đông Dương, trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung của giai cấp vô sản, góp phần thức tỉnh nhân dân tiến độ Pháp là một đòn mạnh mẽ giáng vào chính sách khủng bố trắng của đế quốc Pháp ở Đông Dương.
- Viện Mác - Lênin: Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt – Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, tr. 82.
THÁNG 3
Tác phẩm sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương của Hồng Thế Công (Hà Huy Tập)
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ ba ngày thành lập Đảng, đồng chí Hà Huy Tập viết tác phẩm Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương.Ngoài phần Cùng bạn đọc, Lời nói đầu và Bảng kê các chính đảng ở Đông Dương từ năm 1917, tác phẩm gồm 10 chương. Chương I về Việt Nam Cách mạng Thanh niên hội (1923-1929). Chương II về các tổ chức cộng sản khác. Chương III về Đông Dương Cộng sản Đảng. Chương IV về An Nam Cộng sản Đảng. Chương V về Hội nghị thống nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chương VI về phong trào cách mạng trước tháng 9-1930. Chương VII và phong trào Xôviết. Chương VIII về hoạt động của Đảng từ tháng 10-1930 đến Hội nghị của các Xứ uỷ cuối năm đó. Chương IX về tình hình Đảng sau lúc các Xôviết ở miền Bắc Trung Kỳ tan vỡ. Chương X về hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và những chủ trương hành động của Đảng.
Như tác giả đã viết, cuốn sách được viết trong hoàn cảnh vội vàng, khó khăn và thiếu cả sự chỉ đạo, nhưng tác giả đã phác thảo được quá trình hoạt động của Đảng trong ba năm đầu mới thành lập. Tác phẩm đã giúp các đảng viên trẻ và công nhân cách mạng lúc bấy giờ tìm hiểu lịch sử Đảng, giúp họ tránh những sai lầm cũ và học tập những kinh nghiệm của ba năm đấu tranh dũng cảm.
- Hồng Thế Công: Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương, lưu tại Viện Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 401-425.
NGÀY 30 - 4
Thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn trong cuộc bầu cử Hội đồng thành phố
Cho đến năm 1933, trong các kỳ bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn, Đảng Lập hiến và một số đảng phái chính trị tay sai Pháp thường giành thắng lợi vì không có các đảng phái cách mạng ra tranh cử và được thực dân Pháp ủng hộ, dùng tiền tài mua phiếu. Trong năm 1932, nhân dân lao động Sài Gòn đã quen với hình thức đấu tranh công khai hợp pháp qua cuộc tranh luận trên báo chí về vấn đề phổ thông đầu phiếu. Do đó, năm 1933, giai cấp công nhân và nhân dân lao động kiên quyết đấu tranh với những đảng phái phản động thân Pháp trong cuộc bầu cử Hội đồng thành phố.
Ngày 30-4-1933, những ứng cử viên của công nhân, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Văn Tạo và các đồng chí Lê Văn Lưỡng, Trần Văn Vân, Nguyễn Xuân Vinh, Nguyễn Văn Nở cùng một số trí thức khác ra mắt nhân dân Sài Gòn. Lần đầu tiên, các đảng phái phản động gặp đối thủ thực sự là những người cộng sản và yêu nước chân chính trong cuộc tranh cử vào Hội đồng thành phố.
Đại biểu cho công nhân lao động Sài Gòn ra tuyên ngôn, họp mít tinh, phát truyền đơn trình bày chương trình hành động để vận động cử tri. Nhiều cuộc mít tinh lớn, tập trung từ 2000-3000 người được tổ chức hợp pháp, gây dư luận sôi nổi trong nhân dân thành phố. Đêm 21-4- 1933, trước 3000 quần chúng ở rạp hát Thành Xương, đồng chí Nguyễn Văn Tạo và những ứng cử viên khác trình bày rõ ý nghĩa việc tranh cử, làm cho quần chúng tin vào sức mạnh đoàn kết đấu tranh của mình.
Những ứng cử viên của nhân dân đề ra một bản yêu sách - chương trình tranh cử khá thiết thực, có khả năng tập hợp được đông đảo nhân dân lao động thành phố như chính sách cứu đói, trợ cấp thất nghiệp, ngày làm 8 giờ, tăng cường phúc lợi công cộng xoá bỏ sự bấtbình đẳng giữa nhân dân Nam Kỳ và chính quốc... Trong khi đó, các ửng cử viên của Đảng Lập hiến như Trương Văn Bền, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Sâm vận động tranh cử bằng sức ép chính trị, bằng tiền bạc, thúc ép giới chủ các nhà máy xí nghiệp buộc công nhân bỏ phiếu cho Đảng Lập hiến. Ngoài ra, thực dân Pháp đưa ra một lực lượng thứ ba với tên gọi “Độc lập" như Nguyễn Văn Tốt, Lê Thành Lư, Lê Trọng Dinh để âm mưu phân tán phiếu, tránh tập trung phiếu cho ứng cử viên công nhân. Thực dân Pháp nắm báo chí cổ vũ cho Đảng Lập hiến, chỉ có báo Trung lập ủng hộ công nhân, nên bốn ngày sau bầu cử, tờ báo này bị rút giấy phép.
Kết quả bầu cử ngày 30-4-1933, ứng cử viên công nhân giành thắng lợi lớn. Sau khi vào Hội đồng thành phố, những đại biểu này tăng cường bênh vực cho người lao động, vạch mặt nạ chính sách thực dân.
Trong cuộc đấu không cân sức, thắng lợi của những đại biểu công nhân chứng tỏ quần chúng chịu ảnh hưởng của Đảng Cộng sản của cách mạng vì lần đầu tiên những người cộng sản và yêu nước thắng lợi trong một cuộc bầu cử ở Đông Dương. Đảng Cộng sản có khả năng vận động quần chúng nhân dân thành thị và đã có một diễn đàn đấu tranh mới rộng rãi, hợp pháp.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930- 1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, từ 181-186.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
NGÀY 1-5
Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản Chương trình hành động của Nông hội
Chương trình hành động của Nông hội được Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản lần thứ nhất ngày 1-5- 1933, sau đó được tái bản ngày 1-8-1933.
Bằng những dẫn chứng cụ thể về nông thôn, nông dân Đông Dương dưới chế độ thực dân phong kiến, Chương trình hành động nói lên tình cảnh khổ cực của giai cấp nông dân. Chiếm 90% dân số nhưng giai cấp nông dân chỉ chiếm 20% diện tích ruộng đất. Họ bị đế quốc, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến bóc lột đến tận xương tủy, sưu cao thuế nặng, nạn cho vay nặng lãi... cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 càng làm cho đời sống của nông dân thêm cơ cực, hàng nghìn người chết đói. Giai cấp nông dân không còn con đường nào khác phải “kéo nhau ra trường cách mạng đánh đổ đế quốc, đoạt lại tự do quyền, trừ diệt địa chủ, chia đất cho dân cày, lập chánh phủ Xôviết công nông”.
Chương trình hành động điểm lại lịch sử đấu tranh của giai cấp nông dân trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, đỉnh cao phong trào là Xôviết Nghệ An, Hà Tĩnh năm 1930. Phong trào đã giành được những thắng lợi bước đầu, quan trọng nhất là đã liên minh tranh đấu dưới ngọn cờ của giai cấp công nhân, nhưng không tránh khỏi những khuyết điểm như phong trào còn mang tính tự phát, phát triển không đều, phương pháp đấu tranh sai lầm (ám sát, bạo động non...), tổ chức Nông hội phát triển chậm...
Trước tình hình chính quyền thực dân, phong kiến đang ra sức đàn áp phong trào nông dân, Chương trình hành động kêu gọi toàn thể nông dân đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Nông hội, đấu tranh với những yêu cầu sau:
1. Chống sưu cao thuế nặng, đòi bỏ thuế thân và thứ thuế vô lý, đánh thuế người giàu, miễn thuế cho dân nghèo.
2. Phân chia hoa lợi hợp lý bảo đảm đời sống cho nông dân.
3. Chống nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn.
4. Chính quyền thực dân phải cấp vốn sản xuất cho nông dân.
5. Cải thiện chế độ làm thuê, tăng lương, giảm giờ làm, nghỉ ngày lễ...
6. Chia lúa của nhà giàu cho nông dân bị đói.
7. Nông dân được tự do lập hội, tự do ngôn luận, tự do đi lại.
8. Bỏ chế độ canh tuần, làm xâu.
9. Rút quân lính khỏi các làng xã, bỏ Luật tử hình.
10. Bỏ độc quyền rượu, muối.
Phong trào cách mạng đang ở thế thoái trào "gió lặng sóng êm", Đảng cho điều đó là bình thường, chính nhờ khi tiến khi thối mà quần chúng học đòi kinh nghiệm... thất bại tức là mẹ thành công vậy”.
Cuối cùng, Chương trình hành động kêu gọi: "Làn sóng cách mạng trước đã qua, làn sóng sau đương ào tới. Anh em, chị em hãy mau phá tan thối chí, đánh vỡ ngã lòng, kịp dựng ngọn hồng kỳ, kéo nhau ra giáp chiến một trận cuối cùng với quân thù giai cấp kỳ đoạt lại được ruộng đất với tự do quyền".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.4, tr. 84-102.
TỪ NGÀY 2 ĐẾN NGÀY 9-5
Cuộc đấu tranh ở Toà án Đại hình Sài Gòn
Từ ngày 2 đến ngày 9-5-1933, Toà án Đại hình Sài Gòn mở phiên toà xét xử 120 chiến sĩ cộng sản. Đế quốc Pháp tập trung một số lớn tù nhân cộng sản để xét xử nhằm khủng bố tinh thần đảng viên và quần chúng cách mạng. Báo chí Sài Gòn lúc đó gọi là "Vụ án Đảng Cộng sản Đông Dương”. Một luật sư tiến bộ ở Sài Gòn là Xăngxienlơri (Cancielleri) được ủy nhiệm bào chữa cho những người cộng sản. Ngoài ra, thực dân Pháp còn cử 2 luật sư người Việt, 10 luật sư người Pháp khác để bào chữa cho phạm nhân.
Để bôi nhọ thanh danh Đảng ta, đánh lạc hướng dư luận tiến bộ, Chưởng lý phiên tòa đọc bản cáo trạng, vu khống những người cộng sản “cướp của", “giết người", “phá rối trật tự trị an", "bài ngoại", “phân biệt màu da", “kích động thù hằn dân tộc,"... Trong nanh vuốt kẻ thù, các đồng chí Ngô Gia Tự, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Nguyễn Chí Diểu, Bùi Lâm và nhiều đồng chí khác đã nêu cao dũng khí của người cách mạng. Với lý lẽ sắc bén, các đồng chí đã phản bác lại mọi lời vu khống của toà án, bảo vệ và nêu cao mục tiêu chính nghĩa của Đảng là hoạt động để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, mang lại tự do, cơm no, áo ấm, hoà bình cho nhân dân, người cộng sản không thù hằn dân tộc, chỉ chống thực dân Pháp phản động, nhưng là bạn của nhân dân lao động Pháp. Đồng chí Ngô Gia Tự nói: Đảng Cộng sản là một chính đảng cách mạng, những người cộng sản không phải là ăn cướp, giết người. Chính đế quốc Pháp mới là kẻ ăn cướp, giết người. Đế quốc Pháp cướp nước Việt Nam, câu kết với phong trào áp bức bóc lột nhân dân tàn khốc chính điều đó thúc đẩy những người Việt Nam yêu nước đứng lên làm cách mạng. Đồng chí Bùi Lâm nói: đối với nhân dân Pháp, không bao giờ thù ghét mà luôn có quan hệ tốt với họ, những người cộng sản chỉ căm ghét và chống lại bọn thực dân Pháp xâm lược mà thôi và vì thế đấu tranh đòi thủ tiêu chế độ thuộc địa.
Địch vẫn cố tình buộc tội với những bản án đã sắp đặt sẵn. Ba giờ sáng ngày 9-5-1933, tòa án đế quốc tuyên án tử hình 8 người (trong đó có các đồng chí Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Lê Quang Sung...), 19 người khổ sai chung thân (trong đó có đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn Chí Diểu, Hà Huy Giáp..., 21 người 20 năm khổ sai, 17 người 15 năm khổ sai.. Các đồng chí hô to các khẩu hiệu "Phản đối án tử hình", “Đả đảo toà án đế quốc”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm".
Một mình không chống lại được cả bộ máy của toà án đế quốc nhưng luật sư tiến bộ Xăngxienlơri đã khẳng định: “Toà án các ông không thể dập tắt được phong trào đấu tranh của họ".
Dư luận trong nước và ở Pháp rất quan tâm theo dõi và phản đối vụ xét xử của nhà cầm quyền thực dân Pháp. Nhân dân tiến bộ Pháp đã tổ chức 98 cuộc biểu tình phản đối vụ xử án, đòi ân xá 10.000 tù chính trị Đông Dương. Trước sức ép trong và ngoài nước, đế quốc Pháp phải giảm một số án tử hình xuống khổ sai chung thân1.
Biến toà án đế quốc thành diễn đàn kết tội chủ nghĩa đế quốc Pháp, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, các chiến sĩ cộng sản đã thể hiện tinh thần đấu tranh dũng cảm, kiên quyết trong mọi hoàn cảnh, góp phần nâng cao uy tín của Đảng, giáo dục quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự nghiệp chính nghĩa của cách mạng
- Đạp lên đầu thù (Hồi ký), Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1971, tr 12-21.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
THÁNG 5
Lập lại Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ, khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng
Cuối năm 1932, do sự khủng bố gắt gao của đế quốc Pháp, Xứ uỷ Nam Kỳ vừa lập lại đã bị phá vỡ ngay. Với tinh thần đấu tranh kiên cường của những người cộng sản, tổ chức đảng nhanh chóng được khôi phục. Tháng 5- 1933, đồng chí Trương Văn Bang lập lại Xứ uỷ gồm bảy đồng chí do đồng chí trực tiếp làm Bí thư, ra báo Cờ đỏ làm cơ quan ngôn luận.
Trong năm 1933, nhiều đồng chí mãn hạn tù trở về địa phương tiếp tục hoạt động. Đồng chí Trần Văn Giàu (Hồ Nam) và Nguyễn Văn Long (tức Dựt) từ Liên Xô vừa trở về nhanh chóng bắt liên lạc với Xứ uỷ, hoạt động tích cực được bổ sung vào Xứ uỷ.
Dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Nam Kỳ, Liên Huyện ủy Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hoà được nâng cấp thành Liên Tỉnh uỷ miền Đông. Liên Tỉnh uỷ miền Đông tích cực bắt liên lạc với Xứ uỷ và Liên Tỉnh uỷ miền Trung, miền Tây và các đồng chí vừa ra tù để khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng. Ở nhiều tỉnh, cơ sở đảng đã có, nhưng chưa đủ điều kiện để tổ chức ra các tỉnh uỷ. Vì thế Xứ uỷ quyết định lập ra đặc uỷ, chủ trương liên kết, tổ chức hoạt động theo vùng, theo đó Đặc uỷ Vàm Cỏ Đông ra đời gồm một phần của tỉnh Chợ Lớn tới Trung Quận và một phần Đức Huệ, Đặc uỷ Long Châu, Rạch Hà...
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1934 - 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Hàn Song Thanh: Một cuộc đời một thế kỷ, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Trà Vinh xuất bản, 2000, tr 28.
NGÀY 4-7
Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ ra Thông cáo gửi các đảng viên trong xứ
Thông cáo nêu rõ: Sau một thời gian bị đàn áp khủng bố dữ dội, Đảng Cộng sản Đông Dương đang phục hồi về tổ chức, lực lượng, ảnh hưởng của Đảng lan sang cả Lào, Campuchia. Phong trào cách mạng của quần chúng đang hồi phục. Tuy nhiên, trong thời gian tới, việc khôi phục tổ chức Đảng còn gặp nhiều khó khăn. Điều đó đòi hỏi nỗ lực cao độ của các cấp bộ Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.
Thông cáo đính chính, giải thích và bổ sung một số vấn đề trong bản Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, khẳng định nhiệm vụ đánh đổ ách áp bức của đế quốc, giành độc lập hoàn toàn cho Đông Dương, đập tan quân đội và tịch thu vũ khí của đế quốc, xây dựng quân đội cách mạng công nông.
Thông cáo làm rõ nội dung khẩu hiệu trong Chương trình hành động của Công hội, nêu rõ tính chất cách mạng của khẩu hiệu đó là đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thân hàng ngày. Khẩu hiệu đó sẽ thu phục được đông đảo quần chúng.
Xứ uỷ Nam Ký phê phán khuynh hướng khủng bố, ám sát, lập trường manh động tiểu tư sản. Để tránh bị khủng bố, cần xây dựng tổ chức bí mật, đồng thời vạch mặt những tên tay sai đế quốc trước quần chúng nhân dân. Nhân ngày Quốc khánh Pháp 14 - 7, Xứ uỷ kêu gọi các cấp bộ Đảng trong xứ lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức mít tinh, hội họp, rải truyền đơn, treo cờ biểu ngữ và sau đó tổng kết rút kinh nghiệm cho đợt đấu tranh nhân ngày chống chiến tranh đế quốc 1-8.
Thông cáo của Xứ uỷ hướng dẫn các Đảng bộ phương pháp và những khẩu hiệu đấu tranh, tập trung vào đấu tranh công khai đòi các quyền lợi hàng ngày như chống giảm lương, chống sa thải thợ, chống thuế, đòi chia lúa gạo... kết hợp giữa những khẩu hiệu ấy với khẩu hiệu cơ bản của cách mạng phản đế và điền địa. Trong quá trình đấu tranh, chú ý gắn với xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng trong quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1999, t. 4, tr. 103-110.
NGÀY 16 - 7
Công nhân Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi đình công
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và với truyền thống anh hùng của quê hương Xôviết Nghệ - Tĩnh, giai cấp công nhân Vinh - Bến Thuỷ luôn thường trực tinh thần đấu tranh cách mạng. Đầu năm 1933, Khu uỷ Bến Thuỷ được khôi phục và một sẽ đồng chí đã lập hiệu ảnh Văn Lan ở thành phế Vinh, thiết lập đường dây liên lạc với Đông Dương Viện trợ Bộ.
Cùng với sự khôi phục về tổ chức là sự bùng phát trở lại phong trào đấu tranh cách mạng. Ngày 16-7-1933, công nhân Nhà máy sửa chữa xe lửa Trường Thi đình công chống sa thải công nhân.
Theo lệnh của Khâm sứ Trung Kỳ giới chủ nhà máy viện cớ hết việc làm, thiếu tiền lương để sa thải 20 công nhân người Bắc Kỳ mà chúng cho là “những người có thể hấp thụ tinh thần phản kháng của cộng sản và bị cộng sản xúi giục chống chính phủ”.
Phát huy truyền thống đoàn kết đấu tranh trong cao trào cách mạng 1930-1931, 150 công nhân đã đình công phản đối việc bớt lương, sa thải thợ, buộc giới chủ nhà máy phải chấp nhận yêu sách của công nhân.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Vinh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Vinh,Nxb. Nghệ Tĩnh, 1988, t. 1.
NGÀY 1-8
Điều lệ của Nông hội
Nông dân là lực lượng to lớn của dân tộc, là đồng minh trung thành của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã chú ý vận động, tổ chức nông dân. Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, Đảng đã phát động hàng vạn nông dân đấu tranh.
Tiến thêm một bước về tổ chức vận động giai cấp nông dân, ngày 1-8-1933, Đảng Cộng sản Đông Dương xây dựng và ban hành Điều lệcủa Nông hội, có bảy điều khoản:
1. Nông hội tổ chức theo địa phương, bao gồm cả công nhân nông nghiệp, lấy tên địa phương đặt tên Nông hội.
2. Tôn chỉ của Hội là "binh vực quyền lợi thiết thực của nông dân lao động, để dìu dắt anh em làm cách mạng điền địa".
3. Tiêu chuẩn gia nhập Hội: Trung, bần nông và công nhân nông nghiệp bất kỳ thuộc dân tộc nào nếu thừa nhận tôn chỉ, điều lệ và phục tùng các nghị quyết của Nông hội đều được gia nhập.
4. Hội viên có trách nhiệm tuyên truyền tôn chỉ của Hội, xây dựng Hội về tổ chức và đóng phí Hội.
5. Hệ thống tổ chức của Hội: tổ chức cơ sở Hội là làng, làng đông hội viên thì chia thành các phân hội. Trên Nông hội làng (xã) là Nông hội quận (huyện), Nông hội tỉnh, khi đủ điều kiện sẽ thành lập Nông hội xứ và Tổng Nông hội đỏ Đông Dương. Mỗi cấp hội có Ban ủy viên do Hội nghị đại biểu cấp đó cử ra. Ban uỷ viên làng 15 ngày họp một lần, phải cử ra Ban Thường vụ uỷ viên lo công việc hàng ngày. Nông hội làng 3 tháng đại hội một lần để cử ra Ban uỷ viên mới và bàn bạc công việc. Khi có gì đột xuất, tổ chức hội nghị bất thường.
6. Hằng tháng, hội viên phải đóng góp quỹ. Khi có việc sẽ quyên góp thêm.
7. Cuối cùng, Điều lệ nêu vấn đề kỷ luật. Ai làm trái tôn chỉ của Hội mà không chịu sửa đổi, ai ba tháng không đóng hội phí mà không có lý do sẽ bị khai trừ. Ngoài ra, tuỳ lỗi nặng nhẹ mà phê bình, cảnh cáo, khai trừ tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Tuy còn chưa đầy đủ, nhưng bản Điều lệ của Nông hội đã đề ra được những nội dung có tính nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của một đoàn thể quần chúng. Xây dựng Điều lệ Nông hội, Đảng Cộng sản Đông Dương có điều kiện tổ chức và vận động quần chúng nông dân tham gia đấu tranh cách mạng một cách có tổ chức, có kỷ luật, tạo thành khối sức mạnh đoàn kết thống nhất trong cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc quyết liệt.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4. tr. 111-112.
TỪ NGÀY 8 ĐẾN NGÀY 18 - 8
Đoàn đại biểu phong trào chống phát xít của Đảng Cộng sản Pháp đến Sài Gòn
Cùng với những hoạt động sôi nổi trên đất Pháp hướng tới Việt Nam đang bị khủng bố, Đảng Cộng sản pháp đã cử những đảng viên của mình đến Đông Dương để khích lệ phong trào và lấy những tư liệu sống cho công tác tuyên truyền. Tháng 8-1933, Pôn Vaiăng Cutuyriê (Vailant Couturier), Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Pháp dẫn đầu Đoàn đại biểu phong trào chống phát xít "Amxtécđam - Plâyen" trên đường sang Thượng Hải dự Hội nghị chống chiến tranh đã ghé qua Sài Gòn. Đoàn đã làm việc tại đây từ ngày 8 đến ngày 18-8-1933. Đồng chí Pôn Vaiăng Cutuyriê đã tham gia một cuộc mít tinh lớn trước hàng nghìn người lao động Việt Nam. Những hoạt động của Đoàn tại Sài Gòn đã tố cáo chế độ thực dân và ủng hộ những người cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do.
- Viện Mác - Lênin: Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt –Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội 1986, tr. 82.
NGÀY 31-8
Xứ uỷ Nam Kỳ ra Thông cáo gửi đảng viên toàn xứ
Cuối tháng 8-1933, Đảng bộ Nam Kỳ tổ chức Hội nghị đại biểu để bầu Xứ uỷ. Sau Hội nghị, Xứ uỷ ra Thông cáo gửi các đảng viên toàn xứ.
Thông cáo nêu rõ: trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đang chìm sâu trong khủng hoảng, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau và giữa các nước đế quốc với Liên Xô rất gay gắt. Ở Đông Dương, đế quốc Pháp đang thi hành cải cách lừa bịp ở Trung Kỳ, phong trào cách mạng dần hồi phục, đã xuất hiện rải rác một số cuộc đấu tranh của công nhân. Nhiệm vụ chính của Đảng lúc này là ra sức khôi phục tổ chức, lực lượng.
Xứ uỷ Nam Kỳ nhận thấy trong thời gian vừa qua, công tác tuyên truyền, tổ chức của Đảng bộ còn yếu nên ảnh hưởng của Đảng chưa sâu rộng trong quần chúng. Xứ ủy đề ra một số nhiệm vụ trước mắt là:
1. Củng cố các chi bộ cũ và xây dựng các chi bộ mới trong các nhà máy, xí nghiệp lớn như Phú Mỹ, điện nước, điện tín, bến cảng ...
2. Xây dựng tổ chức Công hội xung quanh các chi bộ Đảng.
3. Giải tán Thành uỷ Sài Gòn Chợ Lớn, Xứ uỷ trực tiếp chỉ đạo địa bàn thành phố.
4. Xây dựng Đặc uỷ Đồng Nai (gồm ba tỉnh Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một) để lãnh đạo các hoạt động trong công nhân ba tỉnh.
5. Tăng cường vận động công nhân và xây dựng Đảng trong công nhân với khẩu hiệu "chui vào sản nghiệp".
Đối với nhiệm vụ vận động nông dân, Thông cáo nêu rõ, cách mạng ruộng đất là "trung tâm điểm của cách mạng tư sản dân quyền, nông dân là một động lực căn bản của cách mạng" nên phải chú ý vận động nông dân đấu tranh, trước hết bằng cuộc đấu tranh sôi nổi của chính giai cấp công nhân. Phong trào nông dân bắt đầu hồi phục ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tuy nhiên còn rời rạc. Vì thế, Đảng có nhiệm vụ phổ biến Chương trình hành động và Điều lệ của Nông hội, phát triển tổ chức Nông hội một cách rộng rãi đặc biệt là vùng ven các đô thị để dễ liên kết phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân. Muốn xây dựng Nông hội mạnh thì phải xây dựng chi bộ Đảng làm nòng cốt. Phải tổ chức Đặc uỷ Hậu Giang, xây dựng lại cơ sở ở các tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Gò Công. Phải đấu tranh chống tư tưởng coi nhẹ vị trí, vai trò của giai cấp nông dân và chống việc bỏ địa bàn thành thị chạy về nông thôn để tránh khủng bố.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Xứ uỷ nêu rõ nhiệm vụ tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, huấn luyện, nâng cao trình độ lý luận của đảng viên bằng việc phổ biến và sự tham gia rộng rãi của cán bộ đảng viên vào xuất bản Tạp chí Cộng sản và báo chí của các địa phương, học tập Điều lệ Đảng, chú ý đào tạo cán bộ vô sản.
Hội nghị tiến hành cải tiến tổ chức, tăng cường thành phần vô sản trong các cơ quan lãnh đạo. Hội nghị cử Xứ uỷ Nam Kỳ gồm 9 đồng chí (5 ủy viên chính thức 4 uỷ viên dự khuyết) và Ban Thường vụ gồm 3 đồng chí. Trong 9 đồng chí có 2 nông dân, 1 trí thức và 6 công nhân. Đồng chí Trương Văn Bang là Bí thư Xứ uỷ.
Ngoài ra, Hội nghị đề ra hai nhiệm vụ cho Xứ uỷ Nam Kỳ là: chắp nối liên lạc với Đặc uỷ Long Châu, Rạch Hà để thống nhất hoạt động và chắp mối liên lạc với Cao Miên, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Ai Lao để hợp nhất các xứ bộ, tổ chức lại Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 113-118.
THÁNG 10
Cuộc tranh luận về duy tâm - duy vật và thắng lợi của tư tưởng vô sản trên lĩnh vực triết học
Cuộc đấu tranh cách mạng diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, triết học. Đế quốc Pháp và bọn tay sai âm mưu tiến công vào tư tưởng triết học vô sản để hỗ trợ cho các chính sách về chính trị, quân sự, kinh tế - văn hoá.
Mở ra cuộc tranh luận về duy tâm và duy vật, Phan Khôi viết bài "Văn minh vật chất và văn minh tinh thần" đăng báo Phụ nữ thời đàmngày 8-8-1933. Theo Phan Khôi thì, "tinh thần sinh ra vật chất", người phương Tây có “tinh thần cao thượng hùng tráng” còn người phương Đông thì “tinh thần yếu đuối lắm". Cụ thể hơn, tác giả bài báo còn mạt sát tinh thần dân tộc Việt Nam: "Chúng ta, người Việt Nam đây, phải tỉnh ngộ lại, phải thành thật nhận mình là thua kém, thua kém về vật chất là bởi thua kém về tinh thần" và kết luận: dân ta "chẳng có tinh thần gì đâu mà làm phách”. Ngoài ra, "học giả" Phan Khôi còn có bài báo “Nguyên lý và hiện tượng”, đăng báo Phụ nữ thời đàm ngày 12-11-1933, tách rời nguyên lý và hiện tượng, tách rời triết học và khoa học.
Để chống lại những luận điểm duy tâm, phản động của Phan Khôi, đồng chí Hải Triều và một số đồng chí khác đã viết nhiều bài báo kiên quyết vạch mặt hắn trước dư luận. Các bài báo "ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật" đăng báo Đông phương ngày 20-10-1933 và "ông Phan Khôi là một học giả duy tâm" đăng báo Phụ nữ tân tiến tháng 1-1934 của Hải Triều, bài "Vật chất và tinh thần" của Thành Tâm, đăng báo Đông phương ngày 8-11-1933... đã bác bỏ những luận điểm phản động của Phan Khôi, tuyên truyền khẳng định và đề cao học thuyết duy vật. Hải Triều và những trí thức cách mạng đã khẳng định những nguyên lý của phép biện chứng duy vật, chứng minh vật chất có trước, tinh thần có sau, tinh thần phụ thuộc vào vật chất, vật chất thay đổi thì tinh thần cũng thay đổi theo, tinh thần chỉ là "cái phản chiếu của vật chất". Tuy nhiên, tư tưởng có tác động trở lại đối với vật chất. Hải Triều và các trí thức tiến bộ cũng đấu tranh phản bác lập luận mập mờ về “nguyên lý và hiện tượng” của Phan Khôi.
Nhân cuộc tranh luận, những trí thức yêu nước, tiến bộ đã phê phán tư tưởng nô lệ, đầu hàng đế quốc của Phan Khôi, vạch rõ sở dĩ nước ta còn thua kém các nước phương Tây chính là do bị đế quốc kìm hãm về chính trị, kinh tế và văn hoá.
Cuộc tranh luận trên tuy chỉ thu hẹp trong phạm vi báo chí công khai hợp pháp, nhưng là biểu hiện rõ nét của tư tưởng yêu nước cách mạng chống tư tưởng nô lệ, phản động. Nó có tiếng vang lớn trong các tầng lớp nhân dân thành thị, nhất là tầng lớp trí thức, làm thức tỉnh tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của một bộ phận nhân dân.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam, 1925-1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nôi, 1984, tr 81-82.
- Thăng Long Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 183.
NGÀY 15 - 10
Thư của Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc và Nhật Bản gửi Đảng Cộng sản Đông Dương
Hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc tế Cộng sản, ngày 15- 10-1933, các Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Nhật Bản gửi chung một bức thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trước hết, bức thư khẳng định những thành tích của Đảng trong mấy năm qua đã lãnh đạo cuộc đấu tranh anh dũng chống ách áp bức bóc lột của đế quốc và phong kiến. Bằng những chứng cứ, số liệu cụ thể, bức thư tố cáo chính sách khủng bố tàn bạo của đế quốc Pháp và bè lũ tay sai đối với cách mạng Đông Dương và vạch rõ điều đó chứng tỏ đế quốc Pháp và tay sai đang rất hoảng hốt, lo sợ trước sức mạnh của phong trào cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh chung của giai cấp vô sản chống chủ nghĩa đế quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương luôn được sự quan tâm ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Bức thư nêu rõ "Các Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Nhật Bản gửi lời chào mừng vô sản nồng nhiệt nhất đến những người cộng sản và tất cả những người lao động Đông Dương. Tuy ở các nước khác nhau, nhưng chúng ta đều có một sự nghiệp chung. Thưa các đồng chí, chúng tôi ở bên cạnh các đồng chí".
Bức thư nói lên tinh thần đoàn kết chiến đấu giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với các Đảng Cộng sản và nhân dân tiến bộ thế giới, là nguồn cổ vũ Đảng Cộng sản và nhân dân Đông Dương tiếp tục tiến lên.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.4, tr 439-444.
TRONG NĂM 1933
Chương trình hành động của Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương
Tầng lớp thanh niên có vị trí, vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn chú ý vận động thanh niên đấu tranh theo đường lối chính trị của mình. Ngoài những yêu cầu chung của toàn dân tộc, thanh niên có những yêu cầu riêng của tầng lớp mình. Tổ chức Thanh niên Cộng sản Đoàn được thành lập và phát triển từ năm 1931, nhưng còn có tính chất địa phương, chưa có một chương trình hành động chung của Thanh niên Cộng sản Đoàn toàn xứ Đông Dương. Đáp ứng yêu cầu đó, Đảng Cộng sản Đông Dương giúp Thanh niên Cộng sản Đoàn xây dựng chương trình hành động, nhằm tập hợp đông đảo và đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh của thanh niên.
Dưới sự áp bức, bóc lột nặng nề của đế quốc Pháp và bọn tay sai thanh niên cũng như các tầng lớp nhân dân lao động khác phải chịu trăm điều khổ cực, bất công. Những quyền lợi của thanh niên như công ăn việc làm, học tập, vui chơi, giải trí, hoạt động xã hội... bị xâm phạm. Trong cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc, tầng lớp thanh niên ngày càng biểu lộ tinh thần hăng hái, xung kích.
Trước phong trào đấu tranh của thanh niên ngày càng tăng, đế quốc Pháp và tay sai một mặt tiến hành khủng bố dã man nhằm làm nhụt chí yêu nước của thanh niên, mặt khác ra sức lừa dối, hướng thanh niên xa rời con đường đấu tranh cách mạng, lầm đường, lạc lối bằng các tổ chức thanh niên "cải lương" hoặc quá “tả". Trước tình hình đó. Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương đề ra nhiệm vụ cương quyết đấu tranh chống ảnh hưởng quốc gia cải lương trong thanh niên bằng cách kiên trì giáo dục chính trị, tư tưởng cho thanh niên, vạch trần bộ mặt phản dân hại nước của các tổ chức thanh niên do địch lập ra như “Thanh niên Bắc Kỳ”, "Tân thanh niên", "Tiến quân"... Thanh niên Cộng sản Đoàn ra sức thu phục những thanh niên yêu nước trong Việt Nam Quốc dân Đảng và hợp tác với những tổ chức thanh niên có xu hướng yêu nước khác. Chương trình hành động nêu rõ: chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Thanh niên Cộng sản Đoàn và bằng con đường bạo lực cách mạng, thanh niên Đông Dương mới có thể giải phóng mình, giải phóng dân tộc.
Chương trình hành động khẳng định Thanh niên Cộng sản Đoàn là đội quân tiên phong của thanh niên lao động, có nhiệm vụ tập hợp thanh niên lao động đấu tranh theo đường lối của Đảng Cộng sản và Quốc tế Cộng sản Thanh niên. Trước sự khủng bố tàn bạo của kẻ thù, Thanh niên Cộng sản Đoàn phải xây dựng tổ chức và hoạt động bí mật đồng thời phải lợi dụng triệt để các hình thức công khai, bán công khai để thu hút đông đảo thanh niên trong các ngành nghề địa phương kể cả trong các tổ chức của địch lập ra. Từ khi thành lập, thanh niên cộng sản luôn tiên phong trong đấu tranh đòi các quyền lợi cho thanh niên, chống ảnh hưởng quốc gia cải lương và tả phái. Tuy nhiên, Thanh niên Cộng sản Đông Dương còn nhiều khuyết điểm như chưa kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm từ cao trào 1930-1931, chưa tuyên truyền rộng rãi những tấm gương đấu tranh anh dũng của thanh niên, liên hệ giữa thanh niên các địa phương, giữa thanh niên thành thị và nông thôn, giữa các nhà máy, xí nghiệp chưa chặt chẽ. Do đó, nhiệm vụ trước mắt là phải xây dựng tổ chức thanh niên cộng sản rộng rãi ở các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, ở nông thôn cũng như thành thị. Dựa trên Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương,Chương trình hành động của Thanh niên Cộng sản Đoàn nêu lên năm nhiệm vụ căn bản và những yêu cầu chung của Thanh niên Cộng sản Đông Dương. Chương trình hành động cũng nêu lên bảy nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể, trước mắt của toàn thể thanh niên lao động ở Đông Dương và những yêu cầu của thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên các dân tộc ít người, nữ thanh niên, thanh niên trong quân đội địch, học sinh sinh viên, thanh niên nghèo thành thị và nhiệm vụ lãnh đạo thiếu niên, nhi đồng.
Cuối cùng, Chương trình hành động kêu gọi toàn thể thanh niên Đông Dương tập hợp đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương để thực hiện hai nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc, phong kiến, sau đó tiến lên xã hội cộng sản. Sự ra đời Chương trình hành động của Thanh niên Cộng sản Đoàn cho thấy một bước trưởng thành của Đảng ta trong nhiệm vụ lãnh đạo toàn dân thực hiện đường lối cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.4, tr. 119-142.
TRONG NĂM 1933
Tỉnh uỷ Quảng Ngãi tái lập, lãnh đạo phong trào đấu tranh
Tháng 3-1933, Tỉnh ủy Quảng Ngãi tái lập do đồng chí Phạm Quy làm Bí thư. Tỉnh uỷ chủ trương phát động quần chúng đấu tranh công khai với địch để tập hợp lực lượng, đề ra nhiệm vụ cấp bách của Đảng bộ là: kiên trì tập hợp, giáo dục quần chúng, chống tư tưởng cầu an mệt mỏi, sợ địch, vạch trần âm mưu tội ác của kẻ thù, xây dựng củng cố hệ thống Đảng và các tổ chức quần chúng, chú trọng đến công nhân đang làm đường xe lửa, liên hệ với các tỉnh bạn giúp xây dựng cơ sở Đảng ở nhưng nơi còn trắng để cùng nhau phối hợp hoạt động bắt liên lạc với cấp trên, mỗi tháng Tỉnh ủy họp một lần để kiểm điểm công tác bàn phương hướng hoạt động.
Nhờ những chủ trương đúng đắn đó, phong trào cách mạng trong tỉnh dần hồi phục và phát triển. Hệ thống tổ chức Đảng và đoàn thể quần chúng được củng cố và mở rộng, tiêu biểu là ở các huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Sơn Tịnh, Bình Sơn. Toàn tỉnh có 40 đảng viên, Tỉnh ủy được củng cố do đồng chí Phạm Xuân Hòa làm Bí thư.
Khôi phục tổ chức gắn với khôi phục đấu tranh. Cuối tháng 4-1933, tù chính trị nữ ở Nhà lao Quảng Ngãi tuyệt thực phản đối những hành động tàn bạo của bọn cai tù. Nhiều nơi, nông dân dựa vào các tổ chức biến tướng như “Hội đổi công”, “Hội vòng công”, “Đoàn cày”, "Đoàn cấy”, “Đoàn gặt” đấu tranh để tăng tiền công, đòi chia lại công điền công thổ, chống tệ chè chén, sách nhiễu của bọn hào lý, đòi những quyền dân sinh dân chủ. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 300 nông dân Nghĩa Hành ngày 22-6- 1933, phản đối chủ thầu đập Suối Đá tăng tiền thủy lợi phí. Tháng 8-1933, tù chính trị Nhà lao Buôn Ma Thuột về Nhà lao Quảng Ngãi đấu tranh phản đối chế độ lao dịch. Ngày 27-9-1933, Đảng bộ còn tổ chức treo cờ búa liềm ở Sơn Tịnh và một số nơi.
Cuối năm, đường dây liên lạc giữa Quảng Ngãi với các tỉnh Nam Trung Bộ và cấp trên đã thông suốt tạo điều kiện phong trào cấp tỉnh phát triển mạnh mẽ hơn.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
NĂM 1933
Chương trình hành động và Điều lệ của Công đoàn
Giai cấp công nhân giữ vị trí tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cùng với Đảng Cộng sản, tổ chức Công hội đỏ giữ vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, tổ chức công nhân đấu tranh. Công tác vận động công nhân được chú ý ngay từ đầu với việc thành lập Ban Công vận Trung ương (1-1931) do đồng chí Tổng Bí thư Trần Phú làm Trưởng ban. Cùng với việc xây dựng Điều lệ và Chương trình hành động của Nông hội, Thanh niên Cộng sản Đoàn, Đảng Cộng sản Đông Dương đã xây dựng, cho ra đời Chương trình hành động và Điều lệ của Công đoàn vào năm 1933.
Trước hết, Chương trình hành động nêu rõ chính sách áp bức bóc lột hết sức tàn tệ của chủ nghĩa đế quốc Pháp đối với người lao động Đông Dương, vạch trần cái gọi là "văn minh", “khai hoá", "bình đẳng”, “bác ái" thực chất là lừa bịp về mặt tinh thần, là sự bóc lột người lao động đến tận xương tủy để tìm kiếm siêu lợi nhuận tư bản.
Chương trình hành động điểm lại quá trình ra đời của giai cấp công nhân Đông Dương, ra đời một cách "đau đớn" từ chính sách bóc lột thuộc địa của tư bản Pháp. Những đặc điểm của giai cấp công nhân là: gắn bó chặt chẽ với giai cấp nông dân, tuổi đời còn rất trẻ, trình độ giác ngộ giai cấp chưa cao...
Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân chịu trăm đường khổ cực, lao động nặng nhọc, đói, rét, bệnh tật, đánh đập, cúp lương... không ngòi bút nào miêu tả được. Chính vì thế, giai cấp công nhân không còn con đường nào khác là đoàn kết lại, đấu tranh chống áp bức, bóc lột.
Chương trình hành động nêu lên những kinh nghiệm đấu tranh của giai cấp công nhân Đông Dương. Lịch sử đấu tranh của công nhân bắt đầu từ năm 1925, đến năm 1931 đã hết sức mạnh mẽ, từ các cuộc đấu tranh lẻ tẻ, tự phát đã phát triển thành các phong trào có tổ chức. Các tổ chức Công hội phát triển khá mạnh, giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Tuy nhiên, sự liên kết trong phong trào công nhân cũng như sự liên kết với giai cấp nông dân chưa chặt chẽ làm cho các cuộc đấu tranh còn thu được ít kết quả. Đế quốc Pháp và tay sai bằng các chính sách lừa bịp đang ra sức xoa dịu phong trào công nhân.
Chương trình hành động nêu rõ: "Giai cấp vô sản chúng ta chỉ thừa nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng duy nhất, đội tiên phong tuyệt vời của chúng ta... Công hội cách mạng chìa bàn tay cho Đảng Cộng sản, tổ chức mặt trận tranh đấu thống nhất của hàng chục triệu công nhân và phu cu li, kêu gọi anh chị em tranh đấu chống chính phủ, chống giai cấp tư sản, để đòi lợi ích trước mắt của chúng ta, kiên trì tranh đấu, noi theo "tấm gương quang vinh" của giai cấp vô sản Nga, tranh đấu cho đến khi cuộc cách mạng giải phóng giành được thắng lợi hoàn toàn”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 64-83.
TRONG NĂM 1933
Đấu tranh của tù chính trị cộng sản ở Ngục Sơn La
Từ năm 1930, đế quốc Pháp tăng cường xây dựng và mở rộng hệ thống nhà tù để giam cầm, đày ải những chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước. Thực dân Pháp biến Ngục Sơn La thành trung tâm lưu đày ở phía bắc Việt Nam. Địch tập trung ở đây nhiều tên cai ngục nham hiểm và gian ác, thi hành chế độ tù đày khắc nghiệt nhằm giết dần giết mòn những người tù, uy hiếp tinh thần đấu tranh của họ. Riêng năm 1933, trong 8 tháng đã có hơn 60 người tù bị chết, trong đó có nhiều chiến sĩ cộng sản.
Từ đầu năm 1930 đến tháng 2-1933, địch đã đày bốn đoàn tù chính trị lên Ngục Sơn La, trong đó đông nhất là đoàn thứ tư gồm 210 người. Trong đoàn tù này có nhiều đồng chí Trung ương uỷ viên, Xứ uỷ, tỉnh ủy viên và cán bộ của các cấp uỷ mà thực dân Pháp đã xếp vào "những phần tử nguy hiểm". Đường lên Tây Bắc xa xôi, đoàn tù chính trị đã đấu tranh quyết liệt buộc địch chấp nhận các yêu cầu như đi hai ngày phải nghỉ một ngày, mỗi ngày chỉ đi từ 15-20 km, trưa phải được nghỉ lâu hơn, bỏ dây thừng, người ốm được đi tự do không bị xích chân tay...
Chế độ tù đày khắc nghiệt ở Ngục Sơn La đã cướp đi nhiều cán bộ ưu tú của Đảng. Tin tức lan truyền đã làm sôi động phong trào đấu tranh trong và ngoài nước đòi án xá tù chính trị. Do vậy, tháng 10-1933, Toàn quyền Đông Dương Pátxkiê đi kinh lý Sơn La cùng với Thống sứ Bắc Kỳ Pagiơ (Pages). Được tin đó, tù chính trị đã tổ chức chuẩn bị đấu tranh, cử đại diện đưa yêu sách cho Pátxkiê đòi chuyển tù chính trị về xuôi, phải được ăn gạo tẻ, không ăn gạo nếp, phải được nhận tiền, bưu điện, quà cáp, thuốc men từ ngoài gửi vào, thả những người bị bắt oan, không được đánh đập tù nhân, không làm việc nặng nhọc. Anh em còn tố cáo chế độ tù đày dã man làm nhiều người ốm chết.
Trước thái độ kiên quyết của tù nhân cùng với tác động phong trào tiến bộ ở Pháp, thực dân Pháp phải đáp ứng nhiều yêu cầu của tù nhân. Địch phải chuyển một số lớn tù chính trị từ Ngục Sơn La về Hà Nội, giảm bớt chế độ tù đày khắc nghiệt. Những thắng lợi đó đã cổ vũ tinh thần đấu tranh bất khuất của những người cộng sản và những người yêu nước tại Nhà ngục Sơn La.
- Viện Mác - Lênin, Viện Lịch sử Đảng: Ngục Sơn La, trường học đấu tranh cách mạng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 3-20.
____________
1. Sau này do sức đấu tranh của dư luận trong nước và tại Pháp, án tù các đồng chí Phạm Hùng, Lê Văn Lương giảm xuống chung thân và bị đày ra Côn Đảo.
Năm 1934 ĐẦU NĂM 1934
Đàm thoại giữa đại diện của Quốc tế Cộng sản và đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đang học tập, công tác ở Liên Xô
Từ khi được công nhận là một chi bộ độc lập, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương và Quốc tế Cộng sản khá chặt chẽ. Trước tình hình cách mạng trong nước gặp khó khăn, nhiều đảng viên đang công tác và học tập tại Liên Xô có những băn khoăn, lo lắng. Trong cuộc phỏng vấn với các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đang học tập tại Đại học Phương Đông và trường Quốc tế Lênin đầu năm 19341, đồng chí đại diện của Quốc tế Cộng sản2 giải đáp nhiều vấn đề mà các đảng viên nêu ra.
Cuộc phỏng vấn gồm 24 câu hỏi và trả lời về nhiều vấn đề đang đặt ra của cách mạng Việt Nam và Đông Dương.
Phân tích tình hình hiện tại ở Đông Dương, đồng chí cho rằng phong trào cách mạng chỉ tạm thời lắng xuống do sự khủng bố trắng của đế quốc Pháp. Vấn đề quan trọng là Đảng Cộng sản Đông Dương phải tìm ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh trước đó. chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới sẽ bùng phát mạnh mẽ. Những người cộng sản ở Đông Dương cần tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Trước mắt là đấu tranh để thực hiện bản Chương trình hành động của Đảng năm 1932, ra sức khôi phục tổ chức Đảng các cấp; xây dựng lại bộ máy tuyên truyền và cơ quan ngôn luận của Đảng; củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng; xây dựng lại các Đội tự vệ; kiên quyết đấu tranh chống thế lực Tờrốtkít và các đảng phái phản động; nâng cao ý thức cảnh giác các mạng, lấy hoạt động bí mật là chính, đồng thời tranh thủ các hoạt động công khai hợp pháp...
Nhận thấy tầm quan trọng của hai bài phỏng vấn trên, năm 1935, Quốc tế Cộng sản cho in thành sách bằng tiếng Nhật.
Cuộc đàm thoại giữa đồng chí đại diện Quốc tế Cộng sản và đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương đang học tập ở Liên Xô đã giúp các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương thấy rõ tình hình và nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Đông Dương, khẳng định tình đoàn kết vô sản chiến đấu và niềm tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi của cách mạng Đông Dương của những người cộng sản quốc tế chân chính.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1, 2, 3-1989
TỪ NGÀY 8-2 ĐẾN NGÀY 18-3
Phái đoàn công nhân Pháp điều tra tình hình Đông Dương
Phong trào đấu tranh cách mạng anh dũng của nhân dân Đông Dương cũng như chính sách khủng bố tàn bạo của đế quốc Pháp vang dội không chỉ ở trong nước mà còn lan ra nhiều nước trên thế giới, nhất là ở "chính quốc". Từ năm 1931, cuộc vận động của Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Công hội đỏ, Hội Cứu tế đỏ và nhiều đoàn thể tiến bộ ở Pháp chống khủng bố trắng ở Đông Dương mỗi ngày một mạnh mẽ, gây thành phong trào đòi đại xá chính trị phạm và "Uỷ ban vận động đại xá tù chính trị Đông Dương" được thành lập trong đó có nhiều nhân vật nổi tiếng của nước Pháp tham gia. Tháng 1-1934, "Phái đoàn công nhân điều tra tình hình Đông Dương được thành lập do đồng chí Gabơrien Pêri (Gabriel Péri), nghị sĩ Cộng sản tại Quốc hội Pháp đứng đầu. Phái đoàn có nhiệm vụ điều tra những đơn kêu cứu của các gia đình có người bị chính quyền thuộc địa bắt bớ, giam cầm đã gửi đến "Uỷ ban vận động đại xá tù chính trị Đông Dương" và điều tra hậu quả cuộc khủng hoảng kinh tế, tình cảnh khổ cực của người lao động Đông Dương...
Phái đoàn tới Sài Gòn lịch trình làm việc bị nhà cầm quyền thuộc địa kiểm soát gắt gao. Đế quốc Pháp cho tay sai vu cáo phái đoàn là “tay sai của Mạc Tư Khoa", nhưng đồng chí Pêri bác bỏ luận điệu đó và tuyên bố rõ mục đích của đoàn là điều tra về sự khủng bố, về những nỗi bất công, về điều kiện lao động của công nhân Đông Dương, trên cơ sở đó đưa một phúc trình về những yêu sách của nhân dân Đông Dương lên Chính phủ Pháp.
Khi phái đoàn điều tra hoạt động ở Sài Gòn và Nam Kỳ, chính quyền thuộc địa tìm mọi cách ngăn cản. Tuy vậy đoàn đã đến nhiều đồn điền, nhà máy, nhiều địa phương như Cao Lãnh là nơi nhiều quần chúng đã bị tàn sát năm 1930-1931. Phái đoàn bị ngăn chặn không ra được Côn Đảo, Trung Kỳ, Bắc Kỳ nhưng đã tiếp xúc được với những người nhà nạn nhân của chính sách khủng bố, đã thấy được nỗi thống khổ của nhân dân lao động Nam Kỳ nói riêng và Đông Dương nói chung.
Tuy gặp nhiều cản trở, phái đoàn cố gắng làm hết trách nhiệm của mình và đưa ra một bản yêu sách tám điểm đòi những quyền lợi căn bản nhất cho người lao động Đông Dương, đặc biệt là đòi xét xử lại, đòi ân xá tất cả tù chính trị đang bị đày ải trong các nhà tù. Sự thật tình hình Đông Dương đúng như lời đồng chí Pêri từng viết trên báo L Humanité (Nhân đạo): “Nền văn minh của Pháp đã làm cho Đông Dương trở thành xứ sở của những nhục hình".
Sau khi về nước, phái đoàn tổ chức họp báo, công bố rộng rãi kết quả điều tra, làm dấy lên phong trào đấu tranh đòi đại xá tù chính trị Đông Dương. Trước sức ép của nhân dân tiến bộ Pháp, tháng 8-1934, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương phải ra lệnh ân xá nhiều tù chính trị, nới lỏng phần nào sự áp bức, bóc lột.
Hoạt động của phái đoàn điều tra và kết quả của nó góp phần quan trọng thắt chặt tình đoàn kết giữa giai cấp công nhân Pháp và giai cấp công nhân Đông Dương.
- Viện Mác - Lênin: Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt –Pháp, Nxb. Thông tin lý luận, 1986, tr. 82, 307.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930- 1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, tr. 188-191.
ĐẦU NĂM 1934
Thành lập Ban địa phương Chấp uỷ Trung Trung Kỳ, phong trào cách mạng tiếp tục phát triển ở Quảng Ngãi
Do bị thiệt hại nặng nề sau các đợt khủng bố của đế quốc Pháp, nhiệm vụ khôi phục tổ chức và lực lượng, duy trì phong trào đấu tranh trở thành nhiệm vụ cấp bách của các tỉnh Trung Trung Kỳ. Đầu năm 1934, đại biểu năm tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà họp tại thôn Hà Trung, nay thuộc xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi bàn về các vấn đề:
- Củng cố, phát triển cơ sở Đảng ở các tỉnh.
- Xây dựng các đoàn thể quần chúng cách mạng.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, huấn luyện, xuất bản báo Cờ đỏ làm cơ quan ngôn luận.
- Giữ vững đường dây trên lạc giữa các tỉnh và cấp trên.
- Xây dựng tài chính cho Đảng.
- Hội nghị bầu ra Ban Địa phương Chấp uỷ Trung Trung Kỳ do đồng chí Phạm Xuân Hoà làm Bí thư.
Đến cuối năm 1934, Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Nghĩa bắt được liên lạc với Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ và các tỉnh phía Bắc. Trên cơ sở đó, Đảng bộ tỉnh nhanh chóng mở rộng tổ chức cơ sở Đảng và các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xuất bản báo Dân nghèo phổ biến các tài liệu do Xứ ủy Nam Kỳ, Tỉnh uỷ Nghệ An cung cấp nhằm nâng cao giác ngộ cho đảng viên và quần chúng, vạch tội ác, âm mưu của kẻ thù.
Nhờ đó, phong trào cách mạng trong tỉnh tiếp tục phát triển. Công nhân làm đường xe lửa tiếp tục đấu tranh chống bọn cai thầu, đòi tăng lương, đòi trợ cấp thuốc men, chống cúp phạt, đánh đập. Nông dân đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, chống “phù thu lạm bổ” của bọn cường hào. Tù chính trị đấu tranh chống lao dịch, chống chế độ nhà tù hà khắc.
Phong trào đấu tranh tiếp tục, Quảng Ngãi luôn là tỉnh Trung Kỳ có phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (1930-1975), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Khánh Hoà xuất bản, 2001, t.1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
THÁNG 2
Hội nghị An Lục Long (Tân An) lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ
Xứ uỷ Nam Kỳ do Trương Văn Bang thành lập và hoạt động chẳng được bao lâu lại bị địch phá vỡ.
Đầu tháng 2-1934, tại An Lục Long (tỉnh Tân An) đã diễn ra hội nghị thành lập Xứ ủy mới do đồng chí Trần Văn Giàu làm Bí thư.
Xứ uỷ tiến hành liên lạc với các đồng chí vừa mãn hạn tù trở về, còn vững tinh thần, để gây dựng lại các cơ sở Đảng bị tan vỡ. Đồng chí Đại, Uỷ viên Xứ uỷ được phân công bắt liên lạc với các đảng viên ở Gia Định, Biên Hòa. Tại cuộc họp Xứ uỷ lâm thời tháng 3-1934 tại Bình Đăng, một số đồng chí được bổ sung vào Xứ ủy như Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Long, Trần Văn Vi (tức Dân Tôn Tử).
Xứ ủy Nam Kỳ tái lập góp phần khôi phục phong trào cách mạng của nhân dân Nam Kỳ, từ đây phong trào dần dần có những bước phát triển. Xứ uỷ lâm thời này hoạt động cho đến sau Đại hội I của Đảng (3-1935).
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Năm Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995. t.1.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1934- 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 3
Thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương
Từ khi Ban Chấp hành Trung ương bị địch phá vỡ vào năm 1931, khủng bố trắng trong nước ngày càng khốc liệt. Được Quốc tế Cộng sản giúp đỡ, những người cộng sản Việt Nam ở nước ngoài tích cực hoạt động để tái lập bộ tham mưu chung của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ tháng 11-1931, đồng chí Lê Hồng Phong tăng cường hoạt động ở Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc vận động thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài. Tháng 6-1933, Quốc tế Cộng sản cử Svan (Trần Văn Dựt hay Nguyễn Văn Dựt) và Xinhítrơkin (Hà Huy Tập) về tăng cường.
Tháng 3 - 1934, Ban Chỉ huy ở ngoài được thành lập gồm ba người:
- Lítvinhốp (Lê Hồng Phong): Bí thư (thư ký)
- Xinhítrơkin (Hà Huy Tập): Trưởng Ban Tuyên truyền kiêm phụ trách Tạp chí Bônsơvích.
- Svan: Trưởng ban Kiểm tra.
Từ ngày 16 đến ngày 21-6-1934, Hội nghị chính thức Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương và đại diện các tổ chức Đảng trong nước diễn ra tại Ma Cao (Trung Quốc). Dự Hội nghị có năm đại biểu (hai đại biểu từ Việt Nam sang). Hội nghị nêu bảy vấn đề:
- Đề nghị Quốc tế Cộng sản công nhận Ban Chỉ huy ở ngoài.
- Chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ nhất vào mùa Xuân 1935.
- Xoá bỏ Đông Dương Viện trợ Bộ ở Thái Lan.
- Cải tổ Xứ ủy lâm thời Bắc Kỳ.
- Thông qua thư gửi Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc, Thái Lan.
- Giúp Đảng Cộng sản Thái Lan gửi học viên sang học ở Mátxcơva.
- Vấn đề Đảng Vừng hồng ở Trung Kỳ.
Hội nghị tuyên bố chính thức thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương gồm năm người (ba người do Quốc tế Cộng sản chỉ định và hai người do trong nước cử ra). Ban Chỉ huy ở ngoài được quyền thay mặt Đảng trong quan hệ quốc tế với Quốc tế Cộng sản và các đảng anh em. Ban Chỉ huy ở ngoài là cơ quan đại diện của Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Các nghị quyết quan trọng của Ban Chấp hành Trung ương trong nước phải có sự đồng ý của Ban Chỉ huy ở ngoài. Nếu Ban Chấp hành Trung ương trong nước không tán thành thì có quyền đề đạt với Quốc tế Cộng sản. Nếu Quốc tế Cộng sản chưa có chỉ thị gì thì Ban Chấp hành Trung ương trong nước vẫn phải tuân theo Ban Chỉ huy ở ngoài. Trong trường hợp Trung ương Đảng bị vỡ, Ban Chỉ huy ở ngoài có thể thay thế Trung ương lãnh đạo trực tiếp các tổ chức Đảng trong nước để duy trì liên lạc thường xuyên.
Ban Chỉ huy ở ngoài có hai bộ phận: bộ phận tổ chức và bộ phận tuyên truyền cổ động, do hai người là thành viên Ban Chỉ huy ở ngoài phụ trách.
Trước mắt, Ban Chỉ huy ở ngoài có nhiệm vụ xuất bản tạp chí Bônsơvích, là cơ quan ngôn luận của Đảng và mở các lớp huấn luyện cán bộ.
Sau khi thành lập, Ban Chỉ huy ở ngoài tăng cường chỉ đạo việc củng cố tổ chức và tuyên truyền cách mạng trong nước. Việc thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc đấu tranh phục hồi tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất. Lê Hồng Phong nhận xét: "Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đã đóng vai trò lãnh đạo và tổ chức trong việc tái lập cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr 523-524.
- Đỗ Quang Hưng: Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng qua sự phản ánh của Lê Hồng Phong, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3 (304), 1999.
THÁNG 3
Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Thông cáo cho đảng viên ở miền Đông và Tây Nam Kỳ về cải tiến tổ chức Đảng
Ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng phụ thuộc rất lớn vào hệ thống tổ chức. Trước sự bất cập của hệ thống tổ chức hiện tại, tháng 3-1934, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Thông cáo gửi đảng viên các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Kỳ về cải tiến hệ thống tổ chức của Đảng.
Thông cáo nêu rõ: hiện tại, Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức ra các xứ uỷ. Qua một thời gian hoạt động nảy sinh nhiều vấn đề bất hợp lý trong công tác tổ chức cũng như lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Vì thế, Đảng chủ trương bỏ hình thức tổ chức cấp xứ, thành lập hình thức tổ chức Đảng theo vùng ở miền Đông và miền Tây Nam Kỳ. Ban Chấp hành Liên Tỉnh uỷ sẽ gồm 5-7 đồng chí trong đó có 3 đồng chí uỷ viên thường vụ. Xoá bỏ các Ban Chấp uỷ đặc biệt đã có từ trước như Đặc uỷ Long Châu Rạch Hà. Xây dựng các Ban Chấp uỷ tỉnh, thành ở những tỉnh cơ sở Đảng mạnh. Những tỉnh cơ sở Đảng còn yếu sẽ trực thuộc tỉnh uỷ lân cận. Có thể lập ra các Ban Tỉnh uỷ lâm thời của các tỉnh có cơ sở Đảng còn yếu. Trong các vùng đặc biệt, nơi tập trung hầm mỏ, đồn điền sẽ tổ chức các Ban Chấp uỷ đặc biệt. Ban Chấp uỷ vùng sẽ phải ra một tờ báo và có một cơ quan huấn luyện. Trước mắt, tại miền Đông lập "Địa phương Chấp ủy miền Đông”, ở miền Tây lập “Địa phương Chấp uỷ Hậu Giang" và củng cố xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trực thuộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr.143-152.
THÁNG 3
Thành lập Xứ Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Lào
Ngay từ những năm 1928 - 1929, những người yêu nước và Cộng sản Việt Nam đã tích cực hoạt động trên đất Lào. Khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, họ tiếp tục bám dân, bám đất không quản ngại hy sinh gian khổ, xây dựng nhiều cơ sở cách mạng trên đất Lào. Họ tổ chức các lớp huấn luyện chính trị Điều lệ Đảng, đọc và phổ biến sách báo bí mật của Đảng, cuốn Đường cách mệnh của đồng chí Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ đảng viên và quần chúng cảm tình Đảng.
Đến năm 1933, ở Viêng Chăn đã xây dựng được 5 chi bộ cộng sản. Thà Khẹt xây dựng được 5 chi bộ, Savanakhet 1 chi bộ, Pắcxế 1 chi bộ, mỏ Phôngchiu 1 chi bộ. Các chi bộ trên đều do các đảng viên Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo.
Để sự chỉ đạo được thuận lợi, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định thành lập Đảng bộ Ai Lao. Trong hai ngày 6 và 7-3-1934, 15 đại biểu các chi bộ Đảng trên đất Lào đã họp Đại hội tại Cù Lao Xiêng Xụ (Viêng Chăn) để thành lập Xứ Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tại Lào. Các đồng chí Tiến Già (Lê Mạnh Trinh), đồng chí Phay (Nguyễn Chính Cần) dự Đại hội với tư cách đại biểu của Đông Dương Viện trợ Bộ.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Xứ uỷ lâm thời Đảng bộ Ai Lao gồm 9 đồng chí do đồng chí Mản làm Bí thư. Trong Ban Chấp hành có đồng chí Xuân (Xavát) là đảng viên đầu tiên của Lào. Đại hội quyết định thành lập Tỉnh uỷ Pắc xế, Xavanakhét, củng cố thành uỷ Viêng Chăn, tổ chức Ban Chấp hành lâm thời của Thanh niên Cộng sản Đoàn, củng cố tổ chức Công hội và Hội Phản đế. Xứ uỷ lâm thời Ai Lao xuất bản báo Gương chung, mỗi kỳ ra 100 số, làm cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ. Việc ra báo do các đảng viên Việt Nam phụ trách.
Sau Đại hội, phong trào đấu tranh của nhân dân Lào được đẩy mạnh, đặc biệt là vào dịp kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 và ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh 12-9-1934.
Tháng 10-1934, Xứ ủy Ai Lao họp ở Uđôn (Xiêm) bầu bổ sung các đồng chí Trần Tích, Phan Đình Hy (tức Quế), Phạm Quang Rịu (tức Diệu), Phạm Văn Xô (tức Đạt) và đồng chí Cuộc vào Ban Chấp hành. Đồng chí Phan Đình Hy (tức Quế) được cử làm Bí thư. Hội nghị cũng cử đồng chí Phạm Văn Xô, đại diện Xứ ủy Ai Lao đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất ở Ma Cao.
- Lịch sử Lào, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1997, tr.29.
- Hồi ký Lê Mạnh Trinh (Tiến già), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 5
Bãi công đồng loạt của công nhân các nhà máy xay ở Chợ Lớn
Phong trào công nhân ở Nam Kỳ, nhất là ở Thành phố Sài Gòn - Chợ lớn phát triển mạnh hơn ở những nơi khác. Trong hai năm 1934-1935, trên toàn Đông Dương có 60 cuộc đấu tranh của công nhân thì trên địa bàn thành phố đã có 40 cuộc (chiếm 213), nổ ra ở những trung tâm quan trọng như xưởng Ba Son, sân bay Tân Sơn Nhất, các nhà máy xay, xe điện, xe kéo, xe thổ mộ. Cuộc đấu tranh có tổ chức lớn nhất là cuộc bãi công đồng loạt của công nhân 12 nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn trong tháng 5-1934.
Sở dĩ phong trào công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn mạnh mẽ như vậy vì đây là nơi tập trung công nhân, trình độ giác ngộ tổ chức của công nhân khá cao, có truyền thống đấu tranh rất sớm. Nhưng quan trọng nhất là vì ở Sài Gòn - Chợ Lớn, Đảng bộ được nhanh chóng tổ chức lại và lãnh đạo phong trào quần chúng. Sau khi bị phá vỡ (giữa năm 1931), đến giữa năm 1932, Xứ uỷ lâm thời và Thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn được tổ chức lại. Tháng 5-1933, Xứ ủy được tái lập. Bị địch phá vỡ một lần nữa, đến tháng 2-1934, một Xử ủy mới lại được thành lập, hoạt động tháng 4-1935. Đồng thời, Tỉnh uỷ Gia Định, Huyện uỷ Gò Vấp và Hóc Môn, Liên Tỉnh uỷ Vàm Cỏ Đông cũng thành lập và hoạt động. Nhờ vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định sau một thời gian tạm lắng, lại bùng lên mạnh mẽ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
THÁNG 5
Công nhân các đồn điền cao su ở Nam Kỳ tiếp tục đấu tranh
Hưởng ứng phong trào đấu tranh của công nhân các đồn điền cao su, nhất là cuộc đấu tranh của công nhân Đồn điền cao su Dầu Tiếng (ngày 15-12-1932), tháng 5- 1934, công nhân đồn điền cao su của Công ty SIPH ở tỉnh Biên Hoà bãi công suốt hai ngày chống hạ thấp tiền lương, buộc giới chủ phải nhượng bộ.
Cũng trong năm 1934, công nhân nhiều đồn điền cao su của các công ty tư bản Pháp ở hai quận Hóc Môn (Gia Định) và Trảng Bàng (Tây Ninh) nối tiếp nhau bãi công. Công nhân giữa các đồn điền đã có sự liên lạc, phối hợp đấu tranh tạo thành một phong trào đấu tranh hết sức mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh của công nhân cao su ở Nam Kỳ đã tiếp nối truyền thống đấu tranh anh dũng "Phú Riềng đỏ” của công nhân cao su chống thực dân đế quốc.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930- 1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, tr. 69.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 21-6
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu của các đảng bộ trong nước gửi thư cho Đảng Cộng sản Pháp
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu của các đảng bộ trong nước họp từ ngày 16 đến ngày 21-6-1934 tại Ma Cao, Trung Quốc gửi thư tới Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp.
Bức thư khẳng định sức sống mãnh liệt của Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng Đông Dương. Tuy bị thiệt hại nặng nề do chính sách khủng bố trắng của nhà cầm quyền thực dân nhưng phong trào đã, đang được phục hồi và phát triển trở lại mỗi lúc một mạnh mẽ. Có được kết quả đó là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, tinh thần đấu tranh bền bỉ của quần chúng và sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản, sự giúp đỡ của các Đảng Cộng sản anh em trong đó có Đảng Cộng sản Pháp.
Đảng Cộng sản Đông Dương ghi nhận sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu, to lớn của Đảng Cộng sản Pháp đối với cách mạng Đông Dương trong thời gian qua như tổ chức biểu tình phản đối khủng bố trắng, ca ngợi cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Đông Dương, cử phái đoàn điều tra tình hình Đông Dương, bào chữa cho các chiến sĩ cộng sản, đòi ân xá tù chính trị... và mong rằng Đảng Cộng sản Pháp tiếp tục sự ủng hộ, giúp đỡ đó. Về phần mình, Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi nhân dân Đông Dương đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa để ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Pháp chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, nói lên mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 177-179.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 21-6
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu của các Đảng hộ trong nước gửi thư cho Đảng Cộng sản Trung Quốc
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu của các đảng bộ trong nước họp từ ngày 16 đến ngày 21-6-1934 gửi thư tới Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Thay mặt giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông Dương, Hội nghị gửi tới Đảng Cộng sản Trung Quốc lời chào cộng sản nồng nhiệt. Bức thư ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Trung Quốc đang dẫn dắt cách mạng Trung Quốc giành được những thắng lợi to lớn. Hồng quân Trung Quốc đang đánh bại các cuộc tấn công của Quốc dân Đảng, bảo vệ và không ngừng mở rộng vùng giải phóng. Những thắng lợi đó không những cổ vũ nhân dân Trung Quốc hăng hái tiến lên, mà còn làm cho những người cộng sản và nhân dân lao động Đông Dương hết sức vui mừng. Nhân dân Đông Dương coi đó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với cuộc đấu tranh của mình chống đế quốc và phong kiến.
Với tình đoàn kết quốc tế chân chính, "Đảng Cộng sản Đông Dương dùng hết sức mình, để đưa quần chúng Đông Dương ra tranh đấu bảo vệ các Xôviết Tàu và phong trào cách mạng Tàu”. Trên cơ sở nhiều mối tương đồng, Đảng Cộng sản Đông Dương tin tưởng chắc chắn rằng tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước sẽ ngày càng củng cố và phát triển.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 180-181.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 21-6
Nghị quyết Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu của các đảng bộ trong nước
Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu của các đảng bộ trong nước họp Hội nghị từ ngày 16 đến ngày 21-6-1934. Hội nghị đã nhận định tình hình thế giới và trong nước những năm qua, tình hình hoạt động của Đảng và đề ra những nhiệm vụ cách mạng trước mắt.
Nhận định tình hình phong trào cách mạng hai năm qua, Hội nghị khẳng định các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động ở Sài Gòn, Gia Định, Sóc Trăng, Chợ Lớn, Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Nguyên, Hải Phòng, Cao Bằng, Phnôm Pênh, Viêng Chăn, Bò Nèng, Phong Chiu... chứng tỏ sức sống mãnh liệt của phong trào, ảnh hưởng sâu rộng của Đảng đối với các giai cấp tầng lớp, đặc biệt là tiểu tư sản, thanh niên, phụ nữ các dân tộc ít người ở Đông Dương.
Về tình hình tổ chức Đảng, Hội nghị nhận định rằng, mặc dù đế quốc Pháp khủng bố trắng, gây thiệt hại lớn cho Đảng về tổ chức và lực lượng nhưng Đảng không ngừng đấu tranh. Đảng đã khôi phục hệ thống tổ chức và tranh đấu trở lại. Ảnh hưởng của Đảng phát triển mạnh ở Lào, thượng du Bắc Kỳ tới các tỉnh chậm phát triển và tới đồng bào các dân tộc ít người. Về lý luận, Đảng đã soạn thảo Chương trình hành động của mình, giúp Đoàn Thanh niên Cộng sản và Công hội soạn thảo Chương trình hành động. Đồng thời, Hội nghị chỉ ra những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng như lực lượng Đảng phân bố chưa đều, Đảng chưa xây dựng được cơ sở ở những địa bàn quan trọng như công xưởng lớn ở các thành phố, các nhà máy sửa chữa xe lửa, các tuyến đường sắt, hầm mỏ và đồn điền chưa nối lại mối liên hệ với với địa phương đã được tổ chức trước đây, mối liên hệ giữa tổ chức đảng các cấp chưa chặt chẽ, cấp trên không nắm được tình hình cụ thể ở cơ sở, cấp dưới ít nhận được chỉ thị của cấp trên, do đó cán bộ đảng viên ở cơ sở chưa chú ý lập những tổ chức cách mạng của quần chúng, công khai cũng như bí mật, chưa kiên quyết đấu tranh chống những phần tử, phe nhóm phản cách mạng. Về chính trị, tư tưởng, còn nhiều tàn tích tiểu tư sản như xu hướng cô độc biệt phái, chưa nhận rõ tính chất giai cấp của Đảng, tính chất dân tộc, dân chủ của cách mạng nước ta, trình độ cán bộ đảng viên còn nhiều hạn chế.
Trên cơ sở đánh giá tình hình, Hội nghị đã đề ra những nhiệm vụ trước mắt.
Về tổ chức: nhanh chóng khôi phục tổ chức Đảng các cấp, củng cố các tổ chức đã có, xây dựng tổ chức mới ở các địa bàn quan trọng, kết nạp đảng viên mới từ giai cấp vô sản thành thị và nông thôn, tăng cường thành phần vô sản trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Về phương pháp hoạt động: kết hợp hoạt động bí mật với hoạt động công khai, tổ chức và dựa vào các tổ chức quần chúng cách mạng, thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa các đảng bộ bảo đảm sự thống nhất trong hoạt động, đồng thời đề cao tinh thần tự động công tác của các đảng bộ và địa phương trên cơ sở bản Chương trình hành động của Đảng.
Đảng phải kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức và đấu tranh, mở rộng đấu tranh hơn nữa để phát triển tổ chức. Đồng thời Đảng phải tiếp tục Bônsơvích hoá, mở rộng tự phê bình và phê bình, khắc phục những tư tưởng và hành động sai sót trong Đảng và trong phong trào cách mạng mà Hội nghị đã vạch ra, để giữ vững sự đoàn kết, thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng.
Hội nghị cũng nêu ra những nhiệm vụ khác của Đảng là làm tốt công tác tuyên truyền và huấn luyện, tăng cường tổ chức và lãnh đạo Thanh niên Cộng sản Đoàn, Công hội đỏ, Nông hội đỏ, tăng cường hơn nữa công tác binh vận, đẩy mạnh đấu tranh phản đối chiến tranh đế quốc, mở rộng Hội Phản đế, tăng cường lãnh đạo các tổ chức công khai hợp pháp của quần chúng.
Hội nghị quyết định lấy Chương trình hành động của Đảng làm cơ sở cho mọi hoạt động của Đảng, của các đoàn thể quần chúng cách mạng, đẩy mạnh đấu tranh đưa cách mạng Đông Dương tới thắng lợi.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr 153-154.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 21-6
Nghị quyết Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương và đại biểu của các Đảng bộ trong nước về vấn đề tổ chức
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương và đại diện các tổ chức đảng trong nước đã thông qua Nghị quyết chính trị và Nghị quyết về vấn đề tổ chức.
Nghị quyết Hội nghị tuyên bố, theo chỉ thị và được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, “Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương đã được thành lập".
Ban Chỉ huy ở ngoài gồm năm đồng chí, trong đó ba người do Quốc tế Cộng sản chỉ định và hai đồng chí do Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ định. Ban Chỉ huy ở ngoài bầu Ban Thường vụ và Thư ký Ban. Thời hạn tồn tại của Ban Chỉ huy ở ngoài do Quốc tế Cộng sản quy định. Ban Chỉ huy ở ngoài họp ít nhất ba tháng một lần. Ban Chỉ huy ở ngoài là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương trong quan hệ với Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản anh em.
Ban Chỉ huy ở ngoài chỉ đạo đường lối chính trị chung của Ban Chấp hành Trung ương, có quyền cử đại biểu tham gia công tác kiểm tra hoạt động của các cấp ủy Đảng trong nước.
Những Nghị quyết về những vấn đề quan trọng Ban Trung ương chưa thống nhất với Ban Chỉ huy ở ngoài, Ban Trung ương có quyền khiếu nại lên Quốc tế Cộng sản. Trước khi được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Trung ương vẫn phải tuân theo sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy ở ngoài để nhận sự lãnh đạo thường xuyên. Ban Chỉ huy ở ngoài có thể thay thế Ban Trung ương lãnh đạo trực tiếp tất cả các tổ chức Đảng trong nước.
Ban Chỉ huy ở ngoài gồm hai bộ phận: Bộ Tổ chức (phụ trách cả công tác liên lạc); Bộ Tuyên truyền cổ động. Mỗi bộ có một đồng chí do Ban Chỉ huy ở ngoài chỉ định phụ trách.
Nhiệm vụ trước mắt của Ban Chỉ huy ở ngoài là xuất bản Tạp chí Bônsơvích, cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản và tổ chức các khóa học giúp cán bộ đảng viên nắm vững tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 175-176.
NGÀY 3 - 8
Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương
Quốc tế Cộng sản luôn quan tâm theo dõi và chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong đó có sự trưởng thành của Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng Đông Dương. Ngày 3-8-1934, Quốc tế Cộng sản gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương, đánh giá tình hình và đề ra những nhiệm vụ cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Quốc tế Cộng sản khẳng định: Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời từ chính sách áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc, phong kiến, tuy còn con trẻ, nhưng Đảng đã giành được vai trò lãnh đạo phong trào dân tộc và "sau khởi nghĩa Yên Bái, chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể là lãnh tụ duy nhất của cuộc đấu tranh cách mạng chống đế quốc". Ra đời chưa được bao lâu, Đảng đã tập hợp được đông đảo quần chúng, đấu tranh mạnh mẽ trong cao trào cách mạng 1930-1931.
Quốc tế Cộng sản nhắc lại những nhiệm vụ cơ bản của Đảng Cộng sản Đông Dương là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng dân chủ tư sản với hai nhiệm vụ phản đế, phản phong. Hiện tại, điều kiện chưa chín muồi cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi. Đảng phải tập trung vào củng cố tổ chức, phát triển lực lượng đoàn kết toàn dân đấu tranh, Quốc tế Cộng sản chỉ ra con đường duy nhất đưa cách mạng Đông Dương đến thắng lợi là con đường cách mạng bạo lực. Do vậy, Đảng phải ra sức vạch mặt và chống lại chủ nghĩa cải lương đang phát triển mạnh do sự đàn áp khốc liệt và chính sách lừa bịp của đế quốc. Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, tả khuynh đang xuất hiện trong Đảng như khuynh hướng tách rời nhiệm vụ phản đế, phản phong; không tin vào sức mạnh của quần chúng; tư tưởng thất bại chủ nghĩa, xu hướng bạo động ám sát, coi nhẹ đấu tranh kinh tế, đòi các quyền lợi hằng ngày...
Quốc tế Cộng sản chỉ rõ rằng: "Nhen lên và tổ chức ở khắp nơi cuộc đấu tranh của nông dân đòi ruộng đất, kết hợp cuộc đấu tranh ấy với phong trào công nhân và phong trào phản đế. Đó là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng hiện nay”. Muốn vậy, Đảng phải ra sức phát triển Công hội, Nông hội đỏ, xây dựng những đội du kích vũ trang, tăng cường công tác binh vận, mở rộng liên hệ với cách mạng Trung Quốc, tăng cường đoàn kết toàn dân nhất là hai giai cấp chính công nhân và nông dân. Đảng phải được xây dựng, củng cố ngang tầm với nhiệm vụ, phải xây dựng sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng, đặc biệt chú ý phát hành rộng rãi tờ báo Đảng làm cơ quan ngôn luận. Tập trung vào nhiệm vụ Bônsơvích hoá Đảng bằng cách tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trong Đảng, phát triển đảng viên và cán bộ Đảng trong công nhân, củng cố các Ban Chấp hành địa phương, tăng cường lãnh đạo các đoàn thể quần chúng....
Cuối thư, Quốc tế Cộng sản tin tưởng rằng, Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ lãnh đạo nhân dân Đông Dương đấu tranh giành thắng lợi trong một tương lai không xa.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 461-494.
THÁNG 8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi thư cho đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương
Do có mối tương đồng về địa lý, chính trị, Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc luôn quan tâm đến tình hình cách mạng Đông Dương. Tháng 8-1934, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc gửi tới Đảng Cộng sản Đông Dương bức thư ca ngợi cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân ta và trao đổi một số kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng.
Khẳng định tình đoàn kết chiến đấu giữa hai đảng anh em, bức thư có đoạn: "Đã mấy năm nay, Đảng Cộng sản Tàu và Đảng Cộng sản Đông Dương liên hiệp đệ huynh rất mật thiết trong trường tranh đấu chống tụi thù chung”.
Trước tình hình đế quốc Pháp và tay sai đang tiến hành chính sách khủng bố trắng tàn bạo, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: khủng bố trắng của đế quốc không thể dập tắt được phong trào cách mạng ở Đông Dương, những người cộng sản chân chính không bao giờ run sợ, rối trí và dao động trước kẻ thù. Tổ chức, lực lượng của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng đang hồi phục mạnh mẽ.
Bằng kinh nghiệm của mình, những người cộng sản Trung Quốc nêu rõ: Đảng Cộng sản Đông Dương phải chú ý tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm đấu tranh, tranh lập lại sai lầm cũ để tiến lên phía trước. Muốn thắng lợi, phải xây dựng Đảng Cộng sản Đông Dương thành một Đảng Bônsơvích có tổ chức và kỷ luật, liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Phương pháp hoạt động của Đảng phải bí mật, đồng thời phải biết lợi dụng các điều kiện công khai mà tập hợp quần chúng, tăng cường công tác tuyên truyền, báo chí vạch mặt những phần tử cơ hội đầu hàng, phản bội, tay sai Pháp. Đảng phải thành lập được và giữ quyền lãnh đạo trong Mặt trận Phản đề Đông Dương. Khi đã củng cố tổ chức, phát triển lực lượng rồi, phải kiên quyết lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng, tiếp nối truyền thống oanh liệt của công nông Đông Dương trong cao trào cách mạng 1930-1931.
Đánh giá vị trí, vai trò của cách mạng Đông Dương, bức thư có đoạn: “Cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận trong những bộ phận quyết định của cuộc cách mạng ở Đông Phương". Do đó, Đảng Cộng sản Đông Dương còn có nhiệm vụ đẩy mạnh cuộc đấu tranh trong xứ, góp tiếng nói chung vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới là cách thiết thực để giúp đỡ cách mạng Trung Quốc, Liên Xô trong chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, từ 495-517.
NGÀY 10 - 9
Tỉnh ủy Nghệ An, Hà Tĩnh kêu gọi kỷ niệm ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh
Nghệ An, Hà Tĩnh là quê hương của Xôviết Nghệ - Tĩnh. Mặc dù bị đàn áp khốc liệt nhưng ngọn lửa cách mạng luôn âm ỉ cháy trong lòng người dân Nghệ - Tĩnh, chỉ chờ dịp bùng phát mạnh mẽ.
Để gây lại phong trào cách mạng ở Đông Dương, tháng 6-1934, Hội nghi Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng với đại biểu các đảng bộ trong nước quyết định phát truyền đơn kêu gọi kỷ niệm ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh 12-9 trên toàn xứ Đông Dương.
Truyền đơn do Hội nghị thảo ra nêu rõ: Tuy chỉ tồn tại được vài tháng nhưng chính quyền Xôviết đã cho quần chúng thấy rằng: chỉ có chính quyền Xôviết mới thực sự đại diện cho đông đảo quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến. Kỷ niệm Xôviết Nghệ -Tĩnh, chúng ta cần phải tiếp tục tranh đấu, đánh đổ khủng bố trắng, đánh đổ đế quốc Pháp, quan lại địa chủ, hào lý bản xứ, làm cho dân tộc hoàn toàn độc lập.
Thực hiện chủ trương ấy, Tỉnh uỷ Nghệ An đã in hàng nghìn bản truyền đơn kỷ niệm Xôviết Nghệ -Tĩnh phân phát trong các tỉnh ở Trung Kỳ. Ngày 10-9-1934, ngày quy định hoạt động thống nhất trong toàn xứ, truyền đơn đã được rải ở nhiều nơi trong thành phố Vinh, thị xã Hà Tĩnh và một số huyện trong hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Vinh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Vinh,Nxb. Nghệ Tĩnh, 1988, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t, I.
THÁNG 10
Lập lại Xử uỷ Bắc Kỳ và sự khôi phục tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ
Đến cuối năm 1931, phong trào cách mạng cả nước bị kẻ thù khủng bố dữ dội, bị tổn thất nặng nề và tạm thời lắng xuống. Tháng 2-1932, mật thám Pháp phá vỡ cơ quan Xứ uỷ Bắc Kỳ và Thành uỷ Hà Nội. Đồng chí Trần Quang Tặng bị bắt.
Được sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, tháng 6-1932, Đảng Cộng sản Đông Dương công bố Chương trình hành động, xác định nhiệm vụ cấp thiết trước mắt là củng cố, khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào quần chúng.Đồng chí Hoàng Đình Giong về gây dựng cơ sở và phong trào ở vùng Cao-Bắc-Lạng (1932) và Hải Phòng (1933) tạo điều kiện cho quá trình khôi phục tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ. Tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài thành lập, chú ý hơn đến công tác khôi phục tổ chức trong nước.
Ở Bắc Kỳ, tổ chức Đảng phát triển mạnh mẽ nhất ở Cao Bằng với 201 đảng viên, Lạng Sơn 25 đảng viên và một số chi bộ, đảng viên ở rải rác các tỉnh Hà Giang, Thái Nguyên, Hà Nội, Hải Phòng, Hòn Gai. Trên cơ sở đó, Xử uỷ Bắc Kỳ được thành lập lại vào 25-10-1934, thành phần đảng viên đa số là người dân tộc thiểu số.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 185.
- Hệ thống tổ chức Đảng cấp tỉnh thành (1930-1945), lưu tạo Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 20- 12
Ban Chỉ huy ở ngoài gửi thư cho Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản
Quốc tế Cộng sản và nhất là Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ rất nhiều cho cách mạng Đông Dương về đào tạo cán bộ, phương hướng và đường lối hoạt động, về tài chính.
Trong bối cảnh chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thử nhất của Đảng sẽ diễn ra vào tháng 3-1935, ngày 20-12-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản đề nghị Ban Phương Đông tiếp tục giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương nhiều vấn đề như tài chính, chương trình hành động của các đoàn thể quần chúng, xem xét đánh giá cán bộ, bổ sung cán bộ, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm của Đảng, cử đại biểu Quốc tế Cộng sản dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng, xuất bản báo chí.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 196-201.
NGÀY 20-12
Báo cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng Đông Dương
Sau khi nắm được tình hình Đông Dương do các Xứ uỷ báo cáo lên, Ban Chỉ huy ở ngoài gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản.
Báo cáo cung cấp thông tin về tình hình chính trị, hoạt động của một số đảng phái, nhóm chính trị, tôn giáo... ở Đông Dương.
Trong lúc đó, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn chưa khôi phục được cơ quan lãnh đạo ở Trung ương.
Tuy nhiên, sau thời kỳ thiệt hại to lớn do bị khủng bố trắng, tổ chức Đảng đã khôi phục ở một số địa phương.
Ở Bắc Trung Kỳ, Nghệ An có 112 đảng viên, Hà Tĩnh có 83 đảng viên. Các tỉnh Thanh Hoá, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế xây dựng được một số chi bộ.
Ở Nam Trung Kỳ các tỉnh tử Quảng Nam đến Bình Thuận có 30 đảng viên.
Ở Bắc Kỳ, Xứ uỷ được thành lập ngày 25-10-1934. Cao Bằng có 201 đảng viên (trong đó có 160 đảng viên dưới 23 tuổi), Lạng Sơn có 25 đảng viên. Các tỉnh Hà Giang, Thái Nguyên, Hà Nội, Hải Phòng, Hòn Gai có một số chi bộ và đảng viên hoạt động đơn tuyến.
Tại Lào, Xứ uỷ được thành lập ngày 9-9-1934 với 4 chi bộ 18 đảng viên ở các tỉnh Boneng, Thà Khẹt, Phonhon, Viêng Chăn.
Cao Miên có 5 đảng viên, chưa tổ chức được Xứ uỷ.
Tại Đông Nam Kỳ, Đảng Cộng sản có 70 đảng viên, đã xây dựng được cơ quan lãnh đạo cấp miền (Đông Nam Kỳ).
Tại Tây Nam Kỳ, có 25 đảng viên và đã tổ chức được Chấp uỷ miền lâm thời.
Các tổ chức Đảng ở Nam Kỳ, Cao Miên, Nam Trung Kỳ tạm thời đặt dưới sự lãnh đạo của Liên Xử uỷ gồm năm người thành lập ngày 7-2-1934.
Đến cuối tháng 12-1934, Đảng Cộng sản Đông Dương có khoảng 600 đảng viên.
Công tác tuyên truyền của Đảng bước đầu được chú ý. Ở Nam Kỳ nguồn sách báo tiếng Pháp, các tổ chức Đảng viết và xuất bản hàng chục cuốn sách nhỏ, trong đó rộng rãi nhất là bản Chương trình hành động.
Các cấp uỷ Đảng từ Ban Chỉ huy ở ngoài đến các Xử uỷ các tỉnh đã xuất bản hàng chục tờ báo tạp chí để tuyên truyền đường lối của Đảng và tổ chức quần chúng đấu tranh.
Tổ chức Thanh niên Cộng sản đang được chú ý xây dựng nhất là ở Bắc Kỳ.
Tổ chức Công hội đỏ còn yếu, một vài nơi chưa tổ chức được công nhân.
Tổ chức Hiệp hội nông dân mặc dù phát triển khá mạnh ở một số địa phương, nhưng chưa tổ chức được tới cấp tỉnh. Các tổ chức Liên minh phản đế, Cứu tế đỏ, các hội thể thao, hội tương tế bắt đầu phát triển ở một số địa phương như Cao Bằng, Sài Gòn Gia Định, Ai Lao...
Những năm 1933-1934, Nam Kỳ là nơi phong trào đấu tranh diễn ra mạnh nhất. Công nhân, nông dân, tiểu thương, tư sản dân tộc... nhân những ngày kỷ niệm lớn, đấu tranh chống chính sách áp bức bóc lột hà khắc của chính quyền thực dân. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh phần lớn còn tự phát, ít liên hệ với nhau tập trung vào các mục tiêu kinh tế... một điểm đáng chú ý là phong trào đấu tranh của đồng bào dân tộc thiểu số phát triển mạnh mẽ.
Cuối cùng, Ban Chỉ huy ở ngoài báo cáo công tác chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng và đề nghị Quốc tế Cộng sản cho ý kiến về một số vấn đề tổ chức, cán bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t. 4, tr. 182-195.
TRONG NĂM
Những hoạt động của đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong năm 1934
Mùa xuân 1934, Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc sang Liên Xô. Tại Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc gặp gỡ các nhà lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản như Đ. Manuinxki, P. Míp, V. Vaxiliép. G. Đimitơrốp... Tháng 9, Nguyễn Ái Quốc được Ban Phương Đông gửi đến điều dưỡng tại nhà an dưỡng ở Crưm. Sau đó, tháng 10-1934, Người được nhận vào học ở Trường Quốc tế Lênin, năm học 1934-1935. Người thường gặp gỡ nhóm học sinh Việt Nam học ở Trường Đại học cộng sản của những người lao động Phương Đông để giúp đỡ họ trong học tập lý luận cũng như trong sinh hoạt.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.2, tr. 55-57.
TRONG NĂM
Sự khôi phục lực lượng cách mạng và cuộc đình công lớn của công nhân muối Hải Triều (Khánh Hoà)
Cũng như ở các địa phương khác của cả nước, trong cao trào cách mạng 1930-1931, hầu hết đảng viên, cơ sở cách mạng ở Khánh Hoà đều bị địch bắt và phá vỡ. Những đồng chí còn sót lại bị theo dõi gắt gao, hoạt động rất khó khăn. Sau đó, lực lượng cách mạng dần được phục hồi. Đầu năm 1934, đồng chí Thìn tức Phạm Đáng, một đảng viên cũ ở huyện Vạn Ninh bắt được liên lạc với đồng chí Phạm Xuân Hoà, một cán bộ lãnh đạo Đảng bộ Quảng Ngãi. Nhờ những cố gắng của những đảng viên trung kiên, đến giữa năm 1934, cơ sở cách mạng ở huyện Vạn Ninh phát triển khá mạnh. Công hội đỏ tổ chức được 30 hội viên trong công nhân xe lửa, 20 hội viên trong công nhân sở muối Hải Triều, 20 hội viên trong công nhân Sở đá Chín Cụm, Nông hội đỏ tổ chức được 40 hội viên, tổ chức Đảng xây dựng được 2 chi bộ với 7 đảng viên. Trên cơ sở đó, Ban Cán sự Đảng tỉnh Khánh Hoà được thành lập để thống nhất các hoạt động của Đảng ở huyện Vạn Ninh và mở rộng phong trào sang các địa phương khác. Hội nghị thành lập Ban Cán sự Đảng diễn ra ở Chín Cụm, đồng chí Thìn được bầu làm Bí thư Ban Cán sự Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân trong tỉnh đã tiến hành thắng lợi nhiều cuộc đấu tranh, trong đó có cuộc đình công của công nhân muối Hải Triều có tiếng vang và ảnh hưởng lớn trong tỉnh.
Cuộc đấu tranh nổ ra một cách tự phát do tên Tây Đoàn đánh công nhân. Sau đó, được sự chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng cuộc đấu tranh mở rộng với nhiều khẩu hiệu: “Phải đưa công nhân bị đánh đi bệnh viện", “Phản đối ngược đãi công nhân", "trả tiền lương đúng hạn, không treo giò"", “Tăng lương cho công nhân từ 10-15 %"... Số công nhân tham gia đấu tranh từ một nhóm ban đầu đã tăng lên tới 2/3 tổng số công nhân Sở muối. Địch khủng bố tàn nhẫn, bắt 200 người, cạo trọc đầu, đem về giam ở Nhà lao Nha Trang. Ban Cán sự Đảng nêu khẩu hiệu đòi thả những người bị bắt. Kẻ địch yêu cầu gặp gỡ thương lượng, âm mưu bắt người đứng đầu nhưng Ban lãnh đạo cuộc đấu tranh tỉnh táo, thương lượng qua thư.
Do cuộc đình công kéo dài trong thời gian đang vào vụ muối, tàu đợi ăn hàng nhiều cho nên địch phải nhượng bộ, thoả mãn một phần các yêu sách của công nhân. Đến ngày thứ 10 công nhân mới bắt đầu đi làm trở lại.
Phong trào đấu tranh cho thấy tinh thần giác ngộ cách mạng cao của công nhân, sẵn sàng theo Đảng đấu tranh vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của mình.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hoà (1930-1975), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Khánh Hoà xuất bản, 2001, t.1.
TRONG NĂM
Ban Chỉ huy ở ngoài xuất bản Tạp chí Bônsơvích
Ngoài những nhiệm vụ đặc biệt là liên lạc giữa Ban Chấp hành Trung ương với Quốc tế Cộng sản và các đảng khác, liên hệ với các tổ chức Đảng ở trong nước; đưa đảng viên hoạt động ở nước ngoài về phối hợp với đảng viên trong nước, tiếp tục củng cố và phát triển những cơ sở và tổ chức còn lại; thống nhất lực lượng trong cả nước để lãnh đạo thực hiện Chương trình hành động của Đảng; chuẩn bị Đại hội I của Đảng, Ban Chỉ huy ở ngoài còn có nhiệm vụ đào tạo cán bộ: giáo dục đảng viên đấu tranh thực hiện sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, vạch phương hướng sửa chữa những thiếu sót của cán bộ trong công tác tổ chức và lãnh đạo phong trào. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, Ban Chỉ huy ở ngoài đã xuất bản Tạp chí Bônsơvích - cơ quan của Ban Chỉ huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Hà Huy Tập biên tập và phụ trách công tác tuyên truyền cổ động. Tạp chí ra số 1, tháng 6-1934. Sau Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương, Tạp chí là Cơ quan lý luận của Đảng Cộng san Đông Dương. Nội dung chủ yếu của Tạp chí là tổng kết kinh nghiệm đấu tranh, hướng dẫn các cấp bộ Đảng phương pháp tổ chức và hoạt động, kêu gọi Quốc tế Cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế ủng hộ cách mạng Đông Dương, khẳng định tình đoàn kết giữa cách mạng Đông Dương và phong trào vô sản thế giới...
- Đỗ Quang Hưng: Lịch sử báo chí Việt Nam (1865-1945), Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 105-106.
TRONG NĂM
Cuộc đấu tranh của tù chính trị cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma Thuột
Nhà đày Buôn Ma Thuột tại Đắk Lắk là nơi đế quốc Pháp giam cầm, đày ải tù chính trị. Họ phải ăn gạo mục, cá thối, bị gông cùm xiềng xích như thời Trung cổ, bị đánh đập tàn bạo, phải lao động khổ sai. Nhưng chế độ khắc nghiệt của nhà đày đế quốc không thể khuất phục ý chí đấu tranh của những người cộng sản.
Trong hai năm 1933-1934, khi cuộc đấu tranh bên ngoài lắng xuống thì những cuộc đấu tranh trong lao tù vẫn tiếp tục. Tù nhân Nhà đày Buôn Ma Thuột (đầu năm 1934 lên tới 650 người), luôn nổi dậy đấu tranh. Ngoài các hình thức đấu tranh quen thuộc như tuyệt thực, hò la, đình công, học tập lý luận... xuất hiện hình thức viết thư tập thể gửi lên các cấp chính quyền thực dân và tay sai tố cáo chế độ nhà tù. Hình thức đấu tranh này ra đời trong tình hình phong trào đấu tranh đòi ân xá tù chính trị và cải thiện điều kiện lao tù của Đảng Cộng sản và nhân dân tiến bộ Pháp đang mạnh mẽ, buộc nhà cầm quyền thuộc địa không thể làm ngơ.
Tháng 6-1934, đồng chí Nguyễn Duy Trinh thay mặt anh em tù nhân viết thư tố cáo chế độ dã man ở Nhà đày Buôn Ma Thuột gửi Khâm sứ Trung Kỳ và Công sứ Đắk Lắk, buộc địch phải cử người đến điều tra và giải quyết một số yêu sách của tù nhân.
Tháng 9-1934, được tin Toàn quyền Rôbanh sẽ tới Nhà đày Buôn Ma Thuột, Ban lãnh đạo Nhà đày chủ trương các nhà giam chuẩn bị đơn tố cáo. Ngày 5-9-1934, Rôbanh đến Nhà đày Buôn Ma Thuột. Đi theo đoàn có bà Ăngđrê Viôlit, một nhà báo Pháp tiến bộ. Bà đã ghi lại tỉ mỉ nhưng lời tố cáo và những yêu sách của tù nhân cũng như chứng kiến tận mắt chế độ tàn bạo của Nhà đày. Về nước, bà đã viết cuốnĐông Dương kêu cứu tố cáo trước dư luận tội ác của nhà cầm quyền thuộc địa Pháp, làm dấy lên một phong trào đấu tranh đòi ân xá tù chính trị hết sức mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh bền bỉ và kiên quyết của tù chính trị Nhà đày Buôn Ma Thuột buộc đế quốc Pháp phải giải quyết nhiều yêu sách của tù nhân, có tác dụng cổ vũ cuộc đấu tranh trong thời kỳ tiếp theo. Bằng hình thức đấu tranh mới, những người cộng sản tại Nhà đày Buôn Ma Thuột đã tố cáo chế độ Nhà đày trước dư luận xã hội trong tỉnh Đắk Lắk, trong cả nước và trên thế giới, phá tan âm mưu của địch chia rẽ tù có học thức với những người tù bình thường, đoàn kết tù nhân đấu tranh cho mục tiêu của mình.
- Tỉnh uỷ Đắk Lắk - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột (1930-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 55-59.
HAI NĂM 1933-1934
Khôi phục tổ chức Đảng cấp tỉnh, thành ở nhiều địa phương
Sau thời kỳ đen tối của những năm 1931-1932, do sự khủng bố trắng của đế quốc Pháp và tay sai, tổ chức Đảng cấp tỉnh, thành, xứ và Trung ương hầu như tan vỡ hết, từ năm 1933 bắt đầu quá trình khôi phục, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức Đảng cấp tỉnh thành.
Tháng 3-1933, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi được thành lập. Các tổ chức Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên Cộng sán Đoàn trong tỉnh được củng cố và mở rộng.
Cũng vào thời gian này ở Mỹ Tho, đồng chí Võ Văn Tần được Xứ uỷ Nam Kỳ cử đến để xây dựng cơ sở. Tỉnh uỷ Mỹ Tho được củng cố lại do đồng chí Thái Văn Đầu làm Bí thư. Các cơ sở Đảng trong tỉnh bắt đầu được khôi phục. Đến tháng 10-1933, Tỉnh uỷ mở Hội nghị cán bộ toàn tỉnh để đánh giá tình hình đề ra chủ trương đẩy mạnh phong trào. Hội nghị bầu Tỉnh uỷ chính thức do đồng chí Thái Văn Đầu làm Bí thư, ra báo Phấn đấu làm cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ.
Tháng 9-1933, Đông Dương Viện trợ Bộ giúp huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) xây dựng Ban vận động, xây dựng cơ sở Đảng tại Thái Lan do đồng chí Nguyễn Kim Tiều phụ trách, sau đó chuyển về Quảng Bình hoạt động. Đến tháng 10-1933, Ban đã xây dựng Chi bộ Lũ Phong do đồng chí Nguyễn Kim Tiều làm Bí thư.
Trong năm 1933, ở Lào Cai, Chi bộ Nhà tù Sa Pa được thành lập. Ở Rạch Giá, hai chi bộ Vĩnh Phú và Ninh Quới được thành lập. Ở Long Xuyên, 9 chi bộ cũ được khôi phục. Ở nhiều địa phương khác, Đảng lãnh đạo xây dựng các tổ chức quần chúng. Ở Cần Thơ, Đảng thành lập nhiều đoàn thể như Hội tương tế, Hội ái hữu, Vạn cấy, Hội đọc sách, Hội đá banh... Ở Thủ Dầu Một, đồng chí Văn Công Khai tổ chức Công hội đỏ ở Dầu Tiếng và chuẩn bị thành lập chi bộ để lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân. Ở tỉnh Châu Đốc, nhiều chi bộ và tổ chức Công hội đã được thành lập trong công nhân đập đá núi Sam, thợ mộc, chùa Long Châu, kênh Co Heo... Công hội hầm đá núi Sam, núi Sập có khoảng 20 hội viên.
Trong năm 1934, nhiều cơ sở Đảng ở các địa phương tiếp tục được khôi phục và phát triển. Các tỉnh uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, Thanh Hoá, Nghệ An... được lập lại, Ban Cán sự Đảng được thành lập ở Khánh Hoà, xây dựng được 2 chi bộ với 7 đảng viên. Tỉnh uỷ Mỹ Tho tiến hành khôi phục một số cơ sở Đảng ở Châu Thành, Chợ Gạo, Cai Lậy, An Hoá. Ở Rạch Giá, thành lập thêm 2 chi bộ Vĩnh Quới và Bầu Sàng. Ở Cần Thơ, một số đảng viên ở cảng Vĩnh Xuân cùng với một số đồng chí vừa mãn hạn tù ở Côn Đảo về lập lại Chi bộ Vĩnh Xuân thành chi bộ mạnh tới 8 đảng viên.
Cùng với khôi phục tổ chức Đảng, một số tỉnh uỷ như Tân An, Chợ Lớn tổ chức, lãnh đạo một số cuộc đấu tranh của quần chúng như đấu tranh kỷ niệm "ba đồng chí L”.
- Vai trò của các Xứ uỷ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền 1930-1945, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (1930-1975), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Khánh Hoà xuất bản, 2001, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Mỹ Tho: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Mỹ Tho (1927-1975), Mỹ Tho, 1999.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình: Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình (1930-1954), sơ thảo, Quảng Bình, 1995, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
HAI NĂM 1933-1934
Khôi phục tổ chức và đấu tranh cách mạng ở Cao Bằng, Lạng Sơn
Những năm 1932-1933, phong trào cách mạng ở Cao Bằng, Lạng Sơn được sự chỉ đạo trực tiếp của một số cán bộ đảng từ Trung Quốc, phục hồi tổ chức và hoạt động.
Ở Lạng Sơn, đồng chí Hoàng Văn Thụ tích cực hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở các huyện, xã trong tỉnh. Giữa năm 1933, đồng chí Hoàng Văn Thụ tới Thụy Hùng, tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập chi bộ Đảng do đồng chí trực tiếp làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Văn Uyên và cũng là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Lạng Sơn.
Tháng 9-1933, Đảng bộ tổ chức rải truyền đơn kỷ niệm ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh. Đến giữa năm 1934, Ban Cán sự tỉnh Lạng Sơn được thành lập trên cơ sở mở rộng Chi bộ Thuỵ Hùng.
Đảng bộ Lạng Sơn tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng, phát triển cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, thiết lập đường giao liên trong tỉnh và sang Long Châu (Trung Quốc), đưa người sang dự các tập huấn luyện do Ban lãnh đạo Trung ương mở.
Ở Cao Bằng, tháng 7-1933, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh do đồng chí Hoàng Như (Hoàng Văn Nõn3) làm Bí thư được công nhận ở Hoà An và Hà Quảng, các Ban Châu uỷ được thành lập. Tỉnh uỷ quy định hình thức tổ chức "tam tam chế” để giữ bí mật.
Cũng trong tháng 7, đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Hoàng Đình Giong quyết định xây dựng Cao Bằng thành một trong những cơ sở Đảng vững chắc để chắp nối liên lạc với các cơ sở Đảng trong phạm vi toàn quốc sau thời kỳ khủng bố trắng năm 1931-1932.
Các tổ chức Thanh niên Cộng sản Đoàn, Nông hội đỏ được thành lập và phát triển ở các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình.
Trong năm 1933, Đảng bộ lãnh đạo quần chúng rải truyền đơn, treo cờ đỏ ở thị xã Cao Bằng, thị trấn Nước Hai, khu mỏ Tĩnh Túc... Phong trào đấu tranh đòi giảm thuế, chống bắt phu dấy lên mạnh mẽ, đã xuất hiện hình thức xuống đường biểu tình. Ở châu Hoà An, vụ trồng ngô năm 1933, Châu uỷ lãnh đạo cuộc đấu tranh của 300 phu ở các tổng Tượng Yên, Nhượng Yên, Hà Đàm, Tĩnh Oa đi làm đường từ thị xã lên Nước Hai, chống bắt phu vào ngày mùa, đi phu phải được cấp tiền gạo. Địch bắt một số người, Châu uỷ Hoà An vận động quần chúng viết đơn kiện lên Thống sứ Bắc Kỳ. Kết quả là Sở Thanh tra lao động Bắc Kỳ phải chấp nhận các yêu sách của phu.
Tháng 3-1934, nổ ra cuộc đấu tranh quyết liệt của hơn 100 phu Hoà An đang làm đường ở Nặm Vạng đòi được cấp tiền công. Chủ thầu phải chấp nhận yêu sách, trả mỗi người 0,2 đồng mỗi ngày.
Với những thắng lợi đó, quần chúng nhân dân tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của mình.
Đánh giá cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc thiểu số ở vùng biên giới phía Bắc, Đại hội Đảng lần thứ nhất (1935) nhận định: “Điều rất đặc sắc là cuộc tranh đấu của công nông người Thổ, người Nùng ở Cao Bằng, Lạng Sơn có tính chất tổ chức chu đáo và theo những khẩu hiệu cộng sản rất rõ rệt... Công nông các dân tộc thiểu số chẳng những đã vào hàng ngũ Đảng Cộng sản và các đoàn thể cách mạng khác do Đảng chỉ đạo mà thôi, mà họ đã giữ một địa vị rất quan trọng trong các cơ quan chỉ đạo từ hạ cấp cho tới thượng cấp... Đại hội chắc chắn rằng ở các xứ và miền dân tộc thiểu số đã có điều kiện khách quan sẵn sàng cho sự phát triển cách mạng vận động”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 71-72.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (1930-1954), tái bản lần thứ nhất, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Lạng Sơn xuất bản, 1998.
- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Hội đồng tổ chức Đảng cấp tỉnh, thành, Trung ương (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
CUỐI NĂM
Tỉnh uỷ Nghệ An củng cố và xuất bản báo Chuông cách mạng
Sau vụ rải tuyền đơn kêu gọi kỷ niệm ngày Xôviết Nghệ - Tĩnh, nhiều đồng chí cán bộ Đảng bị đế quốc Pháp bắt giam. Trước tình hình đó, đồng chí Ngô Tuân, cán bộ của Đông Dương Viện trợ Bộ về chỉ đạo công tác, cùng với đồng chí Võ Nguyên Hiến, một cán bộ còn lại của nhóm cộng sản Vừng hồng, chuyển cơ quan Tỉnh uỷ Nghệ An từ làng Đông Chử, huyện Nghi Lộc ra làng Hậu Luật, huyện Diễn Châu. Tại đây, cán đồng chí đã triệu tập Hội nghị đại biểu các huyện, bầu Tỉnh uỷ mới, xuất bản báo Chuông cách mạng, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài nước của Đảng. Nhiều tài liệu Đông Dương Viện trợ Bộ gửi về như Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, Trật tự tiến hành công tác cách mạng, Cách mạng vấn đáp... được Tỉnh uỷ Nghệ An phát hành tổ chức học tập trong các cấp bộ Đảng. Nhờ đó tư tưởng và tổ chức của Đảng bộ nhanh chóng được phục hồi và có phương hướng đấu tranh đúng.
- Ban Nghiên cầu Lịch sử Đảng Tính uỷ Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Vinh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Vinh,Nxb. Nghệ Tĩnh, 1988.
___________
1. Đăng trên tạp chí Quốc tế Cộng sản, số 4-1934.
2. Đồng chí Clêmăng Gốtvan, Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản (sau đó làm Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản 1935-1943) đã phỏng vấn, đàm thoại với các nhà cách mạng Ấn Độ và Đông Dương.
3. Còn gọi là Hoàng Văn Nọn.
Năm 1935 THÁNG 2
Đồng chí Hà Huy Tập viết bài "Trước lúc Đại hội Đảng phải nghiên cứu bản Chương trình hành động của Đảng một cách thế nào"
Tháng 2-1935, Tạp chí Bônsơvích, số 10, đăng bài viết của đồng chí Hà Huy Tập (lấy tên là Hồng Thế Công). Trước lúc Đại hội Đảng phải nghiên cứu bản Chương trình hành động của Đảng một cách thế nào? Đồng chí Hà Huy Tập lúc đó là thành viên Ban Chỉ huy ở ngoài, đồng thời là người chịu trách nhiệm chính chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng.
Trong bài viết của mình, đồng chí Hà Huy Tập khẳng định tầm quan trọng của Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dươngtháng 6-1932: “Bản chương trình ấy là kim chỉ nam cho tất thảy các đảng bộ về đường lý thuyết, tổ chức và thực hành". Chương trình hành động đã đánh giá rõ tình hình thế giới và Đông Dương, những ưu điểm, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương, đề ra tính chất, nhiệm vụ, động lực cách mạng Đông Dương, vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản, những khẩu hiệu chung cho cách mạng Đông Dương trong thời kỳ cách mạng tư sản dân quyền và những khẩu hiệu riêng cho từng giai cấp trong cách mạng, v.v... "Những vấn đề chính trị, các khẩu hiệu chung và riêng đã đề xướng ra trong bản Chương trình hành động (C.T.H.Đ) ấy vẫn còn có hiệu lực như trước; những nhiệm vụ đã phân tích trong bản Chương trình ấy cũng không phải trong một khoảng vài tháng, vài năm mà thi hành xong được, trái lại, chính là những nhiệm vụ chung cho cả thời kỳ cách mạng tư sản dân quyền ở xứ Đông Dương".
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài và đại biểu các đảng bộ trong nước tháng 6-1934 đã quyết định lấy Nghị quyết Hội nghị và Chương trình hành động làm tài liệu chính để thảo luận trong các chi bộ chuẩn bị cho Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng.
Thế nhưng Chương trình hành động của Đảng vẫn chưa được các đảng bộ quan tâm. Nam Kỳ, Cao Miên và phía Nam Trung Kỳ đã nhận được bản chương trình, song coi thường nó, chưa đem ra thảo luận chính thức trong các chi bộ. Còn ở Bắc Kỳ, Ai Lao và miền Bắc Trung Kỳ thì tổ chức Đảng chỉ mới bắt đầu nhận được Chương trình hành động.
Đồng chí Hà Huy Tập yêu cầu các chi bộ đã nhận được Chương trình hành động phải thảo luận ngay một cách kỹ lưỡng, để áp dụng đường lối chính trị chung vào địa phương một cách sáng tạo. Bản Chương trình hành động là kim chỉ nam cho toàn Đảng, mỗi đảng bộ địa phương phải có sáng kiến và nương dựa vào sách lược chung của bản Chương trình hành động đặng định ra kế hoạch làm việc hằng ngày trong quảng đại quần chúng ở địa phương mình”.
Đồng chí Hà Huy Tập phê phán thái độ coi thường Chương trình hành động, khuyên các đồng chí không nên nóng vội đề ra chương trình tối cao với những nội dung như: điều kiện bạo động, chuyển cách mạng tư sản dân quyền sang cách mạng vô sản, kế hoạch kiến thiết xã hội chủ nghĩa, sáng tạo xã hội cộng sản. Đồng chí nêu rõ, Chương trình hành động là một tài liệu mà Đảng ta cần và có thể dùng trong thời kỳ cách mạng tư sản dân quyền, trong lúc chưa có và sau khi đã có bản chương trình tối cao thì bản chương trình hành động cũ vẫn có hiệu lực. Nên sự thực bản Chương trình hành động là nhiệm vụ trung tâm hằng ngày của các đồng chí”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t. 5, tr 405-411.
NGÀY 17 - 3
Thư của Quốc tế Cộng sản gửi Đảng Cộng sản Đông Dương
Trước Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương Quốc tế Cộng sản gửi thư đề cập vấn đề tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trước đó, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Cộng sản Xiêm và Đảng Cộng sản Mã Lai có thư gửi Quốc tế Cộng sản đề nghị thành lập phân bộ của Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở Nam Thái Bình Dương để chỉ đạo ba đảng này. Song, Quốc tế Cộng sản cho rằng: “Việc thành lập một Trung tâm thống nhất để lãnh đạo ba Đảng (Đông Dương, Xiêm và Mã Lai) là quá sớm".
Thư khẳng định: “Cần phải giữ lại Ban Chỉ huy ở ngoài riêng cho Đảng Cộng sản Đông Dương".
Theo ý kiến của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập như một cơ quan song song tồn tại với Ban Trung ương Chấp uỷ ở trong nước, nhưng có những nhiệm vụ đặc biệt của mình. Ban Chỉ huy ở ngoài gồm có ba người do Ban Trung ương Chấp uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương giới thiệu và phải được Ban Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản thông qua. Ban Chỉ huy ở ngoài bầu thư ký. Thời hạn làm việc của Ban Chỉ huy ở ngoài do Quốc tế Cộng sản và Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quy định.
Nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài là: 1) Liên lạc với Ban Trung ương Chấp uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương, với Quốc tế Cộng sản và với các đảng anh em. 2) Tập hợp và đào tạo cán bộ Đảng cho đất nước; 3) Xuất bản Tạp chí Bônsơvích - Cơ quan lý luận Trung ương của Đảng.
Còn Ban Trung ương Chấp uỷ điều hành toàn bộ công tác chính trị ở trong nước chịu trách nhiệm thực hiện đúng đường lối của Đảng và điều hành công việc của tất cả các chấp uỷ Đảng trong nước.
Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Trung ương Chấp uỷ song song tồn tại. Nếu hai cơ quan có ý kiến bất đồng, thì Ban Trung ương Chấp uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương hoặc thành viên bất kỳ của Ban có quyền kiến nghị với Quốc tế Cộng sản.
Nếu Ban Trung ương Chấp uỷ bị tan rã hoặc mất liên lạc với tổ chức cấp dưới, Ban Chỉ huy ở ngoài phải gửi cán bộ về nước và bảo đảm tính liên tục của công tác lãnh đạo Đảng trong nước.
Thư ủng hộ việc đề cử đồng chí Lê Hồng Phong giữ chức Tổng thư ký Ban Trung ương Chấp uỷ, còn đồng chí Hà Huy Tập làm Thư ký Ban Chỉ huy ở ngoài.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội,2002, t. 5, tr. 412-415
TỪ NGÀY 27 ĐẾN NGÀY 31-3
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935. Dự Đại hội có 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở ngoài nước thành phần như sau:
- Đảng bộ Bắc Kỳ: 2 đại biểu.
- Đảng bộ Trung Kỳ: 2 đại biểu.
- Đảng bộ Nam Đông Dương: 3 đại biểu
- Đảng bộ Lào: 1 đại biểu.
- Tổ chức Đảng ở Thái Lan: 3 đại biểu.
- Ban Chỉ huy ở ngoài: 2 đại biểu.
Trong thời gian này, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã sang Liên Xô, vào học Trường quốc tế Lênin, trường dành cho cán bộ lãnh đạo các đảng công nhân trên thế giới. Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nõn đi Mátxcơva (Liên Xô) dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương đã đánh giá tình hình thế giới và trong nước, nêu bật những thành công của Liên Xô và phong trào cách mạng của nhân dân lao động nhiều nước trên thế giới, khẳng định chủ nghĩa xã hội là tất yếu lịch sử. Đối với Việt Nam, Đại hội kiểm điểm phong trào cách mạng, công tác tổ chức và lãnh đạo của Đảng trong những năm qua.
Đại hội nhận định hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục Đảng đã thành lập được cơ quan đầu não, nhiều đảng bộ tỉnh mới ở miền thượng du Bắc Bộ, Lào, lập các tổ chức cơ sở ở Cao Miên, đào tạo được nhiều cán bộ mới. Song hệ thống tổ chức liên lạc của Đảng vẫn chưa được thống nhất, tổ chức cơ sở Đảng chưa phát triển mạnh ở các vùng công nghiệp, đồn điền, mỏ, thành phần công nhân trong Đảng cần ít. Công tác tư tưởng, tuyên truyền, huấn luyện tuy đạt một số kết quả, nhưng còn thiếu sót.
Đại hội nhận xét phong trào cách mạng có tiến triển. Các cuộc đấu tranh của quần chúng ở Lào, Nam Kỳ, Trung Kỳ, khoảng hai năm qua đều giành được thắng lợi ở mức độ khác nhau. Sự lãnh dạo của Đảng được khôi phục: “Trong khoảng hai năm nay Đảng ta lại chiếm địa vị ưu thế trong các cuộc tranh đấu có tính chất tổ chức của quần chúng”.
Nhận rõ ưu điểm và khuyết điểm của công tác Đảng, Đại hội nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của toàn Đảng:
1. Phát triển và củng cố Đảng.
Đảng cần củng cố lực lượng hiện tại, tăng cường phát triển Đảng ở các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, kết nạp thêm nông dân và trí thức. Phải đưa thêm nhiều đảng viên xuất thân từ thành phần công nhân vào các cơ quan lãnh đạo, bảo đảm tính giai cấp. Ban Chấp hành Trung ương Đảng được uỷ quyền đào tạo cán bộ dự bị mới cho Đảng. Để thống nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình chống tả khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật Đảng.
2. Thu phục quần chúng.
Đại hội coi thu phục rộng rãi quần chúng là nhiệm vụ trung tâm cơ bản, trước mắt của Đảng. Các đảng bộ phải bênh vực quyền lợi thiết thân của quần chúng, quan tâm đến các dân tộc thiểu số, thanh niên, phụ nữ và quần chúng lao động ngoại kiều; phải củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, lợi dụng các hình thức công khai và nửa công khai để xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
3. Chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, các dân tộc thiểu số, về Mặt trận Phản đế, Đội tự vệ, Cứu tế đỏ... và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức quần chúng của Đảng.
Đại hội quy định số lượng uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 người: nhưng trên thực tế bầu được 12 (còn 1 đồng chí do Đảng bộ Trung Kỳ cử sau) Lê Hồng Phong, Hoàng Đình Giong, Đình Thanh, Võ Nguyên Hiến, Nguyễn Văn Dựt, Võ Văn Ngân, Phạm Văn Xô (Đảng bộ Lào), Nguyễn Ái Quốc (dự bị), Thầu Xỉ (người Lào dự khuyết), Bùi Bảo Vân (dự khuyết)... Ban Thường vụ gồm 5 người, trong đó đồng chí Lê Hồng Phong là Tổng thư ký (Tổng Bí thư) của Đảng, đồng chí Đình Thanh là dự bị Tổng thư ký. Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh bảo vệ và khôi phục hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương, thống nhất được phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, tạo điều kiện để phong trào cách mạng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
- Lê Mậu Hãn: Đảng Cộng sản Việt Nam - các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 25-29.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 1-41.
NGÀY 28-3
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết chính trị
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu (Congrès) lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết chính trị.
Nghị quyết có sáu phần:
I. Tình hình thế giới.
II. Tình hình Đông Dương.
III. Chính sách mới của đế quốc Pháp và âm mưu mới của bọn thống trị bản xứ.
IV. Cao trào cách mạng mới.
V. Tình hình Đảng.
VI. Nhiệm vụ của Đảng.
Nghị quyết nêu bật những thành công, sức mạnh và đà tiến lên của Liên Xô, cũng như phong trào cách mạng của nhân dân lao động nhiều nước trên thế giới. Nghị quyết khẳng định chủ nghĩa xã hội đã là một tất yếu lịch sử. Đồng thời, Nghị quyết nêu sự suy yếu của chủ nghĩa tư bản sau cuộc tổng khủng hoảng 1929-1933, sự xuất hiện chủ nghĩa phát xít ở nhiều nước, nguy cơ chiến tranh từ các nước đế quốc.
Phần hai, Nghị quyết nêu rõ đời sống khó khăn của nhân dân lao động Đông Dương đối nghịch với sự giàu có của quan lại, công chức trong bộ máy chính quyền.
Phần tiếp theo, Nghị quyết nêu ra một số chính sách mới của đế quốc Pháp và âm mưu mới của bọn thống trị bản xứ. Chúng mưu toan mị dân làm dịu mâu thuẫn xã hội, tăng thêm ảnh hưởng cho bọn tay sai người Việt, nới lỏng cho tôn giáo, chia rẽ ba nước Đông Dương, tăng cường phòng thủ Đông Dương. Những chính sách của chúng nhằm xoa dịu sự phẫn uất của quần chúng.
Trong phần bốn, Nghị quyết nhận định: Sau một thời gian bị Pháp khủng bố, “trong khoảng hai năm nay Đảng ta lại chiếm địa vị ưu thế trong các cuộc tranh đấu có tính chất tổ chức của quần chúng". Công nhân, nông dân ở Lào, Nam Kỳ, Trung Kỳ bãi công, chống thuế. Tiểu tư sản ở Lào, Việt Nam thường bãi thị. Ngoài ra còn nhiều hoạt động cách mạng khác của các chiến sĩ cách mạng và quần chúng nhân dân. Tuy phong trào quần chúng còn lẻ tẻ, rời rạc, có khi không do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhưng "một điều đặc sắc là đa số trong các cuộc tranh đấu của quần chúng do Đảng chỉ huy trong khoảng hai năm nay đều được thắng lợi hoặc hoàn toàn, hoặc từng phần, khiến cho công nông thêm hăng hái tranh đấu”.
Phần năm, Nghị quyết nêu quá trình khôi phục tổ chức và sự lãnh đạo của Đảng sau cao trào 1930-1931.
- Về tổ chức: Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức toàn Đông Dương, lập lại cơ quan lãnh đạo đào tạo cán bộ mới. Tổ chức Đảng đã lan tới vùng dân tộc thiểu số. Tuy vậy, ở các vùng kỹ nghệ, nhà máy, mỏ, đồn điền thì tổ chức Đảng còn yếu. Trong Đảng, ngay cả ở các cơ quan lãnh đạo của Đảng, phần tử công nhân rất ít. Sự liên lạc giữa các cấp chưa chặt chẽ, kỷ luật sắt chưa thực hiện được hoàn toàn.
- Công tác tuyên truyền và huấn luyện tuy còn những thiếu sót nhưng nhìn chung đạt kết quả tốt.
- Cuộc đấu tranh tư tưởng để bảo vệ chủ nghĩa Mác- Lênin, sự tự phê bình trong các cấp đảng bộ chưa được tốt. Nhiều tổ chức Đảng không biết chủ động chống lại các quan điểm đối lập đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương và Quốc tế Cộng sản.
- Công tác vận động quần chúng rất yếu.
Phần sáu: Về nhiệm vụ của Đảng, Nghị quyết nêu rõ: “Đảng Đại hội bắt buộc các đảng bộ tập trung lực lượng của mình vào ba nhiệm vụ chính: a) Củng cố và phát triển Đảng, b) Thâu phục quảng đại quần chúng lao động; c) Chống đế quốc chiến tranh".
Nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng bao gồm:
- Mở rộng tổ chức của Đảng: củng cố lực lượng hiện tại, khôi phục liên lạc với những tổ chức và đảng viên mất liên lạc, phát triển Đảng ở vùng công nghiệp như nhà máy, mỏ, đồn điền, đường giao thông, “biến mỗi sản nghiệp thành một thành luỹ của Đảng”, kết nạp thêm công nhân, nông dân, trí thức. "Trong các cơ quan chỉ đạo của Đảng bắt buộc phải để cho các phần tử vô sản choán đa số để bảo đảm cho Đảng đi đúng đường chính trị vô sản". Đại hội uỷ quyền cho Ban Chấp hành Trung ương xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ mới...
Đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tự chỉ trích chống tả khuynh và hữu khuynh, chống những lý thuyết phản động, giữ vững kỷ luật sắt trong Đảng.
Để thu hút rộng rãi quần chúng, Đảng phải bênh vực quyền lợi thiết thân của quần chúng, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng (Công hội đỏ, Nông hội, Thanh niên Cộng sản Đoàn và những tổ chức khác như Cứu tế đỏ, Phản đế liên minh...). Đảng phải xoá bỏ ảnh hưởng của các đảng phái khác trong quần chúng.
Đảng chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc.
Cuối cùng, Nghị quyết bày tỏ lòng tin tưởng vào năng lực đấu tranh của các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và quần chúng lao động, kêu gọi quần chúng lao động đi theo sự lãnh đạo của Đảng.
Mặc dù còn có những hạn chế như chưa nhận ra nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, chưa đề ra phương hướng đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, chống phát xít song với nội dung phong phú, Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là văn kiện góp phần tích cực cho công tác xây dựng Đảng và cho phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 1-31.
NGÀY 28-3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương về hệ thống tổ chức, quyền hạn và nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng tán thành Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản về việc lập Ban Chỉ huy ở ngoài, khẳng định Ban Chỉ huy ở ngoài là một tổ chức rất cần thiết cho Đảng trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, là cơ quan "cao hơn Ban T.Ư1, chỉ trực tiếp chịu quyền chỉ đạo của đại biểu Đảng đại hội và của Q.T C.S2". Chỉ có Quốc tế Cộng sản hoặc Đại hội Đảng mới có quyền xoá bỏ hay thay đổi tổ chức, quyền hạn của Ban Chỉ huy ở ngoài.
Nhiệm vụ chánh của B.C.H.O.N3 là:
a) Chỉ đạo Ban T.Ư về đường lối chính trị chung; kiểm tra T.Ư về việc thực hành các nghị quyết của Đảng Đại hội và của Q.T.C.S.
b) Thay mặt cho Đảng mà liên lạc với các đảng anh em.
c) Dự bị tài liệu tuyên truyền quan trọng cho Đảng.
d) Cùng với T.Ư mà đào tạo các cán bộ chỉ đạo cho Đảng.
e) Như T.Ư bị bắt hoặc bị Q.T.C.S giải tán, thì B.C.H4 trực tiếp chỉ đạo ngay công tác toàn Đảng cho tới lúc thành lập Ban T.Ư khác".
Về tổ chức, Ban Chỉ huy ở ngoài gồm 5 đến 7 người. Nếu Ban có 7 người thì 4 phải do Quốc tế Cộng sản chỉ định, nếu 5 người thì 3 do Quốc tế cộng sản chỉ định, những uỷ viên còn lại cho Trung ương Đảng chỉ định. Nhiệm kỳ của các uỷ viên do Quốc tế Cộng sản định ra (nếu là người của Quốc tế Cộng sản) hoặc do Trung ương Đảng định ra (nếu là người của Trung ương Đảng cử). Ban Chỉ huy ở ngoài phải cử ra Ban Thường vụ gồm 3 người, trong đó ít nhất 2 người do Quốc tế Cộng sản chỉ định. Hội nghị toàn thể Ban Chỉ huy ở ngoài tổ chức từ 3 đến 6 tháng một lần.
Hai cơ quan lãnh đạo Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Trung ương Chấp uỷ trong nước phối hợp làm việc với nhau, nhưng Ban Chỉ huy ở ngoài lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương. "Ban T.Ư uỷ viên phải thương lượng với Ban C.H về các vấn đề chính trị quan trọng. Ban T.Ư phải thi hành những chỉ thị của Ban Chỉ huy”. Ý kiến bất đồng của Ban Chấp hành Trung ương phải do Đại hội Đảng hoặc Quốc tế Cộng sản giải quyết.
Vai trò lãnh đạo chính trị của Ban Chỉ huy ở ngoài đối với Ban Chấp hành Trung ương trong nước và các cấp đảng bộ trực thuộc khá toàn diện, chặt chẽ. Ban Chấp hành Trung ương mở hội nghị thì phải báo cáo với Ban Chỉ huy ở ngoài để Ban Chỉ huy ở ngoài phái người về tham gia. Ban Chỉ huy ở ngoài có quyền phái đại diện toàn quyền về tham gia chỉ đạo và kiểm ra công tác của Ban Chấp hành Trung ương và các cơ quan lãnh đạo của các cấp đảng bộ. Ban Chỉ huy ở ngoài được dự và biểu quyết mọi hội nghị các cấp của Đảng trong nước, được quyền nhận báo cáo của Trung ương và các xứ uỷ, được quyền chỉ thị cho các xứ uỷ trực tiếp hoặc thông qua Ban Chấp hành Trung ương. Trách nhiệm của Trung ương và các xứ uỷ là phải thường xuyên báo cáo công tác của mình cho Ban Chỉ huy ở ngoài biết.
Nếu uỷ viên Ban Chỉ huy ở ngoài về nước làm việc thì được giữ chức vụ ngang cấp: uỷ viên Ban Thường vụ Ban Chỉ huy ở ngoài được làm uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương, uỷ viên thường của Ban Chỉ huy ở ngoài được làm uỷ viên thường của Ban Chấp hành Trung ương.
Nội dung Nghị quyết của Đại hội I về hệ thống tổ chức quyền hạn và nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương có điểm khác so với ý kiến của Quốc tế Cộng sản trong Thư gửi các đồng chí Đông Dương (17-3-1935).
Trong thư đó, Quốc tế Cộng sản quy định Ban Chỉ huy ở ngoài được lập tồn tại song song với Ban Chấp hành Trung ương, với nhiệm vụ của hai cơ quan là:
“3. Nhiệm vụ của Ban Chỉ huy ở ngoài là:
a) Liên lạc với Ban Trung ương Chấp uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc tế Cộng sản và với các đảng anh em.
b) Tập hợp và đào tạo cán bộ đảng cho đất nước.
c) Xuất bản Tạp chí Bônsơvích - Cơ quan lý luận Trung ương của Đảng.
4. Ban Trung ương Chấp uỷ điều hành toàn bộ công tác chính trị ở trong nước, chịu trách nhiệm thực hiện đúng đường lối của Đảng và điều hành công việc của tất cả các chấp uỷ đảng trong nước”.
Như vậy, Quốc tế Cộng sản quy định cho Ban Chỉ huy ở ngoài một chức năng hẹp hơn so với chức năng Đại hội I trao cho Ban. Nhiệm vụ của Ban, theo Quốc tế Cộng sản, chủ yếu là chức năng liên lạc, đào tạo và xuất bản, tức là Ban Chỉ huy ở ngoài đóng vai trò trung gian giữa Quốc tế Cộng sản và Ban Trung ương Chấp uỷ ở Đông Dương. Còn "Ban Trung ương Chấp uỷ điều hành toàn bộ công tác chính trị ở trong nước". Trong khi đó, Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương trao cho Ban Chỉ huy ở ngoài chức năng lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương, cao hơn Ban Chấp hành Trung ương, có quyền can thiệp trực tiếp vào công việc của Đông Dương.
Thư gửi các đồng chí Đông Dương cũng quy định Ban Chỉ huy ở ngoài chỉ có 3 người do Trung ương Chấp uỷ Đảng Cộng sản Đông Dương giới thiệu và phải được Ban Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản thông qua.
Các điểm khác như quy định về Thư ký, nhiệm kỳ của Ban Chỉ huy ở ngoài về giải quyết bất đồng giữa Ban Chỉ huy ở ngoài với Ban Trung ương Chấp uỷ, đều tương tự quy định của Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 109-112.
NGÀY 28-3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về vận động công nhân
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương ra Nghị quyết về công nhân vận động.
Nghị quyết điểm lại tình hình giai cấp công nhân, sự lãnh đạo của Đảng, sau đó đề ra nhiệm vụ về vận động giai cấp công nhân trong thời gian trước mắt.
Theo Nghị quyết, công nhân các loại của toàn Đông Dương, bao gồm cả công nhân nông nghiệp, có tới hơn một triệu, là một lực lượng cách mạng to lớn, vững chắc. Công nhân có điều kiện lao động và sinh hoạt cực khổ, không có bất cứ quyền lợi chính trị nào. Toàn Đông Dương, 45% công nhân thất nghiệp, số còn lại bị bóc lột, đàn áp, bắt bớ. Do đó, công nhân có ý thức cách mạng cao.
Sau cao trào cách mạng 1930- 1931, phong trào công nhân nhanh chóng phục hồi ở Nam Kỳ phong trào đấu tranh của công nhân mỹ nghệ và công nhân nông nghiệp mạnh nhất Đông Dương. Ở Lào, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, công nhân cũng đấu tranh. Những cuộc đấu tranh thời kỳ mới phần nhiều theo khẩu hiệu kinh tế như đòi tăng lương bớt giờ làm, chống cai chủ, chống sưu thuế, đòi khoai lúa, v.v... “Một điều đặc sắc là đại đa số cuộc bãi công, biểu tình do Đảng ta chỉ đạo trong khoảng hai năm nay (như ở Lào, Bắc Kỳ và nhiều chỗ ở Nam Kỳ) đều được thắng lợi hoặc hoàn toàn, hoặc từng phần, khiến cho quần chúng thêm hăng hái tranh đấu, còn các cuộc tranh đấu quần chúng tự động hay do các đảng cách mạng tiểu tư sản lãnh đạo thường rất ít thắng lợi".
Sau khi điểm lại tình hình giai cấp công nhân, Nghị quyết nêu rõ ưu, khuyết điểm của phong trào công nhân hiện tại. Về ưu điểm: công nhân biết chuẩn bị trước cho đấu tranh rút được kinh nghiệm thất bại, định ra được kế hoạch đấu tranh mới vận động được người thiểu số và ngoại quốc vào cuộc, xây dựng được mối liên hệ công nông. Khuyết điểm là đấu tranh của công nhân lẻ tẻ quá và chưa lan tới vùng công nghiệp trung tâm, không biết liên kết khẩu hiệu kinh tế với các khẩu hiệu chung của cách mạng, Đảng còn theo đuôi quần chúng trong nhiều cuộc đấu tranh. Ngoài ra, thợ thất nghiệp, thợ nông nghiệp chưa được vận động, tổ chức, kinh nghiệm đấu tranh ít được giảng giải cho quần chúng.
Về tổ chức, Công hội chưa thống nhất toàn Đông Dương, Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ đều ra ít hội viên Công hội. Nguyên nhân của sự yếu kém ấy là Đảng chưa chú trọng đến tổ chức Công hội.
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ về Công hội vận động:
- Củng cố và phát triển Công hội đỏ.
- Thu phục đa số công nhân, thông qua lãnh đạo đấu tranh đòi những nhu cầu thiết thân hàng ngày.
- Tổ chức thợ thất nghiệp lại.
- Tổ chức Công hội thợ nông nghiệp.
- Tổ chức thợ phụ nữ và thanh niên.
Đảng phải giành lấy công nhân. "Nói tóm lại, Đại hội bắt buộc toàn Đảng phải thực hành khẩu hiệu “chui vào nhà máy"... Đó là nhiệm vụ trung tâm tối quan trọng của Đảng. Đại hội bắt buộc các đảng viên phải kiên quyết tranh đấu chống xu hướng miệt thị, hoặc nói miệng về công cuộc Công hội vận động, đặng làm cho Công hội được mau phát triển, chuyển biến mỗi sản nghiệp thành ra một thành luỹ của Đảng".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2002, t. 5, tr. 32- 41.
NGÀY 28-3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về vận động nông dân
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết về nông dân vận động.
Nghị quyết khẳng định, thực dân Pháp bóc lột giai cấp nông dân hết sức tàn tệ. Duy trì Đông Dương là xứ nông nghiệp độc canh lúa để xuất khẩu, thực dân Pháp áp dụng lối bóc lột phong kiến, tiền tư bản. Nông dân chiếm hơn 90% dân số Đông Dương nhưng chỉ chiếm 20% diện tích đất canh tác. Nông dân bị mấy tầng áp bức, bóc lột: đế quốc, địa chủ, tư sản, bọn cho vay nặng lãi. Nền kinh tế Đông Dương bị khủng hoảng càng làm sản xuất, sinh hoạt của người nông dân khốn khó. Hàng chục vạn mẫu đất bỏ hoang, giá đất sụt còn 1/20, giá lúa sụt còn 68%, hàng triệu dân cày không có tiền mua gạo, bị thiếu ăn.
Trong khoảng hai năm 1933-1934, nông dân ba kỳ của Việt Nam và Lào đã đấu tranh kinh tế. Người nông dân thiểu số cùng người Kinh chống lại kẻ thù chung là Pháp. Ở miền Nam Đông Dương, Nông hội tổ chức có tính giai cấp rõ rệt, chỉ cho nông dân lao động vào, mà không cho phú nông, tiểu địa chủ.
Tuy vậy, công tác Nông hội vẫn còn nhiều nhược điểm. Các ban uỷ viên Nông hội chưa đạt tiêu chuẩn đa số là bần nông và công nhân nông nghiệp. Nông hội chưa thu phục được đa số quần chúng nông dân lao động. Trong sinh hoạt, Nông hội cũng còn nhiều thiếu sót như quản lý không tốt.
Sau khi điểm lại tình hình của giai cấp nông dân, đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của phong trào nông dân, đặc biệt là ưu khuyết điểm công tác Nông hội, Nghị quyết nêu những nhiệm vụ của công tác vận động nông dân:
1. Về mặt tổ chức:
- Luôn luôn xác định đúng tính chất giai cấp của Nông hội là đoàn thể đấu tranh của riêng nông dân lao động.
- Tổ chức ngay Công hội độc lập của công nhân nông nghiệp thuộc Nông hội.
- Nông hội làng hay xã là tổ chức đơn vị duy nhất, chỉ tập trung Nông hội tối đa là tới cấp tỉnh.
- Nông hội phải có sinh hoạt độc lập, có cán bộ Nông hội, có đảng viên cộng sản. Những đảng viên cộng sản ở nông thôn bắt buộc phải vào Nông hội.
- Trong Nông hội phải tổ chức ra ban phụ nữ thanh niên.
- Phải mở rộng Nông hội ra mọi địa phương.
- Nông hội không phải là hình thức tổ chức duy nhất của nông dân, mà cần tổ chức ra các ban nông dân cách mạng, các hợp tác xã tiêu thụ và buôn bán.
- Đảng phải giải thích cho các hội viên Nông hội hiểu rằng việc đấu tranh cách mạng, tham gia Nông hội là lợi ích của họ, đồng thời bỏ những lối tổ chức biệt phái, ngăn cản sự thu phục đa số dân cày (như quá chú trọng tư cách cá nhân, bắt họp mỗi tháng ba, bốn lần, cưỡng bức đấu tranh...).
2. Về đấu tranh:
Sinh hoạt của nông dân trong hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng rất khó khăn, nên tổ chức đấu tranh là vấn đề rất thiết thực cho đời sống. Hơn nữa, có đấu tranh, các hội quần chúng mới tồn tại, phát triển được. Nghị quyết nêu ra các nhiệm vụ của Đảng và Nông hội.
- Phải chú trọng bênh vực các quyền lợi kinh tế thiết thân của nông dân.
- Luôn luôn liên kết khẩu hiệu từng phần, trước mắt với nhiệm vụ của cách mạng ruộng đất, cách mạng phản đế. Phải phổ biến cho nông dân biết sự cải thiện đời sống của nông dân ở Liên Xô và Trung Quốc.
- Liên kết nông dân các vùng với nhau gắn đấu tranh của nông dân với đấu tranh của công nhân.
- Chống những hành động làm mất ảnh hưởng của Nông hội trong quần chúng như cưỡng bức đấu tranh manh động, chủ trương chỉ đấu tranh ban đêm.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 42-53.
NGÀY 28 - 3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về vận động binh lính
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 28-3-1935 thông qua Nghị quyết về vận động binh lính.
Nghị quyết xác định rằng, binh lính trong chế độ thuộc địa là công cụ đàn áp của các giai cấp thống trị, nhưng binh lính cũng là con em của nhân dân lao động, cũng chịu áp bức, bất công. Binh lính có bộ phận để giác ngộ, từng giữ vị trí quan trọng trong các cuộc vận động cách mạng 1908, 1916 ở Trung Kỳ trong khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), Yên Bái (1930), v.v... Từ khi Đảng Cộng sản ra đời một bộ phận binh lính đã chịu ảnh hưởng của Đảng. Nhiều khi binh lính không đàn áp các cuộc bãi công biểu tình của công nông (Nam Kỳ) hoặc sang phe công nông làm vũ trang bạo động (Hà Tĩnh, Nghệ An). Binh lính là một lực lượng cách mạng rất lớn".
Do đó, “nhiệm vụ thường trực của Đảng là phải dùng đủ phương pháp cổ động, tuyên truyền, tổ chức, gây một cảm tình của binh lính với công nông để họ ủng hộ và hưởng ứng công nông trong các cuộc tranh đấu để đến lúc tổ chức võ trang bạo động chống đế quốc Pháp thì được binh lính người bản xứ và người ngoại quốc đóng ở Đông Dương sang phe cách mạng của công nông, ít ra là họ giữ địa vị trung lập, cảm tình với công nông, hay họ phá hoại mặt trận của đế quốc chống cách mạng mà đòi về xứ sở của họ”.
Nghị quyết đề ra những nhiệm vụ cần kíp:
Mỗi nơi có quân đội đối phương đóng thì đảng bộ ở đấy phải lập ra một ban quân uỷ chuyên môn công tác binh vận. Từ Trung ương đến tỉnh, thành uỷ phải lập tức thiết lập Quân uỷ của Đảng. Cần lập ra những chi bộ đảng bộ của Đảng trong các trại lính, có liên lạc với quân uỷ.
- Cần bênh vực quyền lợi hàng ngày của binh lính, lãnh đạo họ đấu tranh đòi tăng lương, chống đánh phạt, đòi tự do ra vào trại, tự do lập hội, tự do ngôn luận... Cần phổ biến Chương trình hành động của Đảng, của Thanh niên Cộng sản Đoàn trong quân đội địch. Cần gắn các cuộc đấu tranh của công nông với đấu tranh của binh lính.
Tổ chức những hội phổ thông (đọc sách báo, học đêm, cứu tế...) cho những binh lính tại ngũ, những hội cứu tế ái hữu cho binh lính đã mãn hạn. Cần đưa người vào trong các tổ chức quân sự và bán quân sự để tuyên truyền ảnh hưởng của Đảng, kéo quần chúng trong các tổ chức ấy sang phía cách mạng.
Đảng phải liên hệ công tác vận động quân sự với công tác chống đế quốc chiến tranh, vận động ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc. Cần phải phổ biến trong binh lính những thông tin về kết quả xây dựng Liên Xô, sinh hoạt của Hồng quân Liên Xô, Hồng quân Trung Quốc.
- Đảng, các Quân uỷ phải xuất bản tài liệu tuyên truyền để vận động binh lính.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 54-62.
NGÀY 28-3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về vận động phụ nữ
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết về phụ nữ vận động.
Theo Nghị quyết phụ nữ chiếm một nửa dân số. Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến phụ nữ chịu một ách áp bức bóc lột như nam giới, lại bị phân biệt đối xử, do đó thân phận phụ nữ rất thấp kém, từ phạm vi gia đình tới xã hội phụ nữ không có quyền lợi chính trị nào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, chị em phụ nữ cần lao đã đứng dậy đấu tranh tham gia cao trào Xôviết Nghệ - Tĩnh và các phong trào đấu tranh khác. Có lúc phụ nữ lãnh đạo cuộc đấu tranh có những cuộc biểu tình, bãi công toàn phụ nữ. Hai năm 1933-1934, phong trào có thêm nhiều phụ nữ tham gia. Phụ nữ nghèo ở thành thị, phụ nữ dân tộc thiểu số cũng hăng hái tham gia đấu tranh cách mạng.
Tuy vậy, Đảng cũng chưa thật quan tâm đến công tác phụ nữ. Ở Nam Kỳ, không có tổ chức hội phụ nữ, ở các địa phương khác, các hội phụ nữ rất ít và không có sinh hoạt rõ rệt, phụ nữ ít được vào cơ quan lãnh đạo. Các cuộc đấu tranh thường không có khẩu hiệu riêng cho phụ nữ. Đảng còn theo đuôi các cuộc đấu tranh của quần chúng phụ nữ. Nghị quyết nêu các nhiệm vụ:
- Mỗi cấp đảng bộ lập một ban uỷ viên phụ nữ phụ trách vấn đề phụ nữ.
- Mỗi đảng bộ phải tổ chức phụ nữ vào Đảng, Thanh niên Cộng sản Đoàn và các đoàn thể cách mạng. Cần phải đưa phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo. Tổ chức các hội phụ nữ lao động phụ nữ lao động giải phóng, học chữ, nữ công, cứu tế, hợp tác xã... cho phụ nữ.
- Các đảng bộ cần triệu tập các hội nghị đại biểu phụ nữ, kế hoạch tiến hành công tác vận động phụ nữ, khuyến khích tinh thần phụ nữ.
- Phải đấu tranh bảo vệ quyền lợi phụ nữ.
- Cần có tài liệu tuyên truyền riêng cho phụ nữ.
- Chống các xu hướng coi thường công tác vận động phụ nữ, chống ảnh hưởng của phong kiến, tư sản đối với phụ nữ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr 63-68.
NGÀY 28 - 3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về công tác vận động các dân tộc thiểu số
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số.
Các dân tộc thiểu số đóng vai trò quan trọng trong cách mạng phản đế, phản phong ở Đông Dương. Họ đã nhiều lần nổi dậy chống Pháp. Họ chẳng những là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, hội viên các đoàn thể cách mạng khác, mà còn giữ địa bị rất quan trọng trong các cơ quan chỉ đạo từ hạ cấp tới thượng cấp (một số xứ uỷ viên là người Lào, người Thổ (Tày)...).
Đảng Cộng sản Đông Dương đã nhận rõ sức mạnh của các dân tộc thiểu số quyền lợi của các dân tộc đó. Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã công nhận quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc trong Đông Dương, quyền đó sẽ được thực hiện sau khi đuổi được Pháp ra khỏi Đông Dương. Mỗi dân tộc sẽ được quyền quyết định vận mệnh của mình. Đồng thời, Đảng chủ trương đoàn kết các dân tộc để tăng sức mạnh cách mạng, sự liên hợp sẽ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng.
Nghị quyết nêu các nhiệm vụ cần thiết đối với công tác thiểu số:
- Các đảng bộ cần đem bản Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, Quốc tế Cộng sản, Tổng Công hội đỏ Đông Dương, Liên hợp Công hội thợ nông nghiệp, Thanh niên Cộng sản Đoàn phổ biến và thi thành trong các dân tộc thiểu số, đồng thời các đảng bộ phải đề ra những khẩu hiệu mới thích hợp với tâm lý và nhu cầu hàng ngày của họ.
- Trung ương Đảng các Xứ uỷ và Tỉnh uỷ trong những tỉnh có dân tộc thiểu số phải cử ra một số người chuyên nghiên cứu và chỉ đạo công tác vận động dân tộc thiểu số. Phải tổ chức đồng bào các dân tộc thiểu số vào Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng, bảo đảm người dân tộc thiểu số chiếm đa số trong các cơ quan lãnh đạo ở các vùng thiểu số.
- Xuất bản báo, truyền đơn, tài liệu bằng tiếng dân tộc thiểu số.
- Bảo vệ quyền lợi hàng ngày của người dân tộc thiểu số, liên kết cuộc đấu tranh của các dân tộc thiểu số với phong trào đấu tranh chung của nhân dân Đông Dương.
- Chống thái độ dân tộc lớn miệt thị dân tộc nhỏ và thái độ dân tộc chủ nghĩa của các dân tộc thiểu số. Đảng cần phổ biến và giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác-Lênin trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 69-75.
NGÀY 28 - 3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về vận động thanh niên
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết về thanh niên vận động.
Theo Nghị quyết, thanh niên lao động là bộ phận bị bóc lột nặng nề nhất trong các tầng lớp lao động ở Đông Dương. Thanh niên tham gia sản xuất ngày càng nhiều, làm như người lớn, mà tiền công kém người lớn, lại bị chủ hành hạ. Thanh niên lao động ngày càng bị bần cùng dốt nát thêm. Chính sách của đế quốc đối với thanh niên là thẳng tay bóc lột, đàn áp thanh niên lao động, trong khi đó chúng mua chuộc một bộ phận thanh niên trong giai cấp phong kiến, tư sản, trí thức, giáo dục nhồi sọ họ để tạo nên đội ngũ tay chân trung thành với Chính phủ Đông Dương thuộc địa. Thực dân Pháp tuyên truyền chống cộng, lập các đoàn hướng đạo, đoàn thể văn hoá thể thao, cứu tế... để lôi kéo thanh niên vào con đường thoả hiệp.
Song, thanh niên đã tham gia cao trào cách mạng 1930-1931 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau cao trào, thanh niên bước vào giai đoạn đấu tranh mới. Với những khẩu hiệu kinh tế, thanh niên lao động đã tăng cường hoạt động.
Sau khi nêu tình hình thanh niên, sức mạnh của thanh niên Nghị quyết khẳng định: “Thanh niên Cộng sản Đoàn là đội tiền phong của quảng đại quần chúng thanh niên lao động", có vai trò lãnh đạo thanh niên.
Ưu điểm của Thanh niên Cộng sản Đoàn hiện tại là tổ chức có ở ba kỳ của Việt Nam và Lào, giữ vai trò chỉ huy các cuộc đấu tranh của thanh niên lao động, đã thảo ra được bản Chương trình hành động riêng cho Thanh niên Cộng sản Đoàn ở Sài Gòn và Viêng Chăn đã xuất bản báo riêng của Thanh niên Cộng sản Đoàn.
Về khuyết điểm: Thanh niên Cộng sản Đoàn chưa thành một đoàn thể quần chúng, số lượng đoàn viên ít hơn đảng viên, hệ thống tổ chức chưa thống nhất. Trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền lớn, các địa phương quan trọng, Đoàn chưa có thế lực, hoặc có tổ chức Đoàn mà rất kém. Đoàn phần nhiều còn theo đuôi quần chúng, trình độ chính trị của đoàn viên kém, không có công tác trong thiếu nhi.
Nghị quyết đặt ra nhiệm vụ chính của công tác đoàn là củng cố và phát triển Đoàn. Đảng phải giữ vai trò lãnh đạo công tác phát triển Đoàn, phải cử ra một số đồng chí chuyên chỉ đạo công tác thanh niên.
Đoàn phải phát triển ở các nhà máy, hầm mỏ đồn điển lớn. "Phải biến mỗi sản nghiệp thành một thành trì của Thanh niên Cộng sản Đoàn". Đoàn phải chú trọng kết nạp thanh niên công nhân vào cơ quan lãnh đạo.
Các đoàn bộ phải lập ở các cấp tổng, huyện (phủ, châu, quận, khu), tỉnh, xứ, chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu Đoàn toàn Đông Dương..
Đoàn phải phụ trách thiếu nhi. Chỗ nào có chi đoàn phải lập ra Hồng nhi đoàn. Mỗi cấp đoàn uỷ phải chỉ định một ban chuyên môn phụ trách công tác thiếu nhi.
Đoàn phải dùng mọi phương pháp thu hút đa số quần chúng thanh niên, tổ chức họ đấu tranh với những khẩu hiệu từng phần có liên quan đến nhiệm vụ chung của cách mạng Đông Dương. Đoàn phải dùng mọi hình thức công khai, bán công khai, bí mật mà kéo quần chúng theo chủ nghĩa cộng sản.
Đoàn phải phổ biến biến chương trình hành động của Thanh niên Cộng sản Đoàn trong thanh niên, đồng thời lấy đó làm kim chỉ nam cho hoạt động hàng ngày của Đoàn.
Đoàn phải chống chủ nghĩa cơ hội và các lý thuyết phản động mở rộng tự chỉ trích, nâng cao trình độ chính trị của đoàn viên.
Đoàn phải hướng dẫn thanh niên chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô, Trung Quốc, cách mạng thế giới. Những phần tử thanh niên hăng hái cần được Đoàn đưa vào các Đội tự vệ công nông.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t .5, tr. 76-81.
NGÀY 28 - 3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về công tác phản đế liên minh
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết về công tác phản đế liên minh (P.Đ.L.M).
Theo Nghị quyết, cách mạng Đông Dương là cách mạng phản đế, phản phong. Nhân dân Đông Dương chia thành hai phe: phe đồng minh đế quốc Pháp, phe chống Pháp và các giai cấp bóc lột bản xứ. Động lực của cách mạng chống Pháp và phong kiến, tay sai là công nhân, nông dân lao động (cố nông, bần nông, trung nông), dân nghèo thành thị, do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Trong các đảng phái, Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng phản đế triệt để nhất. Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Cứu tế đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn cũng phản đế. Nhưng Đông Dương còn có những đoàn thể quốc gia cách mạng, những cá nhân cách mạng, những người có thù riêng với đế quốc mà Đảng Cộng sản ra sức liên lạc và đồng minh để tăng sức mạnh phản đế.
Đảng xác định rằng, để làm tốt nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, Đảng cần tập hợp tất cả những lực lượng có thể tập hợp được. Nghị quyết nêu rõ: “Đảng Cộng sản phải dùng hết, kéo hết các lực lượng phản đế ở xứ Đông Dương ra mưu cuộc vận động dân tộc giải phóng. Mặt trận Phản đế bao hàm chẳng những quần chúng công nhân, nông dân lao động, dân nghèo thành thị, mà cả các lớp các phần tử lẻ tẻ, cấp tiến trong các giai cấp khác, các lớp lao động người dân tộc thiểu số, người ngoại quốc... Không phân biệt chủng tộc, nam nữ, tôn giáo, xu hướng chính trị đảng phái, hễ ai có tính chất phản đế là có thể kéo vào Mặt trận phản đế”. “Hình thức Mặt trận thống nhất phản đế phải tuỳ theo điều kiện mà định ra". Đảng Cộng sản lãnh đạo Mặt trận phản đế.
Nghị quyết nêu ba điều kiện tổ chức Mặt trận thống nhất phản đế.
- Các đảng phái đoàn thể tạm thời đồng minh có các điều kiện, khẩu hiệu tối thiểu chung cùng chấp nhận được.
- Đảng Cộng sản phải là người sáng kiến tổ chức và lãnh đạo Mặt trận. Nếu trong hoàn cảnh Mặt trận thành lập do sáng kiến của các đoàn thể cách mạng tiểu tư sản thì Đảng Cộng sản cũng vào Mặt trận, nếu Mặt trận chấp nhận đấu tranh theo những khẩu hiệu tối thiểu do Đảng Cộng sản đề xướng.
- Dù đồng minh theo hình thức nào Đảng Cộng sản cũng giữ quyền hoàn toàn độc lập về tổ chức và lý luận, giữ quyền phê phán những thái độ do dự không triệt để của các bè phái tạm thời đồng minh, phân tích cho quần chúng thấy rõ sách lược không triệt để của các đoàn thể cách mạng tiểu tư sản, ủng hộ sách lược triệt để cách mạng của Đảng Cộng sản.
Đánh giá ưu, khuyết điểm của công tác liên minh phản đế, Nghị quyết cho rằng công tác này còn rất kém, nhiều nhược điểm. Trừ miền Nam Đông Dương ra thì chỗ nào cũng có cơ sở Phản đế liên minh, song nhiều chỗ đảng viên nhiều hơn số hội viên phản đế, thậm chí có chỗ liên minh gồm toàn đảng viên cộng sản. Phản đế liên minh chưa có tổ chức quần chúng, chưa có sinh hoạt độc lập, ít đấu tranh. Một số người còn cho rằng làm hội viên Phản đế liên minh nghĩa là làm hao hụt lực lượng ở tổ chức cách mạng khác. Hội phí còn quá nặng.
Nghị quyết xác định các nhiệm vụ cần thiết trước mắt: lập tức tổ chức ra các Hội Phản đế liên minh, đảng viên phải vào Hội, mở rộng tổ chức Hội tới cấp toàn Đông Dương, lôi kéo rộng rãi các tồ chức, cá nhân có tính chất phản đế phải liên kết cuộc vận động Phản đế liên minh vốn có những khẩu hiệu chung lớn lao với các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày. Phải ra báo và tài liệu tuyên truyền riêng cho Phản đế liên minh. Cần sửa đổi những sai sót về tôn chỉ, điều lệ, các hình thức tổ chức Phản đế liên minh của các đảng bộ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 82- 88.
NGÀY 28 - 3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về Đội tự vệ
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Nghị quyết về Đội tự vệ. Đế quốc Pháp khủng bố cách mạng, dìm cách mạng trong máu lửa. Muốn thành công, cách mạng phải tự vệ. Đội tự vệ ra đời.
“Công nông cách mạng Tự vệ đội tổ chức ra mục đích để:
a) Ủng hộ quần chúng hằng ngày;
b) Ủng hộ quần chúng trong các cuộc tranh đấu;
c) Ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng của công nông;
d) Quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng. Chống quân thù giai cấp tấn công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi".
Công nông Tự vệ đội không phải là đội du kích, hay Hồng quân.
Đội tự vệ chia làm hai lực lượng: tự vệ thường trực có luyện tập, có hệ thống, có chỉ huy và quần chúng tự vệ, giải tán sau một cuộc đấu tranh.
Tự vệ phải được huấn luyện, để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ trang giành chính quyền trong tương lai.
Huấn luyện quân sự hiện tại là huấn luyện cho các đồng chí đảng viên, các Đội tự vệ công nông biết dùng các vũ khí thông thường như súng lục, súng trận, liên thanh, tạc đạn, biết chiến thuật đánh nhau trong thành phố, chiến thuật chiến tranh du kích, v.v.. Các Đội tự vệ phải biết chức trách chính trị của mình. Quần chúng cần được huấn luyện đi đứng có hàng ngũ, tập cách tránh máy bay, tạc đạn, liên thanh. Tự vệ phải phái những chiến sĩ đáng tin cậy vào công tác cách mạng trong quân đội đế quốc, trong các tổ chức phản động có tính chất quân sự hay bán quân sự.
Đồng thời, cần chống xu hướng manh động, chỉ lo vũ trang mà quên công tác hằng ngày trong quần chúng lao động để lôi kéo quần chúng theo Đảng, theo chủ nghĩa cộng sản.
Về tổ chức, công nông Tự vệ đội dưới quyền chỉ huy thống nhất của Trung ương, Quân uỷ, lấy cơ sở công nghiệp làng hay xã làm cơ sở tổ chức. Theo phép “tam tam chế” (ba đơn vị nhỏ lập thành một đơn vị lớn hơn), tự vệ có các cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn, tập đoàn.
Đảng nắm quyền chỉ huy Tự vệ thường trực. Chế độ chỉ huy là đội trưởng và đại biểu Đảng hợp tác chỉ huy. Đơn vị tự vệ phục tùng đảng bộ cấp tương đương khi hành động hàng ngày, phục tùng tự vệ cấp trên và quân uỷ cấp trên tương đương khi hành động quân sự chung. Kỷ luật trong Đội tự vệ nghiêm khắc, đội viên phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, phải giữ bí mật.
Nghị quyết nêu các nhiệm vụ cần kíp. Khẩu hiệu hành động là: "Không có một sản nghiệp nào, một làng nào có cơ sở của Đảng của Đoàn của các hội quần chúng cách mạng mà không có tổ chức Đội tự vệ". Mỗi cấp bộ Đảng phải cử cán bộ chuyên lo tổ chức Đội tự vệ. Từ Trung ương Chấp uỷ tới thành uỷ, tỉnh uỷ phải tổ chức ngay quân uỷ, quân uỷ này, một bộ phận lo binh vận, một bộ phận lo tổ chức và chỉ huy Đội tự vệ.
Đội tự vệ hằng ngày phải bảo vệ quần chúng đấu tranh cách mạng, chuẩn bị dần để trưởng thành, có thể lãnh đạo bạo động giành chính quyền, lãnh đạo quân đội công nông.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr. 90-96.
NGÀY 28 - 3
Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương về Cứu tế đỏ
Ngày 28-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương ra Nghị quyết Cứu tế Đông Dương vận động.
Thực dân Pháp tiến hành nhiều cuộc khủng bố trắng, dìm cách mạng trong máu lửa. Biết bao cảnh đàn áp man rợ diễn ra. Vì vậy, Đảng chủ trương lập Cứu tế đỏ ở Đông Dương, có vận động Cứu tế đỏ từ năm 1930.
"Nhiệm vụ phản đối khủng bố trắng không phải riêng cho Hội Cứu tế đỏ, nó là nhiệm vụ chung của Đảng, của các đoàn thể cách mạng quần chúng. Nhưng Hội Cứu tế đỏ Đông Dương, phân bộ của Quốc tế Cứu tế đỏ, trên mặt trận giai cấp tranh đấu chung của vô sản, nông dân, của tất cả lao động, lấy nhiệm vụ chống khủng bố trắng làm nhiệm vụ căn bản, chuyên lo giúp đỡ về tinh thần, về vật chất của những người cách mạng và gia đình họ, những đoàn thể bị đế quốc đàn áp, không phải riêng cho người cộng sản mà chung cho hết thảy những đảng phái, những cá nhân phản đối đế quốc vừa trong xứ vừa trong trường quốc tế”.
Tại thời điểm ra Nghị quyết, Cứu tế đỏ Đông Dương đã có nhưng phát triển chưa đều. Ở Nam Kỳ, Lào, Cứu tế đỏ có ảnh hưởng khá. Ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Cao Miên, Cứu tế đỏ còn kém. Cứu tế đỏ Đông Dương chưa có hệ thống, chưa sinh hoạt độc lập.
Đảng đề ra nhiệm vụ cho Cứu tế đỏ:
- Phải mở rộng thế lực của các Hội Cứu tế đỏ, thu hút được đa số quần chúng, tổ chức Cứu tế đỏ ở chỗ chưa có, nhất là ở khu vực công nghiệp. Hệ thống Cứu tế đỏ toàn Đông Dương phải bắt đầu gây dựng ngay.
- Đảng viên phải vào Cứu tế đỏ, hướng hoạt động của Cứu tế đỏ theo đường lối Đảng.
- Cứu tế đỏ phải là đoàn thể đấu tranh, phải huy động phong trào quần chúng đòi thả hết tù chính trị cùng với Cứu tế đỏ thế giới chống phát xít thế giới.
- Cứu tế đỏ phải ủng hộ các cuộc đấu tranh của công nông binh, tù chính trị, đấu tranh đòi quyền tổ chức và sinh hoạt công khai của Cứu tế đỏ và các tổ chức công khai phụ thuộc Cứu tế đỏ như quyền tìm luật sư, thầy thuốc.
- Cứu tế đỏ phải lập những ban chuyên lo về các mặt: tài chính, cứu trợ, liên lạc với tù nhân, bào chữa cho bị can.
- Phải mở rộng tuyên truyền về Cứu tế đỏ, tố cáo đế quốc khủng bố dã man. Cần đấu tranh với những tư tưởng và hành động sai lầm của các đoàn viên và hội viên Cứu tế đỏ về mặt tôn chỉ, tổ chức và đấu tranh của hội.
Nghị quyết khẳng định: Nhân dân Đông Dương đấu tranh ngày càng mạnh, vai trò của Cứu tế đỏ càng cần được chú trọng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 97-103.
NGÀY 29 - 3
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương đã thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương.
Điều lệ xác định:
1. Tên Đảng: Đảng Cộng sản Đông Dương (phân bộ của Quốc tế Cộng sản).
2. Tôn chỉ của Đảng:
“Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiên phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xôviết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản.
Đảng Cộng sản là hình thức tối cao của vô sản, là bộ phận giác ngộ nhất, cương quyết tranh đấu nhất của giai cấp vô sản, có kỷ luật sắt, thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động, tuyệt đối không thoả hiệp với các xu hướng bè phái, các mầm cải lương, quốc gia eo hẹp, biệt phái và các xu hướng trái với Chương trình của Đảng và của Quốc tế Cộng sản".
3. Điều kiện trở thành đảng viên: là nam nữ các dân tộc từ 23 tuổi trở lên thừa nhận chương trình của Quốc tế Cộng sản, Chương trình hành động và Điều lệ của Đảng, phục tùng và thi hành các nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản, hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đảng, được 2 đảng viên trở lên giới thiệu, thường lệ nộp đảng phí.
Đảng viên phát qua thời kỳ dự bị 2 tháng đến một năm tuỳ thành phần xuất thân.
Nhiệm vụ đảng viên là giữ kỷ luật, chấp hành các nghị quyết của Đảng, phải tham gia các đoàn thể quần chúng dưới quyền chỉ đạo của Đảng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh bảo vệ các quyền lợi của họ, đánh bại ảnh hưởng của các tổ chức phản động. Đảng viên phải tổ chức thêm đảng viên mới, tự học tập nâng cao trình độ giác ngộ của mình và giác ngộ quần chúng lý tưởng của Đảng.
4. Về tổ chức Đảng, Đảng Cộng sản Đông Dương là một tổ chức bí mật, xây dựng theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của các cấp đảng bộ là hội nghị toàn thể, hội nghị đại biểu và Đại hội đại biểu. Từ trên xuống dưới có: Trung ương Đảng, xứ uỷ, tỉnh uỷ (thành uỷ, đặc uỷ), huyện uỷ (phủ uỷ, châu uỷ, quận uỷ, khu uỷ), tổng uỷ, Ban cán sự chi bộ của Trung ương (xứ bộ, tỉnh bộ, thành bộ, đặc biệt bộ), huyện bộ (phủ bộ, châu bộ, quân bộ, khu bộ), tổng bộ, chi bộ.
Điều lệ cũng xác định một số hình thức kỷ luật đối với cá nhân, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tổ chức.
5. Tài chính của Đảng do đảng phí và quyên góp đặc biệt mà có.
6. Điều lệ dành phần về Đảng đoàn và Thanh niên Cộng sản Đoàn.
Điều lệ còn quy định nhiều chi tiết cụ thể khác về Đảng.
So với Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương được thông qua tại Hội nghị tháng 10-1930, bản Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 3-1935, có một số điểm bổ sung. Mục tôn chỉ Đảng mới được bổ sung. Mục nói về đảng viên có sửa đổi, bổ sung điều kiện vào Đảng, bổ sung phần nhiệm vụ đảng viên. Có quy định mới về Đại hội Đảng: Điều lệ tháng 10-1930 quy định Đại hội toàn Đảng một năm tổ chức một lần, Điều lệ tháng 3-1935, quy định Đại hội Đảng hai năm một lần. Nhìn chung, Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương (3-1935) chi tiết, cụ thể hơn Điều lệ Đảng tháng 10-1930. Nhưng cả hai bản Điều lệ Đảng có điểm thống nhất là của một Đảng Mác - Lênin, tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung với hệ thống tổ chức không thay đổi, chịu sự chỉ huy của Quốc tế Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr. 113-132.
NGÀY 30 - 3
Đề nghị của Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng gửi Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Phân bộ của Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở Nam Thái Bình Dương
Ngày 30-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Ban Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản. Trước hết Đảng Cộng sản Đông Dương thừa nhận sự cần thiết của Ban Chỉ huy ở ngoài đối với hoàn cảnh đặc biệt của cách mạng Đông Dương: "Đại biểu Đại hội lần thứ nhất của Đảng C.S5 Đông Dương công nhận rằng trong hoàn cảnh sinh hoạt bí mật, khó khăn của Đảng C.S Đông Dương, việc thiết lập ra Ban Chỉ huy ở ngoài để chỉ đạo về đường chánh trị chung cho Đảng, và để thế Ban T.Ư lúc sau này bị bắt hay bị giải tán, là một việc rất cần thiết".
Nhưng Đảng Cộng sản Đông Dương cũng đề nghị Quốc tế Cộng sản lập ra một cơ quan có quyền hạn lớn hơn, đó là Phân bộ của Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở Nam Thái Bình Dương.
Đảng Cộng sản Đông Dương nêu ra hai đề nghị:
1. Lập ra phân bộ của Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở Nam Thái Bình Dương để chỉ đạo ba Đảng C.S Đông Dương, Xiêm và Mã Lai, trực tiếp dưới quyền chỉ đạo của Đông Phương Bộ của Q.T.C.S (Moscow)6.
2. Thủ tiêu Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng C.S Đông Dương, như thế thì chúng tôi sẽ được thêm cán bộ chỉ đạo về xứ làm việc".
Giải thích về đề nghị trên, trong thư viết rõ, Đảng Cộng sản Đông Dương muốn có cơ cấu tổ chức mới trong tình hình mới: “Đảng chúng tôi một phương diện muốn đứng dưới quyền chỉ đạo một cơ quan ở gần xứ Đông Dương và có quyền rộng hơn Ban Chỉ huy ở ngoài, một phương diện muốn đem một phần nhiều đồng chí trong B.C.H vào làm việc trong xứ".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr.167-168.
NGÀY 31-3
Thư của Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản
Sau lời chào trân trọng gửi Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ hiệu quả của Quốc tế Cộng sản đối với Đảng Cộng sản Đông Dương.
Đảng Cộng sản Đông Dương cam kết ra sức lãnh đạo quần chúng lao động trong xứ đấu tranh bảo vệ quyền lợi thiết thân của họ, thực hiện cách mạng phản đế và cách mạng ruộng đất, tiến tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ nỗ lực phổ biến và giương cao ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, chống các xu hướng tả khuynh, hữu khuynh và thoả hiệp, các lý thuyết phản động và quốc gia cải lương. Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ cương quyết Bônsơvích hoá hàng ngũ Đảng.
Đảng Cộng sản Đông Dương tin tưởng chắc chắn rằng Quốc tế Cộng sản và các đảng anh em sẽ giúp đỡ và chỉ đạo Đảng một cách mật thiết hơn trước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr. 175-176.
NGÀY 31-3
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư tới các Đảng Cộng sản anh em
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đề ra nhiệm vụ liên hệ chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt ủng hộ cách mạng Liên Xô và Trung Quốc, chống chiến tranh đế quốc. Vì vậy, Đại hội đã gửi thư tới các Đảng Cộng sản anh em: Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Xiêm (Thái Lan), Ấn Độ.
1. Thư gửi cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra trang sử mới cho cách mạng vô sản thế giới và cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Đảng Cộng sản Liên Xô đã giành được những thắng lợi mới trên nhiều mặt: chính trị, xã hội, kinh tế.... Đảng Cộng sản Đông Dương hoan nghênh những thắng lợi đó, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm từ đó. Đảng Cộng sản Đông Dương bày tỏ quyết tâm đi theo con đường vẻ vang của Liên Xô, lãnh đạo nhân dân Đông Dương đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, lập chính quyền Xô viết. Đảng Cộng sản Đông Dương bày tỏ quyết tâm bảo vệ Liên Xô - thành trì cách mạng thế giới...
2. Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc xây dựng chính quyền Xôviết ở Trung Quốc, xây dựng đời sống mới, giải phóng và thống nhất Trung Quốc. Đảng Cộng sản Đông Dương nêu rõ cách mạng Trung Quốc và Việt Nam có quan hệ mật thiết với nhau, tuyên bố ủng hộ cách mạng Trung Quốc, bày tỏ lòng tin tưởng vào sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cách mạng Đông Dương.
3. Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Pháp.
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa cuộc cách mạng giải phóng Đông Dương với cách mạng vô sản Pháp. Đảng Cộng sản Đông Dương nêu cao vai trò tích cực của Đảng Cộng sản Pháp, nhân dân Pháp đối với cách mạng Đông Dương: như can thiệp việc thực dân Pháp xử án các chiến sĩ Đông Dương, cổ động trên báo chí Pháp, diễn thuyết ủng hộ Đông Dương, đặc biệt là những hành động nhân đạo của Cứu tế đỏ, Công hội đỏ đối với các chiến sĩ cách mạng Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương hy vọng Đảng Cộng sản Pháp, nhân dân Pháp giúp đỡ cách mạng Đông Dương nhiều hơn nữa
Đồng thời, Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định sự phát triển của cách mạng Đông Dương sẽ làm lực lượng đế quốc Pháp yếu thêm, sẽ ảnh hưởng tốt đối với cách mạng vô sản Pháp. Cách mạng Đông Dương phát triển là hình thức giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với Đảng Cộng sản Pháp.
4. Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan)
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định cuộc cách mạng ở mỗi xứ đều là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Đông Dương và Thái Lan là hai xứ lân cận, cuộc cách mạng ở xứ này đều có ảnh hướng tới xứ kia nên sự liên hệ giữa hai Đảng phải mỗi ngày một thêm khăng khít.
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định Đảng Cộng sản Xiêm đã giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương nhiều mặt, hy vọng Đảng Cộng sản Xiêm tiếp tục giúp đỡ ủng hộ cách mạng Đông Dương, đồng thời tuyên bố Đảng Cộng sản và nhân dân Đông Dương sẽ giúp đỡ Đảng Cộng sản Xiêm, cách mạng Xiêm.
5. Thư gửi Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ấn Độ.
Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Ấn Độ trong cuộc cách mạng phản đế và điền địa ở Ấn Độ. Cách mạng Ấn Độ và cách mạng Đông Dương là hai bộ phận của cách mạng toàn thế giới, nên cách mạng hai xứ cần liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Đảng Cộng sản Đông Dương bày tỏ niềm tin tưởng hai Đảng và nhân dân hai nước sẽ ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr 177-187.
NGÀY 31-3
Thư của Ban Chỉ huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản
Ngày 31-3-1935, Ban Chỉ huy ở ngoài gửi thư cho Quốc tế Cộng sản báo cáo về hoạt động của Đảng trong bốn tháng cuối năm 1934, đầu năm 1935.
Về việc chuẩn bị Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương, Ban Chỉ huy ở ngoài cho biết Ban Chỉ huy ở ngoài đã ra những chỉ thị rất rõ ràng gửi tất cả các tổ chức Đảng để chuẩn bị Đại hội một cách nghiêm túc. Tuy vậy, việc sắp xếp tổ chức, nghiên cứu các nghị quyết thư, thông cáo, chương trình hành động ở các tổ chức Đảng chưa đều khắp, chưa đạt kết quả mỹ mãn. Tạp chí Bônsơvích của Ban Chỉ huy ở ngoài đã mở một cuộc phê bình về hoạt động của toàn Đảng và chỉ ra các nhiệm vụ cần kíp.
Ban Chỉ huy ở ngoài nêu diễn biến Đại hội. Kết quả của Đại hội là bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người, gồm 9 uỷ viên chính thức, 4 uỷ viên dự khuyết, trong đó có 8 công nhân. Ban Thường vụ gồm 5 người (trong đó có 4 công nhân). Đại hội đã quyết định từ nay công nhân cần chiếm đa số trong mọi cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Về tình hình Đảng và các tổ chức quần chúng, Ban Chỉ huy ở ngoài cho biết, đến ngày 15-2-1935 có 552 đảng viên trên toàn Đông Dương. Đảng viên phần lớn là nông dân, số đảng viên là trí thức giảm đáng kể do khủng bố. Chỉ còn một số tỉnh có tỉnh uỷ: ở Bắc Kỳ có Thành uỷ Hà Nội, Tỉnh uỷ Cao Bằng, Tỉnh uỷ Lạng Sơn, Tỉnh uỷ Thái Nguyên; ở Trung Kỳ có Tỉnh uỷ Nghệ An, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi, Tỉnh uỷ Quảng Nam, ở Nam Kỳ có Tỉnh uỷ Gia Định, Tỉnh uỷ Bến Tre, Tỉnh uỷ Chợ Lớn... Ở Lào có Thị uỷ Viêng chăn, Tỉnh uỷ Savanakhét, Tỉnh uỷ Thàkhẹt.
Về tuyên truyền cổ động, Ban Chỉ huy ở ngoài cung cấp nhiều tài liệu tuyên truyền cổ động cho Lào, Bắc Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Tạp chíBônsơvích có nhiều lỗi về nội dung và hình thức, nhưng trung thành với đường lối chính trị của Quốc tế Cộng sản, được Đảng Cộng sản Xiêm tái bản. Mỗi dịp có ngày kỷ niệm đỏ về tranh đấu quốc tế, trong nước xuất bản những tài liệu đặc biệt. Ban Chấp hành Trung ương sắp xuất bản hai bản nguyệt san: Tạp chí Cộng sản và báo Cờ vô sản.
Về phong trào quần chúng, mỗi địa phương có khác nhau. Bắc Kỳ có ba cuộc biểu tình lớn của nông dân ở Cao Bằng, Lạng Sơn vào tháng chạp 1934. Trung Kỳ không có phong trào quần chúng. Các đảng viên Nam Kỳ tham gia tích cực vào cuộc vận động bầu cử Hội đồng thuộc địa. Ở Lào, Việt kiều tổ chức hai tuần lễ đặc biệt chống khủng bố trắng.
Ban Chỉ huy ở ngoài khẳng định Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương nhất trí với đường lối chính trị chung của Ban Chỉ huy ở ngoài.
Ban Chỉ huy ở ngoài nhắc lại đề nghị tổ chức một phân bộ của Đông Phương Bộ của Quốc tế Cộng sản ở Nam Thái Bình Dương để lãnh đạo ba đảng cộng sản Đông Dương, Xiêm, Mã Lai. Đồng thời, giải thể Ban Chỉ huy ở ngoài, đưa một phần các đồng chí ở Ban Chỉ huy ở ngoài về làm việc trong xứ Đông Dương.
Ban Chỉ huy ở ngoài nêu rõ, đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ định là đại diện của Đảng ở Quốc tế Cộng sản. Đại hội I của Đảng đã chỉ định các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nõn đi Liên Xô dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản.
Phần kết, Ban Chỉ huy ở ngoài phê phán đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Ở Xiêm và Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã đấu tranh công khai chống “những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa duy tâm" của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Theo Ban Chỉ huy ở ngoài, những tàn dư ấy rất mạnh, cản trở nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản, nên cuộc đấu tranh chống lại nó là rất cần thiết. Hai Đảng Cộng sản Xiêm và Đông Dương đã xuất bản một quyển sách chống những xu hướng này, Đảng Cộng sản Đông Dương đề nghị đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết một quyển sách tự phê bình những khuyết điểm đã qua.
Thái độ phê phán đồng chí Nguyễn Ái Quốc bắt nguồn từ hạn chế về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc và nhận thức thực tiễn cách mạng Việt Nam, là đề cao tính giai cấp, xem nhẹ tính dân tộc của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 190-204.
NGÀY 3-4
Thông báo của Ban Chỉ huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các xứ uỷ và các đảng bộ
Sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng, ngày 3-4, Ban Chỉ huy ở ngoài gửi Thông báo tới các xứ ủy và tất cả các đảng bộ.
Thông báo phản ánh tình hình mới về tổ chức của Đảng, nêu rõ, trước Đại hội, Ban Chỉ huy ở ngoài kiêm Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trực tiếp chỉ đạo các xứ uỷ Lào, Bắc Kỳ, liên địa phương miền Nam Đông Dương (Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ và Cao Miên) và Đặc biệt bộ ở Bắc Trung Kỳ, nay Đại hội đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức 13 người, nên từ nay các xứ uỷ phải báo cáo trực tiếp công tác của mình cho Ban Chấp hành Trung ương, hoạt động theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương. Ban Chỉ huy ở ngoài tin tưởng các đảng bộ sẽ tuân theo Ban Chấp hành Trung ương mà lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
Khẳng định rằng Ban Chỉ huy ở ngoài chỉ chỉ huy Ban Chấp hành Trung ương về đường lối chính trị chung, nhưng đề phòng khi có việc bất trắc xảy ra thì Ban Chỉ huy ở ngoài vẫn có thể trực tiếp liên lạc và chỉ đạo các xứ uỷ, thông báo yêu cầu các xứ uỷ phải giữ liên lạc chặt chẽ với Ban Chỉ huy ở ngoài. Các xứ uỷ phải thường xuyên báo cáo công tác cho Ban Chỉ huy ở ngoài. Gặp hoàn cảnh đặc biệt, các xứ uỷ nếu có liên lạc với Ban Chỉ huy ở ngoài tốt hơn với Ban Chấp hành Trung ương thì có thể tạm thời yêu cầu Ban Chỉ huy ở ngoài trực tiếp chỉ thị, đồng thời phải báo cáo cho Ban Chấp hành Trung ương biết, để nghị quyết của hai cơ quan đầu não khỏi mâu thuẫn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr 205-206.
NGÀY 3 - 4
Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các xứ uỷ và các đảng bộ
Ngày 3-4, Ban Chấp hành Trung ương gửi thư cho toàn Đảng, hứa kiên quyết thực hiện tốt trách nhiệm mà Đại hội Đảng uỷ nhiệm là chỉ đạo công tác toàn Đảng. Ban Chấp hành Trung ương sẽ thực hiện các nghị quyết và Điều lệ Đại hội định ra, sẽ căn cứ vào chương trình, nghị quyết của Đảng Cộng sản Đông Dương và Quốc tế Cộng sản mà chỉ đạo đấu tranh hàng ngày. Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng Ban Chỉ huy ở ngoài và Quốc tế Cộng sản sẽ luôn chỉ đạo Ban Chấp hành Trung ương về đường lối chính trị chung.
Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng các tổ chức Đảng cấp dưới sẽ nỗ lực thi hành các chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương một cách mau lẹ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 207-208.
NGÀY 7 - 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo các đảng bộ phát động đấu tranh nhân ngày 1-5
Ban Chấp hành Trung ương của Đảng xác định ngày 1-5-1935 chẳng những là ngày giai cấp vô sản và quần chúng lao động toàn thế giới đấu tranh chống tư bản, mà đối với Đông Dương ngày này có tầm quan trọng đặc biệt. Đây là thời điểm Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng mới thành công, do đó ngày 1-5 phải là ngày hiệu triệu quần chúng thực hiện các nghị quyết Đại hội.
Ban Chấp hành Trung ương quyết định kế hoạch đấu tranh ngày 1-5-1935 là:
- Các đảng bộ tích cực tuyên truyền về ngày 1 - 5 và Đại hội Đảng lần thứ nhất trong Đảng và quần chúng.
- Các đảng bộ phải nghiên cứu các nghị quyết của Đại hội Đảng, trên cơ sở đó vận động quần chúng đấu tranh cách mạng.
- Các đảng bộ phải mở rộng tự chỉ trích trong Đảng. Các đảng bộ phải dùng mọi hình thức (báo chí, diễn thuyết, hội họp) công khai, bán công khai và bí mật để chống lại các lập trường, quan điểm của phái quốc gia cải lương, của đế quốc.
- Các đảng bộ phải căn cứ vào điều kiện thực tế từng địa phương mà đề ra những yêu cầu thiết thân của quần chúng, gắn với các khẩu hiệu chung của cách mạng phản đế và điền địa để đưa quần chúng ra đấu tranh.
Các đảng bộ tuỳ theo điều kiện thực tế của từng địa phương và lực lượng của Đảng mà quyết định hình thức đấu tranh: bãi công, bãi khoá, thị uy, biểu tình, rải truyền đơn, treo băng cờ, diễn thuyết. .. Đảng phải luôn luôn thuyết phục, hướng dẫn quần chúng trước, trong và sau khi đấu tranh, để quần chúng có nhiệt tình cách mạng, rút được kinh nghiệm. Đồng thời trong đấu tranh các đảng bộ, đảng viên phải chú ý kết nạp đảng viên hội viên, các tổ chức quần chúng cách mạng.
Sau các cuộc đấu tranh, các cấp đảng bộ phải kịp thời rút kinh nghiệm, báo cáo công tác chuẩn bị, kết quả, ưu điểm và khuyết điểm đấu tranh lên Trung ương.
Bản Thông cáo nêu ra 13 khẩu hiệu chung cho đợt đấu tranh, kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 với những nội dung cơ bản: đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, đòi các quyền lợi thiết thân cho công nông, phản đối chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô và Trung Quốc, hăng hái thực hiện các nghị quyết Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương,v.v .
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 209-212.
ĐẦU THÁNG 4
Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi cấp uỷ Trung Nam Trung Kỳ
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã thành công. Liên địa phương Chấp uỷ Nam Đông Dương (lập năm 1934, gồm ba đảng bộ miền Nam Trung Bộ, miền Đông Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ) đã giải tán. Ở Trung Kỳ có tới hai bộ phận: Xứ uỷ Trung Kỳ và Địa phương Chấp uỷ Trung Trung Kỳ.
Xuất phát từ tình hình trên, căn cứ vào yêu cầu tổ chức lại lực lượng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (lúc ấy gọi là Trung ương Thường vụ) gửi chỉ thị yêu cầu thống nhất tổ chức lực lượng đảng cộng sản toàn xứ Trung Kỳ, lập Xứ uỷ mới cho toàn Trung Kỳ.
Trung ương chỉ thị Xứ uỷ Trung Kỳ phụ trách công tác đảng từ Thanh Hoá tới Bình Thuận. Xứ uỷ Trung Kỳ mới cần phải lập ra một, hoặc hai ban cán sự của Xứ uỷ giúp Xứ uỷ chỉ đạo các tỉnh. Chỉ thị gợi ý Xứ uỷ Trung Kỳ phải lập một Ban Cán sự miền Bắc Trung Kỳ để chỉ huy Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và một Ban Cán sự miền Nam Trung Kỳ để chỉ huy Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận, Đà Lạt. Các ban cán sự này gồm có Xứ uỷ viên và người của Xử uỷ chỉ định. Còn Xứ uỷ Trung Trung Kỳ thì đóng cơ quan ở Trung Kỳ để trực tiếp chỉ đạo các tỉnh bộ Trung Trung Kỳ. Cách tổ chức như vậy nhằm thống nhất chỉ huy cả Trung Kỳ.
Chỉ thị yêu cầu lập ngay Ban Cán sự Trung Nam của Xứ uỷ Trung Kỳ tạm thời dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Trung ương đến khi nào có chỉ thị của Trung ương sẽ hợp nhất với Xứ uỷ Trung Kỳ hiện tại.
Chỉ thị yêu cầu Trung Kỳ tích cực chỉnh đốn tổ chức, lập các tỉnh uỷ nếu tỉnh có ba chi bộ trở lên, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng, nâng cao trình độ lý luận của đảng viên, phát động quần chúng đấu tranh nhân dịp 1-5. Chỉ thị cũng thông báo kế hoạch kiểm tra tổ chức Đảng bộ Trung Trung Kỳ của Trung ương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr 213-216.
NGÀY 23 - 4
Hội nghị đại biểu Liên tỉnh Trung Kỳ
Tháng 4-1935, Trung ương Thường vụ Đảng Cộng sản Đông Dương cử đồng chí Tống Văn Trân về Trung Kỳ giúp đỡ các đảng bộ lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương, đồng thời đổi Ban Địa phương Chấp uỷ Trung Trung Kỳ thành Ban Cán sự Trung Nam của Xứ uỷ Trung Kỳ.
Ngày 23-4-1935, đại biểu các đảng bộ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà họp ở Mỹ Á (huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) do đồng chí Tống Văn Trân chủ trì.
Hội nghị ra Nghị quyết đề cập đến tình hình chính trị và kinh tế của Trung Kỳ, tình hình Đảng Cộng sản, các tổ chức quần chúng, đề ra phương hướng công tác.
Theo Nghị quyết, Đảng đã lập lại được tổ chức ở bốn tỉnh miền Trung, liên lạc được với các nhóm ở Nam Kỳ, Cao Miên, lập ra một liên khu uỷ ở Nam Đông Dương. Tuy vậy, khu vực miền Trung cũng vẫn còn một số khuyết điểm: việc kết nạp đảng viên quá thiên về tiểu tư sản có học thức, do đó các cấp bộ của Đảng ở Trung Trung Kỳ hầu như không có một người vô sản nào. Trong các hầm mỏ, đồn điền, nhà máy, thành phố lớn không có đảng viên. Các chỉ thị của Đảng đưa ra không rõ ràng, không chính xác, không nhanh chóng. Công tác Đoàn Thanh niên, giáo dục và tuyên truyền, tài chính, liên lạc, đấu tranh đều yếu. Các tổ chức quần chúng như Công hội đỏ, Nông hội đỏ, v.v. đều yếu kém.
Hội nghị quyết định: Về công tác Đảng, phải đặc biệt quan tâm tổ chức các chi bộ xí nghiệp và thành lập những tổ chức ở thành thị, mở rộng thành phần vô sản, đưa phần tử vô sản và phụ nữ vào cơ quan lãnh đạo, cố gắng trong ba tháng tăng gấp đôi số đảng viên và lập ra tất cả những tổ chức cần thiết ở Trung và Nam Trung Kỳ. Về công tác Đoàn, phải phát triển các Đoàn Thanh niên Cộng sản, đưa đảng viên dưới 23 tuổi vào Đoàn. Trong hai tháng, các Đoàn Thanh niên Cộng sản phải có mặt trong tất cả các tỉnh để tổ chức một Xứ bộ Thanh niên Cộng sản Đoàn. Phải tăng cường huấn luyện và tuyên truyền, đào tạo huấn luyện viên, ra sách báo, cải tổ cơ quan ấn loát. Công tác tài chính và liên lạc phải chấn chỉnh, thu đảng phí từ đảng viên và nguyệt phí từ các tổ chức quần chúng. Các tỉnh mỗi tháng phải nộp cho Ban quản trị Trung Trung Kỳ nửa số thu được của họ. Liên lạc phải nhanh chóng và thận trọng.
Hội nghị quyết định đẩy mạnh đấu tranh cách mạng, chống mọi mưu toan trì hoãn đấu tranh. Đảng phải hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày, chống lao dịch, thuế má. Các tổ chức quần chúng: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, binh lính, tự vệ công nông, v.v. phải được xây dựng.
Hội nghị bày tỏ sự nhất trí với Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương.
Về cơ quan lãnh đạo, Hội nghị quyết định tuân theo chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, giải thể Ban Chấp uỷ Trung Trung Kỳ.
Hội nghị bầu Ban Cán sự Trung Nam của Xứ uỷ Trung Kỳ do đồng chí Phạm Xuân Hoà làm Bí thư.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr 217-231.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t. I.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Khánh 1930-1945, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Phú Khánh xuất bản, 1978.
THÁNG 5
Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản cuốn Hỏi và đáp về những vấn đề cách mạng
Cuốn Hỏi và đáp về những vấn đề cách mạng là một trong những cuốn sách trình bày về các vấn đề lý luận cách mạng, nhằm nâng cao trình độ nhận thức nhiệt tình cách mạng cho đảng viên, quần chúng cách mạng. Sách có chín phần.
1. Các giai cấp.
Sách nói rõ, thế giới ngày nay chia thành hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Sau khi định nghĩa giai cấp, sách giải thích về các giai cấp, tầng lớp tư sản, vô sản, phong kiến, nông dân (phú nông, trung nông, bần nông, công nhân nông nghiệp), địa chủ, vô sản, lưu manh, trí thức, tiểu tư sản, dân nghèo thành thị.
2. Các loại hình cách mạng chủ yếu.
Sách nêu ba loại hình: cách mạng vô sản, cách mạng dân chủ tư sản, cách mạng giải phóng dân tộc.
Cuộc cách mạng hiện nay ở Đông Dương là cách mạng dân chủ tư sản với hai nhiệm vụ là phản đế và cải cách ruộng đất, tiến lên cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Động lực của cách mạng phản đế và ruộng đất là công nhân, nông dân lao động và dân nghèo thành thị do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua Đảng Cộng sản Đông Dương.
3. Ý nghĩa và nhiệm vụ của các Xôviết.
Xô viết công nông binh là hình thức chuyên chính của giai cấp vô sản và nông dân trong cách mạng dân chủ tư sản, là chuyên chính của giai cấp vô sản trong thời kỳ cách mạng vô sản, thời kỳ đã tiêu diệt hết giai cấp tư sản.
4. Các đảng.
Sách định nghĩa đảng phái, giải thích Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng của giai cấp vô sản, theo tư tưởng Mác - Ăngghen - Lênin, liên lạc mật thiết với quần chúng, lãnh đạo quần chúng làm cách mạng phản đế và ruộng đất lập chính quyền Xôviết công nông, binh, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sách giải thích về các đảng Lập hiến các nhóm quốc gia cải lương, Việt Nam Quốc dân Đảng, nêu thái độ của Đảng Cộng sản đối với các đảng phái đó.
5. Các tổ chức quần chúng.
Sách nêu các tổ chức: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên Cộng sản Đoàn, Cứu tế đỏ, Phản đế liên minh, Tổ chức binh lính, Đội tự vệ đỏ công nông và các tổ chức quần chúng khác; xác định quan hệ của Đảng với các tổ chức đó.
6 . Các tổ chức quốc tế
Sách điểm các Quốc tế II, Quốc tế Công hội vàng, Hội Quốc liên, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), Quốc tế Cộng sản Thanh niên, Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Cứu tế đỏ.
7. Các loại học thuyết.
Sách viết về các học thuyết chủ nghĩa cộng sản, xã hội dân chủ, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên, học thuyết bất hợp tác của Găngđi, các tôn giáo.
8. Nói về Liên Xô.
Lịch sử hình thành Liên bang Xôviết và những thành tựu to lớn Liên Xô đã và đang đạt được trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kêu gọi ủng hộ Liên bang Xôviết, thành trì của cách mạng thế giới.
9. Nói về Trung Quốc
Quá trình lớn mạnh của cách mạng Trung Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, khẳng định tinh thần đoàn kết chiến đấu với cách mạng Trung Quốc.
Cuốn sách Hỏi và đáp những vấn đề cách mạng tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản của cách mạng vô sản như nhiệm vụ, động lực cách mạng, vai trò của giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản, tương lai tươi sáng của cách mạng. Sách cũng dành phần thích đáng phê phán những tổ chức, quan điểm trái với chủ nghĩa cộng sản. Sách giúp người đọc nắm được những vấn đề lý luận cơ bản, có tác dụng lớn đối với phong trào cách mạng lúc bấy giờ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 232-279.
GIỮA NĂM
Đồng chí Hoàng Đình Giong về vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả để củng cố tổ chức Đảng và xây dựng phong trào quần chúng
Sau cao trào 1930-1931, phong trào khu Mỏ Hòn Gai- Cẩm Phả (Quảng Ninh ngày nay) gặp nhiều khó khăn: địch đàn áp mạnh, các cơ sở Đảng bị phá vỡ, các cuộc đấu tranh của công nhân lẻ tẻ, thiếu tổ chức.
Đại hội đại biểu Đảng lần thứ nhất quyết định tăng cường phát triển Đảng ở các xí nghiệp, đồn điền hầm mỏ đường giao thông quan trọng. Sau Đại hội, Đảng cử đồng chí Hoàng Đình Giong về vùng Mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả để củng cố, xây dựng phong trào.
Đồng chí Hoàng Đình Giong đã gây cơ sở và chắp nối liên lạc với những đảng viên cũ ở mỏ và những đảng viên ở vùng nông thôn Nam Định bị địch khủng bố chuyển ra mỏ Cẩm Phả làm phu. Vừa phát triển tổ chức Đảng, đồng chí vừa tuyên truyền, giáo dục vận động công nhân, lập hội ái hữu để tập hợp quần chúng.
Những hoạt động của đồng chí góp phần phục hồi phong trào công nhân khu mỏ, củng cố ý chí niềm tin của đảng viên, công nhân.
Sau khi ở khu mỏ một thời gian ngắn, đồng chí Hoàng Đình Giong được Trung ương Đảng điều đi nơi khác.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t. 1.
TRONG NĂM
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản
Sau khi điểm lại tình hình Đông Dương từ năm 1930 đến Đại hội đại biểu lần thứ nhất báo cáo nêu rõ thành công của Đảng:
“Hiện nay về mặt tổ chức trong Đảng Cộng sản có: 1- Ban Chấp uỷ Trung ương ở trong nước; 2- Ban Chỉ huy ở ngoài để liên lạc với Quốc tế Cộng sản, xuất bản cơ quan lý luận Trung ương của Đảng Cộng sản là Tạp chí Bônsơvích và chuẩn bị cán bộ Đảng cho đất nước; 3- Các xứ uỷ ở Bắc Kỳ, Lào, Nam Kỳ, Đông Nam Kỳ, Bắc Trung Kỳ Nam Trung Kỳ. Ở Cao Miên chưa tổ chức cấp uỷ. Có thể cho rằng Đảng lại xây dựng được bộ máy của mình, giờ đây nhiệm vụ của Đảng là củng cố bộ máy ấy".
Bản báo cáo nêu một số nét của tình hình:
- Các đồng chí của ta còn ít kinh nghiệm hoạt động bí mật.
- Các cơ quan lãnh đạo của Đảng lãnh đạo các tổ chức địa phương khá thành công, nhưng ở một số tổ chức Đảng có tàn tích lý luận và thực tiễn của các tổ chức cộng sản cũ, trong đó chiếm ưu thế là các truyền thống dân tộc - cách mạng. Ở Bắc Kỳ, khuynh hướng ly khai manh động còn mạnh.
- Đảng có báo chí khá phong phú, nhưng khó hiểu đối với quần chúng.
- Cán bộ ở các cơ quan lãnh đạo (Ban Trung ương Chấp uỷ Ban Chỉ huy ở ngoài) khá mạnh nhưng cán bộ các xứ và tỉnh còn tất yếu, đặc biệt ở Bắc Kỳ.
- Phong trào cách mạng trong nước đang phát triển mạnh, nhưng thường tự phát nhiều hơn có tổ chức, các yêu sách kinh tế chiếm ưu thế hơn yêu sách chính trị, liên hệ giữa phản đế và phản phong đấu tranh của đồng bào còn yếu, Đảng chưa bao quát toàn bộ phong trào ưu điểm là phong trào đấu tranh của đồng bào dân tộc thiểu số rất mạnh, công nông được thu hút vào cuộc đấu tranh chung. Báo cáo nói rằng, trong nước có hoàn cảnh thuận lợi để nâng cao đấu tranh cách mạng và phát triển công tác đảng, nhưng Đảng chưa làm được hết những gì phải làm. Đảng rất thành công trong cuộc vận động bầu cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ nhưng chưa xây dựng được Mặt trận Phản đế rộng rãi, công tác quần chúng của Đảng còn yếu.
Cuối thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đề nghị Quốc tế Cộng sản kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thành phân bộ của Quốc tế Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 307-376.
TỪ NGÀY 25-7 ĐẾN NGÀY 21 - 8
Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản
Nửa sau những năm 30, nguy cơ chiến tranh thế giới tăng lên, phe phát xít chuẩn bị cuộc chiến thanh thế giới mới nhằm thống trị thế giới. Những nước tư bản chủ nghĩa lợi dụng tình hình muốn hướng mũi nhọn phát xít chống Liên Xô. Phong trào đấu tranh của các lực lượng tiến bộ chống nguy cơ phát xít và chiến tranh diễn ra khắp nơi.
Tình hình mới đòi hỏi những người cộng sản phải tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của các Đảng Cộng sản, định ra một đường lối chiến lược và sách lược mới của phong trào cộng sản thế giới. Do đó, Đại hội đại biểu lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được tổ chức từ ngày 25-7 đến ngày 21-8-1935 tại Mátxcơva.
Tham gia Đại hội có 510 đại biểu (trong đó có 371 đại biểu có quyền biểu quyết) của 65 Đảng Cộng sản, đại diện cho 3.141.000 đảng viên trong đó có 785.000 đảng viên ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đồng chí G. Đimitơrốp, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản trình bày Báo cáo chính trị của Đại hội: “Sự tấn công của chủ nghĩa phát xít và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh để thống nhất giai cấp công nhân chống chủ nghĩa phát xít”, nói về chủ nghĩa phát xít và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh cho sự thống nhất của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa phát xít.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết về cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Đại hội phủ nhận quan điểm tả khuynh cho rằng cách mạng ở các nước thuộc địa chỉ mang tính chất như cách mạng dân chủ tư sản nhanh chóng chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy là không phù hợp với tình hình và không đánh giá đúng nhiệm vụ chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa. Đại hội chỉ ra rằng, đối với phần lớn các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, bước đầu tiên của cách mạng là đấu tranh giải phóng dân tộc. Đại hội phủ nhận quan niệm cho rằng công cuộc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể dựa trên cơ sở các cuộc cách mạng vô sản hoặc trong mối quan hệ với các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các chính quốc. Các nước thuộc địa và nửa thuộc địa có thể chống đế quốc để giành độc lập. Quan điểm này đã khắc phục hạn chế của Quốc tế Cộng sản kéo dài từ Đại hội I đến Đại hội VI là cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.
Tư tưởng trung tâm của Đại hội VII về vấn đề dân tộc thuộc địa là thành lập mặt trận thống nhất chống đế quốc ở các thuộc địa và các nước phụ thuộc.
Đại hội phê phán gay gắt các quan điểm cho rằng tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa mang tính chất hoàn toàn thân đế quốc và đòi hỏi những người cộng sản phải tấn công chống các tổ chức tư sản dân tộc định hướng cho Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mạnh dạn thực hiện đường lối tập hợp vào Mặt trận thống nhất tất cả những ai có khả năng chống đế quốc.
Đại hội khẳng định tư tưởng liên minh các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức với phong trào công nhân quốc tế và bắt buộc các Đảng Cộng sản phải tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân bị áp bức ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Việc Đại hội VII chỉ rõ nội dung, tính chất cuộc cách mạng đang phát triển ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa có tác động rất quan trọng đối với các dân tộc bị áp bức đang đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong đó có nhân dân Việt Nam.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc. Đại hội đã phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin trong hoàn cảnh lịch sử mới, định ra chiến lược, sách lược mới, là kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Đối với những người Cộng sản Việt Nam, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa vô cùng to lớn, tạo cơ sơ cho Đảng Cộng sản Đông Dương đánh giá đúng những thay đổi của tình hình quốc tế và trong nước, xác định phương hướng, hình thức hoạt động, đưa cao trào cách mạng tiến lên một cao trào mới (1936-1939) và tiến tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Đồng chí Lê Hồng Phong, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương - một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi (33 tuổi) được Đại hội bầu là Uỷ viên chính thức của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản (Khoá VII).
- Đimitơrốp: Đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1959.
- Phong tạo cộng sản, công nhân và giải phóng dân tộc quốc tế, Nxb. Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1981, t. 6, tr. 322-330.
- Nguyễn Anh Thái: Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo dục, 1998, tr. 156-160.
- K.K. Sinhia: Cơ cấu tổ chức của Quốc tế Cộng sản 1919-1943, Mátxcơva, 1997.
TỪ NGÀY 28-7 ĐẾN NGÀY 16-8
Hoạt động của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva (Liên Xô) từ ngày 25-7 đến ngày 21-8-1935, bàn về nhiệm vụ chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều đoàn đại biểu của các nước tới dự. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương gồm các đồng chí Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Nõn, Nguyễn Thị Minh Khai. Đại hội nhiệt liệt chào đón Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tại Đại hội, Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương trình bày ba bản tham luận.
Trong phiên họp thứ chín của Đại hội ngày 28-7-1935, đồng chí Lê Hồng Phong (lúc ấy lấy tên là Hải An) đọc bản tham luận quan trọng nói về phong trào cách mạng Đông Dương thời kỳ 1930-1935, nêu các bài học kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, nêu ưu điểm và khuyết điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí nêu rõ sức mạnh bất diệt của Đảng Cộng sản Đông Dương, bày tỏ sự lạc quan về tiền đồ của cách mạng Đông Dương.
Đồng chí bày tỏ niềm vui mừng của Đảng Cộng sản Đông Dương lần đầu tiên được đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, niềm tin tưởng vào Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Liên Xô, các đảng anh em khác.
Trong phiên họp thứ 31 ngày 11-8-1935, đồng chí Hoàng Văn Nõn (lúc ấy tên là Văn Tân) đọc tham luận, khẳng định những đóng góp to lớn của các dân tộc thiểu số ở Đông Dương.
Đồng chí nêu vấn đề thực hiện mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân. Công nhân cần lập Công hội đỏ, cần đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí còn nêu vấn đề thành lập Mặt trận nhân dân thống nhất phản đế Đông Dương.
Trong phiên họp thứ 40, ngày 16-8-1935, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai (lúc ấy tên là Phan Lan) đọc bản tham luận khẳng định vai trò và thành tích của phụ nữ Đông Dương.
Trong bản tham luận của mình, đồng chí còn đề cập đến những âm mưu chiến tranh của Pháp, vấn đề lập Mặt trận nhân dân chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình, Các bản tham luận của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương là cơ sơ để Quốc tế Cộng sản hiểu rõ tình hình và đề ra phương hướng giúp đỡ cách mạng Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 315-347.
THÁNG 8
Đảng Cộng sản Đông Dương được kết nạp thành phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản
Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, vấn đề kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thành phân bộ của Quốc tế Cộng sản được Uỷ ban Chính trị của Ban Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản thảo luận. Ngày 4-8-1935, Uỷ ban Chính trị sơ bộ thông qua vấn đề kết nạp. Ngày 8-8-1935, Ủy ban Chính trị quyết nghị đề nghị Đoàn chủ tịch Đại hội thành lập tiểu ban năm người do đồng chí Cuxinen (Kuuxinhen) làm Chủ tịch để kết nạp một số Đảng Cộng sản làm phân bộ độc lập.
Phiên họp tiểu ban kết nạp của Chủ tịch đoàn Đại hội VII Quốc tế Cộng sản về việc kết nạp các đảng vào Quốc tế Cộng sản ngày 15-8-1935, do đồng chí Cuxinen làm Chủ tịch tiểu ban, đã đề nghị Đại hội kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thành phân bộ của Quốc tế Cộng sản.
Cuối tháng 8-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản thông qua Nghị quyết kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương và một số Đảng Cộng sản khác làm phân bộ của Quốc tế Cộng sản. Đồng thời, Đại hội VII uỷ quyền cho Đảng Cộng sản Pháp tiếp tục giữ mối liên hệ chặt chẽ với tất cả các Đảng Cộng sản của các nước thuộc địa Pháp và giúp đỡ các đảng đó bằng mọi cách. Đại hội VII giao cho Ban Chấp uỷ Quốc tế Cộng sản trách nhiệm giúp đỡ các Đảng Cộng sản mới được công nhận củng cố về tư tưởng và tổ chức, phát triển toàn diện, mang tính quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr. 460- 469.
THÁNG 8
Cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh
Từ năm 1932 đến năm 1935, các đảng viên hoạt động hợp pháp sử dụng báo chí công khai làm diễn đàn đấu tranh với những quan điểm chính trị, triết học, văn học và nghệ thuật tư sản, bảo vệ và tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng. Một số cuộc tranh luận nổ ra. Năm 1933 có tranh luận về duy vật, duy tâm giữa Hải Triều và Phan Khôi trên báo Phụ nữ thời đàm và Đông phương.Tiếp đó là tranh luận về nho giáo, thơ mới.
Cuộc tranh luận về nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh bắt đầu từ tháng 8-1935. Mở đầu tranh luận là bài viết của Hải Triều đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy, khen tập truyện ngắn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan là nêu được cảnh nghèo khổ, bất công trong xã hội. Thiếu Sơn, rồi Hoài Thanh phản bác lại. Cuộc tranh luận thu hút nhiều nhà văn nhà phê bình tham gia. Nhiều nhà văn bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật phục vụ nhân dân lao động. Có hai phát rõ rệt. Phái nghệ thuật vị nhân sinh có Hải Triều, Hải Khách (Trần Huy Liệu), Hồ Xanh, Lâm Mộng Quang, Hải Âu, v.v. viết trên các báo Trung Kỳ, Sông Hương, Đông Phương, Tiến bộ, Hồn trẻ. Phái nghệ thuật vị nghệ thuật gồm có Hoài Thanh, Thiếu Sơn, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật, Lan Khai ... viết trên báo Tràng An, Tiến hoá, Hà Nội báo, Tao đàn.
Cuộc tranh luận đã đề cập hầu hết các vấn đề lý luận cơ bản của văn nghệ: văn nghệ và chính trị, chức năng của văn nghệ, quan niệm về tự do sáng tác, văn nghệ phục vụ nhân dân lao động hay phục vụ một giai cấp, tính giai cấp của văn học, quan hệ giữa tư tưởng và nghệ thuật trong sáng tác, vấn đề tài năng, v.v.
Trong khi phê phán phái nghệ thuật vị nghệ thuật, phái nghệ thuật vị nhân sinh trình bày hệ thống quan điểm của mình. Theo đó, nghệ thuật phải phản ánh cuộc sống, tâm tư tình cảm của nhân dân lao động, đấu tranh giải phóng họ. Nhà văn. nghệ sĩ phải “đánh thức quần chúng và kích thích đấu tranh". Nghệ thuật phải có khuynh hướng chính trị, tư tưởng phải gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp. Con người trong nghệ thuật không thể siêu giai cấp. Vì nghệ thuật là sản phẩm của xã hội, thời đại muốn biến đổi, nên không thể có văn chương muôn đời, con người muôn thuở. Quan điểm thẩm mỹ cũng chỉ tương đối, cái đẹp có tính tương đối. Có cái đẹp về hình thức không thể tách rời nội dung và không thể chỉ quan tâm đến hình thức khi đánh giá tác phẩm nghệ thuật.
Phái nghệ thuật vị nhân sinh nêu tính giai cấp của nghệ thuật hiện nay là hướng về giai cấp vô sản và quần chúng cần lao, yêu cầu áp dụng chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, kêu gọi văn nghệ sĩ phải là kỹ sư của tâm hồn.
Cuộc tranh luận về nghệ thuật này có ý nghĩa chính trị quan trọng. Đây là lần đầu tiên trên diễn đàn văn học nước ta có cuộc tranh luận như vậy. Đằng sau mâu thuẫn về quan điểm nghệ thuật là sự mâu thuẫn của hai lập trường chính trị: một bên chịu ảnh hưởng của hệ ý thức tư sản một bên chịu ảnh hưởng của hệ ý thức vô sản. Mặc dù cuộc tranh luận kéo dài đến năm 1938 vẫn chưa ngã ngũ, nhưng quan điểm nghệ thuật vô sản được tuyên truyền rộng rãi đã bước đầu có tác dụng thu hút văn nghệ sĩ người đọc ra khỏi ảnh hưởng tư tưởng tư sản, bi quan, dao động, thoát ly đấu tranh, yêu đương lãng mạn và hướng họ vào con đường đấu tranh cách mạng.
Cuộc tranh luận về nghệ thuật này đã đem lại nguồn sinh khí mới cho nền văn học nghệ thuật Việt Nam.
- Đại cươmg Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục Hà Nội, 1999, t. 2, tr. 325.
- Thăng Long Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990, tr. 205-206.
NGÀY 25 - 9
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội VI Quốc tế Thanh niên Cộng sản
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng với Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nõn dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên họp tại Trụ sở Công đoàn Liên Xô. Tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc trả lời nhà văn I.Êrenbua khi được hỏi cảm nghĩ về mùa Xuân này: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm sở về Tổ quốc tôi".
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 62-63.
TỪ NGÀY 27-9 ĐẾN NGÀY 2-10
Công nhân lò gốm Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) bãi công
Ngành gốm huyện Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) có độ 60 lò gốm, dùng khoảng một vạn công nhân. Chủ lò hầu hết là tư sản Hoa kiều. Chúng cấu kết với thực dân Pháp, bóc lột công nhân tàn nhẫn.
Từ ngày 27-9-1935, 2000 công nhân ở 30 lò gốm bãi công để chống lại sự bóc lột tàn nhẫn của giới chủ. Cuộc đấu tranh có tổ chức có đội bảo vệ của chính công nhân lập ra.
Mặc dù giới chủ Hoa kiều dựa vào sự ủng hộ của chính quyền thực dân Pháp chống lại công nhân, nhưng cuối cùng sau một tuần đấu tranh chúng buộc phải tăng lương và trả số lương còn thiếu của công nhân lò gốm Lái Thiêu.
Bình luận về cuộc bãi công, báo La Déppêche nhận xét: "Đây là lần thứ nhất mà một cuộc bãi công quan trọng như thế này đã xảy ra. Đó là dấu hiệu của thời buổi. E rằng nhiều ngành chức nghiệp khác sẽ theo noi theo gương của công nhân lò gốm".
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003,
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930-1935), Nxb Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, tr. 173-174.
THÁNG 10
Phát biểu của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai tại Đại hội VI Quốc tế Thanh niên Cộng sản
Tháng 10-1935, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai (Phan Lan) là đại biểu chính thức dự Đại hội Quốc tế Thanh niên Cộng sản. Đồng chí thay mặt cho Thanh niên Cộng sản Đông Dương phát biểu tại Đại hội. Bài phát biểu của đồng chí có ba nội dung:
- Tình hình thanh niên Đông Dương.
- Hoạt động của thanh niên Đông Dương.
- Những nhiệm vụ trước mắt của Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương.
1. Về tình hình thanh niên Đông Dương.
Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai cho biết, 60% trẻ em Đông Dương chết trước 10 tuổi. Những ai sống sót đều phải lao động từ khi còn rất trẻ, từ 6 đến 9 tuổi ở nông thôn lẫn khu vực công nghiệp. Nam nữ thanh niên 14 đến 18 tuổi bị tuyển mộ bằng mánh khoé hay bạo lực và đưa đi làm đồn điền trên các đảo Thái Bình Dương, chịu cảnh sống và lao động nô lệ.
Từ năm 1930 đến năm 1934, do khủng hoảng kinh tế, tiền công của thanh niên vốn đã ít ỏi, lại bị giảm đi từ 60% đến 70%. Khủng hoảng khiến cho một số lớn thanh niên nam nữ công nhân vào cảnh thất nghiệp, cùng khổ, ăn xin và mại dâm. Các chủ đồn điền Pháp lợi dụng những điều kiện khốn cùng của thanh niên để kiếm được nhân công không mất tiền. Dưới danh nghĩa từ thiện, chúng thu gom thanh niên thất nghiệp lại, bắt lao động khổ sai. Những người làm việc ở đồn điền Pháp luôn bị chủ tìm cách giảm bớt tiền công thực tế, như bằng cách lập ra cửa hàng bắt buộc thợ đến mua với giá cao.
Thanh niên phải đóng thuế thân khi đến 18 tuổi, thậm chí khi 14-16 tuổi như ở Buôn Ma Thuột, với mức thuế rất cao. Họ phải làm việc không ăn từ 31 đến 119 ngày mới đủ tiền nộp thuế. Nhiều nông dân phải bán con đẻ nộp thuế và trả nợ.
Hơn 85 % nam nữ công nhân mù chữ vì phải lao động, không thể đi học và vì Đông Dương có rất ít trường học.
Ở trường học, thực dân Pháp tìm cách biến các thanh niên Đông Dương thành những nô lệ ngoan ngoãn, dễ bảo. Đi học là đặc quyền của con nhà giàu.
2. Về hoạt động của thanh niên Đông Dương
Do tình cảnh khốn cùng không lối thoát và phong trào cách mạng thúc đẩy, thanh niên lao động và trí thức trẻ tích cực tham gia các cuộc đấu tranh cách mạng từ năm 1925, đặc biệt thời kỳ 1930 - 1931. Trong tất cả các cuộc bãi công biểu tình cũng như trong phong trào Xôviết, thanh niên giữ vai trò quan trọng. Họ giúp Đảng tổ chức những Đội tự vệ để bảo vệ các cuộc biểu tình mít tinh và các cơ quan Xôviết. Nhiều đồng chí thanh niên anh dũng hy sinh khi đấu tranh cách mạng, tiêu biểu là Lý Tự Trọng.
Trong thời kỳ 1930 - 1931, thanh niên cộng sản phát triển rất nhanh chóng nhất là trong vùng Xôviết Nghệ - Tĩnh. Sau đó, khi bị khủng bố trắng, các tổ chức của thanh niên cộng sản bị phá với nhiều thanh niên bị giam cầm. Từ năm 1933, Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương đã xây dựng lại các tổ chức, tập hợp lại lực lượng, ra những báo riêng. Đoàn đã lãnh đạo phần lớn các cuộc bãi công, bãi khoá, các cuộc phản đối chống thuế và lao động khổ sai, các cuộc đấu tranh chống đế quốc trong các dân tộc thiểu số.
Tuy vậy, Đoàn còn có hạn chế như sao chép quá máy móc những hình thức và phương pháp công tác của Đảng.
3 Về những nhiệm vụ trước mắt của Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương.
Như Đại hội VII Quốc tế Cộng sản và Đại hội VI Quốc tế Thanh niên Cộng sản đã chỉ ra, nhiệm vụ chủ yếu của thanh niên là lập một mặt trận nhân dân phản đế. Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai phát biểu:
“Để làm tròn những nhiệm vụ này, T.N.C.S7 Đoàn phải bằng mọi cách thâm nhập vào các nhà máy, đồn điền, làng xã, trường học, bất cứ nơi nào có thanh niên, để tổ chức ở đấy những câu lạc bộ thể thao, những hội tương trợ, những lớp học buổi tối, v.v. để tranh thủ quần chúng thanh niên, dẫn dắt họ kiên quyết tranh đấu cho những yêu cầu và đòi hỏi thậm chí nhỏ nhất của họ; và, qua những cuộc tranh đấu hằng ngày ấy mà giáo dục họ theo tinh thần tranh đấu cách mạng chống sự bóc lột và áp bức đáng xấu hổ của chế độ thuộc địa, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc, vì các quyền kinh tế, chính trị và văn hoá của thanh niên; vì nền độc lập của đất nước, vì để bảo vệ L. B. C. H. X. H. C. N. X. V8 và nước Tàu Xôviết.
Thanh niên Cộng sản Đông Dương phải thiết lập những mối liên hệ chặt và hữu ái với các tổ chức thanh niên, nhất là và các tổ chức quốc gia cách mạng và quốc gia cải lương trên cơ sở cuộc tranh đấu chống đế quốc.
Đoàn phải đặc biệt chú ý đến quần chúng nữ thanh niên và thiếu nữ các dân tộc thiểu số. Phải học những phương pháp và kinh nghiệm của Thanh niên Cộng sản Pháp và Tàu và tiếp thu sự giúp đỡ anh em của các đoàn thanh niên này. Phải hoạt động nhằm nâng cao trình độ chính trị và lý luận của các đoàn viên của mình và đào tạo những cán bộ cần thiết".
Đồng chí khẳng định: “Chính là thông qua việc thực hiện Mặt trận nhân dân phản đế mà Thanh niên Cộng sản Đông Dương sẽ tăng cường được tổ chức của mình, mở rộng được ảnh hưởng của mình, giành được đại đa số thanh niên và dẫn dắt họ tham gia công cuộc giải phóng dân tộc tham gia cuộc cách mạng phản đế và điền địa".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 349-359.
TRONG NĂM
Hoạt động công khai của Đảng qua các cuộc vận động tuyển cử của thực dân Pháp
Từ đầu năm 1933, khi phong trào cách mạng mới được hồi phục, Đảng đã tranh thủ những điều kiện hoạt động công khai hợp pháp để đấu tranh giành thắng lợi mới. Theo chủ trương đó, trong cuộc bầu cử Hội đồng thành phố Sài Gòn năm 1933, Đảng giành thắng lợi. Danh sách ứng cử viên do quần chúng lao động đưa ra đã trúng cử. Thực dân Pháp huỷ bỏ kết quả bầu cử.
Trong cuộc tuyển cử Hội đồng Thành phố Sài Gòn khoá 1935, sổ công nhân (danh sách ứng cử viên do quần chúng lao động cử) do đồng chí Nguyễn Văn Tạo đứng đầu lại ra tranh cử. Quan điểm và đường lối chính trị của Đảng được dịp trình bày công khai với nhân dân thành phố. Sổ công nhân trúng cử. Bọn cầm quyền lại huỷ bỏ kết quả bầu cử. Khi chúng tổ chức bầu lại lần nữa. Sổ công nhân vẫn trúng cử.
Trong năm còn có cuộc tuyển cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, thuộc loại Viện dân biểu. Hội đồng thành phố Sài Gòn được bầu theo đầu phiếu phổ thông, nhân dân có cơ hội thắng cử, còn Hội đồng quản hạt Nam Kỳ chỉ do 4 vạn cử tri tư sản địa chủ, quan lại Việt Nam và Pháp bầu ra. Đảng không có ảo tưởng thắng cử, nhưng tận dụng dịp này để công khai vận động nhân dân toàn Nam Bộ.
Hai Sổ công nhân, do Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Văn Nguyễn đứng đầu mỗi sổ, ra tranh cử tại hai khu vực.
Sổ công nhân nêu rõ tình cảnh nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, lừa bịp của nhân dân lao động, nêu những yêu sách thiết thân của họ: giảm giờ làm việc, bãi bỏ những nghị định giảm lương của Phủ toàn quyền để đòi trở lại mức tiền lương trước lúc khủng hoảng kinh tế, đặt quỹ cứu trợ thất nghiệp, hạ tiền thuê nhà, xây dựng những công trình công ích, giảm thuế môn bài, huỷ bỏ các món nợ, huỷ bỏ chế độ phát canh, đặt quỹ bảo hiểm chống thiên tai trong nông nghiệp, chia lại ruộng đất bị bỏ hoá do các Uỷ ban nông dân phụ trách, lấy lúa gạo dự trữ của các công ty xuất khẩu nông sản cấp phát cho dân đói, bãi bỏ chế độ hợp đồng cưỡng bách, ban hành những luật lao động hiện hành bên Pháp cho công nhân và nhân dân lao động bản xứ. Sổ công nhân đòi đặt thuế đánh vào tư bản và thuế luỹ tiến để tạo điều kiện thực hiện những cải cách trên.
Các ứng cử viên công nhân ra tuyên ngôn kêu gọi cử tri dồn phiếu bầu cho những ứng cử viên chân chính của nhân dân đang đấu tranh đòi các quyền cơ bản của nhân dân: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, bãi bỏ chế độ sắc lệnh, đại biểu của toàn thể nhân dân được quyền lập pháp, nhân dân có quyền bãi miễn các quan chức cao cấp lạm quyền, tù chính trị được đại xá...
Tuyên ngôn và chương trình tranh cử của Sổ công nhân nhanh chóng giành được sự đồng tình của số đông cử tri người Viết Nam. Phủ thống đốc Nam Kỳ dùng mọi cách ngăn cản việc tuyên truyền vận động của Sổ công nhân, lần lữa không chịu đăng ký những ứng cử viên công nhân, cốt làm họ nản chí và không kịp làm đủ thủ tục ứng cử được, nhằm bảo vệ những ứng cử viên của chính quyền thuộc địa. Nhóm nghị sĩ cộng sản ở Quốc hội Pháp chất vấn Chính phủ Pháp về việc này và đòi trừng trị bọn cầm quyền ở thuộc địa.
Những cuộc vận động chính trị công khai hợp pháp này tại Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với tin chiến thắng trên báo chí hợp pháp đã có tác dụng cổ vũ nhân dân các thành phố Hà Nội, Hải Phòng..., góp phần phục hồi phong trào toàn quốc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1930-1935), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. I, tr. 193-198.
TRONG NĂM
Xây dựng lại cơ sở cách mạng ở Hà Nội
Ngay sau Đại hội lần thứ nhất của Đảng tháng 3- 1935, Trung ương Đảng đặc biệt quan tâm công tác gây lại cơ sở ở Bắc Kỳ và Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Văn Minh, đảng viên tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô được Trung ương Đảng cử về Hà Nội. Tháng 8-1935, đồng chí Minh về tới cửa hàng bán đối trướng Tùng Lâm ở 11 Hàng Giấy, là một cơ sở của ta.
Cũng từ cuối năm 1935 trở đi, nhiều cán bộ, đảng viên thoát khỏi nhà tù đế quốc lần lượt về Hà Nội. Từ Côn Đảo về có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện, Khuất Duy Tiến, Trần Huy Liệu. Từ Sơn La về có Đặng Xuân Khu, Đinh Xuân Nha, Bùi Vũ Trụ... Từ Lào bị trục xuất về nước có Nguyễn Trọng Cảnh (tức Trần Quốc Hoàn), Phan Trọng Tuệ, Lê Hoàng v.v. .
Nhiệm vụ khôi phục và phát triển tổ chức của Đảng, kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh là nhiệm vụ cần kíp lúc này đối với Hà Nội. Dưới vỏ bọc công nhân thất nghiệp đi tìm việc, đồng chí Nguyễn Văn Minh đi một số tỉnh tìm manh mối nhưng chưa đạt kết quả. Quay về Hà Nội, đồng chí Nguyễn Văn Minh gặp đồng chí Trần Huy Liệu. Qua đồng chí Liệu, vào đầu năm 1936, đồng chí Minh nắm được một số học sinh có xu hướng cách mạng của Trường Thăng Long. Sau đó ít lâu, đồng chí bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Tô Hiệu mới ra tù. Lúc đó các đồng chí Nguyễn Văn Cừ và Tô Hiệu đang hoạt động trong công nhân.
Chủ trương và kết quả của Đại hội đại biểu Đảng lần thứ nhất dần được đồng chí Nguyễn Văn Minh truyền đạt trong các đảng viên và một số quần chúng trung kiên. Nhờ đó, phong trào cách mạng được xây dựng, tổ chức Đảng ở Thành phố Hà Nội phục hồi.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
TRONG NĂM
Nhân dân Cao Bằng đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng
Sau cao trào Xôviết Nghệ Tĩnh, tổ chức Đảng toàn quốc bị khủng bố mạnh. Riêng ở Cao Bằng, từ năm 1930 đến năm 1935, cơ sở Đảng vẫn được củng cố và phát triển. Nhiều chi bộ mới được thành lập. Tháng 7-1933, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng do đồng chí Hoàng Như làm Bí thư được Đảng Cộng sản Đông Dương công nhận.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Cao Bằng tiếp tục đấu tranh giành quyền sống.
Tại Hà Quảng, tháng 6-1935, hơn 200 phu đang làm đường Hoà An- Hà Quảng nổi dậy đấu tranh chống đánh đập đòi được cấp tiền và gạo. Sau đó, vì bọn cai trị không chấp thuận yêu cầu, dân phu bỏ đi phu.
Trong năm, tri phủ Hoà An bắt phu tổng Tĩnh Oa. Tổng uỷ lãnh đạo quần chúng đòi phát tiền gạo. Tri phủ không phát, dân phu bỏ về.
Những người bị bắt đi phu xã Xuân Phách (Hoà An) làm đường Sông Máng được Châu uỷ lãnh đạo đấu tranh đòi trả tiền công ngày mỗi ngày ba hào, kết quả là giành được tiền công ngày mỗi ngày hai hào.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
TRONG NĂM
Phong trào cách mạng Hải Phòng phục hồi
Năm 1935, đồng chí Bùi Lâm, người Hải Phòng, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đi học ở Liên Xô, trở về hoạt động ở Hải Phòng. Đồng chí bắt liên lạc với một số đồng chí đảng viên ở cơ sở Máy tơ, ở An Dương, Lạc Viên, Hàng Kênh... như Bùi Văn Quý, Đỗ Duy Mạc, Nguyễn Văn Cấn... Đồng chí tập hợp được hơn 30 đảng viên và quần chúng trung kiên. Do đó, cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng được khôi phục ở Nhà máy xi măng, Cảng, Máy tơ, Ca Rông, Dư Hàng, Hàng Kênh, Cam Lộ...
Phong trào cách mạng phát triển ở một số nhà máy, công nhân bãi công đòi tăng lương. Tháng 2 và tháng 3-1935, có nhiều cuộc bãi công ở các cơ sở sản xuất thuỷ tinh thành phố. Giới tiểu thương chợ Sắt bãi thị đòi giảm thuế chỗ bán hàng. Tháng 5-1935, nông dân Tĩnh Hải, Hải Phong, Đoàn Xá, Lão Phong, Kim Sơn, Đại Trà (Kiến Thuỵ, Kiến An) chống hào lý, địa chủ ức hiếp dân. Ngư dân Đồ Sơn đấu tranh đòi chia đều các khẩu phần xăm. Ở Vĩnh Bảo, do ảnh hưởng từ Thái Bình, nông dân các làng Cổ Am, Ngãi Am, Tiên Am đòi vay thóc nhà giàu chia cho dân nghèo.
Cuộc vận động đòi trả tự do cho tù chính trị tiếp tục lan rộng ở Hải Phòng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
TRONG NĂM
Các chi bộ Đảng ở Hà Nam tổ chức và lãnh đạo quần chúng
Năm 1935, Hà Nam có trên 30 đảng viên, gồm những đảng viên vừa ra tù và một số đảng viên ở nơi khác về. Tại thị xã Phủ Lý, tại Cao Mật, Phù Đê, Siêu Nghệ (Kim Bảng), Hưng Công, Cổ Viễn (Bình Lục), Nhân Giã (Lý Nhân) lập được bốn chi bộ Đảng.
Trong năm 1935, thực dân Pháp khuyến khích "chấn hưng Phật giáo" nhằm thu hút quần chúng vào chùa chiền mà quên mất vận mệnh đất nước. Các đảng viên ở huyện Bình Lục vận động tổ chức hội giảng Phật học ở Hưng Công, Ngọc Lũ, Bồ Đề, Đồng Du, Vụ Bản, An Ninh, Mỹ Tho... tập hợp được nhiều Phật tử để vừa giảng về đạo Phật, vừa tuyên truyền cách mạng.
Ở huyện Thanh Liêm, tổ chức Đảng lãnh đạo nông dân Đại Vượng, Bồng Lạng, Đoàn Vĩ, Trung Hiếu đấu tranh khất thuế, với lý do vụ lúa năm 1935 bị thất bát. Cuộc đấu tranh thắng lợi.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t I.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh: Sự kiện lịch sử Đảng Hà Nam Ninh (1929- 1954), Hà Nam Ninh (1929-1954).
TRONG NĂM
Sự phát triển của tổ chức Đảng ở Nghệ An
Từ năm 1934, Đông Dương Viện trợ Bộ đã giao trách nhiệm cho đồng chí Ngô Tuân cùng Tỉnh ủy lâm thời Nghệ An bắt liên lạc và phối hợp hành động với Huyện bộ Nghi Lộc. Do có định kiến, Huyện uỷ Nghi Lộc không hợp tác. Tháng 2-1935, đồng chí Ngô Tuân và đồng chí Võ Nguyên Hiến được Đông Dương Viện trợ Bộ chỉ định đi dự Đại hội Đảng thay mặt cho Đảng bộ Trung Kỳ. Chi bộ Yên Dũng (Hưng Nguyên) được Tỉnh uỷ giao nhiệm vụ chuẩn bị tài chính, hành lý cho hai đại biểu. Ngày 10-2- 1935, đoàn lên đường.
Tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng, các đồng chí Ngô Tuân và Võ Nguyên Hiến được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Võ Nguyên Hiến được phân công phụ trách Xứ uỷ Trung Kỳ. Đồng chí Ngô Tuân phụ trách Nam Kỳ.
Tháng 4-1935, Tỉnh uỷ lâm thời Nghệ An mở Hội nghị đại biểu các huyện tại làng Hậu Luật (Diễn Bình, Diễn Châu) để phổ biến Nghị quyết Đại hội Đảng. Hội nghị quyết định đổi tên tờ báo Chuông cách mạng thành tờ Tự cứu và in các văn kiện Đại hội để huấn luyện các cấp bộ Đảng. Do đó, Tỉnh uỷ Nghệ An gây được uy tín trong tỉnh và đã nói được liên lạc, phối hợp hành động với Huyện uỷ Nghi Lộc.
Tại Thanh Chương, đầu năm 1935, một số đồng chí: Tôn Thị Quế, Phan Hữu Chín và nhiều đồng chí khác đã cố gắng khôi phục tổ chức Đảng ở Tổng uỷ Võ Liệt và các chi bộ ở Võ Liệt, Quảng Xá, song gặp nhiều trở ngại.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
TRONG NĂM
Tổ chức Đảng ở Sóc Trăng tiếp tục được xây dựng
Tại Sóc Trăng, đầu năm 1935, Chi bộ xã Mỹ Quới (quận Phước Long) vốn lập từ năm 1930, dời điểm sinh hoạt về ấp Mỹ Thọ Đông (nay là ấp Mỹ Đông xóm Hội Xâm, xã Mỹ Quới). Thời gian này chi bộ xã có hai đảng viên là Nguyễn Văn Ký (Châu Ký), Quản Trọng Linh được cấp trên giới thiệu về hoạt động. Hai đồng chí mở lớp bồi dưỡng chính trị. Chi bộ lập ra Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Cứu tế đỏ.
Tại quận Kế Sách, cuối năm 1935, đồng chí Phan Văn Bảy sau khi ra tù đã đến đây hoạt động, vận động được nhiều thanh niên tham gia cách mạng. Tại ấp An Bình, làng An Lạc Thôn, đồng chí Phan Văn Bảy kết nạp ba đảng viên. Chi bộ An Lạc Thôn lập Hội Nông dân, vận động nông dân chống sưu cao thuế nặng.
- Tỉnh uỷ Sóc Trăng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng (1930-1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Sóc Trăng xuất bản, 1994.
CUỐI NĂM
Hội nghị Đảng bộ Ninh Bình
Năm 1931, phong trào cách mạng Ninh Bình bị tổn thất lớn. Nhờ được nhân dân ủng hộ, nhờ tinh thần cách mạng của cán bộ, đảng viên, phong trào mau chóng phục hồi tuy còn gặp nhiều khó khăn. Từ năm 1932, Chi bộ Lỗi Sơn (Gia Viễn) đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi tăng công gặt, giảm mức lãi nợ, bắt đầu cho thời kỳ cách mạng mới. Đến năm 1935, dưới sự lãnh đạo của các đồng chí Lương Văn Thăng, Đinh Tất Miễn, Chi bộ Quỳnh Lưu (Nho Quan), tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền cách mạng. Đảng viên và quần chúng sáng tác thơ ca, hò, vè tố cáo tội ác của thực dân và tay sai.
Trên cơ sở những đảng viên và phong trào cách mạng đã có, cuối năm 1935 tại thôn Sầy (Sơn Thành, Nho Quan), Đảng bộ Ninh Bình tổ chức Hội nghị cán bộ để đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm khôi phục phong trào hoạt động thời kỳ 1932-1935. Hội nghị đề ra nhiệm vụ và phương hướng hoạt động thời kỳ mới, ra báo Đường cách mạng làm tài liệu tuyên truyền của Đảng bộ. Số đầu tiên của báo đã giới thiệu các hình thức hoạt động để hướng dẫn quần chúng đấu tranh, vạch tội ác của thực dân và quan lại phong kiến.
Hội nghị năm 1935 tại thôn Sầy được coi là mốc quan trọng chuẩn bị những điều kiện cho thời kỳ cách mạng mới ở Ninh Bình.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996, t. 1.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh: Sự kiện lịch sử Đảng Hà Nam Ninh (1929- 1954), Hà Nam Ninh 1976.
TRONG NĂM
Bốn cuộc bãi công của công nhân xe thổ lộ Sài Gòn - Chợ Lớn
Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, năm 1935 có các cuộc bãi công nổ ra ở Xưởng Ba Son, xí nghiệp tư bản người Hoa thuộc Công hội Vĩnh Nghĩa công nghiệp và trong công nhân viên chức các hãng buôn Sài Gòn. Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của công nhân xe thổ mộ (xe ngựa kéo). Trong vòng nửa năm, từ tháng 5 đến tháng 11 đã có ba cuộc bãi công với khí thế và số lượng người tham gia mỗi lúc một tăng:
Cuộc thứ nhất, ngày 4-5, có 1.000 người tham gia.
Cuộc thứ hai ngày 3-11, có 1.500 người tham gia.
Cuộc thứ ba, ngày 7-11, có 2.500 người tham gia. Nguyên nhân của những cuộc bãi công này là do hành động tàn bạo của tên đồn trưởng cảnh sát quận Bà Điểm phạt vạ anh em rất vô lý, mỗi lần phạt từ 0,60đ đến 3,60đ (tiền Đông Dương), trong khi công nhân xe thổ mộ, chỉ kiếm được chừng 0,30đ đến 0,40đ/ngày.
Trong lần đấu tranh thứ ba (ngày 7-11), công nhân nêu khẩu hiệu:
1. Không được phạt quá 8 cắc (0,80đ), tức là bằng thu nhập hai ngày.
2. Được phép chở thúng rau ở vệ xe.
3. Không được vô lý rút giấy phép.
4. Không được đập phá xe khi kiểm soát.
5. Bớt thuế pa tăng (thuế môn bài).
Ngày 26-12-1935, xảy ra cuộc bãi công thứ tư của công nhân xe thổ mộ. Một đồng chí, thành viên của Hội đồng Thành phố Sài Gòn thay mặt cho 1.000 người đánh xe ngựa đi gặp Thống đốc Nam Kỳ đặt vấn đề chính quyển thuộc địa phải giải quyết quyền lợi của công nhân. Bọn cầm quyền không giải quyết lại bắt giữ hai đại biểu của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn.
Cuộc đấu tranh vang tới Pari, đồng chí Gabren Pêri (Gabriel Péri) nghị sĩ cộng sản, chất vấn Chính phủ Pháp về cuộc bãi công và về việc nhà cầm quyền Nam Kỳ bắt giữ đại biểu công nhân khi họ làm phận sự đại biểu của dân.
Bọn thực dân Pháp phải thú nhận hoạt động của họ (tức đại biểu công nhân) là trung tâm thu hút mọi hoạt động chính trị ở Sài Gòn - Chợ Lớn và vùng ngoại ô. Họ đã trở thành những cố vấn chính thức của giai cấp cần lao, của công nhân xe thổ mộ, xe kéo, của viên chức Sở Xe điện, của những người tiểu thương. (Báo cáo của mật thám Đông Dương năm 1935).
- Ban Chấp hành Đang bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Mình: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, 1930-1954, sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
______________
1. T.Ư: Trung ương (B.T)
2. Q.T.C.S: Quốc tế Cộng sản (B.T)
3. B.C.H.O.N: Ban Chỉ huy ở ngoài (B.T).
4. B.C.H: Ban Chỉ huy ở ngoài (B.T)
5. C.S: Cộng sản.
6. Moscow: Mátxcơva.
7. T.N.C.S: Thanh niên Cộng sản.
8. L.B.C.H.X.H.C.N.X.V: Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết.
Năm 1936 NGÀY 28-5
Tù chính trị Côn Đảo đấu tranh đòi nhà cầm quyền thực dân trả lại tự do
Tháng 5-1936, Mặt trận Nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, nội các mới do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Bơlum làm Thủ tướng lên cầm quyền. Chương trình của Mặt trận Nhân dân Pháp nêu việc thành lập phái đoàn của Quốc hội Pháp điều tra tình hình các thuộc địa, trong đó "đại xá tù chính trị ở các xứ thuộc địa" là một trong những vấn đề được nêu lên đầu tiên.
Trước tình hình thuận lợi, Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo chủ trương phát động đấu tranh trên quy mô lớn, đòi chính quyền thực dân thả tù chính trị, cải thiện chế độ nhà tù. Ủy ban đấu tranh được thành lập, có các đội tuyên truyền, thông tin liên lạc trật tự, tự vệ. Kế hoạch thực hiện được chuẩn bị chu đáo.
Ngày 28-5-1936, đồng chí Phạm Hùng, đại biểu cho các tù nhân trao yêu sách cho giám ngục. Cuộc đấu tranh thu hút đông đảo tù nhân tham gia, từ vài trăm người trong ngày đầu tiên lên đến hơn một nghìn người vào ngày thứ 10. Cuộc tuyệt thực lan nhanh hầu khắp các trại giam. Bất chấp mọi thủ đoạn dụ dỗ, đe dọa, khủng bố của kẻ thù, các tù nhân vẫn đoàn kết đấu tranh. Ngày thứ mười ba, giám ngục thực hiện khủng bố trắng, đánh đập dã man tù nhân. Nhiều người bị thương nặng vẫn giữ vững tinh thần tiếp tục đấu tranh. Tiếng hò la: "Đại xá tù chính trị", "Không được khủng bố đánh đập người tù” vang lên khắp đảo.
Trước tinh thần bất khuất của tù chính trị, bọn thực dân phải lùi bước. Hơn 200 chiến sĩ cách mạng lần lượt được trở về đất liền.
Cuộc đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo gây tiếng vang lớn. Các lực lượng tiến bộ ở Việt Nam, Pháp đã kịch liệt lên án sự đàn áp đẫm máu của giám ngục, ủng hộ cuộc đấu tranh của tù nhân, kêu gọi chính quyền Pháp trả tự do cho toàn bộ tù chính trị ở Đông Dương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Nhà tù Côn Đảo 1862-1975, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2001.
NỬA ĐẦU NĂM 1936
Thư ngỏ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các tổ chức chính trị và các phần tư cách mạng biệt lập ở Đông Dương
Đầu năm 1936, tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi. Trên thế giới, các đế quốc ngày càng mâu thuẫn trầm trọng, các cường quốc tư bản sôi sục chuẩn bị chiến tranh. Ở Đông Dương, chính quyền thuộc địa tiếp tục chính sách áp bức nặng nề, khủng bố dã man, nhưng phong trào cách mạng không ngừng lớn mạnh. Vì vậy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương viết thư ngỏ gửi Việt Nam Quốc dân Đảng và gửi tất cả các nhóm, các tổ chức cách mạng quốc gia, các nhóm chống đế quốc, các tổ chức cải lương phản động và các phần tử cách mạng biệt lập ở Đông Dương.
Mở đầu bức thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi lời chào cách mạng tới lãnh đạo các tổ chức, đảng phái chính trị ở Đông Dương, mong rằng tất cả các cá nhân và tổ chức chính trị ở Đông Dương đoàn kết thống nhất lực lượng chống đế quốc, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ rõ, tình hình thế giới và trong nước thời kỳ này có những điều kiện khách quan rất thuận lợi cho sự phát triển phong trào cách mạng, nhưng cuộc đấu tranh cách mạng ở Đông Dương hiện còn yếu và phân tán đó là do thiếu những điều kiện chủ quan, chủ yếu là do các đảng và các tổ chức cách mạng ở Đông Dương chưa đoàn kết chặt chẽ chống chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Từ ngày Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời đến nay, Đảng luôn chủ trương thành lập mặt trận thống nhất, đấu tranh chống đế quốc Pháp. Mỗi Đảng bảo vệ những quyền lợi của một giai cấp nhất định, vì thế mỗi Đảng có một chương trình và một chính sách khác nhau. Mặc dầu có sự khác nhau về cương lĩnh, song tất cả các tổ chức đều có mục đích chung: đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập hoàn toàn cho Đông Dương. Vì vậy, các đảng phái, tổ chức chính trị có thể đoàn kết thống nhất với nhau thành lập mặt trận duy nhất để đấu tranh cách mạng chống đế quốc Pháp.
Đảng Cộng sản Đông Dương nêu lên những bước đi tiến tới thành lập Mặt trận thống nhất đấu tranh chống đế quốc:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và cơ quan Trung ương của các Đảng, các nhóm chính trị gặp gỡ thảo luận về vấn đề thống nhất hành động trong toàn Đông Dương.
Ban Chấp hành Trung ương uỷ quyền cho các tổ chức cấp dưới của Đảng Cộng sản tiến hành liên lạc và trao đổi trực tiếp với các cơ quan tương đương của các tổ chức cách mạng khác. Ban Chỉ huy ở ngoài có nhiệm vụ liên hệ và tiến hành các cuộc trao đổi với các phân bộ của Đảng cách mạng ở nước ngoài.
2. Đảng Cộng sản và các tổ chức chính trị, các đảng phái có thể đồng tổ chức các cuộc biểu dương lực lượng, các cuộc đình công, chiến dịch chống khủng bố trắng, đấu tranh chống chiến tranh đế quốc...
3. Vấn đề tổ chức cơ quan lãnh đạo thống nhất, Đảng Cộng sản đề nghị: hoặc là nhập vào phân bộ Đông Dương của Liên đoàn chống đế quốc và hoạt động nhân danh tổ chức này; hoặc là mỗi đảng, mỗi nhóm cử một số đại biểu và cùng hợp lại thành một uỷ ban phối hợp hành động chống đế quốc.
4. Các đảng liên minh với Đảng Cộng sản cần đình chỉ ngay các hoạt động chống cộng sản. Về phần mình, Đảng Cộng sản luôn ủng hộ những người có tư tưởng và hành động cách mạng chống đế quốc.
5. Trong thời gian các đảng liên minh với nhau trong Mặt trận thống nhất đấu tranh chống đế quốc, cần đình chỉ những sự công kích lẫn nhau. Nhưng mỗi Đảng vẫn độc lập về tổ chức lý luận và hoạt động. Mỗi Đảng có thể phê phán những tư tưởng và hành động sai trái làm ảnh hưởng đến Mặt trận dân tộc thống nhất.
6. Mỗi khi một Đảng hay một bộ phận của những người lãnh đạo trong các đảng, các tổ chức liên minh có ý đồ vi phạm hay xoá bỏ những điều kiện thoả thuận chống đế quốc thì Đảng Cộng sản đề nghị đưa ra các vấn đề tranh chấp ra thảo luận trước quần chúng. Đấu tranh chống những tư tưởng và hành động sai trái, đi ngược lại lợi ích của Mặt trận thống nhất hành động và đông đảo quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 6, tr. 7-12.
NGÀY 6 - 6
Báo Hồn trẻ - Tập mới ra số đầu tiên
Sau khi Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở Pháp, Cương lĩnh của Mặt trận nhân dân được đề ra, trong đó nói đến ban hành quyền tự do dân chủ, quyền tự do nghiệp đoàn... ở thuộc địa. Lợi dụng tình hình thuận lợi, thực hiện chuyển hướng hoạt động sang hình thức công khai và bán công khai, các đảng viên cộng sản tăng cường hoạt động trên lĩnh vực báo chí.
Ngày 6-6-1936, báo Hồn trẻ ra mắt bạn đọc. Đây vốn là một tờ báo của tư nhân đã ngừng xuất bản vào cuối năm 1935. Nhưng giấy phép xuất bản của báo được chuyển qua tay một số người cộng sản: Trần Huy Liệu, Nguyễn Thế Rục, Trần Đình Long... và một số nhà báo tiến bộ, báo đã được tái xuất bản Báo Hồn trẻ có kèm theo phụ đề Tập mới. Thực hiện chủ trương của Đảng, báo là nơi tập hợp các lực lượng tiến bộ đấu tranh công khai, hướng dẫn cổ động cho cuộc vận động Đông Dương Đại hội ở Bắc Kỳ. Số 8 ngày 25-7-1936 đăng bài "Nước Pháp bình dân với quần chúng ở Đông Dương” đã góp phần “châm ngòi" cho sự hình thành phong trào Đông Dương Đại hội. Tuy chỉ có 12 số báo được phát hành, song Hồn trẻ - Tập mới thực sự trở thành hạt nhân tập hợp lực lượng tiến bộ chống tư tưởng cải lương, phản động trong cuộc vận động Đông Dương Đại hội ở Bắc Kỳ.
Ngày 27-8-1936, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định về đình bản tờ báo. Cảnh sát khám xét và đóng cửa trụ sở báo.
- Đỗ Quang Hưng: Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 114-119.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1984, tr. 145.
THÁNG 6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho toàn thể đảng viên
Sau Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, các Đảng Cộng sản ở nhiều nước ra sức phấn đấu thực hiện Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít. Năm 1936, Mặt trận Nhân dân Pháp chống phát xít thành lập và giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử (5-1936). Những sự kiện ấy đã tác động mạnh đến tình hình Đông Dương. Tháng 6-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho đảng viên toàn Đảng về tình hình và nhiệm vụ mới.
Ban Chấp hành Trung ương nêu những nét khái lược về tình hình quốc tế, tình hình trong xứ, tình hình Đảng, đề ra nhiệm vụ vận động và các đoàn thể quần chúng.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đang giành thắng lợi ở Liên bang Xôviết, chế độ dân chủ mở rộng hơn chính thể dân chủ tư bản thế giới. Trong khi đó, khủng hoảng kinh tế vẫn diễn ra ở nhiều nước tư bản. Làn sóng chống phát xít và chiến tranh đế quốc lan rộng.
Ở Đông Dương, đời sống vật chất và văn hoá của quần chúng ngày càng khó khăn. Đế quốc Pháp dùng nhiều thủ đoạn “quỷ quyệt”, "khôn khéo" hơn để lừa gạt quần chúng. Những phần tử quốc gia cải lương ra sức tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia cải lương, làm cho quần chúng chệch đường tranh đấu. Trong khi đó, phong trào cách mạng tiếp tục diễn ra ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Vientiane, Boneng, Bontiou.
Sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất, Đảng Cộng sản Đông Dương bị đế quốc khủng bố nên tổn thất nặng về tổ chức. Song, do nỗ lực của đảng viên, nhiều đảng bộ và cơ quan được khôi phục. Tuy nhiên, công tác vận động quần chúng còn yếu. "Những đồng chí hiểu lầm rằng công tác tổ chức đảng bộ là quan trọng, còn công tác quần chúng là phụ thuộc, nên họ hoàn toàn phân khai công tác đảng với công tác quần chúng. Vì lẽ đó mà cứ cặm cụi tổ chức đảng viên trong xó tối, mà quên hẳn công tác vận động quần chúng, vì chính sách đóng cửa do đó mà Đảng ít phát triển, ít có liên lạc với quần chúng...”. Trung ương nêu rõ “Đảng phải mật thiết liên lạc với quần chúng, phải có quần chúng ủng hộ mới có thế lực".
Đảng tổ chức quần chúng ra sức tranh đấu, đòi quyền lợi hàng ngày. Trong tình hình khó khăn, khó tổ chức Công hội, Nông hội thì đảng phải lấy danh nghĩa Ái hữu hội, Tương tế hội, hợp tác xã, Hội học đêm để tập hợp quần chúng công nông. Ngoài ra tổ chức Hội Cứu tế đỏ, Phản đế, Học sinh, Thể thao để “kéo quần chúng vào hàng ngũ tổ chức".
Ban Chấp hành Trung ương chủ trương để các cấp đảng bộ liên minh với các cá nhân và tổ chức chính trị khác thành lập Mặt trận Nhân dân thống nhất phản đế. Trong khi lập Mặt trận, Đảng phải giữ quyền độc lập về quyền tồ chức và chính trị, đấu tranh chống các hành động phá hoại Mặt trận Nhân dân thống nhất phản đế. Mặt trận Nhân dân thống nhất ở Đông Dương phải đòi Chính phủ Lêông Bơlum thực hiện cải cách dân chủ ở Đông Dương.
Ban Chấp hành Trung ương còn chỉ rõ những nhiệm vụ cần thực hiện cho các cấp đảng bộ khi Ban điều tra của các đảng phái Mặt trận Nhân dân Pháp sang Đông Dương như tổ chức biểu tình đòi quyền dân chủ, đòi độc lập cho Đông Dương...
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 13-25.
NGÀY 30-6
Nghị quyết Hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ
Những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu Đảng Cộng sản Đông Dương phải nhanh chóng củng cố tổ chức và tăng cường lãnh đạo phong trào quần chúng. Ngày 30-6-1936, Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức Hội nghị đại biểu và ra Nghị quyết tăng cường củng cố tổ chức và lãnh đạo phong trào đấu tranh.
Nghị quyết nêu rõ các vấn đề sau:
1. Quy chế nội bộ của Đảng
- Hoạt động của Đảng phải theo những nguyên tắc tổ chức, nhưng trong hoàn cảnh hoạt động bí mật, Đảng không thể tiến hành bầu cử cấp uỷ theo nguyên tắc dân chủ mà phải trực tiếp chỉ định các uỷ viên với điều kiện số uỷ viên được chỉ định không vượt quá 1/3 các uỷ viên của cấp uỷ.
- Hoạt động của Đảng phải theo các nghị quyết và các điều lệ mà Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương đã quy định, phải đẩy mạnh tuyên truyền cho tổ chức cơ sở Đảng.
- Không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên về tư tưởng và những phương pháp đấu tranh cách mạng. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng rộng khắp, đặc biệt ở những địa bàn trung tâm đầu não của kẻ thù.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng.
2. Thanh niên Cộng sản
Nhanh chóng tổ chức Thanh niên Cộng sản Đoàn vì thanh niên cộng sản là đội quân dự trữ của Đảng.
- Chú ý kết nạp Đảng những thanh niên cộng sản hăng hái hoạt động.
- Mọi đoàn viên thanh niên cộng sản đến tuổi 23 không đủ điều kiện vào Đảng thì vẫn có thể là đoàn viên “Thanh niên Cộng sản". Nếu đến 26 tuổi mà vẫn chưa đủ điều kiện gia nhập Đảng thì họ phải trở về tổ chức công nhân và nông dân.
3. Các tổ chức công nhân
- Tăng cường tuyên truyền vận động giai cấp công nhân tham gia Công hội đỏ, ngoài ra Đảng phải tổ chức các hội có tính chất hợp pháp như các hiệp hội tương trợ, các hội ái hữu, các hội đọc sách báo...
- Đảng phải tổ chức ra các uỷ ban công xưởng bao gồm các đảng viên của Đảng, những người cảm tình Đảng và những người chấp nhận tham gia các cuộc đấu tranh và tuyên truyền cho Đảng.
4. Nông dân
Tăng cường tuyên truyền vận động nông dân tham gia Nông hội đỏ và các hội đoàn có tính chất hợp pháp như Hội tương tế, Hội ái hữu. Trong mỗi làng lập ra một Uỷ ban nông dân để hướng dẫn nông dân đấu tranh.
5. Cứu tế đỏ
- Phải lập thành "Hội Cứu tế đỏ" để giúp công nhân và nông dân đấu tranh, trước hết lập ra "Uỷ ban Cứu tế đỏ" trong các thành phố và các tỉnh.
- Phát triển "Hội Cứu tế đỏ", tiến tới thành lập Uỷ ban Cứu tế đỏ Nam Kỳ. Xây dựng hệ thống tổ chức “Hội Cứu tế đỏ”, từ cấp xứ tới các làng xã, nhà máy, xí nghiệp, đồn điền.
6. Tổ chức phụ nữ:
- Phụ nữ là một lực lượng cách mạng quan trọng. Do vậy, phải phát triển tổ chức, vận động phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh. Đảng tuyển chọn những phụ nữ trung thành trong các tổ chức công nhân và nông dân làm công tác vận động phụ nữ.
- Thành lập hệ thống tổ chức Uỷ ban giải phóng phụ nữ và Hội giải phóng phụ nữ từ cấp cơ sở (làng xã) đến cấp tỉnh, thành, đấu tranh đòi những quyền lợi của nữ giới, tiến tới giải phóng hoàn toàn phụ nữ.
7. Binh lính:
- Công tác vận động binh lính tập trung vào công tác gây dựng cơ sở tiến tới thành lập các chi bộ cộng sản trong binh lính.
- Tích cực tuyên truyền cách mạng trong binh lính xuất thân từ công nhân và nông dân, trong lính mới, lính khố đỏ.
- Mở rộng đối tượng tuyên truyền tới gia đình binh sĩ.
8. Đội dự quân tự vệ:
- Phải lập ra các đội dân quân tự vệ ở những vùng đã có các tổ chức quần chúng.
- Tổ chức dân quân tự vệ từ nhỏ đến lớn: mỗi đội dân quân sẽ lập thành một đại đội, ba đại đội thành một liên đội, ba liên đội thành một sư đoàn.
- Nam giới hay phụ nữ đều có thể tham gia vào các nhóm tự vệ.
9. Đồng minh phản đế:
- Ngoài những giai cấp chính là công nhân nông dân, phải ra sức tranh thủ tầng lớp trên, tư sản, trí thức.
- Phải tổ chức những Hội Đồng minh phản đế, tập hợp rộng rãi các giai cấp, tầng lớp có tư tưởng phản đế.
10. Hiệp hội sinh viên
Tổ chức các hiệp hội sinh viên đấu tranh chống chế độ giáo dục thực dân và ủng hộ cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân.
11. Thái độ của Đảng đối với các tổ chức quần chúng
Đối với các tổ chức quốc gia cách mạng, liên minh có nguyên tắc với lãnh tụ của các tổ chức đó trong một mặt trận thống nhất phản đế, đồng thời ra sức tuyên truyền chuyển hoá quần chúng của các tổ chức đó sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản.
- Đối với các tổ chức quốc gia cải lương, vạch rõ tính chất cơ hội của những lãnh tụ cải lương và lôi cuốn công nông đang bị ảnh hưởng cải lương vào cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa tư bản.
- Đảng phải lột mặt nạ của những phần tử theo chủ nghĩa Tờrốtkít, lôi kéo quần chúng chịu ảnh hưởng của chúng, đi vào cuộc đấu tranh chống đế quốc với khẩu hiệu "cách mạng phản đế và điền địa".
- Không liên minh với lãnh tụ của các đảng chính trị tôn giáo mà chỉ liên minh với quần chúng đang chịu ảnh hưởng của Đảng đó để hướng dẫn họ đấu tranh.
Cuối cùng, Nghị quyết nhấn mạnh, điều quan trọng là phải tăng cường liên lạc phối hợp đấu tranh giữa các tỉnh Nam Kỳ và xây dựng tổ chức cơ sở Đảng rộng khắp các tỉnh Nam Kỳ, mở rộng ảnh hưởng của Đảng sang Cao Miên, sang miền Nam Trung Kỳ. Nghị quyết Hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ đã đề cập đến những vấn đề quan trọng về tổ chức và lãnh đạo đấu tranh, chuẩn bị cho một cao trào đấu tranh mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 26-35.
NGÀY 1-7
Báo cáo của Ban Chỉ huy ở ngoài gửi Quốc tế Cộng sản
Ngày l-7-1936, Ban Chỉ huy ở ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương gửi báo cáo cho Quốc tế Cộng sản về hoạt động của Đảng từ tháng 5-1935 đến tháng 6-1936.
Đề cập đến quan hệ giữa Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chỉ huy ở ngoài, Báo cáo cho biết, Đại hội lần thứ I của Đảng giao cho Ban Chỉ huy ở ngoài vai trò cao hơn vai trò của Ban Chấp hành Trung ương. Song, sau khi nhận được thư chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Chấp hành Trung ương trở thành hai tổ chức ngang quyền, mỗi cơ quan có địa bàn hoạt động riêng, một tổ chức ở trong nước, một tổ chức ở ngoài nước. Những mối liên lạc giữa Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chỉ huy ở ngoài đều rất chặt chẽ.
Trước Đại hội Đảng, do có kẻ phản bội, mật thám Pháp nắm được đường dây liên lạc giữa Sài Gòn và Hồng Công, vì vậy Xứ uỷ Cao Miên và Nam Kỳ bị phá vỡ. Từ tháng 7-1935, một số cán bộ được Ban Chấp hành Trung ương phái về Bắc Trung Kỳ đều bị bắt. Ban Chỉ huy ở ngoài cho biết, thực tế, Ban Chấp hành Trung ương chỉ có thể lãnh đạo Xứ uỷ và một số tỉnh, thành uỷ Bắc Kỳ. Đến thời điểm 1-7-1936, Ban Thường vụ Trung ương đã bị vỡ, Ban Chấp hành Trung ương còn bốn đồng chí. Ban Chỉ huy ở ngoài đã làm nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương.
Từ lúc Ban Chỉ huy ở ngoài nắm lại quyền lãnh đạo, các tài liệu tuyên truyền và chỉ thị gửi về nước đều trình bày dưới danh nghĩa Ban Chấp hành Trung ương để đánh lạc hướng sự chú ý của chính quyền đế quốc về Ban Chỉ huy ở ngoài, mặt khác, không gây ảnh hưởng xấu đến tư tưởng các đồng chí ở cơ sở khi không còn Ban Chấp hành Trung ương. Tháng 4-1935, Liên Xứ uỷ ở Sài Gòn bị bắt, nhưng các Uỷ ban liên tỉnh và các tỉnh vẫn tiếp tục hoạt động độc lập. Không có tin tức về Nam Trung Kỳ. Tại Bắc Trung Kỳ có Xứ uỷ lâm thời gồm các tổ chức của Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, ở Lào Xứ uỷ được tái lập tháng 9-1935. Ban Chỉ huy ở ngoài mất liên lạc với Hà Nội, Nam Định, Hà Giang, Bắc Giang, Hòn Gai, chỉ nhận được tin tức của Cao Bằng và Lạng Sơn, Vân Nam (Trung Quốc) đang trở thành nơi tập trung hàng nghìn người Việt Nam yêu nước.
Do ở xa đất nước, mọi phương thức lãnh đạo và liên lạc với trong nước đều gặp khó khăn nên Ban Chỉ huy ở ngoài đề nghị Quốc tế Cộng sản giúp kinh phí cho việc tổ chức Hội nghị toàn quốc của Đảng để cử ra một Ban Chấp hành Trung ương đảm nhiệm lãnh đạo hoạt động trong nước. Về tình hình tổ chức quần chúng, báo cáo cho biết, ở Lào có tổ chức nhiều Hội nông dân; Nam Trung Kỳ có 500 hội viên Nông hội, Nam Kỳ có 3000 hội viên. Các tổ chức quần chúng ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ có số hội viên tăng 4-5 lần kể từ sau Đại hội Đảng. Trong cả nước không có tổ chức công đoàn đến cấp xứ. Nhìn chung các tổ chức quần chúng phát triển chậm.
Báo cáo nêu lên những khó khăn trong công tác tuyên truyền cổ động, thực trạng lãnh đạo yếu kém của Đảng đối với phong trào quần chúng, hoạt động của Tờrốtkít ở Nam Kỳ. Trong thời gian này, Đảng phải đối mặt với sự phản bội của một số phần tử trong Đảng, khủng bố của cảnh sát, mật thám nên từ tháng 5-1935 đến tháng 6-1936 đã có hơn 300 đảng viên bị bắt. Báo cáo đề nghị Quốc tế Cộng sản giúp đỡ kinh phí để đưa cán bộ về nước và đưa sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài (Nga, Trung Quốc).
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t. 6, tr. 45-70.
NGÀY 26-7
Hội nghị giữa các đồng chí cán bộ chủ chốt Ban Chỉ huy ở ngoài và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
Ngày 26-7-1936, Hội nghị các đồng chí cán bộ chủ chốt Ban Chỉ huy ở ngoài do đồng chí Lê Hồng Phong, Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản chủ trì, họp tại Thượng Hải (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên. Hội nghị dựa trên những luận điểm cơ bản Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình hình cụ thể của cách mạng Việt Nam để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh trong thời kỳ mới.
Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ ở Đông Dương là chống đế quốc và phong kiến. Nhưng để phù hợp với tình hình mới, Đảng xác định mục tiêu trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình. Kẻ thù trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc này là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Về tổ chức, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương nhằm tập hợp các đảng phái, giai cấp, các đoàn thể chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, các dân tộc để cùng nhau tranh đấu đòi những quyền lợi dân chủ như tự do hội họp, tự do ngôn luận, xuất bản, ngày làm 8 giờ, mở rộng các cơ quan kinh tế, tài chính, Viện dân biểu, Hội đồng quản hạt...
Về phương pháp đấu tranh, Hội nghị quyết định dùng các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai hợp pháp, nửa hợp pháp; đồng thời tiếp tục duy trì tổ chức và đấu tranh không hợp pháp.
Hội nghị phê phán tư tưởng "tả” khuynh, hẹp hòi, chỉ tập hợp quần chúng công nông mà không chịu hợp tác với các tầng lớp nhân dân khác, chỉ chú trọng đấu tranh không hợp pháp; đồng thời Hội nghị cũng đề phòng tư tưởng "hữu khuynh", không hiểu rõ mục đích của cách mạng là giải phóng Đông Dương khỏi ách đế quốc và xoá bỏ tàn tích phong kiến, xa rời lập trường giai cấp, ngăn cản công nhân đấu tranh với tư sản, nông dân đấu tranh với địa chủ.
Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị được trình bày cụ thể trong tài liệu Chung quanh vấn đề chiến sách mới, xuất bản tháng 10-1936.
Hội nghị cán bộ chủ chốt Ban Chỉ huy ở ngoài và Trung ương Đảng tháng 7-1936 đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh khôi phục phong trào, đưa cách mạng Đông Dương chuyển lên một cao trào mới.
- Tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam qua các Đại hội và Hội nghị Trung ương 1930-2002, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2003, tr. 121-126.
NCÀY 26-7
Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các tổ chức của Đảng
Từ sau Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghiên cứu kỹ tài liệu mới của Quốc tế Cộng sản, tình hình trong nước và kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản anh em. Vì vậy, đã nhiều lần Trung ương Đảng thông báo cho các tổ chức Đảng rằng, việc thành lập Mặt trận dân tộc phản đế là nhiệm vụ trung tâm hiện nay.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng chỉ rõ những sai lầm trước đây: trong những năm 1930-1931, phong trào cách mạng Đông Dương lên tới đỉnh cao và dẫn đến khởi nghĩa vũ trang ở các tỉnh: Yên Bái, Nghệ An, Hà Tĩnh nên có một số đồng chí cho rằng phải tiếp tục đấu tranh để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang hoặc cho rằng cần phát triển đấu tranh giai cấp. Chính vì không hiểu được đặc điểm của xứ Đông Dương nên các đồng chí đã coi nhẹ vấn đề giải phóng dân tộc.
Về các đảng phái chính trị, các cấp uỷ Đảng chưa xúc tiến được việc thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế, nên chưa tập hợp được lực lượng to lớn của dân tộc.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: Đảng Cộng sản là một Đảng cách mạng triệt để, nhưng tình hình trong nước và quốc tế yêu cầu Đảng phải tập hợp tất cả lực lượng cách mạng, tiến hành cuộc đấu tranh chung chống đế quốc Pháp - kẻ thù của nhân dân Đông Dương.
Về các tổ chức quần chúng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho rằng, các cấp uỷ Đảng còn vận dụng một cách máy móc các hình thức tổ chức ở các nước khác vào trong nước mà không biết thay đổi các hình thức tổ chức để tập hợp rộng rãi quần chúng.
Về vấn đề Mặt trận Dân tộc phản đế, kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản và thực tế cho thấy rõ cuộc đấu tranh để thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế ở các nước tư bản và các nước thuộc địa là nhiệm vụ đặc biệt cấp bách hiện nay.
Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ việc thành lập Mặt trận Dân tộc phản đế ở Đông Dương là vô cùng cấp bách. Các tổ chức Đảng phải chủ động thành lập Mặt trận Dân tộc phản đế nhằm tập hợp tất cả các đảng phái chính trị, các tầng lớp quần chúng, nhưng khi tiến hành phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo. Mặt trận Dân tộc phản đế phải trở thành tổ chức công khai của đông đảo quần chúng, có thể thay đổi nội dung phụ thuộc vào hoàn cảnh từng xứ và Mặt trận Dân tộc phản đế ở Đông Dương cần phải gắn bó chặt chẽ với Mặt trận Nhân dân Pháp.
Ban Chấp hành Trung ương cho rằng, phải thay đổi triệt để các phương pháp tổ chức quần chúng, phải biết sử dụng mọi khả năng công khai và bán công khai. Ở các xứ, các vùng, nơi giai cấp vô sản hãy còn ít như ở Ai Lao, Cao Miên… Trung ương cho rằng cần phải thành lập các Đảng cách mạng - dân tộc cho dân bản xứ.
Ban Chấp hành Trung ương cho rằng phải thay đổi phương pháp tổ chức, tập hợp rộng rãi nhất quần chúng vào các tổ chức thanh niên, công nhân, nông dân, hội cứu tế. Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ sở để các cấp uỷ Đảng tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng trong tình hình mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t. 6, tr. 73-92.
NGÀY 26-7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư ngỏ cho các đảng phái và dân tộc ở Đông Dương
Năm 1936, phong trào chống phát xít ở một số nước giành được thắng lợi quan trọng, tác động đến phong trào cách mạng Việt Nam. Hội nghị các đồng chí cán bộ chủ chốt Ban Chỉ huy ở ngoài và Trung ương Đảng (7-1936) đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản, trong đó về tổ chức, chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Nhằm kêu gọi đông đảo quần chúng tham gia Mặt trận, ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư ngỏ cho tất cả các đảng phái và các dân tộc ở Đông Dương.
Bức thư nêu rõ: “Ách áp bức dân tộc mỗi ngày một nặng nề thêm, sự bất bình đẳng giữa các dân tộc ngày càng rõ nét", vì vậy các tầng lớp nhân dân đã nổi dậy đấu tranh dưới nhiều hình thức. Song, những cuộc đấu tranh đó đều lẻ loi nhiều lần thất bại. Nhiều nơi trên thế giới, quần chúng đang hình thành Mặt trận Thống nhất nhân dân chống phát xít, đế quốc và tất cả các hình thức phản động bảo vệ hoà bình. Những thắng lợi đó, nhất là thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp là tấm gương cho phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương.
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi tất cả các đảng phái, tất cả các tổ chức quần chúng, tất cả các hội từ thiện, tất cả các liên đoàn các nhà văn, các nghệ sĩ, v.v. thành lập Mặt trận Nhân dân thống nhất hành động. Trung ương nêu ra 12 yêu sách mà Mặt trận Nhân dân đấu tranh như quyền ứng cử và bầu cử cho người từ 18 tuổi; tự do ngôn luận, tự do báo chí, ân xá tù chính trị, giảm thuế miễn thuế cho người nghèo; phụ nữ phải được hưởng quyền lợi kinh tế và chính trị như đàn ông…
Đảng kêu gọi tất cả các đảng phái thành thật bảo vệ các lợi ích của dân tộc hãy tích cực tham gia công tác để ủng hộ Mặt trận Nhân dân ở Pháp. Phải lập các Uỷ ban Mặt trận Nhân dân ở các thành phố, các làng để động viên nhân dân đi đón tiếp phái đoàn Quốc hội Pháp, trao kiến nghị, yêu sách.
Cuối thư, Đảng chỉ rõ "Tất cả nhân dân Đông Dương phải biết rằng tự do không bao giờ tự nó đến. Chỉ có hành động của quần chúng rộng rãi, của toàn dân tộc mới có thể làm cho chúng ta giành được nó".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 93, 94, 96.
THÁNG 8
Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi quần chúng tham gia phong trào Đông Dương Đại hội
Sau Hội nghị cán bộ chủ chốt Ban Chỉ huy ở ngoài và Trung ương Đảng (7-1936), Đảng vận động ông Nguyễn An Ninh - một trí thức yêu nước tiến bộ đứng ra cổ động thành lập Đông Dương Đại hội. Tháng 8-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư ngỏ cho Việt Nam Quốc dân Đảng, các Đảng cách mạng, Đảng Lập hiến, các nhóm cải lương dân chủ, các Hội ái hữu, các tổ chức công nông binh, phụ nữ, sinh viên, người buôn bán, các báo chí, các tổ chức quần chúng và toàn thể nhân dân Đông Dương, kêu gọi tham gia Đông Dương Đại hội.
Thư nêu rõ, trước hiểm hoạ của chủ nghĩa phát xít, nhân dân nhiều nước trên thế giới đã tổ chức Mặt trận nhân dân chống phát xít.
Ở Đông Dương, các chính đảng thiếu tinh thần đoàn kết, thống nhất hành động làm cho lực lượng nhân dân phân tán đấu tranh không đạt kết quả. Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ rõ, cần loại trừ mọi xu hướng chia rẽ bè phái, “tất cả các đảng và các nhóm cách mạng và không cách mạng đoàn kết lại thành lập Mặt trận Bình dân Đông Dương đặng bảo vệ hoà bình, đòi các quyền tự do dân chủ và cơm áo thiết thân cho đời sống".
Trước tình hình đại biểu nhân dân các nơi đang thành lập các tiểu ban trù bị triệu tập Đông Dương Đại hội, Đảng Cộng sản Đông Dương thấy rằng, “Đông Dương Đại hội là bước đầu tiên để các đảng phái ở Đông Dương tiến tới có một hành động chung và là một hình thức đoàn kết hết thảy các dân tộc Đông Dương lại nên Đảng Cộng sản Đông Dương nhiệt liệt chờ đón nó, tán thành nó và ủng hộ nó".
Đảng tuyên bố sẽ đấu tranh đến cùng chống những hành động của các phần tử cơ hội, do dự, tìm cách ngăn cản việc bầu cử các đại biểu Đại hội theo nguyên tắc dân chủ. Sẵn sàng liên hiệp hành động với mọi người lao động, tiểu tư sản, trí thức, tư sản, không kể dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nếu tán thành nguyên tắc triệu tập Đông Dương Đại hội.
Đảng nêu 12 nguyện vọng chung cho toàn Đông Dương làm cơ sở cho các đảng phái thảo luận như: đại xá tù chính trị, trả tự do cho các nhà cách mạng; tự do ngôn luận, hội họp, bỏ chế độ phân biệt người bản xứ; cải tổ Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương, bỏ thuế thân, bỏ độc quyền rượu, muối, nước mắm, giải phóng phụ nữ...
Đảng cũng đề nghị với các đảng khác phương pháp tổ chức Đông Dương Đại hội tiến tới tổ chức "Mặt trận Bình dân Đông Dương thường trực". Kêu gọi kiều dân Trung Hoa, Ấn Độ tham gia phong trào Đông Dương Đại hội và Mặt trận Bình dân Đông Dương.
Đây là văn bản đầu tiên tuyên bố công khai quan điểm và thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với Đông Dương Đại hội, thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 97-105.
THÁNG 8
Thành lập Uỷ ban sáng kiến Bắc Kỳ
Từ giữa năm 1936, phong trào đấu tranh trên cả nước nói chung, ở Bắc Kỳ nói riêng bắt đầu phát triển với nhiều hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp, đòi chính quyền thuộc địa giải quyết các quyền dân sinh, dân chủ.
Giữa tháng 8-1936, các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Minh, Trần Quý Kiên tổ chức cuộc họp tại một địa điểm thuộc huyện Gia Lâm, Bắc Ninh (nay thuộc Hà Nội), bàn kế hoạch khôi phục cơ sở Đảng và thúc đẩy phong trào cách mạng. Tại cuộc họp, các đồng chí kiểm điểm lại tình hình và phong trào ở Hà Nội và các vùng lân cận, cho rằng trong khi chưa đủ điều kiện để thành lập Xứ uỷ, cần thành lập một tổ chức làm chức năng của Xứ uỷ.
Các đồng chí nhất trí thành lập Uỷ ban sáng kiến do đồng chí Nguyễn Văn Cừ phụ trách. Uỷ ban làm việc như một Ban Cán sự Đảng của Xứ uỷ. Uỷ ban sáng kiến phân công các đồng chí trong Ban tiếp tục về các địa phương bắt mối, gây dựng cơ sở. Đồng chí Nguyễn Văn Minh phụ trách Hà Nội và Chi bộ Thanh niên Cộng sản.
Đến cuối năm, nhiều đảng viên cộng sản được ra tù được tăng cường cho Uỷ ban sáng kiến cả về số lượng và chất lượng. Các đồng chí đã tích cực chuẩn bị cho việc thành lập lãnh đạo cấp xứ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 8 - THÁNG 9
Cuộc vận động phong trào Đông Dương Đại hội
Diễn biến tình hình thế giới, tình hình chính trị tại Pháp thời gian này có nhiều thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động phong trào Đông Dương Đại hội. Được phong trào quần chúng khích lệ, được Đảng động viên, gợi ý, ông Nguyễn An Ninh, một trí thức yêu nước có tên tuổi đã đăng lên báo La Lutte (Tranh đấu) lời kêu gọi thành lập Uỷ ban trù bị, tiến tới triệu tập Đại hội Đông Dương. Lời kêu gọi lập tức được nhiều tầng lớp xã hội và tổ chức chính trị hưởng ứng.
Tháng 8-1936, trong bức thư ngỏ, Đảng đã trình bày rõ lập trường của mình về Đại hội Đông Dương, kêu gọi các đảng phái, các tổ chức chính trị và toàn thể nhân dân đoàn kết lại vì lợi ích chung, thành lập Mặt trận đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, bảo vệ hoà bình.
Một số người trong Đảng Lập hiến đứng ra triệu tập cuộc họp trù bị Đông Dương Đại hội, hòng giành quyền lãnh đạo. Họ chỉ định mời 100 đại biểu thuộc giai cấp tư sản, địa chủ, trí thức lớp trên và một đại diện duy nhất cho quần chúng lao động là đồng chí Nguyễn Văn Tạo. Mặc dù vậy, Đảng Cộng sản Đông Dương tích cực vận động các giới các tầng lớp nhân dân chủ động cử đại biểu đến dự. Ngày 13-8-1936, cuộc họp trù bị Uỷ ban lâm thời triệu tập Đông Dương Đại hội được tổ chức tại Toà soạn báo Việt Nam (Sài Gòn). Hơn 400 đại biểu phần lớn là những người lao động đến dự. Sự có mặt của các đại biểu các tầng lớp nhân dân và thái độ tích cực của một số trí thức yêu nước đã hướng cuộc họp ra khỏi ý đồ của các phần tử cải lương tư sản trong ban trù bị. Một Uỷ ban trù bị Đại hội Đông Dương được thành lập gồm 19 đại biểu: 3 đại biểu công nhân, 3 đại biểu nông dân, 3 đại biểu phụ nữ, 4 đại biểu báo chí và 6 đại biểu trí thức, tư sản. Một hình thức mặt trận được hình thành ở bên trên của phong trào. Đây là một thắng lợi quan trọng của Đảng Cộng sản và các lực lượng dân chủ.
Những người cộng sản có mặt trong Tiểu ban tổ chức và cổ động đã đấu tranh buộc Uỷ ban trù bị phải chấp nhận lời kêu gọi các giới nhân dân cả nước lập ra các Uỷ ban hành động. Chỉ trong một thời gian ngắn, riêng ở Nam Bộ, 600 uỷ ban hành động được tổ chức, phát triển mạnh nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Châu Đốc, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc... Hơn một nửa số uỷ ban hành động có trụ sở hoạt động công khai, phát hành báo chí, diễn thuyết, tuyên truyền...
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Đông Dương Đại hội ở Nam Kỳ, chính quyền thực dân cho Phạm Huy Lục (Viện trưởng Viện Dân biểu Bắc Kỳ) cùng tay sai đứng ra triệu tập Hội nghị "thân hào" thành phố Hà Nội, tự thảo ra bản "Nguyện vọng của dân", cũng tô chức mít tinh, hội nghị báo chí... ngày 5-9-1936, tại Hà Nội hơn 400 người dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, kéo đến nơi chúng đang hội họp đòi vào dự, bao vây chất vấn khi chúng ra về. Sau đó đoàn người kéo qua các phố Hàng Đào, Hàng Bông... hô vang khẩu hiệu "Thành lập Uỷ ban lâm thời của chi nhánh Đông Dương Đại hội Bắc Kỳ", "Đả đảo bọn bù nhìn giả mạo dân ý!". Tháng 9-1939, các đồng chí chính trị phạm mới ra tù thành lập Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kỳ của Đông Dương Đại hội. Nhiều Uỷ ban hành động được thành lập ở Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Hà Nam, Nam Định.
Ở Trung Kỳ chính quyền phản động cho Lê Thanh Canh (Thường trực Viện Dân biểu Trung Kỳ) đứng ra hô hào Đông Dương Đại hội ở Huế, hòng phá phong trào. Các đồng chí cựu chính trị phạm ở Huế, Quảng Nam, Vinh, Quảng Trị đã vận động các tầng lớp nhân dân hưởng ứng Đông Dương Đại hội. Ngày 20-9-1936, Đại hội toàn kỳ được tổ chức tại trụ sở Viện Dân biểu Trung Kỳ ở Huế. Diễn biến của Hội nghị vượt ra khỏi dự kiến của những kẻ âm mưu hướng cuộc vận động vào những mục tiêu cải lương. Dưới sự lãnh đạo của các lực lượng dân chủ, tiến bộ, hơn 500 người, phần lớn là người lao động đã tới địa điểm hội nghị, biến Đại hội thành diễn đàn phát biểu các nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vạch mặt bọn tay sai trong Viện dân biểu. Sau hai ngày làm việc, Đại hội cử ra Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung Kỳ của Đông Dương Đại hội gồm 26 uỷ viên, trong đó nòng cốt là các đồng chí cựu chính trị phạm. Kéo dài trong một tháng, cuộc vận động Đông Dương Đại hội diễn ra sôi động ở khắp các địa phương, đặc biệt là Huế và Vinh.
Ngày 9-9-1936, Đảng kiểm điểm việc thực hiện vận động phong trào Đông Dương Đại hội, nêu rõ những thành công đã đạt được, nhắc nhở toàn Đảng ra sức thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể trước mắt. Phong trào chuẩn bị cho Đông Dương Đại hội được đẩy mạnh.
Hoảng sợ trước phong trào quần chúng và ảnh hưởng lan rộng của Đảng, chính quyền phản động thuộc địa chuyển sang công khai đàn áp kết hợp với chia rẽ và xoa dịu. Ngày 15-9, chúng ra lệnh giải tán các Uỷ ban hành động, cấm nhân dân hội họp, bắt giam những đại biểu của Đảng và những người cảm tình với Đảng.
Phong trào Đại hội Đông Dương chứng tỏ: khi chủ trương, chính sách và những khẩu hiệu đấu tranh của Đảng phù hợp với nguyện vọng bức thiết của nhân dân thì được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, nhanh chóng trở thành phong trào quần chúng rộng lớn. Đây là bước mở đầu tiến tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương do Đảng lãnh đạo.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 106-114.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Nguyễn Thành: Cuộc vận động Đại hội Đông Dương năm 1936, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1985.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế. Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
NGÀY 16-9
Báo Le Travail (Lao động) ra số đầu tiên
Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương triệt để lợi dụng báo chí làm vũ khí đấu tranh hợp pháp. Khi hầu hết báo tiếng Việt có bài vận động phong trào Đông Dương Đại hội bị cấm, đồng chí Nguyễn Thế Rục, Trần Huy Liệu, Trần Đình Long cùng với một số trí thức tiến bộ ở Hà Nội xúc tiến xuất bản tờ báo tiếng Pháp.
Ngày 16-9-1936, báo Le Travail (Lao động) ra mắt bạn đọc. Trụ sở báo đặt tại 28 phố Nguyễn Trãi (ngày nay là phố Nguyễn Quang Bích). Đồng chí Trịnh Văn Phú được cử quản lý báo. Đây là tờ báo xuất bản tiếng Pháp đầu tiên của Đảng bộ Bắc Kỳ ra công khai.
Tuy là báo tiếng Pháp, nhưng báo nhận được sự ủng hộ rất nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân. Mỗi giới ủng hộ báo theo cách của mình: mua báo rồi nhờ người dịch, mua dài hạn, thuê đăng quảng cáo. Nhiều thanh niên học sinh đến nhận báo đi bán, viết bài, cổ động cho báo... chị em cho vay tiền, quyên tiền cho báo. Cán bộ của ta vừa dịch báo cho bạn đọc, vừa tuyên truyền giải thích thêm, vận động những người nhiệt tình cách mạng. Báo được gửi đến các nhà tù Côn Đảo, Sơn La.
Ra đời và hoạt động trong lúc Đảng ta đang vận động phong trào Đông Dương Đại hội, báo Le Travail trở thành diễn đàn của nhân dân chống chính quyền thuộc địa phản động và tay sai, tuyên truyền vận động thành lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương (sau đổi tên là Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Khi Giúyxtanh Gôđa (Justin Godart), phái viên của Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương, báo là trung tâm thu thập các bản dân nguyện các nơi gửi đến. Hàng ngày, các tầng lớp nhân dân, công nhân, nông dân ở khắp các nơi đến toà báo. Theo yêu cầu của báo, Gôđa đã phải tiếp đại biểu của các đoàn thể nhân dân.
Báo cử phóng viên đến tận những nơi nổ ra đấu tranh như Cẩm Phả, Hà Lầm, Hưng Nguyên, Thái Bình, Nam Định... để lấy tin và cổ vũ phong trào, cử người giúp quần chúng tổ chức các cuộc biểu tình đưa yêu sách khi tiếp đón Gôđa, Bờriviê. Báo còn giúp đỡ phương tiện cho một số tờ báo khác như Tân xã hội, Tiếng trẻ, Nhành lúa ra đời.
Báo Le Travail có ảnh hưởng lớn trong mọi tầng lớp nhân dân, kể cả giới trí thức tư sản. Báo cử người ra tranh cử ở Viện dân biểu Bắc Kỳ và giành thắng lợi.
Trước ảnh hưởng chính trị ngày càng lớn của tờ báo, chính quyền thực dân và tay sai tìm mọi cách đóng cửa tờ báo. Chúng gây ra chuyện kiện cáo để phạt tiền nặng, buộc báo vì khó khăn về tài chính phải đóng cửa. Với 7 tháng hoạt động sôi nổi, báo đã gây được uy tín lớn. Sau khi đóng cửa tờ Le Travail, các đảng viên cộng sản cho ra các tờ Rassemblement (Tập hợp), sau đó là En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói chúng ta).
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 143-149.
- Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
NGÀY 3-10
Thư của Ban Chỉ huy ở ngoài góp ý kiến về lãnh đạo Đông Dương Đại hội
Ban Chỉ huy ở ngoài luôn theo sát diễn biến tình hình trong nước. Ngày 3-10-1936, Ban Chỉ huy ở ngoài gửi thư cho Đảng Cộng sản Đông Dương góp ý kiến về lãnh đạo Đông Dương Đại hội.
Tuy có khó khăn, nhưng hoạt động của các tổ chức Đảng và các đồng chí Nam Kỳ phụ trách việc chuẩn bị Đại hội Đông Dương đã mở rộng được ảnh hưởng trên toàn bộ đất nước. Đó là một kết quả tốt, vì vậy, Đảng Cộng sản Đông Dương phải nghiên cứu những kinh nghiệm quý báu đó để tiến lên thực hiện Mặt trận thống nhất của quần chúng Đông Dương theo một phương pháp khéo léo hơn.
Bức thư nêu lên những vấn đề mà các tổ chức Đảng trong nước cần chú ý. Đó là bọn đế quốc đang hết sức tìm cách ngăn chặn cản trở phong trào hợp pháp của quần chúng Đông Dương, chúng tung tin những người cộng sản sẽ sử dụng bạo lực và tìm cách lật đô Chính phủ Pháp. Nhưng qua các văn kiện, thư của Đảng gửi Chính phủ Bơlum - Moutet, gửi Mặt trận Nhân dân Pháp, Đảng Cộng sản Đông Dương không nhằm lật đổ Chính phủ Pháp mà chỉ yêu sách những quyền dân chủ sơ đẳng trong khuôn khổ của Chính phủ Bơlum và phản kháng những người chống lại tư tưởng cộng hoà của nước Pháp.
Nhiều nhà tư bản và địa chủ đã tham gia tổ chức Đại hội Đông Dương. Mặc dù sau đó Lê Quang Liêm và phe cánh đã rút ra khỏi phong trào, nhưng cũng không nên suy nghĩ là "các nhà tư bản và địa chủ không muốn hợp tác với công nhân, nông dân và tiểu tư sản" và quá vội vàng tẩy chay họ. Chúng ta phải tranh thủ những người cảm tình với chủ trương đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Đối với các nhà tư sản bản xứ, Ban Chỉ huy ở ngoài chỉ rõ mặc dù họ đấu tranh có mức độ, dễ đi vào con đường thoả hiệp nhưng Đảng phải ra sức tranh thủ họ cho cuộc đấu tranh chung.
Cuộc đấu tranh đòi những mục tiêu của phong trào Đông Dương Đại hội không dễ dàng nên Đảng Cộng sản Đông Dương phải kiên trì lãnh đạo quần chúng đấu tranh, không dừng lại ở một số thắng lợi bước đầu.
Lúc này, thực dân Pháp đang dùng phương pháp khiêu khích để phá hoại phong trào. Do vậy, phải giữ thế hợp pháp cho phong trào đấu tranh chống chính sách thuộc địa, yêu cầu sự giúp đỡ của Mặt trận Nhân dân Pháp và đòi Chính phủ Bơlum cho phép công khai hoạt động để thành lập Đại hội; ra sức duy trì Uỷ ban lâm thời và liên lạc với Ủy ban của Trung Kỳ, Bắc Kỳ. Ban Chỉ huy ở ngoài nêu rõ công tác quan trọng nhất hiện nay là tổ chức các hiện hội hợp pháp hay bán hợp pháp để sử dụng như một cơ sở hoạt động của quần chúng. Ở Nam Kỳ tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào đấu tranh của công nhân và của quần chúng đang phát triển mạnh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 127-134.
NGÀY 3-10
Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp
Ngày 15-9-1936, Chính phủ thuộc địa ra lệnh giải tán các Uỷ ban hành động, cấm hội họp, tịch thu các báo cổ động cho Đại hội Đông Dương. Chúng vừa công khai đàn áp vừa chia rẽ, xoa dịu phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương. Ngày 3-10-1936, Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho Mặt trận Nhân dân Pháp kêu gọi chấm dứt chế độ khủng bố ủng hộ Đông Dương Đại hội.
Nhân danh nhân dân bị áp bức Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương tố cáo chế độ khủng bố tàn bạo của chính phủ thuộc địa từ những năm 1930-1931. Đến lúc này, hàng năm người tổ chức Đông Dương Đại hội và các Uỷ ban hành động bị bỏ tù, mà “những chiến sĩ ấy khi phạm mỗi một tội là đã tin tưởng vào chính sách tự do của Chính phủ các bạn...”. Đảng kêu gọi Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp “thực hiện ngày những biện pháp để chấm dứt chế độ khủng bố này và ban bố lệnh ân xá toàn diện và không điều kiện cho tất cả các tù nhân”. Tố cáo chính sách áp bức bóc lột của chính quyền thuộc địa, Đảng nêu rõ Đảng không chống tất cả mọi người Pháp mà chỉ đấu tranh chống 200 gia đình và tay sai phản động. Đảng tuyên bố "sẽ mãi mãi là những người đồng minh tốt của nhân dân dân chủ Pháp".Trước mối đe doạ của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến của tranh đế quốc, các đảng phái tả và quần chúng dân chủ Pháp đã tập hợp nhau lại trong Mặt trận nhân dân, vì vậy đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương “động viên quảng đại quần chúng nhân dân ở xứ này ủng hộ Chính phủ chính quốc thực hiện cương lĩnh chống phát xít và chống chiến tranh”.
Đảng kêu gọi Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp thi hành những biện pháp đàn áp cần thiết đối với những hội phát xít và tổ chức tương tự ở Đông Dương, ban bố ngay những quyền tự do dân chủ, lệnh ân xá, luật bảo hộ lao động để động viên quần chúng rộng rãi ở Đông Dương bảo vệ Mặt trận Nhân dân Pháp.
Các dân tộc Đông Dương đang rên xiết trong cảnh lầm than, có nhiều yêu sách muốn trình bày với Uỷ ban điều tra của Nghị viện. Vì vậy, Đảng đề nghị Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp chỉ thị cho chính quyền Pháp ở Đông Dương cho dân chúng tự do lập những Uỷ ban hành động và họp Đông Dương Đại hội để họ trình bày những nguyện vọng của mình. Đồng thời, Đảng đề nghị Chính phủ Pháp cho Đảng Cộng sản Đông Dương và các tổ chức cách mạng khác được hoạt động hợp pháp để tổ chức quần chúng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh cho hoà bình, tự do.
Tiến tới Mặt trận Nhân dân Đông Dương, Đảng tuyên bố cùng tiến bước với Mặt trận Nhân dân Pháp chống phát xít chống chiến tranh đế quốc. Đảng kêu gọi tất cả các đảng phái, các tổ chức quần chúng các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mật trận Nhân dân Đông Dương trên cơ sở một chương trình hoạt động chung.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 115-126.
NGÀY 30-10
Đảng Cộng sản Đông Dương giải thích vê sách lược mới của Đảng
Thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp trong cuộc tổng tuyển cử tháng 5-1936 đã có những ảnh hưởng tích cực đến tình hình Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra sách lược mới thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế, tập hợp rộng rãi quần chúng đấu tranh trong tình hình mới. Ngày 30-10-1936, Đảng xuất bản tài liệu Chung quanh vấn đề chiến sách mới để giải thích cho đảng viên và quần chúng hiểu rõ hơn về sách lược mới của Đảng.
Trong lời nói đầu, Đảng giải thích về “chiến lược” và “chiến sách" của Quốc tế Cộng sản của Đảng Cộng sản Đông Dương trong tình hình mới. Cách mạng vận động phải có chiến lược và chiến sách, không có chiến lược nhất định, không biết tình thế, lực lượng địch nhân và của mình đặng quyết định chiến sách khôn khéo thì không bao giờ đánh được địch nhân". Chiến lược của Quốc tế Cộng sản là đánh đổ chế độ tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản đi tới xã hội cộng sản. Chiến lược không bao giờ thay đổi. Còn chiến sách thì tuỳ tình hình và lực lượng giai cấp mà có thể thay đổi.
Tuy nhiên, tuỳ theo trình độ kinh tế, chính trị và xã hội ở từng nước mà đề ra chiến lược cách mạng. “Theo đúng chiến lược của Quốc tế Cộng sản thì chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải làm cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xôviết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa". Để đạt được mục tiêu ấy cần phải có chiến sách.
Trước tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều thay đổi, chiến sách của Đảng Cộng sản Đông Dương có sửa đổi như vấn đề lập Mặt trận Nhân dân phản đế, vấn đề đối với Chính phủ phái tả ở Pháp, cách tổ chức quần chúng…. Một số đảng viên chưa hiểu rõ sự khác nhau giữa chiến sách và chiến lược cho rằng chiến sách mới của Đảng là “cải lương". Đảng nhấn mạnh, “một số chính đảng không biết tuỳ theo hoàn cảnh mà thay đổi chiến sách thì không bao giờ làm xong mục đích của cuộc cách mạng”.
Về sách lược trong giai đoạn này, Đảng nhận thấy trình độ chính trị và tổ chức quần chúng chưa đạt tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp lập chính quyền công nông, nên chiến sách của Đảng là lập Mặt trận Nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai cấp, đảng phái, đoàn thể chính trị, tín ngưỡng tôn giáo khác nhau "để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ". Với chiến sách mới, Đảng có thể tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân đấu tranh chống đế quốc.
Về chủ trương liên hiệp với phái quốc gia cải lương, Đảng nêu rõ “đứng về mặt phản đế, Đảng hết sức liên lạc các lực lượng phản đế”. Đảng Cộng sản Đông Dương luôn chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế với các Đảng quốc gia cách mạng, song Đảng cũng hết sức chống sự không triệt để của các Đảng quốc gia cách mạng. Đảng nhấn mạnh, ở Đông Dương nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản là giải phóng dân tộc, nên Đảng phải liên hệ mật thiết với các đảng quốc gia. Nhưng Đảng cũng không bao giờ bỏ tranh đấu giai cấp trong xây dựng Mặt trận thống nhất với tư sản bản xứ.
Đảng nêu rõ chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương không phải là chống người Pháp mà "chỉ chống đế quốc Pháp". Một số người thấy khẩu hiệu ủng hộ Chính phủ Bơlum thì cho rằng đó là chính sách “Pháp - Việt đề huề”. Đảng giải thích Chính phủ Bơlum chưa phải là Chính phủ Mặt trận Nhân dân theo đúng ý nghĩa trong nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, nhưng là một Chính phủ phái tả có các Đảng trong Mặt trận Nhân dân tham gia và được Đảng Cộng sản Pháp ủng hộ để thực hiện bản chương trình của Mặt trận Nhân dân. Đảng lên tiếng ủng hộ, mong Chính phủ Bơlum thực hiện những quyền dân chủ cho nhân dân Đông Dương.
Đảng còn đề cập tới vấn đề Mặt trận Nhân dân với cách mạng giải phóng dân tộc, với đấu tranh cho các tổ chức công khai tồn tại, với phương pháp tuyên truyền.
Đảng Cộng sản Đông Dương kết luận: Sách lược mới của Đảng dựa trên cơ sở vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. “Chiến sách mới của Đảng là chiến sách theo điều kiện hiện thực ở xứ Đông Dương, theo kinh nghiệm tranh đấu của Đảng, học kinh nghiệm của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm của cuộc vận động cộng sản thế giới, không phải đem kinh nghiệm xứ này sang xứ khác một cách như máy”. Trong khi thực hiện chiến sách, cần nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm riêng từng địa phương, giúp công tác lý luận Đảng phát triển.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 135, 139, 140, 157, 158.
TỪ NGÀY 13 ĐẾN NGÀY 20 - 11
Cuộc bãi công của công nhân Mỏ Cẩm Phả
Từ giữa năm 1936, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh trong cả nước ảnh hưởng lớn đến phong trào khu Mỏ Quảng Ninh.
Tổng số công nhân khu mỏ lúc này có 36.420 người1. Mặc dù sản lượng than hàng năm tăng đều, song bọn chủ trả lương cho công nhân rất rẻ mạt. Trước năm 1930, lương công nhân nam khoảng 30 xu, công nhân nữ khoảng 23 xu một công. Đến đầu năm 1936, lượng công nhân nam chỉ còn 20-23 xu, nữ 16-20 xu một công. Trong cảnh sống bần cùng, được tin phong trào đấu tranh ở các nơi dội tới, một số cán bộ đảng viên mới ra tù về Cẩm Phả bắt liên lạc với đảng viên ở mỏ bàn cách tổ chức quần chúng.
Ngày 10, 12-11, truyền đơn kêu gọi công nhân nghỉ việc, đòi tăng lương, chống đánh đập xuất hiện ở nơi làm việc, nơi lĩnh tiền. Không khí chuẩn bị đấu tranh bao trùm vùng mỏ.
Sáng sớm ngày 13, truyền đơn, áp phích xuất hiện ở ngã ba, ngã tư, nơi công nhân đi làm, với khẩu hiệu “Đòi chủ tăng lương lên 3 hào một ngày". Công nhân tụ tập đọc truyền đơn, hô vang "Bãi công đi anh em ơi!". Cả vùng Mỏ Cẩm Phả náo động. Chỉ trong 2 tiếng đồng hồ, cuộc bãi công lan rộng. Công nhân các tầng lò, xe lửa và một bộ phận công nhân Nhà máy cơ khí bỏ việc, tập trung ở đường phố. Hầu hết các cơ sở sản xuất của Mỏ Cẩm Phả đều phải ngừng hoạt động.
Ngày 14, chính quyền thực dân điều 40 xe chở đầy lính lê dương, khố xanh từ Quảng Yên, Hải Phòng về Cẩm Phả đàn áp bãi công. Thanh tra chính trị, Chánh mật thám Bắc Kỳ cùng Công xứ Quảng Yên kéo về trợ lực cho chủ mỏ. Chúng bí mật lệnh cho các cửa hàng không bán lương thực, thực phẩm cho công nhân. Trước thủ đoạn của kẻ thù, Ban lãnh đạo bãi công đã giải thích, vận động bà con tiểu thương, chủ hàng bán gạo hiểu được việc làm của công nhân, các cửa hàng lần lượt mở cửa, nhiều người còn bán chịu cho công nhân. Bà con ngư dân, nông dân ven thị còn mang cả tôm, cá, khoai, sắn ủng hộ thợ, bất chấp sự đe doạ của chủ mỏ.
Hai giờ chiều cùng ngày số công nhân còn lại của Nhà máy cơ khí Cẩm Phả tham gia bãi công. Một vạn công nhân ở toàn bộ các cơ sở sản xuất đã đúng vào hàng ngũ đấu tranh.
Những ngày tiếp theo cuộc đấu tranh tiếp tục diễn ra quyết liệt. Bọn lính dùng súng đàn áp công nhân, tìm mọi cách phá hàng ngũ công nhân. Nhưng công nhân mỏ vẫn động viên nhau bền gan, chia sẻ từng nắm gạo, bát cháo, kiên quyết đấu tranh đến cùng.
Sau 8 ngày kiên trì đấu tranh, công nhân Mỏ Cẩm Phả đã giành thắng lợi. Chiều ngày 20-11, chủ mỏ phải tuyên bố thực hiện yêu sách của công nhân, phải trả lương 3 hào một ngày; trả nửa tiền cuốc, xẻng, chịu tiền dầu mỡ tra vào xe goòng; không phạt anh chị em thợ mỏ nếu họ nghỉ với bất kỳ lý do gì.
Nhân dân lao động cùng công nhân Cẩn Phả đốt pháo, hò reo, ăn mừng, thắng lợi. Đánh giá về cuộc đấu tranh, báo Le Travail (Lao động)số ra ngày 27-11-1936 viết “lần đầu tiên ở Đông Dương, giai cấp vô sản đã đạt được một thắng lợi rực rỡ. Lần đầu tiên kỷ luật vô sản đã thắng sự kháng cự của bọn chủ”.
Thắng lợi này mở đầu cho những thắng lợi tiếp theo của công nhân vùng mỏ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện Lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh 1985, t. 1.
NGÀY 16-11
Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi đảng viên và đoàn viên Thanh niên Cộng sản Nam Kỳ
Từ sau Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã không ngừng nghiên cứu các nghị quyết của Đại hội để áp dụng ở Đông Dương những sách lược đã được khuyến nghị. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là tập hợp một Mặt trận nhân dân chống đế quốc.
Ở Nam Kỳ, hệ thống tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng được khôi phục và phát triển khá mạnh mẽ, cũng là nơi tập trung nhiều nhóm, đảng phái chính trị và các hoạt động công khai, hợp pháp diễn ra mạnh mẽ. Nhiệm vụ của Đảng là phải tập hợp và lãnh đạo được tất cả các lực lượng chính trị chĩa mũi nhọn đấu tranh chống đế quốc Pháp.
Ngày 16-11-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư cho đảng viên và đoàn viên Thanh niên Cộng sản hướng dẫn đường lối, phương pháp đấu tranh trong tình hình mới.
Một số điểm trong chương trình hành động của Đảng, của Thanh niên Cộng sản, của Công hội đỏ cũng như các văn kiện khác tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng không còn phù hợp với tình hình. Ban Chấp hành Trung ương quyết định tạm hoãn việc áp dụng các chương trình và các văn kiện kể trên và lá thư ngỏ tháng bảy cũng không còn giá trị nữa.
Ban Chấp hành Trung ương nêu lên những khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thời gian vừa qua.
Chúng ta không biết gắn cuộc đấu tranh với phong trào quần chúng đòi yêu sách trước mắt, coi nhẹ hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp.
Chúng ta chưa tập hợp được các đảng phái, các tổ chức chính trị vào một mặt trận thống nhất. Chính vì thế phải lôi cuốn các Đảng và các nhóm dân tộc hay cải lương, lập ra một mặt trận thống nhất chống đế quốc tập hợp tất cả quần chúng và các lãnh tụ của họ cho cuộc đấu tranh vì hoà bình tự do và cơm gạo.
Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh rằng, lúc này chưa phải là thời điểm tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang. Chúng ta đang ở giai đoạn của cuộc đấu tranh yêu sách trên bình diện chính trị, kinh tế và xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ: thành lập Mặt trận thống nhất chống đế quốc là sách lược cách mạng khôn khéo nhất, mềm dẻo nhất, hiệu nghiệm nhất, để bảo đảm sự thống nhất hành động và lôi cuốn tất cả các quần chúng Đông Dương vào cuộc đấu tranh. Vì vậy, Mặt trận Nhân dân chống đế quốc có một ý nghĩa quan trọng.
Đối với Đại hội Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương coi Uỷ ban triệu tập Đại hội Đông Dương là bước đi đầu tiên dẫn đến sự hợp tác của các Đảng và các nhóm, tiến tới thành lập Mặt trận Nhân dân chống đế quốc. Do đó phải duy trì Uỷ ban đó và phấn đấu cho một sự tham gia rộng rãi của quần chúng.
Đảng Cộng sản Đông Dương ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp vì các Đảng cấu thành Mặt trận đó tất cả đều chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh đế quốc, vì hoà bình, tự do.
Ban Chấp hành Trung ương cho rằng, Đông Dương là xứ thuộc địa, nên việc áp dụng máy móc phương pháp tổ chức hợp pháp như ở các nước dân chủ là không phù hợp, cho nên cần phải tổ chức lại Đảng và các tổ chức quần chúng đặc biệt các Đoàn Thanh niên Cộng sản ở Nam Kỳ.
Thư của Trung ương Đảng vạch ra phương hướng tổ chức và hoạt động trước mắt cho Xứ uỷ và Thanh niên Cộng sản Đoàn Nam Kỳ, một trung tâm cách mạng lớn trong cao trào dân chủ 1936-1939.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 159-182.
TỪ NGÀY 23 ĐẾN NGÀY 28-11
Tổng bãi công của công nhân vùng mỏ
Thắng lợi vang dội của công nhân Mỏ Cẩm Phả trong cuộc bãi công (từ ngày 13 đến ngày 20-11-1936) đã khích lệ tinh thần đấu tranh trong công nhân toàn vùng mỏ. Chỉ ba ngày sau thắng lợi, hàng loạt các cuộc đấu tranh của công nhân khắp vùng mỏ đã nổ ra.
Tại Hòn Gai, với kế hoạch bãi công đã được chuẩn bị, ngày 23-11-1936, công nhân nhà máy chính ngừng việc, đưa yêu sách lên chủ mỏ: tăng lương 25%; sửa chữa nhà ở cho công nhân; lập nhà thương, chữa trị và phát thuốc cho thợ và gia đình không mất tiền; không phạt lương thợ, trừng trị những kẻ cậy quyền hành hạ thợ, cho thợ vào rừng lấy củi đun, hoặc cho than để dùng.
Tin công nhân nhà máy chính bãi công đòi ứng lương lập tức lan khắp các cơ sơ sản xuất của Mỏ Hòn Gai. Công nhân Nhà sàng, Than luyện, bến cảng cũng ngừng việc tham gia đấu tranh. Một giờ sau công nhân đoàn xe chở than từ mỏ ra Nhà sàng thấy công nhân Hòn Gai bãi công lập tức trở về mỏ cùng đại biểu công nhân Mỏ Hòn Gai vào Hà Lầm, Hà Tu và Nhà máy điện Cọc 5 vận động đấu tranh.
Tại Nhà máy điện Cọc 5, bọn chủ vội vã điều lính đến canh gác ở cổng, không cho công nhân ra ngoài, đồng thời ngăn cản đoàn đại biểu công nhân Hòn Gai. Bất chấp thái độ hung hăng của bọn lính, công nhân vẫn tiến lên. Trước khí thế của đoàn đại biểu, bọn lính buộc phải giãn ra, để cho vào nhà máy. Công nhân Nhà máy điện nhất loạt nghỉ việc. Tên chỉ huy lính gác phải thương lượng với đại diện công nhân cho một số thợ ở lại chạy máy.
Được tin đấu tranh của công nhân Hòn Gai, công nhân Mỏ Hà Tu cũng ngừng việc. Đối phó với cuộc đấu tranh, chính quyền thực dân điều hàng trăm lính thợ về lò giếng Hà Tu - trung tâm khai thác của Mỏ Hòn Gai. Lính thợ Pháp lúng túng đã làm cháy mô tơ, máy không chạy.
Một giờ chiều cùng ngày tất cả công nhân Mỏ Hà Lầm bỏ việc. Hệ thống sản xuất than của khu vực Hòn Gai ngừng trệ.
Ngày 24-11, chính quyền thực dân ra tay đàn áp. Chúng cho binh lính, cảnh sát, mật thám canh gác, lùng sục, khiêu khích ở những nơi đông người. Chúng cho từng người đi từng nhà công nhân mua chuộc, dụ dỗ, đe doạ, ép buộc họ đi làm. Đồng thời, chúng tung tiền ra vét gạo hòng làm cho công nhân mất nguồn lương thực. Công nhân không khuất phục. Bọn chủ mỏ đành ra yết thị tăng 10%. Anh chị em công nhân kiên quyết giữ vững yêu sách đòi tăng 25%.
Sáng ngày 27-11, công nhân Hà Tu, Hà Lầm tập trung thành cuộc biểu dương lực lượng lớn. Binh lính địch kéo đến đàn áp dã man, nhiều người bị thương và bị bắt. Cùng ngày, lính được điều động từ Kiến An ra Đồng Đăng tập trận nhằm uy hiếp tinh thần công nhân. Hai chiếc tàu thuỷ được đưa vào bến, sẵn sàng chở công nhân và gia đình họ ra vùng mỏ nếu còn tiếp tục đấu tranh.
Mặc dù bị đàn áp, khủng bố, đói rét, công nhân vùng mỏ vẫn tiếp tục xiết chặt hàng ngũ đấu tranh. Chính quyền thực dân và bọn chủ mỏ buộc phải nhượng bộ.
Chiều ngày 28-11, chủ mỏ phải tuyên bố giải quyết tất cả những yêu sách của công nhân, chạy chữa cho những người bị thương đồng thời công bố "Bản Điều lệ quy định cho thợ thuyền".
Sau sáu ngày đấu tranh quyết liệt, công nhân vùng Mỏ Hòn Gai đã giành thắng lợi.
Cùng với công nhân Hòn Gai, ngày 24-11, công nhân các mỏ Mông Dương, Đồng Đăng, Cái Đá, Kế Bào, Cửa Ông cũng bãi công đòi quyền lợi.
Ngày 26-11, chủ mỏ nhận giải quyết yêu sách của công nhân Mỏ Mông Dương. Ở Đồng Đăng sau hai ngày đấu tranh của công nhân, chủ mỏ phải nhận tăng lương cho họ. Ở Cửa Ông, cuộc bãi công lan nhanh từ xưởng cơ khí, đến Nhà sàng và Cảng. Tên chủ Nhất ở Cửa Ông ra lệnh bắt đại biểu đưa yêu sách. Công nhân phản đối kịch liệt. Bọn chủ phải trả tự do cho người bị bắt và chấp nhận tăng lương cho công nhân. Ở Uông Bí, Vàng Danh, Mạo Khê, công nhân cũng ráo riết chuẩn bị đấu tranh. Hoảng sợ trước làn sóng bãi công, chủ mỏ vội vã tuyên bố tăng lương đồng loạt 10% cho toàn thể công nhân.
Cuộc tổng bãi công của 3 vạn công nhân mỏ trên tuyến dài gần 100 km kết thúc thắng lợi, gây tiếng vang lớn, ảnh hưởng đến phong trào của công nhân toàn quốc.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, tr. 73-79.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t.1.
TRONG NĂM
Phong trào đấu tranh cách mạng của đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc
Thực hiện chủ trương củng cố, phát triển phong trào cách mạng vùng dân tộc thiểu số, vùng núi biên giới, giữa năm 1936, đồng chí Hoàng Văn Thụ, cán bộ Xứ uỷ Bắc Kỳ, đặc trách chỉ đạo vùng biển giới Cao - Bắc - Lạng về Bắc Sơn (Lạng Sơn) tổ chức cơ sở cách mạng.
Chỉ sau một thời gian ngắn, nhiều cơ sở quần chúng trung kiên được gây dựng ở Vũ Lăng, Vũ Lễ, Hữu Vĩnh, Ngư Viễn, Vũ Sơn, Hưng Vũ. Trên cơ sở phong trào quần chúng phát triển, tháng 9-1936, đồng chí Hoàng Văn Thụ thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn gồm bốn đảng viên. Chi bộ mới thành lập nhanh chóng bắt tay ngay vào tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức bóc lột của phong kiến thực dân, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu. Chi bộ thông qua các hội quần chúng, lập những nhóm đọc sách, báo công khai của Đảng như các tờ Tin tức, Đời nay.
Cùng với sự phát triển phong trào ở Bắc Sơn, Xứ uỷ Bắc Kỳ tiếp tục củng cố các cơ sở ở Tràng Định (Lạng Sơn), tổ chức nhân dân đấu tranh bằng nhiều hình thức hợp pháp và nửa hợp pháp đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Tại Cao Bằng, phong trào đấu tranh phát triển khá mạnh. Đồng bào các dân tộc thiểu số đấu tranh đòi chính quyền công nhận Cao Bằng được cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương, đưa yêu sách đòi quyền lợi đời sống.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
CƯỐI NĂM 1936 ĐẦU NĂM 1937
Phong trào đấu tranh của công nhân Hà Nội
Trước phong vào quần chúng lên mạnh chính quyền phản động thuộc địa chuyển sang công khai đàn áp. Ngày 15- 9-1936, nhà cầm quyền ra lệnh giải tán các Uỷ ban hành động, cấm hội họp, bắt bớ hàng ngàn người, thu giấy phép những tờ báo vận động cho Đông Dương Đại hội.
Tuy bị đàn áp, tinh thần đấu tranh của công nhân, thanh niên, học sinh chị em tiểu thương... Ở Hà Nội vẫn được giữ vững. Nhiều đảng viên cộng sản mới ra tù, bí mật về Hà Nội lãnh đạo phong trào.
Cuối năm 1936, nhiều cuộc bãi công của công nhân nổ ra, như bãi công của công nhân Nhà in Ngô Tử Hạ đòi trả tự do cho một số người bị bắt; thợ mộc toàn thành đòi tăng lương 30%; 500 công nhân thợ xẻ đấu tranh đòi chính quyền điều tra về cái chết của một công nhân bị bắt.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng về đẩy mạnh đấu tranh nhân kỷ niệm 7 năm thành lập Đảng, hàng chục cuộc đấu tranh với nhiều hình thức đã nổ ra trong tháng 1-1937. Công nhân xe điện đòi tăng lương 40%; 2000 thợ may bãi công đòi tăng lương và giảm giờ làm; liên tiếp trong các ngày 26, 27, 28, tháng 1, hàng trăm thợ dệt, thợ cắt tóc, thợ đóng hòm đòi tăng lương, chống quy chế mới. Giới chủ phải nhượng bộ, giải quyết một sẽ yêu sách của công nhân.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
NĂM 1936-1938
Nhân dân Phú Yên đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ
Chịu ảnh hưởng của sự lãnh đạo của Đảng và phong trào cách mạng mạnh mẽ trong cả nước, trong những năm 1936-1938, nhân dân tỉnh Phú Yên đã nổi dậy đấu tranh đòi cải thiện đời sống, tự do dân chủ, ứng cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ, đòi lập nghiệp đoàn.
Một phong trào mang tính quần chúng rộng rãi đã kéo dài trong nhiều năm liền chống đồi phong bại tục, đòi lập hương ước, chống cường hào nhũng nhiễu nhân dân. Nhân dân các làng Tân Mỹ, Lương Phước, Quảng Phú, Thành Phú (phủ Tuy Hoà, Phú Yên) làm đơn kiện lên Toà Khâm sứ Huế, tố cáo chủ Nhà máy đường Đồng Bò lấn chiếm ruộng đất của nông dân để trồng mía. Chủ nhà máy đã dùng thủ đoạn mướn đất, song trả cho nông dân giá rẻ mạt. Trước áp lực đấu tranh của nông dân, chủ nhà máy buộc phải trả tiền gấp đôi. Nhiều cuộc đấu tranh tiếp tục diễn ra dưới hình thức đốt phá mía, ngăn không cho chủ làm đường để chở mía...
Với hình thức đấu tranh đa dạng, mục tiêu phù hợp với quyền lợi hàng ngày, nhân dân đã từng bước trưởng thành trong đấu tranh cách mạng.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên xuất bản, 1999.
NĂM 1936-1939
Đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi đấu tranh
Trong những năm 1936-1939, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, chống chiến tranh chống khủng bố lan rộng trong các tầng lớp nhân dân. Phong trào đấu tranh của nhân dân cả nước đã tác động đến nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và miền núi phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum đứng lên đấu tranh chống sưu thuế.
Khắp vùng rừng núi tây bắc Đắcglei đến đông nam Konplong, nhân dân nổi lên đấu tranh vũ trang dọc theo dải Trường Sơn hiểm trở, nông dân các dân tộc Xêđăng, Bana, Giarai cùng đồng bào Hrê, Càtu, Kor ở miền núi phía tây Quang Nam, Quảng Ngãi rào đường, đặt bẫy, cài chông, bao vây uy hiếp quân đồn trú... gây cho chúng nhiều thiệt hại. Nhân dân Đắklao, Longri (Đăcglei) là những người đầu tiên cầm vũ khí chiến đấu. Tiếp đó nhân dân Lehuar tổ chức bố phòng, lập phòng tuyến dọc sông Đăkrchong, đặt vị trí quan sát, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ buôn làng. Tại Konplong, nhiều hình thức đấu tranh diễn ra sôi nổi. Nhân dân tự trang bị vũ khí, đánh đồn địch. Vùng Đăkro Boong trở thành trung tâm của phong trào đấu tranh gây ảnh hưởng lớn đến đồng bào các dân tộc ở Quảng Nam, Quảng Ngãi.
Tuy bị địch đàn áp, phong trào đấu tranh của nhân dân các dân tộc tỉnh Kon Tum chống đi xâu, không nộp thuế cho giặc vẫn tiếp tục diễn ra.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Kon Tum: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 1.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 117-118.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
____________
1. Tính theo số thẻ đi làm. Ngoài ra có nhiều người đi làm không có thẻ, phải đi làm nhờ thẻ người khác.
Năm 1937 TỪ NGÀY 1-1 ĐẾN NGÀY 13-3
Các cuộc biểu tình nhân dịp "đón" Gôđa
Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp, Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp phải cử một phái đoàn do Giuyxtanh Gôđa (Justin Godart) dẫn đầu sang Đông Dương để điều tra tình hình.
Các lực lượng dân chủ và quần chúng lao động Việt Nam đón nhận sự kiện này như một cơ hội để biểu dương lực lượng và đưa ra những yêu sách đòi quyền dân sinh, dân chủ, đồng thời bày tỏ thái độ ủng hộ các chính sách tích cực của Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp chống lại chính sách thực dân của bọn phản động thuộc địa. Ở tất cả các nơi Gôđa tới, được sự chỉ đạo của các chiến sĩ cộng sản, quần chúng và các tổ chức dân chủ đã tổ chức các cuộc biểu tình, đưa kiến nghị và hô vang các khẩu hiệu “Ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp”, “Tự do dân chủ”, "Tự do nghiệp đoàn", "Bỏ thuế thân", “Đại xá chính trị phạm"...
Hưởng ứng lời hiệu triệu của Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày 1-1-1937, 5.000 nhân dân Sài Gòn tiến vào bến cảng "đón" G. Gôđa. Từ Sài Gòn, phái đoàn qua Campuchia – Lào, tới Vinh (ngày 29-1), rồi đến Hà Nội (ngày 30-1). Tại Hà Nội, ngày 31-1, Gôđa đã chứng kiến một cuộc biểu tình của 30.000 quần chúng do những người cộng sản trong nhóm Le Travail (Lao động) tổ chức. Tiếp đó, Gôđa đi thăm một số địa phương như Hà Đông, Hòn Gai, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá và trở lại Vinh lần thứ hai (23-2) trong không khí đấu tranh sôi sục của 1.000 công nhân Nhà máy xe lửa Tràng Thi, 3.000 nông dân Nghi Xuân, Can Lộc và đại diện đông đảo các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống các thủ đoạn đàn áp của chính quyền thực dân, đòi tiếp xúc với Gôđa.
Tại Huế có 20.000 quần chúng với tinh thần kỷ luật cao được sự lãnh đạo của những người cộng sản đã kiên trì chờ đợi ba ngày liền (từ ngày 24 đến ngày 26-2) để gặp Gôđa. Ngày 1-3, Gôđa dừng lại ở Quảng Ngãi, sau đó trở lại Sài Gòn, tiến hành một số chuyến đi tới vùng Hậu Giang. Ngày 13-3, Gôđa trở về Pháp sau một cuộc mít tinh tiễn đưa của hàng ngàn người để trao cho phái đoàn một bản kiến nghị gồm chín điểm nhấn mạnh đến những yêu sách đòi quyền tự do dân chủ của nhân dân Đông Dương. Sự kiện này không chỉ có tác động mạnh mẽ với đại diện của Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp mà điều quan trọng hơn là nó làm dấy lên một cao trào đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ trên khắp cả nước.
- Những sự kiện đấu tranh ở Việt Nam trong những năm 1936-1937, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên – Huế (1930-1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
- Lịch sử các địa phương: Nghệ An, Hà Tĩnh.
THÁNG 5
Thành lập lại các Ban Tỉnh uỷ Nam Định, Hà Nam
Được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng một số đảng viên tỉnh Nam Định vừa ra tù như đồng chí Đặng Hữu Rạng, Đặng Xuân Thiều, Trần Cung cùng với đại biểu Thái Bình, Hà Nam, họp tại thôn Một, Nam Hồng (nay thuộc xã Nam Hồng, huyện Nam Trực) để thành lập Liên Tỉnh uỷ lâm thời Hà - Nam - Thái và bàn việc thành lập lại các Ban Tỉnh ủy của ba tỉnh.
Sau Hội nghị, Ban Tỉnh uỷ lâm thời Nam Định được hình thành gồm các đồng chí Đặng Hữu Rạng (tức Đặng Việt Châu), Trần Hoạt, Đặng Xuân Thiều, sau thêm đồng chí Bùi Minh Hách và nữ đồng chí Liên (tức Minh Lãng) do đồng chí Đặng Hữu Rạng làm Bí thư Tỉnh uỷ. Được một thời gian, Xứ uỷ điều động đồng chí Đặng Hữu Rạng phụ trách Liên Tỉnh uỷ C1, đồng chí Trần Hoạt lên thay làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Một số đại biểu sau khi đi dự Hội nghị thành lập Liên Tỉnh uỷ trở về được giao nhiệm vụ tiến hành tổ chức Hội nghị thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Hà Nam, nhưng việc chuẩn bị Hội nghị chưa tốt nên Ban Tỉnh uỷ lâm thời chưa có hoạt động thực sự, chưa đưa được phong trào lên.
Giữa năm 1937, Xứ uỷ Bắc Kỳ triệu tập cuộc họp các Đảng bộ một số tỉnh ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Trong Hội nghị, Xứ uỷ phổ biến Chỉ thị của Trung ương Đảng về Chiến sách mới vạch ra chương trình hoạt động công khai và bàn việc phát triển các tổ chức bí mật của Đảng. Hội nghị cử một Xứ uỷ viên về Hà Nam chuẩn bị cho việc thành lập Ban Tỉnh uỷ chính thức, nhưng do khó khăn về nhân sự, mãi đến đầu năm 1938, Hà Nam mới thành lập được Tỉnh uỷ do đồng chí Nguyễn Đức Quỳ làm Bí thư.
Ban Tỉnh uỷ Nam Định, Hà Nam đưa thành lập đã đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo nhân dân trong tỉnh đấu tranh trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ Nam Định 1930-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. I.
NGÀY 15-1
Báo Nhành lúa của những người cộng sản ở Trung Kỳ ra số đầu
Trong quátrình hoạt động cách mạng, những người cộng sản đã sử dụng báo chí làm vũ khí chiến đấu.
Vì vậy cũng như ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ trong thời kỳ vận động Mặt trận dân chủ, hoạt động báo chí công khai của những lực lượng tiến bộ mà hạt nhân là các chiến sĩ cộng sản ở Trung Kỳ diễn ra rất sôi nổi. Tại Vinh, từ 6-1-1937 đã ra mắt số đầu tiên của tờ Đông Dương hoạt động xuất bản hàng tuần bằng hai thứ tiếng Pháp - Việt. Nhưng chỉ từ sau khi các chiến sĩ cộng sản ra khỏi nhà tù của thực dân Pháp đã hợp lại và dùng báo chí như một vũ khí chiến đấu, thì những tờ báo cách mạng thực sự mới ra đời.
Trong số báo chí cách mạng đó, tiêu biểu là tờ Nhành lúa, số 1 ra ngày 15-1-1937 tại Huế do Hải Triều (tức Nguyễn Khoa Văn) làm chủ bút. Tờ báo ra được đến số 9 (19-3-1937) thì bị đình bản. Mặt trận đấu tranh trên lĩnh vực báo chí công khai của những người cộng sản ở Trung Kỳ được nối tiếp bằng các tờ Sông Hương tục bản (19-6-1937). Cũng nằm trong khuôn khổ các tờ báo do Xứ uỷ I Trung Kỳ chủ trương còn phải kể đến các tờ Dân muốn (số 1 ra ngày 20-12-1938, số cuối ngày 25-1-1939), Dân tiến - cơ quan liên hiệp tất cả các lực lượng cấp tiến (số 1 ra ngày 27-10-1938, số cuối ra ngày 12-12-1938, tổng cộng là 5 số) cả hai tờ báo này đều do đồng chí Phan Đăng Lưu chỉ đạo nhưng được in tại Sài Gòn.
Về báo chí tiến bộ ở Trung Kỳ, giai đoạn này còn phải kể đến các tờ Kinh tế tân văn ởHuế (số 1 ra ngày 9-1- 1937 và số cuối là số 4 ngày 24-4-1937) và tờ Dân xuất bản ở Huế (số 1 ra ngày 6-7-1938, số cuối cùng số 17 ngày 7-10-1938).
Mặc dù được xuất bản với số lượng không nhiều, chỉ được mấy số rồi bị đình bản, nhưng báo Nhành lúa cũng như các tờ báo tiến bộ khác ở Trung Kỳ đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền giác ngộ quần chúng nhân dân đi theo đường lối của Đảng.
- Đỗ Quang Hưng: Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 247-329.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 143-149.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 27-1
Phong trào đấu tranh của thợ may
Trước sự áp bức bóc lột của bọn chủ Pháp ở các nhà máy, giai cấp công nhân đặc biệt là công nhân ngành may đã vùng dậy đấu tranh.
Cuộc đấu tranh nổ ra trước hết ở Hà Nội rồi lan dần sang các thành phố khác: sáng ngày 16-1, 2000 công nhân may Hà Nội bãi công đưa yêu sách đòi tăng lương 40%, trả lương ngày chủ nhật, một năm nghỉ 15 ngày có lương, đau ốm được phụ cấp, lập giao kèo quy định giờ làm và mức lương, tự do nghiệp đoàn. Cuộc bãi công kéo dài 6 ngày liền, bọn chủ phải nhượng bộ giải quyết các yêu sách trên.
Hưởng ứng cuộc đấu tranh của thợ may Hà Nội, công nhân may ở các thành phố khác cũng lần lượt bãi công.
Ngày 19-1-1937, 300 thợ may Hải Phòng đình công đưa yêu sách đòi tăng lương 10%, làm việc 9 giờ một ngày, lập nghiệp đoàn...
Ngày 21-1-1937, hơn 100 thợ may quần áo phụ nữ ở Hà Nội cũng bãi công đòi tăng lương từ 30-50%, giảm giờ làm xuống 12 giờ một ngày.
Ngày 22-1-1937, 200 thợ may Vinh - Bến Thuỷ bãi công đòi tăng lương 40%, giảm giờ làm xuống 10 giờ một ngày.
Ngày 23-1-1937, khoảng 100 thợ may Thành phố Nam Định bãi công đòi tăng 30% lương, giảm giờ làm 10 giờ một ngày.
Ngày 27-1-1937, hầu hết thợ may ở các nhà may Huế nhất loạt tổng bãi công đòi tăng lương khoán lên 30%, lương người làm công lên 20%, ngày làm 10 giờ, chủ nhật nghỉ có lương, một năm nghỉ 4 ngày có lương vào dịp tết, không đuổi thợ sau bãi công... Đại biểu thợ đòi tăng lương thêm nữa, nếu không công nhân sẽ kiên quyết bãi công đến cùng. Đêm hôm đó bọn chủ phải họp bàn và chịu tăng lương cho thợ. Được biết bọn chủ đã chịu tăng lương 40% cho thợ khoán và chịu giải quyết năm yêu sách, anh em mới chịu trở lại làm việc. Cuộc bãi công kết thúc thắng lợi.
Cuộc bãi công của công nhân ngành may có tác dụng lớn trong việc cổ vũ công nhân các ngành nghề khác vùng dậy đấu tranh đòi quyền lợi.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sư kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t.1.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1936-1939), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. II, tr. 237-241.
NGÀY 15-1
Những cuộc biểu tình nhân dịp Bơrêviê sang làm Toàn quyền Đông Dương
Ngày 14-1-1937, Bơrêviê (Brévié) chính thức nhậm chức Toàn quyền Đông Dương.
Việc Bơrêviê nhậm chức Toàn quyền Đông Dương đã làm dấy lên nhiều hoạt động của quần chúng và các tổ chức xã hội nhằm biểu lộ thái độ đòi chính quyền Pháp ở Đông Dương phải tiến hành những cải cách cho phù hợp với việc Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền ở chính quốc.
Từ ngày 15-1-1937, ở Sài Gòn Hà Nội và nhiều nơi khác, hàng vạn quần chúng tham gia biểu tình, giương cao những khẩu hiệu: "Ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp", “Tự do ngôn luận", "Tự do nghiệp đoàn”, "Đại xá chính trị phạm", “Bỏ thuế thân”...
Chính quyền phản động thuộc địa đã đàn áp những đoàn biểu tình ở Sài Gòn, cho cảnh sát dùng dùi cui giải tán các đoàn thể nhân dân tập trung trên các đường phố Sácne, Étpanhơ, Penlơranh (Charner, Espagne, Pellerin) làm hàng trăm người bị thương. Một số đảng viên hoạt động công khai ở Sài Gòn đã trực tiếp đến gặp Bơrêviê phản đối hành động tàn bạo của nhà cầm quyền Pháp và đòi Bơrêviê thi hành những cải cách dân chủ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cuộc biểu tình nhân dịp Bơrêviê sang nhậm chức Toàn quyền là cuộc biểu dương lực lượng và ý chí đoàn kết đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân ta và tố cáo chế độ phản động của thực dân Pháp.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 1995, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
THÁNG 1
Đại biểu báo Le Travail (Lao động) giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ
Thực hiện chủ trương tranh thủ một hình thức hoạt động công khai để mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng nhân cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ - những người cộng sản đưa đồng chí Trịnh Văn Phú - quản lý tờ Le Travail ra tranh cử.
Trong những ngày vận động tranh cử ứng cử viên của Đảng không có phương tiện vật chất, chỉ có báo chí và truyền đơn, áp phích, nhưng quần chúng lao động vẫn nhiệt tình ủng hộ. Thanh niên, công nhân, học sinh tự động phân công nhau đi rải truyền đơn, canh gác suốt ngày đêm những nơi dán áp phích, cổ động bầu cho ứng cử viên của quần chúng. Nhiều cử tri, là công thương gia, trí thức đã đến thẳng toà báo nói: “Các anh không cần vận động chúng tôi Báo Le Travail bênh vực quyền lợi cho chúng tôi thì đời nào chúng tôi lại bầu cho kẻ thân Tây". Buổi tối, quần chúng nhân dân đứng rất đông dọc Bờ Hồ, trước toà Đốc Lý để chờ tin kiểm phiếu.
Kết quả, đồng chí Trịnh Văn Phú trúng cử với số phiếu rất cao (802/1240 cử tri, hơn ứng cử viên của nhà cầm quyền 363 phiếu). Có nhà tư sản dân tộc đã cho mượn ô tô để đưa đồng chí Trịnh Văn Phú đi khắp thành phố ra mắt cử tri và quần chúng nhân dân lao động.
Qua thắng lợi này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thấy được sự ủng hộ to lớn của nhân dân lao động đối với chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng.
Thắng lợi qua cuộc bầu cử cũng mở đầu cho những hoạt động của những người cộng sản trên lĩnh vực nghị trường tại Bắc Kỳ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t.1, tr. 77-78.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
THÁNG 1
Phong trào đấu tranh của công nhân
Đầu năm 1937, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ.
Ở cả ba kỳ đã diễn ra 77 cuộc đấu tranh với hơn 20.000 người thuộc các lĩnh vực công nghiệp, đồn điền, chủ nhỏ Việt Nam.
Trên một phần ba số cuộc đấu tranh nổ ra ở khu công nghiệp và đồn điền. Số công nhân công nghiệp và đồn điền tham gia bãi công trong tháng 1 là 14.603 người (gồm 70% tổng số người đấu tranh). Sài Gòn, Chợ Lớn là nơi tập trung các cuộc đấu tranh của công nhân các xí nghiệp công nghiệp.
Tháng 1-1937, ở Hà Nội, những cuộc bãi công của thợ thủ công diễn ra rất sôi nổi.
Tháng 1 là tháng có số cuộc và số người đấu tranh cao nhất trong năm 1937. Các cuộc bãi công đã diễn ra cả ở khu công nghiệp và các ngành nghề thủ công với một khí thế mạnh chưa từng có. Đặc biệt là các ngành nghề thủ công, là nơi từ trước đến nay khó vận động những cuộc đấu tranh có ý thức giai cấp , vì ở những nơi này, quan hệ giữa thợ và chủ thường mang tính chất phường bạn hay gia tộc.
Chính quyền thực dân phải thừa nhận phong trào công nhân trong tháng 1-1937 là một phong trào vừa có tính chất kinh tế, vừa có tính chất chính trị.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành ủy Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb Hà Nội, 1982, t. 1.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1936-1939), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, t. II, tr. 237-240.
NGÀY 2-2
Cuộc đấu tranh của 8.000 công nhân Nhà máy sợi Nam Định
Ngay từ đầu năm 1937, tổ chức Đảng Nhà máy sợi Nam Định quyết định sẽ tổ chức một cuộc đấu tranh lớn đòi bọn chủ phải thi hành Luật Lao động2 tăng lương, giảm giờ làm, không được đánh đập công nhân; bảo đảm quyền tự do ngôn luận, hội họp, lập nghiệp đoàn của công nhân. Một Uỷ ban đấu tranh được thành lập với các tiểu ban Tuyên truyền vận động, Điều tra, Bảo vệ, Tài chính.
Ngày mở đầu cuộc đấu tranh chưa được ấn định thì đêm 2-2-1937 xảy ra việc tên đốc công Phờlôrêvơ đánh ngã gục một công nhân ở Nhà sợi B. Toàn thể công nhân hãm máy phản đối. Nhân sự kiện này, Uỷ ban đấu tranh đã kịp thời lãnh đạo công nhân các Nhà sợi A, Dệt A, Dệt B đình công. Ngày 3-2-1937, toàn thể công nhân xưởng nhuộm, xưởng chăn và công nhân Nhà máy tơ đều nghỉ việc hưởng ứng. Cuộc đình công lên tới 8000 người tham gia.
Uỷ ban đấu tranh gửi yêu sách qua bưu điện đòi chủ nhà máy phải thi hành luật lao động, bỏ hẳn đánh đập, mở thêm cửa sổ các buồng máy cho công nhân uống nước hợp vệ sinh, tăng lương cho công nhân, giảm giờ làm, không được đuổi thợ đình công. Ngày 4-2-1937, Uỷ ban đấu tranh tổ chức mít tinh lớn ở Văn Miếu có diễn thuyết, rải truyền đơn vạch rõ bản chất ngoan cố của bọn chủ, kêu gọi công nhân kiên trì đấu tranh. Mít tinh xong, công nhân xếp hàng 5 biểu tình qua cảng nhà máy và những nơi tập trung đông người như chợ Rồng, bến xe. Uỷ ban đấu tranh còn cử đại biểu đi gặp Nghị trưởng Viện Dân biểu Bắc Kỳ, gặp Gôđa, Thanh tra lao động của Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp đòi can thiệp. Báo chí công khai của Đảng kịp thời biểu dương ý chí đấu tranh của công nhân Nhà máy sợi, kêu gọi quần chúng khắp nơi ủng hộ.
Cuối tháng 2,bọn chủ phải giảm giờ làm việc từ 12 giờ xuống 8 giờ theo luật lao động và tăng lương 25% cho công nhân. Công nhân vừa trở lại làm việc, bọn chủ lại kiếm cớ đuổi một số công nhân mà chúng nghĩ là cầm đầu phong trào, âm mưu tuyển người mới vào để thay thế dần những công nhân đã tham gia đấu tranh. Trước sự lật lọng của bọn chủ, ngày 23-2, hơn 1000 công nhân lại bãi công. Ngày 2-3, toàn thể công nhân các xưởng dệt đóng máy lại để đấu tranh. Ý chí đấu tranh kiên trì, triệt để của công nhân và sức ép của bầu không khí chính trị lúc đó đã buộc bọn chủ tư bản Pháp phải chấm dứt việc đuổi thợ bãi công, chấm dứt những hành động vi phạm trắng trợn quyền lợi của công nhân.
Đây là cuộc đấu tranh kéo dài nhất, thu hút đông đảo công nhân tham gia và cũng thể hiện sự vận dụng linh hoạt chủ trương của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, áp dụng hình thức đấu tranh công khai, nêu ra những khẩu hiệu có cơ sở pháp lý, buộc kẻ địch phải thực hiện các yêu sách chính đáng của đông đảo công nhân, chặn đứng những hành động tàn ác của chủ nhà máy và tay sai.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. I.
THÁNG 2
Lập đại lý sách báo của Đảng ở Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình
Tranh thủ điều kiện hợp pháp, Đảng bộ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình chủ trương xuất bản một số sách báo nhằm công khai tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, giới thiệu đường lối, chủ trương của Đảng và hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Đầu tháng 2-1937, một số đảng viên và quần chúng cách mạng ở Nam Định lập một cơ quan đại lý phát hành sách, báo ở địa phương, lấy tên là Đại lý sách báo cánh tả. Đại lý này đã lần lượt đặt ở các nhà số 47B Đồng Khánh (phố Hàng Thao), số 58 phố Cờlêmăngxô (Clemenceau - đường Trần Phú ngày nay), số 224 đường Pôn Bê (Paul Bert - đường Trần Hưng Đạo ngày nay) và số 24 phố Hàng Đàn (nay là phố Hai Bà Trưng). Từ tháng 9-1937, đại lý này do đồng chí Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ) phụ trách.
Ở Hà Nam, đại lý sách báo của Đảng được đặt ở các cửa hiệu Việt Dân, Vĩnh Long (thị xã Phủ Lý), Nam Kim (huyện Kim Bảng). Ở Ninh Bình, tại hiệu Ích Nguyên Đường (thị trấn Nho Quan).
Từ những đại lý này, sách báo của Đảng toả ra nhiều nơi trong tỉnh, nhất là ở những nơi có cơ sở và phong trào cách mạng như vùng An Cừ (huyện Ý Yên); Lạc Nghiệp, Thọ Vực (huyện Xuân Trường); Khả Phong, Thuỵ Sơn (huyện Kim Bảng); Hữu Thường (huyện Gia Viễn)...
Ngoài việc phát hành sách báo của Đảng và các sách báo tiến bộ khác, những cơ quan này còn là đại diện công khai của Đảng bộ tiếp xúc với quần chúng, thu thập nguyện vọng của quần chúng, hướng dẫn quần chúng cách tổ chức và đấu tranh trong suốt thời kỳ 1936- 1939.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930-1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t. I.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996, t. 1.
THÁNG 3
Tái lập Xứ uỷ Bắc Kỳ
Từ cuối năm 1936, các cơ sở Đảng dần dần được chắp nối lại do Ban Cán sự Đảng chỉ đạo (Uỷ ban sáng kiến). Qua phong trào đấu tranh, ta đã phát triển thêm được một số đảng viên ở các ngành nghề và trong Đoàn Thanh niên Cộng sản, một số đồng chí mới ra tù trở lại hoạt động.
Trên cơ sở đó, tháng 3-1937, Xứ ủy Bắc Kỳ được thành lập do đồng chí Hoàng Tú Hưu làm Bí thư, tham gia Xứ uỷ còn có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hạ Bá Cang, Nguyễn Văn Minh, Tô Hiệu, Lương Khánh Thiện, Đinh Xuân Nhạ, Đặng Xuân Khu... Đồng chí Nguyễn Văn Cừ và Hạ Bá Cang được cử làm đại diện Xứ uỷ đi họp Hội nghị Trung ương (họp từ ngày 25-8 đến ngày 4-9-1937). Hai đồng chí đều được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Các đồng chí Nguyễn Văn Minh, Tô Hiệu, Hoàng Tú Hưu làm công tác nội bộ của Xứ. Đồng chí Đặng Xuân Khu phụ trách công tác công khai và báo chí.
Xứ uỷ Bắc Kỳ được thành lập đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh đạo nhân dân Bắc Kỳ đấu tranh cách mạng giành quyền tự do, dân chủ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
THÁNG 3
Tái lập Thành uỷ Hà Nội
Sau khi được tái lập, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã xúc tiến việc tái lập Thành uỷ Hà Nội.
Trong tháng 3-1937, Thành uỷ Hà Nội được tái lập do đồng chí Lương Khánh Thiện - Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ trực tiếp làm Bí thư. Cùng tham gia Thành uỷ còn có các đồng chí Đinh Xuân Nhạ, Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Mạnh Đạt (tức Lộc Ái), Tạ Quang Sần, Nguyễn Trọng Cảnh. Phạm vi chỉ đạo của Thành uỷ Hà Nội lúc này gồm cả Sơn Tây và Hà Đông.
Cho tới khi Thành uỷ Hà Nội được tái lập, toàn Thành phố Hà Nội có khoảng 20 chi bộ, gồm những đồng chí đã hoạt động cũ, mới ra tù, một số mới được kết nạp. Trong số những chi bộ này, chi bộ ngành in có sớm nhất do đồng chí Nguyễn Trọng Cảnh làm Bí thư. Chi bộ ra đời chứng tỏ sự trưởng thành của phong trào và sự lãnh đạo chặt chẽ của Thành uỷ Hà Nội đối với công tác công khai và công tác bí mật.
Thành uỷ Hà Nội ra đời đáp ứng được yêu cầu bức thiết của các cơ sở Đảng và quần chúng nhân dân. Từ đây, nhân dân Hà Nội có một cơ quan lãnh đạo chính thức, dẫn dắt quần chúng đứng lên đấu tranh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
NGÀY 20-3
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông cáo gửi các cấp bộ Đảng
Ngày 13, 14-3-1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng. Sau Hội nghị, ngày 20-3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông cáo gửi các cấp bộ Đảng hướng dẫn một số vấn đề về tổ chức và lãnh đạo phong trào cách mạng.
Về các vấn đề tổ chức chung: Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra những điểm về Điều lệ Đảng, hiện tại vẫn là bản Điều lệ do Đại hội Đảng chuẩn y năm 1935, nhưng bỏ bớt đi mấy đoạn về việc hạn chế tuổi vào Đảng và sự liên hệ của Đảng Cộng sản với Thanh niên Cộng sản Đoàn để cho thích hợp với con đường chính trị mới, các hội quần chúng cũng phải chỉnh đốn và cải tổ lại cho thích hợp với hoàn cảnh cụ thể; về tổ chức của thanh niên, Đảng quyết định lập ra “Đông Dương Thanh niên Phản đế Đoàn" thay cho Thanh niên Cộng sản Đoàn; lập Hội "Cứu tế bình dân" thay cho "Cứu tế đỏ".
Trung ương chỉ rõ, phải lợi dụng hoàn cảnh để tổ chức các hội quần chúng công khai và bán công khai, nơi nào không lợi dụng được thì tổ chức bí mật. Trung ương đã tuyên bố thủ tiêu các kế hoạch tổ chức trong bức thư ngày 26-7-1936 và ngày 13-8-1936.
Vấn đề thanh Đảng: các Đảng bộ phải thận trọng và cương quyết trong điều tra lý lịch của mỗi đảng viên trong cấp bộ của mình, nếu có phần tử phản động thì phải khai trừ, nếu có đảng viên lười biếng không chịu nghiên cứu đường lối của Đảng thì phải khuyến khích và huấn luyện họ; đối với những phần tử khả nghi thì đình chỉ công tác ngay.
Mỗi một đảng viên phải là người chỉ đạo, người chịu sứ mệnh đi phổ biến tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy phải lựa chọn đảng viên cho đúng tiêu chuẩn không để những phần tử phức tạp vào Đảng
Tham gia các cuộc tuyển cử: Đảng chủ trương tham gia các cuộc tuyển cử, chọn người ra tranh cử, thảo ra chương trình hành động để tập hợp quần chúng và thương lượng với các đảng cấp tiến dồn phiếu cho người ửng cử của Mặt trận; đẩy mạnh tuyên truyền những khẩu hiệu của Đảng trong dịp bầu cử và đấu tranh nghị trường để bênh vực quyền lợi của quần chúng.
Đối với phong trào thỉnh nguyện: chính quyền thuộc địa đã giải tán hết các phong trào “Thỉnh nguyện” cấm Đông Dương Đại hội, bắt bớ giam cầm những chiến sĩ Đông Dương Đại hội... cho nên các cấp Đảng bộ tuỳ theo hoàn cảnh để gây dựng lại phong trào, soạn những bản “dân nguyện" để tuyên truyền.
Lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Đông Dương: theo tình hình hiện tại ở Đông Dương thì cần phải thiết lập ra Mặt trận Thống nhất nhân dân Đông Dương, bao gồm đại đa số nhân dân đoàn kết chung quanh bản chương trình hành động tối thiểu; tuỳ theo điều kiện từng nơi mà vận động lập Mặt trận, có thể lập từ trên xuống hay từ dưới lên, cần vận động các đảng phái, các đoàn thể của nhân dân để thành lập các Uỷ ban liên hiệp để hành động; trước hết các Đảng bộ cần xây dựng cơ sở của Mặt trận, lập ra các hội quần chúng có tính chất công khai và nửa công khai để lấy danh nghĩa các đoàn thể ấy mà cử đại biểu tham gia các cơ quan liên hiệp hành động.
Vấn đề tuyên truyền và cổ động: các cấp bộ Đảng phải khuyến khích những người cảm tình, đứng tên xin xuất bản những tờ báo công khai, mỗi một chi bộ phải lập “bình dân thư xã”, viết những quyển sách công khai để làm tài liệu tuyên truyền; các cấp đảng bộ từ tỉnh trở lên phải lập ra các ban huấn luyện.
Đối với Chính phủ Bơlum: Trung ương nhắc lại rằng, Đảng hoàn toàn ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Bơlum, không quên vận động quần chúng đứng lên đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày.
Cuối cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh rằng, những điều trên đây có tính chất bí mật, nội bộ, còn với các vấn đề chính trị và tổ chức khác có thể công khai được Đảng sẽ viết lên báo để tuyên truyền.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 211-220.
NGÀY 26-3
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản cuốn sách Chủ trương tổ chức mới của Đảng
Đảng ta đổi sách lược (tactique) mà không thay đổi chiến lược (stratégie), vì đổi sách lược nên phải đổi đường lối tổ chức lại cho thích hợp với đường lối chính trị mới.
Vì vậy, ngày 26-3-1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xuất bản cuốn sách Chủ trương tổ chức mới của Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương đặt vấn đề: Tại sao phải đổi kế hoạch tổ chức? Đó là do "Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới bắt buộc Đảng ta phải có con đường chánh trị mới, con đường chánh trị mới lại bắt buộc phải có một đường tổ chức mới”.
Đường lối chính trị mới của Đảng ta lúc này là: liên hiệp hành động với các đảng phái, các đoàn thể các tầng lớp nhân dân để thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Đông Dương, chống bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai, đòi những quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống cho các tầng lớp nhân dân. Đồng thời Đảng còn chủ trương liên hiệp hành động với các đoàn thể tả phái của người Pháp ở Đông Dương, chống phát xít chống chiến tranh đế quốc, đòi tự do cơm áo và hoà bình.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhắc lại mục đích và nhiệm vụ của Đảng: “Chúng ta không bỏ chương trình và mục đích của mình, không bỏ nguyên tắc giai cấp tranh đấu, không thủ tiêu cách mạng phản đế và thổ địa, không lãng bỏ nhiệm vụ thực hiện cuộc vận động dân tộc giải phóng; nhưng hiện thời Đảng ta và quần chúng chưa có những điều kiện khách quan và chủ quan đầy đủ mà thực hành ngay tức khắc, trực tiếp những nhiệm vụ vĩ đại quan trọng đó...”.
Về tổ chức Đảng, Ban Chấp hành Trung ương chỉ rõ: Phải nghiên cứu Điều lệ Đảng (nhất là những điều kiện vào Đảng) mà kết nạp đảng viên mới. Lúc này không hạn chế tuổi vào Đảng là cốt để cho những phần tử trẻ tuổi nhưng đủ điều kiện trở thành đảng viên có thể vào Đảng được. Đảng phải kết nạp những người có tinh thần cách mạng hăng hái trong nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân khác vào Đảng.
Tuy nhiên không bao giờ quên được rằng, Đảng Cộng sản Đông Dương là Đảng của giai cấp vô sản, phải chú ý kết nạp công nhân vào hàng ngũ của Đảng nhất là ở trong các cơ quan chỉ đạo; đưa những người hăng hái trong giới phụ nữ lao động, người nước ngoài và người các dân tộc thiểu số vào hàng ngũ của Đảng, phải đề phòng những phần tử phản động cơ hội vào hàng ngũ Đảng. Mỗi đảng viên là một người lãnh đạo quần chúng; vì thế những phần tử rụt rè, do dự, cơ hội, không thể dung thứ được trong Đảng. Đối với các hội quần chúng, Đảng là người chỉ đạo về đường lối chính trị. Vì thế, Đảng không có quyền và không nên mệnh lệnh, phải chỉ đạo các hội quần chúng bằng Đảng đoàn, không nên và không đủ năng lực mà bao biện hết các công tác nội bộ của quần chúng.
Về tổ chức thanh niên: Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập “Đông Dương Thanh niên Phản đế Đoàn" thay cho “Thanh niên Cộng sản Đoàn". Vì vậy, phải giúp Đoàn Thanh niên Phản đế tổ chức ra những đoàn thể: Thanh niên khai trí, thanh niên tân tiến, thanh niên dân chủ, thanh niên văn hoá, các hội mỹ thuật, hội thể dục, hội học sinh... nên tổ chức theo hình thức công khai và nửa công khai. Các hội ấy do Đoàn Thanh niên Phản đế trực tiếp tổ chức và chỉ đạo.
Về tổ chức công nhân: Nhiệm vụ của Đảng là tổ chức công nhân và lập Mặt trận Thống nhất của giai cấp vô sản, sử dụng hình thức công khai và nửa công khai mà tổ chức ra các hội ái hữu, tương tế để đoàn kết công nhân và bênh vực quyền lợi cho họ. Tuy tên là ái hữu và tương tế... nhưng nội dung và công tác Công hội, không lấy tên là Công hội đỏ mà lấy tên là Công hội thống nhất.
Về tổ chức nông dân: Hình thức tổ chức của nông dân là Nông hội. Đảng không chủ trương tổ chức Nông hội đỏ mà tuỳ sáng kiến của quần chúng mà lập ra những hội lấy tên là ái hữu, tương tế, hợp tác xã,... (nhưng nội dung là Nông hội) và bao gồm nông dân lao động (trung nông, bần nông và cố nông).
Về tổ chức phụ nữ: Phải chú ý kết nạp phụ nữ vào Đảng, Thanh niên Đoàn, Công hội, Nông hội, Hội Cứu tế bình dân,... cần lập ra những Hội Phụ nữ giải phóng, Phụ nữ dân chủ, Phụ nữ tân tiến, Phụ nữ hỗ trợ... và có thể thì thống nhất thành “Phụ nữ liên hiệp hội", chủ trương vận động phụ nữ trong địa phương và toàn xứ Đông Dương.
Về tổ chức binh lính: Từ Trung ương cho tới các tỉnh uỷ và ở các địa phương có lính đóng, cần lập ra các uỷ ban đặc biệt vận động binh lính. Đảng chủ trương tổ chức những chi bộ Đảng trong quân đội, đồng thời phải lập ra những Hội Thể thao, Văn hoá, Cứu tế, Ái hữu,..
Về Hội cứu tế bình dân: Đảng chủ trương thủ tiêu tên Hội Cứu tế đỏ, lập ra Hội “Đông Dương Cứu tế bình dân". Ngoài ra, Đảng phải lợi dụng các Hội Cứu tế, từ thiện... mà cứu giúp cho những người bị đế quốc và phong kiến đàn áp.
Cuối cùng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Nói chung thì về đường tổ chức, Đảng ta phải dùng nhiều hình thức mà đoàn kết dân chúng, nhưng Đảng phải lợi dụng đủ phương pháp mà giúp các hội quần chúng thống nhất tập trung lại”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 221-247.
NGÀY 27-3
Hội nghị báo giới Trung Kỳ
Nhằm đẩy mạnh hoạt động báo chí cách mạng và tập hợp lực lượng báo chí tiến bộ thành một mặt trận thống nhất, Đảng Cộng sản Đông Dương tích cực vận động thành lập một tổ chức của các nhà báo tiến bộ đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận và các quyền tự do dân chủ khác.
Trung Kỳ là nơi đầu tiên giới báo chí, mà hạt nhân là các nhà báo cộng sản tổ chức được hình thức “Hội nghị báo giới".
Ngay từ ngày 15-1-1937, báo Nhành lúa số đầu tiên đã đăng lời kêu gọi của 17 nhà báo, trong đó có những nhà báo nổi tiếng như Hải Triều, Nguyễn Chí Diểu, Lâm Mộng Quang,... về việc triệu tập Hội nghị báo giới Trung Kỳ. Ngày 23-3, báo Nhành lúa lại đứng ra tổ chức một cuộc họp trù bị tại trụ sở Hội Quảng Trị (Huế) và được những chí sĩ nổi tiếng như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng gửi thư cổ vũ.
Tám giờ sáng ngày 27-3-1937, Hội nghị Báo giới Trung Kỳ được khai mạc tại Đông Pháp lữ quán (số 7 Đông Ba – Huế) với 70 đại biểu của các báo Trung Kỳ và đại biểu báo chí cách mạng của Bắc Kỳ (Võ Nguyên Giáp của tờ Rassemblement và Hà Huy Giáp của tờ Tiếng trẻ).
Hội nghị thông qua chương trình nghị sự: kêu gọi lập một Mặt trận thống nhất của những người làm báo ở Đông Dương, yêu cầu được tự do xuất bản... và thành lập Hội ái hữu Báo giới Trung Kỳ. Trên cơ sở kết quả của Hội nghị này, ngày 30-3-1937, một Uỷ ban thường trực bàn về việc chuẩn bị Hội nghị báo giới toàn quốc đã được triệu tập gồm 12 người, nhưng sau đó chính quyền thực dân tìm cách đối phó quyết liệt, ra lệnh cấm mọi hoạt động nhằm thực hiện những mục tiêu mà Hội nghị đặt ra.
Hội nghị Báo giới Trung Kỳ được tổ chức là một thắng lợi lớn của Đảng Cộng sản Đông Dương và nó đóng vai trò quan trọng trong hoạt động báo chí tuyên truyền.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên – Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 179-180.
THÁNG 4
Thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Thừa Thiên - Huế
Dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ, các tổ chức cơ sở Đảng ởThừa Thiên - Huế đã phát động quần chúng nhân dân đấu tranh trong phong trào Mặt trận Dân chủ. Ảnh hưởng của Đảng ngày càng lan rộng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, Xứ uỷ Trung Kỳ chủ trương thành lập lại Tỉnh uỷ và tổ chức cơ sở Đảng ở Thừa Thiên - Huế.
Tháng 4-1937, đồng chí Nguyễn Chí Diểu - Uỷ viên Trung ương Đảng thay mặt Xứ uỷ Trung Kỳ, triệu tập các đồng chí đảng viên chủ chốt trong tỉnh đến vườn hoa trước bệnh viện Huế để bàn bạc công việc và củng cố lại Tỉnh uỷ.
Tham dự Hội nghị có các đồng chí: Phan Đăng Lưu, Lê Tự Nhiên, Tô Thuyên, Trần Công Xứng, Bùi San.
Sau khi nhận định, đánh giá tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh đồng chí Nguyễn Chí Diểu tuyên bố thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Thừa Thiên - Huế. Đồng chí Trần Công Xứng, Xứ uỷ viên được cử làm Bí thư Tỉnh ủy.
Đồng chí Tô Thuyên được Tỉnh uỷ phân công phụ trách lực lượng lao động thành thị. Đồng chí Lê Tự Nhiên phụ trách công nhân các xí nghiệp, công sở, đồng chí Bùi San phụ trách vùng nông thôn. Cuối năm 1937, Xứ uỷ giới thiệu đồng chí Nguyễn Chí Thanh tham gia Tỉnh uỷ.
Sau khi Tỉnh uỷ lâm thời thành lập, dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ và Tỉnh uỷ, Thành uỷ Huế được thành lập gồm các đồng chí Lê Tự Nhiên, Tô Thuyên, Phan Văn Đạt 3. Đồng chí Lê Tự Nhiên được cử làm Bí thư Thành uỷ.
Tỉnh uỷ ra đời đã nhanh chóng tiến hành thành lập các chi bộ Đảng ở các cấp huyện, phát triển cơ sở Đảng, chuẩn bị đưa phong trào trong tỉnh tiến lên một bước mới.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên – Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
NGÀY 5-4
Công nhân Xưởng Ba SonSài Gòn bãi công
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác phát triển mạnh mẽ trong năm 1936 và những tháng đầu năm 1937, đặc biệt là phong trào của công nhân thành phố. Trong năm 1937, nổi bật nhất là cuộc bãi công của toàn thể công nhân Xưởng Ba Son nổ ra ngày 5-4-1937.
Công nhân Ba Son đấu tranh đòi:
- Cho công nhân làm việc theo số giờ cũ, nếu không thì khoán việc từ 11 giờ 30 đến 14 giờ 30, sở phải trả thêm tiền phụ cấp 5%, nếu làm thêm từ 5 giờ 30 chiều trở đi thì phụ cấp phải tăng gấp đôi.
- Cho những người đã tập sự được ba năm và đã bị sa thải được vào làm lại.
- Cho những người bị tình nghi hoạt động chính trị được trở lại làm việc vì họ đã được toà xử trắng án.
- Tăng lương 15% vì giá sinh hoạt đắt đỏ.
Ngoài các khẩu hiệu kinh tế nói trên, những người bãi công còn đòi được tự do tổ chức nghiệp đoàn.
Trước sự đấu tranh mạnh mẽ của công nhân Ba Son, địch đối phó bằng cách đưa lính và công nhân các hãng, xưởng khác đến làm. Đảng bộ thành phố đã huy động công nhân và lao động các nơi hưởng ứng và ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son.
Cuộc bãi công kéo dài 35 ngày, cuối cùng chủ phải nhượng bộ giải quyết:
- Để 26 người thợ làm ở bộ phận nồi xúpde vào làm lại.
- Những người học việc 1 năm được khám bệnh một lần, ốm đau được nghỉ dưỡng bệnh cho đến khi khỏi bệnh thì trở lại làm việc.
- Làm việc ban ngày được thêm 0,25đ; làm việc ban đêm từ 11 giờ tới sáng được 0,5đ.... ngoài ra, chủ xưởng đồng ý cho tổ chức Hội ái hữu ở trong xưởng do đồng chí Tống Văn Hên làm Hội trưởng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
NGÀY 1-5
Cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động ở Sài Gòn
Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, tối 1-5-1937, tại Rạp hát Thành Xương (Sài Gòn), hơn 3.000 người gồm các tầng lớp nhân dân lao động đến họp mít tinh.
Những người dự mít tinh đã nhất trí thông qua bản kiến nghị đòi: Chính phủ ban hành luật tự do nghiệp đoàn cho lao động Đông Dương; Ban Thanh tra lao động phải can thiệp ngay vào vụ đình công ở Xưởng Ba Son hiện đã kéo dài 25 ngày; Chính phủ phải ân xá tù chính trị và thả hết những người bị bắt vì lý do tham gia lễ kỷ niệm 1-5từ trước đến nay.
Cũng trong ngày 1-5, hưởng ứng cuộc mít tinh của hơn 3.000 người ở Rạp hát Thành Xương, kiến nghị đòi thi hành luật lao động, ân xá chính trị phạm và ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Ba Son, nhiều anh chị em công nhân Hãng Asiatích (Asiatique) Sài Gòn và toàn thể công nhân Hãng FACI đã nghỉ việc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
NGÀY 5-5
Xuất bản cuốn Tờrôtxky và phản cách mạng của Thanh Hương (Hà Huy Tập)
Cuốn Tờrôtxky và phản cách mạng của tác giả Thanh Hương được Trung ương Đảng xuất bản vào ngày 5-5-1937, cuốn sách gồm bốn phần lớn: Phần 1 nói về Lênin và Tờrốtxky; phần 2 về Đệ tam và Đệ tứ quốc tế; phần 3 về cách mạng và phản cách mạng và phần 4 nói về chủ nghĩa Tờrốtxky ở Đông Dương.
Trong phần 1, cuốn sách giới thiệu cuộc đấu tranh của Lênin chống những luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác (cách mạng thường trực những chủ trương sai lầm đàn áp nông dân, nhảy vượt thời kỳ lịch sử, thủ tiêu Công hội,... ) và những hoạt động khiêu khích phá hoại (gây bè phái trong Đảng Bônsơvích Nga, phản đối Hiệp ước Brétlitốp, phản đối chính sách tân kinh tế... ) của Tờrốtxky ở Liên Xô.
Trong phần 2, cuốn sách nêu rõ lực lượng hùng mạnh của Đệ tam quốc tế; thế lực mỏng manh, bè phái của Đệ tứ quốc tế; sự đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc và hành động khiêu khích phá hoại của Đệ tứ quốc tế biểu hiện trên những vấn đề chính trị và thời sự quốc tế; Hítle lên cầm quyền ở Đức; Liên Xô gia nhập Hội Quốc liên; sách lược lập Mặt trận Thống nhất kháng Nhật ở Trung Quốc; Mặt trận Nhân dân Tây Ban Nha, Mặt trận Nhân dân Pháp,...
Trong phần 3, bằng những dẫn chứng lịch sử cụ thể, cuốn sách nêu rõ những hành động phản cách mạng, phá hoại của Tờrốtkít đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Chúng đã ngăn trở việc xây dựng kinh tế và hợp tác hoá nông nghiệp. Chúng thành lập các nhóm phản động, tổ chức các vụ ám sát cá nhân, các vụ phá hoại kinh tế và quốc phòng ...
Phần cuối cuốn sách nói về những chủ trương chính trị sai lầm và những hành động khiêu khích, phá hoại của Tờrốtkít ở Đông Dương. Cũng cùng một luận điệu như Đệ tứ quốc tế ở các nước, Tờrốtkít ở Đông Dương, tiêu biểu là Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, luôn đả kích Đệ tam quốc tế và các Đảng Cộng sản, nói xấu Liên Xô...; đòi giải tán Mặt trận Nhân dân Pháp và Mặt trận Nhân dân Tây Ban Nha, phản đối Mặt trận Dân tộc thống nhất kháng Nhật ở Trung Quốc... Chúng đưa ra những luận điệu “tả" như chủ trương thành lập Mặt trận vô sản; vô sản chỉ lo quyền lợi cho vô sản,.. . để phá hoại phong trào Đông Dương Đại hội và chia rẽ Mặt trận nhân dân thống nhất Đông Dương do Đảng lãnh đạo.
Phần kết luận, cuốn sách nêu rõ: chủ nghĩa Tờrốtxky không phải là một xu hướng chính trị trong giai cấp vô sản mà chỉ là một chi nhánh của chủ nghĩa phát xít.
Cuốn sách ra đời giữa lúc các phần tử Tờrốtkít ở Đông Dương đang đẩy mạnh những hoạt động chia rẽ, phá hoại phong trào cách mạng, đã góp phần đáng kể vào cuộc đấu tranh vạch trần bộ mặt phản cách mạng của chúng.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1920-1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, t. 1, tr. 410- 412.
NGÀY 24-5
Bãi thị của chị em buôn bán nhỏ tại Hà Nội
Cùng với cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, những người buôn bán nhỏ cũng vùng dậy đấu tranh đòi quyền lợi.
Chiều ngày 24-5-1937, toàn thể chị em buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân bãi thị đưa yêu sách cho tên đốc lý Hà Nội. Bản yêu sách với những nội dung đòi giảm thuế chợ 50%, những ngày nghỉ không được thu tiền vé chợ, cấm phạt vạ, được bán rong một số hàng bán ế ở chợ, cho hai người có thể ngồi chung một quầy hàng, miễn vé cho một số người đã đóng thuế môn bài khi đi mua hàng ở các tỉnh khác về...
Sáng ngày 25-5, chị em vẫn tiếp tục bãi thị. Cuộc đấu tranh được chị em ở các chợ Hàng Da, chợ Hôm, chợ Cửa Nam bãi thị hưởng ứng.
Viên đốc lý Hà Nội không chịu giải quyết các yêu sách nói trên, dán yết thị để cảnh cáo chị em.
Vì vậy, ngày 26-5,hơn 300 chị em biểu tình đến trước toà đốc lý. Đốc lý Viêcgitti (Virgitti) bắt giam 5 đại biểu của chị em và 2 nhà báo đi theo là đồng chí Khuất Duy Tiến và Trần Đình Từ. Chị em kiên quyết phản đối, buộc hắn phải thả những người bị bắt.
Cuộc bãi thị của chị em buôn bán nhỏ tuy nổ ra với quy mô không lớn, nhưng đã góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân cả nước, thúc đẩy các tầng lớp khác vùng dậy đấu tranh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
NGÀY 15-6
Báo Sông Hương (tục bản) ra số đầu
Thực hiện chủ trương của Đảng, đồng chí Phan Đăng Lưu cùng với các đồng chí Hải Triều, Tôn Quang Phiệt thương lượng với Phan Khôi mua lại bản quyền tờ báo Sông Hương.
Tờ Sông Hương (tục bản) do đồng chí Phan Đăng Lưu phụ trách, Nguyễn Cửu Thạnh quản lý, ra số đầu tiên vào ngày 15-6-1937. Nội dung các bài xã luận của tờ báo sôi nổi cổ động cho cuộc tuyển cử sắp đến, kêu gọi quần chúng hãy giác ngộ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình bằng việc bỏ phiếu cho những người xứng đáng thay mặt cho dân chúng, đó là những người thật lòng vì dân, vì nước, nhân phẩm sạch sẽ thanh cao.... và hết sức đánh đổ xảo trá, phỉnh phờ, hạng dua nịnh, hạng buôn dân, bán nước".
Báo ra tới số 7 thì nhận được thông tư của Khâm sứ Trung Kỳ cấm Sông Hương (tục bản) bàn luận về các vấn đề chính trị - có liên quan tới bản xứ và địa phương. Mặc dù bị ngăn cản nhưng những số phát hành tiếp theo cho tới số cuối cùng số 14 ngày 14-10-1937, các bài xã luận với nội dung phong phú vẫn tuyên truyền cho đường lối, quan điểm của Đảng về "văn học và chủ nghĩa duy vật", "bộ mặt thật của bọn Tờrốtkít", "kêu gọi quần chúng nhân dân chống nguy cơ phát xít".
Ngày 11-10-1937, Toàn quyền Bơrêviê ký lệnh thu hồi giấy phép, cấm Sông Hương (tục bản) hoạt động. Tuy chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng báo Sông Hương (tục bản) đã làm tròn nhiệm vụ là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ tỉnh, tuyên truyền vận động, giác ngộ quần chúng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của đường lối mặt trận do Đảng lãnh đạo, đưa những ứng cử viên tiến bộ do Mặt trận Dân chủ giới thiệu vào Viện Dân biểu Trung Kỳ khoá III.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.I.
THÁNG 6
Thành lập Ban Tỉnh uỷ Thái Bình
Giữa năm 1937, Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định Thái Bình phải thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng toàn tỉnh vào một đầu mối. Ở trong tỉnh, cơ sở cách mạng ngày càng phát triển, phong trào của quần chúng ngày càng lên cao, nên việc thống nhất lãnh đạo trên phạm vi toàn tỉnh là sự đòi hỏi khách quan của tình hình.
Khoảng tháng 6-1937, cuộc họp liên tịch gồm ba nhóm lãnh đạo ở ba vùng đã khai mạc tại làng Vũ Lăng (Kiến Xương), các đại biểu tập trung nghiên cứu những chủ trương mới nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Xứ uỷ, thống nhất nhận định tình hình trong nước và trong tỉnh; nhất trí cao mọi quan điểm, trong đó có vấn đề thống nhất lãnh đạo về một mối. Hội nghị bầu Ban Tỉnh uỷ thống nhất gồm đồng chí Nguyễn Văn Vực, Trần Đức Thịnh, Ngô Duy Phớn, Lương Phôi, Trần Cung, Phạm Quang Thẩm, Nguyễn Mạnh Hồng; đồng chí Nguyễn Văn Vực làm Bí thư. Đến năm 1938, Ban Tỉnh uỷ bổ sung đồng chí Chu Thiện và Giáo Nùng.
Hội nghị bàn về công tác xây dựng Đảng và các tổ chức quần chúng, công tác tuyên truyền, chính sách mặt trận, việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Hội nghị quyết định xuất bản tờ báo Tiến lên do đồng chí Bí thư trực tiếp phụ trách.
Sau khi được thành lập, Ban Tỉnh uỷ Thái Bình phân công các đồng chí uỷ viên toả về các huyện hoạt động, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
THÁNG 6
Thành lập Tỉnh uỷ Quảng Trị
Để thống nhất sự lãnh đạo, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển ngày càng cao, từ ngày 28 đến ngày 30-6-1937, Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị được triệu tập tại Choi Pheo - làng Phú Long do đồng chí Lê Duẩn chủ trì.
Phân tích tình hình phong trào cách mạng Quảng Trị, Hội nghị khẳng định cuộc vận động cách mạng của nhân dân Quảng Trị trong thời gian từ cuối năm 1936 đến tháng 6-1937 là một sự tập dượt phong trào quần chúng xuống đường đấu tranh từ thấp đến cao, từ kinh tế đến chính trị, từ không hợp pháp đến hợp pháp, từ nông thôn đến thành thị, dưới nhiều hình thức phong phú.
Qua cuộc vận động ấy, cơ sở Đảng được khôi phục ởnhiều nơi, các tổ chức quần chúng được phát triển, ảnh hưởng của Đảng thêm sâu rộng, trình độ giác ngộ của quần chúng được nâng cao.
Chỉ rõ yêu cầu, nhiệm vụ sắp tới, Hội nghị chú trọng trước hết đến các nhiệm vụ củng cố, phát triển Đảng, tổ chức của Đảng theo lối bí mật, bất hợp pháp. Hội nghị quyết định thành lập một số huyện uỷ, xây dựng các chi bộ Đảng ở các làng.
Hội nghị chủ trương đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các tổ chức quần chúng theo các hình thức công khai hợp pháp và nửa hợp pháp. Đảng phải lãnh đạo các tổ chức quần chúng tham gia đấu tranh, hướng vào các mục tiêu hàng ngày như đòi hoãn, giảm thuế, đòi các quyền tự do dân chủ hương thôn. Hội nghị đại biểu Đảng bộ xuất bản tờ báo Tranh đấu, mỗi tháng ra hai kỳ, làm cơ quan tuyên truyền của Đảng bộ tỉnh.
Cuối cùng Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm bảy uỷ viên: Hoàng Thị Ái, Hoàng Hữu Chấp, Hồ Xuân Lưu, Trần Mạnh Quỳ, Nguyễn Mực, Nguyễn Vức, Dương Đậu. Đồng chí Hoàng Hữu Chấp dược cử làm Bí thư Tỉnh uỷ. Khi đồng chí Hoàng Hữu Chấp bị bắt (9-1937), thì đồng chí Trần Mạnh Quỳ đã được thay.
Sau khi thành lập, các uỷ viên trong Đảng bộ tỉnh phân công nhau về các Phủ uỷ, Huyện uỷ làm nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. I.
TỪ NGÀY 3-7 ĐẾN NGÀY 12-8
Cuộc bãi công lớn của công nhân đường sắt
Năm 1936, một số tù chính trị được trả tự do về hoạt động ở Vinh. Đồng chí Hà Huy Giáp, bị tù ở Côn Đảo, được trả về Nam Bộ, nhưng sau đó lại bị thực dân trục xuất về Vinh. Tháng 6-1937, tại Vinh, đồng chí liên lạc với một số công nhân Nhà máy Trường Thi, lựa chọn những anh em tiên tiến và tích cực, lập nên “nhóm chỉ đạo bí mật" ở nhà máy và giao cho đồng chí Trần Danh Tuyên (lúc ấy tên là Nguyễn Văn Luận - làm công nhân kỹ thuật) phụ trách.
Sau khi được thành lập, "Nhóm chỉ đạo bí mật" đã liên lạc với các tổ chức công nhân Nhà máy xe lửa Tháp Chàm (Nam Trung Bộ) và Dĩ An (gần Sài Gòn - Chợ Lớn) để chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh chung đòi tăng lương của công nhân tuyến đường sắt từ Đà Nẵng đến Sài Gòn.
Tháng 6-1937, trên cơ sở của "Nhóm chỉ đạo bí mật", đồng chí Hà Huy Giáp thành lập Chi bộ Đảng Nhà máy4, do đồng chí Trần Danh Tuyên làm Bí thư.
Ngày 3-7-1937, nhóm bí mật vận động toàn thể công nhân tuyến đường sắt từ Nhà máy Trường Thi tắt máy ngừng làm việc 45 phút và cử đại biểu đưa yêu sách đòi tăng lương 30%, cải thiện điều kiện sinh hoạt và làm việc, cho công nhân tự do tổ chức nghiệp đoàn, không được đuổi thợ tham gia bãi công.
Ban Giám đốc Nhà máy Trường Thi không chịu giải quyết yêu sách của công nhân. Chính quyền thực dân bắt bốn đại biểu của công nhân, bắt giam đồng chí Hà Huy Giáp. Ngay sau đó, toàn thể công nhân nhà máy biểu tình đến toà Công sứ Pháp, đòi thả những người bị bắt. Bọn chúng không những không nhượng bộ mà còn lệnh đóng cửa nhà máy 15 ngày để đối phó với công nhân. Chi bộ Nhà máy quyết định tổng đình công.
Đến ngày 6-7, công nhân tuyên bố bãi công toàn thể. Ban lãnh đạo bãi công đánh điện đi khắp các sở ngành đường sắt toàn quốc, yêu cầu phối hợp đấu tranh. Ngày 12-7, công nhân đường sắt ở Đà Nẵng, Nha Trang, Tháp Chàm, Dĩ An, Sài Gòn... nhất loạt bãi công hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân Trường Thi.
Thực hiện nghị quyết của Ban chuyên môn Tỉnh uỷ Nghệ An, các Huyện uỷ thành lập Ban vận động, vận động các xã cạnh Trường Thi, các Hội ái hữu và tương tế ở Hà Tĩnh, công nhân Nhà máy sợi Nam Định... mít tinh, rải truyền đơn, treo khẩu hiệu, cổ động quần chúng quyên góp gạo, tiền ủng hộ công nhân Trường Thi. Sau 15 ngày, bọn thống trị phải thả đồng chí Hà Huy Giáp và bốn đại biểu của công nhân nhà máy. Thừa thắng, công nhân đưa thêm yêu sách không được sa thải những người tham gia bãi công. Lúc đó, Đinh Văn Di gặp đồng chí Hà Huy Giáp nói: cuộc bãi công đã kẻo dài nhưng chưa giành được thắng lợi, đảng bộ phải quyết định rải truyền đơn cảnh cáo, đe doạ bọn thống trị nếu không giải quyết yêu sách của công nhân thì sẽ nổ ra những cuộc đấu tranh đẫm máu như hồi 1930-1931. Nhưng đồng chí Hà Huy Giáp không tán thành và khuyên Đinh Văn Di nên lãnh đạo quần chúng đấu tranh dưới hình thức công khai hợp pháp theo đúng chủ trương chung của Đảng trong thời kỳ này. Sau đó, ngày 1-8, bọn phá hoại vẫn rải truyền đơn kích động quần chúng và hăm doạ bọn thống trị. Vì thế các đồng chí Hà Huy Giáp, Trần Danh Tuyên và các đại biểu của công nhân lại bị bắt lần nữa.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, công nhân Nhà máy Trường Thi vẫn tiếp tục bãi công. Công nhân đường sắt ở Đà Nẵng, Nha Trang, Tháp Chàm, Dĩ An, Sài Gòn... cũng vẫn tiếp tục bãi công, làm cho tuyến đường sắt Nam Đông Dương bị tê liệt. Bị động, bọn thống trị thực dân phải dùng công nhân người Pháp lái tàu đẩy toa, móc toa, bẻ ghi; huy động cảnh sát đến bến đập than, bốc dỡ; nhưng chúng không phá được cuộc bãi công. Số chuyến xe lửa bị giảm, hàng hoá ứ đọng tại các ga, thực phẩm bị ôi thối, nhiều xí nghiệp phải ngừng sản xuất.
Dù vậy, bọn thống trị thực dân vẫn ra tay đàn áp bắt tiếp những cán bộ chỉ đạo đấu tranh cùng với hàng trăm công nhân trên tuyến đường sắt từ Trường Thi đến Sài Gòn.
Ngày 6-8, công nhân tuyến đường sắt miền Nam Đông Dương kết thúc bãi công sau 26 ngày đấu tranh; ngày 12-8-1937, công nhân Trường Thi cũng ngừng bãi công sau 39 ngày.
Mặc dù một số cán bộ và công nhân bị bắt, nhưng cuộc bãi công của công nhân đường sắt đã có tác dụng cổ vũ lớn đối với phong trào công nhân Việt Nam và Đông Dương trong thời kỳ vận động Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử của Đảng bộ Nghệ Tĩnh,Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981.
NGÀY 12-8
Nông dân huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ
Được tin Thống sứ Bắc Kỳ Saten (Chatel), trong chuyến đi kinh lý Phú Thọ, Vĩnh Yên, ghé vào huyện lỵ Vĩnh Tường, tổ chức Đảng Vĩnh Tường huy động nhân dân biểu tình, gặp Saten đưa yêu sách đòi tự do, dân chủ.
Sáng ngày 12-8, đoàn biểu tình trên 300 người tiến về huyện lỵ, mang theo khẩu hiệu "Tự do, cơm áo, hoà bình", “Tự do nghiệp đoàn"...Trước tình hình đó, bọn thống trị địa phương cho lính ra cản đường, bắt đoàn biểu tình phải giải tán nhưng đoàn người vẫn tiến vào huyện đường.
Trước khí thế mạnh mẽ của quần chúng, Thống sứ Saten buộc phải tiếp đại biểu của đoàn biểu tình, nhận hai bản nguyện vọng một của tù chính trị và một của dân cày và hứa sẽ xem xét giải quyết như:
Nguyện vọng của chính trị phạm:
- Bãi bỏ quản thúc, tự do đi lại.
- Cơm ăn, việc làm đầy đủ cho các chính trị phạm, giúp đỡ gia đình những người tù thiệt mạng trong lao.
- Toàn xá tù chính trị.
Nguyện vọng của dân cày:
- Mở rộng hợp tác xã làm ruộng cho dân nghèo có cơm ăn, việc làm.
- Phải bỏ việc lấy phu canh, nếu bắt phu canh phải cho lương ăn.
- Phổ thông đầu phiếu.
- Ban bố nghiệp đoàn, v.v..
Cuộc đấu tranh của nông dân Vĩnh Tường có tác dụng cổ vũ nông dân các huyện trong tỉnh đấu tranh đòi tự do, dân chủ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
NGÀY 15-8
Thông cáo của Xứ uỷ Nam Kỳ
Ngày 15-8, Ban lãnh đạo Đảng bộ Nam Kỳ ra thông cáo gửi các cấp bộ Đảng Nam Kỳ về những nhiệm vụ cấp thiết.
- Giáo dục cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ trong cấp uỷ Đảng các cấp về đường lối cách mạng của Đảng trong giai đoạn hiện tại.
- Đồng chí Bí thư và tiểu ban tuyên truyền các cấp có trách nhiệm nắm vững và tăng cường giáo dục cán bộ đảng viên cấp mình về sách lược mới của Đảng trong tình hình hiện tại, để đảng viên nắm vững và thi hành.
- Mỗi đảng viên có trách nhiệm hiểu rõ nhiệm vụ của mình và thi hành các nghị quyết của Đảng trong thời hạn đã định.
- Giáo dục các đảng viên dự bị, các quần chúng cảm tình Đảng và hội viên các tổ chức quần chúng về đường lối chính sách của Đảng, nâng cao sự giác ngộ và thúc đẩy họ hăng hái đấu tranh.
- Vận dụng những hình thức tổ chức mới của Đảng tuỳ theo hoàn cảnh, tâm lý và trình độ của quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, thanh niên và các giai cấp khác trong xã hội để tổ chức những Hội tương trợ, Hội ái hữu, Hội phụ nữ... tranh thủ quảng đại quần chúng.
- Tiếp tục kết nạp đảng viên, tăng cường thành phần phụ nữ trong các cơ quan lãnh đạo.
- Tổ chức các Liên hiệp Công hội tỉnh, tiến lên thành lập Tổng Công hội Nam Kỳ. Công việc này phải hoàn tất trong thời hạn một tháng.
- Tổ chức Hội Giải phóng phụ nữ ở Nam Kỳ và Thanh niên Phản đế Nam Kỳ.
- Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, xây dựng chi bộ Đảng trong các xí nghiệp và biến các xí nghiệp thành "pháo đài” của Đảng.
- Kêu gọi công nhân lao động đấu tranh, đòi tăng tiền công, giảm giờ làm, áp dụng luật công nhân, thúc đẩy nông dân đòi xoá bỏ thuế thuốc lá, thuế thân...
- Các tổ chức miền và các Liên Tỉnh uỷ phải mở rộng ảnh hưởng và hoạt động của mình sang các địa phương lân cận.
- Các tỉnh miền Đông như Biên Hoà, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, nơi tập trung nhiều công nhân đồn điền cao su, Đảng phải cử cán bộ thâm nhập, xây dựng cơ sở Đảng và phát động phong trào trong công nhân đồn điền.
Đồng thời, Thông cáo chỉ rõ: các đảng viên phải nâng cao tinh thần tự phê bình. Nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi đảng viên, nhất là các đồng chí uỷ viên các cấp uỷ Đảng là phải tuân thủ kỷ luật, quán triệt đường lối, nghị quyết của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 248-252.
TỪ NGÀY 25-8 ĐẾN NGÀY 4-9
Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Từ ngày 25-8 đến ngày 4-9-1937, tại xã Tân Thời Nhứt - Bà Điểm - Hóc Môn - Gia Định, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng. Tham dự Hội nghị gồm có các đồng chí: Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Hạ Bá Cang, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Thị Minh Khai... do Hà Huy Tập chủ trì.
Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nêu lên những thành tích trong công tác Đảng. Trong thời gian từ năm 1935 đến tháng 8-1937, Đảng đã khôi phục hệ thống tổ chức ở Trung, Nam, Bắc; Đảng đã trở nên một đoàn thể thống nhất về tổ chức và về phương diện chính trị. Tuy ở một vài nơi cơ sở Đảng chưa khôi phục xong, nhưng thế lực của Đảng đã ảnh hưởng rất lớn. Nhiều tỉnh, Đảng đã lập được nhiều Đảng bộ mới. Con đường chính trị của Đảng là đúng, chính sách lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Đông Dương ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp lan rộng trong quần chúng; ảnh hưởng của Đảng phát triển nhanh chóng. Đồng thời, Đảng cũng mắc phải một số khuyết điểm: "tả khuynh”, cô độc, hẹp hòi và hữu khuynh, thoả hiệp với các phần tử Tờrốtkít.
Hội nghị đề ra các nhiệm vụ cần kíp của Đảng:
Về nội bộ, phải mở rộng và củng cố các đảng bộ đã có, khôi phục cơ sở cũ của Đảng ở Lào, Cao Miên, thống nhất các Đảng bộ ở Trung Kỳ, cần mật thiết chỉ đạo các Đảng bộ người Trung Quốc, tập trung lực lượng của Đảng ở thành thị, các trung tâm công nghiệp và các vùng kinh tế chính trị quan trọng.
Về đào tạo cán bộ, xét thấy vấn đề cán bộ có tầm quan trọng quyết định trong việc thi hành các chính sách mới của Đản.g Hội nghị quyết định Trung ương và các xứ phải nhanh chóng mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, giúp họ hiểu đường lối chính trị và tổ chức mới của Đảng.
Về tổ chức quần chúng, Hội nghị quyết định thủ tiêu lối hoạt động bí mật của các tổ chức quần chúng, tổ chức các hình thức quần chúng hoàn toàn công khai và bán công khai, tuỳ theo hoàn cảnh và trình độ của quần chúng mà tổ chức các Hội ái hữu, tương tế, hợp tác xã, dân chủ, văn hoá, thể thao, âm nhạc.
Hội nghị còn đề ra những hình thức vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ và cứu tế bình dân.
Về tranh đấu chống các xu hướng sai lầm, Hội nghị nêu rõ: Đảng phải luôn luôn đi đúng chủ nghĩa Mác- Lênin, theo đúng nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản và phải Bônsơvích hoá; chống "tả khuynh” cô độc và chống hữu khuynh thoả hiệp. Hội nghị nhấn mạnh: "Trong cuộc vận động dân chúng, chủ nghĩa Tờrốtxky là nguy hiểm nhất", không triệt để chống chủ nghĩa Tờrốtxky sẽ khó xây dựng được Mặt trận Nhân dân thống nhất Đông Dương và ủng hộ Mặt trận nhân dân thế giới chống phát xít và đế quốc chiến tranh.
Về Mặt trận Nhân dân thống nhất Đông Dương, Đảng chủ trương, một mặt ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, mặt khác, đấu tranh để thực hiện Mặt trận Nhân dân thống nhất Đông Dương.
Các Đảng bộ phải bắt đầu thực hiện các hình thức liên hiệp hành động ở từng ngành, từng địa phương cho đến toàn Đông Dương, theo một bản chương trình hành động tối thiểu chung.
Về chống phát xít và chống đế quốc chiến tranh: Hội nghị nhận định rằng cuộc vận động đòi các quyền lợi trước mắt của nhân dân Đông Dương phải liên hệ chặt chẽ với phong trào chống phát xít và chống đế quốc chiến tranh trên thế giới. Phải cùng những người Pháp cấp tiến tổ chức ra những hội chống phát xít, chống chiến tranh, ủng hộ hoà bình. Hội nghị uỷ quyền cho Ban Thường vụ Trung ương Đảng xuất bản một cuốn sách để giải thích cho nhân dân và binh lính hiểu nạn phát xít, chiến tranh và bày tỏ thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với các thứ chiến tranh, nhất là đối với cuộc chiến tranh do đế quốc phát xít gây ra.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 263-298.
THÁNG 8
Bức thư công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho mặt trận Nhân dân Pháp, cho Chính phủ Sôtăng Bơlum, cho Mutê -Thượng thư thuộc địa và cho Bơrêviê - Toàn quyền Đông Dương
Đầu năm 1936, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập gồm Đảng Cộng sản, Đảng Cấp tiến và giành thắng lợi trong cuộc bầu cử, Chính phủ Lêông Bơlum lên nắm quyền, Đảng Cộng sản Đông Dương đã gửi thư cho Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ những cải cách tiến bộ của Chính phủ và xin thực hành các quyền tự do dân chủ cho toàn xứ Đông Dương. Tháng 8-1937, Đảng Cộng sản Đông Dương một lần nữa lại gửi thư công khai cho Mặt trận Nhân dân Pháp, cho Chính phủ Sôtăng Bơlum (Chautemps Blum), cho Mutê (Moutet)- Thượng thư thuộc địa và Bơrêviê (Brévié) - Toàn quyền Đông Dương biểu thị thái độ của mình trước sau vẫn ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ những cải cách tiến bộ của Chính phủ Pháp đồng thời nêu lên một số yêu cầu cải cách cho nhân dân Đông Dương.
Những quyền tự do dân chủ mà Đảng Cộng sản Đông Dương yêu cầu là:
1. Tự do ngôn luận, xuất bản, tư tưởng;
2. Tự do tổ chức, hội họp, bãi công, thị uy, biểu tình;
3. Tự do đi lại trong xứ và ngoài xứ;
4. Tổng ân xá chính trị phạm từ trước tới nay.
5. Thải hồi những phần tử quan liêu phản động ra khỏi bộ máy cai trị của chính quyền thực dân - phong kiến ở Đông Dương.
6. Lập Mặt trận Dân chủ ở Đông Dương .
Đảng Cộng sản Đông Dương cho rằng điều kiện cần thiết để bảo đảm thi hành các quyền tự do dân chủ là Đảng Cộng sản Đông Dương và chính đảng khác có xu hướng dân chủ phải được công khai tồn tại để bênh vực quyền lợi cho nhân dân.
Phần cuối bức thư nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Đông Dương là người trung thành với khoa học chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không những muốn liên hiệp với nhân dân tiên tiến ở Pháp mà còn muốn liên hiệp với hết thảy các dân tộc trên thế giới chân thật lấy bình đẳng đối đãi với nhân dân Đông Dương”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. t. 6, tr. 253-262.
TỪ THÁNG 8 ĐẾN THÁNG 10
Cuộc vận động đưa yêu sách lên Viện Dân biểu Trung Kỳ
Năm 1937, tại Quảng Trị diễn ra cuộc bầu cử đại biểu Viện Dân biểu Trung Kỳ. Chính quyền thống trị địa phương âm mưu đưa tay sai của chúng vào, nên Tỉnh uỷ Quảng Trị chủ trương hướng dẫn quần chúng bầu những người tiến bộ.
Phan Triệu Khanh và Trần Đăng Hiến - hai ứng cử viên được quần chúng tập trung phiếu bầu đã đắc cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ khoá III, tháng 8-1937.
Sau cuộc bầu cử, ngày 8-8-1937, Tỉnh uỷ Quảng Trị chỉ thị cho các đảng bộ vận động quần chúng thảo bản nguyện vọng, sau đó tổ chức biểu tình đưa yêu sách đến các dân biểu Phan Triệu Khanh, Trần Đăng Hiến, chào mừng hai ông đắc cử đồng thời đề nghị hai ông chuyển yêu sách lên Viện Dân biểu.
Ngày 28-9-1937, 2000 quần chúng Vĩnh Linh biểu tình kéo đến nhà Trần Đăng Hiến tại chợ Cầu (Gio Linh), yêu cầu ông chuyển bản nguyện vọng lên Viện Dân biểu Trung Kỳ và Chính phủ.
Ngày 2-10-1937, hơn 3.000 quần chúng Cam Lộ và GioLinh kéo đến nhà Trần Đăng Hiến với yêu sách như trên. Đảng bộ còn cho đăng báoSông Hương bức thư công khai, gửi cho dân biểu Phan Triệu Khanh, tỏ rõ lập trường và ý nguyện của quần chúng nông dân trong tỉnh.
Ngày 6-10, Phủ uỷ Triệu Phong huy động khoảng 5.000 người chia làm bốn cánh kéo đến làng Giáo Liêm đưa yêu sách cho dân biểu Khanh. Được tin này Tri phủ Triệu Phong báo cho Công sứ, tuần phủ biết. Chúng điều phó sứ và lãnh binh đưa lính về đàn áp. Kết quả ba trong bốn cánh bị chúng chặn lại, chỉ có cánh Ngô Xá, Linh Yên, chợ Cạn, tập trung khoảng 600 người gặp được dân biểu Khanh và ông này buộc phải nhận yêu sách và gặp ông Hồ Thâm đại biểu quần chúng để làm việc.
Sau cuộc đấu tranh nhà cầm quyền địa phương rất hoảng sợ, chúng ra tay bắt bớ hăm doạ những người biểu tình, chúng bắt và kết án 8 người trong đó có đồng chí Hồ Thâm và đồng chí Nguyễn Quang Duân.
Song, do áp lực của quần chúng và báo chí, dân biểu Phan Triệu Khanh phải lên tiếng trước Viện Dân biểu vào phiên họp tháng 11. Ông phản đối nhà cầm quyền kết án những cựu chính trị phạm: “Nếu Nhà nước không ân xá cho mấy người bị án thì tôi xin từ chức dân biểu để tạ cái lòng tín nhiệm của dân chúng đối với tôi, chứ không nỡ lòng nào ngồi yên để những người tín nhiệm mình vì mình mà phải chịu bị trừng phạt" .
- Quảng Trị - 60 năm những chặng đường, Sở Văn hoá thông tin Quảng Trị xuất bản, 1990, tr. 41.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng trị (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, t. I.
NGÀY 10-9
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản
Sau khi họp Hội nghị toàn thể, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã gửi báo cáo cho Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản về các vấn đề Đảng, tổ chức quần chúng và các vấn đề khác.
Về tình hình Đảng, ngày 12-l0-1936, Ban Chấp hành Trung ương đã được tổ chức tại Nam Kỳ và cử thành viên trong Ban đi khôi phục liên lạc ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cao Miên. Vào lúc tổ chức Ban Chấp hành Trung ương, Nam Kỳ có 120 đảng viên. Đến tháng 9-1937, số lượng đảng viên ở Nam Kỳ là 590, Trung Kỳ là 218, Bắc Kỳ là 117 (tổng số là 925 đảng viên), đó đều là những đảng viên bất hợp pháp. Về hệ thống tổ chức, Nam Kỳ có 20 tỉnh thì l5 tỉnh có tổ chức, Trung Kỳ có 15 tỉnh thì 8 tỉnh có tổ chức, Bắc Kỳ có 24 tỉnh thì đã có tổ chức ở 7 tỉnh.
Ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ có Xứ uỷ, Trung Kỳ chưa có điều kiện để tổ chức Xứ uỷ. Vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định đặt các tổ chức của Thanh, Nghệ, Tĩnh dưới sự chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ và thành lập một Uỷ ban Liên tỉnh để lãnh đạo hoạt động của các tỉnh khác. Uỷ ban này đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương; Ban Chấp hành Trung ương lúc này gồm 11 uỷ viên trong đó có 9 đồng chí trong nước và hai đồng chí ở nước ngoài. Ban Thường vụ gồm 5 uỷ viên.
Về công tác tuyên truyền, có 16 tờ báo bất hợp pháp của Đảng và của các tổ chức quần chúng.
Về các tổ chức quần chúng, ảnh hưởng của Đảng rất lớn, nhưng số người gia nhập các tổ chức của Đảng lại rất ít. Công đoàn, trong cả nước có 5070 đoàn viên; tổ chức nông dân có 9000 hội viên; phụ nữ ở Nam Kỳ có 945 hội viên, Nghệ An 75 hội viên, tổ chức thanh niên ở Nam Kỳ có 250 đoàn viên, Nghệ An 25 đoàn viên.
Vấn đề tổ chức quần chúng, Ban Chấp hành Trung ương quyết định rằng ở đâu mà thiếu các điều kiện hợp pháp và bán hợp pháp, thì có thể tạm thời dùng các phương pháp bất hợp pháp.
Vấn đề thống nhất tác phong trào quần chúng, Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải thống nhất các phong trào quần chúng. Việc giải thể Thanh niên Cộng sản Đoàn, giữa Ban Chỉ huy ở ngoài và Ban Chấp hành Trung ương chưa thống nhất ý kiến .
Đối với phong trào quần chúng, thái độ của Đảng rất rõ ràng, ngay sau khi Uỷ ban lâm thời của Đại hội Đông Dương được thành lập, Đảng đã đề ra một chương trình hành động tối thiểu và công bố một tuyên ngôn kêu gọi các nhóm và các đảng khác tham gia phong trào. Vì vậy, phong trào Đại hội chịu ảnh hưởng rất lớn của Đảng, 600 Uỷ ban hành động ở Nam Kỳ đều do Đảng tổ chức và lãnh đạo. Nhưng, cuối cùng phong trào Đại hội đã thất bại vì bị đế quốc đàn áp, “tả khuynh” và không nhận được sự cổ vũ của Mặt trận Nhân dân Pháp.
Phần cuối báo cáo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương yêucầu Quốc tế Cộng sản giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương một số vấn đề:
1. Yêu cầu Quốc tế Cộng sản lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương chặt chẽ và trực tiếp hơn.
2. Yêu cầu Quốc tế Cộng sản cấp cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương mỗi tháng 500 đô la Mỹ.
3. Yêu cầu Quốc tế Cộng sản cung cấp những thông tin về Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Trung Quốc.
4. Yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp gửi cho Đảng Cộng sản Đông Dương một số đồng chí để tổ chức Phân bộ của Đảng Cộng sản Pháp.
5. Yêu cầu Quốc tế Cộng sản gửi 5.000 đôla để xuất bản báo chí và sách hợp pháp.
6. Đảng Cộng sản Đông Dương đề nghị Quốc tế Cộng sản được tự lựa chọn sinh viên đi học tập ở nước ngoài.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 299-314.
NGÀY 15-10
Thông báo cửa Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương về việc sưu tập dân nguyện
Qua đường báo chí, Chính phủ Nam Kỳ đã yêu cầu dân chúng gửi những nguyện vọng và yêu cầu của mình đến Chính phủ trước ngày 15-11-1937 để chuyển cho Ban Điều tra.
Nhận định đây là một cơ hội đẩy mạnh phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Ban Chấp hành Trung ương quyết định các cấp bộ Đảng phải thi hành các chương trình sau:
1. Các Uỷ ban sưu tập dân nguyện phải tiếp tục hoạt động trở lại và phải thành lập các uỷ ban này (gồm đại biểu của mọi tầng lớp, mọi giai cấp) ở những nơi chưa có. Nhiệm vụ của các uỷ ban là sưu tập nguyện vọng của tất cả các tầng lớp nhân dân.
2. Một số thành viên phải được chỉ định để tổ chức những cuộc họp công khai hay bán công khai dưới 19 người để thảo luận các nguyện vọng, lựa chọn và thảo ra những nguyện vọng ấy.
3. Sắp xếp những nguyện vọng theo hình thức tập thể, giai cấp, tầng lớp, cá nhân.
4. Mỗi nguyện vọng phải có địa chỉ, chữ ký và sao thành nhiều bản gửi tới Chính phủ để chuyển cho Ban điều tra và công bố trên báo chí.
Trung ương cũng lưu ý, trong các cuộc sưu tập nguyện vọng, cần làm cho quần chúng hiểu rằng việc thực hiện những nguyện vọng này phụ thuộc vào sự kiên trì của họ trong việc giữ vững cuộc đấu tranh. Các đảng bộ phải căn cứ vào Thông báo này để nghiên cứu tình hình và đề ra những khẩu hiệu thích hợp và chuẩn bị cho quần chúng đấu tranh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 315-316.
THÁNG 10
Báo cáo của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản về Mặt trận Nhân dân Phản đế và tình hình Đảng
Nhằm thông tin kịp thời cho Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương đã gửi báo cáo về tình hình phong trào Mặt trận Nhân dân Phản đế và thái độ của Đảng đối với phong trào đó.
Báo cáo chỉ rõ những thành tựu và sai lầm của Đảng Cộng sản Đông Dương về việc tổ chức Mặt trận Nhân dân Phản đế và nội bộ Đảng.
Từ khi có thành công của Mặt trận Nhân dân Pháp và Chính phủ Bơlum được tổ chức, ở Đông Dương, phong trào Đông Dương Đại hội đã ra đời để nêu lên một chương trình yêu sách cho tự do và giải phóng đất nước. Phong trào này được các tổ chức quần chúng, các đảng phái, các tầng lớp, các giai cấp ủng hộ, nhưng phong trào không thành công vì các nguyên nhân: chậm trễ trong việc đấu tranh chống Tờrốtkít; bị Tờrốtkít và bọn biệt phái lợi dụng; phong trào bị chia rẽ; các tổ chức quần chúng còn yếu...
Sau thất bại của phong trào Đại hội, giai cấp công nhân đấu tranh quyết liệt, đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt, các quyền tự do cho người lao động. Các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và tiểu tư sản không có tính chất thuần tuý kinh tế, mà đã gắn đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.
Báo cáo cũng nhấn mạnh, thời gian này ở Đông Dương có những điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức Mặt trận Nhân dân đòi những quyền tự do, dân chủ sơ đẳng. Việc thực hiện một Mặt trận Nhân dân Phản đế rộng rãi nằm trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa bè phái, trong vấn đề tổ chức quần chúng và trong thái độ đối với giai cấp tư sản dân tộc. Chủ nghĩa bè phái tả khuynh là nguy cơ lớn nhất đối với phong trào quần chúng.
Đường lối chính trị mới của Đảng dựa trên đường lối của Quốc tế Cộng sản. Đó là tập hợp tất cả các đảng phái, các giai cấp vào Mặt trận Nhân dân, đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ, chống bọn phản động thuộc địa, ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ những cải cách tiến bộ của Chính phủ Bơlum. Đồng thời vẫn giữ sự độc lập về tổ chức của Đảng và quyền tự do phê bình đối với các bạn đồng minh của mình và đối với Chính phủ của phái tả Pháp. Thay đổi phương pháp tổ chức quần chúng sang cách hợp pháp và bán hợp pháp. Chính sách này đã được các tổ chức của Đảng ủng hộ và áp dụng nhiệt tình. Còn tổ chức theo phương pháp mới thì không được áp dụng một cách đúng đắn. Những người biệt phái chủ trương đặt cho các tổ chức quần chúng những điều lệ và những tên gọi giống nhau, thay đổi Công hội đỏ bằng Công hội duy nhất, Nông hội đỏ bằng Nông hội duy nhất, Thanh niên Cộng sản Đoàn bằng Thanh niên Phản đế, Cứu tế đỏ thành Cứu tế nhân dân. Mặc dù đường lối chính trị là đúng, nhưng nếu phương pháp không đúng, thì công tác Đảng sẽ không tiến lên được và đường lối chính trị cũng bị tổn hại.
Vấn đế tổ chức Đại hội Đảng, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng nói rằng, triệu tập Đại hội là cần thiết, nhưng phải tổ chức khi: Đảng đã trải qua một thời gian đấu tranh và có kinh nghiệm; đã kiểm nghiệm đúng đắn tình hình tổ chức của Đảng; đã nhiều lần Đảng bị tổn thất vì các vụ bắt bớ do các cuộc hội nghị; phong trào quần chúng cần tiếp tục được thực hành nên không vội vàng họp Đại hội vì sẽ không đem lại kết quả gì và cũng do lúc này trong Ban Chấp hành Trung ương đang còn chủ nghĩa biệt phái.
Báo cáo nêu lên những kết quả công tác của Đảng từ một năm trở lại đây. Từ sau Hội nghị ngày 27-7-1936, Đảng bắt đầu chuyển hướng phát triển trong quần chúng. Trước hết, Đảng tích cực thực hành chính sách mới ở Nam Kỳ. Đến tháng 7-1937, Đảng đã thống nhất tất cả các tổ chức của mình ở trong nước. Công tác bất hợp pháp ở các vùng gắn bó với công tác hợp pháp. Đường lối mới của Đảng được áp dụng và Đảng tổ chức được nhiều phong trào lớn như: cuộc “đón tiếp" Gôđa và Bơrêviê, cuộc biểu tình 1-5ởSài Gòn,... Hiện thời, Đảng chuẩn bị tham gia các cuộc bầu cử ở Trung Kỳ, Đảng có những tờ báo hợp pháp: L Avant garde, Le Peuple bằng tiếng Pháp ở Sài Gòn và xuất bản hàng chục cuốn sách hợp pháp để tuyên truyền. Đảng đã lãnh đạo những cuộc đấu tranh lớn của công nhân, nông dân, học sinh đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt, đòi tự do dân chủ sơ đẳng, chống chủ nghĩa Tờrốtxky. Đảng củng cố và phát triển tổ chức của mình và lập lại các mối liên lạc trước đây bị gián đoạn. Ảnh hưởng của Đảng ngày càng phát triển trong quần chúng. Nhờ tinh thần tận tuỵ của các đảng viên trong công tác tổ chức, tuyên truyền, cổ động hợp pháp, Đảng đã thu được những kết quả chưa từng có ởĐông Dương.
Về mặt công tác tổ chức, chủ nghĩa biệt phái vẫn còn khá mạnh, cản trở không ít công tác của Đảng, tổ chức hợp pháp của quần chúng cũng như tổ chức bất hợp pháp của Đảng không theo kịp phong trào quần chúng. Vì vậy nhiệm vụ cấp bách của Đảng là đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa biệt phái tả khuynh, lãnh đạo đảng viên áp dụng đường lối mới của Đảng về phương diện sách lược cũng như về phương diện hình thức tổ chức để thực hiện Mặt trận Nhân dân chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ; sử dụng những hình thức hợp pháp và gắn các hình thức hợp pháp với các hình thức bất hợp pháp để tổ chức quần chúng, sử dụng lực lượng quần chúng đấu tranh cho sự hợp pháp của Đảng.
Đồng thời, củng cố và thống nhất các cơ quan lãnh đạo của Đảng theo đường lối Bônsơvích của Quốc tế Cộng sản, đào tạo cán bộ mới để thực thi nhiệm vụ mới, làm hết khả năng để phát triển hoạt động hợp pháp và để phát triển phong trào hợp pháp, củng cố tổ chức bất hợp pháp của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 317-338.
CUỐI NĂM 1937
Ban Cán sự Liên tỉnh Trung Trung Bộ ra đời
Khoảng cuối năm 1937, tại bãi biển Quy Nhơn, Hội nghị đại biểu các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đã họp do đồng chí Bùi San -thay mặt Xứ uỷ Trung Kỳ chủ trì nhằm thành lập Ban Cán sự liên tỉnh Trung Trung Bộ.
Về phương hướng công tác sắp tới của các Đảng bộ tỉnh, Hội nghị quyết định: đẩy mạnh hơn nữa công tác phát triển thực lực cách mạng nhất là các hội công khai, biến tướng... tập hợp thật rộng rãi các tầng lớp quần chúng; kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động nửa hợp pháp, bất hợp pháp với các hoạt động công khai, hợp pháp; xúc tiến các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ.
Hội nghị quyết định thành lập Ban Cán sự liên tỉnh Trung Trung Bộ gồm năm đồng chí do đồng chí Nguyễn Trí làm Bí thư.
Cuối năm 1939, đồng chí Nguyễn Chánh thay đồng chí Nguyễn Trí làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Văn, Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời Bình Định được giới thiệu tham gia Ban cán sự liên tỉnh. Ban Cán sự liên tỉnh đóng tại Hiệu may Tiến Hoá, đường Khải Định (nay là đường Lê Lợi). Đây vừa là cơ quan liên lạc, vừa là nơi cung cấp tài chính cho hoạt động của Ban Cán sự liên tỉnh.
Ban Cán sự liên tỉnh đã có những đóng góp quan trọng vào phong trào cách mạng của các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
- Bản Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2005.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t. 1.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945), Phú Yên, 1999.
CUỐI NĂM 1937
Thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Hà Tĩnh
Sau cuộc đón tiếp phái đoàn Mặt trận Nhân dân Pháp tại thành phố Vinh, đại biểu các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Hương Khê, Thạch Hà, Kỳ Anh, Cẩm Xuyên đã mở hội nghị cử ra Uỷ ban Hành động của Hà Tĩnh để thống nhất lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh.
Đến cuối năm 1937, Ủy ban Hành động bắt được liên lạc với Đảng bộ Nghệ An và thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Hà Tĩnh. Để tuyên quyền chủ trương mới của Đảng, nâng cao giác ngộ cách mạng cho cán bộ đảng viên và làm nơi liên lạc cho Tỉnh bộ lâm thời, hiệu sách Liên thanh thư quán được lập ra tại thị xã Hà Tĩnh. Hiệu sách này hoạt động rất tích cực. Đây là nơi tiếp thu, phân phát sách báo tài liệu của Đảng. Các cuốn sách như Vấn đề dân cày, các báo Tin tức, Nhành lúa, Lao động, Dân chúng được phát hành rộng rãi. Mỗi ngày có hàng chục cán bộ, đảng viên, thanh niên, học sinh đến Liên thành thư quán đọc sách, báo mở mang kiến thức, tiếp cận với thời cuộc. Liên thành thư quán là cơ quan công khai của Đảng bộ để liên lạc với Liên Tỉnh uỷ và các cấp bộ đảng ở địa phương.
Sau khi Tỉnh uỷ lâm thời được thành lập, Huyện uỷ lâm thời các huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê được tổ chức, huyện Kỳ Anh xây dựng được Ban Cán sự Đảng, các chi bộ Đảng lần lượt xây dựng ở các địa phương trong tỉnh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.1.
CUỐI NĂM 1937- NĂM 1938
Thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Bình Định
Sự phát triển của phong trào toàn tỉnh, nhất là phong trào các huyện phía Nam đòi hỏi sự lãnh đạo thống nhất và kịp thời hơn nữa của Đảng bộ.
Đáp ứng tình hình đó, cuối năm 1937, đồng chí Nguyễn Trí, người phụ trách phong trào các tỉnh Trung Trung Bộ đã chọn một số cán bộ lãnh đạo của Đảng bộ Hồng Lĩnh đưa vào Ban Tỉnh uỷ lâm thời Bình Định gồm các đồng chí Nguyễn Văn, Huỳnh Đăng Chi, Nguyễn Thành Mẫn và chỉ định đồng chí Nguyễn Văn làm Bí thư. Sau đó, đồng chí Nguyễn Văn được Đảng bộ Bình Định giới thiệu tham gia Ban Cán sự liên tỉnh Trung Trung Bộ (Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên).
Cuối năm 1938, sau khi thành lập Chi bộ Quy Nhơn và phong trào toàn tỉnh có bước tiến bộ, Ban cán sự liên tỉnh chủ trương củng cố Ban Tỉnh uỷ lâm thời Bình Định. Tỉnh uỷ lâm thời Bình Định lúc này gồm các đồng chí: Trần Lung, Trần Tín và Nguyễn Văn, do đồng chí Trần Lung làm Bí thư. Tỉnh uỷ phân công đồng chí Nguyễn Minh Vỹ phụ trách công tác vận động công khai hợp pháp trong trí thức, viên chức, học sinh của thành phố Quê Nhơn.
Tỉnh uỷ lâm thời Bình Định thành lập, tuy hoạt động còn hạn chế trong khu vực phía Nam, nhưng đã đáp ứng kịp thời yêu cầu thống nhất chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương. Mặt khác, nó đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng bộ và phong trào cách mạng của tỉnh Bình Định trong những năm 1937-1939.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t. I.
CUỐI NĂM 1937
Đảng bộ Thanh Hoá được công nhận là một bộ phận chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương
Cuối năm 1937, Ban Chấp hành Đảng bộ Thanh Hoá triệu tập Hội nghị mở rộng nhằm đánh giá tình hình hoạt động của Đảng bộ trong năm qua, đồng thời đề ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt tiếp tục thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng lên bước cao hơn.
Hội nghị đề ra các nhiệm vụ quốc tế và trong nước. Đặc biệt về nhiệm vụ trong nước, Hội nghị chủ trương xây dựng và đẩy mạnh hoạt động của Mặt trận Nhân dân thống nhất Đông Dương tại địa phương nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân chủ tiến bộ, chống kẻ thù trước mắt, đòi quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình.
Cũng tại Hội nghị này Đảng bộ Thanh Hoá được đại diện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng công nhận là một phân bộ chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương, trực thuộc sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ uỷ Trung Kỳ. Mặc dù sự công nhận này là chậm, nhưng đó là sự cổ vũ lớn đối với Đảng bộ, chứng tỏ Đảng bộ Thanh Hoá đã trưởng thành về nhiều mặt.
Sau Hội nghị, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ rộng khắp trở thành một cao trào cách mạng thực sự, thu hút mọi giai cấp mọi tầng lớp tham gia dưới nhiều hình thức phong phú, sinh động.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
TRONG NĂM
Phong trào đấu tranh của nông dân
Cùng với các cuộc đấu tranh của công nhân, trong năm 1937, giai cấp nông dân đã vùng dậy đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau.
Theo thống kê bước đầu, năm 1937 có 250 cuộc đấu tranh của nông dân. Tiêu biểu cho phong trào đấu tranh của nông dân lúc đó là các cuộc đấu tranh của 100 nông dân Long Hưng (13-4-1937); cuộc dđu tranh của 400 nông dân Tân Thới Thượng (24-4-1937); cuộc đấu tranh của 1000 nông dân Tam Hiệp, Chợ Dương (ngày 18-5-1937)...
Tiếp đó là cuộc đấu tranh của 300 nông dân Đại Mỗ, Tây Mỗ, Ỷ La, La Phù, La Khê (14-6-1937); cuộc đấu tranh của nông dân Yên Lãng, Đình Xuyên, Ứng Hoà thuộc Hà Đông (6~937); các cuộc đấu tranh của nông dân Lạc Thổ, Ngọc Nội, Lĩnh Mai (17-6-1937) thuộc Bắc Ninh.
Các cuộc đấu tranh của nông dân La Khê, Làng Cao, Nhân Lý thuộc Sơn Tây; cuộc đấu tranh của nông dân làng Bích Đại (Vĩnh Tường); cuộc đấu tranh của nông dân Giao Thuỷ (Nam Định); cuộc đấu tranh của 1000 nông dân Đức Hoà (Nam Bộ); cuộc đấu tranh của nông dân Bình Định, Cà Mau... đã gây được tiếng vang lớn.
Nhìn chung, nông dân đấu tranh dưới các hình thức khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu chống việc địa chủ cướp ruộng, đòi chia lại công điền, đòi giảm tô, khất thuế, giảm thuế thân, chống bọn hào lý tham nhũng. Ngoài những yêu sáchvề kinh tế, còn có những yêu sách về chính trị, như yêu cầu thả hết tù chính trị, ủng hộ các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Các cuộc đấu tranh, dù ít dù nhiều đã đạt được những kết quả nhất định, buộc địa chủ phải nhượng bộ nông dân một số yêu sách cụ thể.
Các cuộc đấu tranh của công nhân cũng như nông dân trong năm 1937 thể hiện truyền thống đấu tranh của nhân dân chống chế độ thực dân, phong kiến, góp phần tạo nên cao trào cách mạng dân chủ 1936-1939 sôi nổi mạnh mẽ.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.112-116.
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Bình Định, Cà Mau, Nam Định, Hà Tây, Vĩnh Phúc...
TRONG NĂM
Cuộc đấu tranh đòi lập Nghiệp đoàn Báo giới Bắc Kỳ
Trong năm 1937, Xứ uỷ Bắc Kỳ và Thành uỷ Hà Nội chủ trương vận động lập Nghiệp đoàn Báo giới Bắc Kỳ. Để tiến tới việc lập nghiệp đoàn, chi bộ báo chí vận động tổ chức hai cuộc Hội nghị Báo giới.
Lần thứ nhất: 7 giờ 30 sáng ngày 24-4-1937, tại một nhà thờ họ ở phố Vải Thâm5, 200 người viết báo ở Hà Nôi đã họp. Hội nghị ra kiến nghị gửi tới Chính phủ Pháp đòi tự do báo chí đòi áp dụng Luật 1881 (luật làm báo ngày 29-7-1881 quy định người làm báo được hoạt động rộng rãi trong nghề nghiệp của mình).
Lần thứ hai: 8 giờ 30 tối ngày 9-6-1937, Hội nghị Báo giới được tổ chức tại gác hội quán thể dục (gần câu lạc bộ quốc tế hiện nay) gồm 137 người dự, trong đó có các đồng chí Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Khuất Duy Tiến... Hội nghị bàn việc thành lập Nghiệp đoàn Báo giới và bầu Ban trị sự.
Trong Hội nghị lần thứ hai, tiếng nói của nhóm đại biểu cộng sản đã có ảnh hưởng rất lớn, đại biểu của ta đưa ra đã trúng cử vào Ban trị sự, làm Chủ tịch Hội Báo giới Bắc Kỳ. Bọn nhà báo tay sai không trúng cử ghế Chủ tịch đã tuyên bố rút khỏi Ban trị sự và lôi kéo thêm một vài tờ báo còn do dự.
Cuộc vận động báo giới không thành do bị bọn địch phá hoại, nhưng những cuộc hội nghị đó có tiếng vang trong nhân dân nhất là giới trí thức. Qua cuộc vận động này, Đảng Cộng sản Đông Dương rút ra được một số kinh nghiệm về vận động đấu tranh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004, tr. 76.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t.1.
CUỐI NĂM
Thành lập Liên Xứ uỷ Bắc Kỳ -Trung Kỳ
Sau một thời gian bị khủng bố, phong trào cách mạng dần dần hồi phục. Năm 1937, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng các đồng chí Trần Quý Kiên, Nguyễn Văn Minh bàn cách khôi phục Xứ uỷ Bắc Kỳ. Uỷ ban hành động làm nhiệm vụ khôi phục lại cơ sở cách mạng, củng cố tổ chức Đảng ở miền Bắc và liên lạc với các đồng chí cũ ở nhà tù về được thành lập ở Hà Nội. Uỷ ban hành động trên thực tế làm nhiệm vụ của Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Sau khi dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (từ ngày 2~8 đến ngày 4-9-1937), theo sự phân công của Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ chỉ đạo phong trào cách mạng ngoài Bắc. Đồng chí bắt tay ngay vào việc thành lập Liên Xứ uỷ Bắc Kỳ - Trung Kỳ (bao gồm các tỉnh Bắc Kỳ và ba tỉnh Trung Kỳ: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh).
Cuối năm 1937, Hội nghị thành lập Liên Xứ uỷ Bắc Kỳ - Trung Kỳ khai mạc tại một ngôi nhà của đồng chí Tô Hiệu thuê ở phố Hàng Bột (Hà Nội). Hội nghị gồm có các đồng chí Tô Hiệu, Nguyễn Văn Minh, Đặng Việt Châu, Nguyễn Công Hoà. .. đại diện cho các tỉnh, thành ở miền Bắc và các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh ở miền Trung. Hội nghị làm việc được một ngày thì chuyển sang địa điểm khác vì có nguy cơ bị lộ.
Hội nghị đề ra nhiệm vụ khôi phục và phát triển hệ thống tổ chức của Đảng từ Xứ uỷ đếncác địa phương, đề ra biện pháp đấu tranh và các hình thức hoạt động động khai nửa công khai của Đảng. Tại Hội nghị, Ban Xứ uỷ Bắc Kỳ và Trung Kỳ được bầu ra gồm các đồng chí Thiết (Hoàng Văn Nõn tức Tú Hưu), Nguyễn Văn Minh, Tô Hiệu do đồng chí Thiết làm Bí thư.
Đến đầu năm 1938, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh không thuộc Liên Xứ uỷ Bắc - Trung Kỳ nữa. Trung Kỳ lập Xứ uỷ riêng trong đó có ba tỉnh trên.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TRONG NĂM
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ định đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư Xứ uỷ Nan Kỳ
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xử uỷ Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Ngân làm Bí thư, phong trào Đông Dương Đại hội phát triển sôi nổi mạnh mẽ khắp Nam Kỳ với 600 Uỷ ban hành động được thành lập. Những cuộc bãi công liên tiếp, dài ngày của công nhân Nam Kỳ nổ ra với quy mô và số lượng lớn có 5-6 vạn người tham gia.
Giữa lúc phong vào cách mạng đang phát triển, đồng chí Võ Văn Ngân lâm bệnh nặng sau nhưng tháng năm bị địch giam cầm, tra tấn. Trước tình hình đó, Trung ương chỉ định đồng chí Võ Văn Tần giữ cương vị Bí thư Xứ uỷ, đồng thời bổ sung đồng chí Võ Văn Tần vào Trung ương.
Trong thời gian này, đồng chí Võ Văn Tần làm việc trực tiếp với đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, nên có điều kiện thuận lợi để tiếp thu lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.Đồng chí Võ Văn Tần trực tiếp xuống các tỉnh miền Đông, miền Tây để xây dựng và tổ chức lực lượng, lãnh đạo việc thành lập Mặt trận Dân chủ ở Nam Kỳ, vận dụng nhiều hình thức đấu tranh thích hợp, đưa phong trào cách mạng của quần chúng phát triển lên một bước cao hơn, tiến tới chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Noi gương những người cộng sản, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1974, t. 2. tr. 62.
TỪ NĂM 1937 ĐẾN NĂM 1939
Đấu tranh chống phái Tờrốtkít bảo vệ quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng
Trong những năm 1937-1939, phái Tờrốtkít hoạt động mạnh ở Sài Gòn - Chợ Lớn và một số tỉnh Nam Kỳ, gây khó khăn cho Đảng Cộng sản Đông Dương trong việc tập hợp lực lượng Mặt trận Dân chủ Dông Dương chống đế quốc.
Với những luận điệu “cách mạng tả”, “cách mạng triệt để”, phái Tờrốtkít hô hào "giai cấp tư sản Việt Nam là kẻ thù trực tiếp trước mắt của giai cấp công nhân", những phần tử Tờrốtkít từ chỗ chống lại quan điểm, đường lối của Đảng ta, dần dần đi đến chỗ làm tay sai cho đế quốc Pháp.
Trung ương Đảng đã nhiều lần chỉ thị phải triệt để chống phái Tờrốtkít và chúng là trở ngại lớn nhất trong cuộc vận động quần chúng và mở rộng Mặt trận của Đảng. Trung ương Đảng nhắc nhở các cấp bộ Đảng, các đảng viên phải đi sâu vào quần chúng, chú ý từng lời nói, từng hành động của Tờrốtkít, vạch mặt chúng bằng những lý lẽ, chứng cứ xác thực để chống lại những luận điệu xuyên tạc, vu cáo của chúng đối với Đảng, bảo vệ chân lý, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng. Đảng tổ chức đấu tranh chống Tờrốtkít bằng nhiều hình thức như ra sách, báo, dùng luận chiến, bút chiến và vận động quần chúng. Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ ra rằng: trong cuộc vận động quần chúng, phái Tờrốtkít là nguy hiểm nhất, không triệt để chống phái Tờrốtkít thì khó thi hành được chiến thuật lập Mặt trận Nhân dân chống phát xít và đế quốc chiến tranh. Đối với Tờrốtkít không thể có thoả hiệp nào, nhượng bộ nào, phải dùng mọi cách lột mặt nạ chúng, phải tiêu diệt chúng về chính trị.
Thi hành chủ trương của Đảng về chống phái Tờrốtkít, đảng viên công nhân và quần chúng cách mạng đã đấu tranh không khoan nhượng với chúng, dùng áp lực quần chúng tẩy chay, lột mặt nạ những phần tử Tờrốtkít. Một loạt các cuộc tẩy chay Tờrốtkít đã diễn ra. Trong cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động tại Sài Gòn, những phần tử Tờrốtkít trà trộn vào quần chúng để chia rẽ, phá hoại, bị quần chúng vạch mặt; trong cuộc họp do đảng viên công khai hoạt động trong báo Dân chúng tổ chức, những phần tử Tờrốtkít chen vào diễn đàn nói xấu, xuyên tạc, bị quần chúng phản đối,... đuổi ra khỏi diễn đàn.
Cuộc đấu tranh chống phái Tờrốtkít diễn ra rất mạnh mẽ, khẳng định được lòng tin của quần chúng cách mạng đối với đường lối đúng đắn của Đảng và cô lập thế lực Tờrốtkít.
- Hoạt động của Trốtkít ở Việt Nam thời kỳ 1930 – 1945, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ NĂM 1937 ĐẾN NĂM 1938
Đấu tranh nghị trường ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ
Trong thời kỳ vận động Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục mở rộng hoạt động công khai, hợp pháp qua các cuộc vận động bầu cử vào nghị trường thực dân.
Trung ương Đảng chủ trương: vô luận là cuộc tuyển cử gì, Đảng có thể tham gia được, là nên tham gia. Cần lợi dụng thời kỳ tranh cử mà tuyên truyền khẩu hiệu cách mạng, phải lợi dụng các cơ quan gọi là dân cử mà bênh vực quyền lợi cho quần chúng lao động và các tầng lớp bị áp bức.
Vào thời gian vận động tuyển cử, phối hợp với báo chí công khai của Đảng, những ứng cử viên của Đảng lên tiếng chỉ trích chế độ bầu cử bất công, đòi thực hiện phổ thông đầu phiếu, đòi mở rộng quyền lực các cơ quan "dân cử”, chỉ trích các chính sách thực dân, phê phán thái độ của bọn “nghị gật", bày tỏ nguyện vọng của dân. Đảng còn vận động một số thanh niên tiến bộ, tổ chức thành những đoàn đi về các khu phố, huyện, xã làm công tác tuyên truyền và vận động cho những ửng cử viên của Đảng. Những ứng cử viên của Đảng đã trúng cử vào các Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Từ những diễn đàn hợp pháp đó, cuộc đấu tranh của các đại biểu tiến bộ phối hợp nhịp nhàng với phong trào đấu tranh của quần chúng trong các xí nghiệp, ngoài đường phố và nông thôn.
Trong cuộc bầu cử bổ sung vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ tháng 1-1937, Đảng đưa người của báo Le Travail ra tranh cử. Mặc dù nhà cầm quyền thực dân ra sức ngăn cản, gây khó khăn, nhưng ứng cử viên của Đảng trúng cử với số phiếu rất cao 802/1240 cử tri, hơn người của nhà cầm quyền 363 phiếu.
Đến cuộc bầu cử Viện Dân biểu Bắc Kỳ năm 1938, nhóm Tin tức (bộ phận hoạt động công khai của Đảng) liên lạc với nhóm Ngày nay và chi nhánh Đảng Xã hội Pháp ở Bắc Kỳ, hình thành Mặt trận Dân chủ, đưa ra chương trình tối thiểu và danh sách ửng cử. Bọn cầm quyền đưa ra thể lệ khắt khe, quấy rối, dùng tiền mua chuộc, nhưng Mặt trận Dân chủ vẫn giành thắng lợi lớn với 15 ghế trong Viện Dân biểu Bắt Kỳ.
Thắng lợi đáng kể nữa là cuộc tuyển cử Hội đồng Thành phố Hà Nội tháng 12-1938, số ứng cử viên của Mặt trận Dân chủ đã trúng cử với số phiếu trung bình là 487 phiếu.
Trong cuộc tuyển cử Viên Dân biểu Trung Kỳ tháng 8-1937, Đảng Cộng sản Đông Dương liên lạc với những người tiến bộ trong giới trí thức, tư sản dân tộc, vận động họ ra ứng cử. Lúc này, Đảng đã phát hiện và lợi dụng được mâu thuẫn giữa hai phái trong quan lại Nam Triều, liên lạc với “phái 1884” (đòi trở lại Hiệp ước 1884), tranh thủ được một số trong phái đó, lôi kéo họ thống nhất hành động lên một số vấn đề trong đấu tranh nghị trường. Nhờ có sách lược mềm dẻo, Đảng giành thắng lợi lớn trong bầu cử; nhiều ứng cử viên của Mặt trận dân chủ trúng cử và giữ các chức vụ quan trọng trong Viện như Viện trưởng, Phó viện trưởng, Chánh thư ký,Uỷ viên thường trực.
Mặt trận dân chủ còn giành được thắng lợi trong đợt bầu cử vào Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương (9-1938). Hai dân biểu của Mặt trận, trong đó có đồng chí Phan Thanh, giành được số phiếu bầu cao nhất của Viện và trúng cử vào Hội đồng.
Thắng lợi vang dội nhất trong đấu tranh nghị trường là cuộc đấu tranh bác bỏ dự án tăng thuế ở Viện Dân biểu Trung Kỳ. Biết được ý đồ của địch, trước ngày Viện Dân biểu họp, Đảng chủ trương phát động phong trào quần chúng đấu tranh mạnh mẽ phối hợp với sự đấu tranh của các đại biểu của Mặt trận và những dân biểu cấp tiến ở Viện, chống lại dự án tăng thuế. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân nổ ra, các báo hợp pháp của Đảng đăng tin tức chống dự án tăng thuế của Chính phủ tạo nên một không khí sôi sục.
Trước sức ép mạnh mẽ đó, ngày 16-9-1938, Viện Dân biểu Trung Kỳ phải thông qua nghị quyết bác bỏ dự án tăng thuế của Chính phủ thực dân.
Sử dụng những khả năng hợp pháp để hoạt động tại Viện Dân biểu ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, trong Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương... là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong việc sử dụng những phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp và vì thế, đã giành được thắng lợi lớn.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế(1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 – 1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
___________
1. Liên Tỉnh ủy C gồm: Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình.
2. Luật Lao động năm 1884 do thực dân Pháp ban hành ở chính quốc có nới rộng cho cả người lao động ở thuộc địa.
3. Phan Văn Đạt sau đó thoái hóa, khai báo.
4. Vì nghi ngờ Đinh Văn Di lúc này là Bí thư Liên Tỉnh ủy Thanh – Nghệ - Tĩnh là AB, cho nên đồng chí Hà Huy Giáp không giới thiệu cho hắn biết cơ sở và Chi bộ Đảng do đồng chí phụ trách.
5. Có ý kiến nói là Hội quán thể thao (gần Câu lạc bộ quốc tế) và hội nghị này bị cấm.
Năm 1938 NGÀY 11- 2
Phong trào đấu tranh của nhân dân Bình Định
Cũng như nhiều tỉnh Trung Trung Bộ, Bình Định có phong trào đấu tranh dân chủ khá mạnh mẽ.
Tối ngày 11-2-1938 (12 tháng giêng, Mậu Dần) là ngày vía chùa Ông của người Hoa tại Đập Đá (An Nhơn). Nhân dân tập trung hàng nghìn người dự lễ và xem đốt pháo hoa. Nhân cơ hội này, Đảng bộ An Nhơn tổ chức một cuộc mít tinh tại chỗ. Đồng chí Võ Xán lên diễn thuyết, giới thiệu tình hình thế giới và trong nước, kêu gọi quần chúng đấu tranh đòi bãi bỏ thuế thân, đòi cải cách hương thôn.
Sau cuộc mít tinh ngày 11-2, tại nhiều huyện trong tỉnh dấy lên một phong trào đấu tranh đòi cải cách dân chủ, đưa những người tiến bộ vào bộ máy hương lý ở làng. Nổi bật là cuộc đấu tranh của nhân dân làng Vân Tường (Bình Hoà, Tây Sơn), đánh bại phe cánh địa chủ họ Võ trong cuộc đầu phiếu tranh chức lý trưởng. Thắng lợi này đã giúp cho nhiều nơi như Đại An (An Nhơn), Thủ Thiện. Kiên Mỹ (Tây Sơn), Đại Hữu (Phù Cát), Tân Ốc, Vạn Phú (Phù Mỹ), Cửu Lợi, Chương Hoà (Hoài Nhơn) những kinh nghiệm đấu tranh đưa người tiến bộ vào bộ máy hành chính làng xã trong những năm 1938-1939.
Những cuộc đấu tranh chống thuế và nạn phù thu lạm bổ của cường hào địa phương cũng được đẩy mạnh. Nhân dân Đại Bình (Nhơn Mỹ, An Nhơn) kéo lên phủ tố cáo bọn hương lý sở tại xâm chiếm ruộng công. Bà con làm muối An Mỹ (Mỹ Cát), An Xuyên (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Quảng Vân (Phước Thuận, Tuy Phước), Hưng Thành (Quy Nhơn)... liên tiếp đấu tranh chống bọn thương nhân chèn ép giá muối. Nhân dân làng An Xuyên tố cáo bọn hương lý lợi dụng đấu giá công điền, chiếm một lô đất với giá thấp hơn thời giá ba lần (260đ/900đ).
Quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh của nông dân An Thái, Phước Lộc, (Tam Quan), Tấn Thành, Phụng Du và Cự Lễ (Hoài Hảo, Hoài Nhơn) tại chợ Cát (Tấu Thạnh, Hoài Hảo) ngày 8-4-1938. Căm phẫn trước chế độ thuế khoá, vô lý, nhân dân tập trung vây đánh bọn thuế đoan do tên Rốtxinhông (Rossignol) chủ sự trạm thương chính Tam Quan dẫn đầu đi thu thuế. Sở mật thám Quy Nhơn kinh hoàng và cho đây là một “cuộc bạo loạn".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đồng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb Tổng hợp Bình Định, 1990, t. I.
NGÀY 25-2
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông báo về vấn đề bầu cử và thuế
Đấu tranh đòi bầu cử dân chủ và chống thuế là hai nội dung quan trọng của cao trào dân chủ 1936-1939.
Ngày 25-2-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông báo nêu rõ những chủ hương về vấn đề bầu cử và thuế.
Đối với vấn đề bầu cử, Đảng ta chủ trương đòi thực hiện phổ thông đầu phiếu và đòi có một chế độ mở rộng đối với các cơ quan dân cử ở Đông Dương. Trước hết, phải mở rộng quy chế bầu cử và quyền hạn của các cơ quan được bầu như: Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ và các cơ quan khác.
Cuối năm 1938 sẽ diễn ra hai cuộc bầu cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ và Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Vì thế, Đảng kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi cải cách chế độ bầu cử và mở rộng quyền hạn cho hai cơ quan này nhằm mở rộng dân chủ đối với quần chúng và bầu ra được những đại biểu xứng đáng đại diện cho nhân dân.
Đảng nhấn mạnh quần chúng cần phủ đấu tranh ngay lập tức, đòi cải cách chế độ bầu cử và kiên quyết chống quan điểm hữu khuynh cho rằng: không còn đủ thời gian cho việc thực hiện cải cách hai cuộc bầu cử sắp tới mà phải đợi đến khoá sau, tức bốn năm nữa, mới thực hiện được. Tình hình trong nước và quốc tế đang thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi dân chủ.
Đối với vấn đề thuế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ: các cấp bộ Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng đòi miễn thuế thân cho dân nghèo, giảm thuế cho các tầng lớp tiểu tư sản, đòi thi hành chế độ thuế dân chủ tức là đánh thuế luỹ tiến đối với lợi tức nhằm bắt người giàu phải chịu thuế đúng mức. Ở những vùng bị thiên tai nhân dân phải đấu tranh đòi miễn thuế thân, đòi xoá nợ, đòi bỏ thuế điền thổ.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhắc nhở các địa phương cần khéo léo kết hợp hai cuộc đấu tranh đòi cải cách dân chủ và chống thuế. Đây là những cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp, nên phải chú ý tránh gây xung đột với chính quyền thực dân. Phải tích cực sử dụng báo chí công khai cho những mục tiêu của cuộc đấu tranh. Đảng bộ các địa phương từ thành thị đến nông thôn phải đồng loạt và kiên trì đấu tranh đòi những mục tiêu của mình để tạo nên một phong trào đấu tranh dân chủ rộng lớn.
Chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về vấn đề bầu cử và thuế đã hướng dẫn Đảng bộ các địa phương lãnh đạo nhân dân đấu tranh, tạo nên phong trào đấu tranh đòi cải cách chế độ bầu cử và chống thuế ở nhiều nơi trên cả nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr 339.
NGÀY 29 -2
Cuộc tổng bãi công của công nhân vận chuyển lúa gạo ở Sài Gòn - Chợ Lớn
Những năm 1929 – 1933, do khủng hoảng kinh tế, giới chủ hạ tiền công chuyên chở lúa gạo (từ 40 đồng dần xuống 24 đồng cho 1000 bao gạo, ngô, tấm, cám trắng) và tiền lương của lái thuyền (từ 10 đồng xuống 8 đồng mỗi tháng). Những năm 1936 - 1938, giá tiền vận chuyển có tăng lên nhưng vẫn chưa bằng mức cũ, trong khi giá sinh hoạt rất đắt đỏ. Do vậy, đời sống của công nhân rất khó khăn buộc họ phải đứng lên đấu tranh.
Cuộc bãi công khởi đầu từ 1.500 công nhân làm trên 100 chiếc thuyền và xà lan chở gạo và hàng hoá từ Chợ Lớn đến cảng Sài Gòn của các hãng Ông Tích, Châu Ký, Hoà Thuận Phát, Nam Hải, Pencan, Hiệp Mậu... Sau đó, cuộc bãi công lan rộng và thu hút tới 4000 người làm trên 350 chiếc thuyền và xà lan. Công nhân đấu tranh đòi giới chủ thi hành nhiều yêu sách như: chở 1000 bao gạo, ngô, tấm, cám trắng phải trả công 40đ, chở 1000 bao thóc, dừa khô, cám thường phải trả công 30đ; tiền ăn trong năm ngày đầu mỗi chuyến phải trả 10đ; làm đêm phụ cấp 1đ, trả tiền phụ cấp cho mỗi người 0,5đ đến ngày thứ sáu; 1đ nếu đến ngày thứ bảy, đến ngày thứ tám phải tính như nửa chuyến đi, đến ngày thứ chín phải tính như cả chuyến đi; không được sa thải công nhân, được nằm bệnh viện chữa trị, nếu gặp tai nạn, chủ phải chịu phí tổn...
Cuộc đấu tranh làm tê liệt việc vận chuyển hàng hoá xuất khẩu trên các tuyến đường sông từ Chợ Lớn đến Sài Gòn làm hàng chục tàu biển phải năm đợi hàng bên bến cảng Sài Gòn. Giới chủ phải thuê ô tô vận chuyển tốn kém gấp nhiều lần nhưng vẫn không đủ hàng cho tàu rời bến.
Cuộc bãi công tiếp tục lan rộng tới 1000 công nhân của nhiều nhà máy xay sát như Hằng Thái, Quảng Trung Hưng, Quảng Chánh Hưng... và 200 nữ công nhân chuyên khâu vá bao tải của năm hãng xuất khẩu gạo làm cho giới chủ các nhà máy này hốt hoảng phải đáp ứng các yêu sách của công nhân.
Sau một tuần đấu tranh, lần lượt các chủ hãng đều phải nhượng bộ. Cuộc tổng bãi công thắng lợi. Đây là một trong những cuộc đấu tranh có quy mô lớn nhất của phong trào công nhân trong năm 1938.
Trong cuộc đấu tranh, công nhân Việt Nam và công nhân Hoa kiều, công nhân các nhà máy xay và công nhân các hãng vận tải, công nhân đang làm việc và những người thất nghiệp đã đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết đấu tranh giành quyền lợi cho mình.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1936-1939), Nxb. Sử học, 1962, t. II, tr. 341.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
NGÀY 29, 30-3
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
Trước những biến động mới của tình hình thế giới, nhất là ở Pháp và Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị toàn thể ngày 29 và 30-3-1938 tại xã Tân Thới Nhất, gần Bà Điểm, Gia Định, với sự tham dự của các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần, Nguyễn Chí Diểu...
Hội nghị nhận định, từ khi Mặt trận Nhân dân Pháp thắng lợi, tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh của quần chúng, tình hình Đông Dương đã được cải thiện một phần. Nhưng những cải cách dân chủ còn rất hạn chế do xu hướng phản động ở thuộc địa còn mạnh, do Chính phủ Bơlum Sôtăng (Blum Chautemps) thiếu kiên quyết, không dám dựa vào sự ủng hộ của nhân dân và vì ở Đông Dương chưa có một Mặt trận Dân chủ thống nhất được các tầng lớp nhân dân.
Hội nghị phân tích, cho thấy rõ tình hình phức tạp của các đảng phái chính trị ở Đông Dương. Tuy nhiên, hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn và mạnh mẽ nhất và đang tập trung xung quanh mình ngày càng nhiều các lực lượng tiến bộ.
Về phong trào đấu tranh của quần chúng, Hội nghị nhận xét: tuy số lượng các cuộc đấu tranh trong 6 tháng vừa qua không bằng thời kỳ 1936-1937 nhưng các tầng lớp nhân dân vẫn liên tục đấu tranh với trình độ giác ngộ về quyền lợi sâu sắc hơn, tinh thần đấu tranh kiên quyết hơn và phần lớn các cuộc đấu tranh được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh phát triển không đều trên phạm vi cả nước cũng như từng xứ. Ở Nam Kỳ, Trung Kỳ phong trào đấu tranh mạnh hơn Bắc Kỳ. Những nơi tập trung đông công nhân như vùng mỏ ở Bắc Kỳ, đồn điền ở Nam Kỳ phong trào đấu tranh rất yếu. Ngoài ra, nhiều Đảng bộ địa phương không triệt để lợi dụng được các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp.
Về công tác nội bộ, Hội nghị xét thấy số lượng đảng viên trong cả nước tăng 60% nhưng sự phát triển không đều. Tại Trung Kỳ, Đảng phát triển mạnh nhất. Cơ sở Đảng ở Lào, Campuchia phát triển kém. Một số nơi, tổ chức Đảng còn thiếu chặt chẽ (như Chợ Lớn) để phần tử phản động chui vào. Trình độ đảng viên thấp nhất là ở Nam Kỳ. Ở Trung Kỳ, một số đảng bộ còn tư tưởng cục bộ địa phương. Tuy còn các khuyết điểm trên, nhưng nhìn chung trong cả nước Đảng vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo phong trào đấu tranh dân chủ.
Căn cứ vào tình hình và những ưu, khuyết điểm trên các mặt công tác của Đảng, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương và coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại.
Hội nghị chủ trương để có thể lan rộng "xu hướng liên hiệp hành động” và phát triển thành "một lực lượng hành động mạnh mẽ" cần phải "bỏ hết những khẩu hiệu quá tả làm cho giai cấp tư sản bản xứ và các đảng phái khác sợ không dám đi với mình". Mặt khác, đề phòng xu hướng hữu khuynh, chỉ chú trọng giao thiệp với số lãnh tụ ở bên trên mà không tin vào lực lượng quần chúng. Mặt trận Dân chủ cần liên hiệp hành động với những lực lượng tiến bộ người Pháp ở Đông Dương đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, đòi hoà bình, dân chủ.
Về công tác quần chúng: Hội nghị nhận định trong 6 tháng, số quần chúng có tổ chức tăng gấp đôi, "làm cho Đảng có cơ sở quần chúng rộng rãi", chứng tỏ rằng "các đảng bộ hăng hái hoạt động” và "phương pháp tổ chức quần chúng của Đảng là hoàn toàn đúng”. Hội nghị kiểm điểm tình hình và đề ra những nhiệm vụ cụ thể đối với công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên và phụ nữ.
Đối với công tác xây dựng Đảng, Hội nghị đề ra nhiệm vụ phải củng cố cơ sở đã có, lập thêm cơ sở mới, chú ý phát triển cơ sở Đảng ở các thành phố, đồn điền, các nhà máy, xí nghiệp..., củng cố đường dây liên lạc trong Đảng; kết hợp khéo léo giữa hoạt động bí mật và công khai; đẩy mạnh công tác báo chí bí mật và công khai, tăng cường huấn luyện cán bộ đảng viên; tăng cường lãnh đạo các hội, đoàn quần chúng; thâm nhập hoạt động để gây uy tín và ảnh hưởng của Đảng trong các đảng phái, tổ chức chính trị khác; đấu tranh cho Đảng được ra công khai; đấu tranh chống bọn khiêu khích Trốtkít.
Ngoài những vấn đề trên, Hội nghị còn ra một nghị quyết riêng về phòng thủ Đông Dương và vận động binh lính, nêu lên quan điểm của Đảng về phòng thủ Đông Dương và giác ngộ binh lính địch.
Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương có 11 đồng chí (2 đồng chí đang ở nước ngoài). Đồng chí Hà Huy Tập thôi giữ chức Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.6, tr. 342-365.
THÁNG 3
Nông dân Cần Thơ đấu tranh chống địa chủ cướp đoạt thành quả lao động
Giai cấp địa chủ không từ một thủ đoạn nào để bóc lột nông dân. Trong khi cho nông dân vay lúa, một địa chủ lớn ở Hàm Yên (tỉnh Cần Thơ) dùng thủ đoạn gian xảo, ức hiếp nông dân, cướp đoạt thành quả lao động của họ. Khi cho vay lúa, hắn dùng giạ 38 lít, khi thu nợ, dùng giạ 44 lít.
Phát hiện thủ đoạn này, Chi bộ Trà Ôn và Vĩnh Xuân vận động nông dân đấu tranh vạch rõ bộ mặt gian tham của tên địa chủ. Tháng 3-1938, đông đảo nông dân tập trung kéo đến nơi tên địa chủ đang thu lúa vay nợ, tịch thu giạ và lập biên bản việc gian lận. Phóng viên báoDân chúng đến tận nơi chụp ảnh đưa lên báo. Nông dân các vùng lân cận nghe tin ùn ùn kéo đến cùng đấu tranh. Trước sức mạnh đấu tranh của nông dân, tên địa chủ ở phủ Hàm Yên phải thừa nhận thủ đoạn bóc lột trả lại số lúa đã gian lận cho hơn một nghìn tá điền.
- Những sự kiện lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 3
Xây dựng lực lượng cách mạng ở Thừa Thiên - Huế
Tháng 3-1938, Xứ uỷ Trung Kỳ được thành lập lại. Xứ uỷ xây dựng các cơ sở ở số 83 đường Gia Long, 118 Ngô Đức Kế (thành phố Huế)... với nhiệm vụ bảo đảm tài chính và đường dây liên lạc cho Xứ uỷ.
Huế là nơi tập trung đông đảo thanh niên, học sinh. Trong các phong trào cách mạng, tuổi trẻ thành phố đã có những đóng góp xứng đáng. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của thanh niên, các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Bùi San đã tổ chức cho thanh niên, học sinh đọc sách báo tiến bộ, thành lập các nhóm đọc sách, giới thiệu thơ văn cách mạng trong các trường học.
Cuối tháng 3-1938, Xứ uỷ Trung Kỳ thành lập “Thư quán Thuận Hoá” tại số nhà 950 đường Gia Long (Huế). Chỉ trong một thời gian ngắn,Thư quán Thuận Hoá trở thành nơi hội tụ của thanh niên, học sinh yêu nước. Đây cũng là nơi liên lạc và tổ chức các lớp huấn luyện của Xứ uỷ Trung Kỳ.
Đồng thời với việc xây dựng cơ sở Đảng, các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Bùi San còn trực tiếp chỉ đạo thành lập tổ chức của thanh niên. Ngày 26-3-1938, Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế dược thành lập do các đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ, Đào Duy Dếnh, Tố Hữu lãnh đạo. Lúc đầu Đoàn chỉ có 6 phân đoàn và 13 đoàn viên. Sau một thời gian ngắn, Đoàn đã phát triển mạnh trong các trường học, xưởng thợ thu hút đông đảo thanh niên, học sinh ở Thừa Thiên - Huế tham gia hoạt động cách mạng. Ngày 20 -11-1938, Đoàn Thanh niên Dân chủ ở Huế tổ chức Đại hội, có 157 đại biểu về dự Đại hội ra Nghị quyết đẩy mạnh hoạt động của Đoàn, phát triển tổ chức Đoàn, củng cố các câu lạc bộ đọc sách báo, đẩy mạnh phong trào học chữ quốc ngữ.
Những cố gắng xây dựng tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng ở Thừa Thiên - Huế có kết quả to lớn, tập hợp đông đảo quần chúng yêu nước. Đó là cơ sở cho cuộc đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở Thừa Thiên - Huế trong thời kỳ vận động dân chủ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995. t. I.
- Lê Duẩn: Cuộc đời và sự nghiệp, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 2-4
Báo Tin tức, cơ quan Mặt trận Dân chủ ra số đầu tiên
Sau khi tờ Thời thế bị cấm, Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương xuất bản báo Tin tức, cử Lương Văn Tuân đứng ra xin phép với danh nghĩa sáng lập viên, Trịnh Hoài Đức là quản lý.
Ngày 23-2-1938, Toàn quyền Bơrơviê ký quyết định cho phép xuất bản. Ngày 2-4-1938, báo Tin tức ra số đầu tiên, nhân danh "Cơ quan Mặt trận Dân chủ” do đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh), phụ trách Ban Tuyên truyền cổ động của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp chỉ đạo. Báo Tin tức đặt trụ sở tại Hà Nội và trở thành trung tâm chỉ đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Bắc Kỳ.
Lúc đầu, báo ra hàng tuần sau đó tuần ra hai số. Báo thường ra 4 trang, có số 2 trang, có số 8 trang - Báo ra được 43 số (số cuối cùng đề ngày 15 -19-10-1938). Ngoài ra, báo còn có tờ phụ trương Tin tức lý luận, ra được 4 số (số 1 ra ngày 10-4-1938, số 4 ra ngày 23 đến ngày 30-4-1938). Trung bình mỗi số báo in từ 5 đến 6 nghìn bản. Cao nhất là phụ trương số 4 ra ngày 23 đến ngày 30-4-1938 với 10.000 bản.
Những người viết bài cho báo thường là những cây bút quen thuộc của các tờ Hà Thành thời báo, Thời thế, Thế giới... Trần Huy Liệu (Hải Khách, Hải Thu), Trần Đình Long (Lương Phong, LP), Cựu Kim Sơn, Khuất Duy Tiến (Tô Dân), Dương Lĩnh, Thôn Dân, Hồ Xanh, Qua Ninh...
Báo Tin tức đã khéo léo truyền bá những quan điểm Mácxít và chủ trương. chính sách của Đảng với danh nghĩa Mặt trận Dân chủ. Tờ báo kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm lý luận và văn học phản động của các thế lực tay sai Pháp, Nhật, phát Tờrốtkít. Báo đăng nhiều tin về các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu thương... tập trung cổ động tổ chức và đấu tranh cho việc thành lập và tăng cường Mặt trận dân chủ.
Báo Tin tức tập hợp những tổ chức hợp pháp và nửa hợp pháp xung quanh những trung tâm bí mật của Đảng. Toà soạn báo chính là nơi đại biểu các đoàn thể nhân dân đến phản ánh nguyện vọng, cung cấp tin tức, trao đổi kinh nghiệm về tổ chức, lãnh dạo quần chúng và hình thành một liên hệ công khai, hợp pháp thường xuyên giữa Đảng và quần chúng. Những chỉ thị của Thành uỷ Hà Nội của Xứ uỷ Bắc Kỳ và Trung ương Đảng nhiều khi từ toà soạn truyền đạt đi. Công tác phát triển Đảng cũng bắt đầu từ toà soạn. Báo hướng phong trào cách mạng vào một mục đích nhất định: đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, vận động thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương và thực hiện chương trình của Mặt trận.
Bộ phận hoạt động công khai của Đảng với tờ Tin tức đã có ảnh hưởng lớn trong quần chúng nhân dân. Báo Tin tức góp phần trực tiếp dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở Hà Nội và nhóm cộng sản công khai của báo Tin tức là nòng cốt lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Hà Nội.
Do ảnh hưởng to lớn của tờ báo Tin tức đối với phong trào cách mạng, ngày 15-10-1938, Toàn quyền Đông Dương thu hồi giấy phép xuất bản của tờ báo. Tuy tồn tại có 8 tháng nhưng tờ báo đã góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh dân chủ thời kỳ 1936- 1939.
- Nguyễn Thành: Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 225-233.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
NGÀY 5 - 4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Báo cáo cho Ban Phương Đông về công tác xây dựng Đảng và tổ chức quần chúng
Ngày 5-4-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi báo cáo cho Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về tình hình Đông Dương, trong đó có tình hình xây dựng Đảng Cộng sản Đông Dương.
Theo báo cáo, đến tháng 4-1938, Đảng Cộng sản Đông Dương có 1597 đảng viên (Nam Kỳ 655 đảng viên, Trung Kỳ 740 và Bắc Kỳ 202 đảng viên). Ở Nam Kỳ, số đảng viên không tăng. Ở tỉnh Cao Bằng thuộc Bắc Kỳ, số lượng đảng viên chỉ có 20 đồng chí so với báo cáo trước đó là 200 người.
Về tổ chức Đảng: Ở Nam Kỳ có 1 xứ uỷ, 4 liên tỉnh uỷ, 11 tỉnh uỷ, 122 chi bộ. Trong 655 đảng viên có 40 đảng viên nữ và 74 đảng viên người Hoa. Ngoài ra, Nam Kỳ có 120 đảng viên hoạt động công khai.
Ở Trung Kỳ có Xứ uỷ, 7 tỉnh uỷ (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi). Các tỉnh Bình Định, Phú Yên mới có chi bộ. Các tỉnh khác chưa có cơ sở Đảng. Nghệ An là tỉnh có số đảng viên cao nhất: 257 đồng chí/ 740 đảng viên toàn xứ.
Bắc Kỳ đã tổ chức Xứ uỷ; có 24 tỉnh nhưng chỉ thành lập được tỉnh uỷ ở các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Phủ Lý, Thái Bình, Cao Bằng.
Ở Lào và Campuchia chỉ có 16 đảng viên và hơn 100 hội viên Công hội.
Ban Chấp hành Trung ương mới được tổ chức lại với 11 đồng chí uỷ viên (2 đồng chí ở nước ngoài).
Trình độ đảng viên thấp, cán bộ thiếu. Trong 6 tháng từ tháng 10-1937 đến tháng 4-1938, Đảng mới mở được hơn 10 lớp huấn luyện cán bộ với 60-70 đồng chí.
Về thông tin tuyên truyền, Đảng có hai tờ báo quốc ngữ và một tờ báo tiếng Pháp làm cơ quan ngôn luận, đã xuất bản 15 cuốn sách công khai nhưng số lượng ít do khả năng tài chính có hạn. Công tác tuyên truyền chủ yếu theo hình thức công khai. Báo chí công khai vẫn luôn bị nhà cầm quyền đàn áp.
Nội bộ Đảng đoàn kết, hai bộ phận công khai và bí mật phối hợp hoạt động có hiệu quả.
Về các tổ chức quần chúng, Đảng chỉ đạo tổ chức theo hình thức công khai và bán công khai.
Công nhân tổ chức các hình thức ái hữu, tương tế, hợp tác xã. Ở Nam Kỳ có 3622 công nhân tham gia tổ chức, Bắc Kỳ có 1900 người. Ở Trung Kỳ, công nhân cũng bắt đầu tranh đấu có tổ chức.
Các tổ chức công khai hợp pháp của nông dân như Hội ái hữu, Hội tương tế, Hội lợp nhà, đưa ma, đám cưới, đọc sách báo... cũng phát triển mạnh, Bắc Kỳ có 2000 người, Trung Kỳ có 8.823 người, Nam Kỳ có 15.735 người. Tổng cộng là 26.558 người.
Phụ nữ tổ chức theo hình thức: hội đưa ma, đám cưới, học quốc ngữ, hộ sinh... Ở Nghệ An có 9 hội với 200 hội viên, Hà Nội 100 hội viên, Nam Kỳ 2.042 hội viên. Tổng cộng là 2.342 hội viên.
Công tác vận động thanh niên chưa được các đảng bộ chú trọng, vì vậy chỉ tổ chức được 487 hội viên ở 4 tỉnh.
Hội cứu tế, giúp đỡ tài chính cho Đảng có 100 hội viên, chỉ có ở Nam Kỳ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 369 – 387.
NGÀY 14-4
Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi các đồng chí Xứ uỷ Bắc Kỳ
Ngày 14-4- 1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng viết thư gửi Xử uỷ Bắc Kỳ. Mở đầu bức thư, Ban Chấp hành Trung ương quan tâm đến việc nhận báo Tin tức và sự chuẩn bị thành lập Mặt trận thống nhất ở Bắc Kỳ; đồng thời Trung ương cũng gửi cho Xứ uỷ Bắc Kỳ những nghị quyết của Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương.
Trong thư, Trung ương Đảng chỉ rõ: Xứ uỷ Bắc Kỳ phải tổ chức ngay một cuộc họp của Xứ uỷ để thảo luận về những nghị quyết của Đảng, sau đó đưa ra cho các thị uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ và các chi bộ thảo luận. Ngoài ra còn cho in các nghị quyết ấy để phổ biến.
Trung ương Đảng nêu rõ: Ban Chấp hành Bắc - Trung Kỳ từ nay đặt dưới sự lãnh đạo của Xử uỷ Trung Kỳ; các tổ chức hợp pháp và các cấp khác nhau của Đảng phải làm việc thận trọng để tránh bạo lực của kẻ thù. Đồng thời, Xứ uỷ Bắc Kỳ phải báo cho Trung ương biết kết quả của việc thành lập Mặt trận thống nhất; các Hội ái hữu có bị khủng bố không? Và Ban Chấp hành Trung ương lưu ý về sự cần thiết phải tổ chức những uỷ ban ủng hộ tờ Le peuple (Nhân dân), giúp đỡ tờ báo này về mặt tài chính.
Cuối thư, Ban Chấp hành Trung ương thông báo về việc quyết định lấy tờ Tin tức làm cơ quan tuyên truyền của Đảng trên toàn Đông Dương và thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 388-391.
NGÀY 1-5
Cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1 -5 ở Hà Nội
Mặc dù ngày 1-5 được Chính phủ nhân dân Pháp coi là ngày lễ chính thức, nhưng bọn phản động thuộc địa luôn tìm một cách ngăn trở những hình thức kỷ niệm nhằm làm giảm ý nghĩa của ngày này, hạn chế phong trào đấu tranh của quần chúng. Tại Việt Nam, lần đầu tiên lễ kỷ niệm ngày 1-5 được tổ chức công khai với quy mô lớn.
Ở Hà Nội, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, những người cộng sản hoạt động công khai trong nhóm Tin tức đã vận động chi nhánh Đảng Xã hội Pháp đứng ra xin phép tổ chức kỷ niệm ngày 1-5. Thành uỷ Hà Nội chỉ thị cho toàn Đảng bộ tổ chức vận động quần chúng tham gia thật đông đảo.
Chính quyền thực dân tìm mọi cách đe doạ, nhưng không ngăn cản được sức mạnh của quần chúng. Đúng 16 giờ ngày 1-5, cuộc mít tinh công khai có 25.000 người dự gồm đầy đủ đại biểu của các giai cấp, tầng lớp nhân dân Thủ đô được tổ chức trọng thể tại khu Đấu Xảo Hà Nội (nay là Cung văn hoá Hữu Nghị). Cuộc mít tinh được tiến hành với ý thức tổ chức và kỷ luật rất cao. 25.000 người thuộc đủ các ngành, giới chia thành 25 đoàn (như công nhân đường sắt, thợ may, phụ nữ, nông dân, văn nghệ sĩ...) với những biểu tượng riêng của mình.
Trên diễn đàn có mặt của đại diện chi nhánh Đảng Xã hội Pháp, đại diện nhóm Tin tức, đại diện của quần chúng nhân dân. Các đại biểu công khai vạch trần chính sách bóp nghẹt tự do dân chủ, đàn áp, bóc lột tàn nhẫn của chính quyền thuộc địa phản động và đòi thực hiện những yêu sách của nhân dân. Quần chúng dự mít tinh với hàng ngũ chỉnh tề, cờ đỏ, biểu ngữ, hát bài Quốc tế ca, hô vang các khẩu hiệu đòi tự do lập Hội ái hữu và nghiệp đoàn, đòi giảm thuế, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ hoà bình...
Đồng chí Trần Huy Liệu, đại diện nhóm Tin tức đọc diễn văn được quần chúng cổ vũ, hoan nghênh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
NGÀY 1-5
Cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 ở Sài Gòn
Trong lúc tại Hà Nội diễn ra cuộc mít tinh lớn chưa từng có với 25.000 người dự thì tại Sài Gòn cũng diễn ra cuộc mít tinh lớn tại rạp hát Đội Có với hàng nghìn người tham dự, thuộc đủ các tầng lớp công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, tiểu thương, tiểu chủ, thanh niên, phụ nữ... Cuộc mít tinh do bộ phận hoạt động công khai của Đảng bộ thành phố gồm Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Chùa, Trần Văn Út, Hai Sóc... vận động tổ chức.
Những người tham dự mít tinh hô to các khẩu hiệu đòi tự do nghiệp đoàn ái hữu, triệt để thi hành Luật lao động, tăng lương, giảm sưu thuế; chống chiến tranh đế quốc; ủng hộ hoà bình, ủng hộ Liên Xô; đoàn kết với cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc và nhân dân Tây Ban Nha.
Phái Tờrốtkít trà trộn vào cuộc mít tinh gây chia rẽ và phá hoại. Họ bị quần chúng nhân dân vạch mặt và đuổi ra khỏi cuộc mít tinh.
Trong ngày, nhiều địa phương khác ở Nam Bộ cũng tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
NGÀY 5-5
Hội nghị đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Dân chủ
Sau cuộc mít tinh ngày 1-5-1938, nhân dịp có đại biểu thanh nên của nhiều tỉnh và Hà Nội dự mít tinh, theo chỉ thị của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Đoàn Thanh niên Dân chủ Hà Nội đứng ra tổ chức Hội nghị đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Dân chủ.
Hội nghị được tổ chức công khai tại số nhà 28 đường Rôlăng (Rolland - nay là phố Hai Bà Trưng). Hội nghị biểu thị sự thống nhất của lực lượng thanh niên dân chủ toàn quốc và bầu ra Ban Chấp hành Đoàn. Hội nghị quyết định xuất bản tờ Thế giới làm cơ quan ngôn luận của Đoàn.
Sau Hội nghị, hoạt động của Đoàn Thanh niên Dân chủ sôi nổi, mạnh mẽ hơn. Trên mặt trận báo chí công khai, Đoàn xuất bản tờ Thế giớiở Hà Nội và tờ Mới ở Sài Gòn. Hai tờ báo trên biểu thị tiếng nói của Đoàn Thanh niên Dân chủ đấu tranh chống chế độ thuộc địa nửa phong kiến thối nát, phản ánh tình trạng bị áp bức bóc lột, nguyện vọng của thanh niên, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, phổ biến đường lối chủ trương của Đảng, chống phái Tờrốtkít, hướng dẫn động viên quần chúng thanh niên đấu tranh.
Trong phong trào đấu tranh, Đoàn Thanh niên Dân chủ đã huy động đông đảo thanh niên tham gia các cuộc đấu tranh đòi tự do lập hội, tự do báo chí, tự do đi lại, cư trú, chống chiến tranh phát xít, ủng hộ hoà bình...
Đặc biệt, Đoàn Thanh niên dân chủ phát triển mạnh các hoạt động mang đặc thù của tuổi trẻ như tổ chức các hội đọc sách báo, các đội văn nghệ thanh niên, các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và nhất là phong trào Truyền bá quốc ngữ.
- Ban Nghiên cứu Lịch số Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Đoàn Thành niên Cộng sản Hồ Chí Mình: Sáu mưới năm đấu tranh cách mạng vẻ vang, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1991, tr. 53-54.
THÁNG 5
Thành lập Hội truyền bá quốc ngữ
Từ cuối năm 1937, phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động lên cao, yêu cầu dạy và học chữ quốc ngữ ngày càng bức thiết. Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương thành lập Hội truyền bá quốc ngữ để mở rộng phong trào học chữ quốc ngữ một cách công khai hợp pháp.
Tháng 5- 1938, các đồng chí Trần Huy Liệu, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp cùng với một số nhân sĩ và trí thức tiến bộ đứng ra thành lập Hội truyền bá quốc ngữ. Hội bầu ông Nguyễn Văn Tố, một trí thức tiến bộ và có uy tín làm Hội trưởng. Chương trình của Hội là: mở các lớp học miễn phí cho tất cả những người không biết chữ, in sách giáo khoa phát cho người học.
Hệ thống tổ chức của Hội được xây dựng từ Trung ương tới địa phương, Ban liên lạc của Hội đặt tại số 4 phố Nguyễn Trãi - Hà Nội (nay là phố Nguyễn Văn Tố). Trụ sở chính của Hội đặt ở Hội quán Trí Tri số 47 Hàng Quạt và có chi nhánh ở các địa phương.
Ngày 25-5-1938, tại trụ sở Hội thể dục thể thao Hà Nội, Hội tổ chức một cuộc mít tinh lớn ra mắt quần chúng. Trước đông đảo người nghe, đồng chí Phan Thanh thay mặt Ban vận động Trung ương nói về nạn thất học và những mục tiêu, tôn chỉ của Hội.
Ngày 29-7-1938, thực dân Pháp phải cấp giấy phép hoạt động cho Hội, nhưng bắt đổi tên là Hội học chữ quốc ngữ. Do có sự lãnh đạo tích cực của Đảng và sự hưởng ứng nhiệt liệt của quần chúng, ảnh hưởng của Hội nhanh chóng lan rộng. Ngày 5-1-1939, Hội truyền bá quốc ngữ ở Trung Kỳ chính thức thành lập ở Nam Kỳ, Hội được thành lập theo giấy phép ngày 18- 8-1944.
Phong trào Truyền bá quốc ngữ phát triển rất nhanh chóng. Riêng ở Hà Nội trong hai năm 1938-1939 đã mở được bốn khoá học cho hơn 4000 người học, phần lớn là công nhân, nhân dân lao động.
Nhận định về phong trào này, Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ (tháng 8-1938) chỉ rõ đây thật là một công cuộc phát triển văn hoá quan trọng nếu thực hành được như điều lệ dự định của Hội, Đảng ta phải gắng sức lãnh đạo quần chúng và đòi hỏi Chính phủ phải giúp sức đê thực hiện... Báo Tin tức, cơ quan công khai của Đảng ở Bắc Kỳ, đánh giá cao: Hội truyền bá quốc ngữ là trường học văn hoá rất rộng lớn và cũng là trường học yêu nước, yêu dân.
Phong trào Truyền bá quốc ngữ là tiền thân của phong trào Bình dân học vụ, bổ túc văn hoá sau này.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945). Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Những sự kiện hoạt động của Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 6
Thư của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi các đảng phái
Sau hai năm tuyển cử thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, các Chính phủ dưới quyền lãnh đạo của Đảng Xã hội hoặc Đảng cấp tiến trong Mặt trận Bình dân kế tiếp thành lập, đã đem đến cho nước ta nhiều cơ hội thuận lợi để lập Mặt trận Thống nhất. Song, do lực lượng đấu tranh của quần chúng còn tản mát, vì sự phá hoại của phái Tờrốtkít nên chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội thuận lợi đó.
Bức thư chỉ rõ, tuy cơ hội đã bỏ qua, song nhiệm vụ lịch sử và phương pháp tranh đấu để thực hiện các quyền tự do dân chủ và các cải cách tiến bộ cho đồng bào vẫn còn và khí cụ sắc bén để thực hiện những yêu cầu ấy là Mặt trận Dân chủ thống nhất.
Đảng Cộng sản khẳng định: Đảng là Đảng cách mạng theo chủ nghĩa quốc tế của vô sản, tranh đấu triệt để cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Đông Dương. Trong giai đoạn hiện tại của cuộc vận động dân chúng ở Đông Dương, điều cốt yếu và cần thiết là đòi quyền tự do dân chủ và các điều cải cách cho tiến bộ của dân tộc.
Sự hành động thống nhất là nguyện vọng thiết tha chung của toàn thể quốc dân. Đảng Cộng sản Đông Dương nhận rõ trách nhiệm lịch sử của mình và quyền lợi chung của quốc dân, nên thấy rằng sự liên hợp hành động là cần thiết hơn lúc nào hết và đã nhiều lần đề nghị, hy vọng các đảng phái, các anh chị em đứng ra lập Mặt trận Dân chủ thống nhất Đông Dương để cùng nhau tranh đấu đòi các quyền lợi tự do dân chủ và các cải cách cần thiết.
Phần cuối bức thư, Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi các đảng phái, toàn thể đồng bào hãy đoàn kết, loại trừ bọn phản động và phái Tờrốtkít, tiến tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 395 - 401.
GIỮA NĂM 1938
Phong trào đâu tranh của đồng bào Cor ở Trà Bồng (Quảng Ngãi)
Dưới sự áp bức bóc lột nặng nề của thực dân Pháp và tay sai, đồng bào dân tộc miền núi phía tây các tỉnh duyên hải miền Trung đã nổi dậy đấu tranh.
Giữa năm 1938, đồng bào dân tộc Cor ở Trà Bồng (Quảng Ngãi) và Trà Mi (Quảng Nam), trung tâm là vùng núi Cà Đam thuộc huyện Trà Bồng nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của ông Đinh Gia (thường gọi là phó Mục Gia), làm lễ đâm trâu tế thần, vùng lên khởi nghĩa.
Sau khi làm lễ, nghĩa quân chia làm bốn cánh do các ông Chân, Gia, Tài, Phú tiến về đánh đồn Pháp ở châu lỵ Trà Bồng.
Đồng bào Cor trong vùng sôi nổi hưởng ứng phong trào, chạy vào núi rừng Cà Đam, triển khai thế trận chông, thò, cạm bẫy, kết hợp với giáo, mác tên tẩm thuốc độc và áp dụng các chiến thuật phục kích, tập kích nhỏ để chống địch vây quét dài ngày, làm cho địch bị thương vong nhiều. Tiêu biểu là trận chống càn ở Gò Rê, xã Trà Phong làm hàng chục tên lính khố xanh bị thương phải chạy về Trà Bồng. Nhân dân xây dựng tám làng chiến đấu sống bất hợp pháp với địch, còn đa số sống hợp pháp, tiếp tục đấu tranh đòi tự do đi lại làm ăn, mua bán trao đổi hàng hoá...
Nhờ phương pháp đấu tranh mềm dẻo, linh hoạt, đồng bào Cor đã chống trả được các cuộc vây quét dài ngày cũng như những thủ đoạn chiêu hàng của địch. Chúng không thể kiểm soát được nhiều làng xã ở vùng cao tây Quảng Ngãi.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb.Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005.
- Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi: Nông dân Quảng Ngãi, những chặng đường lịch sử (1930- 1990), Quảng Ngãi, 1995, tr. 76-77.
NGÀY 4 - 7
Hai nghìn công nhân Mỏ Uông Bí đình công đòi tăng lương
Sau khi Chi bộ Đảng ở Uông Bí - Vàng Danh được khôi phục, phong trào đấu tranh của công nhân ở đây dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng lên cao.
Chi bộ Đảng thành lập Ban lãnh đạo đình công ở hầu hết các cơ sở sản xuất tích cực vận động công nhân đấu tranh.
Ngày 4-7-1938, 2000 công nhân nhất loạt nghỉ làm việc kéo lên gặp chủ mỏ đưa yêu sách đòi tăng lương, đòi tiền lương hằng năm phải được trả đủ và sau ba năm học việc công nhân phải được công nhận là thợ chính, giới chủ không được đàn áp, trù dập đại biểu của công nhân...
Trước sức mạnh đoàn kết của công nhân, giới chủ buộc phải chấp nhận những yêu sách đó.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh : Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985.
NGÀY 6 - 7
Báo Dân, cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy Trung Kỳ ra đời
Sau khi các tờ báo Nhành Lúa, Sông Hương (tục bản) bị cấm xuất bản, Xứ uỷ Trung Kỳ cho ra mắt tờ báo Dân tại Huế. Xứ uỷ Trung Kỳ vận động một số dân biểu tiến bộ đứng ra xin giấy phép xuất bản. Để giữ thế hợp pháp, tờ báo Dân phải sử dụng tên các nghị viện tiến bộ như Nguyễn Đăng Quế với tư cách là chủ biên và Nguyễn Xuân Các là thư ký toà soạn với danh nghĩa là "Cơ quan ngôn luận của nhóm dân biểu xã hội". Trên thực tế, đây là cơ quan ngôn luận của Xứ uỷ Trung Kỳ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Phan Đăng Lưu và các đồng chí Hải Triều, Bùi San, Phan Bôi... Số đầu tiên của tờ báo ra ngày 6-7- 1938. Báo ra hàng tuần, một số trung bình 5.000 bản.
Tờ báo là cơ quan liên hiệp tất cả cái lực lượng tiến bộ, được phát hành rộng rãi ở Trung Kỳ, nhất là ở Thừa Thiên - Huế.
Tờ báo đã tích cực đấu tranh để thực hiện đường lối Mặt trận Dân chủ của Đảng ở Thừa Thiên - Huế và Trung Kỳ đấu tranh chống bọn phản động thuộc địa, đòi các quyền tự do, dân chủ, hoà bình, phản ánh nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân đòi cải cách chế độ thuế khoá, chế độ bầu cử, đòi thả tù chính trị, tự do thành lập các hội ái hữu và nghiệp đoàn, đòi phòng thủ Đông Dương...
Lo sợ trước ảnh hưởng to lớn của tờ báo, ngày 7-10-1938, Toàn quyền Đông Dương viện cớ báo đăng những “tin thất thiệt" ra quyết định rút giấy phép và truy tố tờ báo.
Tuy chỉ tồn tại trong 3 tháng với 17 số nhưng tờ báo là vũ khí đấu tranh sắc bén của Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng ở Trung Kỳ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên-Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
NGÀY 22- 7
Báo Dân chúng, cơ quan tuyên truyền của Đảng Cộng sản Đông Dương ra số đầu tiên
Ngày 22-7-1938, không cần xin giấy phép nhà cầm quyền thực dân. Đảng ta cho xuất bản tờ báo Dân chúng bằng tiếng Việt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Nguyễn Và Cừ, Hà Huy Tập. Tuy lấy danh nghĩa cơ quan lao động và dân chúng nhưng thực chất là cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng. Tham gia toà soạn còn có các đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Văn Trấn... Trụ sở của báo Dân chúng lúc đầu đặt tại số nhà 43 đường Hamơlanh (Hamelin) (nay là đường Lê Thị Hồng Gấm), sau chuyển về số nhà 51 E đường Gơrimô (Colonel Grimaud) (nay là đường Phạm Ngũ Lão).
Nét đặc biệt của tờ báo là xuất bản không xin phép, chỉ làm thu tục khai báo theo quy định của luật 1881 về xuất bản báo chí của chính quyền thực dân. Do vậy trên thực tế, từ ngày 22-7 đến 30-8, tờ báo có tính chất nửa hợp pháp. Do sức ép của phong trào đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ đã buộc thực dân Pháp phải ban hành một Nghị định ngày 30-8-1938 về tự do báo chí ở Nam Kỳ. Tờ báo trở thành hợp pháp.
Trong khi các tờ báo tiếng Việt lớn nhất cũng chỉ in tới 4000 bản mỗi số thì báo Dân chúng trung bình mỗi số in tới 6000 bản. Số đặc biệt ra ngày 3-1 và 7-1-1939 kỷ niệm thành lập Đảng, in 10.000 bản, số Xuân 1939 in tới 15.000 bản.
Báo ra không định kỳ, có khi một tuần, hai tuần một số, và có khi một ngày một số. Trong hơn hai năm, báo ra được 80 số, qua bốn người quản lý là Dương Trí Phú, Trần Văn Kiệt, Huỳnh Văn Thanh, Hoàng Hoa Cương và qua ba nhà in của tư sản Pháp, Việt: Nhà in SATI, Bảo Tồn, Xưa Nay.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ với tư cách là Tổng Bí thư trực tiếp chỉ đạo và viết nhiều bài báo về những vấn đề lý luận và chính trị. Các bài của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi về từ Trung Quốc đăng trên báo với bút danh "LINE".
Báo Dân chúng đấu tranh liên tục, mạnh mẽ đòi các quyền tự do dân chủ như tự do báo chí, tự do lập các hội ái hữu và nghiệp đoàn, tự do hội họp và biểu tình, đòi thả hết tù chính trị, cải cách chế độ tuyển cử, cải thiện đời sống nhân dân... Tờ báo kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, chống Tờrốtkít, cổ vũ cuộc đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Báo thường xuyên nêu lên nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, vạch trần chế độ thuộc địa và nửa phong kiến phản động thối nát, phản ánh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin.
Báo Dân chúng có uy tín ngày càng lớn trong quần chúng. Lo sợ trước ảnh hưởng của báo, hai lần (ngày 7-3 và 19-4-1939) bọn thực dân kiếm cớ bắt giữ những người làm báo, khám xét toà soạn. Triều đình Huế ra lệnh cấm lưu hành tờ báo ở Trung Kỳ. Để ủng hộ tờ báo, nhân dân đã tổ chức 28 cuộc biểu tình và quyên góp tài chính cho báo.
Bất chấp sự khủng bố của kẻ thù, báo Dân chúng tồn tại đến trước ngày Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Số cuối cùng ra ngày 30-8-1939. Khi những điều kiện hoạt động công khai không còn nữa, Trung ương Đảng chỉ thị cho cán bộ làm báo rút vào bí mật, tự đóng cửa toà soạn, ngừng xuất bản. Mặc dù vậy, thực dân Pháp vẫn ra lệnh cấm xuất bản báo Dân chúng cùng với một số tờ báo tiến bộ khác.
Cùng với các tờ báo khác của Đảng, báo Dân chúng thực sự trở thành vũ khí đấu tranh cách mạng sắc bén của Đảng, động viên, giáo dục tổ chức quần chúng đấu tranh, mở rộng ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Nguyễn Thành: Báo cáo cách mạng Viết Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1984, tr. 202-213.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
NGÀY 25-7
Xuất bản cuốn sách Vấn đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình
Nhận thức rõ tầm quan trọng của "Vấn đề dân cày" trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp viết và cho xuất bản cuốn Vấn đề dân cày.
Với bút danh Qua Ninh và Vân Đình, cuốn sách do Nhà sách Đức Cường xuất bản thành hai tập (tập thứ ba do đồng chí Trường Chinh hoàn thành bản thảo vào đầu năm 1940, nhưng sau đó bị thất lạc) phát hành tại Hà Nội.
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối của Đảng vào thực tiễn khảo sát về đời sống nông dân, các tác giả đi sâu nghiên cứu thực trạng của nông thôn Việt Nam dưới áp bức thực dân, phong kiến. Các tác giả đặt vấn đề ruộng đất và dân cày là nội dung trụ cột của vấn đề Đông Dương; phân tích về địa vị giai cấp, vị trí khuynh hướng và tính chất của giai cấp nông dân; phê phán những nhận thức và quan điểm sai lầm đối với giai cấp nông dân. Cuốn sách cũng tố cáo trước dư luận những chính sách phản động của bọn thực dân và phong kiến tay sai về ruộng đất, tô thuế, nạn cho vay nặng lãi... đối với dân cày và nêu lên những yêu sách của dân cày Đông Dương trước Mặt trận Nhân dân Pháp.
Cuốn sách có ảnh hưởng to lớn, được bạn đọc nhiệt liệt hoan nghênh. Ngay sau khi sách được xuất bản, chính quyền thuộc địa phản động ở Đông Dương ra lệnh tịch thu và cấm lưu hành.
Cuốn sách nêu rõ vai trò quan trọng của giai cấp nông dân trong cách mạng Việt Nam, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với giai cấp nông dân, vấn đề liên minh công nông.
Đối với chế độ thực dân, phong kiến, cuốn sách là một bản cáo trạng hùng hồn sống động; đối với giai cấp nông dân, là nguồn cổ vũ to lớn thúc đẩy họ đứng lên đấu tranh. Cuốn sách cũng chứng tỏ một bước trưởng thành về tư duy chính trị của những người động sản; tiếp nối phát triển và đặt cơ sở cho đường lối của Đảng ta đối với vấn đề nông dân, nông thôn sau này.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
- Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp: Vấn đề dân cày (xuất bản lần thứ hai), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959.
THÁNG 7 -12
Đại biểu của Mặt trận Dân chủ Đông Dương giành thắng lợi trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Hội đồng Thành phố Hà Nội
Tháng 7-1938, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đưa đồng chí Khuất Duy Tiến, đại diện nhóm Tin tức ra tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Mặc dù bọn thực dân tìm mọi cách gây khó khăn như ngăn cản các cuộc diễn thuyết, bỏ tiền mua phiếu cho ứng cử viên tư sản thân Pháp, nhưng đồng chí Khuất Duy Tiến vẫn trúng cử với đa số phiếu (491/598 phiếu). Nhưng sau đó, viện cớ đồng chí Khuất Duy Tiến mới ra khỏi tù, chưa được trả quyền công dân, chúng huỷ bỏ kết quả bỏ phiếu và trục xuất đồng chí về Sơn Tây.
Tháng 12-1938, Mặt trận Dân chủ Đông Dương lại đưa đồng chí Phan Thanh và hai người khác tranh cử vào Hội đồng Thành phố Hà Nội. Cả ba người đều trúng cử. Trong phiên họp đầu tiên, đoàn đại biểu của Mặt trận Dân chủ Đông Dương đưa ra đề nghị đòi sửa đổi cơ cấu Hội đồng Thành phố nâng số đại biểu người bản xử bằng số đại biểu người Pháp, đòi bầu Đốc lý Thành phố (từ trước được chỉ định), đòi mở rộng số cử tri ra đông đảo công nhân và dân nghèo. Phía Pháp ngoan cố không tán thành các đề nghị trên nên đoàn đại biểu đã từ chức để phản đối. Đến tháng 4-1939, bầu lại ba đại biểu của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, các đồng chí đều trúng cử trở lại với số phiếu rất cao.
Thắng lợi của những cuộc bầu cử trên chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, ảnh hưởng chính trị của Đảng, của Mặt trận ngày càng cao ngay cả trong các tầng lớp trung gian và tầng lớp trên.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục Hà Nội, 2000.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
NGÀY 27-8
Hội nghị Báo giới Nam Kỳ
Nam Kỳ là nơi tự do báo chí phát triển mạnh hơn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Năm 1917, giới báo chí Nam Kỳ đã thành lập một tổ chức hợp pháp của những người làm báo là Hội ái hữu Báo giới Nam Kỳ do Nguyễn Văn Sâm làm Hội trưởng.
Tuy nhiên tình hình giới báo chí Nam Kỳ rất phức tạp cho nên việc tiến tới tổ chức Hội nghị Báo giới chậm hơn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Mãi đến 27-8-1938 Hội nghị Báo giới Nam Kỳ mới được triệu tập tại Hotel des Nations (Sài Gòn) với sự có mặt của đại biểu báo giới Bắc Kỳ. Báo Dân chúng tập hợp quanh mình những tờ báo tiến bộ khác, đề ra chủ trương thành lập một Mặt trận thống nhất của những người làm báo ở Đông Dương đấu tranh cho tự do báo chí. Nhưng do tình hình giới báo chí ở Nam Kỳ rất phức tạp cùng với sự phá hoại của chính quyền thực dân và những phần tử tay sai, tình hình Hội nghị rất lộn xộn, trên phát biểu, dưới la ó, giữa chừng nhiều đại biểu bỏ về... nên Hội nghị không đi đến kết quả như dự tính.
Sau Hội nghị Báo giới Nam Kỳ, tình hình báo chí cả nước tiếp tục sôi động. Nhưng giới báo chí đã không liên kết và thành lập được tổ chức thống nhất trên toàn quốc.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 187.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
THÁNG 8
Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Xứ uỷ Nam Kỳ và đảng viên toàn Đảng
Trước tình hình một số Đảng bộ địa phương, nhất là ở Nam Kỳ, chưa quán triệt đúng quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng về vấn đề phòng thủ Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư cho Xứ uỷ Nam Kỳ và đảng viên toàn Đảng uốn nắn những lệch lạc, hướng dẫn phong trào đấu tranh.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng phê phán Liên Tỉnh uỷ Cần Thơ và một số đảng bộ khác không hiểu rõ thực chất vấn đề phòng thủ Đông Dương, do đó đã sa vào lập trường hữu khuynh. Các đồng chí này cho rằng trước nguy cơ chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít ngày càng cao thì nhiệm vụ đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống trở nên thứ yếu, nhân dân Đông Dương có nghĩa vụ ủng hộ Chính phủ (Pháp ở thuộc địa) đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít. Quan điểm trên xuất phát từ việc họ chỉ so sánh đơn giản giữa chế độ dân chủ tư sản và chế độ phát xít mà không nhận rõ bộ mặt phản động của Chính phủ thuộc địa, đối lập với Chính phủ tiến bộ của Mặt trận Nhân dân ở Pháp. Một số đồng chí cho rằng ở Đông Dương đã có tự do dân chủ và nếu các quyền đó bị vi phạm thì chỉ cần dùng báo chí công khai đấu tranh bảo vệ các quyền lợi đó, không cần đến phong trào quần chúng. Như vậy, các đồng chí này đã tách rời việc "mở rộng các quyền tự do dân chủ” với việc “phòng thủ Đông Dương”.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh: “việc bảo vệ Đông Dương" và “các quyền tự do dân chủ” là hai vấn đề “không bao giờ có thể tách rời cái này với cái kia". Trong thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân tích rõ tính chất phản động của Chính phủ thực dân Pháp ở Đông Dương và chỉ rõ: trong khi tán thành quan điểm phải phòng thủ Đông Dương chống phát xít xâm lược, phải đồng thời đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ và các cải cách xã hội. Đó chính là cách phòng thủ đất nước tốt nhất, đồng thời tăng cường được lực lượng cách mạng đấu tranh cho mục tiêu của Đảng. Theo tinh thần nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương khéo léo lợi dụng tình hình chiến tranh đế quốc, sự đối lập giữa chủ nghĩa phát xít và chế độ dân chủ tư sản “để đấu tranh đòi những quyền tự do dân chủ, sự cải thiện các điều kiện sống nhằm mục đích có thể sau đó đòi hỏi một chế độ chính trị dân chủ được mở rộng” cụ thể hơn, nhân cơ hội này xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 417-423.
THÁNG 9
Phong trào đấu tranh chống dự án tăng thuế ở Trung Kỳ
Ngày 25-2-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông báo về vấn đề bầu cử và thuế, coi đấu tranh chống thuế là một nội dung quan trọng.
Tháng 9-1938, chính quyền thực dân và Triều đình Huế đưa ra dự án thuế mới, buộc Viện Dân biểu Trung Kỳ phải thông qua. Dự án thuế mới này tăng cường đánh thuế dân nghèo, còn người giàu được giảm nhẹ.
Chấp hành chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Xứ uỷ Trung Kỳ chỉ đạo các đảng bộ lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi bãi bỏ dự án tăng thuế. Tại Đà Nẵng, trong ba ngày 4, 5 và 6-9-1938 có năm đoàn đại biểu đến gặp nghị viên Quang Cự nhờ truyền đạt nguyện vọng lên Viện Dân biểu. Ngày 7-9-1938, dân biểu Đỗ Phiên ghé lại Trà Kiệu, 150 đồng bào Duy Xuyên đến gặp, yêu cầu ông thay mặt nhân dân phản đối nhà cầm quyền tăng thuế. Nhân dân tổng Thuận An (Quế Sơn) cũng cử đại biểu tới gặp ông Đỗ Phiên, đề đạt nguyện vọng giảm thuế. Nhân dân ở Duy Xuyên còn làm đơn, lấy chữ ký gửi lên Viện Dân biểu đòi giảm các thứ thuế ba tăng, thuế môn bài, thuế khung cửi. Các chủ xưởng dệt ở Hội An cũng làm đơn với 250 chữ ký gửi lên công sứ Pháp đòi giảm thuế môn bài. Ở Điện Bàn, nhân dân đến nhà Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ ở Hà Đằng yêu cầu ông chống dự án thuế mới. Ở Đạt Lộc, Huyện uỷ vận động một số lý trưởng đứng ra chống thuế. Ở Tam Kỳ, nhân dân đến gặp dân biểu Nguyễn Quý Hương đề đạt yêu sách...
Ngày l0-9-1938, 400 người thuộc đại biểu của đủ các tầng lớp nhân dân Huế tổ chức biểu tình, giương cao khẩu hiệu chống dự án thuế mới, đòi sửa đổi thuế thân, thuế điền thổ, đòi mở rộng các quyền tự do dân chủ. Cùng thời gian, 200 công nhân làm đường Thiên Hữu và 100 công nhân làm cầu Tràng Tiền cũng tổ chức đấu tranh kéo đến trụ sở báo Dân đề nghị chuyển nguyện vọng của họ lên Viện Dân biểu.
Ngày 13-9, tiểu thương chợ Đông Ba đấu tranh. Tiếp đó ngày 16-9, 500 người mít tinh trước cửa chợ An Cựu (Huế) đấu tranh chống dự án tăng thuế đòi giảm thuế chợ, bỏ thuế môn bài. Ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh như các tổng Sư Lỗ và Quảng Xuyên (Phú Vang), ở Sịa, Hạ Lang, Tây Thành, Phước Yên (Quảng Điền), nhân dân cũng đứng lên đấu tranh chống thuế. Nhiều đoàn đại biểu các tầng lớp nhân dân kéo tới trước trụ sở Viện Dân biểu Trung Kỳ đưa các bản dân nguyện đòi bỏ dự án thuế mới, đòi các quyền tự do dân chủ...
Khi Viện Dân biểu họp, các đoàn đại biểu đến trước Viện phản đối dự án tăng thuế. Điện tín, thư từ, bản dân nguyện tới tấp gửi đến các đại biểu. Báo chí công khai phản ánh nguyện vọng của nhân dân... Tất cả gây nên bầu không khí đấu tranh sôi sục.
Do sức ép mạnh mẽ của quần chúng nhân dân và dư luận rộng rãi bên ngoài, ngày 16-9-1938, Viện Dân biểu Trung Kỳ phải thông qua nghị quyết bác bỏ dự án tăng thuế của chính quyền thực dân.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. t. I.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. 1.
NGÀY 29 - 10
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc
Trước tự phát triển mạnh của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới đang tới gần, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Tuyên ngôn nói rõ lập trường quan điểm của Đảng.
Trước hết, Đảng phê phán chính sách ngoại giao “thoả hiệp, mập mờ, sai lầm" của Anh và Pháp, hy sinh quyền lợi của các nước nhỏ yếu, chỉ góp phần nuôi dưỡng ngọn lửa chiến tranh. Khối các nước phát xít Đức, Ý, Nhật đang ra sức lợi dụng thái độ nhu nhược của Anh, Pháp, mở rộng khu vực chiếm đóng; ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới. Ở châu Á, chính sách xâm lược của phát xít Nhật ở Trung Quốc, nhất là ở Hoa Nam, đang trực tiếp đe doạ Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi nhân dân phản đối chính sách đầu hàng thoả hiệp của Anh, Pháp, ủng hộ Liên bang Xôviết.
Về phòng thủ Đông Dương, Đảng nêu rõ: phải có sự tham gia của đông đảo quần chúng. Muốn vậy, chính quyền thuộc địa phải ban bố các quyền tự do dân chủ và cải thiện sinh hoạt cho nhân dân phải tổ chức quần chúng vào các hội quốc phòng và vũ trang quần chúng khi chiến tranh nổ ra. Trung ương Đảng tuyên bố, phòng thủ Đông Dương mà không ban bố các quyền tự do, không cải thiện sinh hoạt dân chúng, đó là phòng thủ một cách không chắc chắn". Mặt khác, “dân chúng phòng thủ Đông Dương mà không tranh đấu đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện sinh hoạt, đòi vũ trang để phòng thủ thì sự phòng thủ ấy là phòng thủ suông, và không có ý nghĩa".
Khi phòng thủ Đông Dương cần đề phòng các lực lượng thân Nhật, thân Xiêm, lực lượng cực đoan Tờrốtkít, luôn âm mưu phá hoại phòng thủ. Trái lại, nếu chính quyền thuộc địa mượn tiếng phòng thủ mà đàn áp quần chúng, đàn áp những đảng phái ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương thì sẽ mất hết lực lượng cho sự phòng thủ Đông Dương, chỉ có lợi cho bọn phát xít xâm lược.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi các tầng lớp nhân dân và các lực lượng tiến bộ ở Đông Dương tăng cường đoàn kết xung quanh Mặt trận Dân chủ Đông Dương đấu tranh vì tự do, cơm áo, hoà bình, đòi phòng thủ đất nước chống nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa phát xít.
Tuyên ngôn của Đảng đối với thời cuộc thể hiện nhãn quan chính trị sắc bén trước tình hình thế giới, tình hình Đông Dương; đối với cuộc đấu tranh cách mạng đã biết khéo léo tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh chống chính quyền thuộc địa phản động phối hợp với phong trào cách mạng thế giới chống chủ nghĩa phát xít.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 431-434.
NGÀY 20 - 11
Thông cáo của Xứ uỷ Nam Kỳ về đấu tranh vận động cứu đói, chống địa tô và đòi tăng công gặt
Nông dân bị đói nghiêm trọng, nguyên do là bị bọn địa chủ chiếm đoạt ruộng đất, bị mất mùa do lụt lội, thiên tai và nặng nề hơn là do chính sách thuế má của bọn thực dân. Vì đói, vì khổ, nông dân đã vùng dậy đấu tranh nhất là nông dân miền Tây Nam Kỳ. Để đưa phong trào đấu tranh của nông dân đi theo đúng đường lối của Đảng, Xứ uỷ ra Thông cáo yêu cầu các cấp uỷ thực hiện theo chỉ đạo của Xứ uỷ.
Về phong trào đấu tranh của nông dân bị đói, Xứ uỷ nêu rõ: phải hướng dẫn quần chúng đấu tranh, đòi Chính phủ phải: phân phối ba triệu phơrăng cứu tế do Chính phủ chính quốc cấp cho những nạn nhân ở Đông Dương, buộc các địa chủ phải cho nông dân vay thóc, cho vay tiền giúp giống và súc vật cày kéo; trả tự do cho những người biểu tình bị bắt và giảm các thứ thuế.
Chúng ta phải làm cho quần chúng hiểu rằng chỉ có một cuộc đấu tranh thống nhất, kiên quyết và được tổ chức tốt mới có thể cho phép họ giành được thắng lợi, đồng thời phải vạch mặt nạ nhóm khiêu khích, nhóm Tờrốtkít.
Về vấn đề đấu tranh chống địa chủ cho lĩnh canh với giá cắt cổ, cần phải thành lập những uỷ ban cổ động trong tất cả các địa phương để vận động, lãnh đạo quần chúng phản đối giá lĩnh canh quá cao; phải làm cho giá tô lĩnh canh được quy định thống nhất là 1/3 thu hoạch, phải đòi Chính phủ lập ra những uỷ ban có đại biểu của nông dân để kiểm soát giá lĩnh canh...
Về cuộc đấu tranh để đòi tăng tiền công gặt, kinh nghiệm cho thấy rằng trong cuộc đấu tranh của nông dân phải khôn khéo liên hết công nhân nông nghiệp và trung nông. Tuỳ theo điều kiện từng địa phương để đưa ra khẩu hiệu đấu tranh cho phù hợp.
Xứ uỷ nhấn mạnh: trong khi lãnh đạo phong trào nông dân, các đảng viên phải luôn luôn chăm lo lợi ích trước mắt của quần chúng nông dân phải thức tỉnh, giác ngộ nông dân, chú trọng giác ngộ những nông dân cách mạng và làm cho ảnh hưởng của Đảng được mở rộng để tranh thủ quần chúng nông dân.
Cuối cùng, Xứ uỷ thông báo về việc Toàn quyền Đông Dương chỉ thị cho chính quyền thuộc địa tại các địa phương xem xét, bỏ giấy căn cước và yêu cầu các cấp uỷ miền phải hướng dẫn quần chúng đưa nguyện vọng và tuyên truyền mạnh mẽ để đòi thực hiện cải cách này.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 435-439.
THÁNG 11 VÀ THÁNG 12
Nông dân Long Xuyên đấu tranh chống địa chủ cướp đoạt ruộng đất
Trong những năm 1936-1939, tại tỉnh Long Xuyên, giai cấp địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, bần cùng hoá, biến họ thành người làm thuê ngay trên mảnh ruộng của mình.
Tháng 11-1938, tại Ba Thê (Vọng Thê), nông dân tập trung kéo đến chủ tỉnh Long Xuyên tố cáo bọn địa chủ trong làng, xã chiếm đoạt ruộng đất, nhưng không có kết quả. Không nản chí, quần chúng làm đơn gửi lên Thống đốc Nam Kỳ. Chính quyền thực dân phải lập phái đoàn về điều tra, nhưng trong đó lại có kẻ trước đây từng bao che cho địa chủ cướp ruộng đất. Nông dân phẫn nộ, kiên quyết đấu tranh đến cùng. Để cổ vũ cuộc đấu tranh của nông dân Long Xuyên, tuần báo Phóng sự ra ngày 8-12-1938 đăng bài "Dân cày cứ bị bóc lột" đặt câu hỏi: 2000 công đất của 300 người dân Vọng Thê sẽ thuộc về bọn cường quyền chăng? Và nêu rõ nông dân sẽ kiên quyết giữ đất dù có phải đổ máu chứ không chịu để ai xâm chiếm.
Ở Thạch Quới, hàng trăm nông dân kiên quyết đấu tranh chống tên địa chủ Lê Quang Liêm trắng trợn cướp đoạt 1270 ha đất.
Nông dân ở các vùng Vọng Thê, Thạch Quới liên tục kéo đến gặp chủ tỉnh kiến nghị về vấn đề ruộng đất. Nhiều tờ báo cách mạng và tiến bộ ở Sài Gòn như Lávant-garde, Dân chúng, Bạn dân... đã tìm hiểu tiếp xúc với nhân dân, viết bài phản ánh, ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp đoạt ruộng đất.
- Những sự kiện lịch sử phong trào nông dâm và Hội Nông dân Việt Nam, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam (1925-1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 199, 210.
THÁNG 12
Cuộc vận động Dự thảo khế ước cải lương ở Thanh Hoá
Nhằm đối phó với phong trào đấu tranh của quần chúng đòi các quyền dân sinh dân chủ, bọn thống trị bày ra cái gọi là "cải lương hương tục”, thực chất là đánh lạc hướng quần chúng, làm cho quần chúng xa rời con đường đấu tranh cách mạng.
Để phá tan âm mưu của địch, Đảng bộ Thanh Hoá kịp thời đề ra nhiều biện pháp tích cực như mở cuộc vận động Dự thảo khế ước cải lương để hướng dẫn quần chúng đấu tranh theo đường lối cách mạng của Đảng.
Chủ trương trên được đại đa số quần chúng hưởng ứng và trở thành lực lượng đấu tranh với địch. Trên cơ sở tinh thần của bản Dự thảo khế ước cải lương, Chi bộ làng Yên Lộ (Thiệu Hoá) có sáng kiến tiến hành phổ thông đầu phiếu bầu những đại biểu của mình vào Hội đồng Hương chính.
Hội đồng Hương chính làng Yên Lộ có 15 người, chia làm 5 tiểu ban thay mặt nhân dân quản lý các mặt kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. Ở nhiều làng xã khác trong tỉnh, quần chúng cũng tích cực vận động đưa những người có tư tưởng tiến bộ vào chính quyền địch ở cơ sở.
Việc thành lập Hội đồng Hương chính Yên Lộ là một sự vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng vào địa phương trong thời kỳ cao trào dân chủ. Có thể nói đây là hình thức tập dượt đầu tiên của nhân dân lao động trong việc xây dựng và quản lý chính quyền ở làng xã.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
TRONG NĂM 1938
Nhân dân Quảng Trị đấu tranh đòi tự do dân chủ
Trong năm 1938, thi hành các chủ trương của Trung ương Đảng, Xứ uỷ Trung Kỳ, Đảng bộ Quảng Trị đã lãnh đạo nhân dân tích cực đấu tranh. Ngày 7-4-1938, nông dân An Tiêm (Triệu Phong) thông qua bản yêu sách gửi lên dân biểu Phan Triệu Khanh yêu cầu chuyển lên Viện Dân biểu và chính quyền thuộc địa phản đối dự án tăng thuế.
Đồng chí Lê Duẩn, đại diện Xứ uỷ Trung Kỳ và đồng chí Hồ Xuân Lưu, Tỉnh uỷ viên về Cam Lộ chỉ đạo phong trào. Phong trào chống dự án tăng thuế và đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ khác phát triển mạnh ở Cam Lộ, Triệu Phong, Vĩnh Linh.
Ngày 17-10, tại phủ Vĩnh Linh, 2.000 nông dân biểu tình trương các khẩu hiệu: "Phản đối cưỡng bức tăng thuế điền thổ”, "Ban bố các quyền tự do dân chủ”, "ủng hộ cuộc phòng thủ Đông Dương", "Đại xá chính trị phạm"... tên tri phủ phải chấp nhận những yêu sách của quần chúng.
Ngày 3-11-1938, hơn 1000 nông dân Triệu Phong kéo đến nhà dân biểu Phan Triệu Khanh, chất vấn và yêu cầu chuyển bản yêu sách lên Hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương đòi trả quyền tự do xuất bản báo Dân, báo Tin tức, thả những người bị bắt trong các cuộc mít tinh, biểu tình vừa qua, huỷ bỏ các loại thuế thân, thuế đoan, thuế chợ, ủng hộ phòng thủ Đông Dương... Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân, 1 đại biểu và 22 chính trị phạm đã được trả tự do.
Ngày 4-11-1938, gần 1000 người ở vùng chợ Phiên, Cam Lộ biểu tình đòi hoãn, giảm thuế, đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh. Chính quyền thực dân đàn áp bắt một số người nhưng sau đó phải thả ngay do quần chúng kiên quyết đấu tranh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. I.
NĂM 1938
Xây dựng lại cơ sở Đảng ở vùng mỏ Hòn Gai - Cẩm Phả
Sau cuộc tồng bãi công tháng 11-1936, giới chủ mỏ và chính quyền thực dân khủng bố dữ dội phong trào đấu tranh của công nhân mỏ. Ở Cẩm Phả, chúng bắt đi 71 người và đuổi biệt xứ nhiều công nhân khác. Ở Hòn Gai, Mông Dương, chúng bắt 11 người đưa về xử ở Toà án Hải Phòng. Chúng tiến hành giãn thợ, đuổi việc những người đấu tranh hăng hái nhất. Mặt khác, chúng tăng cường mạng lưới mật thám, chỉ điểm, kiểm soát chật chẽ việc đi lại ở vùng mỏ. Do đó, việc gây dựng cơ sở của ta gặp rất nhiều khó khăn.
Nhận rõ tầm quan trọng của khu công nghiệp lớn như Hòn Gai, Trung ương Đảng chủ trương tăng cường cán bộ đảng viên cho vùng mỏ, tích cực xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng trong công nhân và nhân dân lao động.
Tháng 5-1938, đồng chí Lương Khánh Thiện, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ trực tiếp giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Đức Du (Lê Viên) và một số đồng chí khác về Hòn Gai gây cơ sở và chắp nối liên lạc; trước hết, phải bám trụ được đất Hòn Gai, lợi dụng những hình thức tổ chức công khai hợp pháp như Hội tương tế, chơi họ, đá bóng... để tuyên truyền giáo dục, xây dựng cơ sở trong quần chúng.
Tháng 9-1938, đồng chí Hoàng Văn Thụ được Xứ uỷ Bắc Kỳ cử đến khu mỏ chỉ đạo phong trào. Đồng chí vào Mỏ Hà Lầm làm thợ đun máy than, hoà mình vào đời sống công nhân mỏ, được công nhân hết sức tín nhiệm. Trong điều kiện địch kìm kẹp gắt gao, mạng lưới mật thám dày đặc, đồng chí vẫn tìm cách tập hợp quần chúng để tuyên truyền giáo dục, hướng dẫn họ vào con đường đấu tranh cách mạng. Sau Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ, cuối năm 1938, đồng chí được điều đi hoạt động ở địa phương khác.
Những hoạt động của đồng chí Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Đức Du và các đảng viên khác đã xây dựng được một số cơ sở quần chúng ở vùng mỏ, góp phần làm cho ảnh hưởng của Đảng được liên tục trên đất mỏ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928- 1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NĂM 1938
Cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất ở ấp Tân Bồi (Thái Ninh, Thái Bình)
Qua nhiều năm lao động vất vả, đắp đê lấn biển, nông dân huyện Thái Ninh (Thái Bình) đã mở thêm được 100 mẫu đất canh tác. Nhưng số ruộng đất này không được chia cho nông dân. Nhà cầm quyền thực dân, chủ mưu là tên Thống sứ Saten đã cướp đoạt số ruộng đất này cho tên Ngô Văn Phú, chủ bút báo Đông Pháp để làm đồn điền. Hành động cướp đoạt trắng trợn của tên chủ Pháp và tay sai làm cho quần chúng vô cùng phẫn uất.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ và Huyện uỷ, các chi bộ Đảng ở Thái Ninh vận động nông dân kiên quyết đấu tranh đòi lại ruộng đất. Cuộc đấu tranh bắt đầu từ năm 1938 và kéo dài ba năm.
Nhiều gia đình nông dân ở các làng Thần Đầu, Thần Huống, Lũ Tả... kéo đến giữa bãi ấp, dựng nhà, giữ ruộng...
Nông dân các làng ven biển Thái Ninh họp, viết hàng trăm đơn kiện đưa lên chính quyền thuộc địa. Nông dân các huyện Thái Ninh, Tiền Hải, Vũ Tiên, Kiến Xương tổ chức mít tinh lớn ở Kè Đá (Kiến Xương) vạch trần âm mưu và thủ đoạn của Ngô Văn Phú - Saten trong việc chiếm đoạt ấp Tân Bồi, đồng thời vận động một chủ ấp khác viết bài phản đối Ngô Văn Phú cướp đất, đăng trên báo Ngày nay, gây dư luận phản đối mạnh mẽ.
Trong quá trình đấu tranh, đã tranh thủ được một số hương lý ở địa phương. Có người tham gia phản đối trực tiếp hoặc ít ra cũng đứng trung lập làm cho Ngô Văn Phú bị cô lập. Có lúc bọn thống trị ở tỉnh điều binh lính về đàn áp nhưng trước lý lẽ đúng đắn của nông dân chúng phải rút lui.
trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, năm 1940, bãi Tân Bồi được coi là ruộng đất công đem chia cho nông dân. Cuộc đấu tranh thắng lợi.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
NĂM 1938
Các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ của nhân dân Nam Kỳ
Thực hiện đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng, trong năm 1938, mặc dù Chính phủ Pháp ngày càng ngả về phía hữu, Xứ uỷ Nam Kỳ tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.
So với năm 1937, phong trào đấu tranh toàn xứ không mạnh mẽ bằng, nhưng trình độ giác ngộ của quần chúng cao hơn, sự lãnh đạo của Đảng vững vàng hơn. Phong trào đấu tranh diễn ra với những hình thức phong phú, nội dung khẩu hiệu mềm dẻo, linh hoạt, như đòi miễn, giảm thuế, chia công điền cho dân nghèo, thả tù chính trị, tự do lập Hội ái hữu, nghiệp đoàn, việc làm cho công nhân, nông dân cứu tế...
Đặc biệt, thời gian cuối năm 1937 đầu năm 1938, ở Nam Kỳ xảy ra nạn đói nông dân liên tiếp đấu tranh đòi nhà cầm quyền cứu tế. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 2000 nông dân các quận Cần Giuộc, Thủ Thừa, Trung Quận ở hai tỉnh Tân An và Chợ Lớn, đòi địa chủ trả tiền công, chia ruộng đất công, cuộc đấu tranh của 1.000 nông dân Cà Mau đòi cứu tế, chống cướp đất, cuộc đấu tranh của 2.000 công nhân, thợ thủ công, phụ nữ, học sinh Sài Gòn đòi các quyền tự do dân chủ; cuộc biểu tình của 3.000 nông dân Phước Long (tỉnh Sóc Trăng) đòi cứu tế, thành lập Hội ái hữu, giải quyết việc làm cho nông dân.
Phong trào đấu tranh của công nhân, thợ thủ công Nam Kỳ tiếp tục diễn ra với 101 cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện điều kiện làm việc, chống cúp phạt đánh đập công nhân, phản đối chế độ làm khoán...
Phong trào đấu tranh dân sinh, dân chủ của nhân dân Nam Kỳ đã đạt được nhiều thắng lợi quan trọng. Hoà nhịp với phong trào cách mạng trong cả nước, góp phần tạo nên cao trào cách mạng dân chủ rộng lớn, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc mạnh mẽ sau này.
- Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
- Những sự kiện hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NĂM 1938
Phong trào xây dựng đời sống mới ở nông thôn Bắc Kỳ
Thực hiện Nghị quyết của Xứ uỷ Bắc Kỳ: tổ chức thật nhiều Hội ái hữu, tương tế, Hội lợp nhà, đám ma, đám cưới, tổ chức các giáp mới gây phong trào cải lương hương tục và đòi cho nhân dân tham gia các cuộc bầu cử ở hương thôn, các cán bộ hoạt động ở các tỉnh Sơn La, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Bắc Giang, Bắc Ninh... đã gây phong trào cải lương hương tục, vận động thực hiện đời sống mới khá sôi nổi ở các vùng nông thôn, phong trào nhằm bài trừ các hủ tục trong ma chay, cưới xin và các việc làng, chống mê tín dị đoan và nạn cường hào nhũng nhiễu nhân dân. Các tổ chức quần chúng với những hình thức công khai hợp pháp được thành lập, như Hội cấy, Hội gặt, Hội đọc sách báo, Học chữ quốc ngữ.... đã góp phần to lớn thổi bùng ngọn lửa đấu tranh dân chủ ở nông thôn trong thời kỳ này.
- Những sự kiện hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Lịch sử Đảng bộ các địa phương
NĂM 1938
Cuộc vận động "phòng thủ Đông Dương”
Trước nguy cơ chiến tranh, phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương ngày 29, 30-3-1938, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết "Về phòng thủ Đông Dương và vận động binh lính".
Trong khi thực hiện Nghị quyết của Đảng, xuất hiện hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất cho rằng nếu Chính phủ thuộc địa Pháp không chịu giải quyết các yêu cầu dân chủ của nhân dân Đông Dương thì nhân dân Đông Dương sẽ không cùng nước Pháp phòng thủ Đông Dương chống bọn phát xít.
Ngược lại, khuynh hướng thứ hai cho rằng: nếu phát xít Nhật xâm chiếm Đông Dương, nhân dân Đông Dương nhất định đứng lên kháng chiến chống Nhật mà không cần Chính phủ thuộc địa Pháp phải ban hành các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân.
Ngoài ra, khi Đảng nêu vấn đề phòng thủ Đông Dương, một số người hiểu lầm rằng Đảng từ bỏ lập trường dân tộc đi theo đế quốc Pháp, hoặc cho rằng Đảng chỉ theo lệnh của Quốc tế Cộng sản chống phát xít mà không quan tâm đến lợi ích dân tộc.
Đảng kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai lầm trên và giải thích rõ quan điểm của Đảng về phòng thủ Đông Dương1.
Chúng ta phải chủ động phòng thủ Đông Dương để chống hoạ phát xít xâm lược, liên kết với các lực lượng tiến bộ, dân chủ hoà bình trên thế giới do Liên Xô đứng đầu. Ở Đông Dương, là các lực lượng dân chủ người Pháp người Hoa. Đồng thời chúng ta tiếp tục đấu tranh đòi chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương ban bố các quyền tự do dân chủ cải thiện đời sống nhân dân để cổ vũ nhân dân tích cực phòng thủ đất nước, vũ trang nhân dân khi chiến tranh nổ ra...
Không thể tách rời việc đòi phòng thủ Đông Dương với việc đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng như cuộc đấu tranh của 200 nông dân Bình Đăng (Nam Bộ) ngày 15-8-1938; cuộc biểu tình của 300 nông dân làng Hoà Bình, Bạc Liêu đòi chia công điền cho dân nghèo, đòi bỏ thuế thân, giảm các thứ thuế khác... tháng 10-1938; cuộc biểu tình của 2000 nông dân Vĩnh Linh (Quảng Trị) ngày 17-10-1938; cuộc biểu tình của 1000 nông dân Triệu Phong (Quảng Trị) ngày 3-11- 1938. Bên cạnh những khẩu hiệu đòi các quyền dân sinh dân chủ, nhân dân đã nêu khẩu hiệu đòi phòng thủ Đông Dương. Ủng hộ phòng thủ Đông Dương trở thành một phong trào trong những năm 1938 - 1939.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 366-367.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. I.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.117.
NĂM 1938
Nhân dân Hà Nam đấu tranh chống sưu cao thuế nặng và nạn tham nhũng
Ở hai thôn Lý Nhân và Phú Cốc (Lý Nhân, Hà Nam) bọn hương lý tự đặt thêm nhiều khoản phụ thu làm cho mức thuế càng thêm nặng nề, đời sống nhân dân càng thêm cực khổ. Trước tình hình đó, tổ chức Nông hội và Đoàn Thanh niên dân chủ ở hai thôn đã vận động các tộc biểu đứng ra thu đúng mức thuế rồi trực tiếp nộp cho tri phủ, đồng thời tố cáo thủ đoạn phù thu lạm bổ của bọn lý dịch địa phương.
Ở huyện Duy Tiên, nhân dân làng Lũng Xuyên giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống tên Chánh tổng Yểng cướp đoạt 8 mẫu ruộng công. Nhân dân xã Khả Phong đấu tranh buộc bọn thống trị phải xử tù tên lý trưởng Lượng về tội tự ý đặt ra các khoản thu trái phép và cùm kẹp dã man người thiếu thuế.
Nhân dân thị xã Phủ Lý đấu tranh đòi bỏ thuế chợ và thuế môn bài. Nhân dân Kim Bảng đấu tranh vạch mặt tên tri huyện Nguyễn Ước Lễ đã bớt xén số tiền 500đ của nhân dân đóng góp để đóng guồng nước làm cho chất lượng guồng nước thấp, hoạt động kém hiệu quả. Các đảng viên ở đây vận động nhân dân phát đơn kiện lên phủ thống sứ. Thống sứ Saten phải về huyện trực tiếp xem xét. Trước thực tế đúng như đơn kiện của nhân dân, Saten buộc phải đổi tên tri huyện tham nhũng đi nơi khác.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh: Sự kiện lịch sử Đảng Hà Nam Ninh (1929- 1954), Hà Nam Ninh, 1976.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t. I.
TRONG NĂM
Phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nông dân và hoạt động của tổ chức Nông hội
Hoà chung vào cuộc đấu tranh sôi nổi của các giai cấp, tầng lớp khác trong cao trào dân chủ, giai cấp nông dân Việt Nam đã vùng dậy đấu tranh mạnh mẽ. Năm 1938 nổ ra 118 cuộc đấu tranh của nông dân, tiêu biểu là các cuộc đấu tranh:
Ngày 22-7, nhân dân làng Cát Ngạn (Thanh Chương, Nghệ An) đấu tranh đòi thực dân Pháp và tay sai tính thuế đúng diện tích canh tác, chống phù thu lạm bổ.
Ngày 1-5, nông dân xã Bình Trị (Gia Định), ngày 17-8, 500 nông dân Chợ Lớn và 500 nông dân Cần Giuộc đấu tranh đòi bãi bỏ lệ đấu giá công điền, chống địa chủ cướp đoạt ruộng đất, đòi chia đất cho dân nghèo, giảm các sắc thuế bỏ thuế thân cho người nghèo.
Từ ngày 4 đến ngày 10-9, nông dân quận Phước Long, ngày 4-10, 800 nông dân ở Cà Mau, ngày 7-10, nhân dân làng Trương Lộc (Vĩnh Long), ngày 17-10, 2.000 nông dân phủ Vĩnh Linh (Quảng Trị) đấu tranh đòi nhà cầm quyền địa phương trợ cấp cho dân đón đòi chia công điền cho nông dân, giảm thuế, tự do lập Hội ái hữu, cải cách Viện Dân biểu, đại xá chính trị phạm, ban bố các quyền tự do dân chủ, phòng thủ Đông Dương.
Ngày 3-11, 1.000 nông dân Triệu Phong (Quảng Trị) kéo đến nhà dân biểu Phan Triệu Khanh đưa yêu sách đòi trả quyền tự do xuất bản báoDân, báo Tin tức, thả những người biểu tình bị bắt, ủng hộ phòng thủ Đông Dương. Ngày 5-11, 200 nông dân làng Bình Trị (Chợ Lớn, Gia Định) đấu tranh đòi giảm các sắc thuế, ban bố các quyền tự do dân chủ... Tháng 12, nông dân làng Lượng Long (Mỹ Tho) đấu tranh đòi thay đổi cách tính công gặt lúa.
Ở Bắc Kỳ, trong năm 1938, nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của nông dân huyện Thái Ninh (Thái Bình) giành lại ấp Tân Bồi.
Những cuộc đấu tranh của nông dân vừa mang tính chất kinh tế (như đòi giảm thuế, cứu đói, chia ruộng đất công...) vừa mang tính chất chính trị (đòi các quyền tự do dân chủ như tự do ái hữu, cải cách chế độ bầu cử, ân xá chính trị phạm...).
Hình thức đấu tranh phong phú: mít tinh, biểu tình, đưa đơn, bản dân nguyện, gặp dân biểu, sử dụng báo chí công khai... chủ yếu là hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, lợi dụng bầu không khí dân chủ trong xã hội lúc đó.
Trong các cuộc đấu tranh, vai trò của tổ chức Nông hội được đẩy mạnh hơn trước, triệt để sử dụng các hình thức tổ chức công khai hợp pháp như Hội cấy, Hội gặt, Hội hiếu, Phường đi săn, Nhóm học chữ quốc ngữ.... Số nông dân tham gia các tổ chức trên ở Bắc Kỳ là 2.000 người. Trung Kỳ là hơn 8.800 người Nam Kỳ là trên 15.735 người. Nông hội đã tập hợp được ngày càng đông đảo nông dân đấu tranh theo chủ trương của Đảng. Năm 1938 trở thành năm có phong trào đấu tranh của nông dân khá sôi động.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào công dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 116-118.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh; Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị: Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Những sự kiện hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TRONG NĂM
Cuộc vận động ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng chiến chống phát xít Nhật
Giữa năm 1937, phát xít Nhật tiến hành xâm lược Trung Quốc thực hiện mưu đồ bành trướng ở châu Á. Nhân dân Trung Quốc đã anh dũng đứng lên kháng chiến. Đảng và nhân dân ta luôn theo dõi, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Trung Quốc. Báo chí công khai của Đảng như các tờ Tin tức, Dân, Dân chúng và báo chí tiến bộ hàng ngày cổ vũ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc, phản đối những hành động tiếp tay cho giặc Nhật của nhà cầm quyền phản động Pháp ở Đông Dương. Đảng nêu khẩu hiệu “giúp đỡ Trung Quốc". Những người cộng sản sáng tác và phổ biến bài hát "Giúp Trung Quốc tức là giúp mình".
Chủ trương của Đảng tạo ra một phong trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật ở nhiều địa phương trong cả nước. Nhân dịp những ngày kỷ niệm như 7-7 (ngày phát xít Nhật gây hấn xâm lược Trung Quốc), ngày 11/2 (kỷ niệm công xã Quảng Tây), bằng nhiều hình thức, đảng bộ các địa phương đã biểu thị tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ nhân dân Trung Quốc. Ở Nam Bộ, báo Dân chúng cổ động và tiếp nhận sự giúp đỡ nhân dân Trung Quốc, năm 1938 quyên góp được 399,83 đồng. Ở Bắc Bộ, bộ phận hoạt động công khai của Đảng vận động chi nhánh Đảng Xã hội (Pháp) và các đoàn thể quần chúng đứng ra tổ chức chợ phiên ở Hà Nội từ ngày 1 đến ngày 4-12-1938, quyên góp được 785 đồng giúp đỡ nhân dân Trung Quốc. Sau chợ phiên, ta tiếp đón đoàn Nhi đồng Cứu vong Trung Quốc tại Hội quán Quảng Đông (phố Hàng Buồm ngày nay) ở Trung Bộ, phong trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc cũng rất mạnh mẽ. Tỉnh uỷ Nghệ An tổ chức mít tinh, diễn thuyết, đá bóng, diễn kịch, ném hình nộm bọn trùm phát xít... Hội Phụ nữ có sáng kiến tổ chức "gánh hàng ngày xuân", đem sách báo, hàng hoá về các chợ bán để quyên góp tiền bạc gửi giúp nhân dân Trung Quốc. Đảng bộ Thanh Hoá phát động phong trào ủng hộ nhâu dân Trung Quốc kháng Nhật, thu được 100 đồng gửi các chiến sĩ du kích Trung Quốc kèm theo một bức thư với 3320 chữ ký ủng hộ cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật. Ở nhiều địa phương khác như Nam Định, Vinh... bằng nhiều hình thức nhân dân cũng bày tỏ tinh thần đoàn kết với nhân dân Trung Quốc.
Phong trào ủng hộ nhân dân Trung Quốc kháng Nhật thể hiện tình đoàn kết quốc tế cao cả, tinh thần yêu chuộng hoà bình chống chiến tranh phát xít của nhân dân ta, góp phần nâng cao uy tín của Đảng ta ở Đông Nam Á và thế giới.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t. I.
NĂM 1938 - 1939
Những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyên Ái Quốc
Cuối năm 1938, trở lại Trung Quốc, đồng chí Nguyễn Ái Quốc hết sức chú ý theo dõi tình hình cách mạng trong nước.
Từ Trung Quốc, Người viết nhiều bài báo gửi về nước, đăng trên tuần báo Notre Voix (Tếng nói của chúng ta), một tờ báo công khai của Đảng, xuất bản ở Hà Nội. Trong các bài báo, Người thường ghi: "Thư từ Trung Quốc, Quế Lâm, ngày... tháng... năm. Ký tên P.C Line".
Tháng 12 năm 1938, bài báo đầu tiên mang tựa đề "Người Nhật Bản muốn khai hoá Trung Quốc như thế nào?" tố cáo tội ác của phát xít Nhật đối với nhân dân Trung Quốc. Bắt đầu từ đây, Nguyễn Ái Quốc liên tục viết cho báo trong nước: tờ Dân chúng, Notre Voix.
Dưới danh nghĩa một nhà báo Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc phân tích tình hình Trung Quốc, tố cáo tội ác của phát xít Nhật, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Trung Quốc đang chiến đấu cho độc lập, tự do. Nội dung các bài báo giới thiệu cho những người cộng sản và nhân dân Việt Nam những kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân Trung Quốc, giúp nhân dân ta nâng cao cảnh giác, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đòi hoà bình, đòi phòng vệ Đông Dương.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3, tr. 99-137.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t.1.
NĂM 1938-1939
Nhân dân Quảng Nam đấu tranh chống áp bức, bóc lột
Năm 1938-1939, thực dân Pháp mở đường 14 nối Đà Nẵng với Kon Tum. Chúng bắt nông dân ở các huyện Hoà Vang, Đại Lộc, Điện Bàn, Hiên, Giằng (Quảng Nam) phải đi làm xâu.
Trước nạn xâu dịch nặng nề, một số cai đốc người Thượng cho người viết đơn, lấy dấu tay trưởng làng, mang ra kiện ở Toà Khâm sứ Huế. Chính quyền thực dân điều hai trung đội lính khố xanh lên vùng cao Hiên, Giằng để răn đe các bản làng trì hoãn không chịu đi làm xâu. Nhân dân các làng bản đã tụ họp, bàn bạc, kiên quyết không chịu đi làm xâu.
Tháng 2-1939, được tin 20 lính dẫn giải 40 người Thượng bị bắt đi làm xâu qua vùng, thanh niên Hiên, Giằng tổ chức mai phục, tiêu diệt 4 tên lính. 13 bản làng trong vùng với hơn 1.000 dân làm lễ ăn mừng thành lập làng lớn đoàn kết chống giặc.
Cũng trong năm 1938, hàng trăm nông dân bốn xã miền Đông Quế Sơn đấu tranh chống bọn hào lý bán đấu giá ruộng công. Ở Duy Xuyên, nông dân Trà Nhiêu kiện hào lý chiếm đất bồi đã 10 năm, xung đột với lính phủ khiến tri phủ sợ hãi bỏ chạy. Nông dân trong phủ cũng đấu tranh buộc tri phủ phải bỏ lệ bắt dân đóng góp tiền của để xây cất phủ đường. Nông dân Điện Bàn, Duy Xuyên còn đấu tranh phản đối bị cưỡng bức đi làm đường xe lửa và giành thắng lợi.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991. t. I.
___________
1. Xem thêm: “Thư gửi Xứ uỷ Nam Kỳ và tất cả các đồng chí tháng 8-1938” và “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc” ngày 29-10.1938, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. t. 6, tr. 417-431.
Năm 1939 NGÀY 1-1
Đấu tranh của công nhân Biên Hoà đòi cải thiện đời sống
Sau khi Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Biên Hoà thành lập (đầu năm 1937), công tác xây dựng Đảng ở đây có những bước phát triển mới. Một số chi bộ ở các xã, quận, nhà máy được tổ chức. Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ của các tầng lớp nhân dân lao động ở Biên Hoà nổ ra liên tục, nhất là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
Ngày l-1-1939, hàng ngàn công nhân ở các sở cao su đồng loạt bãi công đòi tăng lương, đòi cải thiện đời sống. Cuộc đấu tranh rộng lớn này buộc chủ các Công ty SIPH, Công ty Đất Đỏ phải lệnh cho các chủ đồn điền giải quyết một số yêu cầu cụ thể của công nhân như giảm bớt mức khoán, làm lại nhà của; cấp phát giường nằm, cấp gạo, thuốc men cho công nhân đau yếu.
Cùng với những cuộc đấu tranh của công nhân, phong trào đấu tranh của các tầng lớp lao động khác trong tỉnh cũng diễn ra sôi động. Nông dân các xã thuộc quận Châu Thành, Long Thành, Xuân Lộc đấu tranh đòi bỏ thuế thân, giảm thuế điền, chống ách áp bức của địa chủ, cường hào.
Qua phong trào đấu tranh, ý thức giác ngộ cách mạng của quần chúng được nâng lên, vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng được củng cố.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai; Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai (1930-1995), Nxb Đồng Nai, 1997, t. 1.
THÁNG 1
Đảng bộ Chợ mới (An Giang) lãnh đạo nông dân đấu tranh đòi quyền lợi
Từ năm 1938, tại An Giang, do bị địa chủ ức hiếp và tăng tô một cách vô lý, nông dân đã nhiều lần nổi lên đấu tranh. Mâu thuẫn ngày càng lớn đã dẫn đến cuộc đấu tranh quyết liệt của nông dân ở xã Long Điền, Long Kiến (huyện Chợ Mới, An Giang).
Tháng 1-1939, hàng trăm nông dân xã Long Điền, Long Kiến ra cánh đồng giáp ranh hai xã (láng nước) để nôm cá thì bị hai địa chủ gian ác nhất vùng là Mạo và Bé đuổi, cấm đoán. Trước tình hình đó, để bảo vệ quyền lợi của nông dân nghèo, Đảng bộ huyện Chợ Mới quyết định lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Đảng bộ tổ chức cán bộ cùng nông dân đi nôm cá. Nhận được tin, tên Bé tức giận, mang súng ra hăm doạ, đuổi mọi người ra khỏi láng nước.
Đồng chí Đinh Trường Sanh, thành viên "Uỷ ban Hành động" Chợ Mới lãnh đạo, động viên mọi người bình tĩnh làm việc. Khi tên Bé lên cò súng bắn hăm doạ, đồng chí Sanh dẫn đầu đoàn người xông lên vây bắt, trói tên Bé dẫn về bót cò Mỹ Luông, tố cáo hành động láo xược trên và đòi bót cò xử lý.
Xã Mạo (anh tên Bé) định lo lót cho em được thả. Hàng trăm quần chúng đấu tranh phản đối hò la “không được thả nó, yêu cầu trị tội nó". Bọn lính kéo ra đàn áp, bắt đồng chí Sanh và hàng chục người khác.
Trước tình hình nghiêm trọng, Đảng bộ Chợ Mới huy động hàng trăm quần chúng kéo đến, vây chặt bót đòi thả người bị bắt, trị tội tên Bé.
Lính khố xanh được điều từ Long Xuyên đến, xông vào đoàn biểu tình, dùng báng súng đập vào đầu và lưng mọi người. Quần chúng vừa chống trả vừa hô lớn "Đả đảo khủng bố, thả ngay những người bị bắt, không được đánh đập"... Bọn lính tiếp tục đàn áp và bắt thêm hàng chục người.
Thấy kéo dài đấu tranh không lợi, các đồng chí lãnh đạo ra lệnh tạm rút. Bọn địch cho "mời" các đồng chí Ung Văn Khiêm, Bùi Trung Phẩm, Đinh Thị Tiếu.... đến và bố trí nhân chứng giả vu cáo để buộc tội xúi giục nhân dân. Biết được âm mưu này, ta đã vận động luật sư tiến bộ vạch trần hành động sai trái của anh em Mạo và Bé cùng bót cò Mỹ Luông, tố cáo hành động đàn áp, bắt bớ vô lý của chủ tỉnh Long Xuyên.
Sự kiện này tạo dư luận phẫn nộ rộng khắp các tỉnh Nam Kỳ. Cuối cùng bọn địch không dám xét xử những người bị bắt, chúng giam mỗi người 18 tháng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chợ Mới: Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ Mới 1927-1995, An Giang xuất bản, 1995.
- Những sự kiện lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ NGÀY 5 ĐẾN NGÀY 7-2
Hội nghị toàn thể Xứ uỷ Nam Kỳ đề ra nhiệm vụ tiếp tục lãnh đạo phong trào dân sinh, dân chủ
Từ đầu năm 1939, Mặt trận Dân chủ Đông Dương hình thành ở từng bộ phận và tiếp tục quá trình đi tới thống nhất trên phạm vi toàn Đông Dương. Tuy Chính phủ Lêông Bơlum (Léon Blum) ngày càng ngả sang phía hữu, các thế lực phản động thuộc địa bắt đầu đàn áp phong trào cách mạng, song phong trào đấu tranh dân sinh, dân chủ ở Nam Kỳ vẫn liên tiếp nổ ra.
Trước tình hình đó, từ ngày 5 đến ngày 7-2-1939, Xứ uỷ Nam Kỳ triệu tập cuộc Hội nghị toàn thể ở Sài Gòn nhằm kiểm điểm tình hình đảng bộ, tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng tiến lên.
Thời gian này, Nam Kỳ có một Ban Chấp uỷ chỉ đạo vùng Sài Gòn - Chợ Lớn và bốn uỷ ban liên tỉnh: Liên tỉnh Gia Định, Liên tỉnh Mỹ Tho, Liên tỉnh Cần Thơ, Liên tỉnh Long Xuyên. Những tổ chức này tập hợp 150 chi bộ với 1.089 đồng chí, 33.469 "tranh đấu”, 24.021 quần chúng và hội viên. Ngoài ra, còn có tổ chức Uỷ ban “Cao su” của Đồn điền Lộc Ninh (Thủ Dầu Một) có 21 đảng viên và Chi bộ Lộc Ninh với 6 đảng viên, 2.500 quần chúng.
Liên tỉnh Gia Định gồm các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Tây Ninh, Bà Rịa, Vũng Tàu.
Liên tỉnh Mỹ Tho gồm : Mỹ Tho, Bến Tre, Tân An, Trà Vinh.
Liên tỉnh Cần Thơ gồm: Cần Thơ, Phước Long (Rạch Giá), Bạc Liêu, Sóc Trăng và Vĩnh Long.
Liên tỉnh Long Xuyên gồm: Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Sa Đéc.
Xứ uỷ Nam Kỳ đã ra 16 quyết định về nhiệm vụ trong thời gian tới, trong đó có những vấn đề như phát triển Đảng, tổ chức các cơ quan huấn luyện, hợp pháp hoá các hội quần chúng, đổi tên Đoàn “Thanh niên Tân tiến" thành “Thanh niên Dân chủ”, đòi chính quyền mở rộng chế độ đi bầu Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.
Sau Hội nghị, các cấp bộ đảng nhanh chóng triển khai Nghị quyết của Xứ uỷ xuống các địa phương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 440-447.
THÁNG 2
Đồng bào dân tộc huyện Giằng (Quảng Nam) đánh Pháp
Năm 1935, thực dân Pháp đóng đồn tại huyện Giằng để mở rộng kiểm soát đến lưu vực sông Cái và sông Bung, khẩn trương mở đường 14 nối liền Đà Nẵng - Kon Tum. Chúng bắt nhân dân các huyện Hoà Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Hiên, Giằng đi làm xâu, xây đồn, làm đường.
Căm phẫn trước chính sách bóc lột của thực dân Pháp, đồng bào miền núi đã nổi lên đấu tranh, phong trào chống “xâu Giằng” phát triển mạnh ở các huyện. Các báo Tiếng dân, Tràng An, đại biểu Viện Dân biểu Trung Kỳ cũng lên tiếng phản đối chính sách xâu dịch hà khắc.
Trước sự đấu tranh của dân chúng và dư luận, năm 1938, thực dân Pháp quyết định cho hai trung đội lính khố xanh hành quân lên hai huyện vùng cao Hiên, Giằng đàn áp nhân dân. Chúng đe doạ nếu các bản làng không chịu đi xâu thì sẽ phải chịu cảnh thiếu muối, thiếu dao, bị đặt ra khỏi vòng pháp luật.
Trước âm mưu của thực dân Pháp, một số thanh niên nghèo làng Dalngôh như Trgia, Trgương chuẩn bị chiến đấu, tập hợp trai làng kiên quyết đánh Tây.
Tháng 2-1939, được tin 20 lính và 40 dân công người Thượng đi từ bến Giằng lên Chaval, qua sông Ra Công, sông Pút đến Zra, Trgia tổ chức thanh niên mai phục, dùng nỏ đánh địch tại Concơneng. Tên chỉ huy bị trúng tên của Trgia, 4 tên khác bị chết vì tên độc. Bọn lính phải bỏ dở cuộc hành quân.
Thắng lợi của cuộc chiến đấu ở Concơneng làm đồng bào dân tộc vùng Laê rất phấn khởi, họ suy tôn Trgia là con trời, tiếng vang đến tận vùng Đak Chưng của Lào. 13 bản làng (trên 1.000 dân) theo Trgia về Paná làm lễ ăn mừng chiến thắng, thề đoàn kết đánh Tây.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam- Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 7
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài gửi từ Trung Quốc về đăng trên các báo trong nước
Trong thời gian tháng 2 đến tháng 7-1939, từ Quế Lâm (Quảng Tây -Trung Quốc), đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài về tình hình cách mạng Trung Quốc, tình hình phát xít Nhật ở Trung Quốc, dưới hình thức những bức thư gửi về cho Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Những bức thư này lần lượt được công bố trên báo Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta) - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Số báo ngày 9-4 đăng bức thư của Nguyễn Ái Quốc, ký tên P.C Line nói về sự thống nhất và hợp tác bước đầu của Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng trong Mặt trận Dân tộc chống Nhật. Số báo ngày 16-4 đăng bức thư nói về tình hình thiệt hại, tổn thất của xâm lược Nhật Bản trên mặt trận du kích ở Trung Quốc. Với những số liệu cụ thể, bức thư đã chứng minh dù quân đội Nhật Bản được trang bị vũ khí tối tân vẫn không cản nổi sức tiến công của quân Trung Quốc. Trong thư đăng trên báo ngày 20-4-1939, sau khi nêu một số tin tức về tình hình trong nước mà Nguyễn Ái Quốc biết được qua Notre Voix (báo chí, Đảng Xã hội, tình hình đàn áp dân lao động...), Người viết "Tôi góp phần nhỏ bé của tôi vào cuộc đấu tranh chống Nhật Bản bằng cách thỉnh thoảng gửi những bài tuyên truyền cho các báo nước ngoài và công tác ở Bát lộ quân". Số báo ngày 30-4 đăng bài "Chủ nghĩa anh hùng của công nhân Trung Quốc trong chiến tranh chống Nhật", giới thiệu cuộc chiến đấu dũng cảm của công nhân Mỏ Ching Sing chống quân xâm lược Nhật.
Số báo trong tháng 5, 6, 7 đăng một số bài của Nguyễn Ái Quốc nhận định về chủ nghĩa Tờrốtxky và bọn Tờrốtkít; hoạt động của Tờrốtkít Trung Quốc. Người tố cáo những tội ác, thủ đoạn của chúng nhằm chia rẽ các lực lượng chống phát xít ở Trung Quốc. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ “Bọn Tờrốtkít không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3, tr. 124.
- Học việc Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.2, tr. 87.
NGÀY 10-3
Thông cáo khẩn cấp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về chống khủng bố và đòi tự do dân chủ
Từ khi Đalađiê (Daladier) lên cầm quyền, Chính phủ Pháp ngày càng đi sâu vào con đường phản động trong các chính sách đối nội, đối ngoại. Nhân cơ hội này, thực dân Pháp ở Đông Dương ra sức bóc lột nhân dân, tăng cường khủng bố phong trào đấu tranh. Báo Dân chúng - tờ báo tán thành đòi tự do dân chủ và ân xá chính trị phạm các biên tập viên bị chúng bắt, toà báo bị tịch thu tài sản.
Ngày 10-3-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra “Thông cáo khẩn cấp" kêu gọi các đảng bộ tổ chức quần chúng đấu tranh phản đối khủng bố, biểu dương lực lượng quần chúng, ủng hộ Đảng và báo Dân chúng - tờ báo công khai của Đảng ở Sài Gòn.
Nội dung khẩu hiệu trong các cuộc mít tinh của quần chúng là chống khủng bố, đòi thả hết nhân viên toà báo “Dân chúng”, đòi quyền tự do dân chủ, mở rộng chế độ tuyển cử; đòi tổng ân xá chính trị phạm, thủ tiêu án biệt xứ và quản thúc.
Đây là những yêu cầu của dân chúng để phòng thủ Đông Dương, cùng nhân dân Pháp ủng hộ tự do, cơm áo, hoà bình.
Bản thông cáo cũng nêu rõ các phương pháp đấu tranh như mít tinh phải tổ chức ở khắp nơi, nơi nào không tổ chức được quần chúng thì phát truyền đơn, sau mít tinh cần phải viết thư gửi Toàn quyền, Bộ Thuộc địa, Ban Uỷ viên Mặt trận Bình dân Pháp và Đảng Cộng sản Pháp...
Cuối cùng, Thông cáo căn dặn các Đảng bộ tránh những khẩu hiệu "tả", đề phòng sự khiêu khích, nắm vững con đường của Đảng, không manh động, không nhượng bộ trước sự tấn công của thế lực phản động thuộc địa.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 448-449.
NGÀY 12-3
Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ về củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong toàn xứ
Sau khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Thông cáo khẩn cấp kêu gọi toàn Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống khủng bố đòi tự do dân chủ ngày 12-3-1939, Xứ uỷ Bắc Kỳ bí mật triệu tập một cuộc hội nghị tại Hà Nội bàn phương hướng củng cố tổ chức cơ sở Đảng trong toàn xứ.
Hội nghị nghe báo cáo, phân tích tình hình thế giới, trong nước và quyết nghị chín vấn đề lớn: cải tổ các cấp bộ không đắc lực của Đảng, tổ chức lại các Ban huấn luyện và các ban phụ trách chuyên môn ở các tỉnh như Ban Công nhân vận động, Nông dân vận động, Thanh niên vận động, Phụ nữ vận động, Ban tuyên truyền, tài chính; phân bổ cán bộ tập trung vào các khu mỏ, đồn điền, thành thị quan trọng, các tuyến giao thông vận tải. Nghị quyết chỉ rõ các cấp bộ thượng cấp luôn phái đại biểu xuống hạ cấp điều tra, ra chỉ thị công tác. Các Đảng bộ phải điều tra và báo cáo số lượng, chất lượng đảng cho Xứ uỷ biết trong thời hạn một tháng, tổ chức những Uỷ ban thường trực để ủng hộ các tờ báo công khai của Đảng.
Hội nghị cũng nêu rõ tình hình Đảng bộ Bắc Kỳ đã phát triển mạnh ở thượng du (Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hà Giang), ảnh hưởng sâu rộng trong thanh niên Nùng, Thổ, gây mối liên lạc chặt chẽ với công nhân Hòn Gai, Uông Bí, Tuyên Quang, Tĩnh Túc. Đoàn Thanh niên Dân chủ phát triển mạnh ở Thái Bình, Thái Nguyên, Hà Đông. Song, do trình độ lý luận, chính trị của đảng viên mới còn quá thấp, Xứ uỷ đề ra lập chương trình huấn luyện, giao cho các Ban chuyên môn cử các đồng chí chuyên trách thực hiện đào tạo lớp đảng viên mới.
- Những sự kiện hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 28-3
Đảng Cộng sản Đông Dương ra Tuyên ngôn về tình hình chung và đường lối của Đảng
Ngày 28-3-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương ra “Tuyên ngôn tình hình chung và đường lối chủ trương của Đảng”. Tuyên ngôn nêu tình hình hiện nay rất nguy ngập. do phát xít gây chiến tranh xâm lược, chia lại thị trường thế giới. Phát xít Nhật huỷ điều ước với Pháp, chiếm Hải Nam, trực tiếp đe doạ nước ta.
Trong khi đó, Chính phủ Pháp không những không nới tay cải thiện đời sống dân thường, lại tước bỏ các quyền tự do dân chủ. Các thế lực phản động thuộc địa ở Đông Dương tăng cường bóc lột, đẩy mọi tầng lớp nhân dân từ quan lại thương gia, viên chức đến công nhân, nông dân... vào con đường khốn cùng.
Tuyên ngôn kêu gọi toàn dân hãy thống nhất hành động, tham gia vào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, chúng tôi tranh đấu cùng với anh chị em đồng bào đòi các quyền tự do dân chủ, đòi cải thiện sinh hoạt. Tuyên ngôn nhắc dân chúng cảnh giác thế lực tay sai của Nhật, đuổi cổ bọn Tờrốtkít. Tuyên ngôn kêu gọi các cử tri bỏ phiếu cho danh sách ứng cử của Mặt trận dân chủ, "là đại biểu trung thành của anh chị em đại biểu vì chương trình đã định rõ mà đấu tranh cương quyết", trong dịp bầu cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ sắp đến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 6, tr. 450-458.
NGÀY 1-5
Đảng phát động quần chúng đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động
Trong làn sóng khủng bố năm 1939, nhà cầm quyền Đông Dương ra sức ngăn cấm không cho nhân dân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Nhân ngày mất của ông Phan Thanh1, 1-5-1939, dân chúng đã tổ chức mít tinh dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa tưởng nhớ công lao sự nghiệp của ông, vừa biểu dương lực lượng, động viên tinh thần đấu tranh dưới khẩu hiệu dân chủ.
Tại Hà Nội, lễ tang được tổ chức trọng thể, với 153 vòng hoa, có đại biểu của 14 tỉnh dự, 2 vạn người xếp hàng dài 2 kilômét. Nam Kỳ, Trung Kỳ cũng cử đại biểu dự, hàng trăm bức điện chia buồn được gửi đến gia đình.
Được tin ông Phan Thanh mất, hàng ngàn nhân dân thành phố Đà Nẵng, Hội An và các huyện lân cận kéo về quê ông (xã Bảo An - Đại Lộc) để mít tinh, tưởng nhớ người chiến sĩ dân chủ xuất sắc.
Ở các tỉnh khác, nhân ngày 1-5-1939, diễn ra nhiều cuộc biểu tình, huy động hàng trăm người. Ở Hải Phòng có cuộc biểu tình của 700 người; ở Thái Bình, 500 người biểu tình; Thanh Hoá có 2.000 người biểu tình; Nghệ An có 500 nông dân họp mít tinh; Sài Gòn có 11 cuộc biểu tình 5 cuộc bãi công; Mỹ Tho có 250 công nhân biểu tình; 300 người biểu tình ở Long Xuyên; ở Bà Quẹo - Gia Định, 4 giờ rưỡi chiều có mít tinh của hơn 100 anh chị em nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, phụ nữ, thanh niên. Ở Thà Khẹt (Lào) có 40 công nhân biểu tình...
Các cuộc biểu tình, mít tinh của nhân dân lao động giương cao các khẩu hiệu: Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động; ban hành các quyền tự do dân chủ; Ban bố quyền tự do nghiệp đoàn; giảm tô cho nông dân, nông dân khai phá đất hoang được quyền sở hữu; ủng hộ phòng thủ Đông Dương, chống phát xít Nhật, thả hết nhân viên toà soạn báo Dân chúng; thực hiện Mặt trận Dân chủ Đông Dương; Ngày 1 tháng 5 muôn năm.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000, t. 3, tr. 150-151.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
NGÀY 8-5
Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ ra Nghị quyết về công tác tuyên truyền đẩy mạnh phong trào quần chúng
Đầu năm 1939, Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương đưa người tham gia Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Song do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là sự phá hoại của lực lượng Tờrốtkít nên chủ trương của Xứ uỷ không thực hiện được.
Trước tình hình đó, ngày 8-1939, Thường VII Xứ uỷ Nam Kỳ ra Nghị quyết phân tích nguyên nhân thất bại trong cuộc bầu cử Hội đồng Quản hạt, phê phán thái độ của Nguyễn Văn Tạo đối với chủ trương của Đảng; đề ra phương pháp và kế hoạch công tác tuyên quyền quần chúng.
Nghị quyết chỉ rõ “chủ nghĩa phát xít thuộc địa đang ngày càng bành trướng uy hiếp hoà bình ở Đông Dương", nhân dân chưa được hưởng quyền tự do dân chu; nhóm Tờrốtkít thì giả danh cách mạng lừa bịp quần chúng. Chính quyền thuộc địa khủng bố các nhóm tán thành Mặt trận dân chủ khám xét toà báo Dân chúng, đàn áp các tổ chức ái hữu...).
Để sửa chữa những thiếu sót dẫn đến thất bại trong cuộc bầu cử Hội đồng quản hạt, Thường vụ Xử uỷ Nam Kỳ quyết định 12 vấn đề: không công kích các đảng phái chính trị phản động mà vạch mặt và hạ uy thế những người cầm đầu; lựa chọn những đồng chí có uy tín, tài đức phụ trách các Ban tuyên truyền giải thích cho quần chúng hiểu chính sách mới của Đảng; tiếp xúc với các tổ chức chính trị (Cao Đài, Phục Việt...); chấn chỉnh lại hàng ngũ cán bộ công khai; tổ chức mít tinh giải thích nguyên nhân thất bại trong bầu cử, đập tan luận điệu tuyên truyền của nhóm Tờrốtkít... Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh công tác kiểm tra, giáo dục đảng viên, cán bộ hiểu rõ nội dung cách mạng tư sản dân chủ - tiền đề của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết nhấn mạnh, các cấp bộ đảng phải chuẩn bị phát động một phong trào quần chúng rộng rãi đưa yêu sách nhân dịp Hội đồng Quản hạt mới họp phiên họp đầu tiên. Cử các đại biểu đưa chương trình hành động tối thiểu của Mặt trận Dân chủ cho Hội đồng, tường thuật cuộc vận động trên báo chí.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 16 - 5
Công nhân Nhà máy tơ Hải Phòng đấu tranh đòi tăng lương
Nhà máy tơ Hải Phòng có 3.000 công nhân (trong đó 2000 là nữ). Công nhân ở đây làm việc rất cực nhọc nhưng đồng lương lại rẻ mạt. Giá cả sinh hoạt tăng vọt càng làm cho đời sống công nhân thêm khó khăn.
Trước tình hình này, Thành uỷ Hải Phòng trực tiếp chỉ đạo Chi bộ Đảng Nhà máy tơ lãnh đạo toàn thể công nhân đấu tranh đòi tăng lương. Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, công nhân họp và cử đại biểu gặp chủ nhà máy, yêu cầu tăng lương. Chủ Nhà máy hứa sẽ giải quyết.
Ngày 16-5-1939, chủ nhà máy tuyên bố không đáp ứng yêu sách của công nhân. Chi bộ Nhà máy lãnh đạo 1000 công nhân kíp C tắt máy đình công.
Đề trấn áp tinh thần công nhân, chủ Nhà máy quyết định tuyển công nhân mới. Song công nhân không lùi bước. Toàn thể công nhân kíp A, B cũng đồng loạt đình công. 3.000 công nhân không làm việc, cử đại biểu gặp chủ nhà máy đưa yêu sách, đòi tăng lương 20%, thực hiện chế độ khám, phát thuốc cho công nhân ốm đau; tiền công phải trả đúng kỳ hạn; công nhân được hưởng lương công nhật, phụ nữ được hưởng chế độ nuôi con nhỏ; không đuổi đại biểu thợ.
Chủ Nhà máy không chịu nhượng bộ. Mật thám cảnh sát kéo đến đàn áp, bắt các đại biểu của công nhân.
Công nhân căm phẫn, tinh thần đấu tranh bùng lên quyết liệt. Thành uỷ Hải Phòng chỉ đạo công nhân các nhà máy bãi công hưởng ứng. Hàng loạt các cuộc bãi công nổ ra ở Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí, Nam Định, Hà Nội bày tỏ tình đoàn kết với công nhân Nhà máy tơ.
Ngày 24-5, Chi bộ Nhà máy quyết định huy động hơn 1000 công nhân, biểu tình trước phòng Thanh tra lao động thành phố, đòi chính quyền phải can thiệp. Trước khí thế đấu tranh của công nhân, chủ Nhà máy buộc phải nhượng bộ, giải quyết hầu hết các yêu sách của công nhân. Cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy tơ Hải Phòng kết thúc thắng lợi.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
THÁNG 5
Thành lập chi nhánh báo Đời nay của Đảng ở Uông Bí
Trong thời kỳ 1936-1939, sách báo công khai của Đảng được phát hành rộng khắp trong cả nước, đưa tiếng nói của Đảng đến từng thôn xóm; đường phố, xí nghiệp. Đời nay là tờ báo công khai của Đảng do đồng chí Trần Huy Liệu phụ trách. Tháng 5-1939, đồng chí Tô Hiệu -Bí thư Ban Cán sự Liên tỉnh B chủ trương lập chi nhánh báo Đời này ở Uông Bí để tuyên truyền vận động quần chúng.
Trụ sở của chi nhánh báo Đời nay đặt tại ngôi nhà hai tầng ngay thị xã, trước cửa treo biển nền trắng với hàng chữ đỏ “Chi nhánh báo Đời nay”. Trong trụ sở treo ảnh Mác, Ăngghen, Lênin.
Báo Đời nay được phát hành rộng rãi ở Uông Bí, Điền Công, Vàng Danh. Mỗi lần chi nhánh phát hành trên dưới 200 tờ báo. Ngoài báo Đời nay, chi nhánh còn phát hành báo Tin tức, Dân chúng, Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta)... Chi nhánh còn cử người đưa sách báo đến tận các xóm thợ, nói chuyện thời sự cho anh em công nhân.
Việc phát hành sách báo công khai của Đảng ở vùng mỏ đã góp phần không nhỏ vào công tác tuyên truyền đường lối của Đảng, giác ngộ công nhân. Lo sợ trước ảnh hưởng to lớn của sách báo cách mạng, Công sứ Quảng Yên quyết định không cho chi nhánh hoạt động ở Vàng Danh, với lý do là khu "Đất nhượng", thường xuyên cho mật thám theo dõi.
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp ở Đông Dương thực hiện khủng bố đàn áp phong trào cách mạng. BáoĐời nay bị thu giây phép, phải đóng cửa. Chi nhánh báo Đời nay ở Uông Bí cũng ngừng hoạt động.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
NỬA ĐẦU NĂM 1939
Đấu tranh của công nhân sáu tháng đầu năm
Từ đầu năm 1939, lợi dụng tình hình thay đổi trong giới cầm quyền ở Pháp, bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương tăng cường đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng. Lấy có phòng thủ Đông Dương chúng đồng loạt tăng tất cả các thứ thuế và đặt ra nhiều thuế mới ở Hải Phòng, Hà Nội, những hành động khủng bố phong trào dân chủ diễn ra ngày càng tăng.
Thành uỷ Hà Nội phát động công nhân, thợ thủ công, đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi phòng thủ Đông Dương, chống phát xít, ủng hộ Liên bang Xôviết. Từ đầu năm đến tháng 6-1939, có 18 cuộc đình công, bãi thị nổ ra, gồm hàng vạn người tham gia. Tiêu biểu như cuộc bãi công của 800 công nhân Xe lửa Gia Lâm (19-5-1939) kéo dài gần nửa tháng; đòi tăng lương 100%, đã giành một phần thắng lợi; cuộc đấu tranh của 400 thợ mộc các phố Bạch Mai, Hàng Trống, Hàng Vôi, Hàng Tre, Hàng Dầu (24-5-1939) đòi tăng lương; cuộc bãi công của 250 nữ công nhân Nhà máy diêm (16-6-1939) chống đánh đập đòi tăng tiền công... Hầu hết các cuộc bãi công đều giành thắng lợi.
Ở Hải Phòng, từ đầu năm 1939, Trung ương phân công đồng chí Tô Hiệu về lãnh đạo phong trào, đặc biệt chú trọng lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân. Từ tháng 1 đến tháng 6-1939 gần 20 cuộc đình công, bãi công đòi tăng lương, chống khủng bố... nổ ra. Tiêu biểu như cuộc đình công ba ngày liền từ 28 đến 30-5-1939 của 1.500 công nhân Cảng đòi chủ thầu tăng tiền lương, tăng phụ cấp đắt đỏ, huỷ bỏ làm đêm thực hiện ngày làm 8 giờ. Trước sức mạnh đấu tranh của công nhân, chủ thầu phải nhận giải quyết những yêu cầu trên.
Báo Dân chúng ngày 5-6-1939 tường thuật tỉ mỉ cuộc đấu tranh này, biểu dương tinh thần đoàn kết của anh chị em công nhân cảng.
Tại Nam Kỳ, phong trào đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ trong những tháng đầu năm 1939 tiếp tục nổ ra. Theo báo Dân chúngngày 14-4-1939, riêng Sài Gòn - Gia Định thời gian này có hơn 20 cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
- Lịch sử Đảng bộ Cảng Hải Phòng, 1979, tr. 26.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1955, t. 1.
GIỮA NĂM
Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng tuyên truyền cách mạng nhân Hội chợ Hội An
Đầu năm 1939, Đại hội lần thứ nhất Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được tiến hành. Đại hội đánh giá phong trào, đề ra chủ trương đưa phong trào cách mạng trong tỉnh tiến lên trong tình hình mới, bầu Tỉnh uỷ chính thức. Khoảng giữa năm, nhân chính quyền thực dân mở Hội chợ tại Hội An, Tỉnh uỷ giao cho đồng chí Bùi Tưởng tổ chức một gian hàng đặc biệt tham gia hội chợ, tuyên truyền đấu tranh.
Ban Chấp hành nghiệp đoàn và Đoàn Thanh niên Dân chủ Hội An cử đồng chí Hoàng Kim Ảnh làm giấy tờ hợp pháp để chính quyển cho phép đặt một gian bán hàng gỗ dân dụng tại Hội chợ. Các đồng chí khác có nhiệm vụ thu mua hàng, trang trí và bán hàng.
Hội chợ khai mạc, nhiều người tham gia và mua hàng đều ngạc nhiên nước gian hàng do ta tổ chức. Một tượng gỗ người công nhân mặc quần xanh áo trắng, tay giơ cao ngọn đuốc mang hai chữ “hoà bình" được đặt trước cửa. Gian hàng treo một tấm bảng to với dòng chữ "Gian hàng đặc biệt". Cuối gian hàng dựng một tấm phông rộng, vẽ bản đồ Liên bang Xôviết màu đỏ trên nền quả địa cầu màu xanh. Hàng trưng bày gồm những vật dụng hàng ngày như vải vóc, quần áo, đồ dùng học sinh, rượu... Trên các loại bánh và vải có các khẩu hiệu "ủng hộ tự do dân chủ”, “Ủng hộ hoà bình”, "Đả đảo chiến tranh!”. Gian hàng đặc biệt thu hút rất đông khách đến xem và mua hàng lưu niệm.
Gian hàng duy trì được 8 tiếng đồng hồ. Mật thám huy động lực lượng đến bắt đồng chí Hoàng Kim Ảnh, tịch thu tất cả hàng hoá.
Gian hàng đặc biệt với hình thức tuyên truyền độc đáo đã gây được tiếng vang, động viên các tầng lớp nhân dân Hội An đấu tranh, ủng hộ Mặt trận Dân chủ.
- Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
THÁNG 9
Xử uỷ Trung Kỳ quyết định thành lập Chi bộ Đảng tại Đềpô Diêu Trì (Bệnh Định)
Đềpô Diêu Trì là một xí nghiệp tập trung hàng trăm công nhân viên chức. Phong trào đấu tranh của công nhân ở đây đóng một vai trò khá quan trọng của công nhân ngành hoả xa Nam Đông Dương.
Tháng 9-1939, Xứ uỷ Trung Kỳ quyết định thành lập Chi bộ Đảng tại Đềpô Diêu Trì. Chi bộ Diêu Trì gồm một số đảng viên của các Đảng bộ Huế, Đảng bộ Tháp Chăm (thị xã Phan Rang) và các đồng chí trưởng thành từ phong trào đấu tranh ở Bình Định. Chi bộ do đồng chí Nguyễn Đình Thụ - nguyên Uỷ viên Ban Cán sự Liên tỉnh Nam Trung Kỳ2 làm Bí thư. Từ khi thành lập, Chi bộ thường xuyên có sự liên hệ với Ban Cán sự Liên tỉnh Nam Trung Kỳ. Chi bộ Đềpô Diêu Trì không chỉ lãnh đạo phong trào công nhân hoả xa Bình Định, mà còn thúc đẩy phong trào quần chúng địa phương. Sự ra đời của tổ chức Đảng đầu tiên của công nhân đường sắt Bình Định có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển đúng hướng của phong trào công nhân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đồng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t. I.
NGÀY 14-7
Nông dân Hoài Đức (Hà Đông)3 đấu tranh chống địch chiếm ruộng đất công
Từ giữa năm 1939, thực dân Pháp thực hiện “Chương trình quản thủ điền thổ”, âm mưu chiếm đoạt ruộng đất công của nông dân bằng cách biến ruộng công của các làng xã thành đất công thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Chống lại âm mưu này, Ban Tỉnh uỷ tỉnh Hà Đông chỉ đạo vùng Nam Hoài Đức chuẩn bị kế hoạch đấu tranh. Các tổ chức Đảng, tổ chức Nông hội mở đợt tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân vạch trần âm mưu của địch trước nông dân.
Ngày 12-7, chính quyền tỉnh đưa Cútxô (Cousseaux) cùng "Hội đồng quản thủ điền thổ" của phủ Thống sứ Bắc Kỳ đến Vạn Phúc (Hoài Đức, Hà Đông). Hơn 3000 nông dân tập trung ở đình làng biểu tình. Cútxô và “Hội đồng" vừa thuyết phục, vừa đe doạ, nhưng đại biểu đoàn biểu tình vẫn kiên quyết phản đối chính quyền chiếm đoạt công điền và tư dân điền ở đây. Hàng ngàn người trong đó có cả một số địa chủ, tổng lý... hô vang khẩu hiệu "phản đối cướp ruộng của dân", “ủng hộ ý kiến các đại biểu”.
Trước khí thế đấu tranh quyết liệt của nhân dân, Cútxô buộc phải bỏ âm mưu chiếm đất , “Hội đồng quản thủ điền thổ” phải rút lui.
- Ban Nghiên cầu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Sơn Bình: Lịch sử Đảng bộ Hà Sơn Bình 1926-1945, Hà Sơn Bình, 1986, t. I.
- Những sự kiện lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1920~1995). lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 14-7
Đảng tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng nhân ngày 14-7
Nhân kỷ niệm 150 năm ngày Cách mạng tư sản Pháp (14-7-1789 - 14-7-1939), tại nhiều địa phương đã diễn ra những cuộc đấu tranh công khai, biểu dương lực lượng, kêu gọi chống phát xít.
Tại Hà Nội, Thành uỷ chủ trương tổ chức mít tinh tại Nhà hát thành phố, lấy danh nghĩa Đoàn Thanh niên xã hội phối hợp với Hội Nhân quyền tổ chức. Trong bài diễn văn bằng tiếng Pháp, trước đông đảo quần chúng, diễn giả đã lồng thêm nội dung tố cáo thực dân bóp nghẹt quyền tự do dân chủ, đòi phòng thủ Đông Dương, đòi cho thanh niên có công ăn việc làm... Trước ngày 14-7, Thành uỷ tổ chức diễn thuyết trước cửa đền Ngọc Sơn hơn 1.000 người dự.
Ở Hải Phòng, chiều ngày 14-7-1939, tại vườn hoa sông Lấp một cuộc diễn thuyết được tổ chức, quần chúng tập trung nghe diễn giả nói về ý nghĩa của Cách mạng Pháp, đả kích phát xít kêu gọi bảo vệ hoà bình. Ở Nghệ An, Tỉnh uỷ chỉ thị cho các cấp uỷ tổ chức rải truyền đơn, theo khẩu hiệu, cổ vũ nhân dân đấu tranh, ủng hộ Liên bang Xôviết, ủng hộ Trung Hoa kháng Nhật, phản đối đàn áp. Trước ngày 14-7, chính quyền thực dân tung mật thám theo dõi, kiểm soát nghiêm ngặt trong thành phố Vinh. Song, sáng ngày 14-7, đông đảo quần chúng và đại biểu các huyện vẫn mít tinh tại chợ Vinh. Cuộc mít tinh đang diễn ra thì diễn giả bị địch bắt.
Tại Cần Thơ, 8 giờ sáng 14-7, Chi bộ Đảng tỉnh tổ chức mít tinh trước cửa rạp Casinô. Trước làn sóng đấu tranh của quần chúng chủ sạp buộc phải mở cửa. Hơn 1 000 người nghe các diễn giả đại diện các giới nói về ý nghĩa cách mạng Pháp 1789, nêu ý kiến đòi nhà cầm quyền vũ trang cho nhân dân phòng thủ Đông Dương. Kết thúc buổi mít tinh, một bản nghị quyết về đòi quyền tự do dân chủ, toàn xá chính trị phạm, nam nữ bình quyền... được thông qua.
Các cuộc mít tinh, diễn thuyết, biểu dương lực lượng nhân ngày 14-7 ở nhiều địa phương đã khích lệ tinh thần đấu tranh của quần chúng trước hoạ phát xít, chiến tranh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t .I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Vinh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Vinh,Nxb. Nghệ Tĩnh, 1988, t. 1.
- Tỉnh uỷ Cần Thơ: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cần Thơ (1929-1945), sơ thảo, 1995, t. I.
NGÀY 20-7
Tác phẩm Tự chỉ trích của đồng chí Tổng Bi thư Nguyễn Văn Cừ
Trước khi vào Nam chỉ đạo và chuẩn bị Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng tạm lánh ở gác xép trên sân thượng của Nhà băng Đông Dương (nay là Trụ sở của Ngân hàng quốc gia Việt Nam). Tại đây, đồng chí viết cuốn Tự chỉ trích. Nhà xuất bản Dân chúng phát hành cuốn sách này vào ngày 20-7-1939 tại Hà Nội.
Tác phẩm ra đời đã kịp thời lãnh đạo và giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động đang tranh luận và bàn tán về nguyên nhân thất bại của Mặt trận Dân chủ trong việc tranh cử vào Hội đồng Quản hạt ở Nam Kỳ.
Tác phẩm Tự chỉ trích gồm các phần: 1. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Đảng; 2. Bài học về cuộc tuyển cử Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ; 3. Đấu tranh về bảo vệ đường lối Mặt trận Dân chủ của Đảng chống tả khuynh và hữu khuynh; 4. Tóm tắt đường lối chiến lược và sách lược của Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Đồng chí nhấn mạnh: để tạo được sự thống nhất tư tưởng, mỗi đảng viên cần nhận rõ nguyên tắc phê bình trong Đảng. Đảng còn trẻ nên còn nhiều khuyết điểm, sai lầm, nhưng Đảng sẽ luôn luôn tự chỉ trích thành thật và mạnh dạn, không phải là làm yếu Đảng, mà để Đảng ngày càng thống nhất tư tưởng và hành động.
Đồng chí chỉ ra những nguyên nhân chủ quan góp phần dẫn đến thất bại trong cuộc tổng tuyển cử: Mặt trận Dân chủ chưa thành lập được vì ta chưa mạnh; ta còn những khuyết điểm về cách tuyên truyền và ứng dụng chính sách Đảng: “nói chung, sự tuyên truyền vận động của ta từ trước đến giờ vẫn còn nhiều tính chất trừu tượng; nhiều di tích cô độc"; sự khinh thường Tờrốtkít "sự khinh thường này đã thành một cái bệnh ăn sâu trong đầu óc nhiều đồng chí ta".
Trong phần ba, đồng chí phê phán hai khuynh hướng sai lầm trong Đảng và nhấn mạnh: Đảng phải chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ làm cho Đảng cách xa quần chúng, lãng quên sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, rời bỏ những nguyên tắc cách mạng.
Về đường lối chiến lược và sách lược của Mặt trận, đồng chí nêu bật những vấn đề về mối quan hệ hữu cơ giữa nhiệm vụ chiến lược và chỉ đạo thực hiện chiến lược của Đảng trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là "cái cốt yếu của chính sách Mặt trận Dân chủ mà Đảng Cộng sản đề xướng và đang thực hành". Muốn lãnh đạo Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Đảng phải giữ độc lập về chính trị và tổ chức, giữ quyền lãnh dạo của giai cấp công nhân. Mặt trận phải được xây dựng trên cơ sở quần chúng rộng rãi lấy liên minh công nông làm nền tảng. Để thành lập được Mặt trận Dân chủ Đông Dương, phải phát động một phong trào đấu tranh sâu rộng trong quần chúng, chống lại khuynh hướng “tả" và “hữu”, biết lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân biệt kẻ thù nguy hiểm cụ thể trước mắt với kẻ thù nói chung.
Tự chỉ trích có ý nghĩa và tác dụng quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng trong Đảng; tác phẩm chỉ rõ những nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân ta trong cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình. Đây thực sự là một công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng, làm cho Đảng ngày càng thống nhất về tư tưởng và hành động, quần chúng nhân dân càng tin tưởng vào đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng.
- Nguyễn Văn Cừ - Một người lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 57-72.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 617-645.
CUỐI THÁNG 7
Báo cáo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản
Cuối tháng 7-1939, đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi một bản báo cáo bằng tiếng Pháp tới Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, ký tên Lin. Bản báo cáo viết tình hình chính tri ở Đông Dương từ 1936 đến nửa đầu năm 1939.
Báo cáo cho biết, qua các tờ báo Notre Voix và Đời nay, tình hình trong nước từ năm 1936 đến năm 1938 nhìn chung được cải thiện khá nhiều. Các chế độ ngày làm 8 giờ, chế độ nghỉ hàng tuần, hàng năm có lương, tự do tổ chức bắt đầu được thực hiện. Nhưng, từ khi Chính phủ Đalađiê ngả về hữu, nhất là từ năm 1939 thì tình hình trong nước lại xấu đi. Ở Trung Kỳ, chính quyền đóng cửa tờ báo Dân . Ở Nam Kỳ, chính quyền gây khó khăn cho các ứng cử viên của Mặt trận Dân chủ trong dịp bầu cử Hội đồng Quản hạt; bắt biên tập viên báo Dân chúng... Song, uy tín của các đảng viên xã hội trong nhân dân rất mạnh, thể hiện trong các cuộc bầu cử ở ba kỳ. Báo cáo còn dẫn chứng đám tang ông Phan Thanh ở Hà Nội có đại biểu 14 tỉnh về dự, dòng người kéo dài 2 km.
Về tình hình công nhân, báo cáo đưa ra các số liệu cho biết tiền lương công nhật của công nhân ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ nói chung đều rất thấp. Thêm vào đó, giá sinh hoạt đến tháng 6-1939 tăng 10% so với tháng 6-1938, đời sống công nhân lâm vào cảnh rất khó khăn, vì vậy, một làn sóng bãi công đã nổ ra 6 tháng đầu 1939. Báo cáo đưa ra một bảng thống kê các cuộc bãi công của công nhân đủ mọi ngành nghề, đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện đời sống. Theo báo cáo, các cuộc đấu tranh có từ hàng chục người đến 3.000 – 4.000 người tham gia, nhiều nhất ở Hà Nội, Hải Phòng rồi đến Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Thơ... Các cuộc đấu tranh đều giành thắng lợi, nhận được sự ủng hộ nhiệt tình cả về tinh thần và vật chất của công nhân, nông dân, tiểu thương các vùng khác (báo cáo dẫn chứng cuộc bãi công của công nhân Nhà máy tơ Hải Phòng).
Bản báo cáo còn đưa ra các số liệu về đấu tranh ngày 1-5-1939 ở một số tỉnh, thống kê một số cuộc đấu tranh của nhân dân Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh Hoá... đòi quyền lợi đời sống.
Về tình hình báo chí, bản báo cáo thống kê tên một số tờ báo cánh tả ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ tán thành đòi tự do dân chủ và ân xá chính trị phạm. Trong số đó, có tờ Dân chúng, xuất bản ở Sài Gòn được rất nhiều người đọc; tờ Đời nay, cũng được nhiều tầng lớp nhân dân ủng hộ. Song Chính phủ thuộc địa lại dùng bạo lực để đàn áp các tuần báo tiến bộ, cấm các sách viết về Lênin, Liên Xô, cách mạng Trung Quốc.
Báo cáo còn nêu khái quát về tình hình tù chính trị ở Đông Dương. Sau hai năm thực hiện một mức tự do hạn chế, chính quyền lại thẳng tay đàn áp những người biểu tình, những người đòi tham gia vào hội tương tế, đòi tự do báo chí... Báo cáo dẫn lời tờ Ngày mai: "chưa bao giờ lại có những phương pháp đàn áp khốc liệt và tàn bạo quá tay đến thế”.
Cuối cùng, báo cáo nêu sơ lược tình hình Trung Quốc, hoạt động của Nhật ở Đông Dương.
Kèm theo bản báo cáo này, Nguyễn Ái Quốc gửi một bản ghi tám điểm xác định đường lối, chủ trương cho cách mạng Đông Dương trong tình hình mới, trong đó nêu rõ: trong thời điểm này, Đảng không nên đề ra những đòi hỏi quá cao mà nên tập trung đòi những quyền tự do dân chủ, tự do báo chí, ngôn luận đòi ân xá chính trị phạm, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp. Muốn đạt được mục đích này, Đảng cần tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi, gồm toàn thể nhân dân lao động tư sản dân tộc và cả những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương. Muốn lôi kéo được tư sản dân tộc, Đảng cần có "thái độ khéo léo, mềm dẻo”, “phải hết sức lôi kéo họ và giữ họ ở trong Mặt trận... Đối với phái Tờrốtkít, Đảng phải vạch mặt chúng trước quần chúng, "phải tiêu diệt chúng về chính trị". Mặt trận Dân chủ Đông Dương cần có sự liên hệ chật chẽ với Mặt trận Nhân dân Pháp để mở rộng ảnh hưởng và hoạt động có hiệu quả. Bản ghi nhấn mạnh Đảng không được đòi hỏi Mặt trận công nhận quyền lãnh đạo của mình, Đảng chỉ khẳng định được vai trò, năng lực của mình trong quần chúng qua đấu tranh hàng ngày, khi quần chúng thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực của Đảng. Để đạt được điều đó, Đảng cần đấu tranh không khoan nhượng với tư tưởng bè phái; nâng cao trình độ văn hoá và chính trị cho đảng viên, liên hệ mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp.
Ban Chấp hành Trung ương cần phải kiểm soát các báo chí của Đảng, tránh sai sót về kỹ thuật, chính trị.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3, tr. 140-161.
THÁNG 8
Thành uỷ Hà Nội phát động quần chúng chống âm mưu "Trở lại Hiệp ước 1884"
Năm 1939, Phạm Quỳnh, Thượng thư Bộ lại thực hiện mưu đồ của Pháp vận động quay trở lại Hiệp ước 1884, âm mưu đặt Bắc Kỳ dưới quyền cai trị của Triều đình Huế, “cho dân An Nam có một Tổ quốc mà bênh vực".
Trung ương Đảng chỉ rõ đây là âm mưu tăng cường quyền lực vua quan giúp đế quốc thẳng tay đàn áp cách mạng. Chống lại âm mưu thâm hiểm này, Đảng bộ Thành phố Hà Nội quyết định phát động quần chúng đấu tranh. Tháng 8-1939, diễn ra nhiều cuộc mít tinh, tuyên truyền, giải thích âm mưu thực dân trước quần chúng. Báo Notre Voix lên tiếng: đây là một âm mưu kéo lùi lịch sử. Các báo Đời nay, Ngày mới, Người mới.. cũng đều công kích âm mưu này của Pháp.
Tối ngày 6-8, một cuộc mít tinh chớp nhoáng được tổ chức ở vườn hoa Canh Nông, hơn 1.000 người tham dự, vạch trần âm mưu đế quốc tay sai định trở lại Hiệp ước 1884. Ngày 12-8, một cuộc họp báo diễn ra ở khách sạn Lạc Xuân (Hàng Bông) có đại diện của báo Notre Voivà Đời nay, lên tiếng phản đối sáp nhập, đòi tự do dân chủ, ra quyết nghị gửi Chính phủ Pháp. Cuộc họp báo cử ra một đoàn đại biểu đi vận động các nghị viên trong Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Hội đồng thành phố, Thương mại, Canh nông hưởng ứng đấu tranh.
9 giờ tối ngày 15-8-1939, một cuộc biểu tình lớn được tổ chức ở phố Phùng Hưng, khoảng 1.000 người dự, bao gồm các giới lao động, tiểu thương, thanh niên, phụ nữ Hà Nội, phản đối trở lại Hiệp ước 1884, đòi tự do nghiệp đoàn. Đoàn biểu tình giơ cao các biểu ngữ "chống trở lại Hiệp ước 1884, ban hành Hiến pháp dân chủ, thống nhất Trung Nam Bắc". Bọn cảnh sát kéo đến đàn áp và bắt 20 người. Các cuộc đấu tranh của nhân dân vẫn nổ ra. Trước áp lực quần chúng, ngay trong tháng 8,Viện Dân biểu Bắc Kỳ gửi điện cho Tổng trưởng thuộc địa Pháp phản đối trở lại Hiệp ước 1884. Bộ thuộc địa Pháp phải tuyên bố tin đồn sáp nhập Bắc Kỳ vào Huế là vô căn cứ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành uỷ Hà Nội: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hà Nội, Nxb. Hà Nội, 1982, t. 1.
THÁNG 9
Chủ trương chuyển hướng hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ
Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan, mở đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngày 3-9-1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức.
Lợi dụng tình thế chiến tranh, Chính phủ Đalađiê (Daladier) mạnh tay thi hành hàng loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận Nhân dân Pháp bị tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.
Chiến tranh thế giới làm đảo lộn mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội nước ta. Đế quốc Pháp điên cuồng tiến công vào Đảng Cộng sản và các đoàn thể quần chúng. Báo chí tiến bộ bị đóng cửa. Các tổ chức dân chủ và những quyền lợi mà quần chúng đã giành được đều bị thủ tiêu. Hàng loạt những cuộc khám xét bắt bớ của đế quốc diễn ra từ Bắc chí Nam. Ngày 29-9, đế quốc Pháp bắt giam đồng chí Lê Hồng Phong tại Sài Gòn. Nhiều trại tập trung mới được lập để giam giữ những người cộng sản và những người yêu nước ở khắp các miền trong nước: Bá Vân, Bắc Mê, Nghĩa Lộ (miền Bắc); Đắc Lay, Đắc Tô, Lao Bảo, Trà Kê (miền Trung); Tà Lài, Bà Rá (miền Nam). Đế quốc Pháp thực hành chính sách cai trị thời chiến trên mọi mặt của đời sống xã hội Đông Dương.
Trước tình hình đó, ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng gửi Thông cáo cho các cấp bộ Đảng vạch ra một số phương hướng và biện pháp cần kíp trước mắt nhằm chuyển hướng các mặt hoạt động của Đảng. Thông cáo gồm bốn phần lớn: Con đường chính trị quốc tế hiện thời; Chiến thuật của Đảng Cộng sản Đông Dương hiện tại; Chỉnh đốn; Công tác tiến hành.
Sau khi nêu rõ ý nghĩa của Hiệp ước Nga - Đức, sự kiện Nga đưa quân chiếm đóng Ba Lan, Nga đình chiến với Nhật, chiến thuật của Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Cộng sản Đức, bản Thông cáo chỉ rõ những năm gần đây Đảng còn ở thời kỳ tranh đấu thế thủ, ủng hộ các quyền tự do dân chủ đơn sơ của quần chúng. Nhưng hiện nay tình hình thay đổi nhiều, Thông cáo nhận định "Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”.
Bản Thông cáo nêu lên các công tác thực hiện trong chuyển hướng chính trị, tổ chức và đấu tranh. Các cấp uỷ và toàn thể đảng viên phải tiếp tục rút vào bí mật thật nhanh chóng. Các tổ chức quần chúng cũng chuyển vào bí mật. Các địa phương phải chọn những đồng chí trung thành, hăng hái để tổ chức ban dự bị thay thế cho các ban cũ bị khủng bố. Thông cáo cũng chỉ rõ việc tổ chức thanh niên, phụ nữ, quần chúng đấu tranh trong tình hình mới. Thông cáo kêu gọi toàn thể đảng viên cần hiểu rõ hoàn cảnh khó khăn hiểm nghèo trước mắt của cách mạng, đề cao lòng hy sinh phấn đấu cho cách mạng, dẹp bỏ đặc quyền, đặc lợi cá nhân, mỗi đồng chí nhịn ăn, bớt mặc, lạc quyên cho Đảng, góp phần giải quyết khó khăn tài chính.
Do có chủ trương sáng suốt của Đảng, nhiều cán bộ đảng đã kịp thời chuyển hướng vào hoạt động bí mật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 753-761.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1920-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, t. I, tr. 477-485.
TỪ NGÀY 6 ĐẾN NGÀY 8-11
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp ở Đông Dương tiến hành khủng bố Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong ba ngày 6, 7, 8-11-1939, nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng trong tình hình mới.
Hội nghị được tổ chức tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). Dự hội nghị có các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn..., đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng, chủ trì Hội nghị.
Hội nghị phân tích tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai: đây là cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn đế quốc nhằm tranh giành, chia lại thị trường thế giới. Thủ phạm chính của cuộc chiến tranh là phát xít Đức - Ý - Nhật. Các nước đế quốc trong khi đánh nhau đều có âm mưu xoay cuộc chiến chĩa mũi nhọn vào Liên Xô. Hội nghị nhận định: chiến tranh thế giới sẽ gieo đau thương tai hoạ ghê gớm cho loài người "thế giới sẽ là cái lò sát sinh lớn? Nhân loại sẽ phải chịu một số kiếp vô cùng thê thảm".
Về tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định Đông Dương sẽ bị lôi kéo vào guồng máy chiến tranh "một cuộc đại thảm sát xưa nay chưa từng thấy”, phát xít Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật. Chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít "một thứ phát xít quân nhân thuộc địa nên lại càng tham tàn độc ác bội phần". Toàn bộ đời sống xã hội của các giai cấp, các dân tộc ở Đông Dương bị đảo lộn. Hội nghị phân tích rõ thái độ từng giai cấp trong xã hội, xu hướng chính trị của các đảng phái, tôn giáo. Hội nghị kết luận: mối liên quan lực lượng các giai cấp như sau: "a) Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế chính trị dựa vào bọn vua quan bổn xứ thối nát và bọn chó săn phản bội dân tộc. b) Một bên là tất cả các dân tộc bổn xứ bị đế quốc chủ nghĩa Pháp áp bức như trâu ngựa và đẽo rút xương tuỷ... Những thảm trạng do đế quốc chiến tranh gây nên sẽ làm cho trình tự cấp tiến hoá và cách mệnh hoá của quần chúng hết sức mau chóng... Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng...".
Sau khi phân tích rõ mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập".
Nhằm tập trung mọi lực lượng phục vụ nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế quốc, giành độc lập dân tộc, Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thay bằng khẩu hiệu "tịch ký ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc".
Lần đầu tiên, Hội nghị làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, xác định rõ nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng không tiến hành nhất loạt ngang nhau giữa hai nhiệm vụ đó.
Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, dựa trên cơ sở liên minh công nông là "hai lực lượng chính của cách mạng" để đoàn kết tất cả các giai cấp các đảng phái, các dân tộc các phần tử phản đế chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu là đế quốc và tay sai của chúng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xôviết công, nông binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hoà.
Về phương pháp cách mạng, Hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp “bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc".
Hội nghị đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, đề ra những nguyên tắc và biện pháp cụ thể nhằm củng cố Đảng về mọi mặt. Phải thống nhất ý chí và hành động, phải mật thiết liên lạc với quần chúng, phải có vũ trang lý luận cách mạng phải lập tức khôi phục hệ thống tổ chức Đảng Trung - Nam - Bắc, phải khuếch trương và củng cố cơ sở Đảng ở các thành thị, các trung tâm điểm kỹ nghệ và các hầm mỏ, đồn điền, thực hiện tự phê bình và đấu tranh trên hai mặt trận chống “tả" khuynh và "hữu” khuynh, đặc biệt chú trọng sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị quyết góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 509-567.
THÁNG 11
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, tháng 11-1939, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Tuyên ngôn vạch trần âm mưu của thực dân Pháp, phát xít Nhật, kêu gọi nhân dân Đông Dương đoàn kết đấu tranh chống đế quốc.
Tuyên ngôn vạch rõ, chiến tranh nổ ra, đế quốc Anh, Pháp đã bắt dân chúng các thuộc địa ra chiến trường, thực hiện âm mưu chia xé thị trường của chúng. Nhân cơ hội này, Chính phủ Đalađiê đã giải tán Đảng Cộng sản Pháp và ở thuộc địa, huỷ bỏ các quyền tự do dân chủ. Ở thuộc địa thực dân và phong kiến cũng thẳng tay đàn áp bóc lột dân chúng; bắt giam các chiến sĩ cách mạng; đóng cửa các cơ quan ngôn luận. Thực dân Pháp còn thoả hiệp với đế quốc Nhật để phá cuộc kháng chiến của Trung Quốc.
Trước tình hình thế giới và Đông Dương, Tuyên ngôn nêu rõ: Đảng Cộng sản chúng tôi nhận thấy sự sống còn của dân Đông Dương trong lúc này là phải chống đế quốc chiến tranh, chống chính sách tàn ác cướp của giết người của đế quốc Pháp và phải đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp...". Đảng kêu gọi tất cả các dân tộc Việt Nam, Miên, Lào, tất cả các tôn giáo, đảng phái đoàn kết trong "Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” để chống đế quốc. Đảng tuyên bố: "chúng tôi tình nguyện là một đội quân trung thành dũng cảm của Mặt trận ấy".
Tuyên ngôn chỉ rõ Mặt trận ở Đông Dương phải liên lạc mật thiết với Mặt trận ở các thuộc địa và nửa thuộc địa, với cuộc kháng chiến ở Trung Quốc và với Liên bang Xôviết.
Tuyên ngôn nêu cao các khẩu hiệu: "Cách mệnh thế giới nhất định sẽ thắng lợi". "Cuộc cách mệnh giải phóng dân tộc Đông Dương nhất định sẽ thắng lợi!". “Thực hiện Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng
CUÔI THÁNG 11
Ban Cán sự Liên tỉnh B thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Tháng 11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương quyết định mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương.
Cuối tháng 11-1939, thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Ban Cán sự Liên tỉnh B4 tổ chức triển khai kế hoạch chỉ đạo phong trào. Từ tình hình cụ thể các địa phương, Ban Cán sự chủ trương chuyển hướng hoạt động từ công khai, hợp pháp sang bí mật, bất hợp pháp, tránh khủng bố, bảo vệ phong trào. Các cấp uỷ lãnh đạo củng cố những cơ sở bị vỡ, hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Hải Phòng, nhất là khu mỏ để giữ những quyền lợi đã giành được.
Thi hành chủ trương của Ban Cán sự Liên tỉnh B, những cán bộ, đảng viên ở Hải Phòng, Kiến An đang hoạt động công khai được rút vào bí mật. Một số cán bộ bị lộ chuyển về hoạt động ở vùng mỏ hoặc nông thôn.
Tuy nhiên, công tác chuyển hướng không dễ dàng. Do chủ quan, quen hoạt động công khai, hầu hết cán bộ lúng túng khi vào bí mật. Một số cuộc đấu tranh của công nhân chưa được chuẩn bị chu đáo nên bị địch khủng bố. Ngày 1-12-1939, cơ sở ấn loát tài liệu của Đảng bộ tại xóm Thượng Lý bị mật thám Pháp lục soát, một số đồng chí bị bắt.
Mấy ngày sau, một cơ sở khác bị phá vớ. Nhiều đảng viên tiếp tục bị bắt. Phong trào cách mạng Hải Phòng thêm nhiều khó khăn.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb Hải Phòng, 1991, t. I.
THÁNG 12
Hội nghị Ban Cán sự Liên tinh B chỉ đạo phong trào vùng mỏ
Hai tháng sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, Trung ương Đảng chủ trương chuyển hướng chiến lược và phương pháp cách mạng trong tình hình mới.
Quán triệt chủ trương chuyển hướng chiến lược của Trung ương, cuối tháng 12-1939, Ban Cán sự Liên tỉnh B họp hội nghị triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương. Đồng chí Tô Hiệu - Bí thư Ban Cán sự, chủ trì Hội nghị.
Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, hội nghị thảo luận và đề ra những nhiệm vụ mới cho phong trào cách mạng vùng mỏ.
Hội nghị quyết định chuyển sang hoạt động bí mật nắm chắc các đầu mối liên lạc để củng cố, phục hồi và phát triển cơ sở cách mạng vùng Hòn Gai - Cẩm Phả, đây là khu tập trung công nhân, có truyền thống cách mạng. Quảng Yên và Uông Bí sẽ phải phát triển cơ sở, làm bàn đạp tiến vào vùng mỏ. Hội nghị nhấn mạnh, phải duy trì tiếng nói của Đảng, đặc biệt trong những ngày kỷ niệm cách mạng, chống lại sự xuyên tạc của địch phá hoại uy tín Đảng, làm cho quần chúng vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp uỷ tiếp tục duy trì phong trào đấu tranh ở Hải Phòng, Quảng Yên, Hòn Gai... giữ những quyền lợi đã giành được trong thời kỳ trước, rèn luyện quần chúng trong tranh đấu.
Nghị quyết Hội nghị Ban Cán sự Liên tỉnh B đã kịp thời đáp ứng sự phát triển phong trào vùng mỏ trong tình hình mới.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh, 1980.
CUỐI NĂM 1939
Xứ uỷ Bắc Kỳ xuất bản báo Giải phóng
Chiến tranh thế giới bùng nổ, ở Đông Dương, thực dân Pháp tiến hành đàn áp Đảng Cộng sản và các đoàn thể quần chúng, đóng cửa báo chí tiến bộ. Phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn.
Trước tình hình này, Xứ uỷ Bắc Kỳ chủ trương xuất bản sách báo nhằm tuyên truyền giải thích đường lối của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh.
Cuối năm 1939, báo Giải phóng - cơ quan tuyên truyền của Xứ uỷ Bắc Kỳ do đồng chí Hoàng Văn Thụ sáng lập và trực tiếp chỉ đạo ra mắt bạn đọc.
Báo in litô trên đá, mỗi tháng ra 1 số, mỗi số 4 trang, mỗi kỳ in 500 tờ. Nhân những ngày kỷ niệm, báo phát hành tới trên 1000 tờ. Mạng lưới giao thông liên lạc của Xứ uỷ đảm nhiệm việc đưa bài đến và chuyển báo đi các nơi.
Báo Giải phóng kêu gọi các tầng lớp nhân dân đấu tranh "phải biết tự mình cứu lấy mình", phải đoàn kết trăm người như một. Kiên quyết chống đế quốc chiến tranh và phản động thuộc địa. Báo kêu gọi nhân dân tham gia Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế, đoàn kết chống phát xít xâm lược.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1934-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
CUỐI NĂM
Trung ương Đảng chủ trương đưa hoạt động của Đảng vào bí mật
Cuối năm 1939, đế qua Pháp tiến hành khủng bố, trục xuất nhiều cán bộ của Đảng ra khỏi Hà Nội. Trước tình hình ấy, Đảng chú trọng củng cố cơ sở Đảng ở nông thôn, chuẩn bị rút vào hoạt động bí mật.
Ngày 8-9-1939, Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ ra Nghị quyết về rút vào bí mật, bảo toàn lực lượng, đề ra kế hoạch đối phó với tình hình trước mắt. Nhiều đồng chí được lệnh phân tán đi các địa phương hoạt động bí mật. Một số đồng chí khác được cử ra nước ngoài công tác. BáoĐời nay bị cấm được thay thế bằng tờ Thông tin.
Cuối năm 1939, đầu năm 1940, Đảng phát hành cuốn Công tác bí mặt của Đảng gửi các cấp uỷ. Tài liệu cung cấp những kinh nghiệm hoạt động bí mật tổ chức hoạt động bí mật nhiệm vụ của bí thư để giữ bí mật, tổ chức theo đúng nguyên tắc, cách đối phó khi bị mật thám bắt, cách đọc tài liệu bí mật, tổ chức giao thông liên lạc... Đây là một tài liệu bổ ích, thiết thực cho các cấp uỷ, đảng viên khi chuyển vào hoạt động bí mật. Khi chiến tranh thế giới nổ ra, Xứ uỷ Trung Kỳ cũng kịp thời chỉ đạo cán bộ, đảng viên chuyển vùng, rút vào bí mật.
Cuối năm 1939 đầu 1940, Đảng đã nhạy bén, kịp thời rút vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dựa vào nông thôn để xây dựng căn cứ địa cách mạng, tránh được những tổn thất khi tình hình thay đổi.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1920-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, t. I, tr. 477-478.
____________
1. Đảng viên Đảng Xã hội, một dân biểu tích cực đấu tranh bảo vệ quyền lợi người lao động.
2. Khánh Hòa – Ninh Thuận – Bình Thuận – Lâm Đồng.
3. Nay thuộc Hà Tây.
4. Liên tỉnh B gồm Hải Phòng, khu mỏ Quảng Yên, Hòn Gai, Kiến An, Hải Dương.
Năm 1940 NĂM 1940
NGÀY 18-1
Hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ bàn về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhiều đồng chí lãnh đạo Trung ương, Xứ uỷ Nam Kỳ bị địch bắt.
Ngày 18-1-1940, tại số nhà 8 phố Cần Giuộc, đồng chí Phan Đăng Lưu - Uỷ viên Trung ương, đồng chí Võ Văn Tần - Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, cùng một số đồng chí xử uỷ viên và Thành uỷ Sài Gòn tổ chức hội nghị triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương.
Hội nghị thảo luận những công việc cần kíp để phổ biến nghị quyết Trung ương đến các địa phương, tiếp tục tổ chức các hội phản đế, tổ chức lực lượng vũ trang. Các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu được phân công xây dựng và phát triển các Đội tự vệ vũ trang, Nông hội, Công hội, Hội Thanh niên Phản đế.
Sau Hội nghị này, một số đồng chí trong Xứ uỷ Nam Kỳ bị địch bắt.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1934-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng .
THÁNG 2
Chi bộ Nhà tù Sơn La thành lập
Từ những năm 1939 - 1940, thực dân Pháp đã bắt và giam giữ rất nhiều chiến sĩ cộng sản tại Nhà tù Sơn La. Trong đó có các đồng chí Văn Tiến Dũng, Trần Huy Liệu, Tô Hiệu, Lê Thanh Nghị... Kẻ thù dùng mọi cực hình tra tấn để uy hiếp tinh thần, tiêu diệt ý chí chiến đấu của những người cộng sản.
Để đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù, các đồng chí trong tù quyết định xây dựng chi bộ Đảng để lãnh đạo, đoàn kết anh em đấu tranh. Tháng 2 - 1940, Hội nghị lần thứ nhất của những đảng viên cộng sản ở Ngục Sơn La họp, bầu ra một chi bộ Đảng lâm thời do đồng chí Trần Huy Liệu phụ trách. Giữa năm 1940, số đảng viên bị đày lên đông hơn, trong đó có Tô Hiệu, Lê Quang Hoà, Ngô Minh Loan. Tháng 5-1940, Hội nghị lần thứ hai của các đảng viên được bí mật triệu tập. Hội nghị thành lập một chi bộ chính thức, vạch ra chủ trương, đường lối hành động của chi bộ.
Ban chi uỷ do đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư. Nhiệm vụ của chi bộ là đề ra phương hướng lãnh đạo mọi hoạt động trong tù; giáo dục rèn luyện lập trường, ý chí chiến đấu cho đảng viên; đào tạo cán bộ; chắp nối xây dựng cơ sở cách mạng bên ngoài nhà tù, bắt liên lạc với tổ chức Đảng bên ngoài.
Dưới sự kiểm soát gắt gao của địch, nguyên tắc hoạt động của chi bộ là tuyệt đối bí mật. Không những bí mật với địch mà bí mật với cả quần chúng trong tù, nhiệm vụ của người nào người ấy làm.
Các Ban Trật tự, Ban Kinh tế, Ban Cứu tế, Ban Học tập, Ban Dân vận, Ban Binh vận được bầu ra, dưới sự chỉ đạo của “Uỷ ban Nhà tù”. Hình thức bên ngoài, "Uỷ ban Nhà tù” là tổ chức hoạt động tự quản của tù nhân, nhưng bên trong hoạt động dưới sự chỉ đạo của Chi bộ Nhà tù.
Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Nhà tù Sơn La, các đảng viên cộng sản đã tập hợp được đông đảo quần chúng trong tù đoàn kết đấu tranh chống lại âm mưu của kẻ thù.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La (1940-1954), Sơn La, 1983, t. I.
THÁNG 3
Xứ uỷ Bắc Kỳ thành lập Ban Cán sự Liên tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ban Cán sự tỉnh Phú Thọ
Từ cuối năm 1939, được sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ xứ uỷ Khu uỷ D, phong trào cách mạng các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên có sự chuyển biến nhanh chóng. Đến tháng 3-1940, phần lớn các huyện của tỉnh Vĩnh Yên và một số nơi ở Phúc Yên có cơ sở cách mạng, các đoàn thể phản đế và Đội tự vệ. Ở cả ba tỉnh đã có bảy chi bộ Đảng với hơn 20 đảng viên.
Nhằm thống nhất chỉ đạo các chi bộ Đảng và tổ chức quần chúng, tháng 3-1940, Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban Cán sự liên tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên (lúc đó gọi là Ban Vận động Liên tỉnh) gồm ba đồng chí do đồng chí Lê Xoay làm Bí thư Xứ uỷ cũng quyết định thành lập Ban Cán sự tỉnh Phú Thọ, gồm năm đồng chí, do đồng chí Đào Duy Kỳ làm Bí thư.
Sự kiện thành lập các Ban Cán sự tỉnh đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử các đảng bộ, là nhân tố quyết định sự chuyển biến về chất của phong trào mỗi tỉnh.
Tháng 8-1940, tại Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Vĩnh Yên, đồng chí Đào Duy Kỳ thay mặt Xứ uỷ Bắc Kỳ công bố quyết định thành lập Ban Cán sự tỉnh Vĩnh Yên do đồng chí Lê Xoay làm Bí thư.
Sau khi thành lập, Ban cán sự từng tỉnh phân công các uỷ viên phụ trách từng khu vực. Đến cuối năm 1940, các hội quần chúng nông dân công nhân, thanh niên, phụ nữ phản đế và Mặt trận Phản đế phát triển nhiều nơi, thu hút đông đảo hội viên.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
THÁNG 4
Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Quảng Yên thành lập
Thực hiện chủ trương của Ban Cán sự Liên tỉnh B về phát triển cơ sở Quảng Yên và Uông Bí, làm bàn đạp tiến vào vùng mỏ, tháng 4-1940, Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Quảng Yên thành lập gồm ba đồng chí.
Liên Tỉnh uỷ B đã công nhận Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Yên và giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng bí mật cho Tỉnh uỷ. Đây là công tác trọng tâm trước mắt của Tỉnh uỷ.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngay sau khi thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Yên đề ra công tác cụ thể: phát triển cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng trong Nhà máy kẽm Quảng Yên; gây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng ở thị xã Quảng Yên và vùng phụ cận, chú trọng công tác binh vận, vận động quần chúng ủng hộ báo Chiến đấu - cơ quan tuyên truyền huấn luyện của Liên Tỉnh uỷ B. Tỉnh uỷ lâm thời cũng chú trọng công tác huấn luyện đảng viên và cán bộ cốt cán.
Sau một thời gian thực hiện nghị quyết, Tỉnh uỷ lâm thời gây dựng được cơ sở quần chúng ở La Khê, Rộc Vỏ, Quỳnh Lâu, Yên Trì, Yên Cư, Yên Lập, Động Linh, Phong Cốc.
Phong trào đang có chiều hướng phát triển thì địch phát hiện được sự hoạt động của cán bộ, đồng chí Bí thư bị lộ phải chuyển sang vùng khác hoạt động. Hai đồng chí tỉnh uỷ viên cũng lần lượt bị bắt.
- Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh. Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t.1.
THÁNG 4
Hội nghị cán bộ Đảng tỉnh Quảng Ngãi
Cuối năm 1939, trong khi Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đang khẩn trương triển khai Nghị quyết Trung ương 6 đến cơ sở thì thực dân Pháp tiến hành cuộc khủng bố cách mạng rất ác liệt. Trong lần khủng bố này, Đảng bộ bị đứt liên lạc với cấp trên, hệ thống tổ chức đảng bị phá vỡ, cơ sở cách mạng tổn thất nặng.
Nắm được chủ trương của Trung ương, Xứ uỷ Trung Kỳ, những đảng viên còn lại vẫn kiên trì bám trụ, len lỏi hoạt động trong quần chúng gây dựng cơ sở. Các cán bộ đảng viên bị cầm tù vẫn tích cực hoạt động, tìm cách móc nối với bên ngoài.
Khoảng tháng 4-1940, một cuộc hội nghị cán bộ Đảng được triệu tập do đồng chí Nguyễn Công Phương chủ trì. Hội nghị thảo luận và quyết nghị một số vấn đề: củng cố hệ thống tổ chức đảng từ cơ sở lên Tổng bộ, Huyện bộ; xây dựng các tổ chức quần chúng gọn, bí mật, đi đôi phát triển các hình thức tương trợ trong sản xuất và đời sống; tìm cách bắt liên lạc với căn cứ kháng chiến của đồng bào miền núi để chuẩn bị xây dựng căn cứ địa cách mạng; bắt liên lạc với cấp trên và các tỉnh bạn, củng cố đường dây liên lạc của Đảng thông suốt; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến tình hình và nhiệm vụ mới cho quần chúng cán bộ, đảng viên.
Hội nghị bầu ra Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Võ Xuân Hào làm Bí thư. Đến gần cuối năm 1940, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi nhận được sự chỉ đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005.
ĐẦU THÁNG 6
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp ở Vân Nam (Trung Quốc)
Đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đến Côn Minh (Vân Nam - Trung Quốc) để liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Tại đây Người hoạt động dưới các bí danh "Hồ Quang”, "đồng chí Trần", "đồng chí Vương”.
Với bí danh "đồng chí Vương”, đầu tháng 6-1940, Nguyễn Ái Quốc gặp các đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp (do Trung ương Đảng phái từ trong nước ra) bên bờ Thuý Hồ1 người cùng các đồng chí trao đổi về tình hình trong nước, về Mặt trận Dân chủ, về chuyện làm báo.
Trả lời câu hỏi về vấn đề "Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”, Người nói: "Vẫn rất cần, nhưng điều kiện tổ chức thì hiện nay chưa chín nên chưa đặt ra", và nói thêm "các đồng chí ra được thế này là tốt. Vài ngày nữa sẽ bố trí công tác cho các đồng chí”.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh- Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 104-105.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 28-24.
NGÀY 26 - 6
Đảng Cộng sản Đông Dương ra Tuyên ngôn kêu gọi toàn dân chống chính quyền thuộc địa và phát xít
Ngày 22-6-1940, quân đội Pháp đầu hàng phát xít Đức. Chính phủ Pêtanh (Pétam) rút về Visi (Vichy) ở miền Nam nước Pháp, trở thành Chính phủ bù nhìn.
Ngày 26-6-1940, Đảng Cộng sản Đông Dương ra Tuyên ngôn, nêu rõ: Chính phủ Pháp đã đầu hàng Hítle, phản bội dân chúng Pháp. Chế độ thuộc địa vì thế cũng sắp đến lúc sụp đổ. Nhân cơ hội đó, phát xít Nhật tiến chiếm Đông Dương, đánh cách mạng Trung Quốc. Trong nước, bọn Việt gian thân Nhật sẵn sàng dâng Đông Dương cho phát xít Nhật.
Trong khi đó cách mạng Trung Quốc đang thuận lợi, Liên bang Xôviết đang tổng động viên binh lính; cách mạng ở Pháp và các nước láng giềng sẵn sàng ủng hộ Liên Xô; dân chúng mong muốn đánh đổ chế độ thuộc địa.
Tuyên ngôn chỉ rõ: “Cơ hội tốt có một không hai đã tới. Cơ hội đánh đổ đế quốc thuộc địa đã tới. Cơ hội đánh đổ phát xít Nhật đã tới".
Tuyên ngôn kêu gọi các tầng lớp nhân dân từ trí thức yêu nước, viên chức, hương chức, hội tề đến công nông binh, chị em phụ nữ, dân chúng cần lao - những người không chịu làm nô lệ - hãy cùng đứng trong “Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” đấu tranh giành độc lập, tự do.
Tuyên ngôn nêu rõ: Đảng Cộng sản Đông Dương sẵn sàng đi tiên phong cảm tử trong cuộc đấu tranh này. Tuyên ngôn nêu khẩn hiệu: “Giương cao cờ cách mạng giải phóng Đông Dương! Liên lạc với cách mạng Tàu và thế giới! Bắt tay Liên bang Xôviết thành trì cách mạng!".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 12-14.
NGÀY 28 - 6
Xứ uỷ lâm thời Trung Kỳ phát hành tài liệu "Vấn đề chống xâm lược Đông Dương”
Tháng 6-1940, đế quốc Pháp bị phát xít Đức đánh bại, nước Pháp bị đánh chiếm. Phát xít Nhật nhân cơ hội này xúc tiến chiếm đoạt các thuộc địa ở Đông Nam châu Á. Trước tình hình đó ngày 28-6, Xứ uỷ lâm thời Trung Kỳ phát hành tài liệu "Vấn đề chống xâm lược Đông Dương”.
Trong tài liệu, Xứ uỷ nêu rõ: "Đảng ta phải lãnh trách nhiệm lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng để thủ tiêu chủ nghĩa đế quốc Pháp đã được thiết lập trong nước và kháng cự chống xâm lược của ngoại quốc... lập nên một Chính phủ cách mạng".
Xử uỷ nhấn mạnh, về các vấn đề tuyên truyền, tổ chức quần chúng, đấu tranh chống đế quốc.
Về tuyên truyền, Xứ uỷ chỉ rõ sự cần thiết phải lập các ban chỉ đạo công tác tuyên truyền để vận động công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân chống chiến tranh đế quốc vận động binh lính quay súng chống lại đế quốc và tay sai.
Về tổ chức quần chúng, Xứ uỷ chỉ rõ, các đảng viên phải có tinh thần sáng tạo để lãnh đạo quần chúng đấu tranh vũ trang giữ vững quyền lợi và nguyện vọng của mình. Tổ chức các Hội phòng an để bảo vệ quần chúng khi có chiến sự. Lập các ban phụ trách an ninh, phòng không, sơ tán, tổ chức nhiều Đội tự vệ.
Các cấp bộ Đảng phải lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phát mặt nạ chống khí độc, xây hầm trú ẩn, tự do tổ chức các Đội tự vệ, ngừng đưa binh lính ra nước ngoài.
Cuối cùng, Xứ uỷ lâm thời Trung Kỳ kêu gọi các giai cấp các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh "vì sự giải phóng của chúng ta, vì nền độc lập của chúng ta, vì hạnh phúc của nhân dân Đông Dương và của nhân dân thế giới”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 15-19.
THÁNG 6
Thành lập Tỉnh uỷ Hải Dương
Mặc dù bị kẻ thù lùng sục, khủng bố, phong trào phản đế ở Hải Dương vẫn bí mật phát triển. Các tổ chức quần chúng được nhân rộng ở Nam Sách, Ân Thi, phong trào phụ nữ phản đế hoạt động có kết quả. Tạ Xá (Nam Sách) trở thành một cơ sở hoạt động của Liên tỉnh B.
Đầu năm 1940, Xứ uỷ điều ba cán bộ về Hải Dương để tăng cường lãnh đạo phong trào cách mạng trong toàn tỉnh. Tháng 6-1940, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Hải Dương được triệu tập tại xã Tạ Xá. Hội nghị nghe phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, thảo luận và quyết định: tiếp tục chuyển hướng hoạt động cho phù hợp tình hình mới, phát triển cơ sở đảng, cơ sở quần chúng ra các nơi từ nông thôn đến nhà máy xí nghiệp, đồn điền... Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục huấn luyện chính trị, quân sự cho cán bộ, đảng viên, lựa chọn những người ưu tú kết nạp vào Đảng. Xúc tiến thành lập các Đội tự vệ, nơi nào có điều kiện thì tổ chức quần chúng đấu tranh hợp pháp đòi quyền lợi kinh tế.
Tại Hội nghị, Tỉnh uỷ Hải Dương được thành lập gồm ba đồng chí: Nguyễn Mạnh Hoan, Chu Thị Kim Sơn, Nguyễn Tấn Phúc. Đồng chí Nguyễn Mạnh Hoàn làm Bí thư.
Hội nghị Tạ Xá đánh dấu bước phát triển của phong trào cách mạng Hải Dương dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng bộ.
- Ban Chấp hành tỉnh Hải Dương: Sơ thảo Lịch sử Cách mạng Tháng Tám tỉnh Hải Dương, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hải Dương xuất bản, 1967, tr. 21-22.
- Đảng Cộng sản Việt Nam Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương: Các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương (1940-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 18-19.
THÁNG 6
Nhân dân Thái Bình bảo vệ nhà in báo của Trung ương Đảng
Cuối năm 1939, thực dân Pháp thẳng tay khủng bố phong trào cách mạng, các cơ sở Đảng ở Thái Bình bị thiệt hại khá nặng. Song, sang năm 1940, Tỉnh uỷ Thái Bình gây dựng được cơ sở, thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển. Xứ uỷ Bắc Kỳ chọn Thái Bình làm nơi đặt cơ sở in báo của Trung ương.
Đầu tháng 6-1940, cơ quan in báo của Trung ương chuyển về Thái Bình, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ được Xứ uỷ Bắc Kỳ giao trách nhiệm trông nom, bảo vệ, điều hành hoạt động của Nhà in. Nhà in mang tên "Trần Hưng Đạo" sau lấy tên "Trần Phú”. Có ba đồng chí phụ trách công tác in, tài liệu in litô trên đá. Nhà in phụ trách in báo Giải phóng Cứu quốc2, nghị quyết, tài liệu của Đảng; Cương lĩnh, Điều lệ, Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Cơ quan in báo có một mạng lưới giao thông liên lạc mang bài đến và chuyển báo đi khắp nơi.
Năm 1940, Nhà in đóng tại trại Hữu Tiệm (Kiến Xương). Đây là một xóm trại ở xa làng, nằm giữa cánh đồng mênh mông. Sau nhiều lần chuyển địa điểm, đầu năm 1942, nhà in chia hai bộ phận: một về Tiểu Hoàng (Tiền Hải) để in tài liệu, một bộ phận về Bắc Giang in báo.
Nhà in đóng ở đâu, chi bộ địa phương đó có trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt, nhất là công tác bảo vệ ở trại Hữu Tiệm, một số gia đình hàng xóm trở thành "tai mắt" của nhà in. Anh em tuần đinh được giác ngộ, canh gác ở điếm nếu thấy mật thám về thì nổi hiệu tù và báo tin. Ở Kênh Son, cụ già cất vó bè đầu làng làm vị trí quan sát ban ngày, một anh tuần đinh canh gác ban đêm. Chi bộ địa phương còn vận động đảng viên, quần chúng quyên góp tiền bạc, nguyên vật liệu ủng hộ nhà in như đường, chanh để xử lý mặt bàn đá in.
Nhiều lần địch huy động lính về đóng dày đặc ở Kiến Xương, ngày đêm lùng sục, bắt bớ cán bộ, gây không khí căng thẳng. Song, gần hai năm, nhà in báo của Trung ương vẫn được bảo vệ, duy trì hoạt động, cung cấp tài liệu, báo cho các địa phương.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Bình: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình, Thái Bình, 1982.
GIỮA NĂM
Thành lập Chi bộ Đảng trong Nhà lao Thừa Phủ (Thừa Thiên - Huế)
Năm 1939, đế quốc Pháp tồ chức hàng loạt các cuộc lùng sục, bắt bớ cán bộ, cơ sở cách mạng Thừa Thiên - Huế hòng tiêu diệt cơ sở cách mạng trong tỉnh. Nhiều đảng viên, cán bộ chủ chốt bị bắt, trong đó có đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh uỷ.
Giữa năm 1940, trước yêu cầu cần có một tổ chức Đảng trong nhà lao để lãnh đạo đấu tranh và giữ mối liên lạc với Đảng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh cùng một số đồng chí quyết định thành lập Chi bộ Nhà lao Thừa Phủ. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh được cử làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Kim Thành (Tố Hữu) phụ trách tuyên truyền và giáo dục.
Sau khi thành lập, Chi bộ thực hiện công tác nâng cao giác ngộ, khí tiết cách mạng cho đảng viên, sẵn sàng đối phó với sự khủng bố của kẻ thù. Chi bộ chủ trương tuyên truyền, giác ngộ lính gác nhà lao và tù thường phạm. Một số binh lính trở thành mối liên lạc đưa tài liệu của Chi bộ ra ngoài. Sự liên hệ giữa nhà lao với tổ chức Đảng bên ngoài còn được duy trì qua một số gia đình thường xuyên vào thăm người nhà trong tù.
Chi bộ Nhà lao Thừa Phủ trở thành một trong những đầu mối chỉ đạo hoạt động cách mạng trong và ngoài nhà tù. Cũng qua đó, một số tổ chức Đảng ở các huyện Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Điền (Thừa Thiên), Quảng Trị và Đà Nẵng đã liên lạc được với nhau.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t. I.
NGÀY 12-7
Nguyễn Ái Quốc viết Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về tình hình cách mạng Việt Nam và Đông Dương
Báo cáo dành một phần giới thiệu sơ lược về địa lý, dân tộc, chế độ chính trị Đông Dương kể từ khi là thuộc địa của Pháp; về những cuộc đấu tranh nổi tiếng trong phong trào giải phóng dân tộc kể từ năm 1880; về sự phân hoá các tầng lớp xã hội và khuynh hướng chính trị của họ. Về các đảng phái ở Đông Dương, Báo cáo khẳng định: "Ở Đông Dương chỉ có Đảng Cộng sản là một đảng chân chính, có tính chất toàn quốc và có quần chúng”.
Tình hình Việt Nam sau chiến tranh thế giới bùng nổ. Báo cáo nêu rõ, Chính phủ Pháp đã giải tán tất cả các đoàn thể quần chúng, đóng cửa báo chí tiến bộ, bắt giam những phần tử tiên tiến, tiếp tục khủng bố trắng; tăng cường bóc lột về kinh tế, bắt thanh niên từ 16 đến 50 tuổi vào lính. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản cần nhiều cán bộ có năng lực để tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh.
Báo cáo dành một phần nói về tình hình Việt Nam sau khi Pháp đầu hàng Đức. Các nước lớn đều lăm le giành Việt Nam làm thuộc địa, Nhật Bản đang mưu toan nhanh chóng chiếm Việt Nam bằng vũ lực. Chính phủ Pháp thì từng bước nhân nhượng Nhật Bản.
Phần cuối viết về "Động cơ hành động của chúng tôi", Báo cáo khẳng định: "Nhân dân Việt Nam tuy hiện nay chưa được tổ chức, nhưng ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ, ai cũng mong muốn độc lập, tự do, và đang trong tư thế một người lên tiếng vạn người ủng hộ". Báo cáo nhấn mạnh: Đảng Cộng sản sẽ là người lãnh đạo toàn dân chống Pháp, Nhật với điều kiện được Quốc tế Cộng sản giúp về súng đạn, tài chính, cán bộ cố vấn. Báo cáo đề nghị Quốc tế Cộng sản giúp đỡ nhanh chóng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.3, tr. 162-174.
TỪ NGÀY 21 ĐẾN NGÀY 27-7
Hội nghị mở rộng Xứ ủy Nam Kỳ bàn về chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa
Sau khi Xử uỷ Nam Kỳ phổ biến “Đề cương về cách mạng Nam Kỳ”, từ tháng 3-1940, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa của nhân dân các địa phương dấy lên mạnh mẽ. Từ ngày 21 đến ngày 27-7-1940, đồng chí Tạ Uyên triệu tập Hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ mở rộng tại xã Tân Hương, quận Châu Thành (Mỹ Tho) bàn về chuẩn bị khởi nghĩa.
Tham dự Hội nghị có đồng chí Phan Đăng Lưu, Uỷ viên Trung ương Đảng, 24 đại biểu thuộc 19 trong số 21 tỉnh Nam Kỳ.
Hội nghị phân tích tình hình thế giới và trong nước, tập trung thảo luận ba vấn đề lớn: lấy vũ khí ở đâu để trang bị cho quân khởi nghĩa; phải có những điều kiện nào mới phát động khởi nghĩa; có thể khởi nghĩa ở Nam Kỳ trước hay phải chờ khởi nghĩa trong cả nước.
Hội nghị tán thành những nguyên tắc về khởi nghĩa: Pháp bại trận tạo thời cơ tốt cho khởi nghĩa; phải có đủ lực lượng mới khởi nghĩa. Để chuẩn bị khởi nghĩa, Hội nghị xác định những công việc cần kíp: kiện toàn các cấp bộ Đảng, phát triển mạnh các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Phản đế, tổ chức du kích, mua sắm vũ khí, vận động binh lính địch...
Hội nghị giao cho Thường vụ Xứ uỷ quyết định thời điểm có thể và cần phải khởi nghĩa. Hội nghị cử đồng chí Phan Đăng Lưu ra Bắc xin chỉ thị Trung ương về khởi nghĩa.
Hội nghị cử ra Xứ uỷ mới gồm chín đồng chí: Tạ Uyên, Phan Văn Khoẻ, Lê Văn Khuông, Phan Văn Bảy, Quản Trọng Hoàng, Phạm Thái Bường, Dương Công Nữ, Thái Văn Đẩu, Phạm Hồng Thám. Đồng chí Tạ Uyên được bầu là Bí thư Xứ uỷ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
- Lưu Phương Thanh: Nam Kỳ khởi nghĩa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr. 36-37.
- Về đồng chí Tạ Uyên, Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Tạp chí Lịch sử Đảng, 3-1992, tr. 51-53.
NGÀY 1-8
Xứ uỷ Bắc Kỳ ra lời kêu gọi phản đối chiến tranh đế quốc
Năm 1940, phát xít Đức - Ý mở rộng tiến công xâm lược châu Âu. Nhân cơ hội đế quốc Pháp bại trận, phát xít Nhật xúc tiến mở rộng chiến tranh giành giật thuộc địa của các đế quốc ở vùng Đông Nam Á.
Trước tình hình này, Xứ uỷ Bắc Kỳ ra "Lời kêu gọi nhân dịp ngày 1-8-1940 kỷ niệm ngày phản đối chiến tranh đế quốc", kêu gọi các tầng lớp nhân dân từ trí thức, sinh viên nam nữ, tiểu thương đến thợ thuyền, dân cày, binh lính đấu tranh, mít tinh, biểu tình phản đối đế quốc chiến tranh.
- Những sự kiện hoạt động của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1934-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ NGÀY 21 ĐẾN NGÀY 23-9
Hội nghị mở rộng Xứ uỷ Nam Kỳ tại Hóc Môn chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa
Trong ba ngày từ ngày 21 đến ngày 23-9-1940, đồng chí Tạ Uyên, Bí thư Xứ uỷ triệu tập cuộc Hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ mở rộng tại Xuân Thời Đông (xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh) để bàn kế hoạch khởi nghĩa.
Hội nghị phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương, cho rằng: Sau khi đế quốc Pháp đầu hàng phát xít Đức, phát xít Nhật sẽ thôn tính Đông Dương. Hội nghị nhận định, lúc này, quảng đại quần chúng rất căm thù đế quốc Pháp; 30% nhân dân muốn lật đổ Pháp, chống Nhật; một bộ phận ghét Pháp, sợ Nhật; một bộ phận thiểu số thân Nhật và Pháp.
Về điều kiện chủ quan, Hội nghị phân tích, tuy Đảng đã xây dựng được nhiều tổ chức trong quần chúng, nhưng các tổ chức đó chưa được củng cố. Phong trào đấu tranh chưa thật mạnh mẽ. Song, Hội nghị cũng cho rằng, nếu không tổ chức khởi nghĩa thì quần chúng sẽ tan rã tinh thần. Đảng sẽ mất ảnh hưởng và tín nhiệm trong quần chúng.
Hội nghị nhận định, thời cơ khởi nghĩa là khi Pháp - Nhật đánh nhau ở Đông Dương, khi nào cuộc xung đột Nhật - Mỹ bùng nổ ở Thái Bình Dương; khi Nhật dùng mọi cách để xâm chiếm Đông Dương; khi Pháp cho phép Nhật vào Đông Dương dùng con đường Hà Nội - Vân Nam tiến công Trung Hoa.
Về tình hình nội bộ, Hội nghị chỉ rõ: Trong tình hình nghiêm trọng hiện nay, Đảng phải đấu tranh mạnh mẽ loại trừ những phần tử xấu, chống manh động, khủng bố cá nhân. Đảng cần thực hiện tuyên truyền trong binh lính Đông Dương, làm rối loạn hàng ngũ địch. Tài liệu về cuộc khởi nghĩa do các Quận uỷ phân phát.
Hội nghị quyết định nối lạc liên lạc giữa các cấp bộ Đảng, tổ chức huấn luyện cấp tốc những đội du kích trong toàn xứ, phát động phong trào đấu tranh mạnh mẽ, tổ chức ngay các Ban tuyên truyền tiến hành tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết của Hội nghị.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, I995, t. 1.
- Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn xứ Nam Kỳ, ngày 21-23-9-1940, lưu tại Viện Lịch sử Đảng
NGÀY 27-9
Khởi nghĩa Bắc Sơn
Thừa cơ nước Pháp thất thủ, phát xít Nhật tìm cách nhảy vào chiếm thuộc địa Đông Dương. Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã chấp nhận hầu hết yêu sách của Nhật, song, ngày 23-9-1940, quân Nhật vẫn cho quân vượt biên giới Việt - Trung đánh chiếm Lạng Sơn, đồng thời đổ bộ lên Đồ Sơn.
Sau vài trận nhỏ, quân Pháp thất bại nặng nề. Một số lớn đầu hàng, số còn lại tháo chạy theo hướng Điềm He - Bình Gia - Bắc Sơn - Thái Nguyên, vứt bỏ cả súng đạn. Chính quyền ở các châu, phủ Lạng Sơn trên đường quân Pháp rút chạy cũng hoang mang, tan rã. Các tri châu Thất Khê, Điềm He, Tràng Định, Bắc Sơn đều chạy trốn. Tên đồn trưởng Pháp ở Bình Gia vứt súng, bỏ đồn, tháo chạy. Quần chúng thu nhặt súng đạn của quân Pháp, phục kích bắn trả.
Không bỏ lỡ thời cơ, một số đảng viên cộng sản vừa thoát khỏi Nhà tù Lạng Sơn chạy về Bắc Sơn, cùng Đảng bộ Bắc Sơn họp bàn và quyết định lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, thành lập Ban Chỉ huy khởi nghĩa.
20 giờ ngày 27-9-1940, lực lượng khởi nghĩa khoảng 600 người gồm: tự vệ, quần chúng các dân tộc Tày, Dao, Nùng, Kinh... chia làm ba mũi, nổ súng tiến công đồn Mỏ Nhài (châu lỵ Bắc Sơn). Trước khí thế của quân khởi nghĩa, tri châu và binh lính bỏ đồn tháo chạy. Ban Chỉ huy khởi nghĩa tuyên bố xoá bỏ chính quyền đế quốc, hạ lệnh đốt sổ sách, giấy tờ của địch.
Ngày 28 và 29, quân khởi nghĩa liên tiếp phục kích tiêu diệt hoặc tước khí giới tàn binh Pháp ở Canh Tiêm, Sập Dì, Nà Ti, Thâm Thông.
Song, lực lượng khởi nghĩa phân tán, không thừa thắng tiến công địch và mở rộng địa bàn hoạt động. Giặc Pháp, sau khi đầu hàng phát xít Nhật, chấp nhận những yêu sách của Nhật, chúng cấp tốc điều quân trở lại Bắc Sơn đàn áp lực lượng khởi nghĩa. Thực dân Pháp đánh chiếm Mỏ Nhài, lập lại bộ máy cai trị ở Bắc Sơn. Không khí khủng bố lan tràn khắp châu Bắc Sơn.
Giữa lúc Ban Chỉ huy khởi nghĩa đang lúng túng tìm cách đối phó, Xứ uỷ Bắc Kỳ kịp thời cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên tăng cường lãnh đạo. Trung tuần tháng 10, Ban Chỉ huy khu được thành lập do đồng chí Trần Đăng Ninh đứng đầu. Ngày 13-10-1940, cuộc họp ở rừng Tân Hương quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn đầu tiên.
Ngày 28-10, Ban Chỉ huy du kích tổ chức một cuộc mít tinh vũ trang tại trường Vũ Lăng, chuẩn bị chiếm lại đồn Mỏ Nhài, nhưng bị quân Pháp đánh úp. Sau trận này, quân Pháp tiến hành chiến dịch khủng bố trắng lần thứ hai. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bị thất bại, tuy chưa thành lập được chính quyền, chưa biết nắm chắc thời cơ để liên tục tiến công, mở rộng thanh thế, nhưng cuộc khởi nghĩa đóng một vai trò quan trọng: đã hình thành lực lượng vũ trang đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo (sau này phát triển thành Việt Nam Cứu quốc quân); là tiền đề cho các hình thức đấu tranh của cách mạng Việt Nam; bài học về chọn thời cơ, quyết tâm giành thắng lợi cách mạng.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb Sử học, 1963, t.III, tr. 63-65.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr 27-33.
THÁNG 10
Thành lập Ban Cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang
Sau khi Chi bộ Mỏ than tỉnh Tuyên Quang thành lập (tháng 3-1940), nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động chống thực dân Pháp và bọn quan lại đầu sỏ được tổ chức. Để tiếp tục đẩy mạnh phong trào, tháng 10-1940, Xử uỷ Bắc Kỳ quyết định thành lập Ban Cán sự Đảng tỉnh Tuyên Quang.
Ban Cán sự Đảng gồm ba đồng chí: Trương Đình Dần (tức Điều), Đào Văn Thại (tức Lê Đồng) và Vũ Mùi. Đồng chí Đào Duy Kỳ thay mặt Xứ uỷ giao nhiệm vụ cho Ban Cán sự: trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng ở Tuyên Quang và một số huyện thuộc tỉnh Phú Thọ (tiếp giáp Tuyên Quang); gây dựng và phát triển cơ sở Đảng ở các huyện, xã.
Ban Cán sự Đảng tỉnh sẽ liên lạc mật thiết với Chi bộ Mỏ than, lãnh đạo phong trào cách mạng theo đường lối của Đảng, Xứ uỷ.
Dưới sự chỉ đạo của các tổ chức Đảng, phong trào cách mạng ở Tuyên Quang nói chung, ở mỏ than nói riêng được đẩy mạnh.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Tuyên Quang xuất bản, 1995, t. I.
THÁNG 10
Hội nghị mở rộng Tỉnh uỷ Quảng Nam thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ chính thức
Sau một thời gian gián đoạn hoạt động do bị địch khủng bố, tháng 10-1940, Hội nghị Tỉnh uỷ Quảng Nam mở rộng được tổ chức tại Chùa Hang (Tam Kỳ) bàn kế hoạch củng cố tổ chức Đảng, lãnh đạo phong trào quần chúng.
Tham dự Hội nghị có các đồng chí trong Ban Tỉnh uỷ lâm thời, đại biểu của tám phủ và huyện. Đồng chí Hồ Tỵ, phái viên Xứ uỷ Trung Kỳ tham dự, truyền đạt Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu.
Hội nghị kiểm điểm tình hình hoạt động của Đảng bộ trong một năm qua. Hệ thống tổ chức Đảng bị vỡ vào cuối năm 1939, đã được phục hồi ở các phủ, huyện. Tam Kỳ là địa phương có nhiều chi bộ nhất. Do chủ trương của Trung ương đến chậm nên công tác tuyên truyền, chuyển hướng hoạt động chưa được nhanh.
Sau khi thảo luận nghị quyết Trung ương Hội nghị quán triệt chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, ra báo Khởi nghĩa để tuyên truyền đường lối, giáo dục tư tưởng nhận thức cho đảng viên và quần chúng; củng cố tồ chức Đảng từ Phủ uỷ, Huyện uỷ đến Chi bộ. Tổ chức các hội quần chúng bí mật, lấy tên các Hội phản đế.
Hội nghị cũng thông qua phương hướng tổ chức hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ: rải truyền đơn, phá hoại đường xá ...
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh chính thức gồm năm đồng chí, do đồng chí Hồ Ty làm Bí thư. Các đồng chí trong Tỉnh uỷ phân công nhau đến những nơi chưa có cơ sở để phát triển đảng viên, các đoàn thể quần chúng bí mật.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), dự thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
TỪ NGÀY 6 ĐẾN NGÀY 9-11
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Tháng 6-1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức, lập Chính phủ bù nhìn Visi (Vichy). Lợi dụng cơ hội này, từ cuối tháng 9-1940, phát xít Nhật kéo quân vào chiếm Đông Dương. Nhân dân Đông Dương lâm vào tình cảnh “một cổ hai tròng”. Quần chúng nung nấu căm hờn, khởi nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra, nhân dân Nam Kỳ đang ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị sa vào tay giặc.
Trước tình hình ấy, Trung ương Đảng họp Hội nghị từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, tại làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh).
Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hạ Bá Cang, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh.
Phân tích tình hình thế giới, Hội nghị nêu rõ: Cuộc chiến tranh thế giới ngày càng lan rộng, đế quốc Pháp đã bại trận, phát xít Nhật thừa cơ mở rộng chiến tranh, giành lấy những thuộc địa của Pháp, Anh, Mỹ ở Viễn Đông. Hội nghị nhận định: "Cuộc đế quốc chiến tranh này rất có thể chuyển biến thành cuộc chiến tranh giữa đế quốc với Liên Xô".
Về tình hình trong nước, Hội nghị nhận định, từ khi phát xít Pháp - Nhật câu kết, áp bức bóc lột nhân dân ta, mâu thuẫn giữa chúng và toàn thể dân tộc Việt Nam càng trở nên sâu sắc, một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập".
Về tình hình Đảng và các hội quần chúng, Hội nghị chỉ rõ, từ khi Đảng ta chủ trương lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thì nhiều nơi lại xao nhãng việc tổ chức Công hội và Nông hội, chỉ chú trọng tổ chức Hội Phản đế cứu quốc.
Hội nghị khẳng định: "Tình thế hiện tại không thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương”, chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 là đúng.
Hội nghị chỉ rõ, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc Pháp - Nhật. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt: vấn đề thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí Hoàng Văn Thụ chịu trách nhiệm thực hiện Nghị quyết này.
Vấn đề thứ hai, sau khi nghe báo cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị chỉ thị cho Xứ uỷ Nam Kỳ đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Bộ vì chưa có đủ điều kiện chủ quan và khách quan bảo đảm giành thắng lợi. Đồng chí Phan Đăng Lưu, ủy viên Trung ương Đảng được giao nhiệm vụ truyền đạt chủ trương này của Trung ương đến Đảng bộ Nam Kỳ.
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được thành lập gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, do đồng chí Trường Chinh làm quyền Tổng Bí thư. Hội nghị cũng quyết định chắp mối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở nước ngoài.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 1-1940 sáng suốt nhận định kẻ thù chính của nhân do Đông Dương lúc đó là phát xít Pháp - Nhật, đồng thời có chủ trương đúng về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 20-82.
NGÀY 23-11
Khởi nghĩa Nam Kỳ
Chỉ trong một thời gian ngắn kể từ khi Thường vụ Xứ uỷ Nam Kỳ ra Đề cương về cách mạng Nam Kỳ (3-1940), công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai rất khẩn trương, các tổ chức phản đế xuất hiện nhiều nơi - nhất là ở vùng nông thôn. Trong thời gian này, Xử uỷ Nam Kỳ họp nhiều lần, bàn về kế hoạch khởi nghĩa.
Trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, ảnh hưởng của không khí cách mạng khởi nghĩa Bắc Sơn, đặc biệt là tinh thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp - nhất là số binh lính đang bị tập trung ở Sài Gòn để chuẩn bị sang chiến trường Pháp – Thái3 Xứ uỷ Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa vào đêm 22-11-1940. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11- 1940 quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì điều kiện chưa chín muồi, nhưng khi đồng chí Phan Đăng Lưu về đến Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa đã đến các địa phương, không hoãn được nữa.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra theo đúng kế hoạch vào đêm 22 rạng 23-11-1940. Khởi nghĩa nổ ra ở hầu khắp các tỉnh từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ, ở Biên Hoà, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, đặc biệt quyết liệt ở Hóc Môn (Bà Điểm, Gia Định), Cai Lậy (Mỹ Tho), Vũng Liêm (Vĩnh Long). Cả vùng nông thôn rung chuyển trước sức mạnh đến công của quần chúng cách mạng. Nhiều đồn bốt, công sở, đường giao thông... của địch bị phá. Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập tịch thu ruộng đất của địa chủ và phản động chia cho dân cày nghèo, trừng trị bọn phản cách mạng... Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong nhiều cuộc biểu tình và những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng.
Do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ thực dân Pháp kịp thời đối phó. Chúng lập tức huy động các lực lượng tiến hành một chiến dịch khủng bố trắng cực kỳ tàn khốc. Hàng chục xe chở đầy lính được tung đi săn lùng quân du kích, càn quét các vùng khởi nghĩa. Hai mươi máy bay được huy động đi ném bom các vùng có quần chúng nổi dậy như Năm Thôn, Cai Lậy, Chợ Giữa, Càng Long (Mỹ Tho). Chúng còn dùng dây thép xuyên qua bàn tay hoặc bắp chân người, câu thành từng chuỗi rồi quẳng xuống biển. Trong thời gian từ ngày 23-11-1940 đến ngày 31- 12-1940, ở các tỉnh Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, thực dân Pháp bắt 5.848 người. Hàng ngàn người bị xử tử, bị đày ra Côn Đảo, đi các trại tập trung Tà Lài, Bà Rá.
Lực lượng nghĩa quân ít ỏi còn lại rút về Truông Mít (Thủ Dầu Một), Bình Hoà, Bình Thành trong vùng Đồng Tháp và rừng U Minh để củng cố lực lượng.
Do thời cơ chưa xuất hiện, khởi nghĩa Nam Kỳ đã thất bại. Song, cuộc khởi nghĩa biểu lộ lòng căm thù sâu sắc của nhân dân với đế quốc, tinh thần anh dũng quật khởi của quần chúng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ cùng với cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn "là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 33-43.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb Sử học, Hà Nội, 1963. t. III, tr. 65-72.
- Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử khởi nghĩa Nam Kỳ: Lịch sử Khởi nghĩa Nam Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
NGÀY 25-11
Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời kêu gọi các cấp bộ Đảng lãnh đạo quần chúng, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
Được tin cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, Uỷ ban Thường trực Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời kêu gọi các cấp bộ Đảng hưởng ứng, tổ chức quần chúng tranh đấu chống đế quốc Pháp, Nhật.
Lời hiệu triệu ngày 25-11-1940 nêu rõ: “Thế là Đảng bộ Nam Kỳ đã dẫn đạo nhân dân ra oanh liệt hưởng ứng với Bắc Sơn, đi đôi với Bắc Sơn chống lũ ăn cướp tham tàn Pháp - Nhật - Xiêm", trách nhiệm của các đảng bộ là phải làm cho ngọn lửa cách mạng đó cháy đều ở các tỉnh, đốt cháy cả hệ thống thuộc địa của Pháp đập tan cuộc chiến tranh trên bán đảo Đông Dương.
Trung ương kêu gọi các đảng bộ thống nhất ý chí và nhanh chóng hành động trong từng chi bộ và tổ chức. Các cấp lãnh đạo phải lập ra những Uỷ ban dân chúng cách mạng như “Ủỷ ban bãi công cách mạng” ở nhà máy, "Uỷ ban dân cày cách mạng” ở nông thôn, "Uỷ ban cách mạng cứu quốc” của Mặt trận Dân tộc phản đế. Tổ chức quần chúng biểu tình, mít tinh, bãi công, bãi thị, bãi khoá từ tỉnh thành đến thôn quê. Các địa phương phải nhanh chóng thống nhất các Đội tự vệ lẻ tẻ thành đội du kích, chiến đấu chiếm đoạt vũ khí lương thực của đế quốc. Để thu hút quần chúng rộng rãi, các cuộc đấu tranh cần nêu khẩu hiệu đòi ngày làm 8 giờ, chia lại công điền cho nông dân nghèo. Xây dựng đội quân căn bản là những đảng viên, những người tích cực, thi hành những khẩu lệnh của Uỷ ban bạo động.
Trung ương kêu gọi tất cả các đảng viên không được do dự lừng chừng, phải hăng hái và cương quyết tranh đấu xiết chặt hàng ngũ, làm gương đấu tranh cho quân chúng trong công cuộc giải phóng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 85-88.
TỪ THÁNG 11 ĐẾN THÁNC 12
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đăng nhiều bài trên Cứu vong nhật báo
Trong thời gian hoạt động ở Quế Lâm (Trung Quốc) cuối năm 1940, với bí danh Hồ Quang, đồng chí Nguyễn Ái Quốc dành thời gian viết bài cho tờ Cứu vong nhật báo do nhà văn Hạ Diễn làm chủ bút. Đây là tờ báo công khai do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc thường lấy tư cách một ký giả ở Biện sự xứ Bát lộ quân, đến chơi thăm Hạ Diễn để gửi bài.
Từ ngày 15-11 đến ngày 16-12, Cứu vong nhật báo đăng 10 bài của đồng chí Nguyễn Ái Quốc với bút danh “Bình Sơn". Đáng chú ý nhất là bài “Nhân dân Việt Nam với báo chí Trung Quốc" (ngày 2-12-1940). Bài báo phê phán cơ quan thông tấn của Quốc dân Đảng đã không đồng tình với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân Việt Nam lại coi khởi nghĩa Bắc Sơn là “thổ dân nổi loạn”.
Ngoài ra, có nhiều bài báo bình luận về các sự kiện: Mútxôlini tấn công Hy Lạp, Chính phủ Visi dời về Vécxây; bày tỏ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Việt Nam với cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc...
Ngày 28-12-1940, Cứu vong nhật báo đăng một bài quan trọng trên trang 2, trong mục “đặc tài" (tin đặc biệt), nhan đề "Việt Nam Dân tộc giải phóng uỷ viên hội thành lập tuyên ngôn” (Tuyên ngôn thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam). Bài báo khoảng 2000 chữ, nói lên mối quan hệ mật thiết giữa cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc với công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam. Lần đầu tiên, người ta thấy khẩu hiệu “phấn đấu vì một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà", bên cạnh các khẩu hiệu kêu gọi nhân dân Việt Nam "hãy cầm lấy vũ khí”, "đánh đổ tất cả bọn xâm lược", "giành lại tự do bình đẳng"...
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 113-127.
- Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb. Nghệ An, 1994, tr. 182.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 3, tr. 175-191.
NGÀY 28-12
Hội nghị Xứ uỷ Nam Kỳ kiểm điểm và rút kinh nghiệm hoạt động chỉ đạo khởi nghĩa Nam Kỳ
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, phong trào cách mạng gặp những khó khăn thách thức lớn. Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, hệ thống tổ chức Đảng từ cấp xứ đến cơ sở bị phá vỡ gần hết. Khôi phục tổ chức và hoạt động của các cơ quan lãnh đạo cách mạng là yêu cầu bức xúc trước mắt.
Ngay khi đế quốc Pháp và tay sai khủng bố dã man với quy mô lớn ngày 28-12-1940, các đồng chí còn lại trong Xứ uỷ triệu tập một cuộc họp tại nhà bà Nguyễn Thị Châu xã An Phú Tây (nay thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh).
Hội nghị kiểm điểm hoạt động của Xứ uỷ, tìm nguyên nhân thất bại của cuộc khởi nghĩa, rút kinh nghiệm lãnh đạo.
Hội nghị cho rằng khởi nghĩa thất bại do thời cơ chưa chín muồi kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, địch đã đề phòng. Hội nghị nghiêm khắc xử lý kỷ luật những đồng chí trong Xứ uỷ mắc sai lầm trong nhận thức và chỉ đạo cuộc khởi nghĩa.
Hội nghị quyết định chuyển hướng đấu tranh, đưa nhân dân ra sống hợp pháp, rút một số cán bộ du kích vào Đồng Tháp Mười, U Minh, Tây Ninh, Biên Hoà để xây dựng cơ sở, chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa Nam Kỳ lần thứ hai.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 59-60.
- Lưu Phương Thanh: Nam Kỳ khởi nghĩa, Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr. 117-118.
THÁNG 12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân đấu tranh chống thực dân Pháp đàn áp khởi nghĩa Nam Kỳ
Sau các cuộc đấu tranh của nhân dân, đặc biệt là khởi nghĩa Nam Kỳ, thực dân Pháp mở một chiến dịch đàn áp dã man, hòng đè bẹp ý chí cách mạng của các chiến sĩ cộng sản và nhân dân. Ở Nam Kỳ, hàng nghìn người bị giết, hàng nghìn nhà bị thiêu huỷ. Trước tình hình đó, đầu tháng 12-1940, Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh thay mặt Ban Thường vụ Trung ương lâm thời ra Thông cáo kêu gọi các Đảng bộ tổ chức quần chúng đấu tranh hưởng ứng.
Bản Thông cáo chỉ rõ: "Các dân tộc Đông Dương đã đến lúc phải dùng khí giới giết quân thù để tự giải phóng cho mình".
Thông cáo kêu gọi Đảng bộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ tổ chức ngay những cuộc hưởng ứng Nam Kỳ, nhằm gây thanh thế cho quân khởi nghĩa, không để cho đế quốc tập trung lực lượng đàn áp phong trào cách mạng.
Thông cáo chỉ ra những phương pháp đấu tranh: tổ chức bãi công, bãi khoá, bãi thị ở thành phố, phát triển Đội tự vệ thành đội du kích, thực hiện đánh đồn trại, cướp khí giới, tiêu diệt bọn bán nước... Thông cáo yêu cầu các Xứ uỷ tổ chức ngay những đội biệt động phá đường sắt giao thông ngăn không cho địch chở lính, vũ khí, lương thực từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ vào Nam Kỳ. Tổ chức những uỷ ban tuyên truyền, diễn thuyết để cổ động quần chúng đấu tranh vạch tội ác của đế quốc Pháp. Ở Bắc Kỳ, tổ chức Uỷ ban bạo động thành, tỉnh, phủ, huyện; Trung Kỳ tổ chức Uỷ ban bạo động liên tỉnh, để chỉ huy bạo động cho thống nhất.
Trung ương kêu gọi cả nước ủng hộ, đồng thời thực hiện những biện pháp cấp bách ngăn chặn bàn tay quân thù.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 89-92.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1990, t. I, tr. 51.
THÁNG 12
Ban Tỉnh uỷ Thái Bình thành lập
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình được tổ chức từ ngày 21 đến ngày 22-12-1940.
Dự Đại hội có 30 đại biểu của Đảng bộ 12 phủ, huyện. Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Hạ Bá Cang tham dự và cho ý kiến chỉ đạo.
Đại hội thảo luận trong hai ngày, ba đêm về vấn đề: củng cố và phát triển lực lượng chính trị và nửa vũ trang, huấn luyện quân sự, sắm sửa vũ khí. Đại hội thảo luận kỹ về vấn đề khởi nghĩa vũ trang.
Đại hội bầu Ban Tỉnh uỷ do đồng chí Đào Năng An làm Bí thư.
Đại hội đánh dấu sự trưởng thành của Đảng bộ và phong trào cách mạng Thái Bình.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội về gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa, các địa phương đã tổ chức các Đội vũ trang nhân dân, Đội xung phong, Đội tiến quân phục quốc. Tự vệ các làng tích cực luyện tập quân sự, sắm sửa vũ khí.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình; Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
TRONG NĂM
Các cuộc đấu tranh của công nhân Hải Phòng đòi quyền lợi
Tháng 11-1939, sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, Thành uỷ Hải Phòng ra bản "Tuyên cáo quốc dân" nhằm vạch trần tội ác của đế quốc Pháp, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đoàn kết chống phát xít và chiến tranh. Vì vậy, mặc dù đế quốc đang khủng bố gắt gao, các cuộc bãi công biểu tình vẫn nổ ra với mức độ khác nhau, hình thức phong phú, phù hợp với tình hình.
Tháng 2-1940, cuộc đấu tranh của 50 công nhân Hãng China Diesel đòi tăng lương, giành thắng lợi. Tháng 3-1940, 160 chị em công nhân Nhà máy dệt thảm Hàng Kênh đình công đòi tăng tiền công đan áo, chống đánh đập, dãn thợ vô lý. Tháng 5-1940, 2000 công nhân Máy tơ đấu tranh kéo dài 5 ngày liền đã gây tiếng vang lớn. Cuối năm 1940, 200 công nhân Máy chỉ đấu tranh đưa yêu sách đòi trả lương 10 ngày đã bị chủ quịt. Ngoài ra, còn có những cuộc đấu tranh mang tính chất chính trị, như bãi công của 400 anh chị em công nhân Sáu Kho chống phát xít Nhật hà hiếp đánh đập nhân dân; các cuộc biểu dương lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động và Quốc tế đỏ...
Những cuộc đấu tranh ấy đã thể hiện tinh thần đấu tranh bền bỉ, sức mạnh đoàn kết nhất trí của anh em công nhân, làm cho quần chúng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của cách mạng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Phòng - Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng: Cách mạng Tháng Tám ở Hải Phòng và Kiến An, Sở Văn hoá thông tin Hải Phòng xuất bản, 1971, tr. 33.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
TRONG NĂM
Nông dân Thanh Hoá đấu tranh phản đối chính sách vơ vét tài sản của chính quyền thuộc địa, đòi chia lại công điền công thổ
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939, các chi bộ Đảng ở Thanh Hoá đã xây dựng được nhiều các Hội Phản đế Cứu quốc. Cuối năm 1940, số hội viên của các hội khoảng 4.000 người. Phong trào đấu tranh của quần chúng vì thế phát triển mạnh ở nhiều huyện như Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hoá, Vĩnh Lộc, Hà Trung, Hậu Lộc, phản đối "lạc quyên”, "quốc trái", tố cáo bộ mặt bọn hào lý nhũng nhiễu nhân dân.
Trong năm 1940, một cuộc đấu tranh lớn của nông dân làng Trịnh Xá (Yên Định) và làng Phú Thượng (Thọ Xuân) đòi bọn hào lý phải chia lại công điền, công thổ. Chấp nhận yêu sách của nông dân, chúng lại giở thủ đoạn thu "lợi tức" ngay bằng tiền mặt. Nhiều nông dân nghèo không có tiền nộp, ruộng đất lại rơi vào tay địa chủ.
Trước tình hình đó, các Đội tự vệ ở làng hỗ trợ nông dân vùng dậy đấu tranh. kiên quyết đòi hào lý chia lại công điền công thổ và không được thu lợi tức.
Trước tinh thần đấu tranh của nông dân, bọn hào lý hai làng Trịnh Xá, Phú Thượng buộc phải chấp nhận các yêu sách. Thắng lợi này đã cổ vũ nông dân các làng khác trong huyện đứng lên đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930- 1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Những sự kiện lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
CUỐI NĂM
Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi binh lính chống chính sách đàn áp của địch và hưởng ứng phong trào cách mạng của nhân dân
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra thông cáo khẩn cấp kêu gọi các Đảng bộ Trung Kỳ, Bắc Kỳ tổ chức quần chúng đấu tranh hưởng ứng. Cũng trong thời gian này, Đảng ra lời kêu gọi binh lính cùng thợ thuyền, dân cày và các tầng lớp khác hưởng ứng khởi nghĩa Nam Kỳ.
“Lời kêu gọi" nêu rõ: Lúc này “xứ Đông Dương ta như một nhà ngục lớn", binh lính bị bắt làm tù binh, làm bia đỡ đạn khi giặc Nhật đánh Lạng Sơn bị lính lê dương và lính Pháp bắn chết nếu chống lại lệnh của bọn quan binh Pháp.
Đảng phân tích rõ ràng, anh em cai đội, binh lính phần nhiều xuất thân từ thợ thuyền, dân cày, giặc Pháp lại bắt anh em cầm súng giết hại đồng bào mình. Đảng kêu gọi binh lính nêu gương các chiến sĩ Thái Nguyên, Yên Bái, Bắc Sơn, Nam Kỳ, “dùng ngay khí giới của giặc Pháp bắn vào đầu giặc Pháp". Đảng khích lệ... chỉ có anh em binh lính mới làm cho Pháp, Nhật hoảng vía.
Cuối cùng, Đảng kêu gọi anh em binh lính hãy đoàn kết đứng dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Đông Dương cùng toàn dân tộc làm cách mạng giải phóng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 93-95.
NĂM 1940
Phong trào đấu tranh của nông dân Bình Định chống địa chủ, cường hào chiếm đất công
Trong những năm 1940 - 1941, tại nhiều huyện ở tỉnh Bình Định, phong trào chống bọn cường hào xâm chiếm ruộng đất công trong các đợt quân cấp công điền nổ ra mạnh mẽ.
Nông dân Cửu Lợi (Hoài Nhơn), Vĩnh Thạnh, Thanh Danh (An Nhơn), Trà Quang (thị trấn Phú Mỹ), An Thường (Ân Thạnh, Xuân Ân), Đại Hữu (Phù Cát),... đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Nông dân Đại Hữu, Vĩnh Nhơn (Hoài Nhơn) cử nhiều đoàn đại biểu thay nhau túc trực toà sứ, đòi công sứ Pháp về làng giải quyết.
Hình thức đấu tranh rất đa dạng: nông dân tố cáo lên báo chí công khai thủ đoạn của địa chủ bóc lột thuỷ tô, đánh nhau với bọn cường hào tại ruộng để giành nước tưới lúa, kiện cường hào lợi dụng lệ trích công điền mua quốc trái chiếm ruộng đất công của làng.
Bên cạnh đó, là phong trào chống bọn “Liên Nông thương đoàn" và Thương chính, rất sôi động và quyết liệt.
Dân làm muối (Phú Mỹ, Phú Cát) tố cáo bọn Thương chính cấu kết với lý hương, ăn chặn tiền bán muối của dân. Thợ dệt (An Nhơn, Bình Khê.. .) chống tăng thuế môn bài, chống lệnh bán sợi và vải cho "Liên Nông thương đoàn". Nhân dân làng Công Chánh (Tuy Phước) đốt kho hàng của đại lý “Liên Nông thương đoàn".
Các phong trào đấu tranh của nhân dân lao động góp phần quan trọng nâng cao khí thế cách mạng của quần chúng. Đồng thời, đánh vào một số chính sách “kinh tế thời chiến” của thực dân Pháp, phát xít Nhật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ Bình Định (1930 – 1945), Nxb, Tổng hợp Bình Đinh, 1990, t.I.
_____________
1. Thúy Hồ là một thắng cảnh nổi tiếng ở Vân Nam (B.T)
2. Báo Giải phóng – cơ quan tuyên truyền của Xứ ủy Bắc Kỳ. Báo Cứu quốc – cơ quan của Tổng bộ Việt Minh.
3. Sau khi quân Nhật vào chiếm đóng Đông Dương 2 tháng, cuộc xung đột Pháp – Thái nổ ra (11-1940). Thực dân Pháp đẩy nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia ra làm bia đỡ đạn cho chúng.
Năm 1941 ĐẦU THÁNG 1
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam tại làng Nậm Quang (Quảng Tây, Trung Quốc)
Giữa năm 1940, các tổ chức Đảng ở Cao Bằng bị tổn thất nặng trong đợt khủng bố của thực dân Pháp, hơn 40 đảng viên và thanh niên yêu nước Cao Bằng tạm lánh sang Tĩnh Tây (Quảng Tây – Trung Quốc). Tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương ở Quảng Tây tìm cách đưa số đảng viên và thanh niên này ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Tưởng Giới Thạch, đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức một lớp huấn luyện ngắn ngày cho họ trước khi về nước.
Đầu tháng 1-1941, tại làng Nậm Quang (Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc), 43 cán bộ cách mạng được sự huấn luyện chính trị trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc và các cộng sự Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... Nội dung chương trình huấn luyện của lớp gồm ba phần chính: Tình hình thế giới và trong nước; tổ chức các đoàn thể quần chúng: Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc..., các Đội tự vệ của Việt Minh; phương pháp điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện cán bộ, đấu tranh.
Số cán bộ học viên được phân ra ở cả hai làng Nậm Quang và Nậm Tấy. Ban ngày lớp ra bãi rừng luyện tập, ban đêm học tại một địa điểm nhà dân.
Kết thúc lớp huấn luyện đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức kiểm tra chặt chẽ để học viên nắm chắc tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam, phương pháp tổ chức các đoàn thể cứu quốc phù hợp với tình hình cách mạng.
Các học viên nhận nhiệm vụ nhanh chóng về Cao Bằng, toả về các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình..., tiến hành thí điểm vận động quần chúng, xây dựng các Hội Cứu quốc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 26-27.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 130-133.
NGÀY 13-1
Khởi nghĩa của binh lính Rạng - Đô Lương
Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt thì tiếng súng khởi nghĩa của những binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp lại bùng nổ ở Đô Lương (Nghệ An). Không chỉ các tầng lớp nhân dân bị áp bức mà ngay cả những binh lính người Việt trong quân đội Pháp đều căm thù chế độ tàn bạo của thực dân Pháp. Nhiều cuộc đấu tranh của binh lính chống đế quốc Pháp đã nổ ra ở Hải Phòng, Quảng Trị, Đà Nẵng, Sài Gòn...
Ngày 13-1-1941, ông Nguyễn Tri Cung (Đội Cung), chỉ huy đồn Rạng, lãnh đạo anh em binh lính nổi dậy chiếm đồn Chợ Rạng (Thanh Chương), tiếp đón tiến về đánh chiếm đồn Đô Lương - cách đó 20 kilômét. Ông Đội Cung để lại bốn người giữ đồn Chợ Rạng, còn 32 người định thừa thắng kéo về Vinh (tỉnh lỵ Nghệ An) đánh chiếm trại lính khố xanh. Nhưng, cuộc tiến công không thành công, toàn bộ những người tham gia khởi nghĩa bị bắt.
Thực dân Pháp mau chóng dập tắt cuộc khởi nghĩa, xử tử Đội Cung và 10 người lính khác, số còn lại bị tù chung thân và khổ sai từ 10 đến 20 năm.
Cuộc khởi nghĩa của binh lính Đô Lương không có sự tham gia của đông đảo quần chúng, không có sự lãnh đạo của Đảng. Song "Những cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn, Đô Lương vừa rồi đã tỏ rằng: Đồng bào ta quyết nối gót người xưa, phấn đấu hy sinh đặng phá tan xiềng xích". Ngay khi cuộc nổi dậy nổ ra, Đảng kịp thời kêu gọi quần chúng nhân dân cổ vũ, ủng hộ.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.3, tr. 197.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 42-43.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1.
NGÀY 21-1
Huyện uỷ Hưng Nguyên (Nghệ An) lãnh đạo nông dân phản đối chiến tranh đế quốc
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ, ngày 21-1-1941, nông dân Hưng Nguyên (Nghệ An) đứng lên đấu tranh.
Được sự chỉ đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh uỷ Nghệ An, Huyện uỷ Hưng Nguyên vận động hơn 2.000 nông dân mít tinh, biểu tình, tuần hành phản đối đế quốc gây chiến tranh; phản đối tăng thuế, lạc quyên ủng hộ đồng bào Bắc Sơn, Nam Kỳ.
Sau cuộc biểu tình ở Hưng Nguyên, nhân dân nhiều làng, xã ở các huyện khác trong tỉnh cũng đấu tranh đòi giảm sưu, thuế, chống bắt phu, địa chủ cướp ruộng đất, chống quan lại nhũng nhiễu.
Phong trào đấu tranh của nông dân đã lôi kép được một số địa chủ nhỏ, phú nông có tinh thần dân tộc ủng hộ cuộc đấu tranh.
- Ban Chấp hành đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. I.
NGÀY 21-1
Thành lập Liên Tỉnh ủy lâm thời Hậu Giang
Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp những người cách mạng. Một số đảng viên cộng sản thoát được, tìm mọi cách hoạt động bí thật và chôn cất vũ khí còn lại vào vùng Đồng Tháp Mười, rừng U Minh, rừng miền Đông, chờ thời cơ hoạt động trở lại. Ngay trong năm 1941, nhiều đồng chí không kể hiểm nguy, len lỏi tìm chắp nối lại cơ sở Đảng.
Tại miền Tây Nam Bộ, hệ thống tổ chức Đảng được xây dựng lại tương đối tốt ở vùng Rạch Giá và Trà Vinh. Ngày 21-1-1941, các đồng chí ở đây họp hội nghị tại Rạch Giá bầu ra Liên Tỉnh uỷ lâm thời Hậu Giang gồm bảy đồng chí, do đồng chí Phan Văn Bảy (Bảy Củi) làm Bí thư.
Trọng tâm công tác của Liên Tỉnh uỷ lúc này là chắp nối liên lạc, khôi phục cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng ở Rạch Giá, Cần Thơ, Sa Đéc, Châu Đốc... Nhờ vậy các tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Cao Lãnh thành lập được Ban cán sự, một số xã hoặc liên xã có chi bộ.
Công việc đang tiến hành thì đến năm 1942, Liên Tỉnh uỷ bị địch đánh phá, cuối năm mới xây dựng lại, Liên Tỉnh uỷ phân công cán bộ về phụ trách từng tỉnh.
- Mùa thu rồi ngày hăm ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.
- Tìm hiểu Cách mạng ThángTám ở Nam Bộ, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 28-1
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước
Sau ba mươi năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc về nước.
Qua biên giới Việt - Trung, đến cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà (Hà Quảng, Cao Bằng), Nguyễn Ái Quốc dừng lại hồi lâu, xúc động. Người cúi đọc những chữ Hán và chữ Pháp được khắc ở cả hai mặt cột mốc. Người đứng lặng nhìn về phía Tổ quốc, thấp thoáng xa những cụm nhà nhỏ trong lũng ngô, hoa mai, hoa biooc-cà trắng thơm mùi huệ.
Để giữ bí mật, Người tạm nghỉ ở một gia đình người dân tộc, sau đó chuyển đến ở và làm việc tại hang Cốc Bó (thuộc làng Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng). Cùng đến Cốc Bó với Người có các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Lộc, Thế An, Đặng Văn Cáp.
Tại đây. Người mang bí danh "Già Thu”, "Cụ Thu Sơn”, trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng các đoàn thể Cứu quốc ở Cao Bằng. Người mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ, lược dịch cuốn sách Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô, biên soạn Cách đánh du kích, Cách huấn luyện cán bộ quân sự, để làm tài liệu học tập, xúc tiến công tác chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương. Sống trong hang lạnh và ẩm thấp, đời sống vật chất gian khổ, song, Người luôn thể hiện tinh thần lạc quan tin tưởng vào tiền đồ cách mạng:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 134-136.
- Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb. Nghệ An, 1994, tr. 194-195.
THÁNG 1
Thành lập Tỉnh ủy lâm thời Rạch Giá
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, nhiều đồng chí trong Liên Tỉnh uỷ Cần Thơ bị địch bắt. Các cơ sở Đảng từ tỉnh trở xuống bị thiệt hại nặng nề. Khoảng cuối tháng 12-1940, đồng chí Phan Văn Bảy, Xứ uỷ viên kiêm Bí thư Liên Tỉnh uỷ Cần Thơ1 triệu tập Hội nghị cán bộ các tỉnh tại U Minh (Rạch Giá) bàn kế hoạch củng cố tổ chức, khôi phục phong trào.
Hội nghị nhận định, Rạch Giá không bị khủng bố nặng sau khởi nghĩa Nam Kỳ nên cơ sở Đảng và phong trào ở đây vẫn còn. Thị xã Rạch Giá lại có cơ sở Đảng mạnh trong các nhà máy, thợ thủ công. Thêm vào đó, Rạch Giá có rừng U Minh - một địa bàn thuận lợi cho xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của phong trào cách mạng khoảng đầu tháng 1-1941, đồng chí Phan Văn Bảy và các đồng chí trong Liên Tỉnh ủy họp với đại biểu tỉnh Rạch Giá tại rừng U Minh, quyết định thành lập Tỉnh uỷ lâm thời tỉnh Rạch Giá.
Ngày 1-5-1941, khi Tỉnh ủy lâm thời vừa họp xong thì bị địch ập đến bao vây, bắt đi một số tỉnh uỷ viên và đảng viên. Các đồng chí còn lại không quản khó khăn, gian khổ, kiên trì củng cố, gây dựng lại phong trào.
Tháng 7-1941, các đồng chí họp tại Gò Quao, sau khi thảo luận, các đồng chí nhất trí thành lập lại Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Rạch Giá, đồng chí Huỳnh Hữu Phước làm Bí thư Tỉnh uỷ. Đồng chí Nguyễn Thanh Danh, Phó bí thư, phụ trách quận Phước Long; đồng chí Võ Văn Kiệt, phụ trách khu vực U Minh; đồng chí Giáo Hà phụ trách các quận Gò Quao, Long Mỹ; đồng chí Hà Quang Nam phụ trách liên lạc với các đồng chí ở quận Cà Mau.
Sau khi thành lập, Tỉnh uỷ lâm thời bắt tay vào củng cố, phát triển cơ sở Đảng, lãnh đạo phong trào toàn tỉnh, bảo vệ an toàn cho căn cứ U Minh.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Kiên Giang (1930-1945), sơ thảo, Kiên Giang, 1985.
THÁNG 1
Hội nghị lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ
Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, Xứ uỷ bị vỡ, Đảng bộ Nam Kỳ đứng trước những nhiệm vụ nặng nề. Trước yêu cầu của phong trào cách mạng, Xứ uỷ cần phải được lập lại để nắm vai trò lãnh đạo. Tháng 1-1941, các đồng chí Xứ uỷ còn lại triệu tập Hội nghị mở rộng tại xã An Phước, huyện Cần Giuộc, Chợ Lớn (nay thuộc Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh để lập lại Xứ uỷ.
Hội nghị đánh giá và rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu về thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Hội nghị đề ra chủ trương mới: phân tán lực lượng, cất giấu, mua sắm, sản xuất vũ khí, chờ thời cơ khởi nghĩa lần thứ hai. Cán bộ, đảng viên bám cơ sở, bám dân hoạt động chống khủng bố, khôi phục phong trào, đưa quần chúng ra sống hợp pháp, tránh tổn thất. Các đồng chí bị lộ chuyển vùng hoạt động. Nhiệm vụ chính là củng cố, phát triển, không bộc lộ lực lượng.
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Xứ uỷ mới gồm 11 đồng chí, do đồng chí Phan Văn Khoẻ làm Bí thư. Xứ uỷ ra báo Giải phóng làm cơ quan tuyên truyền, hướng dẫn phong trào.
Sau Hội nghị, Xứ uỷ phân công cán bộ về các địa phương công tác. Tháng 8-1941, Xứ uỷ bị địch phát hiện và đánh phá, hầu hết cán bộ trong Xứ uỷ bị bắt.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 59-60.
- Tỉnh uỷ Cần Thơ: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cần Thơ (1929-1945), sơ thảo, Cần Thơ, 1995, t.I.
- Trương Bích Đào: Vai trò của các Đảng bộ Sài Gòn và Gia Định trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám (1945), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4-1994, tr. 5-9.
THÁNG 2
Thành lập Việt Nam Cứu quốc quân
Sau Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương, thực hiện chủ trương duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, nhiều cán bộ Đảng được Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ cử đi tăng cường cho Ban Chỉ huy du kích Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được phát triển thành đội Cứu quốc quân, đảm nhiệm vai trò nòng cốt trong xây dựng khu cán cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Cho đến Cách mạng Tháng Tám, đã có ba Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân.
Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân thứ nhất thành lập ngày 23-2-1941 ở rừng Khuất Nội (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn). Tại buổi lễ thành lập, đồng chí Hoàng Văn Thụ trao cho đội lá cờ đỏ sao vàng năm cánh do Hội Phụ nữ Phản đế Hà Nội thêu tặng. Đồng chí Lương Văn Tri, ủy viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, chỉ huy, thay mặt đội Cứu quốc quân tuyên đọc "5 Lời thề danh dự". Toàn đội có 32 người chia làm 3 tiểu đội, vũ khí có 5 súng trường, một ít súng kíp, dao găm... Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 5-1941, đồng chí Phùng Chí Kiên, Uỷ viên Trung ương, được cử làm Chỉ huy trưởng Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai và Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân.
Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân thứ hai thành lập ngày 15-9-1941, ngay giữa vòng vây của hàng ngàn quân địch, tại rừng Khuôn Mánh (xã Tràng Xá, Võ Nhai). Đồng chí Hạ Bá Cang thay mặt Trung ương Đảng, tuyên bố thành lập Trung đội, trao nhiệm vụ chiến đấu. Toàn đội buổi đầu thành lập gồm 47 chiến sĩ, trong đó có 3 nữ, chia thành 5 tiểu đội. Vũ khí trang bị có 3 súng khai hậu, còn lại là súng kíp và dao găm. Chỉ huy là các đồng chí Chu Văn Tấn, Nguyễn Cao Đàm.
Trung đội Cứu quốc quân thứ ba thành lập ngày 25-2- 1944 ở Khui Kịch (châu Sơn Dương, Tuyên Quang). Đồng chí Hạ Bá Cang tuyên bố thành lập Trung đội. Toàn đội có 24 chiến sĩ, chia làm 3 tiểu đội. Ban Chỉ huy Trung đội đều là cán bộ chiến sĩ trưởng thành từ Cứu quốc quân thứ hai.
Các Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân ngày càng lớn mạnh, trưởng thành trong chiến đấu. Đây là một trong những lực lượng vũ trang đầu tiên do Đảng ta thành lập và lãnh đạo. Việt Nam Cứu quốc quân là lực lượng nòng cốt của Chiến khu Hoàng Hoa Thám và các Phân khu A (Quang Trung), Phân khu B (Nguyễn Huệ).
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 56-57.
- Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, Bộ Tư lệnh Quân khu I, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Miền đất khai sinh và phát triển, Nxb. Quân đội nhân dân, 1999, tr. 382-298.
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 4
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trương tổ chức thí điểm Việt Minh ở Cao Bằng
Chuẩn bị cho Hội nghị của Trung ương Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc quyết định xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng. Trước khi về nước, Người mở lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh ở Nậm Quang và Ngàm Tảy (Tĩnh Tây, Trung Quốc) để họ có thể tuyên truyền, giác ngộ nhân dân tham gia vào các đoàn thể cứu quốc.
Về nước, đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở Pác Bó (Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng). Người chủ trương tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh ở ba châu Hà Quảng, Hoà An và Nguyên Bình. Người giao cho đồng chí Vũ Anh chỉ đạo triển khai công tác này, từ tháng 2-1941 đến tháng 4-1941.
Các cán bộ Cao Bằng đã qua lớp huấn luyện nhanh chóng triển khai xây dựng nhiều tổ Cứu quốc ở các địa phương trong tỉnh. Chỉ trong 3 tháng, 2000 người thuộc mọi tầng lớp đã tham gia các đoàn thể Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Nhi đồng Cứu quốc. Trong 6/7 tổng của Hoà An có các Hội Cứu quốc. Ở Hà Quảng có 10/20 xã có các tổ chức Cứu quốc; Nguyên Bình: 2 xã có tổ chức Cứu quốc.
Cuối tháng 4-1941, Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được tiến hành tại Coọc Mụ (Pác Bó) do đồng chí Hoàng Văn Thụ và đồng chí Vũ Anh chủ trì, nhằm rút kinh nghiệm tổ chức thí điểm Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng. Hội nghị đánh giá công tác xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc mở đầu bằng lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh, đạt kết quả tốt. Điều đó chứng tỏ chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh của đồng chí Nguyễn Ái Quốc là hoàn toàn đúng đắn. Thắng lợi này đã góp phần tích cực vào thành công của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 5-1941.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Bác Hồ với căn cứ địa cách mạng Cao Bằng (1941-1945), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr 50-58.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 137- 138.
NGÀY 27-3
Tù nhân cộng sản tổ chức vượt Ngục Tà Lài (Đồng Nai)
Căng Tà Lài, một trại tập trung mang tên “Trại lao động đặc biệt” nằm ở vùng rừng miền Đông, bên bờ sông Đồng Nai. Căng Tà Lài là loại trại tập trung lớn ở Nam Kỳ, nơi thực dân Pháp giam giữ 300- 400 tù cộng sản "nguy hiểm" bị bắt thời kỳ 1936-1939 trở về trước. Nghe tin cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, thực dân Pháp khủng bố, chém giết dã man các chiến sĩ yêu nước, phá nát cả hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ, Đảng uỷ lãnh đạo Căng Tà Lài quyết định tổ chức vượt ngục trở về tập hợp đội ngũ đảng viên, xây dựng lại cơ sở, hệ thống Đảng ở Nam Kỳ.
Các đồng chí ở Căng tổ chức vượt ngục hai lần. Lần đầu, ba đồng chí được chọn là Dương Khuy, Khước, Minh, ra đi ngày 17-1-1941. Những đồng chí này có nhiệm vụ về địa phương nắm tình hình, sau ba tháng liên lạc lại Căng để tiếp tục tổ chức vượt ngục ra ngoài nhưng cả ba người đều không có tin tức trở lại.
Tổ chức Đảng ở Tà Lài chọn tiếp tám người để vượt ngục lần hai là Trần Văn Giàu, Châu Văn Giác, Tô Ký, Dương Quang Đông, Trương Văn Nhâm, Nguyễn Tấn Đức, Nguyễn Công Trung, Trần Anh Kiệt. Các đồng chí chuẩn bị lương khô, thuốc men, giấy tờ giả hợp pháp, liên lạc với bên ngoài và kế hoạch hành động.
Ngày 27- 3-1941, tám đồng chí xuống hai chiếc xuồng bơi ngược dòng sông Đồng Nai dang chảy xiết. Vượt qua bao nhiêu thác ghềnh, đến thượng lưu sông, các đồng chí lên bờ đi sâu vào rừng, ngược lên phía bắc, hết lương thực, hỏi đường thì người dân tộc không hiểu, nửa tháng đói, rét các đồng chí tưởng chừng không ra được khỏi rừng sâu.
Song, vượt qua mọi gian nan nguy hiểm, các đồng chí đã thoát ngực, trở về hoạt động. Trừ bốn đồng chí bị địch bắt lại, các đồng chí còn lại phân công nhau về Nam Kỳ chắp nối gây dựng lại tổ chức Đảng.
- Mùa thu rồi ngày hăm ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 51-63.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các Xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
ĐẦU NĂM
Đảng bộ Hà Nội lãnh đạo nhân dân đấu tranh
Đầu năm 1941, việc thực hiện chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng ở Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn, do lực lượng so sánh giữa ta và địch ở đầu não cai trị của chúng rất chênh lệch. Trước các cuộc khủng bố gắt gao của địch, nhiều cán bộ tạm thời nằm im không hoạt động, nhiều quần chúng trong tổ chức bị mất liên lạc. Song, do tinh thần chiến đấu dũng cảm hy sinh của đảng viên, quần chúng, Đảng bộ vẫn duy trì lãnh đạo được phong trào đấu tranh chính trị, đòi quyền lợi hàng ngày. Các chi bộ ở khu vực Hoả xa Gia Lâm, Nhà máy Stai, Avia, ngành in, ngành thuỷ tinh, trong giới thanh niên học sinh vẫn tồn tại và lãnh đạo phong trào.
Trong những tháng đầu năm 1941, trên đường phố Hà Nội luôn xuất hiện nhiều cuộc rải truyền đơn, treo cờ, dán áp phích, biểu ngữ. Tháng 1-1941, liên tục xuất hiện truyền đơn kêu gọi nhân dân đấu tranh chống phát xít Nhật - Pháp; hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ; kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương; kêu gọi những người Pháp dân chủ đoàn kết với những người cách mạng Đông Dương. Tháng 2, 3-1941, có truyền đơn kêu gọi thanh niên học sinh tẩy chay buổi lễ phát chẩn do Tổng hội sinh viên tổ chức ủng hộ "Công cuộc từ thiện quốc gia". Tháng 4-1941, có truyền đơn ở bãi bóng Măng Danh (sân cột cờ) phản đối xử án tử hình tù chính trị phạm ở Hà Nội... Đảng bộ lãnh đạo công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập, cúp phạt, đòi cải thiện chế độ làm việc, chống mộ phu.
Các hình thức hoạt động trên của cán bộ, đảng viên Hà Nội đã diễn ra trong tình hình gay go, ác liệt, tốn không ít xương máu, góp phần không nhỏ vào việc duy trì ảnh hưởng của Đảng, động viên tinh thần cách mạng của nhân dân Hà Nội.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb Hà Nội, 2004.
THÁNG 4
Xứ uỷ Bắc Kỳ tuyên truyền, mở rộng ảnh hưởng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ
Ngay sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Thông cáo kêu gọi cấp tốc thi hành những phương pháp hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ có hiệu quả. Ở hầu khắp các tỉnh Bắc Kỳ, phong trào ủng hộ Bắc Sơn và Nam Kỳ nổi lên rầm rộ.
Tháng 4-1941, nhân chính quyền thực dân ra lệnh tổ chức lớn Hội Chùa Thầy, Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định tổ chức một cuộc đấu tranh tuyên truyền hưởng ứng Bắc Sơn, Nam Kỳ, đồng thời gây thanh thế cách mạng. Một kế hoạch đấu tranh được Tỉnh uỷ Sơn Tây chỉ đạo tổ chức chu đáo. Mặc dù địch huy động mật thám và các lực lượng canh phòng cẩn mật, mờ sáng ngày 14-4-1941, bốn trục đường vào Chùa Thầy được rải đầy truyền đơn. Đúng 11 giờ trưa, khi cả khu vực Núi Thầy sôi động trong không khí lễ hội thì lá cờ búa liềm rộng gần ba mét vuông bất ngờ tung bay trên đỉnh núi hoà cùng tràng pháo nổ vang trời, hàng ngàn người dự lễ hội nhất loạt hướng về lá cờ cách mạng. Cuộc đấu tranh tuyên truyền tại Hội Chùa Thầy đã ảnh hưởng lớn đến các tỉnh lân cận trong thời điểm sự khủng bố của kẻ thù đang hết sức ác liệt.
Xứ uỷ Bắc Kỳ đã tổ chức nhiều cuộc bãi khoá, bãi thị, bãi công, diễn thuyết, cổ động, tuyên truyền hưởng ứng Nam Kỳ, Bắc Sơn, nhiều hoạt động gây quỹ ủng hộ Bắc Sơn, Nam Kỳ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Sơn Bình: Lịch sử Đảng bộ Hà Sơn Bình (1926-1945), Hà Sơn Bình, 1986, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Hà Tây: Sơ thảo lịch sử Cách mạng Tháng Tám Hà Đông - Sơn Tây, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Tây xuất bản, 1967, tr. 48-50.
THÁNG 4
Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo đấu tranh, giác ngộ quần chúng nhân ngày Hội Đền Hùng
Nhân ngày Hội Đền Hùng (mùng 10-3 âm lịch), Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ thị cho Ban Cán sự hai tỉnh Vĩnh Yên và Phú Thọ phối hợp tổ chức một cuộc đấu tranh nhằm tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về Mặt trận Phản đế và các khẩu hiệu đấu tranh của Đảng.
Thực hiện chỉ thị của Xứ uỷ, Ban Cán sự hai tỉnh đã chuẩn bị kế hoạch và bố trí lực lượng thực hiện.
Đúng ngày hội, nhiều truyền đơn của Đảng xuất hiện trên đường số 2 và trong khu vực Đền. Tại đền Trung và đền Thượng, cờ đỏ búa liềm tung bay trên cây cao. Cán bộ của Xứ uỷ lợi dụng những thời điểm phù hợp để nói chuyện với nhân dân đi trẩy hội về chủ trương thành lập Mặt trận Phản đế của Đảng.
Bọn mật thám ra sức lùng sục ráo riết, song, được quần chúng che chở, Đội tự vệ bảo vệ chu đáo nên cán bộ ta đã hoàn thành nhiệm vụ một cách an toàn. Cuộc đấu tranh gây được ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1930-2005), Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2007.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Vĩnh Phúc: Những sự kiên lịch sử Đảng bộ Vĩnh Phúc (1930-1954), Vĩnh Phúc, 1982.
TỪ NGÀY 10 ĐẾN NGÀY 19-5
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Sau khi về nước một thời gian, với tư cách là đại biểu Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, từ ngày 10 đến ngày 19-5- 1941. Hội nghị tổ chức trong rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó (Hà Quảng -Cao Bằng). Dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, Vũ Anh và một số đồng chí khác.
Hội nghị phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, từ đó nhận định phát xít Đức sẽ tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ. Loài người sẽ bị tàn sát ghê gớm trong cuộc chiến tranh phát xít. Phe Đồng minh chống phát xít nhất định sẽ thắng lợi, phe phát xít nhất định sẽ thất bại, phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán: nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công. Hội nghị nhận định cuộc cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, của phong trào dân chủ chống phát xít.
Hội nghị chỉ rõ: Nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn. Mâu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị tán thành Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy về chuyển hướng chiến lược và sách lược. Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được".
Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong Mặt trận đều lấy tên là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân nhân Cứu quốc... Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một Mặt trận chung Đông Dương.
Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.
Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi...
Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng.
Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.
Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 96-136.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr. 38-46.
NGÀY 19-5
Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, Chương trình cứu nước của Việt Minh
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng kết thúc vào ngày 19-5-1941. Đây cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), một quyết định quan trọng của Hội nghị.
Mặt trận Việt Minh có tổ chức khác với cơ chế tổ chức của Đảng. Phương pháp tổ chức các hội quần chúng trong mặt trận rất mềm dẻo, có cả những đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai hoặc bán công khai... nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân dân, các đảng phái tham gia Mặt trận. Trong mối quan hệ với Việt Minh, Đảng xác định: "Đảng ta cũng là một bộ phận trong Mặt trận Phản đế Đông Dương, bộ phận trung kiên và lãnh đạo".
Ngày 25-10-1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, nêu rõ tôn chỉ, mục đích: "Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, hễ thừa nhận mục đích, tôn chỉ là chương trình của Việt Minh và được Tổng bộ Việt Mmh thông qua, thời được gia nhập Việt Minh".
Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, là một hệ thống chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá và những chính sách cụ thể đối với các tầng lớp công nhân, nông dân, binh lính, công chức, học sinh, phụ nữ, thiếu nhi, người già và người tàn tật, tư sản, địa chủ nhà buôn. Tinh thần là "cốt thực hiện được hai điều mà toàn thể đồng bào mong ước: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do".
Sau này, Chương trình được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở Khu Giải phóng Việt Bắc và được Đại hội quốc dân Tân Trào thông qua, trở thành chính sách cơ bản của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 148-153.
- Nguyễn Thành: Mặt trận Việt Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 12-30.
NGÀY 6 - 6
Đồng chi Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhanh chóng triển khai việc tổ chức thực hiện Nghị quyết, xây dựng tổ chức Việt Minh, phát động phong trào cách mạng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 6-6-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết thư "Kính cáo đồng bào", kêu gọi toàn dân đoàn kết, đánh đuổi Pháp - Nhật.
Bức thư vạch rõ tình cảnh khổ nhục của nhân dân ta dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. “Dân ta một cổ hai tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật".
Thư nêu gương oanh liệt của các anh hùng trong lịch sử dân tộc, những cuộc chiến đấu chống xâm lược của Nam Kỳ, Bắc Sơn, Đô Lương.
Nhưng, "việc lớn chưa thành công” vì "cơ hội chưa chín" và "dân ta chưa hiệp lực đồng tâm".
Thư thông báo cho đồng bào biết cơ hội giải phóng đã đến, đế quốc Pháp không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp ở Đông Dương. Đế quốc Nhật bị sa lầy ở Trung Quốc, lại đang gay go với Anh - Mỹ.
Thư kêu gọi "Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: toàn dân đoàn kết", trong lúc này "quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng". Việc cứu nước là việc chung của mọi người Việt Nam, ai cũng phải gánh một phần trách nhiệm người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng”. "Chúng ta hãy tiến lên! Toàn thể đồng bào tiến lên!”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t. 3, tr. 197-198.
THÁNG 7
Trung ương Đảng chỉ đạo Cứu quốc quân tiến hành chiến tranh du kích ở Bắc Sơn - Võ Nhai
Khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai nằm trên đường hành trình của đoàn cán bộ Trung ương Đảng đi dự Hội nghị Trung ương 8 về xuôi. Biết được tin này, từ cuối tháng 6- 1941, thực dân Pháp tung lưới mật thám chặn các ngả đường, đồng thời mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ hòng bắt gọn các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tiêu diệt đội Cứu quốc quân và phá cơ sở cách mạng.
Chúng huy động hàng nghìn quân cùng mật thám, cường hào phản động chia làm ba mũi từ ba phía tiến công khu căn cứ: một mũi từ Lạng Sơn xuống Bình Gia; một mũi từ Thái Nguyên lên Đình Cả; một mũi từ Bắc Giang sang Võ Nhai khép chặt vòng vây ở hai huyện Hữu Lũng, Yên Thế. Các cơ sở bí mật của ta bị uy hiếp. Trung ương đảng và Cứu quốc quân có tuần lễ phải di chuyển địa điểm đến 5, 6 lần.
Trước tình thế nghiêm trọng, Ban Chỉ huy Trung đội Cứu quốc quân thứ nhất một mặt bố trí lực lượng đưa đường và bảo vệ an toàn cho các đồng chí uỷ viên Trung ương qua Tràng Xá về xuôi, mặt khác, gấp rút sửa soạn chống càn quét cả hai khu vực Bắc Sơn và Võ Nhai.
Do lực lượng ta mỏng, chưa đủ sức chống trả cuộc càn quét lớn của địch, trung tuần tháng 7-1941, Cứu quốc quân chủ trương chia làm hai bộ phận: một bộ phận hành quân lên Cao Bằng và biên giới Việt - Trung để xây dựng căn cứ, một bộ phận ở lại Bắc Sơn - Võ Nhai bám dân, chiến đấu chống khủng bố. Tại đây diễn ra cuộc chiến tranh du kích kéo dài 8 tháng (từ tháng 7-1941 đến tháng 2-1942).
Hàng nghìn binh lính và mật thám được tung đi lùng sục, vây chặt các ngả đường đến các khu rừng, khe suối hòng bắt và tiêu diệt bằng được lực lượng vũ trang của ta. Ở Đình Cả, Nà Pháp, Làng Giữa, Đồng Én, thực dân Pháp thi hành chính sách "tát nước bắt cá" thâm độc bằng cách dồn làng tập trung dân kiểu phát xít. Hơn 3000 nhân dân bị buộc phải rời bỏ xóm làng, bị giam lỏng trong hoàn cảnh đói rét, bệnh tật. Trước tình thế ấy, phát huy truyền thống cách mạng của khởi nghĩa Bắc Sơn, Trung đội Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích tiêu hao địch và giữ được lực lượng ta. Để củng cố và phát triển lực lượng, ngày 15-9-1941 (dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hạ Bá Cang, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng), Trung đội Cứu quốc quân thứ hai được thành lập.
Nhằm tăng cường sự chỉ đạo phong trào Bắc Sơn - Võ Nhai, trung tuần tháng 10, Trung ương Đảng cử thêm một số cán bộ lên khu căn cứ và quyết định thành lập Uỷ ban Quân sự chính trị ở đây. Trung ương cũng chỉ thị: phải giữ vững lực lượng vũ trang, bí mật gây dựng cơ sở, mở rộng căn cứ ra ngoài vòng vây của địch, duy trì tiếng súng Bắc Sơn - Võ Nhai nhằm cổ vũ phong trào cách mạng, thiết thực ủng hộ Liên Xô trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít thế giới. Trung ương nhắc nhở: Cứu quốc quân phải hoạt động thận trọng đặc biệt coi trọng công tác vận động binh lính địch trong hoàn cảnh đấu tranh vũ trang chống khủng bố trắng, đây là một nhiệm vụ quan trọng của công tác bám dân.
Thực hiện chỉ thị trên, một tổ khoảng 20 người trở về Bắc Sơn khơi to ngọn lửa đấu tranh, một tổ về gây cơ sở ở Yên Thế (Bắc Giang) và Đồng Hỷ (Thái Nguyên) để giữ vững liên lạc với Trung ương; một tổ sang Đại Từ, Chợ Chu, Sơn Dương mở rộng địa bàn hoạt động; lực lượng chủ yếu ở lại cùng nhân dân Tràng Xá, Đình Cả chống khủng bố.
Hoạt động bám dân, gây dựng cơ sở cách mạng, công tác binh vận, trừng trị mật thám, phản động, đều đạt kết quả tốt. Nhiều trận chiến đấu anh dũng của Cứu quốc quân ở Mò Mùng, Khuôn Lè... làm quân thù lo sợ.
Hoảng sợ trước sự phát triển của phong trào Võ Nhai, thực dân Pháp dốc sức hòng tiêu diệt bằng được lực lượng Cứu quốc quân. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch; phong trào cách mạng cả nước chưa đều; Bắc Sơn - Võ Nhai lại chưa phát động được phong trào quần chúng mạnh mẽ tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, nên sau 8 tháng cuộc chiến đấu của Cứu quốc quân gặp rất nhiều khó khăn. Ban Chỉ huy quyết định tạm rút đại bộ phận Cứu quốc quân sang vùng biên giới Việt Trung để bảo vệ đội ngũ, sắm thêm vũ khí; bộ phận nhỏ còn lại hoạt động bí mật bám sát quần chúng, duy trì cơ sở cách mạng.
Tiếng súng 8 tháng chiến tranh du kích ở Bắc Sơn - Võ Nhai thực sự làm cho kẻ thù khiếp sợ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng cả nước. Qua chiến đấu, cán bộ và chiến sĩ Cứu quốc quân đã giữ vững tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất, tự lực cánh sinh, bất chấp mọi khó khăn gian khổ.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr 58-62.
- Sơ thảo lịch sử thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám Bắc Thái (1939-1945), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Bác Thái xuất bản, 1970, tr. 23-38.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bắc Thái: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Bắc Thái, 1980, t. I.
NGÀY 1-8
Báo Việt Nam độc lập ra số đầu tiên
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, Trung ương Đảng gấp rút triển khai công tác tuyên truyền Nghị quyết đến các tổ chức cơ sở Đảng, các đảng viên và đoàn thể quần chúng. Tại Cao Bằng đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập báo Việt Nam độc lập, gọi tắt là Việt Lập. Báo là cơ quan tuyên truyền của Ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng, do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách.
Báo Việt Lập ra số đầu tiên ngày 1-8-1941 tại Khuổi Nậm. Mỗi tháng báo ra 3 kỳ, mỗi kỳ 400 số. Từ ngày 1-8- 1941 đến tháng 8-19422, khi Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài công tác, báo đã ra trên 30 số. Báo số 1 đánh số 101, tiếp theo là 102, 103 với ý nghĩa kế tục lịch sử của những tờ báo cách mạng ra đời trước đó.
Mục tiêu của báo Việt Nam độc lập là "cốt làm cho dân ta biết, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật làm cho Việt Nam độc lập, bình đẳng tự do" (số 101 ngày 1- 8-1941), các bài đăng trên báo được viết bằng một văn phong phổ cập, dễ hiểu, dễ nhớ, luôn luôn chĩa mũi nhọn vào kẻ thù trực tiếp của cách mạng là phát xít Nhật, Pháp và bọn tay sai; kịp thời vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn, tội ác dã man của chúng. Báo cũng có nhiều bài phân tích kịp thời, sâu sắc về tình hình và nhiệm vụ cách mạng, giúp cho cán bộ và nhân dân hiểu đúng tình hình, hành động đúng với chủ trương của Đảng.
Việc in báo rất khó khăn vì phương tiện in là đá. Anh em làm báo phải lấy những tấm bia đá, đem mài thành bản in, khi in phải viết chữ trái trên đá. Bên cạnh đó, bọn mật thám Pháp, Nhật và bảo an binh lại luôn rình rập, dòm ngó.
Mặc dù vậy, báo Việt Nam độc lập vẫn phát triển ảnh hưởng3. Đây là tờ báo có "tuổi thọ" cao nhất trước Cách mạng Tháng Tám, tờ báo cách mạng duy nhất xuất bản được hàng trăm số trong hoàn cảnh bí mật tại căn cứ địa Cao Bằng.
Báo đã cổ động mọi tầng lớp nhân dân tham gia các Hội Cứu quốc (Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc...), trở thành vũ khí sắc bén của Mặt trận Việt Minh trong cuộc vận động cách mạng giải phóng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 3, tr. 119.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 34.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1990, t. I, tr. 90-92.
- Nguyễn Thành: Mặt trận Việt Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 12-13.
NGÀY 22 - 8
Đồng chí Phùng Chí Kiên - Chỉ huy Trung đội Cứu quốc quân hy sinh
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Phùng Chí Kiên, Uỷ viên Trung ương, được cử làm Chỉ huy trưởng Trung đội Việt Nam Cứu quốc quân thứ nhất.
Trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp càn quét vào căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, ngày 22-8-1941, một bộ phận Cứu quốc quân khi tới làng Khau Pàn (xã Bằng Đức, Ngân Sơn, Bắc Cạn) thì bị lọt vào ổ phục kích lớn của địch. Trong trận này, quân ta bị tổn thất nặng nề. Chỉ huy trưởng Phùng Chí Kiên hy sinh tại trận. Chỉ huy phó Lương Văn Tri bị địch bắt.
Đồng chí Phùng Chí Kiên quê ở Nghệ An, tham gia cách mạng từ sớm. Gia nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, được Nguyễn Ái Quốc huấn luyện chính trị ở Quảng Châu, đồng chí được giới thiệu vào học ở Trường Quân sự Hoàng Phố, và sau đó là Trường đại học Phương Đông ở Mátxcơva. Khi về nước, đồng chí sớm bộc lộ tài năng quân sự trong quá trình hoạt động cách mạng, được Đảng tín nhiệm.
Sự hy sinh dũng cảm của đồng chí Phùng Chí Kiên và các chiến sĩ Cứu quốc quân đã để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng đồng đội và quần chúng cách mạng.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xà hội Hà Nội, 1985, tr. 61.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990, t. I, tr. 102-104.
NGÀY 26 THÁNG 8
Gương hy sinh của những đảng viên cộng sản tại Hóc Môn (Gia Định)
Tinh thần quật khởi của các chiến sĩ cách mạng và nhân dân trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã làm thực dân Pháp hoảng sợ. Không chỉ dìm khởi nghĩa trong biển máu, thực dân Pháp còn tiến hành hàng loạt những cuộc bắt bớ, bắn giết, tù đày những người cách mạng nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng.
Ngày 26-8-1941, thực dân Pháp xử bắn các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai tại trường bắn Hóc Môn (tỉnh Gia Định).
Nữ đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, người tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, bị địch bắt giam qua nhiều nhà tù (bót Catina, Khám Lớn, Khám Phú Mỹ). Chị phải chịu đựng những đòn tra tấn cực kỳ dã man như dí điện vào người, treo ngược chân lên xà nhà, đóng đinh vào đầu ngón tay, song vẫn tỏ rõ tấm lòng trung kiên bất khuất, quyết không khai báo tổ chức của Đảng và các uỷ viên Trung ương.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng, với tác phẩm Tự chỉ trích - mãi mãi in sâu trong ký ức những người cộng sản. Đồng chí đi vào cõi bất tử khi mới 29 tuổi, 12 năm tham gia cách mạng, trong đó hai năm là Tổng Bí thư Đảng, đồng chí đã bốn lần bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, 50 năm biệt xứ, bị kẻ thù giam giữ 7 năm trong nhiều nhà tù lớn.
Đồng chí Võ Văn Tần, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ từ năm 1937 đến năm 1940. Đồng chí có những đóng góp lớn trong việc xây dựng, tổ chức lực lượng, uốn nắn lệch lạc, lãnh đạo thành lập Mặt trận dân chủ ở Nam Kỳ.
Đồng chí Phan Đăng Lưu được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939, chỉ đạo phong trào cách mạng Nam Kỳ. Đồng chí đã góp phần lãnh đạo phong trào lên một bước mới. Sau khi ra Bắc dự Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương, đồng chí nhận lệnh Trung ương truyền đạt quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Về đến Sài Gòn đồng chí bị mật thám Pháp bắt ngày 22-11-1940.
Đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư của Đảng từ giữa năm 1936 đến tháng 3-1938, cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách mạng trong những năm sóng gió, đầy thử thách về chính trị. Tháng 3-1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và giam tại Khám Lớn, Sài Gòn. Trước toà án thực dân, Hà Huy Tập khẳng khái nói: "Tôi chả có gì phải hối tiếc. Nếu còn sống, tôi vẫn tiếp tục hoạt động". Hà Huy Tập đã ngã xuống ở độ tuổi 35.
Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, những người chiến sĩ cộng sản “gan vàng dạ sắt", trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, trước mũi súng quân thù, các đồng chí không chịu để bị bịt mắt, hô vang các khẩu hiệu “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!”. Các đồng chí đã hy sinh với lòng tin tưởng sâu sắc, chắc chắn vào thắng lợi của cách mạng. “Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t, 6, tr. 160
- Nguyễn Văn Cừ - Nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam (Hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 13-256.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Sự thật Hà Nội, 1990, t. I, tr. 104.
- Nguyễn Thanh Tâm: Đồng chí Lê Hồng Phong (1902-1942), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr. 88-95.
- Ngô Nhật Sơn: Đồng chí Phan Đăng Lưu, Nxb Nghệ Tĩnh, 1987, tr. 43-65.
- Đức Vượng: Hà Huy Tập - Tổng Bí thư của Đảng (1936-1938), Hà Tĩnh, 2000, tr. 77 - 99.
NGÀY 16 - 9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về chống khủng bố
Sau khi dìm cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ trong biển máu, thực dân Pháp tiếp tục thẳng tay bắt bớ, bắn giết, tù đày những người cộng sản nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng. Tháng 8-1941, nhiều đồng chí cán bộ chủ chốt của Đảng bị giết hại.
Trước tình hình đó, ngày 16-9-1941, Trung ương Đảng ra Thông cáo cho các cấp bộ Đảng "Phải dùng đủ cách để chống khủng bố”.
Thông cáo chỉ rõ hiện thời đế quốc đang thi hành ở Đông Dương một chính sách cực kỳ tàn bạo, nhiều đồng chí, nhiều đồng bào đã chết dưới bàn tay của chúng. Mục đích khủng bố của chúng không những nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương mà còn tiến công thành trì cách mạng thế giới. Phong trào cách mạng càng phát triển, chính sách khủng bố của đế quốc càng gay gắt. Thông báo cũng vạch rõ, chính sách khủng bố tuy tàn bạo, ác liệt, nhưng là biểu hiện "một chính sách cuối cùng của một nền thống trị yếu ớt sắp đổ nát”.
Thông cáo chỉ rõ những nguyên nhân thất bại là do ta kế hoạch kém, chủ trương sai, tổ chức vụng và hành động vô nguyên tắc. Để kịp thời đối phó những chính sách của đế quốc chúng ta phải thay đổi cách làm việc cho hợp với tình thế mới.
Thông cáo nhận định: “Lúc này tranh đấu chống khủng bố là một bộ phận của phong trào tranh đấu cứu quốc, là một bộ phận của cuộc tranh đấu ủng hộ Liên Xô". Những công việc mà các cấp bộ Đảng phải làm ngay là: tuyên truyền, giải thích trên báo chí truyền đơn... ý nghĩa của cuộc khủng bố mới, làm quần chúng không ngạc nhiên, sợ hãi; nêu gương hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Nam Kỳ, Đô Lương, Bắc Sơn, những người cộng sản đã hy sinh dưới đòn thù: Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai. Đối với bọn phản động, phải lột mặt nạ chúng trước quần chúng; kiểm tra hàng ngũ nội bộ Đảng để phát hiện và loại bỏ bọn khiêu khích, phá hoại Đảng. Các Đảng bộ cần thường xuyên trao đổi kinh nghiệm thất bại để tìm cách đối phó với kẻ thù.
Thông báo chỉ rõ: "Hơn lúc nào hết các đồng chí phải tôn trọng kỷ luật của Đảng, tôn trọng nguyên tắc làm việc và nguyên tắc tổ chức của Đảng" nhưng không phải tuân theo nguyên tắc một cách máy móc.
Thông cáo nêu ra những phương hướng và biện pháp chống khủng bố tích cực và chủ động dựa vào nhân dân và sức mạnh của cách mạng.
Cuối bản Thông cáo, Trung ương kêu gọi: "Chúng ta phải có tinh thần sẵn sàng xông tới những khó khăn nguy hiểm", thi hành một chính sách thực tế chống khủng bố chúng ta hãy tiến lên".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.7, tr 172-185.
NGÀY 19 - 9
Thành lập Chiến khu Ngọc Trạo (Thanh Hoá)
Với tinh thần khẩn trương hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ theo chủ trương của Trung ương Đảng, đầu năm 1941, Hội nghị Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chủ trương xây dựng chiến khu, phát triển căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị lực lượng đón thời cơ khởi nghĩa.
Từ đây, cuộc vận động xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xây dựng các đội du kích, Đội tự vệ chiến đấu được đẩy mạnh tại Thanh Hoá.
Tháng 7-1941, Ban lãnh đạo Chiến khu được thành lập tại làng Ngọc Trạo (nay là xã Ngọc Trạo, Thạch Thành). Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị mọi mặt xây dựng chiến khu, ngày 19-9-1941, đội du kích tập trung đầu tiên được thành lập, gồm 21 chiến sĩ. Buổi lễ được tổ chức tại Hang Treo thuộc rừng Thạch Thành. Cờ đỏ sao vàng tung bay giữa rừng đông bắc Thanh Hoá.
Ra đời trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, kẻ thù sẵn sàng đàn áp khủng bố, kinh nghiệm tổ chức đời sống, chiến đấu còn thiếu, song lực lượng vũ trang cùng nhân dân ra sức xây dựng chiến khu, chuẩn bị cho cách mạng.
Du kích chiến khu đẩy mạnh huấn luyện quân sự, học tập chính trị, mở rộng phạm vi vận động quần chúng. Đồng bào các dân tộc trong tỉnh hết sức giúp đỡ chiến khu, nhiều trạm tiếp tế được xây dựng bí mật tại các vùng xung quanh. Chiến khu nhận được nhiều lương thực, muối, thuốc chữa bệnh, quần áo của nhân dân ủng hộ.
Tại làng Ngọc Trạo, ngay từ buổi đầu, nhân dân coi cán bộ du kích như con em ruột thịt. Họ dành dụm, chắt chiu, san sẻ với chiến khu từng nắm rau, hạt gạo. Bà con mở lò rèn vũ khí, dao, kiếm cung cấp cho chiến khu. Chị em phụ nữ vượt hàng chục cây số đường rừng vận chuyển đá in, giấy mực cho du kích in tài liệu.
Được sự đóng góp tích cực, ủng hộ của nhân dân, đội du kích chiến khu đẩy mạnh xây dựng lực lượng, rèn luyện mọi mặt, ảnh hưởng chiến khu ngày càng lan rộng. Đầu tháng 10-1941, con số du kích của đội tăng lên 80 chiến sĩ.
Hoảng sợ trước sự phát triển của Chiến khu Ngọc Trạo, ngày 7-10-1941, quân Pháp đánh úp tiền trạm của chiến khu (nơi tập trung tự vệ, thanh niên từ các nơi về để lên Ngọc Trạo) ở Đa Ngọc, được sự hỗ trợ của quần chúng, hơn 100 tự vệ tập trung ở đây đã chiến đấu quyết liệt, phá được vòng vây của địch. 4 giờ sáng 19-10-1941, lợi dụng sương mù, thực dân Pháp lại cho quân đột kích thẳng vào Ngọc Trạo. Tuy so sánh lực lượng chênh lệch, địch lại có đầy đủ súng ống, song các chiến sĩ du kích với tinh thần quyết chiến bảo vệ chiến khu, đã xông lên đánh tan cuộc tiến công của địch.
Sau cuộc chống càn này, Ban lãnh đạo Chiến khu quyết định phân tán lực lượng về các vùng trong tỉnh tiếp tục hoạt động, duy trì phong trào, chờ thời cơ mới.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1985, tr. 79.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Thanh Hoá: Kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Chiến khu Ngọc Trạo (19-9-1941 - 19-9-1981), 1982, tr. 9-17.
- Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thạch Thành: Lịch sử Đảng bộ huyện Thạch Thành (1930- 1995), 1996.
NGÀY 23 - 9
Đồng chí Trường Chinh viết bài "Chính sách mới của Đảng"
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (5-1941), Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ gồm các Bí thư Tỉnh uỷ cán bộ các ngành ở Trung ương (công vận, báo chí, tuyên truyền, tài chính... ). Tại Hội nghị, đồng chí Trường Chinh phổ biến nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương. Nhằm phổ biến Nghị quyết rộng rãi trong toàn Đảng, ngày 23-9-1941, đồng chí Trường Chinh viết bộ "Chính sách mới của Đảng".
Bài viết gồm năm phần: 1. Tình hình đã biến đổi; 2. Chính sách mới của Đảng; 3 Xây dựng Mặt trận Việt Minh và lãnh đạo Mặt trận; 4. Chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; 5. Làm thế nào để thi hành nghị quyết của Trung ương?.
Bốn phần trên nêu lên tinh thần Nghị quyết Trung ương 8, giải thích rõ về tình hình chiến tranh thế giới thay đổi đã tác động đến tình hình Đông Dương về mọi mặt (kinh tế, chính trị, xã hội). Từ đó, Đảng định ra chính sách mới để "động viên mọi lực lượng cách mạng và yêu nước, nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách phát xít Nhật - Pháp". Bài viết nói rõ hơn về Mặt trận Việt Minh, các thành viên của Mặt trận, Đảng lãnh đạo Mặt trận như thế nào. Những công việc cần kíp phải làm để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Phần cuối cùng, đồng chí Trường Chinh nêu rõ năm nhiệm vụ để thi hành Nghị quyết của Trung ương: Tuyên truyền, phổ biến tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 đến các chi bộ; Tổ chức thi hành Nghị quyết, làm cho đường lối, chính sách của Đảng được thực hiện trong thực tế, giải thích, cổ động, làm cho quần chúng tự nhận thấy chính sách mới của Đảng là duy nhất đúng, nhận khẩu hiệu của Đảng là của mình, từ đó càng tin vào Đảng; công tác đào tạo cán bộ rất cấp thiết trong lúc này để có người đủ năng lực đem chính sách mới của Đảng thi hành trong quần chúng; cương quyết tẩy trừ bệnh "tả" khuynh "cô độc", “hẹp hòi” làm Đảng xa rời quần chúng, đồng thời chống xu hướng “hữu khuynh", xa lánh lập trường quốc tế vô sản, hạ thấp vai trò của Đảng.
Kết luận bài viết, đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Chính sách của Đảng ta trong lúc này là một chính sách cứu quốc. Đó là kết quả của sự kết hợp tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản, kết quả của việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay".
- Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 195-221.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Nhưng sự kiện lịch sử Đảng (1920-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, t. I, tr. 528-530.
NGÀY 25-9
Hội nghị cán bộ toàn xứ Bắc Kỳ quyết nghị các vấn đề xây dựng lực lượng cách mạng và đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng
Từ giữa năm 1941, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến: Đức tấn công Liên Xô, phát xít Nhật cũng nhân cơ hội tăng cường khủng bố cách mạng Đông Dương. Trước tình hình này, Trung ương Đảng kịp thời đẩy mạnh tuyên truyền, phát động phong trào đấu tranh.
Ngày 25-9-1941, đồng chí Trường Chinh triệu tập Hội nghị cán bộ toàn xứ Bắc Kỳ tại làng Dương Húc (huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh). Dự Hội nghị có các bí thư Tỉnh uỷ, cán bộ các ngành ở Trung ương. Hội nghị diễn ra trong ba ngày (25, 26 và 27-9).
Với vai trò chủ trì Hội nghị, đồng chí Trường Chinh trình bày những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, tình hình nước Pháp sau khi Pháp bị phát xít Đức đánh bại, ảnh hưởng của chiến tranh thế giới đến thái độ chính trị các giai cấp trong nước, về vấn đề xác định kẻ thù chủ yếu và kẻ thù thứ yếu của cách mạng Đông Dương, về xây dựng Mặt trận Việt Minh, tổ chức lực lượng chính trị và lực lượng quân sự chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang...
Hội nghị bàn biện pháp thi hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương. Sau khi phân tích tình hình quốc tế và trong nước, Hội nghị quyết nghị 14 vấn đề cơ bản: củng cố nội bộ Đảng, làm trong sạch Đảng; thực hiện Mặt trận Thống nhất phản đế, tuyên truyền Chương trình và Điều lệ Việt Minh gây phong trào cứu quốc; gây phong trào ủng hộ Liên Xô; các vấn đề về chống khủng bố, phương pháp đấu tranh, tổ chức lực lượng, tuyên truyền vận động các giới...
Kết thúc Hội nghị, các cán bộ toả về các địa phương vận động cách mạng, tuyên truyền nghị quyết Trung ương.
- Những sự kiện lịch sử hoạt động của các xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930- 1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, t. I, tr. 93-101.
THÁNG 9, THÁNG 11
Công nhân cao su tỉnh Biên Hoà đấu tranh chống đàn áp
Sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, tránh sự truy lùng của địch, nhiều đảng viên cộng sản Biên Hoà lánh về các đồn điền cao su hoạt động4 gây dựng cơ sở cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của các đảng viên, phong trào công nhân vẫn tiếp tục phát triển.
Giữa năm 1941, ở Sở Cuôctơnay, nhân vụ tên Xulu đánh chết anh công nhân cạo mủ số 70 ở Láng Lớn, các cán bộ cách mạng bí mật sáng tác bài vè tố cáo tội ác của bọn chủ, bọn xu xếp, kêu gọi công nhân đoàn kết đấu tranh.
Trước sự lan truyền nhanh chóng bài vè trong công nhân, tên chủ sở Budu ra lệnh cấm hát, tàn nhẫn hơn, chúng cho tay sai san bằng nấm mộ anh công nhân số 70, không cho ai hương khói.
Căm phẫn trước hành động đó, ngày 9-9-1941, anh công nhân số 3388 vận động công nhân ở Láng Lớn tập trung tại mộ anh số 70 để tuyên truyền, vạch tội ác bọn chủ tư bản, kêu gọi công nhân đấu tranh. Sáng ngày 10-9-1941, hơn 500 công nhân Sở Cuôctơnay hưởng ứng, đình công. Họ kéo xuống tỉnh Bà Rịa yêu cầu Tỉnh trưởng người Pháp phải can thiệp, đòi chủ sở chấm dứt đánh đập, hành hạ công nhân.
Tín chủ sở Budu sai lính chặn toán công nhân trên đường đi, chúng dùng gậy gộc, báng súng đánh quỵ năm công nhân đi đầu. Song đoàn người không lùi bước, tiếp tục khiêng 5 người bị thương đến tận dinh Tỉnh trưởng Bà Rịa. Đồng thời, từng nhóm công nhân lao vào đám lính, hai tay đưa lên trời và thét lớn "Đây các bạn, các bạn cứ giết chúng tôi đi, các bạn hãy giết những người chỉ đòi hỏi sự công bằng và yêu cầu chấm dứt đánh đập tàn nhẫn".
Trước tinh thần đấu tranh của công nhân, nhiều tên lính dạt qua một bên cho đoàn người tiến tới. Đoàn biểu tình nhận được sự ủng hộ cả tinh thần và vật chất của công nhân các sở cao su Xà Bang, Bình Ba, nông dân Long Kiên, Long Xuyên.
Cuộc đấu tranh của công nhân Sở Cuôctơnay giành thắng lợi. Tỉnh trưởng Bà Rịa hứa can thiệp với chủ sở phải bồi thường thiệt hại cho công nhân; chấm dứt tình trạng đánh đập, cúp phạt tiền, cấp đủ lương thực, thực phẩm, thuốc men cho số công nhân đang trồng các lô cao su mới.
Sau đó, giữa tháng 11-1941 lại nổ ra cuộc đấu tranh của hơn 600 công nhân Phân sở A và B (Đồn điền Bình Lộc) dưới sự lãnh đạo của các đảng viên ở đây, đòi chủ không bắt công nhân đi làm quá sớm, không đánh đập, đòi phát gạo trắng, trả công nhân mãn hạn về xứ...Phong trào công nhân ở các sở cao su tỉnh Biên Hoà đã diễn ra liên tục trong năm 1941. Dưới sự lãnh đạo của các đảng viên cộng sản, phong trào không chỉ nổ ra trong phạm vi một đồn điền mà có sự liên kết giữa các đồn điền, trên một quy mô rộng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Đồng Nai (1930-1995), Nxb. Đồng Nai, 1997, t. 1.
THÁNG 10
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc thành lập Đội vũ trang đầu tiên của Cao Bằng
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, Đảng bộ Cao Bằng xúc tiến công tác xây dựng cơ sở chính trị quần chúng, tuyên truyền đường lối, chính sách của Việt Minh, tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng và huấn luyện quân sự cho quần chúng. Thực hiện chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Đội du kích Pác Bó được thành lập.
Tháng 10-1941, lễ thành lập Đội du kích vũ trang đầu tiên của Cao Bằng được tổ chức. Đảng bộ Cao Bằng nghiên cứu, lựa chọn 12 cán bộ cốt cán, trung kiên do đồng chí Lê Quảng Ba làm Đội trưởng, đồng chí Hoàng Sâm làm Đội phó, đồng chí Lê Thiết Hùng là Chính trị viên.
Đến dự buổi lễ, đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhắc nhở các đội viên du kích phải đoàn kết, chấp hành kỷ luật, học hỏi giúp đỡ lẫn nhau cả về chính trị, quân sự cũng như trong sinh hoạt hàng ngày, quan hệ với nhân dân như cá với nước.
Đội vũ trang được trang bị 3 súng lục, 4 súng trường. Nhiệm vụ của Đội là bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, củng cố và giữ vững đường giao thông liên lạc, tham gia công tác tuyên truyền Mặt trận Việt Minh, giúp các địa phương huấn luyện tự vệ. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc sẽ trực tiếp tham gia vào công tác huấn luyện quân sự và giáo dục tư tưởng cho đội.
Kết thúc buổi lễ, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trao cho các đồng chí Lê Quảng Ba và Lê Thiết Hùng một tờ giấy ghi 10 điều kỷ luật và những nguyên tắc hoạt động của Đội du kích.
Sau một thời gian hoạt động tập trung, các chiến sĩ được phân tán đi các huyện trong tỉnh Cao Bằng giúp tổ chức và huấn luyện các Đội tự vệ.
- Lê Quảng Ba: Bác Hồ với đội vũ trang Cao Bằng, Tạp chí Lịch sử quân sự, 9-1987, tr. 80.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 151-152.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 59-61.
NGÀY 1-12
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra "Chỉ thị về công tác tổ chức"
Nhằm hướng dẫn cụ thể cho các địa phương về xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, ngày 1-12-1941, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác tổ chức. Đây là một công tác rất quan trọng, chính sách của Đảng có thi hành được hay không là do Đảng có biết tổ chức để đem chính sách ấy ra thực hiện trong quần chúng hay không.
Chỉ thị chỉ rõ, mục đích của Đảng lúc này là "Làm cho Đảng xứng đáng là một đội tiên phong có tổ chức của giai cấp vô sản", có cơ sở vững vàng trong quần chúng, thực hiện sự thống nhất toàn Đảng, đoàn kết được mọi lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng.
Chỉ thị cũng vạch rõ những sai lầm, thiếu sót trong công tác tổ chức, đồng thời nêu ra phương châm tổ chức Đảng lúc này là "rộng rãi, thực tế và khoa học".
Về tổ chức Đảng, Chỉ thị nêu rõ những nhiệm vụ chủ yếu: củng cố và mở rộng cơ sở Đảng; thống nhất tổ chức Đảng; tổ chức các ban chuyên môn; tổ chức Đảng đoàn trong các đoàn thể Cứu quốc. Chỉ thị nhấn mạnh đến công tác xây dựng và phát triển các chi bộ đảng, vì "Chi bộ là tổ chức đơn vị của Đảng. Số chi bộ có nhiều thì cơ sở Đảng mới rộng”. Đảng cần phải tổ chức nhiều chi bộ xí nghiệp thì cơ sở Đảng mới vững chắc. Chỉ thị nêu rõ các Xứ uỷ phải ấn định kế hoạch mở rộng cơ sở Đảng ở các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền với khẩu hiệu: “đi vào xí nghiệp, chiếm lấy xí nghiệp". Cần tổ chức Uỷ ban Công vận của xứ; huấn luyện, đào tạo cán bộ công vận. Các chi bộ phải sinh hoạt đều đặn, giữ vững kỷ luật.
Về tổ chức quần chúng, cần phải có nhiều hình thức thích hợp với từng giai cấp, từng tầng lớp nhân dân, từng lứa tuổi. Nhưng trong một giai cấp, một giới lại có nhiều tầng lớp trình độ giác ngộ và xu hướng có khác nhau nên có thể có nhiều tổ chức khác nhau, những tổ chức của quần chúng cần phải rộng rãi và nhẹ nhàng. Ngoài các đoàn thể cứu quốc, Đảng cần tổ chức nhiều đoàn thể đơn sơ không điều lệ, công khai hoặc nửa công khai để thu hút đông đảo quần chúng. Đảng phải cử người vào các tổ chức quần chúng của địch để cảm hoá số quần chúng ấy, vận động họ đấu tranh.
Nhiệm vụ trước mắt của Đảng là sửa soạn khởi nghĩa vũ trang, nên Đảng đặc biệt chú ý nghiên cứu những hình thức tổ chức của khởi nghĩa vũ trang, những "hình thức quá độ” tiến tới thành lập tổ chức chính quyền của nhân dân. Chỉ thị về công tác tổ chức là một văn kiện quan trọng, nó đã kịp thời vạch ra cho các cấp bộ Đảng phương hướng đúng đắn và biện pháp cụ thể về công tác tổ chức, tăng cường sức mạnh của Đảng trong cuộc khởi nghĩa vũ trang giành độc lập.
- Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t. 7, tr. 206-230.
NGÀY 15-12
Xứ uỷ Trung Kỳ ra Thông cáo về việc vũ trang toàn dân, chuẩn bị khởi nghĩa
Sau khi phát xít Nhật gây chiến tranh ở Thái Bình Dương, ngày 15-12-1941, Xứ uỷ Trung Kỳ gửi Thông cáo cho các cấp bộ Đảng nêu rõ thái độ của Đảng ta đối với cuộc chiến tranh này. Thông cáo giải thích vị trí của Đông Dương trong chiến tranh Thái Bình Dương, chỉ thị cho các cấp bộ Đảng.
Thông cáo nêu rõ: Phải tổ chức huấn luyện quân sự cho toàn dân lập các Đội tuyên truyền vũ trang. Trang bị vũ khí cho các đơn vị Tự vệ cứu quốc (súng, kiếm, giáo, mác, dao). Tất cả các đảng viên đều phải nắm được tri thức quân sự. Mau chóng thống nhất các đoàn thể quần chúng gây thành lực lượng khởi nghĩa toàn dân, động viên mọi tầng lớp chống Pháp, Nhật cướp bóc tài sản nhân dân. Mít tinh, biểu tình phản đối đưa người Đông Dương ra mặt trận, phản đối đàn áp khủng bố, phản đối lệnh công bố tình trạng chiến tranh.
Cuối bản Thông cáo, Xứ uỷ nhấn mạnh: “Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đang vang lên, dòng máu vinh quang của các vị tiền bối đang sôi sục trong tim chúng ta, tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân đang sáng ngời trước mắt của chúng ta. Chúng ta phải dũng cảm đứng lên, hãy đem hết sức mình thì hành triệt để Thông cáo này".
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ Tĩnh, Nxb. Nghệ Tĩnh, 1981, tr. 137.
NGÀY 21-12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng
Ngày 7-12-1941, phát xít Nhật đánh cảng Trân Châu (Pearl Harbour), tuyên chiến với Anh, Mỹ, mở đầu cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Ngày 21-12-1941, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” gửi cho các cấp đảng bộ. Thông cáo gồm các phần: Tại sao phát xít Nhật gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương; thế giới đã chia làm hai mặt trận phát xít và dân chủ; triển vọng cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và sự thắng lợi tất nhiên của phe dân chủ; chiến tranh Thái Bình Dương và các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương; vấn đề “Hoa quân nhập Việt" và ngoại giao với Anh, Mỹ; phải nhận xét đúng tình hình và đặt chiến thuật cho sát; trách nhiệm cần kíp của Đảng trước thời cuộc.
Thông cáo phân tích nguyên nhân Nhật gây ra chiến tranh Thái Bình Dương, sự thay đổi tính chất của cuộc chiến tranh thế giới. Thông cáo khẳng định phe dân chủ sẽ thắng lợi, phe phát xít sẽ thất bại. Song "muốn thế vô sản giai cấp và nhân dân các nước Anh, Mỹ phải luôn luôn tranh đấu, đẩy cho bọn tư bản Anh, Mỹ chiến đấu đến cùng chống phe phát xít xâm lược, không để chúng giữa đường quay ra đầu hàng phát xít quốc tế trở lại đánh cách mạng thế giới và Liên Xô".
Về vấn đề "Hoa quân nhập Việt", Thông cáo của Trung ương nêu rõ phương châm liên minh với quân Trung Quốc đánh Nhật - Pháp theo nguyên tắc "bình đẳng tương trợ" và làm cho quân Trung Quốc nhận rằng: “Họ vào Đông Dương để giúp cho cách mạng Đông Dương tức là tự giúp!”. Đối với Anh, Mỹ, Trung ương chủ trương nhân nhượng liên hiệp có điều kiện "Bổn phận của chúng ta là phải lợi dụng khi quân Tàu hay quân Anh, Mỹ vào Đông Dương ở địa phương nào mà nổi dậy khởi nghĩa ở địa phương ấy".
Thông cáo cũng chỉ rõ: "Sự thực, xét chung toàn quốc ta chưa đứng về một tình thế trực tiếp cách mạng và những điều kiện khởi nghĩa Đông Dương chưa chín muồi". Vì vậy căn cứ vào sự phân tích tình hình và tình thế như trên, Trung ương quyết định những nhiệm vụ cho các Đảng bộ. Về tuyên truyền, các Đảng bộ phải làm cho nhân dân tỏ rõ thái độ đối với cuộc chiến tranh là làm cho Nhật - Pháp thất bại, đứng về phe Anh - Mỹ - Liên Xô - Trung Quốc. Về tranh đấu, vận động nhân dân đấu tranh chống tịch thu thóc lúa, tài sản, cổ động thợ thuyền đòi tăng lương, giảm giờ làm. Về tổ chức, các Đảng bộ cần phải chú trọng mở rộng và củng cố các Đội tự vệ Cứu quốc, “tiểu tổ du kích là hình thức mấu chốt để tiến lên đội du kích chính thức”. Phát triển các đơn vị bộ đội Bắc Sơn, Nam Kỳ và tăng cường hoạt động, chờ cơ hội thuận tiện phát động phong trào khởi nghĩa giành chính quyền.
- Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 238-253.
TRONG NĂM
Đấu tranh của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định
Chiến tranh lan rộng và ngày càng khốc liệt, chính quyền thuộc địa thực hiện những quy định về lao động thời chiến ngặt nghèo nên đời sống công nhân và nhân dân lao động gặp rất nhiều khó khăn. Trong năm 1941, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn -Gia Định nổ ra ở các xí nghiệp, công ty do người Pháp, người Âu quản lý, và cả trong các xí nghiệp của người Nhật, Hoa, Việt Nam.
Năm 1941, tại bến tàu Xóm Chiếu (Sài Gòn) nổ ra cuộc bãi công lớn của 500 phu khuân vác chống sự bạc đãi tàn nhẫn của quân Nhật. Tháng 4, 50 công nhân hãng giày Ba ta chống lại việc chủ bỏ phụ cấp lương. Tháng 5, có cuộc đấu tranh của hàng trăm công nhân cao su hết hợp đồng, tập trung ở Xóm Chiếu bãi thực. Tháng 6, có đấu tranh của hơn 400 anh em chạy xích lô và xe kéo, phản đối việc tăng giá thuê xe. Tháng 9, hàng chục thợ giày Hãng Rabờliông (Rablionne) bãi công chống việc chủ hạ tiền lương. Trong tháng 11 có đấu tranh của hơn 50 người làm thuê cho hãng xây dựng Rugeriên (Ruggerien) đòi trả đủ tiền công mà chủ còn thiếu của họ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Trần Văn Giầu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1963, t.III, tr. 104-106.
TRONG NĂM
Nông dân Thanh Hoá tham gia phong trào Cứu quốc
Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (2-1941), phong trào phản đế, lập Quỹ Cứu quốc phát triển mạnh, đặc biệt là các vùng thuộc triền sông Mã, sông Chu, và các huyện Thạch Thành, Hà Trung, Thanh Hoá là nơi tổ chức nhiều Đội tự vệ, du kích mạnh ở Trung Kỳ.
Đội tự vệ Cứu quốc được xây dựng và phát triển nhanh trong toàn tỉnh, lực lượng tham gia chủ yếu là nông dân. Ở các huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Hà Trung, Thọ Xuân, Thiệu Hoá, các Đội tự vệ tổ chức theo đơn vị từng làng. Những làng như Xá Lê, Kim Phúc, mỗi nơi có tới 40 đội viên tự vệ, đặc biệt làng Long Linh Ngoại (Thiệu Hoá) có tới 83 tự vệ, ở Thọ Xuân có 83/200 làng có tổ chức Tự vệ Cứu quốc.
Quần chúng nhân dân trong tỉnh nhiệt liệt hưởng ứng đợt vận động quyên góp và phát hành "tín phiếu!" do Việt Minh tổ chức để gây quỹ và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Phong trào luyện tập quân sự khá sôi nổi. Ở nhiều tổng, có những cuộc tập dượt thị uy vào ban đêm. Phong trào quyên góp Quỹ Cứu quốc còn lôi cuốn được một số lý trưởng tham gia.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.138.
- Nguyễn Anh Dũng: Đấu tranh vũ trang trong Cách mạng Tháng Tám, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 77.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t .I.
NĂM 1941-1942
Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương xây dựng vùng "An toàn" chung quanh Hà Nội
Trong công tác xây dựng lực lượng cách mạng chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng ta đặc biệt coi trọng tổ chức và xây dựng các căn cứ địa. Rút kinh nghiệm cách thức tổ chức chỉ đạo của Đảng trong những năm 1930-1931 và 1936- 1939, để đảm bảo sự ổn định và phát triển liên tục của phong trào cách mạng, tổ chức cách mạng và cơ quan lãnh đạo cách mạng cần phải có những địa bàn hoạt động tương đối an toàn.
Trước yêu cầu trên, khoảng cuối năm 1941 đầu năm 1942, đồng chí Trường Chinh và Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương xây dựng vùng "An toàn", nơi đặt cơ quan đầu não của Trung ương ở chung quanh Hà Nội, cách Hà Nội khoảng 15-20 km. Xứ uỷ Bắc Kỳ cũng theo hướng tồ chức này để đặt cơ quan. Vùng đặt cơ quan lãnh đạo của Trung ương và Xứ uỷ được gọi là An toàn khu (A.T.K).
An toàn khu chính thức của Trung ương thường gọi là An toàn khu 1, gồm nhiều xã thuộc huyện Hoài Đức; một phần Từ Liêm, Đông Anh, Gia Lâm; một số xã thuộc Hà Đông; một số xã phía nam huyện Yên Lãng (Phúc Yên); một số xã của Từ Sơn, Tiên Du (Bắc Ninh). Tất cả tạo thành một vành đai bao quanh Hà Nội, nằm sát sông Hồng và sông Đuống. Vùng này rất thuận tiện cho việc đi lại, nếu động có thể nhanh chóng di chuyển từ bên này sông sang bên kia sông.
Ngoài An toàn khu 1, Trung ương còn xây dựng An toàn khu dự bị của Trung ương (A.T.K.2), gồm các huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang), Phú Bình, Phổ Yên (Bắc Thái), Đa Phúc, Kim Anh (Phúc Yên). An toàn khu 1 và An toàn khu 2 là chiếc cầu nối liền từ Hà Nội lên Chiến khu Việt Bắc.
Việc xây dựng An toàn khu ngay sát đầu não của kẻ thù là một quyết định sáng suốt của Trung ương, giúp cho Đảng nắm bắt tình hình bám sát quần chúng, kịp thời chỉ đạo phong trào cách mạng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, t. I, tr.127-144.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Hà Tây: Sơ thảo lịch sử Cách mạng Tháng Tám Hà Đông - Sơn Tây, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Hà Tây xuất bản, 1967, tr. 57-66.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr. 74-75.
TRONG NĂM
Trung ương tổ chức Đội công tác làm nhiệm vụ bảo vệ An toàn khu
Năm 1941, để bảo đảm tổ chức nghiêm ngặt, bí mật cho An toàn khu xung quanh Hà Nội, Trung ương đã tổ chức Đội công tác. Đội công tác được Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, những đồng chí được lựa chọn vào đây phải được Đảng thực sự tin cậy.
Nhiệm vụ của Đội là bảo vệ các cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ bảo vệ các hội nghị. Đội công tác được trang bị vũ khí thô sơ và súng ngắn, được huấn luyện về kỹ thuật chiến đấu và phương pháp bảo vệ Tuyệt đối bí mật là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của An toàn khu. Việc tổ chức tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, các đồng chí trong đội phải làm hết sức thận trọng, kín đáo, không rải truyền đơn, treo cờ, tổ chức mít tinh. Mỗi đồng chí trong đội công tác chỉ hoạt động ở một phạm vi nhất định, người này không biết nơi ở của người khác và ngược lại.
Để tổ chức cách thức làm việc như vậy các đồng chí đã tham khảo cách bố trí của chiếc tầu ngầm "Tầu ngầm có nhiều ngăn. Mỗi ngăn có cửa riêng. Khi ngăn nào bị thủng, thì đóng kín cửa thông. Như vậy, những ngăn khác vẫn an toàn". Đội công tác Trung ương gồm các đồng chí Trần Thị Sáu, Trần Quốc Hương, Bạch Thành Phong, Nguyễn Trọng Tỉnh, già Đồi, Lê Thu Trà, Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng.
Nhờ có sự mưu trí, dũng cảm của các đồng chí trong đội công tác, cùng sự đùm bọc che chở của nhân dân, hàng chục hội nghị, lớp huấn luyện, các cơ quan trong An toàn khu được bảo vệ, chăm sóc chu đáo.
- Công an nhân dân Việt Nam - Lịch sử biên niên (1945- 1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1994, tr. 18-19.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t. I.
CUỐI NĂM
Trung ương Đảng thành lập "Ban chấn chỉnh Đảng” ở Cao Bằng
Trong những năm 1939-1940, thực dân Pháp đã tiến hành nhiều đợt khủng bố ác liệt ở Cao Bằng, làm cho các Đảng bộ ở đây bị tổn thất nặng nề. Hầu hết các đồng chí chủ chốt trong Ban Tỉnh uỷ và hai Ban Châu uỷ Hoà An, Hà Quảng bị bắt. Nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ, một số đảng viên lo sợ, nằm im không dám hoạt động.
Thực hiện chủ trương của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về xây dựng Đảng, xây dựng căn cử địa cách mạng ở Cao Bằng, cuối năm 1941, đồng chí Vũ Anh thay mặt Trung ương Đảng thành lập “Ban chấn chỉnh Đảng"5 nhằm gây dựng lại, phát triển cơ sở Đảng ở Cao Bằng, thúc đẩy phong trào cách mạng.
“Ban chấn chỉnh Đảng" gồm các đồng chí Bằng Giang, Lê Đoàn và Lê Quảng Ba. Ban phân công từng đồng chí thực hiện nhiệm vụ ở các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình.
Các đồng chí đến tận các cơ sở để điều tra số lượng và chất lượng đảng viên sau thời kỳ khủng bố. Những đảng viên vẫn tích cực hoạt động, giữ được phẩm chất người đảng viên thì tiếp tục sinh hoạt Đảng. Còn những người dao động, nằm im không hoạt động thì được xem là không đủ tiêu chuẩn người đảng viên, không được tham gia sinh hoạt Đảng và phải tiếp tục trải qua thử thách.
Sau một thời gian tiến hành thẩm tra một cách nghiêm túc, thận trọng, Ban chấn chỉnh Đảng chọn được khoảng 50 đảng viên trung kiên, đã tích cực hoạt động củng cố tổ chức cơ sở Đảng sau khủng bố. Các ban Châu uỷ mới ở Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình được thành lập. Trung ương Đảng chỉ định Ban Tỉnh uỷ lâm thời Cao Bằng do đồng chí Lê Tòng làm Bí thư, nhằm thống nhất chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh.
Được sự chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, các cấp bộ Đảng ở Cao Bằng đã được củng cố, kiện toàn, chất lượng đảng viên được nâng lên, đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 70-72.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 38-41.
CUỐI NĂM
Chi bộ Nhà tù Sơn La quán triệt Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 5-1941
Ngay từ những ngày đầu thành lập (từ năm 1940), Chi bộ Nhà tù Sơn La đã lãnh đạo các hoạt động trong tù, đồng thời tuyên truyền vận động, xây dựng cơ sở cách mạng bên ngoài Nhà tù. Cuối năm 1941, khi bị bắt và bị đầy lên Sơn La, đồng chí Trần Đăng Ninh mang theo những chủ trương mới của Hội nghị Trung ương 8 vào Nhà tù. Nhờ vậy, Chi bộ Nhà tù Sơn La kịp thời nắm được sự chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng.
Quán triệt chủ trương của Trung ương, căn cứ tình hình thực tế, Chi bộ Nhà tù quyết định phương hướng đấu tranh: tăng cường tuyên truyền, xây dựng cơ sở ngoài nhà tù, chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang ở Sơn La khi đủ điều kiện. Thành lập các tiểu ban chuyên trách (binh vận, dân vận, tù vận...). Cử cán bộ, đảng viên có điều kiện hoạt động bên ngoài học tiếng Thái để tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc.
Thực hiện chủ trương của chi bộ, các đồng chí lợi dụng khi đi làm lò vôi, lò gạch, làm nề ở trại khố đỏ, đào hầm ở các công sở, gặp dân ở các bản để xin gio, lấy tre.., tìm cách tiếp xúc với binh lính, công chức, học sinh, người dân tộc để tuyên truyền cách mạng. Sau một thời gian được tuyên truyền giác ngộ, nhiều quần chúng trở thành cơ sở liên lạc bên ngoài nhà tù. Sang năm 1943, một số cơ sở phát triển thành những tổ chức Cứu quốc đầu tiên của Sơn La.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sơn La: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Sơn La (1940- 1954), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Sơn La xuất bản, 1983, t. I.
- Nhà tù Sơn La 1908-1945, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Sơn La xuất bản, 1979, tr. 68-88.
CUỐI NĂM 1941 ĐẦU NĂM 1942
Thành lập tổ chức "Lực lượng trung kiên" tại Nhà đày Buôn Ma Thuột
Nhà đày Buôn Ma Thuột do đế quốc Pháp thiết lập trong những năm 1930-1931, dùng đầy ải tù chính trị ở các tỉnh Trung Kỳ. Suốt từ năm 1930 đến năm 1945, hàng nghìn lượt tù chính trị Việt Nam bị giam giữ ở đây, họ phải chịu đựng một chế độ khổ sai rất dã man, khắc nghiệt.
Trong năm 1941, số tù nhân từ các tỉnh miền Trung bị đưa vào nhà đày tăng nhanh. Thực dân Pháp cũng tăng cường các thủ đoạn khủng bố, trấn áp tinh thần đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng. Nhằm thống nhất ý chí và hành động trong nhà đày, kịp thời quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng sau Hội nghị Trung ương 8, một số tù nhân cũ và mới liên lạc với nhau, lập một tổ chức bí mặt mang tên "Lực lượng trung kiên".
Tổ chức này thành lập khoảng cuối năm 1941, đầu năm 1942, gồm những chiến sĩ tự nguyện suốt đời hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản và hành động theo đúng Điều lệ Đảng Cộng sản.
Trên thực tế, tổ chức này đã đóng vai trò của một chi bộ cộng sản với những nhiệm vụ quan trọng: tổ chức và lãnh đạo tù nhân đấu tranh bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần trong nhà đày; giáo dục đảng viên, cán bộ giữ vững tinh thần đấu tranh, huấn luyện lý luận chính trị, quân sự, văn hoá chuẩn bị lực lượng; tổ chức liên lạc với Đảng ngoài nhà đày, gây cơ sở ở thị xã Buôn Ma Thuột và các đồn điền phụ cận; chuẩn bị phương tiện, điều kiện cho một số đồng chí trốn thoát ra ngoài hoạt động.
“Lực lượng trung kiên" hoạt động dưới sự lãnh đạo của "Trung tâm hạt nhân" có khoảng 8 - 9 đồng chí, trong đó một đồng chí được tập thể phân công phụ trách chung. Thành viên của tổ chức có lúc phát triển tới hơn 70 người.
Hoạt động của tổ chức bí mật "Lực lượng trung kiên" Nhà đày Buôn Ma Thuột chẳng những đã tập hợp được lực lượng, thống nhất hành động trong tù nhân, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng ở Buôn Ma Thuột nói riêng và Đắk Lắc nói chung.
- Tỉnh uỷ Đắk Lắc - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột (1930-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 90-93.
CUỐI NĂM 1941
Xuất hiện nhiều xã, tổng, châu toàn dân tham gia Việt Minh ở Cao Bằng
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, công tác xây dựng cơ sở chính trị quần chúng ở Cao Bằng tiến triển nhanh chóng. Các cán bộ toả về các địa phương tuyên truyền điều lệ, đường lối, chính sách của Mặt trận Việt Minh và tổ chức Cứu quốc. Dần dần, các tổ chức Cứu quốc được lập ở nhiều nơi, cơ sở Việt Minh phát triển sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ở ba châu thí điểm Việt Minh.
Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng bắt đầu xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh, còn gọi là "xã hoàn toàn", "tổng hoàn toàn”. Châu Hoà An có 7/7 tổng thành lập được Mặt trận Việt Minh, nhiều xã (trong đó có một số xã vùng cao) trở thành "xã hoàn toàn", các lũng như Lũng Phầy, Tỉnh Giảo, Kéo Cam là “lũng Việt Minh hoàn toàn". Ở châu Nguyên Bình, cuối năm 1942, phong trào Việt Minh phát triển mạnh, nhiều xã và lũng Việt Minh hoàn toàn xuất hiện. Tháng 11-1942, các ban Việt Minh tổng họp tại Lũng Dẻ, bầu ra Ban Việt Minh lâm thời châu. Ở châu Hà Quảng, từ cuối năm 1941, nhiều xã đã thành lập được Ban Việt Minh, có xã 100% quần chúng tham gia hội Việt Minh. Xã Nà Sác được mệnh danh là "xã đỏ”. Hàng chục xã trở thành xã Việt Minh hoàn toàn.
Sau hai năm, phong trào Việt Minh phát triển khắp các châu trong tỉnh. Năm 1942, Cao Bằng đã có ba châu (Hoà An, Nguyên Bình, Hà Quảng) trong số chín châu trở thành "châu hoàn toàn". “Đây là một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử cách mạng. Việt Minh phát triển rầm rộ trong hoàn cảnh hết sức bí mật”.
Ỏ những địa phương "hoàn toàn" này, bộ máy chính quyền địch chỉ tồn tại trên hình thức, thực tế quyền hành do Uỷ ban Việt Minh nắm. Ở cấp xã nói chung, chính quyền địch bị tê liệt. Phần lớn những người trong bộ máy chính quyền của địch đã tham gia các hội Cứu quốc, thi hành mọi chủ trương của Việt Minh. Hầu hết các vấn đề đời sống hàng ngày như tranh chấp ruộng đất, kiện tụng đến cưới xin... đều do Uỷ ban Việt Minh xã đứng ra giải quyết. Trong số lính dõng cũng có nhiều người được giác ngộ, tự nguyện bảo vệ cán bộ Việt Minh. Ở cấp tổng, một bộ phận nhỏ trong chính quyền địch là người của Việt Minh. Ở cấp châu, chính quyền là người cũ của địch, nhưng hiệu lực giảm sút hẳn.
Phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở Cao Bằng, lan sang các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, xuống miền xuôi, phát triển rộng trên cả nước.
- Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng. Bộ Tư lệnh Quân khu 1 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:55 năm quân đội nhân dân Việt Nam - miền đất khai sinh - quá trình phát triển (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 334-344.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 43-58.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. chính trị quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 56-58.
- Nguyễn Thành: Mặt trận Việt Minh, Nxb. Sự thật Hà Nội,. 1991.
__________
1. Liên Tỉnh ủy Cần Thơ sau đổi thành Liên Tỉnh ủy Hậu Giang
2. Từ tháng 8-1942 đến tháng 5-1945, báo do đồng chí Phạm Văn Đồng phụ trách.
3. Từ số 229 đếm 286 – là cơ quan của Liên Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng – Bắc Cạn. Số 287-325 của Liên Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng – Bắc Cạn – Lạng Sơn.
4. Đồng chí Trần Văn Trà về Sở Cuôctơnay, đồng chí Nguyễn Văn Long về Sở Dầu Giây (Bình Lộc).
5. Còn gọi là “Ban củng cố Đảng”.
Năm 1942 NGÀY 10-1
Ban tuyên truyền huấn luyện Trung ương xuất bản Chiến tranh Thái Bình Dương và cách mạng giải phóng dân tộc ở Đông Dương
Ngày 10-1-1942, Ban tuyên truyền huấn luyện Trung ương đã xuất bản thành sách tài liệu: Chiến tranh Thái Bình Dương và cách mạng giảiphóng dân tộc ở Đông Dương do đồng chí Trường Chinh soạn để lưu hành rộng rãi.
Tác phẩm đề cập đến các vấn đề quan trọng trong thời gian này: chiến tranh Thái Bình Dương và Mặt trận Dân chủ quốc tế chống phát xít xâm lược; chiến tranh Thái Bình Dương và bộ mặt thật của đế quốc Nhật; thái độ của nhân dân Đông Dương đối với cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và vấn đề "Hoa quân nhập Việt", cần nhận định đúng tình hình trước mắt; ra sức khắc phục bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản; nhiệm vụ cần kíp của Đảng ta và phần kết luận.
Tác giả cuốn sách vạch trần âm mưu, thủ đoạn xâm chiếm Đông Dương của phát xít Nhật; tố cáo tội ác bóc lột nhân dân của Nhật - Pháp: cướp chồng, con, cướp tiền, thóc, nhà, đất, cướp thuyền, xe...
Đồng chí Trường Chinh dự đoán, khi Trung Quốc, Anh, Mỹ có thể đưa quân vào Đông Dương đánh Nhật, Pháp thì Đông Dương sẽ thành một bãi chiến trường, lúc ấy chắc chắn đồng bào ta khổ cực sẽ nhận rõ bộ mặt ghê tởm của phát xít Nhật, Pháp và sẽ vùng dậy "giết giặc, giành quyền độc lập, tự do".
Đối với các lực lượng Đồng minh, cuốn sách xác định thái độ của ta đối với các nước Đồng minh không hoàn toàn giống nhau. Với Liên Xô, ta liên hiệp mật thiết, ủng hộ Liên Xô thắng lợi tức là tự ủng hộ mình. Với lực lượng cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, ta cũng liên hiệp không điều kiện; đối với chính quyền Quốc dân Đảng, ta liên hiệp có điều kiện. Với Anh, Mỹ, ta có thể nhân nhượng thoả hiệp "nếu họ thừa nhận quyền dân tộc độc lập của ta". Tuy vậy, tác giả cuốn sách vẫn đặc biệt nhấn mạnh: "Công việc giải phóng dân tộc của ta phải tự ta làm lấy; sức ủng hộ bên ngoài nếu có chỉ là thêm vào mà thôi".
Sau khi nhắc lại những luận điểm quan trọng của Lênin về điều kiện cách mạng, tình thế cách mạng; phê bình tư tưởng khởi nghĩa nóng vội, tác giả cuốn sách nêu rõ hiện thời Đông Dương chưa đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng. Song, “Ta không khoanh tay ngồi chờ điều kiện thuận lợi mà ba phải sửa soạn những điều kiện thắng lợi để hoạt động ráo riết, tạo ra một cao trào cứu quốc tìm những hình thức tổ chức và đấu tranh thích hợp để tiến tới khởi nghĩa vũ trang. Cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò lãnh đạo khởi nghĩa" của Đảng.
Tác giả cuốn sách chỉ rõ, trách nhiệm cần kíp của Đảng lúc này là đẩy mạnh tuyên truyền, cổ động; đấu tranh chống những xu hướng thủ tiêu, ỷ lại, không có sáng kiến, không biết tự động; phải chấn chỉnh các tổ chức tự vệ, phát triển các tiểu tổ du kích, tiến lên thành lập những bộ đội du kích chính thức, thực hiện chiến tranh du kích ở đồng bằng. Tác giả cuốn sách cũng nêu ra ba thiếu sót của phong trào cách mạng Đông Dương cần khắc phục nhanh chóng.
Phần kết luận, tác giả cuốn sách nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới, trách nhiệm chung của người cộng sản Đông Dương, của nhân dân Đông Dương là "góp sức vào phong trào dân chủ quốc tế, tiễu trừ chủ nghĩa phát xít, kẻ thủ phạm gây ra chiến tranh, để cứu vớt văn minh, tiến bộ của loài người".
- Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, in lần thứ hai, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 222-255.
NGÀY 25 - 1
Báo Cứu quốc - cơ quan của Tổng bộ Việt Minh ra số đầu
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp, Nhật, lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh, nhằm tập hợp mọi lực lượng, đoàn kết thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc. Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc để tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Việt Minh, kêu gọi đoàn kết toàn dân tộc, tranh thủ các tầng lớp trung gian, vạch mặt Việt gian và các tổ chức phản động tay sai của thực dân Pháp, phát xít Nhật; đưa tin về tình hình thế giới chống phát xít, các địa phương trong nước đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Việt Minh.
Ngày 25-1-1942, báo Cứu quốc - cơ quan của Tổng bộ Việt Minh, ra số đầu tiên (số 1). Báo kêu gọi các giới sĩ công, nông, thương, binh, các đoàn thể cứu nước đồng lòng đánh đuổi Pháp - Nhật "Cứu quốc sẽ giãi bày nỗi lầm than thống khổ của muôn dân; Cứu quốc sẽ nêu cao ý muốn thiết tha của trăm họ; Cứu quốc sẽ là người chỉ lối trung thành cùng đồng bào cùng tiến lên trên đường giải phóng dân tộc; Cứu quốc hô hào đồng bào hãy tận tâm ủng hộ Cứu quốc về mọi phương diện, hãy cương quyết tiến lên dưới bóng cờ sắc đỏ sao vàng...".
Ban biên tập báo dưới sự chỉ đạo của Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng đứng đầu là đồng chí Trường Chinh. Báo được in ở nhiều địa điểm bí mật trong vùng Sơn Tây, Bắc Ninh phát hành chủ yếu ở các tỉnh trung du Bắc Bộ đến Bắc Trung Bộ. Báo ra không đều kỳ, lúc đầu, số này cách số kia vài tháng; từ số 19, ra ngày 10-4-1945, Cứu quốc ra các số cách nhau 10 ngày. Đến ngày 15-8-1945, báo xuất bản được 30 số in litô và 4 số phụ trương của các số 12, 15, 19, 27. Số Xuân 1945 in trên 1.000 bản. Từ số 31 ra ngày 24-8-1945, bắt đầu in typô tại Hà Nội.
Cùng các báo của Kỳ bộ Việt Minh ở các địa phương, báo Cứu quốc trở thành một trong những vũ khí quan trọng của Việt Minh cổ động, tổ chức quần chúng đấu tranh chống kẻ thù chung, giành độc lập dân tộc.
- Nguyễn Thành: Mặt trậnViệt Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Nguyễn Thành: Báo chí cách mạng Việt Nam 1925-1945, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 282-295.
THÁNG 2
Tác phẩm Lịch sử nước ta của đồng chí Nguyễn Ái Quốc xuất bản lần đầu tiên
Tác phẩm Lịch sử nước ta được đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết vào khoảng nửa sau năm 1941. Tháng 2-1942, Việt Minh tuyên truyền Bộ xuất bản tác phẩm lần thứ nhất. Bản lịch sử diễn ca gồm 236 câu lục bát trình bày lịch sử Việt Nam từ thời Vua Hùng dựng nước đến năm 1941. Nội dung chủ yếu của tác phẩm nêu bật tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc qua các triều đại, ca ngợi những anh hùng dân tộc - những tấm gương chiến đấu chống ngoại xâm từ Phù Đổng đến Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Ngô Quyền...
Tác phẩm mở đầu bằng những câu:
Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà".
Lời thơ giản dị, dễ thuộc. Trong tác phẩm, đồng chí Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào, bất kỳ già trẻ hay trai gái cùng chung sức, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đồng chí rút ra một bài học lớn về đoàn kết.
"Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!"
Cuối tác phẩm là mục "Những năm quan trọng”, thống kê những sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc từ năm 1879 trước công nguyên đến năm 1941. Cuối cùng là một mốc lịch sử do tác giả dự báo:
“1945 Việt Nam độc lập".
Tập diễn ca lịch sử được dùng làm tài liệu học tập cho cán bộ trong các lớp huấn luyện, được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, động viên mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống đấu tranh vẻ vang của dân tộc.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 3, tr. 219-230.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Mmh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 160-162.
ĐẦU NĂM
Thành lập Liên Tỉnh uỷ miền Đông (Ban Cán sự Đảng bộ Nam Kỳ)
Từ giữa năm 1941, các cơ sở Đảng đã được gây dựng lại ở nhiều địa phương của Nam Kỳ. Do liên lạc còn hạn chế, một số nhóm Đảng tự động công tác gây dựng cơ sở, lãnh đạo phong trào.
Tháng 9-1941, đồng chí Ngô Thị Huệ (Tỉnh uỷ Vĩnh Long) ra tù, tìm gặp đồng chí Bùi Văn Dự, các đồng chí liên lạc với một số đảng viên Sài Gòn - Chợ Lớn. Những đồng chí này nhận được Chương trình, Điều lệ của Mặt trận Việt Minh do đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến mang từ Bắc vào. Các đồng chí in ấn, phân phát tài liệu đi các nơi. Để lãnh đạo phong trào, đầu năm 1942, các đồng chí tập hợp nhau gồm năm người, thành lập Liên Tỉnh uỷ miền Đông1. Liên Tỉnh uỷ ra báo Giải phóng, tuyên truyền cho Việt Minh ở Nam Kỳ. Tờ Giải phóng trở thành một yêu cầu cần thiết và thường xuyên đối với các cơ sở địa phương.
Liên Tỉnh uỷ miền Đông đã móc nối, giữ liên lạc với các cơ sở Sài Gòn Gia Định, Tây Ninh, Thủ Dầu Một... để khôi phục cơ sở Đảng và các đoàn thể Việt Minh.
- Toạ đàm về Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Mùa thu rồi ngày hăm ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
- Tìm hiểu Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
ĐẦU NĂM
Đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức lớp huấn luyện cán bộ ở Lũng Lừa, Cao Bằng
Sau Hội nghị Trung ương 8, Trung ương Đảng xúc tiến công tác xây dựng Mặt trận Việt Minh, căn cứ địa ở Cao Bằng. Nhiều lớp huấn luyện chính trị cho đồng bào dân tộc thiểu số được tổ chức. Từ cuối năm 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ cho đồng chí Võ Nguyên Giáp mở các lớp huấn luyện ở châu Hoà An, châu Nguyên Bình (Cao Bằng).
Đầu năm 1942, đồng chí Võ Nguyên Giáp tổ chức huấn luyện cho 11 học viên đồng bào Mông, Dao thuộc châu Nguyên Bình, tại huyện Lũng Lừa. Nội dung huấn luyện bao gồm tình hình thế giới, tình hình trong nước, vì sao phải đánh Tây đuổi Nhật; cách thức tổ chức, phát triển Mặt trận Việt Minh; công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Tại lớp học, mọi người được hiểu rõ nguyên nhân cuộc sống khổ nhục, phải làm thân trâu ngựa. Được giác ngộ, họ tin vào Đảng và cách mạng, sẵn sàng đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh.
Khi làm công tác huấn luyện, đồng chí Võ Nguyên Giáp và các học viên gặp nhiều khó khăn vì ngôn ngữ bất đồng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp phải tìm nhiều cách để giải nghĩa những danh từ mới, nhất là những danh từ chính trị. Giảng về vấn đề đoàn kết, đồng chí vẽ người dân tộc cùng nắm tay với người Kinh. Các anh chị em vì thế hiểu bài dễ dàng hơn.
Lớp học bế mạc, các học viên trở về quê hương xây dựng, phát triển Việt Minh. Phong trào Việt Minh vùng bắc Nguyên Bình bắt đầu phát triển.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám tỉnh Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 51-52.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 56-59.
ĐẦU NĂM 1942
Nữ công nhân Xưởng dệt Hãng Đờlinhông (Bình Định) bãi công đòi quyền lợi
Từ cuối năm 1940 đến đầu năm 1942, thực dân Pháp và tay sai tăng cường đàn áp công nhân và nhân dân lao động. Song, ở Bình Định, nhiều cuộc đấu tranh chống chế độ đòi quyền lợi của công nhân vẫn diễn ra.
Đầu năm 1942, nhân việc một nữ công nhân bị quản đồ đánh đập tàn nhẫn, hơn 300 chị em công nhân Phân xưởng dệt Hãng Đờlinhông (Delignon) (Phú Phong, Tây Sơn, Bình Định) nhất loạt bỏ việc, kéo lên gặp chủ hãng đấu tranh. Công nhân lập Ban lãnh đạo bãi công, vận động công nhân các phân xưởng sợi, nhuộm, cơ khí... hưởng ứng. Họ nêu các yêu sách: tăng lương đồng loạt 20%, làm không quá 10 giờ/ngày, không được đánh đập, cúp phạt thợ. Ban lãnh đạo còn bố trí các tổ bảo vệ canh giữ các ngả đường ngăn công nhân đi làm lẻ.
Chủ hãng và Công sứ Quy Nhơn huy động lính đến đàn áp bắt giữ những người hăng hái đi đầu trong phong trào đấu tranh. Công nhân không chùn bước, kiên quyết kéo dài cuộc bãi công, đưa yêu sách đòi thả những người bị bắt. Trước sức mạnh đấu tranh của công nhân, bọn chủ buộc phải nhượng bộ, chấp nhận một số yêu sách.
- Đảng bộ tỉnh Bình Định : Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1930-1945), Nxb. Tổng hợp Bình Định, 1990, t. I.
NGÀY 6 - 4
Xứ uỷ Trung Kỳ ra Thông cáo về thành lập Đội tự vệ
Trong thông cáo Xứ uỷ Trung Kỳ chỉ rõ: "Tự vệ đội của quần chúng là tổ chức quân sự, sau này sẽ chuyển thành Đội du kích hoặc đội quân cách mạng”, vạch ra nhiệm vụ của tự vệ viên là bảo vệ các cuộc đấu tranh, bảo vệ chính quyền và các chiến sĩ cách mạng, điều tra tình hình địch ở các vùng lân cận.
Đồng thời, Xứ uỷ đề ra nhiệm vụ khẩn cấp cho các chi bộ cộng sản: tổ chức ngay các Đội tự vệ trong vùng, lựa chọn tự vệ viên từ hội viên các nghiệp đoàn Nông hội, các Hội Phản đế Cứu quốc..., nhắc nhở căn dặn các Đội tự vệ phải thường xuyên sinh hoạt, nâng cao tinh thần chiến đấu, các chi bộ phải đề ra kế hoạch huấn luyện quân sự và đưa đảng viên vào các Đội tự vệ làm nòng cốt.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 4
Nông dân và công nhân Phú Yên đấu tranh chống đế quốc
Mặc dù hệ thống tổ thức Đảng ở Phú Yên chưa được khôi phục hoàn toàn, nhưng từ năm 1942, phong trào đấu tranh của nhân dân Phú Yên vẫn nổ ra. Những cuộc đấu tranh ở địa phương này dứt, thì địa phương khác lại nổi lên.
Tháng 4-1942, hơn 500 nông dân ở các thôn Tân Mỹ, Phước Thành, Mỹ Thành dùng dao, rựa, cuốc xẻng đánh bọn lính đến chiếm ruộng đất làm đường chở mía, làm một số lính bị thương nặng. Trước tinh thần đấu tranh của nông dân, chủ nhà máy đường phải nhượng bộ, trả tiền thuốc men, ăn uống cho số nông dân bị thương. Hơn 70 nông dân vẫn tiếp tục đấu tranh, ký vào đơn kiện gửi lên Phủ toàn quyền, đòi chủ nhà máy phải trả lại số ruộng đất đã chiếm đoạt của dân để trồng mía.
Ở Tuy An, một số tá điền đấu tranh đòi chủ ruộng giảm mức địa tô. Tại Sơn Hoà, đồng bào các dân tộc thiểu số kéo đến đồn Trà Kê kiện chánh tổng bắt dân làm xâu không công. Cũng ở đây, nhân dân kiện một chánh tổng gian ác đánh đập và bắt dân mua công trái, y phải đi tù. Ở huyện Vạn Ninh, công nhân Sở khai thác gỗ Đá Bàn phá nhà chủ sở, đánh tên quan lý. Chúng cho quân khủng bố tàn nhẫn và bắt đi một số công nhân. Tinh thần đấu tranh của công nhân Đá Bàn đã gây tiếng vang lớn trong địa phương.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Phú Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên (1930-1945), Phú Yên, 1999.
THÁNG 5
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tổ chức hai lớp huấn luyện chinh trị cho cán bộ chủ chốt tỉnh Cao Bằng
Được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng, đến năm 1942, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ ở Cao Bằng. Đặc biệt là các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình. Nhiều tổng, xã thành lập được Ban Việt Minh. Nhằm nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào cách mạng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc quyết định mở hai lớp huấn luyện về Đảng cho cán bộ chủ chốt của Cao Bằng.
Các lớp học này được tổ chức vào khoảng tháng 5 và tháng 6 năm 1942. thời gian huấn luyện của mỗi lớp khoảng 1 tuần. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giảng.
Lớp thứ nhất tổ chức tại hang Bó Tháy ở Lũng Hoàng (thuộc xã Phúc Tăng, Hoà An), nay là xã Hồng Việt, Hoà An.
Lớp thứ hai được tổ chức ở hang Kéo Quảng, tổng Ngần (thuộc xã Gia Bằng, Nguyên Bình). Hang Kéo Quảng còn gọi là hang Các Mác, xã Gia Bằng (nay là xã Minh Tâm, Nguyên Bình).
Gần 20 cán bộ trong Ban Tỉnh uỷ Cao Bằng, Bí thư các huyện uỷ... đã tham gia các lớp huấn luyện. Mục tiêu huấn luyện là bồi dưỡng lý luận cho cán bộ Đảng, làm cho cán bộ hiểu rõ hơn về Điều lệ Đảng, nghị quyết của Trung ương, về lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô, về Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga.
Các học viên tham gia lớp huấn luyện không những được nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng thêm lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiền đồ của cách mạng mà còn nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, trách nhiệm của mình trong phong trào cách mạng địa phương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 51-53.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1920-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, t. I, tr. 550-551.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
THÁNG 7
Thành lập Tỉnh uỷ lâm thời Thừa Thiên - Huế
Đến năm 1942, do mất liên lạc với Trung ương và Xứ uỷ, việc tiếp thu tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 của tổ chức Đảng ở Thừa Thiên- Huế có phần chậm. Sau khi thoát khỏi Nhà tù Buôn Ma Thuột, đồng chí Nguyễn Chí Thanh tìm cách bắt liên lạc với Ban vận động thống nhất tỉnh.
Tháng 7-1942, đồng chí triệu tập Hội nghị cán bộ đảng ở vùng Bến Tu (Quảng Điền) chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, truyền đạt Nghị quyết 8 của Trung ương.
Hội nghị vạch ra nhiệm vụ trước mắt: nắm số đảng viên còn lại để phát triển tổ chức, phát triển đảng viên mới ở thành phố và huyện. Xúc tiến việc thành lập Mặt trận Việt Minh các cấp, tổ chức Đội tự vệ vũ trang, các đoàn thể Cứu quốc trong thanh niên, học sinh, phụ nữ, công nhân, nông dân. Tuyên truyền, tổ chức nhân dân đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày.
Hội nghị bầu Ban Tỉnh uỷ lâm thời do đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư.
Sau Hội nghị, hệ thống tổ chức Đảng trong toàn tỉnh bắt đầu củng cố và phát triển.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, t. I.
NGÀY 13 - 8
Đồng chí Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự ủng hộ của Quốc tế đối với cách mạng Việt Nam
Sau một thời gian cùng Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam, ngày 13-8-1942, với tên gọi mới Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh2, nhằm tranh thủ sự viện trợ của Quốc tế.
Sau nửa tháng đi bộ, khi đang trên đường đi Bình Mã ngày 27-8-1942, đồng chí bị tuần cảnh của Quốc dân Đảng bắt giữ (chúng nghi đồng chí là gián điệp) tại xã Túc Vinh (huyện Đức Bảo, Quảng Tây). Người bị giam cầm qua gần 30 nhà tù của 13 huyện trong 13 tháng. Sống trong tù, Người bị đối xử tàn tệ, sống rất cực khổ. Trong thời gian này, Người viết cuốn Nhật ký trong tù với 133 bài thơ bằng chữ Hán. Đây là một tác phẩm văn học có giá trị, nội dung tố cáo chế độ lao tù tàn bạo của Tưởng Giới Thạch, đồng thời nêu bật tinh thần lạc quan cách mạng, ý chí sắt đá, tình cảm cao đẹp, phong thái ung dung của người cộng sản.
Sau ngày 10-9-1943, Người được trả lại tự do nhưng vẫn bị quản chế. Tuy sức khoẻ bị giảm sút nhiều: mắt mờ, chân đi không vững, Người vẫn tự tập luyện để phục hồi sức khoẻ, đồng thời tìm cách liên lạc với những tổ chức chống phát xít của người Việt Nam ở Liễu Châu, chắp nối liên lạc với Trung ương Đảng ở trong nước.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.2, tr. 176.
- Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 40.
THÁNG 8
Thành lập Liên tỉnh - Thành uỷ Quảng Nam - Hội An - Đà Nẵng
Sau đợt khủng bố trắng của thực dân Pháp, đến tháng 6-1942, cơ sở của Đảng bộ Quảng Nam bị vỡ nặng. Một số đồng chí thoát được sự vây bắt của địch, tạm lánh vào phía nam hoạt động. Khi tình hình tương đối êm, các đồng chí trở về Quảng Nam bắt liên lạc với Thành uỷ Hội An.
Cuối tháng 8- 1942, các đồng chí họp với Thành uỷ Hội An trong một chiếc thuyền trên sông Chợ Đồn3, bàn việc khôi phục phong trào toàn tỉnh. Tại cuộc họp, các đồng chí quyết định thành lập Liên tỉnh - Thành uỷ Quảng Nam - Hội An - Đà Nẵng gồm năm uỷ viên, đồng chí Võ Toàn (Võ Chí Công) làm Bí thư. Cuộc họp cũng quyết định ra báo Cờ độc lập để tuyên truyền quần chúng đấu tranh.
Tháng 1-1943, Liên tỉnh - Thành uỷ triệu tập một cuộc họp gồm các đại biểu của Đà Nẵng, Hội An, Duy Xuyên, Đại Lộc, Tam Kỳ. Hội nghị chú trọng nhanh chóng khôi phục tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng trong toàn tỉnh. Phục hồi các Đội tự vệ, khẩn trương huấn luyện quân sự, sẵn sàng đón thời cơ khởi nghĩa. Xây dựng căn cứ địa cách mạng từ Phú Nham qua Ba Nghi đến Trung Phước, mở rộng sang Tiên Phước, Bến Giằng, nối liền vùng đồng bào Thượng tiếp giáp với huyện Đại Lộc. Tổ chức quỹ cho việc chuẩn bị võ trang khởi nghĩa.
Hội nghị cử Tỉnh uỷ mới của Quảng Nam, thay thế Liên tỉnh - Thành uỷ. Ba Đảng bộ Đà Nẵng, Quảng Nam, Hội An hợp nhất thành Đảng bộ tỉnh do đồng chí Võ Toàn làm Bí thư.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb Đà Nẵng, 1991, t. I.
NGÀY 5- 9
Đồng chí Lê Hồng Phong hy sinh ở Côn Đảo
Cuối năm 1937, đồng chí Lê Hồng Phong từ Thượng Hải về Sài Gòn, cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong tình hình mới. Đồng chí đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, được Đại hội bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Đồng chí góp phần vào thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát xít, đấu tranh chống lực lượng Tờrốtkít và các khuynh hướng tả khuynh trong Đảng.
Ngày 22-6-1938, đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Sau một thời gian tra tấn, dụ dỗ, nhưng không có đủ chứng cớ kết tội, thực dân Pháp buộc phải kết án tù giam đồng chí 6 tháng với lý do dùng thẻ căn cước giả. Hết hạn tù, chúng trục xuất đồng chí về nguyên quán.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, lo sợ trước vai trò của Lê Hồng Phong, ngày 29-9-1939, mật thám Pháp lại bắt giam đồng chí vào Khám Lớn Sài Gòn. Cuối năm 1940, chúng đày Lê Hồng Phong ra Côn Đảo.
Tại Côn Đảo, đồng chí Lê Hồng Phong sống những ngày bất khuất, nêu cao khí tiết người cộng sản. Ở đây, những người cộng sản bị địch đánh bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu: tắm giặt, điểm danh hay đang ăn. Có lần Lê Hồng Phong và anh em tù vừa bưng bát cơm lên thì cai tù xông vào đánh đập túi bụi. Sau một thời gian, đồng chí bị nhốt vào hầm tối và chịu cực hình tra tấn vô cùng tàn nhẫn. Trước sự đầy đoạ khắc nghiệt và đòn thù tàn bạo, đồng chí Lê Hồng Phong vẫn nêu cao chí tiết của người cộng sản khiến kẻ thù khiếp sợ. Trước khi hy sinh, đồng chí nhắn lại các anh em trong khu cấm cố biệt lập “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.
Đồng chí đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5-9-1942, để lại niềm tiếc thương vô hạn và sự khâm phục trong lòng các đồng chí, đồng bào và các thế hệ mai sau.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Nhà tù Côn Đảo 1862-1975, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 200.
- Tỉnh uỷ Nghệ An: Nghệ An – Những tấm gương cộng sản, Nxb. Nghệ An, 1998, t.1, tr 21-24.
NGÀY 10-10
Trung ương Đảng xuất bản báo Cờ Giải phóng
Sau khi Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5-1941 quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, các cấp uỷ Đảng, các cấp bộ Việt Minh đều xuất bản báo làm cơ quan tuyên tuyền, hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Mặt trận, đây cũng là vũ khí đấu tranh với địch trên mặt trận lý luận và tư tưởng... Ngày 10-10-1942, Trung ương Đảng cho xuất bản tờ báo Cờ giải phóng.
Báo Cờ giải phóng do đồng chí Trường Chính, Tổng Bí thư của Đảng phụ trách. Báo ra được 16 số. Suốt từ năm 1942 đến năm 1944, cơ quan báo được đặt ở làng Viên Nội (còn gọi là làng Sằn, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội). Đồng chí Trường Chinh chỉ đạo công tác in báo, vừa là cây bút chính.
Báo Cờ giải phóng thường có những mục: chính trị trong nước, chính trị quốc tế, sinh hoạt Đảng và kinh nghiệm công tác.
Về chính trị trong nước, các bài tập trung giải đáp các chủ trương, chính sách của Đảng và Mặt trận Việt Minh ("Vấn đáp về chính sách của Đảng”, số 2, ngày 26-8-1943), chỉ rõ các bước trong công tác sửa soạn khởi nghĩa, vũ trang các Đội tự vệ, giải thích xây dựng, căn cứ địa (số 6, số 8, số 10... ). Báo cũng có nhiều bài vạch trần âm mưu, thủ đoạn, chính sách tàn bạo của bọn phát xít Nhật, đế quốc Pháp, chỉ rõ những mâu thuẫn giữa chúng với nhau.
Về chính trị quốc tế, báo có bài viết về đất nước Liên Xô, Cách mạng Tháng Mười Nga, vai trò của Liên Xô trong Mặt trận dân chủ quốc tế chống phát xít; nhiều bài phân tích nguyên nhân, diễn biến, tính chất, dự đoán triển vọng của Chiến tranh thế giới thứ hai, vạch rõ âm mưu của phe phát xít.
Về sinh hoạt của Đảng và kinh nghiệm công tác, báo chỉ rõ vai trò của chi bộ Đảng trong phong trào quần chúng, những khiếm khuyết của nhiều đảng viên người dân tộc thiểu số dẫn đến những thiệt hại cho Đảng. Báo kêu gọi các đảng viên, các chi bộ nêu cao tinh thần cảnh giác trước các tổ chức A.B (Antibolchevik) phá hoại Đảng; rút ra các kinh nghiệm trong việc tổ chức các mối giao thông, các cơ quan, các uỷ ban công xưởng, uỷ ban làng xã; những kinh nghiệm, phương pháp chống địch khủng bố... để nâng cao trình độ lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng giữ đúng vị trí tiên phong trong sự nghiệp giải phóng. Báo Cờ giải phóng giữ một vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, Mặt trận Việt Minh trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Ngọn cờ giải phóng, in lần thứ tư, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974.
- Hoàng Tùng, Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, t. I, tr. 138.
TỪ NGÀY 22 ĐẾN NGÀY 23-11
Đại hội đại biểu Việt Minh toàn tỉnh Cao Bằng lần thứ nhất
Sau một thời gian đẩy mạnh công tác xây dựng, tổ chức lực lượng Việt Minh, năm 1942, ở Cao Bằng đã xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh. Trên cơ sở phong trào Việt Minh phát triển rầm rộ vững chắc ở nhiều địa phương trong tỉnh, Tỉnh uỷ Cao Bằng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu Việt Minh toàn tỉnh lần thứ nhất vào hai ngày 22 và ngày 23-11-1942.
Đại hội được tổ chức ở thành nhà Mạc, vùng núi Lam Sơn (châu Hoà An, Cao Bằng). Đại hội phân tích tình hình thế giới và trong nước, tình hình tỉnh Cao Bằng, các mặt công tác từ khi triển khai Nghị quyết Trung ương về thành lập Mặt trận Việt Minh, kiểm điểm hoạt động của Ban Việt Minh lâm thời từ tháng 6-1941 đến tháng 11-1942. Từ đó, Đại hội đánh giá những thành tích đạt được, phát hiện những yếu kém để đề ra biện pháp khắc phục.
Đại hội ra nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ phát triển Việt Minh của từng châu Nguyên Bình, Hoà An, Hà Quảng. Nghị quyết nhấn mạnh công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt là cán bộ nữ; chú trọng mở rộng các cơ sở cách mạng ở các vùng người Mông, Dao.
Trước khi họp, Đại hội Việt Minh tỉnh Cao Bằng nhận được Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh (15-11-1942) về lưu ý đến các vấn đề khởi nghĩa vũ trang, chính quyền cách mạng, chính sách dân tộc của Mặt trận, vấn đề cán bộ. Chỉ thị nhận xét những ưu, khuyết điểm cơ bản của phong trào Việt Minh ở Cao Bằng, chỉ ra phương hướng phát triển. Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh cũng mang tính chỉ đạo chung cho phong trào của cả nước.
Đại hội bầu Ban Việt Minh tỉnh, đồng chí Hoàng Đức Thạc (tức Lã) làm Chủ nhiệm. Nghị quyết của Đại hội Việt Minh đã tiếp thêm sinh khí mới cho phong trào cách mạng đang diễn ra mạnh mẽ ở vùng cao toàn tỉnh Cao Bằng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Nguyễn Thành: Mặt trận Việt Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 27.
TRONG NĂM
Một số chiến sĩ cách mạng tổ chức thoát khỏi Nhà đày Buôn Ma Thuột
Thực hiện chủ trương của Đảng về đưa chiến sĩ cách mạng vượt khỏi lao tù đế quốc, bổ sung đội ngũ cán bộ nhằm thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, những người tù cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma Thuột đã nhiều lần tiến hành vượt ngục. Trong năm 1942, các tổ chức trong Nhà đày đã chuẩn bị những điều kiện thuận lợi, động viên một số chiến sĩ cộng sản nhanh chóng thoát ra ngoài.
Ngày 19-1-1942, theo kế hoạch đã thống nhất, lợi dụng thời cơ đi cắt cỏ cho ngựa, các đồng chí Nguyễn Vịnh (tức Nguyễn Chí Thanh), Lê Tất Đắc và Phan Doãn Rá lấy lý do mùa khô ít cỏ, đề nghị lính gác cho phân tán đi xa. Khi cắt xong cỏ, các đồng chí mưu trí trói được lính gác và trốn vào rừng. Khi tên lính cởi được trói chạy về báo quản ngục, một lực lượng lớn được huy động đi khắp nơi lùng sục hòng bắt cho kỳ được các đồng chí. Song, do được chuẩn bị chu đáo với ý chí quyết tâm, các chiến sĩ vượt mọi khó khăn trở về tiếp tục hoạt động cách mạng.
Để đối phó với các cuộc vượt ngục, Môsin - quản ngục Nhà đày tuyên bố xoá bỏ chế độ tù chính trị, xoá bỏ quyền tự quản của tù nhân, thực hiện chế độ lao dịch khổ sai từ giữa năm 1942. Song các cuộc vượt ngục vẫn tiếp tục diễn ra.
Ngày 4-12-1942, các đồng chí Nguyễn Tạo, Trương Vân Lĩnh, Chu Huệ và Trần Doanh vượt khỏi Trại giam Đắk Mil. Thoát khỏi trại giam, trên người không có gì ngoài bộ quần áo tù, các đồng chí phải trải qua một hành trình đầy nguy hiểm, cực kỳ gian khổ, chống chọi với đói rét, bệnh tật, thú dữ giữa rừng Tây Nguyên. Sau 4 tháng vượt suối, xuyên rừng, họ đã an toàn trở về với cách mạng.
Những cuộc vượt ngục của các chiến sĩ cách mạng ở Nhà đày Buôn Ma Thuột đã khẳng định ý chí chiến đấu, nghị lực phi thường của họ, cổ vũ tinh thần đấu tranh, niềm tin vào cách mạng của những người cộng sản.
- Tỉnh uỷ Đắk Lắc - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột (1930-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 99-102.
NĂM 1942
Nông dân Quảng Nam tham gia phong trào Cứu quốc
Năm 1942, phong trào Cứu quốc ở Quảng Nam - Đà Nẵng phát triển mạnh. Số lượng hội viên Cứu quốc toàn tỉnh (Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc) có hơn 5.000 người.
Phong trào phát triển mạnh ở Quế Sơn, Tam Kỳ, thu hút cả tầng lớp trên như phú nông, địa chủ nhỏ, lý hương tham gia Mặt trận Việt Minh. Nhiều nơi thành lập được các Ban Vận động Việt Minh (có nơi gọi là Uỷ ban Cứu quốc). Toàn tỉnh có hơn 20 Uỷ ban Cứu quốc.
Các Đội tự vệ Cứu quốc được thành lập ở các làng, xã, lực lượng tham gia chủ yếu là nông dân: Tam Kỳ có 18 tiểu đội; Quế Sơn: 18, Điện Bàn: 3 và Hoà Vang có 2 tiểu đội.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng, phong trào cách mạng trong toàn tỉnh phát triển mạnh: nông dân chống cường hào bao chiếm, bao đá; chống bắt lính; chống hương lý chiếm đoạt ruộng công.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, t. I.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 139.
___________
1.Có tài liệu viết: “Ban Cán sự Đảng Nam Kỳ”.
2. Đồng minh là liên minh các nước chống chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hình thành cuối năm 1941 đầu năm 1942.
3. Một nhánh nhỏ của sông Thu Bồn.
Năm 1943 TỪ NGÀY 25 ĐẾN NGÀY 28 - 2
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng
Bước sang năm 1943, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô đã tạo nên cục diện mới của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ở trong nước tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh đã bắt rễ vào quần chúng và đang tạo ra những xung lực mới cho phong trào cách mạng.
Trước tình hình biến chuyển nhanh chóng, trong điều kiện không thể triệu tập được Hội nghị toàn thể Trung ương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 28-2-1943 tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên, nay thuộc Hà Nội) để bàn việc mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Hội nghị nhận định tình hình phong trào cách mạng trong nước và cho rằng phong trào Việt Minh ngày càng lan rộng khắp cả nước và đã đạt được những tiến bộ đáng kể, tuy nhiên phong trào còn thiếu đồng đều, các đoàn thể Việt Minh còn chật hẹp nhất là ở thành thị.
Đáp ứng những đòi hỏi mới của tình hình quốc tế và trong nước, để thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên mạnh mẽ hơn, Hội nghị chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận Dân tộc thống nhất chống phát xít Nhật - Pháp (tức Mặt trận Việt Minh). Hội nghị chủ trương liên minh với tất cả các đảng phái và các nhóm yêu nước trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh nhằm tăng cường sức mạnh đại đoàn kết giải phóng của dân tộc Đông Dương thoát khỏi ách thống trị của phát xít Nhật - Pháp; ủng hộ Liên Xô; đẩy mạnh công tác vận động thanh niên, phụ nữ, các dân tộc thiểu số, phát triển Hội Quân nhân Cứu quốc và một số tổ chức hình thức thấp, rộng rãi để tập hợp đông đảo binh lính. Hội nghị quyết định lập Hội Văn hóa Cứu quốc ở các thành phố, nhằm đoàn kết trí thức và các nhà văn hoá vào Mặt trận, Hội nghị khẳng định việc mở rộng Mặt trận phải dựa trên cơ sở không ngừng củng cố và phát triển các đoàn thể công nhân và nông dân là “xương sống của Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp" giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận. Hội nghị cũng chủ trương thành lập Mặt trận Dân chủ chống Nhật ở Đông Dương, nhằm tập hợp hết thảy các lực lượng các khả năng chống phát xít trên đất Đông Dương.
Hội nghị nêu bật tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại Hội nghị yêu cầu toàn Đảng phải đặt mình vào tình thế khẩn cấp; nhấn mạnh công tác xây dựng căn cứ địa và phát triển lực lượng vũ trang; đẩy mạnh công tác binh vận; chú trọng công tác thành thị, kết hợp chặt chẽ phong trào thành thị với phong trào nông thôn.
Hội nghị đề cao công tác xây dựng Đảng, “làm cho Đảng được mạnh mẽ và bônsêvích hoá". Hội nghị nhấn mạnh việc xây dựng chi bộ xí nghiệp gây phong trào công nghiệp; thanh trừ các phần tử cơ hội ra khỏi Đảng, đề phòng bọn khiêu khích phản bội; tăng cường đào tạo cán bộ, mở các lớp huấn luyện ngắn ngày.
Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã cụ thể hoá và phát triển Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941), tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng cả nước bước sang giai đoạn mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 272 – 315.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 75-79.
ĐẦU NĂM
Một số tỉnh Trung Kỳ khôi phục tổ chức Đảng chuẩn bị lập Xứ uỷ
Từ giữa năm 1942, sau khi Xứ uỷ Trung Kỳ bị vỡ, địch tăng cường khủng bố, phong trào cách mạng ở Trung Kỳ gặp rất nhiều khó khăn. Hệ thống tổ chức Đảng trong Xứ bị đánh phá, cơ quan lãnh đạo thống nhất không còn.
Nhận rõ yêu cầu cấp bách của việc khôi phục, kiện toàn cơ quan lãnh đạo cách mạng, các đảng viên ở Trung Kỳ đã tiến hành khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng. Do gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn A.B phá hoại nên hầu hết các tỉnh uỷ phải lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn không tồn tại được.
Từ đầu năm 1943, tình hình thế giới, trong nước có nhiều chuyển biến. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La, Đông Anh, Phúc Yên (nay thuộc Hà Nội) bàn những biện pháp thúc đẩy phong trào đi tới. Trung ương chú trọng đến việc khôi phục tổ chức Đảng ở Trung Kỳ.
Mặc dù tình hình rất khó khăn, nhưng một số tỉnh vẫn tìm cách khôi phục, kiện toàn lại tổ chức Đảng. Đầu năm 1943, Tỉnh uỷ Thanh Hoá bắt liên lạc với Trung ương để nhận chủ trương mới; đồng thời được Trung ương công nhận. Ngay sau đó, Tỉnh uỷ mở cuộc hội nghị bàn biện pháp triển khai các chủ trương mới của Đảng, nhanh chóng tổ chức các Đội tự vệ Cứu quốc, tổ chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh, bầu bổ sung vào Tỉnh uỷ.
Tại Quảng Ngãi, từ nòng cốt là Chi bộ Ba Tơ, Tỉnh uỷ lâm thời cũng được lập lại, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong tỉnh.
Ngoài Thanh Hoá và Quảng Ngãi thành lập được Tỉnh uỷ lâm thời, việc xây dựng, khôi phục tổ chức tại các tỉnh còn lại ở Trung Kỳ chỉ mới dựng lại ở cấp cơ sở, hoặc chi bộ. Một số tỉnh như Nghệ An, Quảng Bình tổ chức Đảng tiếp tục bị đánh phá ác liệt.
Cùng với công tác khôi phục cơ sở Đảng ở địa phương, Tỉnh uỷ Thanh Hoá còn được Trung ương giao nhiệm vụ liên lạc với các tỉnh miền Trung để lập lại Xứ uỷ. Do phong trào Trung Kỳ còn nhiều khó khăn, phong trào ở Thanh Hoá cũng mới bắt đầu lên, do đó chủ trương lập lại cơ quan lãnh đạo cấp xứ ở Trung Kỳ không thực hiện được.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 97-98.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thành Hoá (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1995.
NGÀY 30 - 3
Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức mít tinh tại Chùa Hương
Sang năm 1943, phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ, đặc biệt là ở vùng miền núi phía bắc có những tiến triển rõ nét. Tình hình đó đòi hỏi các cấp bộ Đảng, Việt Minh phải đẩy mạnh các hình thức đấu tranh thúc đẩy phong trào đi tới.
Nhận rõ yêu cầu đó, vào trung tuần tháng 3-1943, nhân các ngày lễ hội Chùa Hương hằng năm, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Chùa Hương để cổ vũ, động viên phong trào cách mạng trong toàn xứ. Để tổ chức cuộc mít tinh này, Xứ uỷ đã huy động cán bộ cách mạng cùng quần chúng các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Hưng Yên tham gia. Các cơ sở gần Chùa Hương như Tảo Khê, Đốc Tín... được chọn làm cơ sở của Ban chỉ đạo đấu tranh của Xứ ủy. Các công việc như treo cờ, rải truyền đơn, bảo vệ được giao cho các đảng viên và quần chúng trung kiên.
Theo kế hoạch, cuộc mít tinh sẽ được tổ chức vào ngày 30-3-1943 tại Chùa Thiên Trù. Hàng ngàn quần chúng nhân dân từ các nơi kéo về dự lễ hội sẵn sàng tham gia cuộc mít tinh. Song do sơ hở, người được giao nhiệm vụ treo cờ bị địch bắt, không chịu nổi tra tấn đã để lộ những tin tức về cuộc mít tinh. Bọn địch huy động lính, tuần phiên canh phòng lùng sục khắp nơi.
Trước tình hình đó, Ban chỉ đạo cuộc mít tinh kịp thời thay đổi kế hoạch. Các đảng viên và quần chúng được giao nhiệm vụ rải truyền đơn tiếp tục thi hành nhiệm vụ. Các cuộc diễn thuyết chớp nhoáng diễn ra ở nhiều nơi. Tại cửa Chùa Thiên Trù, một lá cờ đỏ sao vàng được treo cao trên cây đại, thu hút sự chú ý đông đảo nhân dân.
Tuy không tổ chức được cuộc mít tinh lớn tại Chùa Hương theo kế hoạch đã định song với các hình thức rải truyền đơn, tuyên truyền, treo cờ ở khu vực Chùa Hương, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã thực hiện được cuộc đấu tranh chính trị, khích lệ đông đảo quần chúng hưởng ứng, tin tưởng và ủng hộ Việt Minh.
- Tỉnh uỷ Hà Tây: Lịch sử Đảng bộ Hà Tây (1926-1945), Hà Tây, 1992, t. I.
- Những sự kiện hoạt động của các Xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ THÁNG 3 ĐẾN THÁNG 8
Trung ương Đảng tăng cường cán bộ cho Nam Kỳ
Bước vào năm 1943, vượt qua sự khủng bố quy mô và kéo dài chưa từng thấy của đế quốc Pháp và tay sai, các chiến sĩ cộng sản ở Nam Kỳ, gồm cả những đồng chí vượt ngục và các đồng chí còn lại bên ngoài đã tích cực, chủ động xây dựng lại cơ sở Đảng và đã đạt được những kết quả nhất định. Một số Tỉnh uỷ được lập lại, các cơ sở Đảng xuất hiện ở nhiều địa phương thuộc miền Tây, Trung và Đông Nam Kỳ. Tuy nhiên, phong trào Nam Kỳ lúc này vẫn còn nhiều khó khăn, đường dây liên lạc với Trung ương còn bị cắt đứt.
Trước tình hình đó, để phát triển phong trào cách mạng đều khắp trong cả nước, tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sau Hội nghị Võng La (tháng 2- 1943), Trung ương Đảng cử đồng chí Lê Hữu Kiều (tức Tăng, tức Nam Mộc) vào Nam Kỳ để làm công tác Việt Minh giúp các đồng chí trong Nam, thúc đẩy phong trào Việt Minh. Sau khi đến Nam Kỳ, đồng chí Lê Hữu Kiều nhận thấy tình hình rất khó khăn đã đề nghị Trung ương cử thêm cán bộ vào. Tháng 8-1943, Trung ương cử đồng chí Nguyễn Hữu Ngoạn (tức Giang) vào Nam Kỳ tham gia công tác. Đồng chí Ngoạn vào Sài Gòn, qua cơ sở ở Đa Cao đã bắt được liên lạc với các đồng chí ở đây, làm công tác xúc tiến khôi phục cơ sở Đảng, thúc đẩy phong trào Việt Minh, tổ chức đường liên lạc với Trung ương.
Trong vòng 6 tháng, Trung ương đã cử hai cán bộ vào Nam công tác, thể hiện rõ sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương với phong trào cách mạng ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn nên các cán bộ do Trung ương phái vào Nam mới bắt liên lạc được với một bộ phận các đồng chí ở Nam Kỳ, do đó sự truyền đạt chủ trương của Đảng đến Đảng bộ Nam Kỳ cũng còn hạn chế.
- Toạ đàm “Tiền phong”, “Giải phóng” , lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Bài giải đáp về Cách mạng Tháng Tám của đồng chí Trường Chinh, tháng 4-1963, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Đặc điểm Cách mạng ThángTám ở Sài Gòn - Gia Định, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1996.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng ThángTám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 92-93.
THÁNG 6
Xứ ủy Bắc Kỳ mở Hội nghị bàn biện pháp mở rộng phong trào, bầu bổ sung Xứ uỷ viên
Để thúc đẩy phong trào cách mạng trong xứ phát triển theo chủ trương Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tháng 2-1943), vào hạ tuần tháng 6-1943, Xứ uỷ Bắc Kỳ mở cuộc Hội nghị bàn biện pháp mở rộng phong trào, bổ sung cán bộ vào Xứ uỷ.
Hội nghị được tổ chức tại chùa An Đà (Ứng Hoà, Hà Đông, nay thuộc Hà Tây). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Hạ Bá Cang, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Trần Tử Bình, Ngô Thế Sơn, Lê Quang Đạo, Lê Liêm, Trần Thị Minh Châu, Văn Tiến Dũng... Đồng chí Hạ Bá Cang chủ trì Hội nghị.
Hội nghị kiểm điểm công tác trong thời gian qua, phân tích tình hình phong trào cách mạng trong xứ. Hội nghị cho rằng: qua các đợt khủng bố của địch, tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng cơ sở được phục hồi ở nhiều nơi, có nơi đã phát triển tốt.
Để đẩy phong trào cách mạng đi tới, Hội nghị thống nhất chủ trương mở rộng tuyên truyền ảnh hưởng của Việt Minh; phát triển cơ sở xuống các làng xã, lập các Đội tự vệ; tăng cường phát hành báo Cứu quốc, Cờ giải phóng xuống tới chi bộ, tới Việt Minh cấp xã, tuyên truyền mạnh mẽ thắng lợi của Liên Xô và Đồng minh. Để hoàn thành các nhiệm vụ đó, Hội nghị cho rằng mỗi xứ uỷ viên ngoài nhiệm vụ được phân công phải tự xây dựng lấy cơ sở an toàn, tin cậy để bảo đảm tốt cho hoạt động.
Tại Hội nghị, đồng chí Văn Tiến Dũng được bổ sung vào Xứ uỷ Bắc Kỳ.
- Văn Tiến Dũng: Đi theo con đường đã chọn, hồi ký, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí lịch sử Đảng, số 8-1997.
GIỮA NĂM
Hội Văn hoá Cứu quốc ra đời ở Hà Nội
Tháng 2-1943, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp đề ra chủ trương thành lập Hội Văn hoá Cứu quốc ở các thành phố, nhằm đoàn kết trí thức và các nhà văn hoá vào Mặt trận Dân tộc thống nhất chống đế quốc, phát xít.
Thực hiện chủ trương của Đảng, vào mùa hè năm 1943, qua những mối quần chúng trong Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Truyền bá chữ quốc ngữ, Hội Hướng đạo sinh, Tổng Hội sinh viên, qua việc bắt liên lạc với một số văn nghệ sĩ đã có liên hệ với tổ chức Đảng ta trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Ban Cán sự Đảng Hà Nội đã tập hợp được một số trí thức, văn nghệ sĩ thành lập tổ chức Hội Văn hoá cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Đồng chí Lê Quang Đạo, Bí thư Ban Cán sự Hà Nội thường xuyên chỉ đạo hoạt động cho các hội viên Hội Văn hoá Cứu quốc.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng nhất là từ khi nhận được bản "Đề cương văn hoá Việt Nam", các hội viên Hội Văn hoá Cứu quốc tích cực tham gia vào các hoạt động văn hoá dân tộc, văn hoá cách mạng, chống văn hoá nô dịch, phản động. Dựa vào "Đề cương văn hoá Việt Nam", các hội viên tuyên truyền đường lối văn hoá cách mạng của Đảng trong một số văn nghệ sĩ và tham gia viết bài cho báo Cứu quốc của Mặt trận Việt Minh để chống lại luận điệu chính trị thân Nhật và các khuynh hướng văn hoá nô dịch phản động, đặc biệt là của Tờrốtkít trong nhóm Hàn Thuyên. Một số hội viên có những tác phẩm hiện thực tiến bộ.
Cùng với quá trình hoạt động, đội ngũ hội viên Hội Văn hoá Cứu quốc ở Hà Nội ngày càng tăng lên. Đến đầu năm 1945, có khoảng 30 văn nghệ sĩ được tập hợp trong tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc ở Hà Nội. Từ Hà Nội, cơ sở của Hội Văn hoá Cứu quốc còn được xây dựng trong giới trí thức văn nghệ sĩ ở các thành phố Hải Phòng, Nam Định.
Cùng với các đoàn thể khác của Mặt trận Việt Minh, Hội Văn hoá Cứu quốc ra đời đã làm tăng thêm ảnh hưởng của cách mạng trong các thành phố, thu hút ngày càng đông đủ các trí thức lớn nhỏ đứng vào hàng ngũ cách mạng.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 89-90.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004, tr. 103.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t. I.
- Hội Nhà văn Việt Nam: Một chặng đường văn hoá, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985, tr. 37-91.
THÁNG 7
Tù chính trị Nhà đày Buôn Ma Thuột đấu tranh chống địch khủng bố
Đầu năm 1943, một số đồng chí ở Nhà đày Buôn Ma Thuột tổ chức một cuộc vượt ngục nhưng không thành. Tên Môsin, quản ngục khét tiếng gian ác ở Nhà đày Buôn Ma Thuột đã bắt và sát hại 4 tù nhân hắn nghi là bố trí cuộc vượt ngục nói trên. Hành động giết người của tên quản ngục đã gây căm thù cao độ trong toàn thể tù nhân nhà đày, thúc giục họ đấu tranh chống tên thực dân khát máu.
Trước tình hình đó, những tù nhân cộng sản quyết định tổ chức cuộc đấu tranh vạch trần tội ác của tên Môsin. Sau khi tranh luận sôi nổi, đa số các đồng chí quyết tâm tổ chức một cuộc đấu tranh với khẩu hiệu và hình thức linh hoạt khôn khéo, tập trung mũi nhọn vào tên Môsin, cô lập y, phân hoá hàng ngũ địch, kêu gọi tù nhân tham gia đấu tranh.
Theo kế hoạch đã định, sáng ngày 6-7-1943, đại biểu tù nhân yêu cầu gặp quản ngục Môsin, trực tiếp phản đối hành động vô cớ đánh đập, bắn giết tù nhân của y, tuyên bố không đi làm, chờ gặp Công sứ Đắk Lắk đến đưa yêu sách. Khi bọn Công sứ, giám binh và quản đạo vào nhà đày, đại biểu tù nhân nhắc lại lời tuyên bố và đưa hai bản yêu sách gửi Công sứ Đắk Lắk và Khâm sứ Trung Kỳ đòi trừng trị tên giết người Môsin. Yêu cầu nói trên của tù nhân không được thực hiện. Một giờ sau, tiếng hô khẩu hiệu "phản đối đánh đập bắn giết tù nhân", "Đả đảo tên giết người Môsin"... bằng tiếng Việt và tiếng Pháp vang dậy khắp các lao, có người còn viết khẩu hiệu bằng máu lên tường nhà lao. Trước hành động của tù nhân, bọn cai ngục ra lệnh đánh đập, khủng bố hòng đè bẹp tinh thần của những người tham gia đấu tranh. Mặc dù bị đàn áp, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy trong nhà đày, được sự giúp đỡ của những tù nhân không trực tiếp tham gia đấu tranh, được sự đồng tình của một số binh lính cuộc đấu tranh chống tên Mô sin bằng cách hò la, đưa yêu sách kéo dài hơn hai tuần lễ, ngày càng lôi kéo thêm nhiều tù nhân tham gia và chuyển lên mức độ quyết liệt hơn.
Hoảng sợ trước cuộc đấu tranh ngày càng lan rộng của tù nhân, bọn địch buộc phải nhượng bộ. Chúng không dám đánh đập tù nhân và buộc phải chuyển tên Môsin đi nơi khác.
Cuộc đấu tranh kiên quyết và kéo dài nhất của tù nhân Nhà đày Buôn Ma Thuột kết thúc thắng lợi. Thắng lợi đó đã thể hiện rõ sức mạnh của tổ chức, của sự đoàn kết, thống nhất về nội dung và phương pháp đấu tranh của tù nhân; đánh dấu sự trưởng thành mới về trình độ tổ chức đấu tranh của tù nhân, tạo đà cho những bước phát triển trong các lĩnh vực hoạt động tập thể của tù nhân.
- Tỉnh uỷ Đắk Lắk - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột (1930-1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 103-107.
NGÀY 3 - 8
Tù chính trị Nhà tù Sơn La vượt ngục
Từ năm 1943, phong trào cách mạng của nhân dân ta chuyển biến ngày càng mạnh mẽ đòi hỏi nhiều cán bộ có kinh nghiệm, có uy tín để chỉ đạo dẫn dắt quần chúng tiến lên. Do đó việc bố trí đưa một số cán bộ ra khỏi các nhà tù đế quốc trong đó có Nhà tù Sơn La, trở về tham gia lãnh đạo phong trào là một trong những yêu cầu bức xúc của Đảng ta lúc bấy giờ.
Nhận thức rõ yêu cầu của tình hình cách mạng, Chi bộ Nhà tù Sơn La quyết định tổ chức cho một số đồng chí vượt ngục vào mùa Thu năm 1943 để ra ngoài hoạt động. Rút kinh nghiệm từ lần chuẩn bị vượt ngục đợt 1 (dự định vào mùa hè năm 1943, song không thực hiện được), Ban chỉ đạo vượt ngục đề ra chủ trương: dựa vào chính mình và cơ sở quần chúng bên ngoài Nhà tù, tức tổ Thanh niên Cứu quốc Thái Mường La và một số đầu mối của chi bộ Đảng đang hoạt động bí mật tại toà Công sứ tỉnh Sơn La.
Kế hoạch vượt ngục, số người vượt ngục được đưa ra bàn bạc rất kỹ trong tập thể chi bộ, được đồng chí Tô Hiệu, được coi như cố vấn của chi uỷ tán thành. Những người vượt ngục là những người có tinh thần kiên định, mưu trí, có sức khoẻ tốt; có năng lực và tín nhiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, thận trọng, có quan hệ chặt chẽ với tổ Thanh niên Cứu quốc Thái Mường La, có kinh nghiệm sử dụng bản đồ, sa bàn, thông thạo đường đi lối lại, v.v... Theo kế hoạch, bốn đồng chí vượt ngục lần này gồm: Nguyễn Tuấn Đáng (tức Trần Đăng Ninh), Nguyễn Văn Trân (bí danh Diện), Lưu Đức Hiểu (tức Lưu Quyên), Nguyễn Lương Bằng (bí danh Sao Đỏ) sẽ chia thành hai nhóm, nhanh chóng vượt khỏi nhà tù bằng con đường và biện pháp khác nhau.
Sáng sớm ngày 3-8-1943, mặc dù trời mưa tầm tã, được sự bố trí khéo léo của những đồng chí ở lại, các đồng chí vượt ngục nhanh chóng vượt khỏi nhà giam an toàn. Vượt qua rất nhiều gian khổ, hiểm nguy và sự truy đuổi của kẻ thù, nhờ sự dẫn đường của anh Lò Văn Giá, một đoàn viên Thanh niên cứu quốc Thái1 bằng sự quyết tâm, trí thông minh, khéo léo, đến chiều ngày 14-8-1943, các đồng chí vượt ngục về tới Hà Đông, Hà Nội, bắt liên lạc với Thành uỷ Hà Nội và cơ quan liên lạc của Trung ương Đảng. Các đồng chí nhanh chóng được Đảng giao trách nhiệm phụ trách những công tác quan trọng của Đảng và của Xử uỷ Bắc Kỳ.
Cuộc vượt ngục ngày 3-8-1943 là cuộc vượt ngục tập thể có tổ chức thành công trọn vẹn đầu tiên của tù chính trị Sơn La. Nó đã cung cấp những cán bộ cách mạng lão luyện cho Đảng, để lại nhiều bài học kinh nghiệm về tổ chức và tiến hành vượt ngục; cổ vũ tù chính trị ở các nhà tù đế quốc tổ chức vượt ngục trong những năm sau. Đồng thời, nó cũng là một minh chứng cho sự bất lực của kẻ thù trước tinh thần và sự khôn khéo của các chiến sĩ cộng sản.
- Trần Đăng Ninh: Hai lần vượt ngục, Nxb. Văn học, Hà Nội 1970, tr. 5-23.
- Hồi ký Nguyễn Lương Bằng, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Viện Lịch sử Đảng: Ngục Sơn La, trường học đấu tranh cách mạng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 73-85.
NGÀY 25 - 8
Đồng chí Hoàng Văn Thụ bị địch bắt
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh phong trào đô thị của Đảng, từ đầu năm 1943, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, đặc trách công tác công vận và binh vận, thường xuyên vào Hà Nội để chỉ đạo các cán bộ cốt cán gặp gỡ giác ngộ, vận động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng, đặc biệt là trong công nhân và binh lính. Với sự cố gắng của đồng chí, nhiều cơ sở công vận, binh vận được hình thành và phát huy tác dụng.
Do người liên lạc bị mật thám Pháp bắt, không chịu nổi đòn tra tấn đã khai ra địa điểm liên lạc, nên vào ngày 25-8-1943, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị địch bố trí lực lượng đón bắt tại ngõ Năm Giệm, phố Tám Mái, Thành phố Hà Nội (nay thuộc Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội) khi đồng chí tới làm việc với cơ sở binh vận ở đây.
Qua khai báo và nhận diện của một số tên phản bội, trong đó có Nguyễn Thành Diễn, kẻ thù biết đồng chí Hoàng Văn Thụ là một cán bộ cao cấp của Đảng, quê ở Lạng Sơn. Để lung lạc tinh thần, buộc đồng chí phải khai ra cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, bọn mật thám đã dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, dã man, từ mua chuộc, dụ dỗ đến tra tấn cực hình như: tra điện, lộn mề gà, ngâm nước. Song, mọi thủ đoạn độc ác của kẻ thù vẫn không lung lạc, khuất phục được ý chí, tinh thần cách mạng của chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ. Trong cơn đau thể xác do kẻ thù tra tấn, đồng chí Hoàng Văn Thụ kiên cường bảo vệ Đảng, bảo vệ đồng chí, động viên mọi người nhớ đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên trên lợi ích cá nhân.
Không khuất phục nổi đồng chí Hoàng Văn Thụ, ngày 21-12-1943, thực dân Pháp mở "Toà án đại hình" kết án tử hình đồng chí. Đồng chí đã dùng phiên toà làm nơi luận tội kẻ thù, tuyên truyền đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng, kêu gọi các đồng chí của mình nuôi dưỡng tinh thần đấu tranh bền bỉ, tiêu diệt đế quốc, phát xít Pháp, Nhật, giải phóng đất nước.
Với tinh thần lạc quan của một người cộng sản, trước cái chết đang đến gần, đồng chí vẫn làm những vần thơ đầy dũng khí cách mạng, nhắn nhủ các đồng chí mình.
"Bạn hỡi xa gần hăng chiến đấu.
Trước, sau xin giữ tấm lòng thành".
Sáng ngày 24-5-1944, địch thi hành án tử hình đồng chí Hoàng Văn Thụ tại trường bắn Tương Mai. Đồng chí Hoàng Văn Thụ hy sinh anh dũng, để lại cho đồng chí, đồng bào những tiếng hô bất tử: "Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!".
Mười lăm năm sau, vào tháng 5-1959, trong bài “Viếng mộ anh Hoàng Văn Thụ”, đồng chí Trường Chinh viết về đồng chí Hoàng Văn Thụ là “Người cộng sản anh hùng - Đã cảm tử cho Đảng quyết sinh".
- Bài nói của đồng chí Trường Cho về Cách mạng Tháng Tám, lưu tại Viện Lịch sử Đảng
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn: Hoàng Văn Thụ, người chiến sĩ cộng sản kiên trung bất khuất, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Lạng Sản xuất bản, 1994, tr. 32-36.
NGÀY 10 - 9
Đồng chí Hồ Chí Minh ra tù, đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam cách mạng đồng minh Hội2
Sau hơn một năm vô cớ bắt và giam giữ đồng chí Hồ Chí Minh, âm mưu ngăn cản sự phát triển của phong trào Việt Minh bị thất bại, xét thấy việc sử dụng các tổ chức, đảng phái người Việt lưu vong ở Trung Quốc không có hiệu quả, chính quyền Tưởng Giới Thạch đã trả lại tự do cho đồng chí nhằm thực hiện âm mưu mới xúc tiến kế hoạch "Hoa quân nhập Việt”.
Thấu hiểu âm mưu của chính quyền Tưởng Giới Thạch, ngay sau khi được trả tự do, đồng chí Hồ Chí Minh bắt liên lạc ngay với Hội Giải phóng Việt Nam một bộ phận của Mặt trận Việt Minh ở Vân Nam (Trung Quốc). Người đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam cách mạng đồng minh Hội, nhằm tranh thủ và đoàn kết rộng rãi với những người Việt Nam yêu nước hoạt động ở Trung Quốc và cô lập bọn phản động giả danh “yêu nước", "cách mạng"; đồng thời từng bước thoát khỏi sự giám sát của chính quyền Tưởng Giới Thạch, bắt liên lạc trở về nước.
Do sự cố gắng của Người, Hội nghị đại biểu các tổ chức như Việt Minh, Hội Giải phóng Việt Nam, Việt Nam cách mạng đồng minh Hội, Phân hội Quốc tế phản xâm lược, Phục Việt, Đại Việt... được triệu tập. Hội nghị thông qua một bản tuyên ngôn kêu gọi đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài đứng lên đánh giặc, cứu nước, giành độc lập cho dân tộc. Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành, đồng chí Hồ Chí Minh được bầu làm Uỷ viên dự khuyết. Do bọn phản động như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam... tìm mọi cách phá hoại, nên trên thực tế, Ban Chấp hành nói trên không làm được việc gì đáng kể.
Trong khi tiếp xúc, đặt quan hệ với các tổ chức, cá nhân người Việt Nam sống ở Trung Quốc, đồng chí Hồ Chí Minh đã chắp liên lạc với Đảng ta để trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng.
Những hoạt động nói trên của đồng chí Hồ Chí Minh thể hiện rõ sự khôn khéo trong hoạt động cách mạng cũng như khả năng tập hợp lực lượng của Người.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 199-200.
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Trẻ 1999, tr. 98-102.
- Xanhtơny – Đối diện Hồ Chí Minh, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 10
Thành lập Ban Cán sự miền Đông Nam Kỳ
Đến cuối năm 1943, phong trào cách mạng ở khu vực miền Đông Nam Kỳ có sự tiến triển ngày càng mạnh mẽ. Tuy nhiên lúc này toàn vùng chưa có một cơ quan lãnh đạo thống nhất, gây nhiều khó khăn trong việc thống nhất lãnh đạo và chỉ đạo phong trào.
Nhận rõ tình hình đó, vào tháng 10-1943, các đồng chí do Trung ương phái vào cùng với một số đồng chí trong Nam lập ra Ban Cán sự miền Đông. Ban Cán sự gồm các đồng chí Lê Hữu Kiều, Nguyễn Hữu Ngoạn, Bùi Văn Dự, Trần Văn Trào, Lê Minh Định, Khương, Thế... Ban Cán sự phân công Nguyễn Hữu Ngoạn phụ trách liên lạc với các tỉnh và Trung ương qua hai đường dây song hành và biệt lập, Lê Minh Định phụ trách Sài Gòn, Lê Hữu Kiều liên lạc với các đồng chí miền Hậu Giang, chuẩn bị thành lập Ban Cán sự miền Tây.
Ban Cán sự miền Đông chủ trương: giữ liên lạc chặt với Trung ương xin chỉ thị và cán bộ, xúc tiến thành lập “Ban Cán sự Nam Kỳ” (tức Xứ uỷ lâm thời) và các tỉnh uỷ, đẩy mạnh xây dựng các đoàn thể Việt Minh, kiểm tra lại số vũ khí được chôn sau khởi nghĩa Nam Kỳ để báo cáo với Trung ương...
Để tuyên truyền, vận động quần chúng, Ban Cán sự miền Đông tiếp tục ra báo Giải phóng làm cơ quan tuyên truyền cho Việt Minh ở Nam Kỳ, do đồng chí Nguyễn Hữu Ngoạn và Trần Văn Trà phụ trách. Báo Giải phóng đặt cơ sở tại chợ Tân Định, chuyển từ in thạch sang in lytô, phát hành mỗi tháng một kỳ. Báo Giải phóng cũng được gửi ra Trung ương ở ngoài Bắc.
Sau khi thành lập, các đồng chí trong Ban Cán sự miền Đông tích cực hoạt động, bắt liên lạc với các cơ sở Đảng ở Ba Son, Trường Tiền (Sài Gòn), ở vùng Thủ Dần Một, chuẩn bị bắt liên lạc với các tỉnh Biên Hoà, Tây Ninh, Rạch Giá, Hà Tiên..., bắt liên lạc với các cơ sở Đảng ở Nam Kỳ; tiến hành thăm dò các nhóm trí thức ở Sài Gòn để tuyên truyền Việt Minh, vận động thành lập Đảng Dân chủ. Tuy nhiên vì cho rằng trong các trí thức ở Sài Gòn có người có quan hệ với Tờrốtkít nên cuộc vận động không đạt kết quả.
Sự ra đời và hoạt động của Ban Cán sự miền Đông là một biểu hiện cu thể cho tinh thần tích cực của các chiến sĩ động sản ở Nam Kỳ, báo hiệu một bước tiến mới của phong trào cách mạng các tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
- Toạ đàm “Tiền phong”, "Giải phóng”, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 10
Xứ uỷ Nam Kỳ được lập lại
Từ năm 1943, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ xuất hiện những điều kiện mới, sự khủng bố của địch giảm xuống, nhiều đảng viên vượt ngục hoặc mãn hạn tù trở về các địa phương tham gia hoạt động, các đồng chí tạm lánh cũng quay về. Các đồng chí còn lại bên ngoài đẩy mạnh khôi phục lại tổ chức. Một bộ phận đảng viên ở Nam Kỳ đã bắt được liên lạc với Trung ương. Tuy nhiên, phong trào cách mạng Nam Kỳ vẫn còn nhiều hạn chế nhất là sự thiếu vắng cơ quan lãnh đạo của toàn kỳ.
Nắm bắt được yêu cầu bức xúc đó, sau một thời gian gây dựng cơ sở, tổ chức được một số tỉnh uỷ, phân công người làm bí thư các tỉnh, lập các Liên Tỉnh uỷ miền Tây, miền Trung, miền Đông Nam Kỳ, các đồng chí vượt ngục Tà Lại (đầu năm 1941) cùng các đồng chí khác đã triệu tập Hội nghị vào tháng 10-1943 tại nhà ông hương trưởng Trần Vinh Hoài, xã Tân Thuận Bình (Chợ Gạo, Mỹ Tho) để lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ, đánh giá tình hình, đề ra chủ trương hoạt động.
Hội nghị nghiên cứu bài học xương máu năm 1940, Nghị quyết Hội nghị Trung ương (11-1939). Hội nghị chủ trương trong điều kiện chưa liên lạc được với Trung ương thì thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 6. Theo đó, nhiệm vụ cấp bách lúc này là giải phóng dân tộc, nhiệm vụ cách mạng điền địa tạm hoãn; cách mạng thành công sẽ lập Chính phủ cộng hoà...
Hội nghị quyết định: mặc dầu bị tổn thất nặng năm 1940, Nam Kỳ không được vắng mặt trong cuộc khởi nghĩa toàn quốc, cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ phải nổ ra trước hết và chủ yếu ở Sài Gòn - đầu não của địch, các tỉnh sẽ khởi nghĩa tiếp theo và đồng thời. Do đó, cần tập trung sức lực vào thành phố và vùng lân cận mà không xem nhẹ các tỉnh ở xa. Hội nghị cho rằng muốn nắm được Sài Gòn phải nắm được công nhân và thanh niên. Lực lượng công nhân có mạnh mới lôi kéo được các tầng lớp khác. Có nắm được thanh niên mới lôi kéo được tầng lớp tư sản, trí thức và tư sản dân tộc. Hội nghị đặt vấn đề “công nhân vận động" vào hàng chủ yếu và cấp bách.
Hội nghị bầu Xứ uỷ Nam Kỳ gồm 11 đồng chí, nhất trí cử Trần Văn Giàu làm Bí thư Xứ uỷ. Xứ uỷ lấy báo Tiền phong làm cơ quan tuyên truyền, chỉ đạo phong trào. Sau khi thành lập, Xứ uỷ Nam Kỳ phân công các uỷ viên và các địa phương công tác, hướng vào các đô thị, đặc biệt là Sài Gòn.
Sự ra đời của Xứ uỷ Nam Kỳ đánh dấu một bước phát triển quan trọng của phong trào cách mạng Nam Kỳ. Nó chứng tỏ Đảng bộ đã hoàn toàn hồi phục để lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập của nhân dân trong Xứ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.I.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1990.
- Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn – Chợ Lớn, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 10
Căn cứ địa Cao Bằng nối liền với Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai
Vào tháng 2 năm 1943, các đồng chí lãnh đạo của hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai họp tại Lũng Hoà (Hoà An, Cao Bằng) quyết định nối liền hai khu căn cứ, phát triển dần xuống trung du, đồng bằng để kết hợp với phong trào toàn quốc, giữ vững đường liên lạc với Ban Thường vụ Trung ương Đảng.
Thực hiện chủ trương đó, hai căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai khẩn trương xúc tiến việc đánh thông đường liên lạc, tạo dựng các hành lang chính trị nối liền hai khu.
Từ Cao Bằng, các phong trào Nam tiến, Đông tiến và Tây tiến tiếp tục đẩy mạnh. Phong trào Nam tiến thành lập 19 đội xung phong Nam tiến phát triển phong trào Việt Minh từ Cao Bằng xuống Bắc Cạn. Đến cuối năm 1943, các Đội xung phong Nam tiến tạo dựng và mở rộng các đoàn thể Việt Minh các dân tộc Ngân Sơn, Chợ Rã, Bạch Thông, Chợ Đồn (Bắc Cạn) tạo điều kiện ra đời của Khu Việt Minh Quang Trung, kéo dài từ Nguyên Bình (Cao Bằng) xuống Chợ Đồn (Bắc Cạn), tiếp giáp với Thái Nguyên, Tuyên Quang. Cũng trong thời gian này, phong trào Tây tiến thu được nhiều kết quả, thành lập được các đoàn thể Cứu quốc từ Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình lên Bảo Lạc, Thông Nông (Cao Bằng) sang Đường Thượng, Phố Cáo (Hà Giang), dẫn đến sự ra đời của Khu Thiện Thuật. Phong trào Đông tiến cũng phát triển sang phía Lạng Sơn.
Từ Bắc Sơn - Võ Nhai, các mũi Bắc tiến của Cứu quốc quân phát triển từ Bắc Sơn lên Tràng Định, (Lạng Sơn) và từ Đại Từ, Định Hoá, Sơn Dương, Yên Sơn lên Chợ Đồn (Bắc Cạn).
Vào tháng 10 năm 1943, các Đội Nam tiến từ Cao Bằng xuống, Bắc tiến từ Bắc Sơn - Võ Nhai lên, gặp nhau tại các địa điểm Nghĩa Tá (Chợ Đồn, Bắc Cạn), Phúc Lâm (Yên Sơn, Tuyên Quang), Phi Mỹ (Tràng Định, Lạng Sơn). Hai trung tâm Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai được nối liền.
Cùng với trung tâm mới hình thành Đại Từ - Định Hoá - Sơn Dương - Yên Sơn tạo thành thế liên hoàn, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Thắng lợi trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, biến chủ trương của đồng chí Hồ Chí Minh cũng như của Hội nghị Thường vụ Trung ương tháng 2-1943 về mở rộng các căn cứ địa cách mạng thành hiện thực; nó thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa ở Việt Bắc.
- Hoàng Quang Khánh, Lê Hồng, Hoàng Ngọc La: Căn cứ địa Việt Bắc, Nxb. Việt Bắc, 1976, tr. 57-65.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Khu tự trị Việt Bắc: Lịch sử Cứu quốc quân, Nxb Việt Bắc, 1975, tr 73-79.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
NGÀY 12 - 11
Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị bàn công tác phát triển phong trào cách mạng trong xứ
Tiếp theo Hội nghị An Đà (6-1943), ngày 12-11-1943, Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị bàn biện pháp củng cố tổ chức Đảng, chống khủng bố, phát triển phong trào đấu tranh của nhân dân.
Hội nghị kiểm điểm các công tác như thống nhất, củng cố và mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất; vận động công nhân; chuẩn bị khởi nghĩa; củng cố Đảng. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ: "Việc củng cố Đảng là việc mấu chốt để đi tới thực hiện những trách nhiệm kể trên". Hội nghị đề ra các công tác củng cố Đảng như các đảng bộ Liên tỉnh phải cung cấp cho Đảng một số cán bộ để bổ sung vào các ban chuyên môn; mở các lớp nghiên cứu cho các Ban cán sự tỉnh; huấn luyện cán bộ, bỏ những phần tử lười biếng do dự, tổ chức giao thông liên lạc chắc chắn, mau lẹ.
Nghị quyết đề cao công tác tổ chức quần chúng đấu tranh chống cướp thóc, chống mọi sự áp bức của phát xít Nhật, Pháp, cho đó là "công tác cần yếu để nâng cao tinh thần cách mạng của dân chúng và mở rộng Mặt trận". Nghị quyết vạch rõ các cuộc đấu tranh phải mở rộng từ nông thôn đến thành thị, từ bần cố nông cho đến địa chủ.
Nghị quyết Hội nghị cũng nêu lên những nguyên nhân chủ quan của cán bộ trong khi hoạt động bí mật để cho địch khủng bố, nhiều cơ sở bị vỡ, nhiều cán bộ bị bắt, đồng thời nêu ra những kinh nghiệm để chống khủng bố bảo vệ tổ chức Đảng.
Nghị quyết của Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ tháng 11-1943 đã thúc đẩy hơn nữa công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang của nhân dân các tỉnh ở Bắc Kỳ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 329, 331.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-1997.
CUỐI NĂM
Đảng thành lập thêm một số xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí
Trong công cuộc lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang, Đảng ta đã chú trọng công tác sắm sửa, sản xuất, sửa chữa vũ khí, đồ trang bị cho đội quân cách mạng.
Từ tháng 7-1940, trong quá trình chuẩn bị cuộc khởi nghĩa vào ngày 23-11-1940, Đảng bộ Nam Kỳ đã tổ chức một số cơ sở sản xuất vũ khí ở Tân An chế tạo súng vòi siêu, bom xi măng, dao, mác... phục vụ cho khởi nghĩa. Sau khi khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, thực hiện chủ trương sắm thêm vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa lần thứ hai, một cơ sở sản xuất vũ khí của Xứ uỷ được mở ở vùng U Minh Hạ (địa phận Bạc Liêu) để sản xuất vũ khí. Từ tháng 2-1941, cơ sở này chuyển về xã Vĩnh Thuận, giáp ranh tỉnh Rạch Giá và đến tháng 6-1941 đã sản xuất được 28 súng trường, 62 quả bom xi măng và nhiều bao đạn. Vì thiếu nguyên liệu nên xưởng sản xuất này phải tạm ngừng.
Cũng từ năm 1941, dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Đảng bộ Cao Bằng đã mở một xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí ở Hà Quảng, đồng thời lập đường dây liên lạc sang Côn Minh (Vân Nam - Trung Quốc) để mua sắm vũ khí chuyển về nước.
Cuối năm 1943, Đảng đẩy mạnh một bước công tác sắm sửa vũ khí để phục vụ cho phong trào đấu tranh ngày càng lên cao của nhân dân ta. Đảng giao cho một số đồng chí lập cơ sở sửa chữa vũ khí ở phố Từ Sơn và cơ sở chế tạo vũ khí ở làng Chè (Bắc Ninh). Ở Cao Bằng, cơ sở sản xuất ở Hà Quảng chuyển đến vùng núi Lam Sơn (châu Hoà An) gọi là "lò rèn lô cốt đỏ", xưởng sản xuất được một số bộc phá và lựu đạn đơn giản, dao, mác trang bị cho du kích.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), dưới sự chỉ đạo của Đảng, công nhân một số xí nghiệp ở Hà Nội, ở Nam Trung Kỳ tích cực chế tạo vũ khí cho các Đội tự vệ, du kích.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cao Bằng: Bác Hồ với căn cứ địa cách mạng Cao Bằng, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Cao Bằng xuất bản, 1995, tr. 91-92.
- Lưu Phương Thanh: Nam Kỳ khởi nghĩa, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990, tr. 48.
TRONG NĂM
Trung ương Đảng công bố Đề cương văn hoá Việt Nam
Trong công cuộc vận động giải phóng dân tộc, bên cạnh việc lãnh đạo nhân dân chuẩn bị lực lượng mọi mặt, tổ chức các cuộc đấu tranh trực diện với địch, Đảng rất chú trọng các công tác trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Để chống lại chính sách văn hoá phản động của phát xít Pháp - Nhật và tay sai của chúng, chống lại trào lưu lãng mạn có khuynh hướng cải lương, bi quan, bế tắc, các trường phái bí hiểm, trụy lạc, các tư tưởng đầu hàng, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi... vào năm 1943, Đảng ta đưa ra bản Đề cương văn hoá Việt Nam do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chính soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) vào tháng 2-1943.
Bản Đề cương vạch rõ: văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá), ở đó, người cộng sản phải hoạt động, do đó, phải làm cách mạng văn hoá và có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền mới có hiệu quả.
Sau khi nêu rõ nguy cơ của nền văn hoá Việt Nam dưới ách cai trị của Pháp - Nhật, Đề cương đã phân tích mối quan hệ giữa cách mạng chính trị với cách mạng văn hoá, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với cách mạng văn hoá nhằm mục đích xây dựng một nền văn hoá xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề cương văn hoá vạch rõ nhiệm vụ trước mắt của các nhà văn hoá yêu nước Việt Nam là phải chống lại văn hoá phát xít, phong kiến lạc hậu, nô dịch, văn hoá ngu dân, phỉnh dân; xây dựng nền văn hoá dân chủ mới với ba tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời không những trang bị cho toàn Đảng và trước hết cho những người hoạt động văn hoá một cương lĩnh cách mạng văn hoá dân chủ mới để chiến thắng bọn phát xít Nhật - Pháp trên mặt trận văn hoá và tư tưởng, mà còn vạch ra một phương châm đúng đắn xây dựng nền văn hoá cách mạng ở nước ta. Những luận điểm đầy tính thuyết phục trong Đề cương có sức mạnh thức tỉnh và tập hợp rộng lớn giới trí thức Việt Nam vào sự nghiệp cứu quốc dưới ngọn cờ của Đảng.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 89.
- Hội Nhà văn Việt Nam: Một chặng đường văn hoá, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985, tr. 15-20.
- Đề cương về văn hoá Việt Nam, chặng đường 60 năm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr. 520-528.
TRONG NĂM
Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức các lớp huấn luyện quân sự
Nhằm tăng cường lực lượng vũ trang, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã mở một số lớp huấn luyện quân sự cấp tốc đào tạo cán bộ quân sự cho các địa phương trong xứ.
Tháng 11-1943, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã mở một lớp huấn luyện quân sự tại Đồng Báng, tổng Quỳnh Lưu (Nho Quan, Ninh Bình), do đồng chí Trần Tử Bình, Xứ uỷ viên phụ trách. Tham dự lớp học có 20 học viên của các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình. Sau khi dự khoá huấn luyện, các học viên trở về các địa phương mở các lớp ngắn ngày, huấn luyện cho cán bộ cơ sở.
Tiếp theo lớp huấn luyện trên, vào cuối năm 1943, Xứ ủy Bắc Kỳ mở một lớp huấn luyện quân sự cho một số cán bộ quan trọng chủ chốt của các tỉnh, của xứ. Tham dự lớp học có các đồng chí Hạ Bá Cang, Trần Tử Bình, Lê Quang Đạo, Trần Thị Minh Châu, đồng chí Vũ Nháp- Bí thư Ban Cán sự tỉnh Vĩnh Yên, đồng chí Vũ Thơ - Bí thư Ban Cán sự lâm thời Ninh Bình... Trong khoá học này, đồng chí Hạ Bá Cang giảng về phần chính trị, đồng chí Trần Tử Bình giảng về phần quân sự. Mặc dù số lượng không nhiều, thời gian mở lớp không kéo dài, các khoá huấn luyện quân sự của Xứ uỷ Bác Kỳ đã góp phần cung cấp một bộ phận cán bộ quân sự cho phong trào, qua đó thúc đẩy công cuộc chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang trong xứ ngày càng đi tới.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996. t. I.
- Vai trò của các Xứ ủy trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-1997.
TRONG NĂM
Nông dân các địa phương đấu tranh chống chính sách vơ vét, cướp bóc của phát xít Nhật và chính quyền thuộc địa
Trước chính sách áp bức, bóc lột ngày càng gia tăng của phát xít Nhật, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng, Mặt trận Việt Minh, nông dân nhiều địa phương đã đứng lên đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống địch cưỡng ép nhổ lúa trồng đay, đòi giảm tô, giảm tức...
Đầu năm 1943, dưới sự hướng dẫn của các chi bộ Đảng, nông dân Ninh Bình đấu tranh chống lại việc quân đội Nhật bắt phu đi đào sông Yên Mô phục vụ cho mục đích quân sự của chúng. Những người bị bắt đi đào sông đã làm ẩu, làm dối, phá huỷ dụng cụ hoặc bỏ về hàng loạt làm cho thời gian đào sông của Nhật bị kéo dài.
Tháng 2-1943, được Chi bộ Đảng Nhà tù Sơn La chỉ đạo, nhân dân xã Chiềng Xim (Mường La, Sơn La) đấu tranh đòi giảm thuế, giảm ruộng chức, bớt đóng góp kho thóc; tố cáo sự hà lạm tham nhũng của phìa tạo và chức dịch trong xã.
Tháng 4-1943, nhân dân Cổ Bi (Gia Lâm, Bắc Ninh)3 dùng gậy gộc, dao mác chống lại lính Nhật khi chúng về làng ép dân nhổ ngô trồng đay. Hoảng sợ trước sức đấu tranh kiên quyết của dân làng, lính Nhật buộc phải rút lui. Cũng trong thời gian này, nhân dân Võ Giàng (Bắc Ninh) gồm trẻ, già, trai gái, cả chức dịch trong làng đoàn kết đấu tranh chống lại lính Nhật khi chúng đến làng bắt dân phá ngô để chuẩn bị trồng đay. Hoảng sợ trước khí thế của dân làng, lính Nhật buộc phải rút lui.
Tháng 5-1943, hơn 1000 dân phu làm sân bay Gia Lâm đình công phản đối lính Nhật vô cớ đánh chết một phụ nữ làm phu.
Tháng 7-1943, nhân dân làng Thái Hoà (Chương Mỹ, Hà Đông)4 đoàn kết chống lại bọn quan lại và binh lính khi chúng đến làng thu thóc, buộc chúng phải rút lui.
Tháng 10-1943, được sự chỉ đạo của Ban Cán sự Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, nông dân Liễu Khê (Thuận Thành, Bắc Ninh) đã cương quyết đấu tranh không nộp thóc theo lệnh của tri phủ Thuận Thành. Dân chúng cử người mang đơn có chữ ký, điểm chỉ của hàng trăm người lên phủ xin miễn. Tên tri phủ không chấp nhận, cho lính về giúp lý trưởng thu thóc. Nông dân chống lại, bọn lính phải rút đi.
Tháng 11-1943, ở phủ Hoằng Hoá (Thanh Hoá), thực dân Pháp tập trung 1.500 người tại phủ lỵ để chọn lựa ra 500 phu khoẻ mạnh giao cho Nhật. Khoảng 3000 người ở địa phương liền biểu tình, vây phủ đường, kiên quyết đòi trả lại chồng con mình. Khi lính đẩy người bị bắt lên xe, nhân dân xô tới bám lấy xe, nằm ra đường cản xe, giằng lại người bị bắt. Kết quả, đã giải thoát được một số người.
Tháng 12-1943, nhân dân làng Thổ Phụ (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) dùng cào, cuốc ra ngăn cản lính Nhật về làng cắm đất, buộc chúng phải rút lui.
Vào cuối năm 1943, được Đảng bộ huy động, nông dân các làng Ngọc Trục, Vạn Phúc, La Khê, La Cả, Đại Mỗ (vùng Nam Hoài Đức, Hà Đông)5 đã gửi hơn 7.000 đơn cá nhân, tập thể cho quân Nhật, phản đối kế hoạch xây dựng sân bay của chúng trong vùng. Trước sức đấu tranh của nhân dân, bọn Nhật phải bỏ kế hoạch xây dựng sân bay.
Cũng vào cuối năm 1943, được cán bộ cách mạng vận động, hàng loạt dân phu Nghệ An làm đường số 14 bỏ trốn.
Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng ở Việt Bắc, các cuộc đấu tranh của nông dân ngày càng quyết liệt có nhiều người tham gia, với nhiều hình thức phong phú, ảnh hưởng tích cực đến các tầng lớp khác.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 140.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930-1954), Thanh Hoá, 2000.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh : Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t. I.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939- 1945),Nxb. Sử học, Hà Nội, 1963, t.III, tr. 148-149.
TRONG NĂM
Công nhân các thành phố, hầm mỏ đồn điền đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống sa thải thợ
Dưới chính sách áp bức, bóc lột của đế quốc phát xít Pháp - Nhật, đời sống của công nhân Việt Nam ngày càng cơ cực khốn đốn. Được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp bộ Đảng, giai cấp công nhân Việt Nam từng bước phát huy vai trò tiên phong của mình, phục hồi tổ chức đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống sa thải thợ.
Từ tháng 3 đến tháng 6-1943, công nhân, viên chức các xí nghiệp ờ Hà Nội, Việt Trì, Đáp Cầu, Đông Anh, Bắc Giang, Ngân hàng Đông Dương... tiến hành nhiều cuộc đấu tranh đòi tăng lương, đòi bán gạo, vải, diêm, xà phòng.
Tháng 5-1943, công nhân tàu thuỷ tuyến Nam Định - Hà Nội bãi công.
Tháng 12-1943, công nhân ở các Nhà in IDEO, Lê Văn Tân, Tin mới, Ácxion (Action), Minh Sang, công nhân Hãng xe STAI, công nhân Nhà máy tơ Nam Định bãi công đòi tăng lương và hầu hết giành được thắng lợi.
Theo báo Cờ giải phóng, cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ năm 1943 đến năm 1944, riêng ở Hà Nội có 18 cuộc đình công, bãi công đòi tăng lương. Ở các nơi khác như Bắc Ninh, Hải Phòng, Kiến An, Uông Bí, Nam Định, Việt Trì... công nhân đều tổ chức bãi công hoặc đưa yêu sách đòi tăng lương.
Ở Nam Bộ, theo thống kê của chính quyền thuộc địa, từ tháng 5-1942 đến 6-1943 có 24 cuộc đấu tranh của công nhân.
Dù số lượng chưa nhiều, song các cuộc đấu tranh của công nhân đã phục hồi, trở thành yếu tố để tập hợp, động viên các tầng lớp xã hội khác, nhất là ở thành thị tham gia vào phong trào đấu tranh cách mạng, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Công sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb. Sử học, Hà Nội, 1963, t .III, tr. 109.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 87.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb Hà Nội, 2004.
TRONG NĂM
Đảng lãnh đạo phong trào trí thức, thanh niên, học sinh yêu nước và tiến bộ ở các thành phố lớn
Tháng 2-1943, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương đề ra chủ trương thúc đẩy, mở rộng phong trào Việt Minh, chú trọng công tác ở thành thị. Tháng 10-1943, Xứ uỷ Nam Kỳ lập lại, đặt nhiệm vụ vận động tầng lớp thanh niên, trí thức, học sinh vào hàng cấp bách.
Thực hiện chủ trương của Đảng. các Đảng bộ trong các thành phố, đô thị lớn đã chú ý nắm bắt, lãnh đạo, thúc đẩy phong trào trí thức, thanh niên, học sinh, hướng phong trào vào con đường cứu quốc.
Tại Hà Nội, cùng với việc lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân nông dân, Đảng bộ đã quan tâm tới các hình thức tổ chức của sinh viên, học sinh, trí thức như "Hội Truyền bá chữ quốc ngữ", "Hội Hướng đạo”, các hội "Đoàn rồng", “Đoàn du lịch", "Hội chuối", các nhóm hoạt động như thể thao, du lịch các nhóm nghiên cứu lịch sử, địa lý... đưa cán bộ vào các tổ chức đó để hoạt động, tuyên truyền chủ trương, đường lối cứu quốc của Việt Minh, chọn lọc các phần tử tiến bộ đưa vào tổ chức.
Tại Sài Gòn, sau khi thành lập, Xử uỷ Nam Kỳ từng bước nắm lấy phong trào thanh niên, học sinh đang tập trung quanh báo Thanh niênxuất bản công khai do Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hải Trừng... tổ chức. Các đồng chí chọn những trí thức tiến bộ có tên tuổi như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Nguyễn Khắc Thú, kỹ sư Kha Vạng Cân, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, sinh viên Kiều Công Cung, Trần Bửu Kiếm... để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, qua họ lôi kéo trí thức, học sinh, sinh viên vào hàng ngũ cách mạng, chọn lọc quần chúng ưu tú kết nạp Đảng...
Tại Hải Phòng, được sự vận động của cán bộ Việt Minh, các nhóm hoạt động xã hội, nhiều nhóm thanh niên học sinh, trí thức dần dần tham gia phong trào. Một số nhạc sĩ trẻ đã sáng tác những bài hát yêu nước, tiến bộ như "Trên sông Bạch Đằng", "Đàn chim Việt", "Thăng Long hành khúc" phổ biến nhanh chóng trong thanh niên, học sinh. Cuối năm 1943, Đề cương văn hoá Việt Nam được truyền đến Hải Phòng, càng thúc đẩy tầng lớp trí thức thanh niên, học sinh gia nhập vào phong trào Cứu quốc.
Phong trào trí thức, thanh niên, học sinh yêu nước và tiến bộ trong các thành phố lớn đã góp phần làm cho phong trào thành thị từng bước hoà nhập với phong trào cả nước.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb Hải Phòng, 1991, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 199, tr. 94.
____________
1. Sau khi dẫn đường cho các chiến sĩ vượt ngực, trở về địa phương, anh Lò Văn Giá bị địch bắt và sát hại. Sau này, Lò Văn Giá được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng và trang nhân dân Việt Nam.
2. Việt Nam cách mạng đồng minh Hội là một tổ chức của người Việt Nam ở Trung Quốc thuộc nhiều đảng phái được sự hiệp trợ của Đệ tứ chiến khu. Tháng 7-1942, đã có một uỷ ban trù bị gồm 28 đại biểu của các đoàn thể, do Nguyễn Hải Thần làm Chủ nhiệm. Đại hội thành lập tổ chức vào ngày 1-10-1942. Quốc dân Đảng Trung Quốc muốn nắm tổ chức này để phục vụ cho ý đồ Hoa quân nhập Việt, sau ngày thành lập, tổ chức này vẫn năm bè bảy mối, rời rạc, bê bối. Trương Phát Khuê, Tư lệnh Đệ tứ chiến khu quyết định cải tổ Đồng minh Hội, để đồng chí Hồ Chí Minh tham gia công tác lãnh đạo.
3. Nay thuộc Hà Nội.
4,5. Nay thuộc tỉnh Hà Tây.
Năm 1944 THÁNG 1
Hội nghị Quân chính Bắc Kỳ
Để thúc đẩy công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân chính Bắc Kỳ vào tháng 1-1944.
Hội nghị được tổ chức tại làng Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Hạ Bá Cang, Văn Tiến Dũng, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Trân, Ngô Thế Sơn, Lưu Đức Hiếu... Đồng chí Hạ Bá Cang, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng chủ trì Hội nghị.
Hội nghị kiểm điểm sự phát triển của các đoàn thể Cứu quốc; việc tổ chức các Đội tự vệ vũ trang, việc xây dựng các căn cứ quân sự ởnhững nơi có tổ chức Đảng vững, quần chúng giác ngộ.
Hội nghị đề ra các biện pháp phát triển công tác công vận, binh vận; đặt vấn đề đẩy mạnh quân sự hoá các đoàn thể quần chúng, trước hết là các Đội tự vệ. Hội nghị cũng chủ trương tiếp tục mở các lớp huấn luyện quân sự cho các Xứ uỷ viên, Tỉnh uỷ viên, Thành uỷ viên để tổ chức huấn luyện quân sự trong các địa phương.
Tiếp sau Hội nghị của Xứ ủy Bắc Kỳ (tháng 11-1943), Hội nghị Quân chính Bắc Kỳ lần này đã cụ thể hoá hơn nữa công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt thúc đẩy phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ đi tới.
- Vai trò của các Xứ uỷ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945), lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 2
Mặt trận Việt Minh Việt Bắc xuất bản cuốn Kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc
Từ sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941), dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các cán bộ Trung ương, phong trào cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang phát triển vô cùng mạnh mẽ. Từ thực tế phát triển của phong trào cách mạng trong vùng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã đúc rút ra những kinh nghiệm quý báu, biên soạn thành cuốn Kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc, được Mặt trận Việt Minh ở Việt Bắc xuất bản vào tháng 2-1944.
Nội dung cuốn sách chứa đựng một cách toàn diện những kinh nghiệm phong phú của phong trào Việt Minh ở Việt Bắc trên tất cả các mặt hoạt động, công tác như:
Trong công tác tuyên truyền như ra báo Việt Nam độc lập, tổ chức hát những bài hát cách mạng, tổ chức triển lãm lưu động, nêu gương anh hùng dân tộc, tổ chức Đội tuyên truyền xung phong...
Trong việc tổ chức các giới vào các Hội Cứu quốc, với các hệ thống tổ chức dọc ngang, chặt chẽ; phát triển đi liền với củng cố, chú ý tổ chức huấn luyện cho cán bộ và quần chúng.
Trong công tác vận động phụ nữ, thanh niên, binh lính, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số. Nói tới phong trào Việt Minh ở Việt Bắc chính là nói tới sự tham gia cách mạng sôi nổi của đông đảo đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông, nói tới kết quả to lớn của công tác vận động cách mạng.
Tác giả cuốn sách cũng trình bày những kinh nghiệm đối phó với bọn phản động, mật thám, chống khủng bố của phong trào Việt Minh ở Việt Bắc như giáo dục quần chúng giữ bí mật, thực hiện "ba không”, huấn luyện chống khủng bố, thành lập đội xung phong chống khủng bố, kinh nghiệm về công tác chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa ở Việt Bắc như xây dựng lực lượng vũ trang trên cơ sở lực lượng chính trị, từ đấu tranh chính trị tiến lên đấu tranh vũ trang, kết hợp chặt chẽ hai hình thức ấy.
Tác giả cuốn sách kết luận: kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc rất phong phú, nhưng trước hết là kinh nghiệm một tổ chức rộng rãi. Chính nhờ lãnh đạo khéo léo và thích hợp mà Việt Minh ở Việt Bắc đã phát huy được lực lượng dân chúng để gây một phong trào Cứu quốc mạnh mẽ và chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang sắp tới một cách đầy đủ.
Với những kinh nghiệm quý báu được đúc kết, cuốn Kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc đã cống hiến những bài học thiết thực về xây dựng tổ chức phong trào cho cán bộ Việt Minh toàn quốc.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1920-1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, t. I, tr. 578-580.
TỪ NGÀY 5 ĐẾN NGÀY 7 - 3
Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ ra Nghị quyết phát triển phong trào cách mạng
Để tăng cường công tác lãnh đạo công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trong xứ, từ ngày 5 đến ngày 7-3- 1944, Xử uỷ Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị cán bộ tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp chủ trì. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Trân, Lê Quang Đạo, Nguyễn Khang, Lê Liêm... Hội nghị ra Nghị quyết tăng cường lãnh đạo phát triển phong trào cách mạng trong xứ tiến lên đáp ứng với yêu cầu của tình hình.
Nghị quyết Hội nghị kiểm điểm tình hình thế giới, tình hình trong nước, tình hình Đảng bộ Bắc Kỳ, cho rằng, mặc dù bị khủng bố, Đảng bộ Bắc Kỳ vẫn phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nghị quyết cũng chỉ rõ những hạn chế của Đảng bộ Bắc Kỳ về mặt tổ chức, về công tác lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng.
Nghị quyết nhấn mạnh những âm mưu của Nhật trong việc chuẩn bị hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông Dương; đề ra nhiệm vụ vạch trần âm mưu của Nhật, thực thi các biện pháp đấu tranh chống phát xít Nhật và tay sai.
Nghị quyết đề cao công tác chuẩn bị khởi nghĩa, cho đó “là một việc hết sức khẩn thiết trong lúc này". Nghị quyết đề ra các biện pháp xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa như: tổ chức, phát triển, chấn chỉnh các Đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, sửa soạn vũ khí, tổ chức cơ sở trong binh lính đế quốc.
Nghị quyết cũng chú trọng công tác mở rộng và củng cố cơ sở Đảng ở các địa phương, các xí nghiệp, ở những nơi chưa có phong trào; phải tăng cường công tác huấn luyện cán bộ, công tác bí mật bảo vệ Đảng.
Nghị quyết còn nêu lên những nhiệm vụ cấp thiết trong vận động các giới, thống nhất Mặt trận Cứu quốc Việt Nam, trong tuyên truyền để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa phong trào đấu tranh của nhân dân.
Nghị quyết kêu gọi: "Đảng đang đòi hỏi ở các đồng chí tinh thần cương quyết hy sinh, hăng hái hoạt động (...) chỉ có công tác mới đảm bảo cho vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng. Chỉ có công tác mới là thực tế, mới đưa ta tới chỗ thành công".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính tri quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.333-347.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-1997.
ĐẦU NĂM
Tù nhân chính trị Hoả Lò đấu tranh đòi cải thiện đời sống
Đầu năm 1944, tin tức về sự phát triển của phong trào cách mạng trong nước và những chiến thắng của Hồng quân Liên Xô dội vào Nhà tù Hoả Lò làm cho tinh thần của tù chính trị được củng cố. Trên cơ sở đó, các đồng chí tù chính trị chủ trương tổ chức đấu tranh đòi địch phải cải thiện đời sống cho tù nhân.
Rút kinh nghiệm các cuộc đấu tranh trước, cuộc đấu tranh được chuẩn bị chu đáo, bàn bạc thống nhất và có sự chỉ đạo chặt chẽ. Việc bố trí lực lượng đấu tranh ở từng trại được bàn định kỹ lưỡng, những đồng chí có tinh thần cao được chọn vào những trại mà địch có thể khủng bố mạnh.
Chuẩn bị xong đại diện tù chính trị đưa bản yêu sách cho giám ngục đòi bọn cai ngục không được cho ăn gạo mục, tù chính trị được cử đại biểu trực tiếp giám sát cân cơm để chống nhà thầu cắt xén tiêu chuẩn; buổi sáng phát thêm cháo cho người ốm; không được cho ăn rau già và mắm thối; phát thêm quần áo để chống rét.
Ban giám ngục lừng chừng, viện cớ có chiến tranh, không giải quyết. Tù chính trị tuyên bố tuyệt thực đấu tranh đòi thực hiện cho bằng được những yêu sách đề ra. Trước tinh thần kiên quyết của tù nhân, sau ba ngày rưỡi kể từ ngày cuộc đấu tranh nổ ra, địch tuyên bố chấp nhận những yêu sách của tù nhân. Chúng đưa thêm cơm và khoai lang vào bữa ăn hàng ngày; đồng thời anh em tù được mua các thứ ở bên ngoài và được nhận quà của người nhà gửi vào; mỗi người còn được nhận thêm một bộ quần áo cũ. Nhờ đó, đời sống anh em được cải thiện, bệnh tật giảm dần, số người chết do bệnh tê phù chấm dứt.
Qua cuộc đấu tranh, tình thương và sự đoàn kết giữa anh em tù chính trị ngày càng được nâng cao. Những tên giám ngục kính nể và không dám hách dịch như trước.
- Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại Nhà tù Hỏa Lò (1899-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 149-150.
ĐẦU NĂM
Tù chính trị tại các nhà tù Hoà Binh, Sơn La vượt ngục
Sau cuộc vượt ngục thắng lợi của các tù nhân cộng sản ở Nhà tù Sơn La (8-1943), Xứ uỷ Bắc Kỳ, cùng các chi bộ Đảng, các chiến sĩ trong các nhà tù đế quốc càng chú trọng công tác vượt ngục.
Vào đầu năm 1944, hoảng sợ về những cuộc "nổi loạn" mới của tù chính trị, Thống sứ Bắc Kỳ quyết định phân tán một số tù chính trị ở Sơn La đi Hà Nội, Côn Đảo và các nơi khác, trong đó có một đoàn được đưa về Hà Nội để chuẩn bị đày ra Côn Đảo. Khi đến Chợ Bờ, nhận thấy kẻ địch áp tải lơ là tù nhân, chi uỷ lãnh đạo đoàn tù nhanh chóng chớp thời cơ đề ra chủ trương tìm mọi cách đưa một số đồng chí thoát khỏi đoàn tù để trở về đội ngũ hoạt động của Đảng. Đồng chí Bí thư chi bộ Ngô Ngọc Du liền bí mật chỉ thị cho các đồng chí Trần Quốc Cư (tức Diện), Nguyễn Khang (tức Đệ), Trần Độ (tức Phách) nhanh chóng trốn khỏi đoàn tù. Lập tức, ba đồng chí nhanh chóng tách khỏi đoàn tù men dọc theo bờ sông Đà tìm được con đò dọc về xuôi đến bến Mía, Sơn Tây. Ngày hôm sau, các đồng chí bắt liên lạc được với Xứ uỷ Bắc Kỳ và nhận nhiệm vụ mới.
Cũng trong thời gian này, được sự móc nối chỉ đạo của Xứ uỷ Bắc Kỳ, các đồng chí Bùi Quang Tạo, Lê Quốc Thân, Đặng Kim Giang, Hưng Nguyện tổ chức trốn khỏi Nhà tù Hòa Bình ra ngoài tham gia công tác.
Chỉ trong một thời gian ngắn, nhiều cán bộ đảng viên trốn thoát khỏi các nhà tù đế quốc. Thắng lợi ấy đã cổ vũ tinh thần của các đồng chí còn bị giam trong các nhà tù đế quốc; tăng cường thêm cán bộ cho phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi.
- Viện Mác - Lênin, Viện Lịch sử Đảng: Ngục Sơn La, trường học đấu tranh cách mạng, Nxb. Thông tin lý luận Hà Nội, 1992, tr. 85-91.
- Tài liệu Hội thảo khoa học về Cách mạng Tháng Tám khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, 1995, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
ĐẦU NĂM
Đảng Cộng sản Đông Dương xúc tiến thành lập Mặt trận chống phát xít Nhật - Pháp
Nhằm mục đích tập hợp hết thảy các lực lượng và khả năng chống phát xít trên đất Đông Dương, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp và Mặt trận Dân chủ chống Nhật ở Đông Dương, đoàn kết với Hoa kiều chống Nhật, bắt tay có điều kiện với người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương.
Thực hiện chủ trương đó, đầu năm 1944, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh, "Đội công tác" của Đảng tiến hành móc nối, liên lạc với một số người thuộc Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản mang quốc tịch Đức, Áo, Pháp, Ba Lan đang làm việc trong quân đội Pháp và trong giới công chức Pháp ở Việt Nam. Đến giữa năm 1944, những người nói trên tập hợp trong nhóm "xã hội - cộng sản" có nhiệm vụ liên lạc với Việt Minh và vận động binh lính Pháp. Qua nhóm này, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Mình mở rộng tiếp xúc với những người phái tả trong Đảng Xã hội Pháp và những người thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương.
Tháng 11-1944, Trung ương Đảng tổ chức một cuộc gặp mật giữa đại diện của ta với đại diện một số người cộng sản trong quân đội lê dương của Pháp, đại biểu phái tả Đảng Xã hội Pháp và đại biểu phái Đờ Gôn ở Đông Dương bàn chủ trương thống nhất hành động chống phát xít Nhật - Pháp.
Do bản chất ngoan cố và tư tưởng sợ Nhật của họ, chủ trương liên minh có điều kiện với những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn để lập Mặt trận chống phát xít ở Đông Dương của Đảng ta không thực hiện được.
Nhìn nhận về vấn đề này đồng chí Trường Chinh viết: "Phái Đờ Gôn vẫn còn khư khư chủ nghĩa đế quốc".
- Ngọn cờ giải phóng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.22.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 290-297
ĐẦU NĂM
Trung ương Đảng thành lập An toàn khu (ATK) dự bị
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa, xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn, do yêu cầu khách quan, bức xúc của tình hình cách mạng, Đảng ta đã lập một khu an toàn xung quanh Hà Nội, thuộc các tỉnh Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Hà Đông, gọi là An toàn khu (ATK) chính thức hay ATK I, làm nơi đóng cơ quan Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cơ quan trung ương, bảo đảm cho sự hoạt động của các cơ quan thuộc Trung ương không bị gián đoạn, ngoài An toàn khu I, Trung ương Đảng còn kiến tạo một khu an toàn thứ hai gọi là An toàn khu dự bị (ATK II), ở vùng đất nằm ôm lấy hai bờ sông Cầu, bao gồm hầu hết các xã của huyện Hiệp Hoà (tỉnh Bắc Giang), một phần huyện Phú Bình và một phần huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) dùng làm nơi tạm lánh của Trung ương khi An toàn khu chính bị địch khủng bố, là nơi tổ chức các cuộc hội nghị, mở lớp huấn luyện cán bộ, nơi đặt cơ quan in ấn và là đầu mối giao thông liên lạc đi các nơi. Để xây dựng An toàn khu dự bị này, từ cuối năm 1941 đầu năm 1942, Trung ương đã từng bước xây dựng cơ sở, chuyển một số cơ quan về đặt ở Phổ Yên, Hiệp Hoà, Phú Bình. Đầu 1944, Trung ương chính thức công nhận khu an toàn dự bị.
Với một vị trí cơ động, thuận tiện, với một phong trào cách mạng sâu rộng, vững chắc, An toàn khu II đã trở thành một trong những nơi đứng chân quan trọng của cơ quan đầu não, góp phần đưa cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc đến thành công.
- Bài nói chuyện của đồng chí Trường Chinh với Thường vụ Thành ủy Hà Nội về Dự thảo lịch sử Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội, lưu tại Viện Lịch sử Đảng
- Bài nói chuyện của đồng chí Trường Chinh về Cách mạng Tháng Tám, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Hồi ký Nguyễn Lương Bằng, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Nhân chứng và sự kiên, số 44 (8-1997).
- Bắc Giang – những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 139.
- Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hiệp Hoà: Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Hiệp Hoà (1938-1945), 1985, t. I, tr. 72-73.
THÁNG 4
Thành lập Tổng Công đoàn Nam Kỳ
Từ cuối năm 1943, sau khi thành lập, Xứ uỷ Nam Kỳ đẩy mạnh công tác vận động công nhân, xây dựng các tổ chức công đoàn chủ yếu là ở vùng Sài Gòn - Chợ Lớn.
Từ bảy người trong Ban Công vận, các tổ chức của công nhân như công đoàn và các hình thức biến tướng như “Nghiệp đoàn”, "Hội ái hữu”, "Hội tương tế” được thành lập và phát triển trong các khu phố, trong các xí nghiệp lớn như Ba Son, Phen, Faxi, Simắc, các ngành thợ cắt tóc thợ giày, thợ thủ công lẻ tẻ... Đến cuối năm 1944, vùng Sài Gòn - Chợ Lớn đã có 40 công đoàn xí nghiệp với 5.000 đoàn viên. Ban Công vận Xứ uỷ mở sáu hiệu buôn để tạo kinh phí hoạt động. Tiệm ăn Ánh Long ở đại lộ Galiêni được dùng làm nơi liên lạc của các cơ sở công đoàn, công nhân.
Để thống nhất chỉ đạo phong trào công đoàn, công nhân, vào tháng 4-1944, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Nam Kỳ, 20 đại biểu các tổ chức công đoàn họp tại Hãng thuốc lá MIC thành lập Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Nam Kỳ.
Sự ra đời của Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Nam Kỳ đánh dấu bước phát triển mới của phong trào công nhân Sài Gòn và Nam Kỳ. Cùng với sự phát triển của các tổ chức công nhân, phong trào đấu tranh của công nhân Nam Kỳ phát triển ngày càng mạnh mẽ.
- Tìm hiểu Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr. 542.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
- Công nhân Sài Gòn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1986.
NGÀY 7 - 5
Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa
Trước tình hình cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai phát triển theo chiều hướng có lợi cho cách mạng nước ta, để thú đẩy việc chuẩn bị lực lượng tiến tới chớp thời cơ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị Về sửa soạn khởi nghĩa.
Nội dung Chỉ thị gồm năm điểm:
1. Ai xông ra đánh quân thù?
2. Lấy gì mà đánh?
3. Đánh bằng cách gì?
4. Đánh vào lúc nào sẽ thắng?
5. Làm thế nào đẩy mạnh phong trào tiến tới khởi nghĩa?
Chỉ thị nêu rõ: người ra đánh quân thù là bộ đội du kích, Đội tự vệ cứu quốc, tiểu tổ du kích, do đó, phải "hết sức phát triển và thống nhất các Đội tự vệ sẵn có và tổ chức những Đội tự vệ mới", phải tuyển "những phần tử hăng hái, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, can đảm, tổ chức ra những tiểu tổ du kích (...), phải tuyển một số chiến sĩ can đảm và khoẻ mạnh nhất để (...) tham gia các bộ đội du kích chính thức". Chỉ thị yêu cầu các đội viên tự vệ, du kích phải sắm sửa những vũ khí để đánh, để phá hoại như dao, gậy, giáo, cuốc chim, kìm, súng, bom đạn; phải tổ chức "ngày mua súng , lập "quỹ mua súng"... Chỉ thị đề ra cách đánh du kích và chỉ rõ thời gian lãnh đạo quần chúng nổi dậy là vào lúc quân thù chia rẽ hoang mang, đoàn thể Cứu quốc và chiến sĩ cách mạng đã quyết tâm nổi dậy, nhân dân đã nhiệt liệt tán thành khởi nghĩa...
Để quán triệt sâu rộng hơn nữa tinh thần bản Chỉ thị, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh viết bài "Hãy nắm lấy khâu chính" đăng trên báoCờ giải phóng, số 6 (ngày 25-7- 1944) tóm tắt thành năm việc cốt yếu để thi hành Chỉ thị nói trên của Tổng bộ Việt Minh.
Bài viết của đồng chí yêu cầu các địa phương ra sức phát triển các tổ chức tự vệ, tổ chức thêm bộ đội chiến đấu; huấn luyện cán bộ quân sự; tìm hết cách sắm sửa vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, vận động binh lính; làm cho chiến thuật khởi nghĩa phổ biến trong các tổ chức cách mạng và trong nhân dân.
Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh và bài viết của đồng chí Tổng Bí thư đã thúc đẩy phong trào chuẩn bị khởi nghĩa của nhân dân ta tiến lên mạnh mẽ hơn nữa.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 491-502.
- Ngọn cờ giải phóng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974, tr. 101-103.
NGÀY 24 - 5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định kết nạp Lớp đảng viên Hoàng Văn Thụ
Tháng 8 năng 1943, trong khi vào nội thành Hà Nội để hoạt động công tác công vận và binh vận, đồng chí Hoàng Văn Thụ, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng bị địch bắt. Sau khi dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, tra tấn dã man vẫn không khuất phục được khí tiết cách mạng của chiến sĩ cộng sản Hoàng Văn Thụ, chính quyền thuộc địa đã tử hình đồng chí tại trường bắn Tương Mai (Hà Nội) vào ngày 24- 5 -1944.
Đồng chí Hoàng Văn Thụ hy sinh là một tổn thất lớn cho Đảng, cho phong trào cách mạng nước ta. Để tưởng nhớ người chiến sĩ cách mạng ưu tú, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định kết nạp một lớp đảng viên lấy tên "Hoàng Văn Thụ”, nhằm thu hút những người tiên tiến trong các đoàn thể Cứu quốc vào Đảng, làm cho hàng ngũ của Đảng thêm vững mạnh.
Trung ương Đảng ra thông cáo nêu rõ: "cái chết của đồng chí Hoàng Văn Thụ chứng tỏ rằng quân thù càng sắp tới ngày giãy chết càng tàn nhẫn gấp bội. Cái chết của đồng chí Hoàng Văn Thụ còn chứng tỏ rằng quân thù rất sợ Đảng ta và tinh thần phấn đấu của các đồng chí ta. Mỗi đảng viên chết đi phải được muôn nghìn đảng viên mới nối chí. Các đảng bộ phải tổ chức thêm một lớp đảng viên mới gọi là Lớp Hoàng Văn Thụ”.
Đợt kết nạp đảng viên mang tên Hoàng Văn Thụ kết thúc vào tháng 11-1944.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 7, tr. 513.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn: Hoàng Văn Thụ - người chiến sĩ cộng sản kiên trung bất khuất, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Lạng Sơn xuất bản, 1994, tr. 34-35.
NGÀY 30 - 6
Thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam
Để phát triển và tăng cường lực lượng cách mạng trong mọi lĩnh vực trên các địa bàn, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) chủ trương mở rộng hơn nữa. Mặt trận Dân tộc thống nhất (tức Mặt trận Việt Minh), liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước chưa gia nhập Việt Minh nhằm mục tiêu giải phóng, độc lập dân tộc.
Từ phương hướng đó, Đảng chú trọng tìm hiểu khả năng, nguyện vọng của tầng lớp trí thức, dẫn dắt họ vào con đường đấu tranh. Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản sau một thời gian chuẩn bị, ngày 30-6-1944, một số trí thức yêu nước và tiến bộ hoạt động ở Hà Nội tổ chức một cuộc họp tại làng Thanh Xuân (trên đường Hà Nội - Sơn Tây) thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam. Dự Hội nghị có tám đại biểu, trong đó có Dương Đức Hiền (luật sư) Cù Huy Cận (kỹ sư canh nông), Huỳnh Bá Nhung (bác sĩ)1. Có tài liệu viết Dương Đức Hiền là người đứng đầu Đảng Dân chủ Việt Nam khi mới thành lập. Mục tiêu, tôn chỉ của Đảng Dân chủ Việt Nam là đấu tranh cho độc lập dân tộc, tự do dân chủ, dân sinh hạnh phúc. Đảng hoạt động trong giới sinh viên, trí thức, tiểu tư sản lớp trên. Ngay sau khi ra đời, Đảng Dân chủ Việt Nam tự nguyện đứng vào hàng ngũ Việt Minh, hoạt động theo Chương trình của Mặt trận Việt Minh.
Đảng Dân chủ Việt Nam thành lập, trở thành thành viên của Mặt trận Việt Minh, làm cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít thêm sân rộng tạo điều kiện để Đảng tranh thủ tầng lớp trung gian, làm thất bại âm mưu của phát xít và tay sai định lôi kéo tư sản dân tộc và tầng lớp trí thức Việt Nam
Đánh giá về Đảng Dân chủ Việt Nam, đồng chí Nguyễn Văn Linh (nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI) khẳng định: “Sau khi ra đời, Đảng Dân chủ lập tức đúng vào hàng ngũ Mặt trận sát cánh với Đảng Cộng sản Việt Nam và các đoàn thể Cứu quốc đoàn kết lại cùng nhau cứu nước cứu nhà. Sự ra đời của Đảng Dân chủ Việt Nam là một trong những sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ của phong trào cách mạng nước ta".
Do những đóng góp to lớn trong thời kỳ vận động Cách mạng Tháng Tám, cũng như trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng Dân chủ Việt Nam đã được Hội đồng Nhà nước tặng Huân chương Sao vàng cao quý.
Sau cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, đất nước thống nhất, Đại hội Đại biểu Đảng Dân chủ Việt Nam lần thứ V, họp từ ngày 18 đến ngày 20-10-1988 tại Hà Nội đã tổng kết quá trình lịch sử cống hiến của Đảng với cách mạng Việt Nam và tuyên bố Đảng kết thúc hoạt động.
- Báo Nhân dân, số 12519, ngày 22-10-1988.
- Bài nói chuyện của đồng chí Trường Chính về cuốn Lịch sử Đảng bộ Hà Nội, lưu tại Viện lịch sử Đảng.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản đến cách mạng thành công (1939- 1945), Nxb. Sử học Hà Nội, 1963, t. III, tr. 165-166.
- Từ điển Bách khoa Việt Nam, Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, t. I, 1995, tr. 729.
GIỮA NĂM
Kỳ bộ Việt Minh Nam Kỳ ra đời
Từ cuối năm 1941, các đoàn thể quần chúng được thành lập theo Điều lệ của Mặt trận Việt Minh đã xuất hiện ở vùng ngoại ô Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, một số nơi ở Gia Định. Từ đầu năm 1942, các tỉnh Gia Định, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Tân An, Trà Vinh, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc đã nhận được Chương trình, Điều lệ của Mặt trận Việt Minh và bước đầu xây dựng các đoàn thể "Thanh niên Cứu quốc", “Phụ nữ Cứu quốc”, "Nông dân Cứu quốc"...
Từ năm 1943, cùng với sự ra đời và hoạt động của Ban cán sự miền Đông, phong trào Việt Minh ở Nam Kỳ có bước phát triển mới. Theo các thông báo của Việt Minh ở Nam Bộ (các ngày 31-8, 30-9-1943) thì "Các đoàn thể của Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) hầu hết đều có phát triển tính chung lại gần 30 phần trăm và tiếp tục phát triển nữa".
Để đẩy mạnh công tác Mặt trận hơn nữa, giữa năm 1944, các đồng chí trong Ban Cán sự miền Đông Nam Kỳ quyết định thành lập Kỳ bộ Việt Minh Nam Kỳ. Báo Giải phóng là cơ quan của Việt Minh ở Nam Kỳ. Nội dung của báo bao gồm các bài viết phân tích tình hình thế giới, phản ánh đời sống quần chúng dưới ách Pháp - Nhật, phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân chống âm mưu của phát xít Nhật; tuyên truyền chủ trương Điều lệ của Việt Minh. Ngoài ra, báo còn đăng các bài về văn hoá, xã hội, thơ ca... giáo dục quần chúng theo đường lối cứu quốc của Đảng. Báo còn có nhiều bài bày tỏ quan điểm, tranh luận với các đồng chí thuộc nhóm Tiền phong.
Sau khi Kỳ bộ Việt Minh Nam Kỳ ra đời, cơ sở của Mặt trận Việt Minh đã phát triển lan rộng ở cả ba miền Đông, Trung và Tây Nam Kỳ, bắt đầu lan vào các đồn điền, xí nghiệp và một số nơi trong các đô thị. Tuy nhiên, Việt Minh Nam Kỳ đến thời điểm đầu 1945 vẫn phát triển chủ yếu ở nông thôn, trong nông dân và ngay trong tầng lớp này cũng không thu hút được đông đảo.
- Biên bản toạ đàm "Tiền phong", "Giải phóng", lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn - Chợ Lớn, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh 1930-1954, sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Mmh, 1995, t.1.
GIỮA NĂM
Xứ uỷ Nam Kỳ tổ chức truyền đạt chủ trương, đường lối của Đảng cho thanh niên trí thức yêu nước và tiến bộ ở Sài Gòn, Nam Kỳ
Sau khi thành lập (10-1943) với chủ trương nắm vững lực lượng công nhân thu hút tập hợp tầng lớp thanh niên trí thức vào hàng ngũ cách mạng, Xứ uỷ Nam Kỳ từng bước thâm nhập vào các phong trào công khai của trí thức, thanh niên học sinh để hoạt động.
Để tăng cường ảnh hưởng trong với trí thức, thanh niên, học sinh, lôi cuốn ngày càng đông đảo tầng lớp này tham gia vào phong trào cách mạng, từ giữa năm 1944, Xứ uỷ Nam Kỳ chọn những trí thức sinh viên có tên tuổi yêu nước và tiến bộ ở Sài Gòn và các tỉnh để truyền đạt chủ nghĩa Mác – Lênin, các vấn đề của cách mạng Đông Dương. Từ những trí thức như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Nguyễn Khắc Thư, trạng sư Thái Văn Lung, kỹ sư Kha Vạng Cân, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, các sinh viên Huỳnh Văn Tiểng, Kiều Công Cung, Trần Bửu Kiếm... những tư tưởng và đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã bám rễ và lan toả trong tầng lớp trí thức, thanh niên, sinh viên, học sinh ở Sài Gòn và Nam Kỳ, lôi kéo họ tham gia vào hàng ngũ cách mạng.
Cũng qua các lớp huấn luyện chính trị và qua phong trào đấu tranh cách mạng, Xứ uỷ Nam Kỳ chọn lựa những quần chúng ưu tú trong giới trí thức, sinh viên học sinh để kết nạp vào Đảng, bổ sung vào lực lượng lãnh đạo cách mạng ở Nam Kỳ.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb Sử học, Hà Nội 1963, t. III, tr. 166.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1990.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 95, 96.
NGÀY 10 - 8
Mặt trận Việt sinh ra Lời kêu gọi "Sắm vũ khí! Đuổi thù chung!"
Để tăng cường sức chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên, ngày 10 8-1944, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi nhân dân sắm sửa vũ khí ủng hộ cách mạng và chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.
Trong Lời kêu gọi, Mặt trận Việt Minh nêu rõ sự tàn bạo của đế quốc phát xít Pháp, Nhật đối với nhân dân ta; chỉ rõ muốn cứu nước, cứu nhà phải "gấp nổi dậy giết giặc”, muốn giết giặc "phải có vũ khí”.
Lời kêu gọi chỉ rõ: muốn có vũ khí đánh giặc, trong mấy năm qua Mặt trận Việt Minh đã cổ động đồng bào, binh lính mang khí giới của giặc về với cách mạng, “lấy súng thù bắn thù”. Song, trước tình hình chuyển biến mạnh mẽ, không thể chỉ chú ý vào cách lấy súng của kẻ thù mà còn phải tự sắm sửa để trang bị cho các đội du kích nổi dậy khi có đủ thời cơ. Ngoài việc tự sản xuất vũ khí, lực lượng vũ trang cần thiết phải mua vũ khí tinh xảo của nước ngoài; trong đó việc góp tiền mua vũ khí phải là việc chung của tất cả các giới đồng bào yêu nước.
Lời kêu gọi hô hào nhân dân góp tiền vào quỹ mua súng của Mặt trận Việt Minh, giúp Việt Minh mua vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang cách mạng.
Lời kêu gọi nêu rõ: "Thời cơ đang thúc giục ta, những đội quân du kích của Việt Minh đã đặt bao nhiêu hy vọng vào lòng sốt sắng yêu nước của chúng ta. Đồng bào hãy tìm các tổ chức Việt Minh các nơi mà trao tiền cho quỹ mua súng". "Một đồng tiền quyên cho quỹ mua súng” lúc này (...) là một viên gạch để xây đắp lâu đài Độc lập cho dân tộc Việt Nam".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t .7, tr. 503-505.
THÁNG 8
Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ bàn việc phân định các chiến khu ở miền Bắc
Đến giữa năm 1944, phong trào cách mạng của nhân dân ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Căn cứ địa Cao Bằng đã nối liền với căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, tạo nên động lực mới cho phong trào cách mạng Việt Bắc.
Để thúc đẩy phong trào cách mạng đi tới, vào tháng 8- 1944, Trung ương Đảng Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị Quân sự tại Kha Sơn, Phú Bình, Thái Nguyên, thuộc An toàn khu II (ATK II) để bàn việc thành lập, phân định các chiến khu ở miền Bắc. Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hạ Bá Cang, Nguyễn Khang, Trương Văn Lệnh, Lý Thế Sơn, Chu Văn Tấn, Lưu Quyên... Hội nghị phân tích tình hình thế giới, trong nước, tình hình phát triển của phong trào ở Việt Bắc. Hội nghị cho rằng: phong trào cách mạng phát triển sâu rộng, mạnh mẽ nhất là các vùng Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Các nơi như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái... phong trào cũng đã phục hồi và phát triển. Hội nghị quyết định thành lập bốn chiến khu ở miền Bắc. Chiến khu I gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, có nhiệm vụ phát triển cơ sở sang biên giới, giữ liên lạc với biên giới; phát triển cơ sở, bắt liên lạc với Bắc Giang, Thái Nguyên; khống chế đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn và đường số 4. Chiến khu II gồm Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, một phần Lạng Sơn, một phần Phú Thọ, một phần Vĩnh Yên. Chiến khu này sẽ phân thành hai phân khu lấy sông Cầu làm ranh giới. Phân khu A (khu Quang Trung) từ Tả ngạn sông Cầu vùng Nhã Nam, Hiệp Hoà lên Bắc Sơn, Võ Nhai, tiếp giáp với Bắc Cạn. Phân khu B (khu Nguyên Huệ) ở Hữu ngạn sông Cầu gồm các châu, phủ: Phú Lương, Đại Từ, Định Hoá, nửa Đồng Hỷ (Thái Nguyên), Nam Chợ Mới, Chợ Đồn, thị xã Bắc Cạn (Bắc Cạn), Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), Lập Thạch (Vĩnh Yên). Nhiệm vụ của Chiến khu II là xây dựng căn cứ, phát triển cơ sở, đánh thông đường liên lạc với Chiến khu I, khống chế đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Lào Cai và các quốc lộ 1, 2, 3; tích cực xây dựng và phát triển Cứu quốc quân, tự vệ chọn đầu; huấn luyện phổ cập quân sự cho quần chúng Việt Minh. Chiến khu III gồm Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá một phần Sơn Tây, có nhiệm vụ khống chế đường xe lửa Hà Nội - Thanh Hoá, quốc lộ 1. Chiến khu IV gồm Móng Cái, Hải Ninh, Hòn Gai, Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên, Hải Dương, có nhiệm vụ liên lạc với Trung Quốc, khống chế vùng duyên hải Đông Bắc.
Ngoài ra, Hội nghị còn bàn biện pháp xúc tiến các công tác tuyên truyền, sản xuất, mua sắm vũ khí, đào tạo cán bộ...
Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, tháng 8-1944, đánh dấu một bước phát triển mới về năng lực tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng liên hoàn, làm đòn bẩy thúc đẩy phong trào cách mạng đi lên.
- Những ý kiến về Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Sự kiện và nhân chứng, số 44, tháng 8-1997.
TỪ THÁNG 8 ĐẾN THÁNG 10
Tù chính trị ở Bá Vân, Chợ Chu thoát ngục trở về tham gia lãnh đạo phong trào
Sau những cuộc vượt ngục của các chiến sĩ cộng sản ở Nhà tù Sơn La, Hoà Bình vào cuối năm 1943 đầu năm 1944, Trung ương Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ càng đẩy mạnh công tác móc nối liên lạc, tổ chức cho các chiến sĩ cách mạng bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc thoát ngục ra ngoài hoạt động.
Ngày 21-8-1944, sau khi chuẩn bị chu đáo, Chi bộ Căng Bá Vân tổ chức cho tám đồng chí: Hà Kế Tấn, Trần Kiên, Khoát Hổ, Phạm Bá Thoan, Hoàng Đức Viên, Nguyễn Danh Đích, Nông Văn Đô, Bùi Văn Hách vượt ngục an toàn. Xứ uỷ Bắc Kỳ cử người đón các đồng chí về cơ sở.
Tại Căng Chợ Chu, nhận được chỉ thị của Xứ uỷ, Chi uỷ Nhà tù thảo luận kỹ chọn người đủ tiêu chuẩn, tổ chức vượt ngục. Vào sáng ngày 11-10-1944, 12 đồng chí được chọn thoát ngục gồm Nhị Quý, Dương Quốc Chính, Song Hào, Hoàng Bá Sơn, Vũ Anh Sinh, Chu Nhữ, Phạm Ngọc Bổng (tức Chì), Nguyễn Cao (tức Kháng), Tạ Xuân Thu, Lê Trung Đình, Nguyễn Văn Tý, Trần Đình Thìn (tức Mộc) đi làm như thường lệ. Lợi dụng sơ hở của địch, các đồng chí chạy vào rừng, theo đường vạch sẵn đến nơi hẹn, bắt liên lạc với Xứ uỷ, trở về các địa phương tham gia công tác.
Sau 1 năm kể từ tháng 8-1943 đến tháng 10-1944, ở Bắc Kỳ đã có gần 40 cán bộ từ trong các nhà tù trại giam thoát ra ngoài, bổ sung túc lượng lãnh đạo cho phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi ở các địa phương.
- Việc Mác – Lênin, Viện Lịch sử Đảng: Ngục Sơn La, trường học đấu tranh cách mạng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội 1992, tr. 91.
- Hội thảo Cách mạng Tháng Tám khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, 1995, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Song Hào: Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970, tr. 15-26.
CUỐI THÁNG 9
Đồng chí Hồ Chí Minh về nước chỉ thị đình chỉ chủ trương phát động chiến tranh du kích của các tỉnh Cao - Bắc - Lạng
Từ giữa năm 1944, trên cơ sở nhận định tình hình và cho rằng điều kiện đã chín muồi để phát động chiến tranh du kích, các đồng chí lãnh đạo ở Cao - Bắc - Lạng đề ra kế hoạch chuẩn bị mọi mặt trong hai tháng, thành lập Uỷ ban quân sự để phát động cuộc khởi nghĩa bộ phận trong vùng.
Trong khi các tỉnh Cao-Bắc-Lạng đang tích cực chuẩn bị thực hiện chủ trương nói trên, vào tháng 9 - 1944, đồng chí Hồ Chí Minh về tới các cơ sở cách mạng vùng biên giới Việt - Trung, giáp địa phận Cao Bằng. Biết tin Người trở về, đồng chí Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đến gặp. Sau khi nghe hai đồng chí Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh báo cáo tình hình và chủ trương phát động chiến tranh du kích (thực chất là phát động khởi nghĩa bộ phận) của các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, đồng chí Hồ Chí Minh quyết định hoãn việc phát động chiến tranh du kích của các tỉnh này. Người phân tích: chủ trương ấy mới chỉ căn cứ vào tình hình Cao - Bắc - Lạng, chưa căn cứ vào tình hình toàn quốc, tức chỉ thấy bộ phận mà không thấy toàn thể. Trong nước, nhiều nơi chưa sẵn sàng khởi nghĩa, cán bộ, vũ khí còn phân tán, thiếu một lực lượng nòng cốt. Trong tình hình ấy, nếu phát động chiến tranh du kích quy mô thì sẽ thất bại, vì bọn đế quốc sẽ tập trung lực lượng đàn áp. Đồng chí Hồ Chí Minh chỉ rõ, lúc này thời kỳ cách mạng phát triển hoà bình đã qua nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Do đó, nếu chúng ta chỉ hoạt động trong vùng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào cách mạng đi tới. Nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Người phân tích đã đến lúc cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này, chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tìm một hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành công.
Từ sự phân tích lý do để hoãn việc thực hiện chủ trương phát động chiến tranh du kích của các tỉnh Cao - Bắc - Lạng, đồng chí Hồ Chí Minh đề ra phương châm kết hợp hình thức đấu tranh chính trị và quân sự để đẩy mạnh phong trào, tạo điều kiện tiến tới khởi nghĩa.
Chủ trương đúng đắn, kịp thời của đồng chí Hồ Chí Minh đã tránh cho các tỉnh Cao - Bắc - Lạng những tổn thất, tạo điều kiện cho phong trào ở các tỉnh Việt Bắc có những phát triển mới trong giai đoạn sau này.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 22.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 84-85.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb, Sử học, Hà Nội, 1963, t. III, tr. 145.
THÁNG 10
Thư của đồng chí Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước thông báo chủ trương của Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc
Tháng 9-1944, đồng chí Hồ Chí Minh trở về nước trong khi phong trào cách mạng đang diễn ra sôi nổi. Với nhãn quan chính trị sắc bén, trù liệu trước những thuận lợi và khó khăn của phong trào cách mạng, để tập trung cao độ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, đặt cơ sở pháp lý cho chính quyền cách mạng sắp ra đời, đồng chí Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước thông báo chủ trương của Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc.
Trong thư, sau khi báo cáo với toàn thể đồng bào, đồng chí sự trở về bình yên của mình, Người phân tích ngắn gọn nhưng sâu sắc tình hình thế giới: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng” và nhấn mạnh “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa”. Từ sự phân tích đó, Người khẳng định muốn đón cơ hội giải phóng dân tộc thì phải có một “cơ cấu đại biểu”, một tổ chức đại diện cho toàn thể dân tộc, “Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”. Muốn vậy, cơ cấu ấy phải do cuộc "toàn quốc đại biểu đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra". Người thiết tha kêu gọi các đảng phái và các đoàn thể ra sức chuẩn bị, cùng nhau thảo luận để tổ chức cuộc toàn quốc đại hội ngay trong năm 1944.
Với tinh thần khẩn trương, đồng chí Hồ Chí Minh đã bắt đúng mạch thời cuộc. Qua bức thư này, Người chỉ ra một cách đúng đắn tình hình và nhiệm vụ cấp bách của cách mạng nước ta lúc này.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 352-353.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3, tr. 505-506.
NGÀY 25-10
Tổng bộ Việt Minh gửi thư cho các đoàn thể cách mạng Việt Nam ở ngoài nước kêu gọi đoàn kết cứu quốc
Tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân vào cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập cho dân tộc, Đảng ta không chỉ vận động đồng bào trong nước mà còn chú ý đến đồng bào ta làm ăn, sinh sống ở Trung Quốc, Thái Lan và các đoàn thể cách mạng của kiều bào ở ngoài nước.
Ngày 25-10-1944, Tổng bộ Việt Minh gửi thư cho đồng bào và đoàn thể cách mạng Việt Nam ở nước ngoài kêu gọi đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.
Bức thư nêu lên truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân ta trong lịch sử, vạch rõ cảnh khổ nhục của dân tộc ta trong tình cảnh "một cổ hai tròng". Bức thư khẳng định: từ khi đế quốc đặt chân lên đất nước ta, dân tộc ta liên tiếp chiến đấu, nhưng sự nghiệp cứu nước vẫn chưa thành (...) vì ta còn rời rạc (...) muốn tự cứu phải thống nhất". Bức thư viết” Bài học thiêng liêng của lịch sử đã dạy ta muốn độc lập cần phải thống nhất", "chúng ta mau xếp lại thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp"; phải “gạt bỏ thành kiến đảng phái, đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên hết thảy, dịch lại cùng nhau, đặng đúc thành một khối cứu quốc vô địch”.
Bức thư kêu gọi: "Thời cuộc biến chuyển mau lẹ (...). Phải mau thống nhất các lực lượng cách mạng trong ngoài và để kịp tập trung sức chiến đấu và bố trí những sức chiến đấu ấy theo một kế hoạch duy nhất (... ). Phải mau thống nhất các lực lượng cách mạng trong ngoàidưới một danh hiệu chung để kịp kêu gọi nhân dân ra trường chiến đấu cho có hiệu quả... để thoả thuận về chương trình xây dựng một nước Việt Nam hùng cường và tiến bộ, sau khi quét sạch quân thù Nhật, Pháp ra khỏi nước".
Cuối cùng, Tổng bộ Việt Minh nêu rõ: "Chúng tôi nóng lòng trông đợi thư triệu tập toàn quốc đại hội của các đồng chí hải ngoài và xin nguyện trước bàn thờ Tổ quốc đem hết tinh thần và nghị lực ra chiến đấu cho dân tộc được thống nhất, đặng giành lấy hạnh phúc, độc lập và tự do".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 506-510.
NGÀY 11-11
Chi bộ Đảng ở Võ Nhai lãnh đạo cuộc đấu tranh chống địch khủng bố
Theo sự phân chia của Uỷ ban Quân chính Bắc Kỳ, Võ Nhai là một trong sáu huyện của Phân khu A thuộc Chiến khu Hoàng Hoa Thám. Tại đây có một chi bộ gồm các đảng viên ở địa phương và trong đơn vị Cứu quốc quân. Ban Chỉ huy đơn vị Cứu quốc quân cũng đóng tại đây.
Vào cuối tháng 9 đầu tháng 10-1944, Pháp cho lính và mật thám về Võ Nhai khủng bố bắt một số cán bộ và hội viên Cứu quốc. Chi bộ ở đây chủ trương cho những người bị lộ lánh mặt để bảo toàn cơ sở, đồng thời tổ chức cuộc mít tinh lớn có gần 300 người dự để kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ trương diệt mật thám đầu sỏ. Quân Pháp càng tăng cường khủng bố bắt bớ lung tung.
Trước tình hình đó, ngày 10-11-1944, toàn thể chi bộ và một số cán bộ cốt cán họp tại đình Nà Phải đề ra chủ trương: cho Tự vệ Cứu quốc, thanh niên cốt cán thoát ly vào rừng, cất giấu lương thực, bắt hàng loạt mật thám, thành lập các đội chiến đấu trinh sát, tiếp tế, tuyên truyền địch vận; các đội chiến đấu của Cứu quốc quân có nhiệm vụ phục kích địch đi càn quét, đánh đồn hoặc trạm gác của địch; cắt đường liên lạc của chúng.
Thực hiện chủ trương của chi bộ Đảng, ngày 11-11-1944, Cứu quốc quân phá huỷ cầu gỗ ở kilômét 25, cắt đứt đường liên lạc của địch từ Thái Nguyên đi Đình Cả. Sáu lần địch cho liên lạc đi đều bị ta bắt. Tiếp đó, các đội quân cảm tử liên tiếp diệt Việt gian thu vũ khí của lính dõng, đánh trạm gác của địch ở Quang Thái...
Hoảng sợ trước hoạt động của ta, địch tập trung lực lượng từ Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang kéo đến đàn áp. Ngày 12-11, địch cho 700 lính khố đỏ từ Thái Nguyên lên Đình Cả bị khoảng 20 chiến sĩ Cứu quốc quân chặn đánh ở La Hoá, diệt 10 tên, làm bị thương một số tên khác.
Lực lượng Cứu quốc quân còn đánh địch ở dốc Đỏ, hang Mỏ Gà, chặn ô tô và bắn bị thương tên tuần phủ tỉnh Thái Nguyên dẫn quân Pháp đi khủng bố nhân dân... Cứu quốc quân vừa đánh địch, vừa bảo vệ cho đồng bào sơ tán vào rừng lánh giặc.
Qua một thời gian chiến đấu, lực lượng Cứu quốc quân từ vài người ở biên giới trở về với một ít súng, giáo mác, dao găm đã phát triển lên tới gần 200 chiến sĩ với gần 60 súng trường. Tuy nhiên cuộc chiến đấu anh dũng của Cứu quốc quân dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng đứng trước nhiều khó khăn: địch huy động nhiều lực lượng tăng cường khủng bố, đốt nhà, đốt thóc, tập trung dân, cô lập dân với Cứu quốc quân. Cứu quốc quân và nhân dân ở trong rừng gặp nhiều khó khăn, nhất là về lương thực; liên lạc với Ban Chỉ huy Phân khu A và với cấp trên bị cắt đứt...
Đúng lúc đó, Trung ương Đảng cử cán bộ về giúp đỡ, mang theo chỉ thị chuyển hướng đấu tranh để bảo vệ phong trào, bảo toàn lực lượng. Hơn 100 chiến sĩ Cứu quốc vượt vòng vây xuống Yên Thế, Đại Từ.
Tiếp theo cuộc Khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), cuộc chiến đấu của Cứu quốc quân và nhân dân Võ Nhai dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng đã thể hiện rõ tinh thần tiến công địch của nhân dân Việt Bắc.
- Hoàng Quang Khánh, Lê Hồng, Hoàng Ngọc La: Căn cứ địa Việt Bắc, Nxb. Việt Bắc, 1976, tr. 83-90.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Bắc Thái, 1980, t.I.
THÁNG 12
Đồng chí Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Tháng 10-1944, cùng với việc hoãn phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc - Lạng, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ ra một phương thức đấu tranh mới thúc đẩy phong trào cách mạng đi tới: “từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song, chính trị còn trọng hơn quân sự".
Thực hiện chủ trương đó, trên cơ sở lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, đồng chí Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thi hành Chỉ thị này.
Về tên và phương châm hoạt động của Đội, Người chỉ rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền".
Về tổ chức lực lượng của Đội, Chỉ thị nhấn mạnh: "sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực". Bản Chỉ thị khẳng định: “Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên".
Về quan hệ với lực lượng vũ trang địa phương, bản Chỉ thị vạch rõ: "đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.
Về chiến thuật: "vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung".
Người căn dặn: "phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được. Tổ chức Đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo".
Đồng chí Trường Chinh viết: “Bản Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là một tài liệu ngắn gọn, súc tích, có tính chất cương lĩnh quân sự của Đảng ta, bao gồm những vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng, như kháng chiến toàn dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang và phương châm xây dựng ba thứ quân của lực lượng vũ trang, phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng vũ trang nhân dân".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 356-357.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 131-134.
- Trường Chính: Hồ Chủ tịch và những vấn đề quân sự của cách mạng Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1971, tr 8-9.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12- 1992.
NGÀY 22 - 12
Thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Thực hiện chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, vào lúc 17 giờ ngày 22-12-1944, tại núi Dền Sinh dãy Khau Giáng thuộc xã Tam Kim và Hoa Thám, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập.
Trong buổi lễ, trước đại diện của các tỉnh Cao - Bắc - Lạng và đông đảo đồng bào Tày, Nùng, Dao, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và đồng chí Hồ Chí Minh ủy nhiệm, tuyên bố thành lập Đội và vạch rõ nhiệm vụ của Đội với Tổ quốc. Dưới lá cờ đỏ sao vàng, Đội long trọng tuyên thệ 10 lời thề danh dự; trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, đối với Đảng; hết lòng phục vụ nhân dân, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt quân thù; sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng; ra sức đoàn kết và nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh của quân đội cách mạng...
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có 34 đội viên, trong đó có 4 người dân tộc Kinh 20 người là dân tộc Tày. 8 người là dân tộc Nùng 2, 1 người dân tộc Mông, 1 người dân tộc Dao Tiền, có 28 người quê ở Cao Bằng, 2 người quê ở Quảng Bình 1 người quê ở Lạng Sơn, 2 người quê ở Thái Nguyên, 1 người quê ở Thái Bình và hoàn toàn là nam giới. 34 đội viên là những đồng chí trung kiên nhất của các đội vũ trang Cao - Bắc - Lạng, một số trong đội quân Nam tiến; một số trong Cứu quốc quân, có người đã đi học quân sự ở nước ngoài về.
Đội trưởng của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đồng chí Hoàng Sâm, Chính trị viên là đồng chí Xích Thắng. Đội có một chi bộ Đảng, gồm bốn đồng chí, làm hạt nhân lãnh đạo.
Vũ khí trang bị cho Đội có 2 súng thất cửu, 17 súng trường, 14 súng kíp. Hai ngày trước lễ thành lập có một số vũ khí gồm 1 súng tiểu liên do Mỹ sản xuất, 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, 1 hộp nổ do ông bà Tống Minh Phương và anh em Việt kiều ở Côn Minh gửi tặng. Đội có 500 đồng chi phí quân nhu.
Số lượng đội viên tuy ít, vũ khí thô sơ, thiếu thốn, nhưng Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam là "một đoàn quân gang thép, rắn chắc không sức mạnh nào khuất phục nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù”.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, t. III, tr. 547 .
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 136.
- Tạp chí Lịch sử Đảng số 12-1999.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
NGÀY 25-12
Trung ương Đảng ban hành tài liệu "Làm thế nào nhận biết một phần tử là A-B?"
Trong quá trình Đảng ta lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, bọn đế quốc, phát xít và tay sai luôn luôn tìm mọi cách khủng bố, phá hoại nhằm tiêu diệt Đảng ta. Một trong những biện pháp thâm độc và rất nguy hiểm là chúng dùng bọn A-B (Anti-bolchévik) là bọn khiêu khích, giả danh cộng sản chui vào tổ chức Đảng để phá hoại, gây cho Đảng nhiều tổn thất.
Để bảo vệ tổ chức Đảng, Trung ương Đảng có nhiều chỉ thị nhắc nhở các cấp bộ Đảng phải đề cao cảnh giác chống A-B. Trên báo Cờ giải phóng, số ra ngày 25-12- 1944, Trung ương Đảng có bài viết trong mục "kinh nghiệm công tác", với tiêu đề: "Làm thế nào nhận biết một phần tử là A-B?".
Bài báo chỉ rõ: “A-B là bọn khiêu khích làm tay sai cho giặc đế quốc, đội lốt cộng sản chui vào Đảng để dò xét và phá hoại Đảng (...). Bọn đế quốc biết không thể đánh đập, tù đày chém giết mà phá được Đảng ta, nên chúng phải dùng bọn A-B cho đeo mặt nạ vào Đảng để ngầm phá Đảng".
Bài viết đề ra nhiệm vụ cho các cấp bộ Đảng: “phải hết sức tỉnh táo, hàng giờ, hàng phút kiểm tra hàng ngũ để tìm ra bọn A-B đặng kịp thời đối phó".
Để giúp các cấp bộ Đảng nhận diện những tên phá hoại, Trung ương chỉ rõ những dấu hiệu, hành vi của chúng: "Hay tò mò, hay điều tra người này để biết người kia, hay bóc thư trộm; Hay ăn mặc xa xỉ, tiêu hoang và thường có nhiều tiền tiêu; Hay đi lại bất thường khó kiểm soát nổi; Hay giao dịch với những người tung tích mờ ám hoặc đáng ngờ; Hay thả tin vịt để tâng bốc lực lượng đế quốc; gieo sợ sệt trong hàng ngũ Đảng; Hay đặt chuyện để gièm pha các đồng chí tốt và làm mất tín nhiệm các đồng chí ấy; hay ngửa tay hứng lấy những việc mạo hiểm để gây tín nhiệm và có khi làm được những việc kỳ quái mà người khác không làm nổi".
Bài viết khẳng định: “Bọn A-B thường có nhiều thủ đoạn lừa bịp, khôn khéo. Nhưng nếu hàng ngày chúng ta để ý xét thì nhất định chân tướng của chúng sẽ bộc lộ hoàn toàn".
- Ngọn cờ giải phóng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr. 139.
NGÀY 25 VÀ NGÀY 26 - 12
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đánh thắng hai trận Phai Khắt và Nà Ngần
Thực hiện chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh: trong vòng một tháng sau khi ra đời, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân phải có hành động để gây tin tưởng cho các chiến sĩ và xây dựng truyền thống hành động tích cực nhanh chóng cho bộ đội, trận đầu nhất định phải thắng lợi, Đội đã tích cực khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho trận đánh đầu tiên.
Chiều ngày 25-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân dùng kế trá hình thành quân địch, mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (thuộc xã Tam Lộng, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) và ngay sáng sớm hôm sau ngày 26-12-1944, đột nhập đồn Nà Ngần (thuộc xã Cẩm Lý, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) cách Phai Khắt 15 km, tiêu diệt gọn hai đồn địch, giết chết hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch trong hai đồn, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.
Sau khi tiến hành thắng lợi hai trận đánh, thực hiện chính sách đối với tù binh, trao đổi với nhân dân địa phương cách đối phó khi quân địch đến khủng bố, Đội nhanh chóng bí mật rút quân về căn cứ mới để giữ thế hợp pháp cho quần chúng.
Hai trận thắng đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gây tiếng vang mạnh mẽ, làm nức lòng nhân dân, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “chỉ sau hai ngày ra đời, Đội đã xuất quân đánh hai trận liên tục Phai Khắt (chiều 25-12) và Nà Ngần (sáng 26- 12), tiêu diệt gọn quân địch, giành chiến thắng trận đầu giòn giã (...). Vì sao Đội giành được thắng lợi lớn như vậy? Có thể nói, thực hiện đúng những lời căn dặn của Bác Hồ khi thành lập chính là những bài học thành công của Đội (...) đó cũng là những bài học kinh nghiệm cơ bản đối với quân đội ta".
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 147-155.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12-1999.
- 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam - Miền đất khai sinh và quá trình phát triển (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb. Quân đội nhân dân, 1999, tr. 365-368.
TRONG NĂM
Các chiến sĩ cộng sản trong Nhà tù Hoả Lò đấu tranh chống bọn phản động thân Nhật
Trong những năm 1940-1945, ở Nhà tù Hoả Lò, có một loại tù chính trị là bọn tay sai của Nhật trong các tổ chức đảng phái như Đảng Phục quốc đồng minh, Đại Việt quốc gia liên minh... bị đế quốc Pháp bắt giam. Trong tù, bọn chúng hoạt động chống phá, nói xấu Đảng Cộng sản: nói xấu Liên Xô đề cao phát xít Nhật và thuyết Đại Đông Á. Trước hành động nguy hại của bọn tay sai của Nhật, các chiến sĩ cộng sản bị giam giữ trong Nhà tù Hoả Lò tiến hành đấu tranh với chúng. Bằng lý luận sắc bén, kết hợp với tình hình thực tế trên thế giới và trong nước, các đồng chí phân tích cho bọn tay sai của Nhật thấy phát xít Nhật là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân Đông Dương, chúng có mưu đồ làm bá chủ toàn cầu mà trước hết là vùng Đông Nam Á; chúng đưa ra thuyết đại Đông Á, để nhằm lung lạc lừa bịp nhân dân, thực hiện âm mưu thống trị các dân tộc. Anh em tù cộng sản cũng chỉ rõ cho bọn tay sai của Nhật thấy vai trò, vị trí và sức mạnh của Liên Xô trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, kêu gọi chúng đừng mù quáng tin vào quân Nhật mà đi vào con đường tội lỗi; phản dân tộc, sớm muộn cũng bị nhân dân trong trị. Đồng chí Hoàng Văn Thụ trong thời gian ở xà lim án chém tham gia vào cuộc “khẩu chiến" chống lại bọn tay sai của Nhật. Với những lập luận xác đáng, đồng chí vạch rõ sự thất bại của phát xít Đức, Ý, Nhật, nêu rõ chủ trương của Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo chống phát xít Pháp - Nhật là sáng suốt là đúng đắn. Sự tuyên truyền của đồng chí đã cảm hoá được nhiều người lầm đường, lạc lối.
Qua cuộc đấu tranh của những người tù cộng sản, một số người dần dần tỉnh ngộ, khâm phục tinh thần kiên cường bất khuất, dũng cảm của anh em tù cộng sản, từ kính trọng đi đến ngả theo cách mạng. Một số người xin được dự lớp huấn luyện theo chương trình Việt Minh.
- Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng từ Nhà tù Hoả Lò (1899-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 153-156.
- Báo Nhân dân số ra ngày 24-5-1955.
TRONG NĂM
Công nhân đấu tranh đòi quyền dân sinh, gia nhập các đoàn thể quần chúng
Trên đà phục hồi của phong trào công nhân năm 1943, bước sang năm 1944, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ, hình thức bãi công, đình công ngày càng gia tăng và kéo dài hơn.
Tại Bắc Kỳ, công nhân Dệt thảm ở Hàng Kênh, công nhân xưởng khuy (Hải Phòng), thợ máy ở Kiến An tổ chức các cuộc bãi công kéo dài từ 6 đến 10 ngày. Đặc biệt, tại Hà Nội, phong trào công nhân phát triển rất mạnh mẽ. Tháng 4-1944, công nhân Nhà máy in Viễn Đông, Xuân Thu làm đơn, đưa yêu sách đòi tăng lương. Tháng 2-1944, công nhân Nhà in Lê Văn Tân, Nhà in báo Tin mới đấu tranh đòi chủ tăng lương theo giá sinh hoạt. Tháng 6-1944, công nhân các xưởng cưa Cự Lợi, Quảng Nam Lâm, Cự Hải bãi công 7 ngày đòi tăng 70% lương, kết quả được tăng 50%. Đầu tháng 7- 1944, công nhân Nhà in Lê Văn Tân đấu tranh đòi phụ cấp nguy hiểm. Cùng thời gian, 400 công nhân và cai, ký Hãng xẻ Săngcô bãi công 9 ngày đội chủ bán gạo theo giá quy định. Tháng 8-1944, công nhân dùng giày ở Hãng Đại Nam, công nhân toàn ngành thợ xẻ Hà Nội đấu tranh bãi công đòi tăng lương, đòi bán vải, đều đạt kết quả. Tháng 9-1944, công nhân Nhà máy thuộc da đòi tăng lương, bán vải.
Tại Nam Kỳ trong năm 1944, phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn lên cao. Tháng 5-1944, toàn thể công nhân may quần áo cho Nhật ở đường Senhô bãi công đòi bồi thường cho gia đình có người chết vì bom. Trong năm 1944, 500 công nhân xây trại lính Nhật ở Chí Hoà và toàn thể thợ giày ở Hãng Đại Nam công ty của Nhật ở Sài Gòn bãi công đòi tăng lương. Công nhân làm ở các kho 5 và 6 của cảng Khánh Hội đấu tranh đòi tăng lương phản đối chế độ ngược đãi của Nhật.
Ngoài Sài Gòn, công nhân một sẽ nơi cũng nổi dậy đấu tranh, điển hình là cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân chánh lúa và máy xay ở Rạch Giá vào tháng 3-1944.
Đồng thời với sự phát triển của các cuộc đấu tranh, công nhân ở các thành phố lớn ngày càng tham gia đông đảo vào tổ chức. Ở Hà Nội, đến giữa 1944, các cơ sở công nhân được xây dựng trong một số nhà máy lớn như Nhà máy nước, Nhà máy điện Yên Phụ, Nhà máy đèn Bờ Hồ. Các tổ Công nhân Cứu quốc được tổ chức trong các bệnh viện, các hiệu sản xuất dược phẩm Pháp Nam; ở khu Lê Lợi, Ô Đông Mác, Thanh Lương, Thanh Nhàn, ở các xưởng xẻ gỗ của Nhật ở Bạch Mai, Ngọc Hà, Nhật Tân, Phà Đen, Bưởi... Ở khu vực Sự Gòn - Chợ Lớn, đến cuối năm 1944 đã có khoảng 50 cơ sở công đoàn với hàng ngàn hội viên. Ngoài việc tổ chức trong các xí nghiệp như Ba Son, Phaxi, Simắc, Bete, Ácsini, xe lửa, xe điện, nhà đèn, các cơ sở công đoàn còn xuất hiện trong các ngành tiểu thủ công nghiệp, thợ giày, bồi bếp, tài xế ô tô, thu hút cả công nhân lẻ tẻ trong các khu Bàn Cờ, Xóm Chiếu, Tân Định, Đất Hộ, Phú Nhuận, Gò Vấp, Xóm Củi, Bình Tây...
Phong trào đấu tranh của công nhân nhất là ở các thành phố lớn đã góp phần thúc đẩy phong trào thành thị hoà nhịp với phong trào cả nước, tạo cơ sở cho cao trào cách mạng sôi động ở thành phố, thị xã trong năm 1945.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb Sử học, 1963, t. III, tr.155.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Chí Minh (1930-1945), sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
- Viện Nghiên cựu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 86-87.
TRONG NĂM
Nông dân các địa phương đấu tranh chống thu thóc, chống cướp đất, chống bắt phu
Cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng, các cuộc đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, chống thu thóc, chống cướp đất, chống bắt phu ngày càng gia tăng ở nhiều địa phương trên cả nước và mang tính quyết liệt hơn.
Tháng 4-1944, nông dân làng Khả Do (Kim Anh, Phúc Yên) đấu tranh chống lại tên tri huyện theo lệnh Nhật bắt dân nhổ lúa ngô, trồng đay, thầu dầu. Khi bọn lính bắt tuần phiên ra đồng nhổ ngô, dân làng nổi trống, mõ, tù và báo động kéo ra ngăn cản. Bọn lính buộc phải rút lui. Cũng trong thời gian này, nông dân làng Dương Quan (Bắc Ninh) kéo ra đồng nhổ đay trồng lại lúa.
Tháng 6-1944, nhân dân làng Tiền Phương (Hưng Yên) bắt trói tám tên lính Nhật và bốn tên tay sai khi chúng cướp đay của dân. Cũng trong tháng, nông dân Trung Màu (Tiên Du, Bắc Ninh) ngăn xe của Thống sứ Bắc Kỳ, đưa yêu sách đòi được mua muối.
Vào giữa năm 1944, nông dân thôn Nhuộng (Ý Yên, Nam Hà) tự trang bị gậy gộc chống lại việc tên tri huyện cho lính về bắt dân đóng thóc hợp đồng, bọn chúng buộc phải rút lui. Tiếp theo thắng lợi này, hàng trăm nông dân trong thôn kéo lên huyện biểu tình đòi chính quyền tay sai phải bán diêm, bán muối cho dân. Cùng với nông dân thôn Nhuộng, nông dân làng Yên Lập (Hưng Yên) đồng lòng không nộp thóc, lợn, gà cho Pháp. Đến tháng 7-1944, theo lệnh Pháp tên tri huyện điều 40 lính về bắt 12 thanh niên trong làng. Nông dân trong làng đã dùng gậy gộc đánh tri huyện và bảy tên lính bị thương. Ngày hôm sau, dân làng còn biểu tình đòi thả những người bị bắt. Trong thời gian này, nông dân nhiều nơi ở Hà Đông, Sơn Tây đấu tranh chống địch bắt phu bằng cách bỏ trốn hoặc đánh lại những tên đi bắt phu.
Tại Bắc Glang, tháng 7-1944, nhân dân Hương Gián (phủ Lạng Giang) đấu tranh trực tiếp với Nhật buộc chúng phải huỷ bỏ việc bắt dân phá lúa trồng đay. Tháng 8-1944, nông dân Lạng Giang (Bắc Giang) ở khu vực gần sân bay Kép và khu quân sự Câu Lồ đấu tranh chống lại bọn Nhật bắt dân di chuyển đi nơi khác để chúng lấy trên 300 ha đất mở rộng sân bay và khu quân sự. Hàng loạt phu trong sân bay Kép bỏ việc. Kế hoạch mở rộng sân bay của Nhật phải dừng lại.
Tháng 10-1944, 200 nông dân người Mông ở Sanh Chùa (Văn Chấn, Yên Bái) đấu tranh chống Nhật mua thóc tạ. Tiếp đó, tháng 11-1944, 1.000 đồng bào các dân tộc Tày, Dao ở tổng Võ Lao (Văn Bạn), có cả chức dịch tham gia, cử đại biểu về toà sứ đòi huỷ bỏ lệnh nộp thóc tạ. Các hình thức đấu tranh khác nhằm chống nộp thóc, nộp thuế cho Pháp - Nhật như dây dưa, nộp chậm, cất giấu thóc. .. cũng diễn ra nhiều nơi ở Yên Bái.
Cuối năm 1944, nông dân làng Càn San (Bình Xuyên, Vĩnh Yên, nay thuộc Vĩnh Phúc) đấu tranh chống tri huyện dẫn lính về bắt dân bán thóc cho Nhật, buộc chúng phải rút lui. Sau đó, nhân dân trong làng cất giấu thóc, gạo, tên giám binh Vĩnh Yên cùng 50 lính lùng sục mà không thu được gì phải rút đi. Cũng vào cuối năm 1944, nông dân nhiều làng, xã trong các huyện Bình Lục, Thanh Liêm, Kim Bảng, vùng ven sông Hồng, sông Đáy, sông Châu Giang (thuộc tỉnh Hà Nam) tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như dán áp phích, treo cờ, tổ chức mít tinh tuyên truyền ảnh hưởng của Việt Minh; chống sưu cao, thuế nặng, phù thu, lạm bổ; chống địch bắt dân phá lúa trồng đay. Nhiều cuộc đấu tranh giành được thắng lợi.
Phong trào đấu tranh của nông dân trong năm 1944 tuy chưa diễn ra rộng khắp nhưng đã mang một khí thế mới cả về quy mô và mức độ quyết liệt cũng như tần số xuất hiện. Cùng với phong trào công nhân, phong trào nông dân đã làm tăng thêm ưu thế của cách mạng, có một sức hút không cưỡng nổi, thu hút các tầng lớp khác, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ tiến bộ về phía cách mạng.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào công dân và Hội nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998, tr. 140.
- Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thành công (1939-1945), Nxb Sử học, 1963, t. III, tr. 149-150.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t. I.
TRONG NĂM
Các tỉnh Trung Kỳ đẩy mạnh công tác khôi phục tổ chức Đảng
Bước vào năm 1944, trong khi phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ có bước phát triển mạnh mẽ, tổ chức Đảng ngày càng được củng cố và gia tăng về số lượng thì phong trào cách mạng Trung Kỳ vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác khôi phục, củng cố và phát triển tổ chức Đảng, các đồng chí ở Trung Kỳ đã đẩy mạnh hoạt động, liên tục chắp nối gây dựng lại cơ sở. Giữa năm 1944, một số đồng chí hoạt động ở Nghệ An đã ra bắt liên lạc với Tỉnh uỷ Thanh Hoá, bàn biện pháp lập lại Xứ uỷ Trung Kỳ. Cuối năm 1944, một số cán bộ vượt ngục về Trung Kỳ hoạt động. Một số cơ sở Đảng được phục hồi chủ yếu ở cấp huyện, xã. Toàn Trung Kỳ đến đầu năm 1945 có 5 tỉnh lập được cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh là Thanh Hoá, Thừa Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng và Quảng Ngãi; 11 tỉnh cơ sở Đảng bước đầu được khôi phục, song chưa đáng kể ba tỉnh là Gia Lai, Đồng Nai Thượng, Kon Tum vẫn là những "vùng trắng".
Có tình trạng đó ngoài sự khủng bố của địch, còn do hoạt động của bọn A-B. Hầu hết các tỉnh Trung Kỳ đều có hiện tượng nghi ngờ lẫn nhau giữa các cán bộ, đảng viên, nhất là ở các tỉnh Hà Tĩnh như Quảng Bình, Nghệ An... gây nhiều khó khăn trong việc bảo vệ, củng cố cơ sở Đảng, trong thống nhất lãnh đạo phong trào, thống nhất tổ chức trong phạm vi tỉnh cũng như trong toàn miền.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 135-138.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1995.
_____________
1. Theo đồng chí Lê Trọng Nghĩa, để tăng cường lãnh đạo, giúp đỡ Đảng Dân chủ Việt Nam, tháng 5-1945, Đảng thành lập Đảng đoàn trong Đảng Dân chủ, gồm ba đồng chí: Kiến (An), Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa.
2. Theo Cư Hòa Vần: Việt Nam trong thế kỷ 20: 19 Tày, 9 Nùng.
Năm 1945 THÁNG 2
Đồng chí Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Đồng minh chống phát xít Nhật
Vào đầu năm 1945, tình hình thế giới, trong nước có nhiều biến đổi theo chiều hướng có lợi cho cách mạng. Cơ hội cho dân tộc ta vùng lên đang đến gần. Cùng với việc đẩy mạnh chuẩn bị thực lực trong nước, Đảng ta và đồng chí Hồ Chí Minh còn chủ trương tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước Đồng minh vào sự nghiệp chống phát xít, giải phóng dân tộc.
Thực hiện chủ trương, tháng 2-1945, sau sáu tháng trở về nước, đồng chí Hồ Chí Minh lại lên đường sang Trung Quốc để gặp gỡ, tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng Đồng minh. Đầu tháng 3-1945, Người tới Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) để gặp lại các đồng chí đang hoạt động ở Vân Nam và tìm cách tiếp xúc với các cơ quan Mỹ đóng ở đây. Nhân danh Việt Minh - lực lượng đã giải thoát cho một phi công Mỹ nhảy dù ở Cao Bằng - đồng chí Hồ Chí Minh tiếp xúc với cơ quan cứu trợ không quân Mỹ (AGAS), cơ quan thông tin chiến tranh Mỹ (AOWI), cơ quan tình báo chiến lược Mỹ (OSS), chỉ huy của Không đoàn 14 của Mỹ đóng trụ sở ở Côn Minh. Qua các cuộc tiếp xúc trên, đồng chí Hồ Chí Minh cho các cơ quan Mỹ biết và yêu cầu họ công nhận phong trào Việt Minh, về tình hình nạn đói ở Việt Nam, về quan điểm của Pháp, Trung Quốc, Anh với vấn đề Việt Nam và Việt Minh sẵn sàng hợp tác với người Mỹ khi nào người Mỹ thấy thích hợp. Người cũng thông báo cho phía Mỹ biết về việc chuẩn bị cho một Chính phủ Việt Nam dân chủ, độc lập. Cũng qua tiếp xúc với các cơ quan Mỹ, Người thu thập được những thông tin cần thiết, đặc biệt là tin về tình hình chiến sự thế giới. Do sự vận động của Người, phía Mỹ đồng ý công nhận cung cấp các phương tiện thông tin liên lạc (gồm 1 điện đài, 1 máy phát) cùng người sử dụng và sẽ huấn luyện cho người Việt Nam sử dụng các phương tiện đó. Phía Mỹ cũng cung cấp cho Người một số thuốc men.
Cũng trong chuyến đi này, đồng chí Hồ Chí Minh đến Quảng Tây tìm cách chấn chỉnh lại tổ chức Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (đã ngừng hoạt động). Người tham gia vào ủy ban hành động của Việt Nam Cách mạng đồng minh hội do Tiêu Văn chỉ định thành lập.
Trong thời gian ở Trung Quốc, đồng chí Hồ Chí Minh còn giảng giải tình hình cách mạng Việt Nam cho Việt kiều ở Nghi Lương (Vân Nam), kêu gọi họ trở về tham gia đấu tranh. Người cũng chọn 20 thanh niên Việt Nam ở Trung Quốc trở về nước cùng 2 nhân viên điện đài do Mỹ cung cấp.
Tháng 4-1945, đồng chí Hồ Chí Minh kết thúc chuyến đi, trở về an toàn.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 229-238.
- L.A. Patti: Tại sao Việt Nam? Nxb. Đà Nẵng, 1995, tr. 60-61.
NGÀY 9 -3
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động phong trào Kháng Nhật, cứu nước
Từ tháng 9-1944, trong bài "Các nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ” (Cờ giải phóng, số 7, ngày 28-9-1944), Trung ương Đảng dự đoán mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa hai tên đế quốc phát xít Pháp - Nhật sẽ dẫn đến chỗ “tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau”. Đúng như dự đoán của Đảng, đến đầu tháng 3-1945, những mâu thuẫn gay gắt giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương và tình thế khốn quẫn của quân đội Nhật ở Thái Bình Dương đã buộc Nhật phải quyết định lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương hòng cứu vãn tình thế.
Ngày 8-3-1945, tin từ cơ sở cách mạng ở Hà Nội báo cho Ban Thường vụ Trung ương Đảng và đồng chí Trường Chinh biết việc Toàn quyền Đờcu bị nhà cầm quyền Nhật gọi vào Sài Gòn, quân Nhật ở Hà Nội có lệnh cấm trại, chuẩn bị vũ khí, lương thực, quân Pháp cũng được lệnh báo động. Với tinh thần nhạy bén, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh nhận định Nhật lật Pháp đến nơi và lập tức quyết định họp Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng.
Chập tối ngày 9-3-1945, Hội nghị họp tại chùa Đồng Kỵ (Tiên Du, Bắc Ninh). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân và Lê Thanh Nghị. Đồng chí Trường Chinh chủ trì Hội nghị. Hội nghị đang tiến hành thì bọn tuần đinh, lý dịch ở địa phương đến kiểm tra chùa nên các đồng chí quyết định chuyển đến họp tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Đúng lúc Hội nghị đang di chuyển thì Nhật nổ súng đảo chính Pháp.
Trước tình hình phát triển đột biến, Hội nghị làm việc khẩn trương, nhận định tình hình, dự đoán sự thất bại nhanh chóng của quân Pháp và phân tích tình trạng khủng hoảng chính trị, kinh tế sau cuộc đảo chính của Nhật. Hội nghị khẳng định những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa thật chín muồi, dự kiến những cơ hội tốt giúp cho cao trào cách mạng phát triển và thúc đẩy những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Hội nghị xác định kẻ thù của nhân dân ta lúc này là phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng, xác định nhiệm vụ và khẩu hiệu cách mạng của nhân dân Đông Dương trong tình thế mới.
Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ và mục tiêu cách mạng, ngày 10-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động và lãnh đạo cao trào chống Nhật, cứu nước, nhằm tập dượt quần chúng, cán bộ, đảng viên sẵn sàng để tiến lên tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện. Hội nghị chủ trương phát triển mạnh mẽ Mặt trận Việt Minh, lập Mặt trận Dân chủ chống Nhật ở Đông Dương và sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật.
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương thể hiện rõ sự năng động, tích cực, chủ động của Đảng, mở ra một thời kỳ cách mạng sôi động tiến tới Tổng khởi nghĩa.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 112-115.
- Đức Vượng: Đồng chí Trường Chinh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, t. II, tr. 47-52.
- Ngọn cờ giải phóng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1974, tr. 68.
NGÀY 10 - 3
Khởi nghĩa Thanh La - cuộc khởi nghĩa sớm nhất trong thời kỳ Kháng Nhật, cứu nước
Ngày 9-3-1945, Nhật tiến hành đảo chính Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm hôm ấy, Ban Thường vụ Trung ương họp Hội nghị mở rộng quyết định phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa.
Cuộc đảo chính của Nhật làm cho chính quyền tay sai của Pháp ở các địa phương nhanh chóng suy sụp, trong đó có bộ máy ngụy quyền ở tổng Thanh La, châu Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Trước tình hình đó, mặc dù chưa nhận được chủ trương mới của Đảng, đồng chí Song Hào cùng Ban lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ (Lê Hiến Mai, Tạ Xuân Thu, Trần Thế Môn, Trung Đình) chủ trương phát động khởi nghĩa ở Thanh La để thăm dò phản ứng của địch. Để bảo đảm cho cuộc nổi dậy thành công, Ban lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ chuẩn bị kế hoạch khởi nghĩa, phổ biến chủ trương khởi nghĩa cho đồng bào xã Thanh La (tổng Thanh La) được đồng bào hết sức ủng hộ.
Đêm 10-3-1945, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy khởi nghĩa, quần chúng xã Thanh La, có sự hỗ trợ của đơn vị Cứu quốc quân II, tiến hành tước vũ khí lính dõng, tuyên bố xoá bỏ chính quyền tay sai ở xã. Trước uy thế của quần chúng cách mạng, bọn kỳ hào, hương dõng đều quy phục, mang giấy tờ, triện đồng, vũ khí ra hàng cách mạng.
Mờ sáng hôm sau, chính quyền cách mạng xã Thanh La được thành lập ra mắt nhân dân. Thừa thắng tiến lên, quân khởi nghĩa chia thành các mũi đi giải phóng các xã khác trong tổng Thanh La. Bọn cường hào, lý dịch hoảng sợ tự động mang sổ sách ra đầu hàng. Chính quyền cách mạng được thành lập trong toàn tổng.
Cuộc khởi nghĩa thành công ở Thanh La là cuộc khởi nghĩa thắng lợi đầu tiên trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, mở đường cho việc giải phóng hoàn toàn châu Sơn Dương (Tuyên Quang) vào tháng 5-1945, tạo điều kiện để Trung ương Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh chọn Sơn Dương, lập "đại bản doanh" lãnh đạo cao trào cách mạng trong cả nước.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4-1995.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1954),Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Tuyên Quang xuất bản, 1995, t. I.
NGÀY 11-3
Khởi nghĩa Ba Tơ
Cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương (9-3-1945) đã gây nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng bộ và nhân dân các địa phương trong cả nước vùng lên khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Hoà nhịp với cao trào Kháng Nhật, cứu nước sôi động lên toàn quốc, nhân dân Quảng Ngãi đã thực hiện thành công cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ.
Ngày 10-3-1945, Tỉnh uỷ lâm thời Quảng Ngãi nhận được tin Nhật đảo chính do các cơ sở báo về. Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), ngay trong đêm ngày 10-3, Tỉnh uỷ Quảng Ngãi tổ chức cuộc họp bất thường để bàn chủ trương hoạt động mới. Hội nghị bàn luận và nhất trí vùng lên khởi nghĩa vũ trang ở Ba Tơ đồng thời, phát động một phong trào cách mạng thật rộng khắp trong tỉnh và các địa phương lân cận; tích cực cướp vũ khí địch, xây dựng lực lượng vũ trang xây dựng căn cứ; phát động cao trào chống Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang thành chính quyền toàn tỉnh. Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương, trên cơ sở phân tích tình hình địa phương, Hội nghị đề ra khẩu hiệu: "đánh đuổi phát xít Nhật, tẩy sạch phát xít Pháp ở Đông Dương, trừng trị bọn Việt gian thân Nhật, bắt tay với Pháp dân chủ, liên minh với Tàu, Việt Nam hoàn toàn độc lập". Hội nghị quyết định phạm vi khởi nghĩa là ở Ba Tơ, đồng thời động viên lực lượng các vùng trong tỉnh về chi viện thời gian khởi nghĩa là sáng ngày 11-3, phương pháp khởi nghĩa là dùng bạo lực cách mạng của quần chúng đập tan bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị cũng bàn những hình thức và công tác đấu tranh, nhiệm vụ xây dựng lực lượng và căn cứ cách mạng sau khi khởi nghĩa... Ban lãnh đạo khởi nghĩa được thành lập gồm những đồng chí trong Tỉnh uỷ lâm thời.
Thực hiện kế hoạch của Hội nghị, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ thay mặt Đảng bộ triệu tập các đảng viên và quần chúng tích cực, phổ biến chủ trương khởi nghĩa, kế hoạch phát động đồng bào Kinh, Thượng nổi dậy. Các đồng chí trong Ban lãnh đạo khởi nghĩa phân công nhau đi phổ biến và vận động cơ sở tham gia cuộc nổi dậy.
Do tình hình biến đổi, địch báo động, cấm trại nên chủ trương nhân lúc vào trình diện bất ngờ nổi dậy cướp đồn khố xanh, Nha Kiềm lý vào rạng sáng ngày 11-3 không thực hiện được. Ngay trưa hôm đó, Ban lãnh đạo khởi nghĩa họp khẩn cấp, quyết định phát động đồng bào Kinh, Hrê ở Ba Tơ và các vùng lân cận nổi dậy vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền tại quận lỵ Ba Tơ, đồng thời cử đại biểu vào đồn Ba Tơ thuyết phục tên giám binh đầu hàng; mặt khác, gấp rút cho cán bộ về trung châu đồng bằng phát động nhân dân nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Triển khai quyết định của cuộc họp này, Ban Tỉnh uỷ lâm thời chia làm hai bộ phận. Bộ phận ở lại Ba Tơ lập Ban Chỉ huy khởi nghĩa, bộ phận về trung châu phát động quần chúng nổi dậy hưởng ứng. Bộ phận ở lại nhanh chóng toả ra các làng xung quanh vận động nhân dân tiến hành binh vận, tăng cường thêm lực lượng khởi nghĩa.
Chiều ngày 11-3, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy khởi nghĩa, quần chúng các nơi kéo về huyện ly Ba Tơ. Một cuộc mít tinh lớn được tổ chức tại sân vận động, sau đó biến thành cuộc tuần hành, hô vang các khẩu hiệu “Đánh đổ phát xít Nhật, tẩy sạch phát xít Pháp", "Việt Nam hoàn toàn độc lập”, "ủng hộ Mặt trận Việt Minh”... Trong khi đó, lực lượng khởi nghĩa, dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy, phối hợp với quần chúng ập vào Nha Kiềm lý, bắt toàn bộ bọn nha lại, thu sổ sách, vũ khí. Thừa thắng, lực lượng khởi nghĩa chuyển sang bao vây đồn khố xanh ở châu lỵ, bắn súng, gọi hàng. Dưới áp lực của lực lượng khởi nghĩa, lại có cơ sở bên trong vận động, toàn bộ binh lính trong đồn hạ vũ khí đầu hàng quân khởi nghĩa. Tại cuộc khởi nghĩa thắng lợi nhanh chóng lan đi các nơi. Nhân dân các dân tộc kéo về Ba Tơ tham gia cuộc mít tinh tổ chức ở sân bóng trước đồn Ba Tơ vào đêm 11 rạng ngày 12-3. Ban Chỉ huy cuộc khởi nghĩa tuyên bố xoá bỏ chính quyền địch, lập Uỷ ban nhân dân cách mạng quận Ba Tơ; đọc Thông cáo số I của Uỷ ban nhân dân cách mạng, kêu gọi đồng bào đoàn kết tham gia công cuộc giải phóng. Sau buổi lễ, Uỷ ban nhân dân cách mạng đem toàn bộ tài sản vừa thu được của địch chia cho đồng bào nghèo.
Để bảo toàn lực lượng, Ban Chỉ huy khởi nghĩa quyết định chuyển lực lượng vũ trang vào căn cứ Cao Muôn để tiến hành vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng chiến khu chống Nhật. Trên đường hành quân vào đêm ngày 14-3-1945, lực lượng vũ trang ra đời trong khởi nghĩa, dừng chân tại hang én, cử hành lễ tuyên thệ dưới cờ đỏ sao vàng, và lấy tên là "Đội du kích Cứu quốc”, sau này là Đội du kích Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ ra đời không chỉ là tiền thân của lực lượng vũ trang Quảng Ngãi, mà còn là hạt nhân của lực lượng vũ trang Liên khu 5 về sau.
Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra và giành thắng lợi đã mở ra cao trào khởi nghĩa từng phần ở Quảng Ngãi cũng như ở Trung và Nam Trung Kỳ. Sau cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, phong trào cách mạng ở vùng đồng bằng tỉnh Quảng Ngãi lên mạnh. Hai chiến khu Vĩnh Tuy (Sơn Tịnh) và Bầu Bái (Mộ Đức) ra đời, tham gia vào công cuộc gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa ở Quảng Ngãi.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ngãi: Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 64-68.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 131.
- Tạp chí Xưa và nay, số 73, tháng 3 - 2000.
NGÀY 12 - 3
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"
Sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng (9- 3-1945), toàn bộ nội dung Hội nghị được đồng chí Trường Chinh phản ánh một cách cô đọng, chính xác trong bản Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng cho ban hành rộng rãi bản Chỉ thị lịch sử nói trên.
Bản Chỉ thị phân tích rõ nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đảo chính Nhật - Pháp ở Đông Dương:
“1- Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương.
2- Tàu Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải hạ Pháp để trừ cái hoạ bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.
3- Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liền các thuộc địa miền Nam Dương với Nhật; vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm, đường thủy của Nhật đã bị cắt đứt".
Bản Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương "một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc", làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa Đông Dương chưa chín muồi đang đi tới chín muồi nhanh chóng. Ba cơ hội tốt giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chóng chín muồi là:
a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).
b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).
c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)".
Bản Chỉ thị chỉ rõ: sau cuộc đảo chính "đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương". Do đó phải thay đổi khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật", thực hiện khẩu hiệu "Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.
Bản Chỉ thị yêu cầu các cấp bộ Đảng phải "Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động tổ chức và tranh đấu cho hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa”, phải cổ động quần chúng mạnh dạn ra đường đấu tranh, phá kho thóc của bọn đế quốc để giải quyết nạn đói, nhằm "Phát động một cao trào Kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách cho đến những hình thức cao như biểu tình thị uy võ trang, du kích" và "Sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện".
Bản Chỉ thị nêu trường hợp thuận lợi cho tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Bản Chỉ thị dự kiến khi quân Đồng minh “bám chắc" và "tiến mạnh" trên đất ta, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau tương đối sơ hở, lúc đó ta có thể phát động tổng khởi nghĩa.
Bản Chỉ thị cũng nêu cao tinh thần chủ động dựa vào sức mình của chính nhân dân ta: "dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ lại vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi".
Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Trung ương Đảng với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Chỉ thị là "phải hành động ngay hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo". Bản Chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao trào chống Nhật, cứu nước, và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 364-373.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-1992.
NGÀY 12 - 3
Tự vệ Cứu quốc Hưng Yên đánh đồn Bần thắng lợi
Đồn Bần là một đồn binh nằm trên quốc lộ 5, án ngữ đường giao thông chiến lược, khống chế cả vùng phía bắc của tỉnh Hưng Yên. Với lực lượng gồm 1 trung đội lính khố xanh, 1 tên đội người Việt, 1 tên quản người Pháp, đồn Bần từng tham gia vào việc đàn áp các cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân, cản trở các hoạt động cách mạng ở Hưng Yên. Đã từ lâu, Việt Minh trong Khu an toàn Bãi Sậy1 đã có ý định đánh đồn Bần.
Đêm ngày 9-3-1945, tiếng súng Nhật đảo chính Pháp từ Hà Nội vọng đến Hưng Yên. Việt Minh khu Bãi Sậy quyết tâm đánh đồn Bần, cử người báo cáo với Xứ uỷ và nhận được sự đồng ý. Cơ sở trong đồn cho biết địch đang rất hoang mang, chuẩn bị súng nộp cho Nhật.
Sau một thời gian rất ngắn gấp rút chuẩn bị, đêm 12-3-1945, đội Việt Minh đóng giả quân Nhật và Đại Việt ngang nhiên tiến vào đồn. Tên quản người Pháp và binh lính trong đồn bỏ chạy tán loạn hoặc xin hàng. Quân cách mạng thu được 26 khẩu súng được bó sẵn, 1 hòm đạn 6.000 viên.
Trận đánh kết thúc nhanh chóng. Quân Nhật ập đến cũng là lúc quân cách mạng vừa rút khỏi đồn an toàn. Binh lính trong đồn mới biết là bị Việt Minh đánh lừa.
Trận đánh đồn Bần thắng lợi có tác động tích cực tới phong trào đấu tranh cách mạng đang dâng lên rất mạnh mẽ ở Hưng Yên và cả các tỉnh xung quanh. Nhân dân càng tin tưởng vào cách mạng, vào khả năng thắng lợi của Việt Minh; chính quyền cơ sở của địch thêm hoang mang, lo sợ.
Trận đánh đồn Bần được đồng chí Võ Nguyên Giáp đánh giá cao, coi đó là trận đánh du kích kiểu mẫu ở đồng bằng.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 130-131.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1929-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.I.
NGÀY 25-3
Thành lập Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng)
Qua một thời gian hoạt động chắp nối, gây dựng cơ sở, nhóm các đồng chí ở Nam Kỳ như Nguyên Thị Thập, Trần Văn Già đã tổ chức được một số Tỉnh uỷ và Ban Cán sự Đảng. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), một số đồng chí vượt ngục, thoát tù như Trần Văn Vi, Tô Ký... trở về tham gia hoạt động ở nhóm này.
Ngày 25-3, các đồng chí tổ chức một cuộc họp tại Xoài Hột, Châu Thành, Mỹ Tho bàn biện pháp phát triển phong trào, lập Xứ uỷ. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Nguyễn Thị Thập, Trần Văn Già, Trần Văn Vi, Nguyễn Văn Cảnh, Nguyễn Văn Chim... Các đồng chí nghiên cứu tình hình trong nước và Nam Kỳ; chủ trương xây dựng phát triển các tổ chức Cứu quốc, phát triển và thống nhất tổ chức Đảng. Các đồng chí lập ra Xứ uỷ lâm thời: do đồng chí Trần Văn Vi làm Bí thư. Xứ uỷ lâm thời lấy báo Giải phóng làm cơ quan ngôn luận hướng dẫn phong trào.
Sau Hội nghị, Xứ uỷ lâm thời tổ chức một đợt tuyên truyền mạnh mẽ, rải truyền đơn vạch trần chính sách "Đại Đông Á" của Nhật, chống lại các luận điệu "oán trả ơn đền" do bọn tay sai thân Nhật tiến hành, nhằm gây thù hằn trong nhân dân, làm rối loạn tình hình, đánh lạc hướng đấu tranh của quần chúng.
Sự ra đời của Xử uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng) là sự phát triển mới của phong trào cách mạng trong xứ, thể hiện sự tích cực, chủ động của các cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, với sự ra đời của Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng), sự phân biệt về mặt tổ chức Đảng ở Nam Kỳ trở nên sâu sắc hơn.
- Toạ đàm "Tiền phong", “Giải phóng”, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 3
Trung ương Đảng phổ biến Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đến các địa phương
Với tinh thần tích cực, khẩn trương, Trung ương Đảng đã nhanh chóng truyền đạt tinh thần Hội nghị Ban Thường vụ mở rộng (9-3) và bản Chỉ thị lịch sử "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đến các địa phương trong cả nước.
Ngay từ buổi trưa ngày 11-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương phân công nhiệm vụ cho các cán bộ Trung ương. Đồng chí Lê Thanh Nghị rời Đình Bảng lên Chiến khu 2 để phổ biến chủ trương của Đảng và trực tiếp lãnh đạo cao trào ở đó. Đồng chí Trường Chinh về cơ sở Đông Anh hoàn thành văn kiện, tổ chức in ấn truyền đơn phổ biến chủ trương của Đảng. Ngày 15-3-1945, 15 vạn truyền đơn phản ánh nội dung, tinh thần chủ trương của Đảng do Việt Minh đứng tên hiệu triệu được rải ở nhiều tỉnh miền Bắc. Bản hiệu triệu vừa chỉ cho các tầng lớp nhân dân con đường cứu nước, cứu nhà, vừa vạch cho những người Việt Nam nào còn lầm đường lạc lối hãy trở về đi theo con đường chính nghĩa của nhân dân, kêu gọi mọi người chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính là phát xít Nhật, nhằm mục tiêu giành độc lập tự do. Trung ương Đảng giao cho đồng chí Lê Đức Thọ triệu tập Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ để phổ biến chủ trương của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương.
Hội nghị Xứ uỷ Bắc Kỳ được tổ chức vào cuối tháng 3- 1945 ở làng Bịu (Hoài Bão) thuộc huyện Tiên Du (tỉnh Bắc Ninh). Đồng chí Tố Hữu từ miền Trung ra Bắc để liên lạc với Trung ương cũng được tham dự Hội nghị và sau đó, được Trung ương Đảng phái về các tỉnh miền Trung phổ biến nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương. Trung ương Đảng cũng trao nhiệm vụ cho một số cán bộ giao thông liên lạc nhanh chóng mang Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" vào Sài Gòn, truyền đạt chủ trương mới cho các đồng chí trong Nam. Đảng bộ Nam Kỳ cũng cử đồng chí Lý Chính Thắng ra Bắc liên lạc và nhận chỉ thị của Trung ương.
Bằng nhiều con đường, bản Chỉ thị lịch sử của Đảng đã nhanh chóng truyền đi khắp cả nước, đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Bản Chỉ thị đã làm dấy lên gần như đồng thời trên cả nước cao trào cách mạng rộng lớn tạo tiền đề tiến tới tổng khởi nghĩa.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 113-118.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2- 1992.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-1996
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t. I.
THÁNG 3
Tù chính trị Nghĩa Lộ, Hoả Lò, Sơn La và các nhà tù địa phương vượt ngục
Cuộc đảo chính Nhật - Pháp đã tạo nên cuộc khủng hoảng sâu sắc về chính trị ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ cộng sản bị giam giữ trong các nhà tù đế quốc thoát ngục trở về tham gia vào phong trào cách mạng.
Tại Nhà tù Nghĩa Lộ (Yên Bái), ngay khi Nhật đảo chính Pháp khoảng 100 tù chính trị nổi dậy phá trại giam toả về các địa phương, 15 người hy sinh trong lúc thoát ngục. Tại Nhà tù Hoả Lò, lợi dung cuộc đảo chính của Nhật, hơn 100 đồng chí, trong đó có nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng vượt ngục trở về với cách mạng. Đến cuối tháng 3-1945, phát xít Nhật thả khoảng 200 tù chính trị, trong đó nó 3 đồng chí nữ.
Ỏ Nhà tù Sơn La, biết được tin Nhật đảo chính Pháp, Chi uỷ Nhà tù nhanh chóng họp đề ra kế hoạch vượt ngục. Ban lãnh đạo nhà tù khôn khéo lợi dụng việc “hợp tác" chống Nhật với bên cai ngục và lính khố xanh, bố trí cho 18 đồng chí thoát ngục trở về với nhân dân. Sau đó, vào ngày 18-3-1945, trên đường bị địch giải về Nghĩa Lộ, thấy địch hoang mang, gần 200 tù chính trị thoát khỏi sự kiểm soát của địch, phân công nhau trở về các địa phương bắt liên lạc với Đảng, tham gia hoạt động, lãnh đạo phong trào.
Cũng trong thời gian ngay sau khi Nhật đảo chính, rất nhiều cán bộ, đảng viên bị giam giữ trong các nhà tù, trại giam cấp tỉnh, huyện thoát ra, trở về các cơ sở hoạt động.
Với một số lượng lớn thoát ra từ các nhà tù đế quốc, các chiến sĩ cộng sản được tôi luyện trong lao ngục là nguồn bổ sung lực lượng lãnh đạo quan trọng cho cao trào chống Nhật, cứu nước.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 133.
- Viện Mác – Lênin, Viện Lịch sử Đảng: Ngục Sơn La, trường học đấu tranh cách mạng, Nxb. Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992, tr. 108-109.
- Sở Văn hoá thông tin Hà Nội - Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng từ Nhà tù Hoả Lò (1899- 1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 164.
THÁNG 3
Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) tổ chức Hội nghị liên tịch với các Tỉnh uỷ bàn chủ trương hoạt động mới
Sau khi đảo chính Pháp (9-3-1945), ở Nam Kỳ, Nhật vẫn giữ nguyên chế độ trực trị, giữ nguyên bộ máy chính quyền trước đó chỉ thay đổi một số quan lại cao cấp từ tỉnh trở lên bằng người Nhật. Đi đôi với tuyên truyền lừa bịp, chúng còn ra sức tổ chức bọn tay sai, các đảng phái phản động.
Về phía cách mạng, một số đảng viên thoát khỏi nhà tù đế quốc trở về bổ sung cho phong trào. Không khí cách mạng ngày một dấy lên mạnh mẽ. Đảng bộ Nam Kỳ đứng trước một nhiệm vụ cấp bách, nặng nề: gấp rút chuẩn bị mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa.
Sau khi Nhật đảo chính được mấy ngày, Xứ uỷ Nam Kỳ tổ chức Hội nghị liên tịch với các Tỉnh uỷ tại Phú Lạc (Chợ Lớn) để định giá tình hình, bàn chủ trương hoạt động mới.
Hội nghị cho rằng, chiến tranh sắp kết thúc, phát xít Đức Nhật sắp bị tiêu diệt, tình hình rất thuận lợi, tạo điều kiện cho ta tiến hành khởi nghĩa. Tuy nhiên, lực lượng cán bộ ở Nam Kỳ còn rất mỏng, "địch có mười, ta chưa được một". Nếu tương quan lực lượng không thay đổi thì khi Nhật đầu hàng Đồng minh, ta khó có thể giành được chính quyền.
Hội nghị nhận định, muốn khởi nghĩa thắng lợi, giành độc lập dân tộc thực sự, chính quyền về tay nhân dân thì phải bằng mọi cách để trước hết ở Sài Gòn, lực lượng của ta phải bằng hoặc hơn các đảng phái phản động cộng lại. Hội nghị nhất trí, khẳng định: nhiệm vụ đó rất nặng nề, thời gian rất cấp bách nhưng sẽ thực hiện được vì Liên Xô đại thắng đẩy cách mạng thế giới tới thắng lợi, ảnh hưởng từ xa mà rất lớn tới cách mạng Việt Nam, do sự thất bại của phát xít Nhật, các tầng lớp nhân dân sẽ tin vào các tiên đoán của Đảng ngả về phía cách mạng, Đảng có uy tín lớn trong nhân dân, những uy tín đó ngày càng phát triển mạnh hơn, nhảy vọt hơn; sau ngày 9-3, nhiều đảng viên thoát ngục, các đồng chí ẩn náu ra tham gia công tác, các tổ chức cách mạng ở Sài Gòn đã hoạt động trở lại, lực lượng cách mạng đã có vài trăm đảng viên và vài ngàn đoàn viên công đoàn; nhiều tổ chức thân Nhật, nhiều binh lính người Việt cũng đã ngả về phía cách mạng.
Trên cơ sở phân tích đó, Hội nghị quyết định chạy đua với thời gian, tổ chức lực lượng kịp thời giành chính quyền. Hội nghị bàn và thông qua các công tác tuyên truyền, lôi kéo các đảng phái về phía cách mạng đẩy mạnh công tác binh vận. Hội nghị còn cử người ra Bắc liên lạc và xin chỉ thị của Trung ương.
Hội nghị liên tịch giữa Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) và các Tỉnh uỷ thể hiện sự nhanh nhạy chủ động, tích cực của những người cộng sản trong Nam. Sau Hội nghị Xứ ủy và các Tỉnh uỷ gấp rút đẩy mạnh tập hợp, rèn luyện lực lượng, chuẩn bị mọi mặt tiến tới đón thời cơ khởi nghĩa.
- Trần Văn Giàu: Một số đặc điểm của khởi nghĩa Tháng Tám ở Nam Bộ. Sài Gòn, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6,1990.
- Cách mạng Tháng Tám Sài Gòn - Chợ Lớn, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ THÁNG 3 ĐẾN THÁNG 5
Đảng phát động phong trào "Phá kho thóc giải quyết nạn đói”
Do chính sách vơ vét của đế quốc phát xít Pháp - Nhật, các cuộc ném bom của Đồng minh ngăn chặn sự thông thương Bắc - Nam, do mất mùa, từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, nạn đói trầm trọng đã diễn ra ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ. Đây là nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử dân tộc ta. Theo thống kê từ các địa phương bị nạn đói hoành hành, chỉ trong thời gian ngắn, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của 2 triệu người, bằng một phần mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Các tỉnh có số người chết nhiều là Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình... có nơi chết cả làng. Yêu cầu giải quyết nạn đói để cứu dân, cứu dân tộc khỏi tự diệt vong là một yêu cầu bức thiết.
Trước tình trạng ấy, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, từ nhu cầu hoạt động của cán bộ, đảng viên, từ sự thành bại của phong trào cách mạng, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng 3 - 1945 đề ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc giải quyết nạn đói". Khẩu hiệu này được đưa ra đồng thời với khởi nghĩa từng phần và Đảng coi đây là trọng tâm công tác, là khâu chính để biến lòng căm thù của nhân dân thành hành động cứu nước.
Đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn dân giải quyết từng mâu thuẫn đang diễn ra gay gắt trong xã hội nước ta, chủ trương của Đảng đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng vào phong trào phá kho thóc chống đói với nhiều hình thức từ thấp đến cao, phong phú và sáng tạo.
Ở các tỉnh miền núi Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Bái, các lực lượng vũ trang cùng quần chúng nhân dân kết hợp đánh đồn, phá chính quyền địch với phá kho thóc, kho muối chia cho nhân dân hoặc tích trữ cho bộ đội, du kích. Tại những tỉnh này, lực lượng vũ trang cùng nhân dân tiến hành phá kho thóc, uy hiếp địch để giành chính quyền hoặc đánh chiếm xong huyện lỵ rồi mới tổ chức nhân dân đi phá kho thóc của địch, cứu đói.
Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật và bọn tích trữ thóc gạo cho Nhật ở Hiệp Hoà, Yên Phong, Tiên Du, Thuận Thành thu hàng nghìn tấn thóc chia cho nhân dân.
Ở Vĩnh Yên, Phúc Yên trong tháng 3 và tháng 4, lực lượng du kích và tự vệ làm nòng cốt cho quần chúng phá hàng chục kho thóc, có kho chứa tới hàng nghìn tấn thóc. Tại Phú Thọ, trong một thời gian ngắn có tới 14 kho thóc bị phá để chia cho dân nghèo.
Tại Ninh Bình, chỉ trong ngày 15-3, hàng nghìn quần chúng thuộc các huyện Nho Quan, Gia Viễn phá 12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc chia cho nông dân. Những cuộc phá kho thóc ở Ninh Bình trở thành những cuộc chống Nhật khủng bố, càn quét, bảo vệ cán bộ và cơ sở.
Tại Thái Bình, trong hai tháng 3 và 4, nhiều làng ở các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền Hải, Vũ Tiên, Tiên Hưng thu được 1000 tấn thóc chia cho dân.
Ở Hải Dương, trong thời gian này, nhân dân đã phá 39 kho thóc lấy 43 thuyền gạo với 2000 tấn. Riêng nhân dân các huyện phía nam tỉnh phá 26 kho, thu 28 thuyền gạo với 1238 tấn gạo.
Tự vệ và nhân dân Hưng Yên vừa phá các kho thóc, vừa thuyết phục các chánh tổng không thu thóc cho Nhật và chính quyền bù nhìn.
Nhân dân Hà Đông, Sơn Tây tịch thu thóc gạo của địch lên đường số 6, phá các kho thóc ở các huyện Ứng Hoà, Cần Kiệm, Tích Gian, Thạch Xá. Tại Quảng Yên, Hòn Gai, nhân dân sử dụng nhiều hình thức dây dưa, kéo dài hạn nộp thóc, tiến tới phá các kho thóc, gạo của Nhật và của bọn chủ mỏ.
Công nhân và dân nghèo thành thị ở Hà Nội, tiến hành phá kho thóc gạo của Nhật ở các phố Bắc Ninh, Lê Lợi, Phà Đen... thu hàng trăm tấn thóc.
Các tỉnh miền Trung như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn ra nhiều cuộc phá kho thóc cứu đói. Nhân dân Thanh Hoá có kinh nghiệm: nhân lúc Đồng minh ném bom, quân Nhật sợ hãi chạy trốn, xông vào các kho thóc Nhật để xúc thóc.
Cùng với khởi nghĩa từng phần, phong trào phá kho thóc của Nhật để cứu đói có ý nghĩa kinh tế chính trị rất sâu sắc và to lớn. Phong trào đã nhanh chóng giải quyết được nạn đói ở nhiều tỉnh, uy tín của Việt Minh lên rất cao. Phong trào thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh và khởi nghĩa trong nhân dân, tập dượt quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến những hình thức đấu tranh cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 135-138.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình: Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình (1930-1954), sơ thảo, Quảng Bình, 1995, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tỉnh (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 1.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Hưng (1927-1954), Hải Hưng, 1990, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t. I.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Hà Sơn Bình: Lịch sử Đảng bộ Hà Sơn Bình (1926-1945), Hà Sơn Bình, 1986, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
TỪ THÁNG 3 ĐẾN THÁNG 7
Phong trào khởi nghĩa từng phần sau ngày Nhật đảo chính Pháp
Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), thực hiện chủ trương của Đảng, đặc biệt là Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12-3-1945), phong trào khởi nghĩa từng phần bùng lan trên cả nước.
Phong trào diễn ra sôi nổi, phổ biến trước tiên ở sáu tỉnh miền núi Việt Bắc. Từ chiều ngày 10-3-1945, lực lượng Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chia làm nhiều bộ phận toả đi các nơi kết hợp với lực lượng tự vệ du kích và nhân dân các địa phương ở Việt Bắc đứng lên khởi nghĩa. Một bộ phận của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cùng lực lượng vũ trang Cao Bằng chặn các toán quân Pháp bỏ chạy ra vùng biên giới thu hàng trăm súng, lừa, ngựa và nhiều đạn; tổ chức quần chúng giành chính quyền. Trong nửa cuối tháng 3-1945, các huyện Hoà An, Nguyên Bình, Hà Quảng, Thạch An, Bảo Lạc, Quảng Uyên, Trùng Khánh (Cao Bằng) thành lập được chính quyền cách mạng, tổ chức chặn đánh quân Nhật, diệt trừ bọn phản động. Từ Cao Bằng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân còn tiến về nam Thất Khê, Bình Gia (Lạng Sơn), Bắc Quang (Hà Giang) tấn công địch, hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy. Một bộ phận lớn Đội Việt Nam tuyển truyền do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, từ Cao Bằng tiến xuống Ngân Sơn (Bắc Cạn) bao vây đồn Ngân Sơn, kêu gọi địch ra hàng. Tên đồn trưởng Pháp cùng toàn bộ binh lính đầu hàng Việt Minh. Ngày 21-3-1945, Ngân Sơn được giải phóng. Tiếp theo đó, dưới sự hoạt động mau lẹ của Đội Việt Nam tuyên truyền, sự ủng hộ tích cực của nhân dân, các châu Chợ Rã, Phủ Thông, Na Rì, Chợ Đồn lần lượt được giải phóng.
Cùng với Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng Cứu quốc quân ở Chiến khu Hoàng Hoa Thám cũng kịp thời cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa. Trong tháng 3 và tháng 4-1945, lần lượt các châu, huyện Sơn Dương, Yên Bình, Yên Sơn, Chiêm Hoá (Tuyên Quang); Chợ Chu Đại Từ, Phú Bình, Võ Nhai.. (Thái Nguyên) được giải phóng ở Lạng Sơn, trừ các huyện Cao Lộc, Lộc Bình và thị xã, còn hầu hết các phủ, huyện thành lập được chính quyền cách mạng.
Sự xuất hiện và lớn mạnh của phong trào khởi nghĩa từng phần mà thành quả trước tiên của nó là sự ra đời của chính quyền cách mạng cấp châu, huyện, xã ở Việt Bắc đã tạo điều kiện quyết định cho sự ra đời của Khu Giải phóng sau này.
Hoà nhịp với Việt Bắc, các địa phương ở Bắc, Trung Kỳ cũng thực hiện khởi nghĩa từng phần với những mức độ và cách thức rất phong phú. Ở Bắc Giang, trước khí thế đấu tranh cách mạng của nhân dân, Tri phủ Yên Thế bỏ chạy, tri huyện Hiệp Hoà xin cộng tác với Việt Minh. Toàn bộ huyện Hiệp Hoà và một phần huyện Yên Thế được giải phóng. Tại Bắc Ninh, chính quyền cách mạng được thiết lập ở hai xã Trung Màu và Dương Húc (huyện Tiên Du). Tại Hưng Yên lực lượng tự vệ tấn công đồn Bần, cách Hà Nội 27 km, thu toàn bộ vũ khí. Tại Quảng Ngãi, ngay trong tháng 3-1945, chính quyền cách mạng dưới hình thức Uỷ ban nhân dân được thiết lập ở châu miền núi Ba Tơ.
Từ giữa năm 1945, làn sóng khởi nghĩa từng phần tiếp tục dâng cao ở các địa phương, đẩy chính quyền cơ sở của phát xít Nhật và tay sai vào thế bất lực, rệu rã. Tháng 6-1945. Khu Giải phóng Việt Bắc ra đời. Tháng 7-1945, trong khi nhân dân Kiến Thụy (Kiến An) được sự giúp đỡ của lực lượng vũ trang huyện Tiên Lãng lật đổ chính quyền địch, lập Uỷ ban dân tộc giải phóng ở làng Kim Sơn, lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo tiến công, giải phóng thị xã Quảng Yên, gây chấn động ở miền duyên hải Đông Bắc thì nhân dân huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá) nổi dậy giành chính quyền thắng lợi.
Thắng lợi của phong trào khởi nghĩa từng phần biểu hiện sinh động cho sự đúng đắn của đường lối khởi nghĩa vũ trang mà Đảng ta đã vạch ra từ năm 1941; thể hiện sự chủ động sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân các địa phương.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930-2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bắc Thái: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Bắc Thái, 1980, t.I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (1930-1954), tái bản lần thứ nhất, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Lạng Sơn xuất bản, 1998.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940-1954),Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Tuyên Quang xuất bản, 1995, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang (1939-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t.I.
- Tỉnh uỷ Bắc Giang: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (1926-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ từ Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 124-133.
TỪ NGÀY 15 ĐẾN NGÀY 20 - 4
Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ
Đến tháng 4-1945, cuộc kháng Nhật, cứu nước của nhân dân ta đã giành được những thắng lợi lớn nhưng phát triển không đồng đều. Trong khi chú ý đẩy nhanh tập hợp lực lượng chính trị, Đảng ta thấy rằng cần phải xúc tiến mạnh hơn những hoạt động vũ trang hỗ trợ. Trung ương Đảng quyết định triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ nhằm giải quyết thêm những vấn đề quân sự, đẩy cao trào lên cao và lan rộng ra cả nước.
Hội nghị họp từ ngày 15 đến ngày 20-4-1945, tại huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang). Tham dự Hội nghị có đại diện các chiến khu ở Việt Bắc, Xứ uỷ Bắc Kỳ. Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì Hội nghị.
Sau khi phân tích những triển vọng tốt đẹp của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào cách mạng thế giới xem xét những mặt mạnh, mặt yếu của phong trào cách mạng trong nước, Hội nghị khẳng định: “Chúng ta đang ở vào giai đoạn chiến lược "phát động du kích" để chuẩn bị phát động tổng khởi nghĩa" và nhấn mạnh: "Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này".
Hội nghị quyết định phát triển lực lượng vũ trang, nửa vũ trang và thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; xây dựng bảy chiến khu chống Nhật trong cả nước, lấy tên các anh hùng dân tộc đặt tên cho các chiến khu. Đó là các chiến khu Lê Lợi, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo ở Bắc Kỳ; Trưng Trắc, Phan Đình Phùng ở Trung Kỳ; Nguyễn Tri Phương ở Nam Kỳ2.
Hội nghị cử ra Uỷ ban Quân sự cách mạng, trong đó có các đồng chí Võ Nguyên giáp, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn, có nhiệm vụ: "chỉ huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương về mặt chính trị và quân sự đồng thời có nhiệm vụ giúp đỡ cho toàn quốc về mặt quân sự".
Hội nghị còn bàn những nhiệm vụ quan trọng khác như phát triển cao trào Kháng Nhật, cứu nước, công tác tuyên truyền nhằm mục đích kháng Nhật, vấn đề đào tạo huấn luyện cán bộ, vấn đề liên hiệp kháng Nhật với Pháp Đờ Gôn và Hoa kiều...
Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã cụ thể hoá Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, góp phần thúc đẩy cao trào Kháng Nhật, cứu nước đi tới. Hội nghị đánh dấu một bước phát triển mới về tư tưởng quân sự của Đảng ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 382-400.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 139-140.
NGÀY 15 - 4
Đại hội đại biểu Xứ bộ Nam Kỳ ra hiệu triệu
Sau khi làm cuộc đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, phát xít Nhật và bọn tay sai ra sức tuyên truyền chiêu bài "Giải phóng” Đông Dương, hứa cho Đông Dương "một cuộc đời tự chủ”, nhằm đánh lạc hướng đấu tranh của nhân dân ta. Vua Bảo Đại cũng ra tuyên bố "đế quốc Việt Nam độc lập".
Để vạch trần chính sách thâm độc, phản động và lừa bịp của phát xít Nhật cổ vũ, hướng dẫn quần chúng tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, Đại hội đại biểu Xứ bộ Nam Kỳ ra Lời hiệu triệu các tầng lớp nhân dân, các “chính đảng phản đế”, các chiến sĩ cộng sản.
Bản hiệu triệu chỉ rõ: Nhật đảo chính Pháp chỉ là nhằm "đeo đuổi cuồng vọng chiếm bá quyền trên Đông Á chứ không có chút ý nghĩa gì vì dân tộc Đông Dương bấy lâu đã khổ sở dưới ách của đế quốc Pháp mà ra tay mở cũi tháo xiềng giùm".
Bản hiệu triệu "lột trần mặt nạ" của phát xít Nhật, tố cáo những tội ác của chúng đối với nhân dân ta như cấm các cuộc hội họp, tra tấn người Hoà Hảo, bạc đãi các lãnh tụ quốc gia.
Sau khi chỉ ra nguy cơ bại vong của phát xít Nhật, bản Hiệu triệu nêu rõ quan điểm của những người cộng sản đối với việc đấu tranh giành độc lập thực sự cho đất nước. Hiệu triệu viết: "Chiến sĩ cộng sản là con đẻ của quốc dân, thì cái gì tha thiết đến quyền lợi quốc dân không khi nào chúng tôi làm ngơ được (...). Đảng Cộng sản chúng tôi trải muôn trùng khủng bố của đế quốc Pháp, vẫn còn sống, và nay còn có bề sáng suốt mạnh mẽ hơn xưa. Chúng tôi là đảng duy nhất có cơ sở từ Cà Mau đến Lạng Sơn, ấy thế mà không xem rẻ một đoàn thể nhỏ nào, một cá nhân nào biết thương nước yêu dân".
Trên cơ sở đó, Hiệu triệu kêu gọi các tôn giáo Cao Đài, Hoà Hảo, các đảng phái, đoàn thể, phần tử yêu nước và đoàn thể nhân dân đề cao tinh thần tự lực "sớm tỉnh ngộ, sớm hiệp đoàn" tạo ra một "phong trào Việt Nam độc lập đồng minh có uy lực và nhân tài" góp phần “đem chủ quyền lại cho non sông gấm vóc", "cho dân giàu, cho nước mạnh, cho bao nhiêu xiềng xích đế quốc, phong kiến phải tiêu tan".
Hiệu triệu hô hào các chiến sĩ cộng sản ra sức hoạt động, đẩy mạnh phong trào đi tới. Hiệu triệu nhấn mạnh: “Chúng ta là tiền phong của dân chúng, hãy nỗ lực hoạt động, tuyên truyền tổ chức, chiến đấu cho thanh danh của Đảng được nêu cao, cho sứ mạng của dân được hoàn thành, giải thoát dân tộc".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 374-381.
NGÀY 16 - 4
Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức các Uỷ ban Dân tộc giải phóng
Từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), thực hiện chủ trương của Đảng, cùng với làn sóng khởi nghĩa từng phần, chính quyền cách mạng của nhân dân đã dần dần hình thành và phát triển ở nhiều nơi trên đất nước ta. Để làm rõ vai trò và chức năng của chính quyền cách mạng, ngày 16-4, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị: “Về việc tổ chức các Uỷ ban Dân tộc giải phóng".
Chỉ thị nêu rõ” Ủỷ ban Dân tộc giải phóng là hình thức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở các xí nghiệp, các làng (...) là hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyền cách mạng".
Chỉ thị vạch rõ: các nhà máy, đồn điền, trường học, trại lính, công sở hay tư sở, làng ấp cho đến các huyện, châu, phủ, quận, thành phố, tỉnh, đặc biệt khu, xứ và toàn quốc đều có thể tổ chức ra các Uỷ ban Dân tộc giải phóng theo từng cấp. Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (toàn quốc) tức là Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Chỉ thị đề ra nhiệm vụ cụ thể, cách bầu, việc lãnh đạo, sự phân công trong Uỷ ban Dân tộc giải phóng; mối quan hệ giữa Uỷ ban Dân tộc giải phóng với Uỷ ban Công nhân cách mạng và Uỷ ban Nhân dân cách mạng. Chỉ thị viết: “Đến lúc tổng khởi nghĩa, thì Uỷ ban Dân tộc giải phóng hết nhiệm vụ. Nó tự giải tán đi để cho nhân dân cử ra Uỷ ban Công nhân cách mạng ở các xí nghiệp hay Uỷ ban Nhân dân cách mạng ở làng". Chỉ thị còn nhấn mạnh trong tình hình hiện tại, ở những nơi nào du kích đã hoạt động mạnh và làm chủ thì có thể tổ chức ngay Uỷ ban Công nhân cách mạng hoặc Uỷ ban Nhân dân cách mạng, không cần tổ chức Uỷ ban Dân tộc giải phóng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 535-540.
TỪ NGÀY 20 ĐẾN NGÀY 21-4
Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng) tổ chức Hội nghị mở rộng bàn biện pháp kiện toàn tổ chức, phát triển phong trào
Sau khi thành lập Xứ uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng) các đồng chí trong Xứ uỷ đã phân công nhau về các địa phương khôi phục cơ sở Đảng và phong trào cách mạng.
Ngày 20, 21 tháng 4, Xứ uỷ lâm thời tổ chức Hội nghị mở rộng tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) để bàn biện pháp kiện toàn tổ chức, phát triển phong trào cách mạng. Hội nghị nhận định, đánh giá tình hình thế giới, trong nước, tình hình Nam Kỳ, tình hình Đảng và các tổ chức quần chúng. Hội nghị cho rằng: cuộc đảo chính đã đem lại cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta nhiều điều kiện thuận lợi, phong trào quần chúng chuyển biến tốt đẹp. Hội nghị cũng nêu vấn đề chia rẽ của Đảng bộ Nam Kỳ và tác hại của nó với phong trào cách mạng trong xứ.
Hội nghị chủ trương thống nhất tổ chức Đảng vào đường lối chính trị chung; bổ sung cán bộ cho các địa phương; kiện toàn Ban Cán sự miền Đông, bổ sung các đồng chí ở Gia Định, Tây Ninh vào cấp uỷ này; củng cố lại Ban Cán sự miền Tây; thi hành việc lập Mặt trận Việt Minh, bên cạnh cấp uỷ Đảng từ cấp xứ xuống cấp tổng. Về khẩu hiệu cách mạng, Hội nghị vẫn giữ nguyên là "Đánh đuổi Pháp - Nhật”.
Sau Hội nghị, các đồng chí trong Xứ uỷ trở về các địa phương triển khai chủ trương đã đề ra.
- Toạ đàm "Tiền phong”, "Giải phóng”, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Lịch sử Đảng số 5-1996.
NGÀY 8 - 5
Bắc Giang thí điểm chia ruộng đất đồn điền Pháp cho nông dân
Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ đề ra nhiệm vụ phát triển cao trào kháng Nhật, cứu nước ra toàn quốc, trong đó đặt ra vấn đề giải quyết ruộng đất cho dân nghèo. Hội nghị quyết định: “Vấn đề ruộng đất sẽ giải quyết bằng cách chia ruộng đất Việt gian cho dân hoặc cho dân khai hoang, tổ chức cuộc khai hoang tập thể".
Được Trung ương giao cho nhiệm vụ làm thí điểm việc chia ruộng đất của đồn điền Pháp cho nông dân, Ban Cán sự Đảng Bắc Giang quyết định chia ruộng đất hai đồn điền Cọ và Vát của Textalanh ở Hiệp Hoà. Ngày 8-5, một cuộc hội nghị có tính chất đại hội, gồm đại biểu Uỷ ban Dân tộc giải phóng các xã trong huyện Hiệp Hoà được tổ chức tại đình làng Quế Sơn (tổng Quế Trạo) bầu ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng huyện và quyết định việc tạm chia ruộng đất của đồn điền Cọ và Vát cùng việc giảm tô 25% cho nông dân.
Bản Nghị quyết của Hội nghị có ghi ba điểm quan trọng:
- Ruộng đất trong huyện là của chung của nhân dân: do Uỷ ban Dân tộc giải phóng huyện thay mặt quản lý, không người nào được nhận làm của riêng.
- Ruộng đất sẽ chia theo nhân lực và nhân khẩu cho tá điền nghèo không có hoặc có ít ruộng, đồng thời chú ý đúng mức đến các gia đình tá điền có công với cách mạng.
- Địa tô sẽ giảm 25% và sẽ được sử dụng phù hợp với nhu cầu của cách mạng và quyền lợi của nhân dân.
Đây là bản Nghị quyết đầu tiên của Đảng bộ Bắc Giang về việc thực hiện mục tiêu: "Người cày có ruộng". Nghị quyết thể hiện rõ quan điểm cách mạng, lập trường giai cấp của Đảng. Sự kiện này còn là một đòn mở đầu đánh vào cơ sở kinh tế và xã hội của bọn đế quốc và bọn tay sai phong kiến ở Bắc Giang, góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng ở Hiệp Hoà dâng lên mạnh mẽ, tiến tới giải phóng toàn huyện vào đầu tháng 6 năm 1945.
- Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 397.
- Bắc Giang, những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 159-160.
- Lịch sử Đảng bộ Hiệp Hoà (1938-1945), Huyện uỷ Hiệp Hoà xuất bản, 1985, t. I.
TỪ NGÀY 11 ĐẾN NGÀY 15 - 5
Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị cán bộ bàn biện pháp thúc đẩy cao trào kháng Nhật
Đến giữa năm 1945, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã bùng lan khắp nơi ở Bắc Kỳ. Trong tình hình đó, Xứ uỷ Bắc Kỳ tổ chức Hội nghị cán bộ để bàn biện pháp thúc đẩy cao trào kháng Nhật tiến lên mạnh mẽ hơn nữa, sẵn sàng đón thời cơ đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị nghe báo cáo, thảo luận về tình hình thế giới, trong nước; tình hình Đảng trên cả nước, tình hình Đảng ở Bắc Kỳ; tình hình Mặt trận dân tộc và dân chủ, ngoại giao; về Mặt trận Cứu quốc; về kiểm điểm công tác; về sửa soạn khởi nghĩa; chống khủng bố, chống các tổ chức Việt gian; về tài chính của Đảng và thời cơ khởi nghĩa.
Hội nghị nhận định: chiến tranh thế giới sắp kết thúc, Đồng minh đã tiến công Nhật, phong trào ở Nhật và thuộc địa Nhật đã nổi dậy; Đồng minh sắp đổ bộ lên Đông Dương đánh Nhật... do đó, ta phải nhanh chóng củng cố lực lượng, động viên quần chúng ra đấu tranh để kịp thời khởi nghĩa.
Về tình hình Đảng bộ Bắc Kỳ: Đảng bộ đã thống nhất ở khắp các tỉnh, đã liên lạc được cả với Việt Bắc và các nơi không thuộc phạm vi Xứ uỷ phụ trách. Hội nghị nhất trí: muốn Đảng có thể lãnh đạo được cuộc khởi nghĩa sắp tới, các cấp Đảng bộ phải tăng cường huấn luyện cán bộ, bổ sung cán bộ cho các tỉnh có vị trí quan trọng, lập chi bộ nhà máy; chú trọng phát triển Đảng, để "làm sao cho Đảng phát triển bằng mức phát triển của quần chúng, làm cho 1 đồng chí lãnh đạo 10 hội viên”.
Hội nghị đặc biệt chú trọng vấn đề sửa soạn khởi nghĩa, đề ra những nhiệm vụ cụ thể như: chuẩn bị vũ khí, chọn căn cứ địa, huấn luyện quân sự, tổ chức quân đội, thống nhất tự vệ, tập trung công tác vào những tỉnh quan trọng trong chuẩn bị khởi nghĩa.
Về thời cơ khởi nghĩa, Hội nghị nhất trí với tinh thần của Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta; đồng thời, Hội nghị còn vạch ra sách lược đối với quân Đồng minh và Pháp "Đờ Gôn" trong khi ta tiến hành khởi nghĩa; đặt tên các tỉnh ở Bắc Kỳ; sửa đổi một số điều lệ của Hội Cứu quốc.
Để củng cố và tăng cường cơ quan lãnh đạo cấp xứ, Hội nghị bầu ra một Ban Xứ uỷ mới.
- Biên bản Hội nghị cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-1997.
NGÀY 15 - 5
Việt Nam Giải phóng quân ra đời
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta rất quan tâm đến việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng, đến đầu năm 1945, trên thực tế, lực lượng vũ trang bị thứ quân đã hình thành và đóng vai trò nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của nhân dân ta, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tuy nhiên, các lực lượng vũ trang chưa được thống nhất trong chỉ đạo. Để phát triển lực lượng vũ trang lên một bước, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (tháng 4-1945) quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang của Đảng như Cứu quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân... thành Việt Nam Giải phóng quân.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị, ngày 15-5-1945: Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân gặp nhau tại địa điểm sau đình làng Quặng, xã Định Biên, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Cùng ngày, tại đình làng Quặng, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thống nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam Giải phóng quân. Lực lượng ban đầu của Việt Nam giải phóng quân gồm 13 đại đội (thống nhất từ các Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Trung đội Cứu quốc quân) và các đội vũ trang tập trung ở các tỉnh, huyện3.
Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu sự trưởng thành mới của tư duy và chỉ đạo công tác quân sự của Đảng ta.
- Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: 50 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân Hà Nội, 1995, tr. 17.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 139-140.
TỪ NGÀY 15 ĐẾN NGÀY 20 - 5
Tù chính trị Buôn Ma Thuột thoát ngục trở về các địa phương hoạt động
Từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), lợi dụng sự cho phép của chính quyền thân Nhật ở Buôn Ma Thuột, tù chính trị ở đây đã đi lại, thăm hỏi, tiếp xúc với nhân dân, binh lính và công chức trong thị xã, trong các đồn điền vùng phụ cận để tuyên truyền giác ngộ nhân dân binh lính, bắt mối liên lạc, gây dựng cơ sở.
Từ ngày 15 đến ngày 20-5-1945, sau khi đấu tranh đòi Nhật thả tự do, gần 300 chiến sĩ cộng sản sau bao năm tháng bị giam cầm đã thoát khỏi Nhà đày Buôn Ma Thuột, trở về các tỉnh Trung Kỳ, tham gia phong trào cách mạng từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Hầu hết các cựu tù chính trị này nhận những nhiệm vụ lãnh đạo quan trọng ở nhiều cấp bộ Đảng, Mặt trận Việt Minh, trong lực lượng vũ trang từ tỉnh đến huyện, góp phần to lớn vào thắng lợi của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám ở Trung Kỳ. Một số đồng chí nhận nhiệm vụ trở lại Buôn Ma Thuột để nắm các cơ sở cách mạng đã được xây dựng trong thị xã; ở một số đồn điền và tổ chức cơ sở Đảng đầu tiên ở Đắk Lắk. Chính nhờ các đồng chí hoạt động tích cực khẩn trương, phong trào cách mạng trong tỉnh đã phát triển, kịp thời thành chính quyền thắng lợi tại tỉnh lỵ Buôn Ma Thuột vào ngày 24-8.
Sau khi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 kết thúc thắng lợi, nhiều chiến sĩ cách mạng từng đào luyện trong Nhà đày Buôn Ma Thuột tham gia triệu tập Hội nghị cán bộ toàn xứ Trung Kỳ để khôi phục lại Xứ uỷ vào ngày 31-8-1945.
- Tỉnh uỷ Đắk Lắk - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột (1930-1945), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 121-122.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 133.
THÁNG 5
Đồng chí Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang) lập đại bản doanh lãnh đạo phong trào cách mạng trong cả nước
Nhạy bén trước sự chuyển biến của tình hình, với tinh thần tích cực khẩn trương, đầu tháng 5-1945, đồng chí Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Chiến khu Hoàng Hoa Thám chọn Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) làm đại bản doanh chỉ đạo phong trào cả nước, chuẩn bị gấp một số công việc cho Tổng khởi nghĩa. Người chọn Tân Trào vì nơi đây có địa thế hiểm trở; châu Sơn Dương cách tỉnh lỵ Tuyên Quang bởi con sông Lô, không có đường thông sang Thái Nguyên nên rất tiện lợi cho việc bảo đảm an toàn.
Tại Tân Trào, sau khi nghe báo cáo tình hình chung cả nước và kết quả Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ, đồng chí Hồ Chí Minh chỉ thị: Vùng giải phóng miền núi Bắc Kỳ bao gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và một số vùng thuộc các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên, địa thế nối liền nhau, cho nên phải thành lập một khu căn cứ cách mạng rộng lớn lấy tên là Khu Giải phóng. Đồng thời, Người còn chỉ thị cho các đồng chí Trung ương chuẩn bị triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân Việt Nam - cuộc Đại hội mà Người dự định tổ chức vào cuối năm 1944 - để sớm có những quyết định về vận mệnh của dân tộc.
Chọn Tân Trào làm chỗ ở và làm việc từ đó chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước là một quyết định sáng suốt và đúng đắn của đồng chí Hồ Chí Minh. Tân Trào trở thành nơi ra đời của những quyết sách làm chuyển xoay vận nước, đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr. 142-145.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 850.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Tuyên Quang: Lịch sử Đồng bộ tỉnh Tuyển Quang (1940-1954),Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Tuyên Quang xuất bản, 1995, t. I.
THÁNG 5
Chiến khu Quang Trung (Chiến khu Hoà - Ninh - Thanh) ra đời
Từ tháng 8-1944, Xử uỷ Bắc Kỳ chủ trương xây dựng một chiến khu bao gồm ba tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình và Thanh Hoá, song, do điều kiện khó khăn, chưa thực hiện được. Tháng 4-1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định xây bảy chiến khu trong cả nước, trong đó có Chiến khu Quang Trung (tức Chiến khu Hoà - Ninh - Thanh).
Theo chủ trương của Hội nghị, tháng 5-1945, Chiến khu Quang Trung gồm ba tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình và Thanh Hoá chính thức được lập. Vùng Quỳnh Lưu (Ninh Bình), Ngọc Trạo (Thanh Hoá), Diềm-Tu Lý (Hoà Bình) được chọn làm trung tâm chỉ đạo của Chiến khu.
Đây là vùng có vị trí chiến lược quan trọng, tiếp giáp giữa miền Bắc và miền Trung, có nhiều đường giao thông liên lạc. Cơ sở cách mạng ở đây đã có từ trước và phát triển mạnh từ sau ngày 9-3-1945. Các cán bộ đảng viên ở đây đã có kinh nghiệm xây dựng chiến khu.
Ở Quỳnh Lưu, ngay sau cuộc đảo chính của Nhật, nhân dân nổi dậy phá nhiều kho thóc, tổ chức chống địch khủng bố. Tháng 5-1945, đồng chí Văn Tiến Dũng về Quỳnh Lưu mở Hội nghị các Bí thư Tỉnh uỷ, Uỷ viên quân sự các tỉnh Thanh Hoá, Hoà Bình, Ninh Bình, Hà Nam để làm việc thành lập Chiến khu Quang Trung.
Ngày 4-7-1945, lực lượng vũ trang Quỳnh Lưu chiến đấu chống lại một đại đội lính Nhật vào càn quét, diệt 5 tên, làm bị thương 4 tên. Tin thắng Nhật đã tạo đà phấn khởi trong nhân dân, thúc đẩy bộ máy chính quyền địch ở thôn, xã tan rã.
Ở Hoà Bình, sau ngày 9-3-1945, theo chủ trương của Trung ương Đảng, Xứ uỷ Bắc Kỳ, Ban Cán sự Đảng tỉnh chủ trương xây dựng ba căn cứ Diềm - Tu Lý, Mường Khói và Cao Phong - Thạch Yên. Ở những nơi này, Việt Minh tranh thủ được một số lang đạo, cho nên việc phát triển các Hội cứu quốc và lực lượng vũ trang cũng có thêm thuận lợi.
Với Trung đội Giải phóng quân đầu tiên của chiến khu được thành lập ngày 20-6-1945, Chiến khu Quang Trung đã đóng vai trò thúc đẩy phong trào cách mạng ở ba tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá thêm sôi nổi. Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, các căn cứ ở Quỳnh Lưu, Diềm - Tu Lý, Mường Khói, Cao Phong - Thạch Yên đóng vai trò quyết định cho thắng lợi của việc giành chính quyền của hai tỉnh Ninh Bình và Hoà Bình.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 144-145.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
- Tỉnh uỷ Ninh Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Bình (1930-1975), Ninh Bình, 1996, t. I.
THÁNG 5
Xứ uỷ Nam Kỳ (Giải phóng) tổ chức Hội nghị kiện toàn cơ quan lãnh đạo cấp xứ và bàn chủ trương hành động mới
Từ tháng 3-1945, sau khi Xử uỷ lâm thời Nam Kỳ (Giải phóng) ra đời ở Xoài Hột (Châu Thành, Mỹ Tho), ở Nam Kỳ đã hình thành hai đầu mối chỉ đạo phong trào cách mạng. Đó là Xứ uỷ có báo Tiền phong làm cơ quan ngôn luận, do Trần Văn Giàu làm Bí thư và Xứ uỷ lâm thời có báo Giải phóng làm cơ quan ngôn luận, do Trần Văn Vi làm Bí thư.
Trong khi hai Xứ uỷ ra đời và tiến hành lãnh đạo phong trào cách mạng, một số đồng chí còn lại của Ban cán sự miền Đông là Lê Hữu Kiều, Hoàng Dư Khương... vẫn tiếp tục hoạt động ở Gia Định.
Tháng 5-1945, Xứ uỷ lâm thời (Giải phóng) bắt liên lạc với các đồng chí Lê Hữu Kiều, Hoàng Dư Khương. Các đồng chí tổ chức Hội nghị tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định), quyết định bầu Xứ uỷ lâm thời4. Xứ uỷ mới gồm các đồng chí Lê Hữu Kiều (Bí thư), Trần Văn Vi, Nguyễn Thị Thập, Hoàng Dư Khương, Thế... Xứ uỷ phân công Lê Hữu Kiều phụ trách tuyên truyền, báo chí; Trần Văn Vi, Nguyễn Thị Thập, Hoàng Dư Khương, Thế... phụ trách các công tác vận động, xây dựng lực lượng, huấn luyện vũ trang, bắt liên lạc để tiến tới thống nhất tổ chức Đảng, nơi nào có điều kiện thì lập thêm các tỉnh uỷ lâm thời. Hội nghị vẫn giữ khẩu hiệu cũ, chỉ sửa đổi từ "đánh đuổi Pháp -Nhật" thành "Đánh đuổi phát xít Nhật - đế quốc Pháp"5. Hội nghị quyết định thống nhất với Trung ương lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh ở giữa làm biểu tượng, mở rộng cho Hoà Hảo vào tham gia, cử cán bộ vào hoạt động trong Hoà Hảo.
Xứ uỷ đóng cơ quan ở Gia Định; ra báo Độc Lập và Giải phóng làm cơ quan tuyên truyền của Đảng và Việt Minh ở Nam Kỳ.
Sau Hội nghị, Xứ uỷ hoạt động một thời gian thì nhận được Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" do Trung ương chuyển vào. Xứ uỷ hoạt động theo khẩu hiệu đấu tranh của Trung ương "Đánh đuổi phát xít Nhật".
- Toạ đàm “Tiền phong", "Giải phóng”, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1996.
THÁNG 5
Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiên phong) chủ trương tổ chức "Thanh niên Tiền phong”
Đến giữa năm 1945, phát xít Nhật ngày càng bị thua liên tiếp trên các chiến trường ở Viễn Đông. Tại Nam Kỳ, quân đội Nhật hoang mang, dao động. Vào tháng 5-1945, phát xít Nhật định lợi dụng một số trí thức có uy tín để tập hợp một phong trào thanh niên để lôi kéo nhân dân. I Đa, người phụ trách Thanh niên và thể thao của Nhật đã gợi ý bác sĩ Phạm Ngọc Thạch6, một trí thức nổi tiếng, tổ chức một phong trào thanh niên.
Sau khi nghe bác sĩ Phạm Ngọc Thạch báo cáo, Xứ uỷ Nam Kỳ tổ chức Hội nghị mở rộng gồm 20 người trong đó có cả đại biểu các tỉnh về dự, tại một địa điểm vùng ngoại ô Thành phố Sài Gòn nhằm chủ trương lợi dụng cơ hội này để nhanh chóng tập hợp lực lượng. Hội nghị nhận định, “Nếu không có phong trào công khai thì không thể tranh thủ được nhanh chóng quần chúng với các tổ chức thân Nhật và đánh bại ảnh hưởng của bọn Tờrốtkít, không thể tập hợp quần chúng kịp với giai đoạn mà Nhật sắp bị bại trận, để cuộc khởi nghĩa sau này đỡ đổ máu. Lợi dụng công khai, ta vẫn nắm được tổ chức này vì ta có cơ sở công đoàn làm nòng cốt, ta có đủ cán bộ có khả năng hoạt động công khai nắm vai trò lãnh đạo".
Theo chủ trương đó, nhiều cuộc hội nghị giữa các đảng viên và trí thức yêu nước, tiến bộ được tiến hành để bàn biện pháp và cách thức tổ chức phong trào thanh niên lấy tên là: "Thanh niên Tiền phong”; tổ chức theo lối hướng đạo, lấy lá cờ vàng, sao năm cánh đỏ ở giữa làm biểu tượng; đoàn ca là bài "Lên Đàng”; trang phục sơ mi trắng cộc tay, quần sọc xanh, mũ rộng vành; khẩu lệnh hô "Thanh niên", đáp "Tiến"; vũ khí gồm gậy gộc, dây thừng.
Sau các cuộc họp này, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức khắp nơi trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, để tuyên truyền, vận động tổ chức "Thanh niên Tiền phong”.
- Cách mạng Tháng Tám ở Sài Gòn - Chợ Lớn, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 151-152.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr 622-623.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1990.
NGÀY 1- 6
Thanh niên Tiền phong ra đời và hoạt động
Sau một thời gian ngắn tích cực chuẩn bị, ngày 1-6-1945, Thanh niên Tiền phong ra mắt nhân dân tại Sài Gòn. Các thủ lĩnh gồm: Thái Văn Lung, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Huỳnh Tấn Phát... Trụ sở của Thanh niên Tiền phong đóng ở số 14 đường Sácne (Charner). Thanh niên Tiền phong lấy báo Tiến làm cơ quan tuyên truyền.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xử uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) trong một thời gian ngắn, phong trào Thanh niên Tiền phong phát triển vô cùng mạnh mẽ, thu hút mọi tầng lớp, lứa tuổi, giới tính vào tổ chức. Bắt đầu từ nội thành Sài Gòn, phong trào lan ra các vùng ngoại ô như Phú Lâm, Rạch Cát, Bình Đăng, Chánh Hưng, Khánh Hội... Từ Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào nhanh chóng lan ra hầu hết các tỉnh Nam Kỳ. Đến tháng 8-1945, Thanh niên Tiền phong thu hút 1.200.000 hội viên. Riêng ở Sài Gòn có 200.000 hội viên với 200 trụ sở ở các công xưởng, trường học.
Công đoàn bí mật và các hình thức biến tướng thực sự trở thành nòng cốt cho phong trào Thanh niên Tiền phong. Lợi dụng phong trào công khai này, Xứ uỷ (Tiền phong) mở rộng và phát triển đội ngũ công đoàn bằng cách tổ chức các công đoàn công khai mang tên "Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp”. Tổ chức công đoàn phát triển rất mau lẹ. Đến hết tháng 7 đầu tháng 8, “Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp" có trên 250 cơ sở với 120.000 đoàn viên. Hầu hết các xí nghiệp lớn ở Sài Gòn - Chợ Lớn đều có cơ sở của “Thanh niên Tiền phong Ban xí nghiệp".
Với sự lớn mạnh nhanh chóng về lực lượng, Thanh niên Tiền phong hoạt động sôi nổi: tổ chức huấn luyện chính trị, huấn luyện quân sự, truyền bá quốc ngữ, tổ chức ca hát, canh gác, giữ gìn trật tự, cứu tế cho miền Bắc... Nhiều nơi, Thanh niên Tiền phong lấn át cả chính quyền cơ sở của địch.
Ngày 1-7-1945, Thanh niên Tiền phong tổ chức lễ tuyên thệ tại Sài Gòn với lời thề phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Ngày 4-8-1945, Thanh niên Tiền phong lại tổ chức tuyên thệ tại Sài Gòn, ca ngợi những gương anh hùng như Lý Tự Trọng, Nguyễn Thị Minh Khai.
Ngày 22-8-1945, Thanh niên Tiền phong ra tuyên bố tự nguyện chiến đấu trong Mặt trận Việt Minh với khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập”, “Chính phủ cộng hoà dân chủ”, “Chính quyền về Việt Minh".
Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Thanh niên Tiền phong đóng vai trò nòng cốt, làm nên thắng lợi nhanh chóng, kịp thời, ít đổ máu ở Nam Kỳ, Sài Gòn.
Sự ra đời và hoạt động đầy hiệu quả của Thanh niên Tiền phong chứng tỏ Xử uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) đã bắt đúng mạch phong trào cách mạng, đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân có tư duy chính trị nhạy bén và có uy tín lớn trong nhân dân; Thanh niên Tiền phong chính là lực lượng cách mạng hùng hậu nhất ở Nam Bộ, Sài Gòn trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám của nhân dân ta.
- Những ngày Tháng Tám, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1961, tr. 236-246.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 151-152.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr. 622-623.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1990.
- Hà Nội ngày nay, tháng 9-1995, tr. 9.
NGÀY 4 - 6
Tổng bộ Việt Minh thành lập Khu Giải phóng Việt Bắc
Chấp hành chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh về việc thành lập một căn cứ cách mạng rộng lớn ở Việt Bắc, ngày 4-6, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị tuyên bố thành lập Khu Giải phóng.
Phạm vi Khu Giải phóng bao gồm hai căn cứ địa lớn, tức là sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, một số vùng phụ cận thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái. Khu Giải phóng đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban Chỉ huy lâm.
Để xây dựng Khu Giải phóng vững chắc về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời, các Uỷ ban nhân dân cách mạng do dân cử đã ra sức huy động mọi lực lượng trong khu từng bước thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh:
- Thủ tiêu lực lượng của Nhật, trừ khử Việt gian, trừng trị lưu manh.
- Tịch thu tài sản của lũ giặc cướp nước và của Việt gian làm của chung toàn dân hoặc chia cho dân nghèo.
- Thực hiện phổ thông tuyển cử và các quyền tự do dân chủ.
- Vũ trang quần chúng, động viên quần chúng tham gia xây dựng du kích, ủng hộ giải phóng quân chống Nhật tấn công vùng giải phóng.
- Tổ chức khai hoang, khuyến khích sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc cho Khu Giải phóng.
- Quy định ngày lao động, thi hành kỷ luật bảo hiểm, cứu tế xã hội.
- Chia lại ruộng đất công, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ.
- Bỏ thuế khoá và phu dịch do chế độ thực dân đặt ra, dự định đặt thuế luỹ tiến lợi tức duy nhất và nhẹ.
- Chống nạn mù chữ, huấn luyện quân sự, chính trị phổ thông cho nhân dân.
- Dân tộc bình đẳng, trai gái ngang quyền.
Lập Khu Giải phóng là chủ trương và quyết định sáng suốt của đồng chí Hồ Chí Minh. Khu Giải phóng ra đời với việc thực hiện 10 chính sách của Việt Minh, hơn 1 triệu đồng bào thuộc các dân tộc khác nhau bắt đầu được hưởng một cuộc sống tự do độc lập do cách mạng đem lại. Khu Giải phóng ra đời đã tạo thêm thanh thế cho Việt Minh trước nhân dân trong nước cũng như trước lực lượng dân chủ thế giới. Khu Giải phóng được thành lập tạo điều kiện và thúc đẩy phong trào cách mạng trên cả nước, trước hết là ở Bắc Kỳ tiến mạnh mẽ hơn nữa.
Nhận xét về Khu Giải phóng, đồng chí Trường Chinh cho rằng đó là hình ảnh "nước Việt Nam mới ra đời (...) một phần Bắc Bộ đã thực tế đặt dưới chính quyền cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 541-545.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 141-142.
- Trường Chinh: Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 9.
NGÀY 8 - 6
Chiến khu Đông Triều ra đời
Thực hiện chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc kỳ (từ ngày l5 đến ngày 20-4-1945), Tỉnh uỷ Hải Dương nghiên cứu, tổ chức xây dựng chiến khu. Tỉnh uỷ giao trách nhiệm cho cán bộ có năng lực và kinh nghiệm thực thi nhiệm vụ xây dựng chiến khu ở vùng rừng núi Chí Linh và Đông Triều.
Sáng ngày 8-6, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Hải Dương, quần chúng nhân dân các huyện phía bắc tỉnh Hải Dương, nhất là lực lượng công nhân mỏ than Mạo Khê, Đông Triều nổi dậy đánh chiếm các đồn: Chí Linh, Đông Triều, Mạo Khê, Tràng Bạch.
Chiều ngày 8-6, hàng vạn quần chúng kéo về chùa Bắc Mã (Đông Triều) nghe Ban lãnh đạo tuyên bố thành lập khu Chiến khu Đông Triều. Uỷ ban Quân sự cách mạng ra mắt nhân dân.
Chiến khu có con dấu hình tròn, vành ngoài có chữ “Việt Nam độc lập đồng minh", dưới có ngôi sao nhỏ, trong lòng dấu có chữ “Du kích cách mạng quân". Ngày 9-8, lực lượng vũ trang chính thức được phiên chế thành các đơn vị lấy tên là "Du kích cách mạng quân". Lực lượng phần lớn là công nhân mỏ, nông dân các đồn điền, học sinh, binh lính, bảo an binh, thuỷ binh. Họ đều nghiêm trang làm lễ tuyên thệ chiến đấu đến cùng cho cách mạng. Đến tháng 8-1945, Chiến khu đã có 500 du kích với đầy đủ vũ khí.
Ngày 15-6, đồng chí Trần Đức Thịnh, Xứ uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ về trực tiếp rút kinh nghiệm và chỉ thị củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, phát động phong trào quần chúng, mở rộng địa bàn hoạt động của chiến khu. Đồng chí cũng truyền lệnh trên công nhận chiến khu là Chiến khu Trần Hưng Đạo - Chiến khu thứ tư (Đệ tứ chiến khu) theo chủ trương của Trung ương Đảng trong Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ.
Chiến khu ra đời đã đẩy chính quyền cơ sở của địch ở vùng phía bắc của tỉnh Hải Dương vào thế bất lực, rệu rạo hoặc tan rã. Một phong trào đấu tranh tấn công, đột nhập vào các phủ, huyện lỵ, tước vũ khí của địch, lập chính quyền cách mạng, diệt trừ phản động thổ phỉ, phá kho thóc cứu đói... diễn ra sôi nổi ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách, Thanh Hà... Đến cuối tháng 6 đầu tháng 7-1945, hầu hết các xã thuộc các huyện Chí Linh, Đông Triều, Kinh Môn thành lập được Uỷ ban Nhân dân cách mạng huyện.
Chiến khu Đông Triều còn mở rộng phạm vi hoạt động và ảnh hưởng tới các địa phương ở Duyên hải, Đông Bắc như Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên, Uông Bí, Hòn Gai.. Chiến khu Đông Triều có vị trí quan trọng vì nó nằm ở vùng giàu có về khoáng sản, tập trung công nhân, nhân dân có truyền thống đấu tranh cách mạng; lại án ngữ ở vùng Đông Bắc Bắc Kỳ, giáp với Bắc Giang, nối liền với Khu Giải phóng. Do đó trong tháng 6 và tháng 7-1945, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công càn quét vào Chiến khu nhưng đều thất bại.
Chiến khu Đông Triều có ảnh hưởng và tác động quan trọng đối với cao trào Kháng Nhật, cứu nước cũng như đối với cuộc khởi nghĩa ở vùng Đông Bắc của nước ta.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương: Sự kiện lịch sử Đảng bộ Hải Dương (1928 - 1954), 1997, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Hưng (1927-1954), Hải Hưng, 1990, t. I.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 145.
NGÀY 27- 6
Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi thư cho các đồng chí Trung Kỳ
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng bộ Trung Kỳ gặp rất nhiều khó khăn. Bị đế quốc và tay sai khủng bố rất dã man, trong nội bộ lại có bọn A-B phá hoại, các tổ chức Đảng ở Trung Kỳ bị tổn thất nặng, không thống nhất; các đồng chí nghi kị lẫn nhau; chủ nghĩa cô độc, đầu óc địa phương nặng nề. Sau cuộc đảo chính của Nhật (9-3-1945), tình hình trên bớt được một phần.
Để chỉnh đốn và làm cho Đảng bộ Trung Kỳ có thể đảm trách vai trò lãnh đạo phong trào cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ, Ban Thường vụ Trung ương gửi thư cho các đồng chí Trung Kỳ.
Ban Thường vụ Trung ương phân tích nguyên nhân của những nguy hại mà phong trào của cách mạng đang gặp phải, đồng thời chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của các đồng chí ở Trung Kỳ là: phải tổ chức Đảng từ trên xuống dưới, định rõ tội trạng của bọn A-B, từng nơi tẩy trừ những phần tử khả nghi, cơ hội, bè phái, không trung thành ra khỏi hàng ngũ Đảng; gấp rút tiến tới cuộc Đại hội đại biểu toàn xứ hay hội nghị cán bộ, đặng thống nhất Đảng bộ, bầu ra Xứ uỷ và các Ban tỉnh uỷ hay Liên tỉnh uỷ chính thức.
Trong thư, Trung ương cũng báo tin cho các đồng chí ở Trung Kỳ biết việc chỉ định Uỷ ban Thống nhất Trung Kỳ để chắp nối mọi liên lạc họp hội nghị trù bị để sửa soạn hội nghị thống nhất toàn xứ.
Cuối thư, Trung ương kêu gọi:
"Cơ hội quyết định vận mệnh ngàn năm của Tổ quốc đang đến. Không thể biệt phái chia rẽ! Không thể do dự, hoài nghi (...). Các đồng chí Trung Kỳ đã đi hàng đầu trong nhiều cuộc vận động quyết liệt thì nhất định cũng không thể vắng mặt trong cao trào kháng Nhật cứu nước (... ). Các đồng chí hãy dũng cảm tiến lên!".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 401-403.
THÁNG 6
Uỷ ban Thống nhất Trung Kỳ được thành lập
Sau ngày 9-3-1945, phong trào vượt ngục của các chiến sĩ cộng sản từ các nhà tù Lao Bảo, Buôn Ma Thuột... từ các trại giam địa phương đã bổ sung lực lượng lãnh đạo cho các tỉnh Trung Kỳ. Nhờ sự tham gia hoạt động tích cực của các đồng chí, ngoài bốn tỉnh đã thành lập được Tỉnh uỷ vào năm 1944, một số tỉnh tổ chức được cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh dưới hình thức Tỉnh uỷ lâm thời, Ban Cán sự Đảng, Ban Vận động thành lập Đảng, Ban Vận động Việt Minh... Tuy nhiên, sự khôi phục của Đảng bộ Trung Kỳ vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là thiếu một cơ quan lãnh đạo cấp xứ, sự nghi kỵ, bè phái ở nhiều nơi.
Thấy rõ tình hình rời rạc về tổ chức và những hạn chế của Đảng bộ, Trung ương đã viết thư gửi các đồng chí miền Trung giao trách nhiệm cho một số cán bộ trực tiếp giúp Đảng bộ khắc phục khuyết điểm, hạn chế. Tháng 6- 1945, theo sự chỉ định của Trung ương, Uỷ ban Thống nhất Trung Kỳ được thành lập, có nhiệm vụ lựa chọn và chắp lại các mối và họp hội nghị trù bị để chuẩn bị cuộc hội nghị thống nhất toàn xứ.
Uỷ ban Thống nhất Trung Kỳ đặt cơ quan tại thành phố Vinh. Uỷ ban cử cán bộ đi các địa phương để thực hiện nhiệm vụ của Trung ương giao phó nhưng kết quả rất hạn chế. Do bị địch đánh phá nhiều lần, sự nghi ngờ lẫn nhau giữa những người cộng sản không thể giải toả được nhanh chóng, trong quá trình Tổng khởi nghĩa, Trung Kỳ chưa có một cơ quan lãnh đạo chung cho toàn xứ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000, t. 7. tr. 402.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1995.
- Bài giải đáp của đồng chí Trường Chính về Cách mạng Tháng Tám, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
THÁNG 6
Chiến khu Âu Cơ (Chiến khu Vần - Hiền Lương) ra đời
Phía tây bắc của Tổ quốc là một hướng quan trọng mà Đảng ta dự kiến quân Đồng minh cũng sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Theo tinh thần chủ động phối hợp, Đảng chủ trương chuẩn bị lực lượng ở hướng đó.
Từ giữa năm 1943, trên cơ sở nghiên cứu địa thế và tình hình hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái, Trung ương Đảng có ý định xây dựng một khu căn cứ cách mạng ở vùng giáp ranh ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái và Sơn La, thuộc các huyện Hạ Hoà, Phù Yên, Trấn Yên, Văn Chấn. Đây là vùng có địa thế hiểm yếu với bảy dãy núi cao từ 2000 mét đến 3000 mét bao bọc (núi Nả chạy dọc với bờ ngòi Lao, nằm trên đường đi Nghĩa Lộ; núi Giang ngăn cách ngòi Vân với đường số 13; núi Muối án ngữ cửa ngõ sông Hồng...), có khả năng thực hiện tự cấp tự túc về kinh tế, có đường giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc và giàu lòng yêu nước. Từ khu vực này có thể tiến sang Lào Cai, Yên Bái hoặc xuống Phú Thọ, hợp lực với đồng bằng. Trong tình hình không thuận lợi có thể dựa vào núi rừng trùng điệp và đồng bào các dân tộc thiểu số mà thực hiện chiến tranh du kích.
Từ chủ trương đó, tháng 10-1943, Trung ương Đảng giao cho một số cán bộ về vùng Hiền Lương (Hạ Hoà, Phú Thọ) để xây dựng cơ sở, làm nơi đón tiếp những chiến sĩ cách mạng trong Nhà tù Sơn La, Nghĩa Lộ vượt ra, là nơi để một số cán bộ Việt Minh ở dưới xuôi bị lộ lên hoạt động; đồng thời, xây dựng nơi đây thành căn cứ du kích chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền ở hai tỉnh Phú Thọ, Yên Bái. Với sự hoạt động tích cực của các cán bộ được giao nhiệm vụ, cơ sở cách mạng bắt đầu được gây dựng ở Hiền Lương (Hạ Hoà, Phú Thọ), Vần (Văn Chấn, Yên Bái), Nang Sa (Yên Bình, Yên Bái)..., sau đó lan sang các vùng phụ cận. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong vùng, Trung ương Đảng quyết định thành lập Ban Cán sự Liên tỉnh Phú - Yên (Phú Thọ - Yên Bái) gồm ba đồng chí. Cơ sở cách mạng trong khu vực Vần - Hiền Lương và các vùng xung quanh phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đến đầu năm 1945, các đoàn thể của Mặt trận Việt Minh được xây dựng ở 12 làng của tỉnh Phú Thọ, 7 làng thuộc tỉnh Yên Bái. Ngày 6-5-1945, Chi bộ Đảng lần đầu tiên trong vùng được thành lập ở Nang Sa. Ngày 14-5-1945, Đội du kích Âu Cơ được thành lập ở chùa Hiền Lương gồm có 33 chiến sĩ, có 11 khẩu súng và khoảng 5000 viên đạn. Sau một tháng ra đời, Đội du kích phát triển lên tới hơn 100 đội viên, phiên chế thành 4 trung đội.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng và sự ra đời của lực lượng vũ trang khu vực Vần - Hiền Lương, theo đề nghị của Chi bộ Đảng Nang Sa, Xứ uỷ Bắc Kỳ chuẩn y việc thành lập Chiến khu Âu Cơ, thuộc hai tỉnh Phú Thọ - Yên Bái, lấy Vần - Hiền Lương làm trung tâm, do đồng chí Bình Phương (tức Nguyễn Đức Vũ) làm Chỉ huy trưởng.
Chiến khu Âu Cơ ra đời đã ảnh hưởng tích cực đến cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở các địa phương của các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Sơn La và được nhân dân đồng tình ủng hộ (chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nhân dân trong vùng đã ủng hộ hàng vạn đồng, hàng trăm tấn thóc để xây dựng Chiến khu). Chiến khu trở thành nơi tổ chức và luyện tập lực lượng vũ trang, nơi đào tạo cán bộ cách mạng, nơi tiêu diệt quân Nhật.. nơi xuất phát các lực lượng vũ trang tham gia làm nòng cốt cho cuộc khởi nghĩa ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 147.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ: Lịch sự Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (1939-1968), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. I.
THÁNG 6
Các tỉnh các Nam Trung Kỳ xúc tiến phối hợp hành động chung
Sau ngày Nhật đảo chính (9-3-1945), phong trào cách mạng ở các tỉnh cực Nam Trung Kỳ đã vượt lên khó khăn, phục hồi và phát triển. Nhiều cán bộ kỳ cựu, có kinh nghiệm hoạt động sau khi thoát khỏi Nhà đày ở Buôn Mê Thuột, Trại tập trung Lý Hy (Thừa Thiên), Nhà lao Phan Rang, Trại tập trung Trà Kê lần lượt trở về hoạt động. Đầu năm 1945, Ban Việt Minh lâm thời tỉnh Ninh Thuận được tổ chức. Tháng 5-1945, Tỉnh bộ Việt Minh lâm thời tỉnh Lâm Viên ra đời. Một tháng sau, Ban Vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận được thành lập.
Tuy phong trào ở ba tỉnh đã hồi phục và phát triển, nhưng đến lúc này các Ban Việt Minh của ba tỉnh vẫn chưa nhận được sự chỉ đạo của cấp trên. Với tinh thần tích cực, chủ động công tác, cuối tháng 6-1945, Ban Vận động Việt Minh của tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên tổ chức họp tại làng Vạn Phước (tỉnh Ninh Thuận). Tham gia cuộc họp này có các đồng chí Lê Tự Nhiên, Bí thư Ban Việt Minh lâm thời tỉnh Ninh Thuận; Nguyễn Sắc Kim, Phụ trách Ban Vận động Việt Minh lâm thời tỉnh Bình Thuận; Ngô Huy Diễn, Thư ký Tỉnh bộ Việt Minh Lâm Viên. Cuộc họp bàn về tình hình chung và vạch kế hoạch phối hợp hành động, bầu ra ban liên lạc của ba tỉnh, cử đồng chí Lê Tự Nhiên đi tìm liên lạc với cơ quan lãnh đạo cấp trên.
Việc thống nhất được mối quan hệ lãnh đạo của ba tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và Lâm Viên là biểu hiện sinh động cho tinh thần tích cực, chủ động của các đảng viên ở cực Nam Trung Kỳ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Thuận (1930 -1954), Bình Thuận,1994, t. I.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (1930-1975), Ninh Thuận, 1995.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Lâm Đồng: Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (1930-1945), Lâm Đồng, 1981.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1995.
GIỮA NĂM
Đảng bộ Nam Kỳ xúc tiến công tác thống nhất về tổ chức và hành động
Trong quá trình khôi phục và hoạt động, do nhiều nguyên nhân, từ tháng 3-1945 ở Nam Kỳ hình thành hai hệ thống tổ chức Đảng do hai đầu mối chỉ đạo là Xứ uỷ có báo Tiền phong làm cơ quan ngôn luận và Xứ uỷ có báo Giải phóng làm cơ quan tuyên truyền tổ chức vận động quần chúng.
Nhận thức rõ những tác hại do sự phân liệt về mặt tổ chức cũng như sự khác nhau về một số quan điểm, phương pháp tiến hành cách mạng, các đồng chí lãnh đạo của hai Xứ uỷ đã nhiều lần gặp nhau để bàn chuyện thống nhất về tổ chức và hành động.
Lần đầu tiên, vào tháng 4-1945, đồng chí Trần Văn Giàu đại diện cho Xứ uỷ (Tiền phong) đến gặp đại diện của Xứ uỷ (Giải phóng) tại Bà Điểm (Gia Định) để bàn kế hoạch thống nhất. Hai bên đồng ý thống nhất, song việc hợp nhất không được tiến hành.
Lần thứ hai, cũng trong tháng 4-1945, đồng chí Hà Huy Giáp, đại diện cho Xứ uỷ (Tiền phong) gặp gỡ các đồng chí Xứ uỷ (Giải phóng) tại Bà Điểm. Cuộc họp này cũng không mang lại kết quả.
Lần thứ ba vào tháng 6-1945, các đồng chí trong Xứ uỷ (Tiền phong) yêu cầu các đồng chí trong Xứ uỷ (Giải phóng) họp bàn về thống nhất tổ chức Đảng tại một địa điểm ở ngoại ô Chợ Lớn; song cuộc họp không diễn ra.
Ngoài những cuộc gặp gỡ chính thức, các đồng chí hai bên còn có nhiều cuộc tiếp xúc trao đổi để giải quyết những bất đồng, song đều không mang lại kết quả.
Những nỗ lực giải quyết sự khác biệt về quan điểm, phương pháp tiến hành cách mạng cũng như thống nhất về mặt tổ chức trong nội bộ Đảng bộ Nam Kỳ không đạt được kết quả như hai bên mong muốn. Theo đồng chí Trường Chinh thì do bên “Giải phóng" cho rằng Xứ uỷ (Tiền phong) có những phần tử nghi vấn chính trị, đòi phải giải tán Xứ uỷ (Tiền phong), kết nạp lại từng người một; bên Xứ uỷ (Tiền phong) lại yêu cầu gộp cả hai Xứ uỷ lại, không loại người nào. Do đó, việc họp bàn thống nhất giữa hai bên không mang lại kết quả.
- Toạ đàm "Tiền phong", "Giải phóng", lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Bài giải đáp của đồng chí Trường Chinh về Cách mạng Tháng Tám, tháng 4-1963, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 9-7
Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ ra Chỉ thị về củng cố, phát triển Đảng và phương pháp chống khủng bố
Đến tháng 7-1945, cao trào Kháng Nhật, cứu nước ở Bắc Kỳ phát triển vô cùng mạnh mẽ. Cùng với cuộc khởi nghĩa từng phần, lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi, phong trào phá kho thóc, cứu đói ở các địa phương kết hợp với các cuộc mít tinh, tuần hành, tuyên truyền võ trang gây nên không khí cách mạng sôi sục, đẩy chính quyền của phát xít và tay sai vào thế bất lực, rệu rã.
Trước sự chuyển biến mạnh mẽ, nhanh chóng của phong trào cách mạng việc bảo vệ phong trào, củng cố và phát triển lực lượng lãnh đạo càng trở nên cần kíp. Nhận thức rõ yêu cầu bức thiết đó, ngày 9-7-1945, Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ ra "Chỉ thị về củng cố và phát triển Đảng. Phương pháp chống khủng bố” gửi cho các cấp bộ và đảng viên trong toàn xứ.
Về củng cố và phát triển Đảng, Chỉ thị nêu rõ: phải thanh trừ ra khỏi Đảng những phần tử lười biếng, tiểu tư sản, thiếu tinh thần hy sinh; phải buộc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên có trình độ tri thức hay lý luận quá kém; phải dìu dắt những đồng chí trình độ lý luận hơi kém nhưng trung thực, hăng hái, sẵn sàng hy sinh...
Chỉ thị nêu hai vấn đề quan trọng của công tác củng cố và phát triển Đảng là "Tự chỉ trích và thi hành kỷ luật Đảng”.
Chỉ thị nêu rõ: "Các cấp bộ đảng phải đặc biệt chú ý về vấn đề củng cố và phát triển Đảng. Nếu không chúng ta sẽ đứng vào một tình trạng rất nguy hiểm là Đảng sẽ không lãnh đạo nổi phong trào một khi phong trào lên cao hết sức lan rộng".
Về phương pháp chống khủng bố, Chỉ thị nếu rõ các biện pháp cụ thể, áp dụng ở cả thành thị lẫn nông thôn. Chỉ thị yêu cầu các đồng chí hoạt động ở thành phố lúc đi ngoài đường không nên mang thư, tài liệu, nếu mang theo phải ngụy trang cẩn thận tránh địch kiểm soát, ởnhà hay ở cơ quan phải có chỗ bí mật, có lối thoát khi địch ập đến; cơ quan chuyên môn phải đặt vị từ xa đường lớn, dễ canh phòng. Đối với vùng nông thôn, Chỉ thị yêu cầu các Uỷ ban Việt Minh kêu gọi nhân dân thực hiện chính sách “Vườn không nhà trống”; các Đội tự vệ cắt đặt nhau bảo vệ dân làng, đồng thời mai phục đánh địch.
Chỉ thị còn chỉ rõ cách chống khủng bố trong lúc tổ chức nhân dân biểu tình như phải sắp đặt chu đáo trong lúc lâm sự, kịp thời ra lệnh cho quần chúng giải tán, các Đội tự vệ phải được hố trí từ trước và sẵn sàng chiến đấu, phải giải thích âm mưu khủng bố của địch để củng cố lòng tin của quần chúng vào Đảng, vào thắng lợi của cách mạng.
Chỉ thị kết luận: "tình thế càng nghiêm trọng bao nhiêu các đồng chí phải nỗ lực hoạt động bấy nhiêu để củng cố phát triển Đảng cũng như càng cần phải thi hành triệt để phương pháp chống khủng bố bấy nhiêu để bảo vệ lấy phong trào".
Chỉ thị "Về củng cố và phát triển Đảng. Phương pháp chống khủng bố” của Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ thể hiện rõ sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Xứ uỷ với phong trào cách mạng trong xứ; góp phần tăng cường lực lượng lãnh đạo, bảo vệ phong trào cách mạng trước những âm mưu và hành động khủng bố của bọn phát xít Nhật và tay sai.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 404-411.
NGÀY 17 - 7
Ban Thường vụ Trung ương kêu gọi "Để thống nhất Đảng bộ Nam Kỳ hãy kíp đi vào đường lối"
Sau cuộc đảo chính của phát xít Nhật (9-3-1945), phong trào cách mạng ở Nam Kỳ phục hồi nhanh chóng. Đến tháng 8-1945, toàn Nam Kỳ đã có 18 tỉnh, thành phố có cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh. Tuy nhiên, phong trào cách mạng ở Nam Kỳ có hạn chế là không thống nhất về tổ chức. Trong cùng một địa bàn cùng một thời gian mà có hai hệ thống Đảng, đứng đầu là hai xứ uỷ, song song tồn tại, với hai cơ quan ngôn luận là báo Tiền phong và báo Giải phóng. Ngoài sự phân biệt về tổ chức, không tin tưởng lẫn nhau, cả hai Xứ uỷ còn đặt ra những khẩu hiệu đấu tranh không sát hợp với tình hình và không theo đúng khẩu hiệu của Trung ương. Trước ngày Nhật đảo chính, Xứ uỷ (Tiền phong) chủ trương "rút khẩu hiệu chống Pháp, lấy cớ là để bắt tay với Pháp dân chủ, đánh phát xít Nhật', đề xướng khẩu hiệu: "Kháng Nhật, kiến quốc". Xứ uỷ (Giải phóng) trái lại, sau cuộc đảo chính vẫn giữ khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp”.
Nhận rõ tai hại của sự phân liệt về tổ chức, cũng như “Cái nguy cơ đặt sai khẩu hiệu không phải nhỏ của Đảng bộ Nam Kỳ, Trung ương Đảng cử cán bộ vào giúp đỡ các đồng chí trong Nam, đồng thời chỉ thị để uốn nắn cho Đảng bộ. Tinh thần chỉ thị đó thể hiện trong bài "Để thống nhất Đảng bộ Nam Kỳ hãy kịp đi vào đường lối” của đồng chí Trường Chinh, đăng trên báo Cờ giải phóng, số 15, ra ngày 17-7-1945.
Bài báo chỉ rõ tác hại của những quan điểm lệch lạc của cả hai Xứ uỷ và phê phán: "Trước ngày Nhật đảo chính mà tự ý bỏ khẩu hiệu chống Pháp thì có khác gì thừa nhận quyền thống trị của phát xít Pháp, chuộng ách Pháp hơn ách Nhật?"; trái lại, sau cuộc đảo chính mà vẫn dùng khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp" thì "có khác gì đánh vuốt đuôi một kẻ đã ngã, có khác gì chém dao xuống nước hay đẩy một cái cửa bỏ ngỏ".
Trung ương Đảng kêu gọi các đồng chí ở Nam Kỳ hãy gạt bỏ thành kiến, thủ tiêu khẩu hiệu của riêng mình mà theo khẩu hiệu của Đảng; đề cao tinh thần tự chỉ trích bônsêvích mà thống nhất Đảng bộ.
Trung ương Đảng kết luận: "Chúng ta sẽ phạm phải một tội lớn nếu trước giờ quyết liệt chúng ta còn chia rẽ mãi”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 412- 415.
NGÀY 20 - 7
Lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo đánh chiếm thị xã Quảng Yên
Sau khi Chiến khu Trần Hưng Đạo ra đời, lực lượng vũ trang Chiến khu được xây dựng. Cùng với việc tấn công, hỗ trợ cho các địa phương thuộc phạm vi của chiến khu và rừng phía bắc tỉnh Hải Dương nổi dậy, lực lượng vũ trang Chiến khu còn tác động, hỗ trợ cho phong trào cách mạng đang dâng cao ở các tỉnh khác như Kiến An, Hải Phòng, Quảng Yên. Dưới sự ảnh hưởng của Chiến khu, Tự vệ Thuỷ Nguyên đột nhập huyện đường thu 14 súng; Tự vệ Kiến Thuỵ táo bạo tấn công địch ở Tiên Bàng; căn cứ du kích ở Kim Sơn (Kiến An) được thành lập tổ chức chống Nhật càn quét.
Đặc biệt, sau hơn 1 tháng ra đời, Uỷ ban Quân sự cách mạng Chiến khu Trần Hưng Đạo quyết định tiến đánh tỉnh lỵ Quảng Yên, một vị trí chiến lược của tỉnh.
Thị xã Quảng Yên nằm trên con đường giao thông liên tỉnh nối Hòn Gai, Uông Bí với Hải Phòng, là nơi tập trung các cơ quan của chính quyền bù nhìn của tỉnh.
Thị xã Quảng Yên cũng là nơi cơ sở Việt Minh phát triển sớm, ngay trong trại bảo an cũng có người của cách mạng.
Sau các trận đội du kích Chiến khu Trần Hưng Đạo tấn công Uông Bí, Bí Chợ, binh lính và quan lại ở thị xã Quảng Yên rất hoang mang, lo sợ, nội bộ bị phân hoá, rối loạn. Nắm được tình hình trên, Chiến khu điều bốn trung đội theo sông Kinh Thầy tiến về thị xã. Lúc này, bọn Đại Việt ở Hải Phòng sang Quảng Yên thúc ép tỉnh trưởng Quảng Yên giao chính quyền cho chúng. Để ngăn chặn âm mưu của bọn phản động, lực lượng vũ trang Chiến khu quyết định nổ súng tấn công thị xã vào sáng ngày 20-7. Sau phát súng của quân cách mạng, những binh lính yêu nước mở cửa đồn. Tên quan hai chỉ huy lực lượng bảo an ninh Quảng Yên đầu hàng, mặc dù trong đồn vẫn có tới 500 quân với toàn bộ vũ khí.
Lực lượng vũ trang Chiến khu cùng với lực lượng cách mạng trong thị xã chia nhau đi chiếm các công sở của chính quyền bù nhìn: dinh tỉnh trưởng, kho bạc, nhà bưu điện ...; phá nhà tù, giải phóng cho nhiều người đang bị giam giữ. Tất cả binh lính, quan lại đều đầu hàng; nhiều tên Việt gian khét tiếng bị bắt giữ. Lực lượng vũ trang Chiến khu thu gần 500 súng các loại, 1 kho đạn và nhiều đồ dùng quân sự khác. Các cán bộ cách mạng còn tổ chức mít tinh, giải thích chính sách của Việt Minh, kêu gọi mọi người tham gia vào các đoàn thể Cứu quốc, đứng lên đánh Nhật, cứu nước.
Sau khi làm chủ thị xã 1 ngày, lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo rút quân để bảo toàn lực lượng.
Chiến thắng ở thị xã Quảng Yên là chiến thắng lớn nhất của quân cách mạng Chiến khu Trần Hưng Đạo kể từ ngày thành lập. Nó là trận đấu tranh kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng vũ trang Chiến khu Trần Hưng Đạo với lực lượng địa phương và nhân mối trong lòng địch. Đây là lần đầu tiên, lực lượng vũ trang cách mạng tấn công đánh chiếm được một tỉnh lỵ trong thời kỳ tiền khởi nghĩa. Chiến thắng này góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh ở vùng Đông Bắc Bắc Kỳ, đẩy chính quyền địch lún sâu vào thế hoang mang, rệu rã.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 145-146.
- Tìm hiểu Chiến khu Trần Hưng Đạo, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh xuất bản, 1990, tr 74.
THÁNG 7
Các tỉnh Trung và Nam Trung Kỳ bàn biện pháp phối hợp hành động
Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), phong trào cách mạng ở các tỉnh Trung và Nam Trung Kỳ phát triển rất mạnh mẽ. Ngoài các tỉnh, thành có tỉnh uỷ từ trước như Thừa Thiên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Quảng Ngãi, các tỉnh Bình Định, Quảng Bình, Khánh Hoà lần lượt lập được cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh dưới các hình thức khác nhau.
Trong khi chưa có cơ quan lãnh đạo chung cho toàn xứ, các tỉnh Trung và Nam Trung Kỳ xúc tiến liên lạc, bàn biện pháp phối hợp hành động. Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng và Tỉnh uỷ Quảng Ngãi họp bàn, thành lập Ban lãnh đạo chung của hai tỉnh. Từ mối quan hệ đầu tiên này, đến tháng 7-1945, các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà đã cử đại biểu tới dự cuộc Hội nghị do Tỉnh uỷ Quảng Ngãi triệu tập tại thôn Vĩnh Lộc, xã Tịnh Biên, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Hội nghị nhận định tình hình địch, ta, bàn biện pháp thống nhất hành động; cử Ban liên lạc chung; lấy Quảng Ngãi làm trung tâm cho phong trào các tỉnh Nam Trung Kỳ; thông qua kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa theo tinh thần nghị quyết của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi vạch ra.
Cũng tại Hội nghị này, đồng chí Tố Hữu với tư cách đặc phái viên của Trung ương Đảng, thông báo tình hình trong và ngoài nước; phân tích tình thế cách mạng hiện tại và nhiệm vụ trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta là kiên quyết đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai. Đồng chí phổ biến một số chủ trương của Đảng, đồng thời hoan nghênh các Đảng bộ miền Trung đã dũng cảm nhận trách nhiệm trước Đảng, vận dụng một cách đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng vào tình hình cụ thể ở địa phương và giành được những thắng lợi lớn.
Cuối cùng, Hội nghị cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh (đại biểu tỉnh Khánh Hoà), Trần Quý Hai (đại biểu tỉnh Quảng Ngãi) làm đại biểu đại diện cho các tỉnh đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân tổ chức tại Tân Trào do Tổng bộ Việt Minh triệu tập.
Bằng sự liên hệ với nhau để hành động, các tỉnh ở Trung và Nam Trung Kỳ đã nắm bắt được chủ trương của Đảng, hiểu thêm tình hình cách mạng trong vùng. Sự liên hệ đó thể hiện rõ nhu cầu bức xúc về cơ quan lãnh đạo chung cho toàn xứ; đạt những cơ sở cho sự ra đời của Xứ uỷ Trung Kỳ vào 31-8-1945.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1995.
THÁNG 7
Ban hành động chung của Đảng bộ Nam Kỳ ra đời
Nhận rõ sự phân liệt hai hệ thống Đảng ở Nam Kỳ (Xứ uỷ “Tiền phong” và Xứ uỷ "Giải phóng”) có hại cho phong trào cách mạng, Trung ương Đảng gửi thư, viết bài lên báo Cờ Giải phóng, phê bình hai Xứ uỷ, kêu gọi hai bên gạt bỏ thành kiến để thống nhất lại; bỏ những khẩu hiệu riêng mà theo khẩu hiệu đấu tranh chung của Đảng. Đồng thời, Trung ương cử đồng chí Bùi Lâm, người đã từng hoạt động ở Nam Kỳ, vào giúp đỡ Đảng bộ Nam Kỳ, mời đại biểu hai bên đi dự Hội nghị Tân Trào.
Tháng 7-1945, đồng chí Bùi Lâm vào đến Nam Kỳ. Nhận thấy tình hình có nhiều phúc tạp, đồng chí yêu cầu hai Xứ uỷ tổ chức một cuộc họp tại Láng Le, có đại biểu hai bên dự. Tại cuộc họp này, một ban hành động chung của hai Xứ uỷ được thành lập gồm năm đồng chí: Bùi Lâm (Trưởng ban), Lý Chính Thắng, Bùi Công Trừng (đại diện cho Xứ uỷ “Tiền phong"), Hoàng Dư Khương, Nguyễn Thị Thập (đại diện cho Xứ uỷ "Giải phóng"). Sau đó, đồng chí Nguyễn Thị Thập ra Bắc dự Hội nghị Tân Trào thì đồng chí Trần Văn Vi (tức Dân Tôn Tử) thay vào.
Do Đảng bộ bị chia rẽ khá sâu sắc về tổ chức, nên Ban hành động chung chỉ nặng về danh nghĩa chứ trong thực tế chưa làm được việc gì. Tuy đã đặt ra được những truyền đơn, áp phích kêu gọi nhân dân sẵn sàng khởi nghĩa.. song việc giành chính quyền, giữ chính quyền, nhân sự của chính quyền cấp xứ sau khi khởi nghĩa thành công... chưa thống nhất được với nhau.
Sau khi "Ban hành động chung” ra đời, Xứ uỷ "Tiền phong" và "Giải phóng” vẫn hoạt động riêng lẻ.
- Toạ đàm "Tiền phong", “giải phóng”, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tìm hiểu Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Bài giải đáp của đồng chí Trường Chinh về Cách mạng Tháng Tám, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1996.
NGÀY 12 - 8
Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu Giải phóng ra mệnh lệnh khỏi nghĩa
Ngay sau khi nhận được tin Nhật Bản gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị mở cuộc đàm phán ngừng bắn, Thường vụ Trung ương Đảng và đồng chí Hồ Chí Minh họp vào ngày 12-8, quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Cũng trong ngày này, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời Khu Giải phóng hạ lệnh cho toàn thể các lực lượng vũ trang và nhân dân trong khu đứng lên khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban gồm 10 điểm như sau:
“1. Huy động bộ đội đánh vào các đô thị nếu đủ điều kiện thắng lợi.
2. Bố trí đánh trên những bộ đội rút lui của địch.
3. Trước lúc hành động nên gửi tối hậu thư cho quân đội Nhật và lính bảo an nếu họ không hàng sẽ bị tiêu diệt.
4. Đối với quân đội Nhật đã hàng theo thì phải đối đãi tử tế, một phần lớn cho vào tập trung dinh còn một phần thì tuyên truyền cho họ về các bộ đội Nhật ở các nơi. Binh lính người Việt thì thả và sau khi tuyên truyền.
5. Khi đánh được một trận thì lập tức bổ sung bộ đội với số vũ khí thu được. Trừ khi có mệnh lệnh đặc biệt còn thì một phần ba bộ đội lưu lại đóng ở địa phương, hai phần ba chuẩn bị sẵn sàng kéo đi nơi khác, cần chiến đấu hay đóng chiếm.
6. Sau khi chiếm các đô thị tất cả những quân nhu, lương thực không cần dùng đến ngay thì lập tức đưa vào các căn cứ của ta cất giữ.
7. Trong giờ phút này sự liên lạc cần phải giữ cho chặt, bộ đội bao giờ cũng phải liên lạc với đại bản doanh. có tình hình mới phải lập tức báo cáo.
8. Các Uỷ ban Nhân dân và toàn thể dân chúng phải hết lòng hết sức phối hợp với bộ đội. Toàn thể quân và dân phải chuẩn bị cho đủ tinh thần để tiếp tục cuộc tranh đấu vì quyền hoàn toàn độc lập cho đất nước.
9. Đối với bọn Pháp Đờ Gôn thì cứ theo thông báo cũ, còn đối với người ngoại quốc khác thì sẽ có chỉ thị riêng.
10. Lúc này là lúc quân sự hành động, kỷ luật phải nghiêm”.
Bản Mệnh lệnh ghi rõ: “Để bảo đảm sự thành công của cuộc khởi nghĩa (...) hãy thi hành mệnh lệnh này cho nhanh chóng, kiên quyết, anh dũng và thận trọng”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 419- 420.
NGÀY 13 - 8
Uỷ ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số I
Ngày 13-8, nhận được tin phát xít Nhật bại trận và sắp đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc gồm năm đồng chí: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn. Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh trực tiếp phụ trách Uỷ ban.
23 giờ cùng ngày, Uỷ ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số I, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa. Quân lệnh viết:
“... Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh!
Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà.
Mang nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn quốc cho đến toàn thắng, Uỷ ban khởi nghĩa đã thành lập".
Về nhiệm vụ của Quân giải phóng Việt Nam, Quân lệnh ghi rõ:
"Dưới mệnh lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, các bạn hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực các bạn hãy kiên quyết tiến!".
Quân lệnh kêu gọi nhân dân toàn quốc:
"Dưới mệnh lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù”. Quân lệnh viết: "phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! (...). Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta".
- Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 421-422.
NGÀY 13 - 8
Xứ uỷ Bắc Kỳ xúc tiến công tác sửa soạn khởi nghĩa
Tin Nhật bại trận truyền đến Bắc Kỳ làm ngọn lửa yêu nước và cách mạng bốc cao chưa từng thấy trong các tầng lớp nhân dân.
Ngày 13-8, Xứ uỷ Bắc Kỳ triệu tập cuộc họp để bàn việc chuẩn bị nắm thời cơ khởi nghĩa. Sau khi phân tích tình hình, Hội nghị quyết định "xúc tiến công việc sửa soạn khởi nghĩa, nơi nào có điều kiện lấy chính quyền thì lấy”. Sau cuộc họp, một đồng chí trong Xứ uỷ tiến hành tiếp xúc với Khâm sai Bắc Kỳ để nắm tình hình địch.
Cùng ngày, Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ ra thông cáo cho các cấp: "Thời kỳ tiền khởi nghĩa đã hết, chúng ta đang trong tình thế trực tiếp khởi nghĩa".
Thực hiện chủ trương của Xứ uỷ, với tinh thần chủ động, Đảng bộ, Việt Minh ở các xã, huyện vùng nông thôn của hầu hết các tỉnh thuộc phạm vi Xứ uỷ Bắc Kỳ chỉ đạo đã xúc tiến các công tác, sẵn sàng phát động nhân dân nổi dậy tham gia Tổng khởi nghĩa.
- Báo Nhân dân số 2344, ngày 19-8-1960.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr. 668.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.185.
TỪ NGÀY I4 ĐẾN NGÀY 15 - 8
Hội nghị toàn quốc của Đảng bàn kế hoạch phát động và lãnh đạo Tổng khởi nghĩa
Ngay sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hirôsima (Nhật Bản), đồng chí Hồ Chí Minh cùng Thường vụ Trung ương quyết định tổ chức Hội nghị toàn quốc của Đảng để bàn kế hoạch phát động và lãnh đạo Tổng khởi nghĩa. Người Chỉ thị: "nên họp ngay và cũng không nên kéo dài hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội".
Ngày 14-8, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang). Dự Hội nghị có đại biểu các đảng bộ địa phương trong nước, một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài, đại biểu của Khu Giải phóng và các chiến khu. Bắt nhịp đúng sự nóng hổi của tình hình, sau khi thảo luận, Hội nghị khẳng định: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi", "quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ", "Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa, giành quyền độc lập”.
Trên cơ sở phân tích chính xác tình hình, Hội nghị nhất trí: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành quyền độc lập hoàn toàn.
Hội nghị đề ra ba nguyên tắc để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
"a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.
b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự chính trị, hành động và chỉ huy.
c) Kịp thời - kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.
Hội nghị đề ra phương châm hành động là: “Đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay thôn quê", "quân sự và chính trị phải phối hợp", "làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh", “chớp lấy những căn cứ chính (cả các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào", “thành lập những Uỷ ban Nhân dân ở những nơi ta làm chủ”.
Hội nghị đề ra ba khẩu hiệu đấu tranh lớn là:
“Phản đối xâm lược!
Hoàn toàn độc lập
Chính quyền nhân dân!".
Ngoài việc quyết định nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách, trước mắt là lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyến, Hội nghị còn đề ra các công tác đối nội, đối ngoại cần được thi hành sau khi giành được chính quyền thắng lợi.
Về đối nội: Hội nghị thông qua 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh. coi đó là những chính sách cơ bản, trước mắt trong toàn bộ những hoạt động của toàn Đảng, toàn dân ta. Hội nghị cũng nhấn mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức quần chúng, trước hết là tuyên truyền, giáo dục các đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh; chú trọng đến nhiệm vụ kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp.
Về mặt đối ngoại: Hội nghị nêu rõ chủ trương triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng; hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc; tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô và Đồng minh để chống lại mưu mô hồi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương của đế quốc Pháp và âm mưu xâm chiếm nước ta của quân phiệt Tưởng. Trong khi đề cao việc tranh thủ Đồng minh, Hội nghị nhấn mạnh khâu mấu chốt giành thắng lợi trên mặt trận đối ngoại là dù sao chỉ có thực lực của ta mới quyết định được sự thắng lợi giữa ta và Đồng minh".
Để bảo đảm lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị nhấn mạnh công tác đào tạo, sử dụng phân phối cán bộ, kết nạp đảng viên; bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Hoan7, Chu Văn Tấn, Vũ Anh (Uỷ viên chính thức), Võ Nguyên Giáp (Uỷ viên dự khuyết). Ngày 15-8, Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc, các đại biểu khẩn trương trở về các địa phương, mang theo chủ trương của Đảng, kịp thời phát động và lãnh đạo nhân dân vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 423-438.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 176-179.
- Tân Trào 1945-1954, Hội Văn học nghệ thuật Hà Tuyên xuất bản, 1985, tr. 52.
NGÀY 15- 8
Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định ra lệnh khởi nghĩa
Từ ngày 14-8, các xã, huyện vùng nông thôn của hầu hết các tỉnh ở châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Kỳ... lần lượt nổi dậy giành chính quyền.
Ngày 15-8, nhận được tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Xứ uỷ Bắc Kỳ liền triệu tập một cuộc họp tại Hà Đông. Với tinh thần khẩn trương, dám nghĩ, dám làm, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, cũng chưa nắm chắc được thái độ của Nhật, song, trên cơ sở thấm nhuần tinh thần bản Chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (12-3-1945) của Ban Thường vụ Trung ương, căn cứ vào tình hình trong khu vực phụ trách8, Xứ uỷ quyết định: “Thời cơ đã đến, không thể ngồi chờ được" và ra lệnh xúc tiến khởi nghĩa trong các tỉnh do Xứ uỷ phụ trách theo cách thức: "Mở rộng khởi nghĩa giành chính quyền ở các huyện, xã tiến vào thị trấn, các thành phố”.
Lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ được khẩn trương truyền đến các địa phương.
- Báo Nhân dân, số 2344, ngày 19-8-1960.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 186-187.
- Ban Chấp hành Đang bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội.
TỪ NGÀY I5 ĐẾN NGÀY 18 - 8
Hà Nội chuẩn bị khởi nghĩa
Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của Hà Nội, Xứ uỷ Bắc Kỳ rất quan tâm và cân nhắc kỹ việc khởi nghĩa ở trọng điểm chiến lược bậc nhất này.
Ngay tối ngày 15-8, một xứ uỷ viên Xứ uỷ được phân công phụ trách lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội lập tức mang lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ vào thành phố. Đồng thời, Xứ uỷ lập ngay Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội để tích cực chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.
Cũng trong tối ngày 15-8, theo chỉ thị của Xứ uỷ, Thành uỷ Hà Nội triệu tập Hội nghị bất thường tại Chùa Hà (Dịch Vọng, Từ Liêm, Hà Nội) để kiểm điểm lực lượng và bàn những công việc cấp bách cần làm để tiến hành khởi nghĩa.
Sáng ngày 16-8, tại số nhà 101 phố Gămbétta (nay là Trần Hưng Đạo) đồng chí Nguyễn Khang, Thường vụ Xứ uỷ, thay mặt Xứ uỷ triệu tập một cuộc họp với Thành uỷ, phổ biến nghị quyết của Xứ uỷ về việc thành lập Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội (tức Uỷ ban Khởi nghĩa). Cuộc họp nhất trí phải xúc tiến khởi nghĩa ở Hà Nội. Các đồng chí tham gia cuộc họp đều thấy cần phải nắm chắc hơn nữa thái độ của Nhật và bọn bù nhìn; trước mắt nên đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động chính trị để động viên sâu rộng quần chúng đẩy mạnh việc chuẩn bị vũ trang. Uỷ ban Quân sự cách mạng Hà Nội được thành lập gồm năm đồng chí: Nguyễn Khang, Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ; Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy), cán bộ Xứ uỷ; Lê Trọng Nghĩa, cán bộ Xứ uỷ; Nguyễn Quyết, Bí thư Thành uỷ; Nguyễn Duy Thân, Thành uỷ viên.
Đêm ngày 16-8, ở các rạp hát Hiệp Thành, Quảng Lạc, Tố Như, các rạp chiếu bóng Êđen, Majestic, các Đội tuyên truyền xung phong Việt Minh đứng lên diễn thuyết. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên đường phố Hà Nội.
Chiều ngày 17-8, tại cuộc mít tinh do Tổng hội công chức tổ chức, các đội viên tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong Việt Minh đứng lên diễn thuyết. Sau đó, cuộc mít tinh chuyển thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Ngay tối 17-8, Uỷ ban Quân sự cách mạng họp mở rộng tại Dịch Vọng (Từ Liêm, Hà Nội) quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19-8.
Hội nghị vạch ra kế hoạch khởi nghĩa là: huy động 10 vạn quần chúng ở nội, ngoại thành, Gia Lâm, các đội vũ trang sẽ làm nòng cốt đưa quần chúng vào những nơi trọng yếu như: Phủ Khâm sai, Toà Thị chính, Trại Bảo an, Sở Liêm phóng. Uỷ ban Quân sự cách mạng cũng bàn chủ trương cô lập Nhật, đưa ra khẩu hiệu: "Chống một hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc độc lập của dân tộc Việt Nam"; đồng thời cho rải truyền đơn quanh trại lính Nhật khuyên chúng không can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
Ngày 18-8, trong lúc cuộc khởi nghĩa ở vùng ngoại thành đang nổ ra thì 3.000 công nhân biểu tình trước phủ Khâm sai, hô vang khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh, đả đảo bù nhìn. Trong khi đó, tất cả tù chính trị ở Hoả Lò đấu tranh đòi trả tự do để tham gia ngay vào khởi nghĩa. Cũng trong ngày này, hàng nghìn công nhân và nhân dân Hà Nội biểu tình đòi phát xít Nhật thả hai công nhân Hãng Avia bị bắt, khi hai người này dùng ô tô Nhật chở vũ khí từ Gia Lâm vào nội thành, buộc chúng phải nhượng bộ. Đêm 18-8, một Đội tuyên truyền xung phong đột nhập vào Nhà in báo Tin mới, hướng dẫn công nhân in truyền đơn, áp phích kêu gọi khởi nghĩa. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên các đường phố Hà Nội, từ Bưởi, qua Dịch Vọng, xuống Tương Mai, Mai Động... Cả Hà Nội sôi động trước lúc vùng lên.
- Báo Nhân dân số 2344, ngày 19-8-1960.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 189-195.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
GIỮA THÁNG 8
Đảng Cộng sản Đông Dương ra Lời hiệu triệu
Sau Hội nghị toàn quốc của Đảng (từ ngày 14 đến ngày 15-8), Đảng ra Lời hiệu triệu toàn thể nhân dân, các đoàn thể cách mạng và các đảng viên cộng sản.
Lời hiệu triệu nêu rõ phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức - Ý; quân đội Nhật đang tan rã và bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương, “Giờ hành động quyết liệt đã đến".
Đảng Cộng sản Đông Dương, kêu gọi đồng bào và các đoàn thể Cứu quốc dưới quyền chỉ huy của Uỷ ban Giải phóng dân tộc, Uỷ ban Khởi nghĩa, hãy cùng với Giải phóng quân và tự vệ nổi dậy đánh chiếm các đồn, các huyện lỵ, phủ lỵ và các tỉnh lỵ tước khí giới Nhật.
Đối với các đảng viên cộng sản, Lời hiệu triệu nhấn mạnh: "Các đồng chí phải sáng suốt trong việc lãnh đạo và cương quyết hy sinh trong cuộc chiến đấu để giành quyền độc lập cho Tổ quốc, để xứng đáng là một đội quân tiền phong của dân tộc".
Cuối cùng Đảng kêu gọi: "Giờ khởi nghĩa đã đến (...) Quyết chiến, quyết chiến, quyết chiến! Thắng lợi nhất định về ta".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 416.
TỪ NGÀY 15 ĐẾN NGÀY 22 - 8
Huế chuẩn bị khởi nghĩa
Nhận rõ tầm quan trọng của Huế, dinh luỹ của nhà nước phong kiến bù nhìn, Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên khẩn trương xúc tiến mọi công việc bảo đảm cho cuộc khởi nghĩa ở Huế nổ ra thắng lợi.
Ngay từ ngày 15-8, được tin phát xít Nhật đầu hàng, quân Đồng minh sắp kẻo vào Đông Dương, Tỉnh uỷ Thừa Thiên lập tức triệu tập Hội nghị cán bộ toàn tỉnh, quyết định phát động nhân dân nổi dậy giành chính quyền thông qua kế hoạch lãnh đạo khởi nghĩa ở các huyện trong tỉnh trước để hỗ trợ cho thành phố Huế vùng dậy giành thắng lợi. Triển khai chủ trương của Hội nghị, từ ngày 17- 8, nhân dân các huyện trong tỉnh Thừa Thiên lần lượt đánh đổ chính quyền bù nhìn, lập chính quyền cách mạng.
Ngày 17-8, phái viên của Trung ương đến Huế để giúp Tỉnh uỷ Thừa Thiên lãnh đạo khởi nghĩa ở Huế. Ngày 20-8, Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập gồm năm đồng chí, do đồng chí Tố Hữu làm Chủ tịch. Công tác vận động Bảo Đại thoái vị, vận động nội các Trần Trọng Kim từ chức, vận động bảo an binh theo cách mạng được xúc tiến khẩn trương.
Từ ngày 18-8, tin khởi nghĩa ở các huyện trong tỉnh thắng lợi, tin Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ giành chính quyền dồn dập vào Huế làm cho không khí cách mạng ngày càng sôi sục.
Trong cơn hấp hối, nội các Trần Trọng Kim định tổ chức một cuộc biểu tình vào ngày 23-8 để hoan nghênh việc “thu hồi" Nam Kỳ vào "Tổ quốc Việt Nam", hòng thăm dò dư luận, thăm dò uy tín của Triều đình, gây thanh thế cho chính phủ bù nhìn và để thử sức Việt Minh.
Nhận được tin này, Uỷ ban Khởi nghĩa Thừa Thiên quyết định chớp thời cơ để giành chính quyền vào ngày 23- 8. Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa thắng lợi, từ chiều ngày 21-8, Đảng bộ và Việt Minh Thừa Thiên - Huế tổ chức nhiều cuộc biểu tình thị uy trong thành phố. Đội tự vệ Phú Bình tiến hành bao vây đồn Mang Cá. Ngày 22-8, quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban Khởi nghĩa tổ chức nhiều cuộc biểu tình thị uy tiến tới chiếm một số công sở của địch. Cờ Việt Minh phấp phới trên kỳ đài thay cho cờ quẻ ly.
Tối ngày 22-8, Uỷ ban Khởi nghĩa gửi tối hậu thư buộc Bảo Đại phải thoái vị, trao chính quyền cho nhân dân. Nhận được tối hậu thư, Bảo Đại liền triệu tập "Nội các lâm thời" để bàn việc thoái vị. "Nội các lâm thời" thông qua bản dự thảo thoái vị của Bảo Đại và tuyên bố giải tán.
Đêm 22-8, không khí khởi nghĩa sôi động trong thành phố. Các Đội tự vệ lùng bắt những tên Việt gian đầu sỏ; bao vây, theo dõi chặt chẽ các tên phản động đã từng tham gia trong chính phủ bù nhìn. Nhân dân thành phố náo nức chờ giờ nổi dậy.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. tr. 202-203.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Thừa Thiên: Sơ thảo lịch sử cách mạng Tháng Tám Thừa Thiên- Huế, Thừa Thiên -Huế 1970, tr. 61-71.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế. Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên – Huế 1930-1954, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. I.
NGÀY 16 - 8
Quốc dân Đại hội tại Tân Trào
Hội nghị toàn quốc của Đảng vừa kết thúc, Đại hội Quốc dân cũng được tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) vào ngày 16-8. Hơn 60 đại biểu ở Bắc, Trung, Nam; đại biểu kiều bào ở nước ngoài; đại biểu các đảng phái; các đoàn thể dân tộc, tôn giáo quy tụ tại Đại hội.
Trước các đại biểu của nhân dân, Đảng nêu lên chủ trương lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, Đại hội nhiệt liệt tán thành và ủng hộ chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng; thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh:
“1. Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập.
2. Võ trang nhân dân Phát triển Quân Giải phóng Việt Nam.
3. Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.
4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.
5. Ban bố những quyền của dân cho dân:
- Nhân quyền.
- Tài quyền (quyền sở hữu).
- Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.
6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.
7. Ban bố luật lao động; ngày làm tám giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.
8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng.
9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hoá mới.
10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ".
Đại hội quyết định thành lập Uy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu, Phó Chủ tịch và các uỷ viên: Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Ban Thường trực gồm năm người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền. Uỷ ban Giải phóng dân tộc được trao sứ mệnh: "thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước".
Sáng ngày 17-8, Uỷ ban Giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân tại đình Tân Trào. Hướng lên lá cờ đỏ sao vàng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Uỷ ban Giải phóng dân tộc đọc lời tuyên thệ: "Chúng tôi, những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Uỷ ban Giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập tự do cho Tồ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng quyết không lùi bước. Xin thề”.
Đại hội Quốc dân Tân Trào đã thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc ta trong giờ phút quyết định. Đại hội là biểu hiện cho lòng tin tưởng tuyệt đối của toàn dân vào Đảng, đồng thời tượng trưng cho quyết tâm sắt đá của toàn thể nhân dân ta quyết đứng lên giành tự do, độc lập.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 559-561.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 181.
- Văn phòng Quốc hội: Quốc dân Đại hội Tân Trào, Văn phòng Quốc hội xuất bản, Hà Nội, 1995, tr. 69-70.
- Tân Trào 1945-1954, Hội Văn học nghệ thuật Hà Tuyên xuất bản, 1985, tr. 52-53.
NGÀY 16 - 8
Khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi
Vào những ngày giữa Tháng Tám năm 1945, tình thế cách mạng ở Quảng Ngài đã chín muồi. Bộ máy cai trị hoang mang, dao động; các tổ chức chính trị thân Nhật phân hoá, phần lớn bị tê liệt, tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng, lực lượng cách mạng tăng lên không ngừng, ở tư thế sẵn sàng nổi dậy.
Nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Ngãi căn cứ vào kế hoạch soạn thảo từ tháng 6, triệu tập cuộc họp bất thường vào trưa ngày 14-8, tại trụ sở của Tỉnh uỷ ở làng Phổ Nhất, huyện Mộ Đức. Hội nghị nhận định: thời cơ khởi nghĩa đã tới, phải cấp tốc động viên quần chúng nổi dậy vũ trang khởi nghĩa đánh đổ toàn bộ chính quyền địch, giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị thông qua mệnh lệnh khởi nghĩa ghi rõ trong các chỉ thị số 8, sẽ 9 liên tiếp cùng thời gian gửi đi các nơi lúc 15 giờ ngày 14-8-1945. Cuộc họp cũng quyết định: Thường trực Tỉnh uỷ đảm nhận nhiệm vụ của Ban lãnh đạo khởi nghĩa, các đồng chí Tỉnh uỷ viên trở về các địa phương, nơi xung yếu để chỉ đạo khởi nghĩa, các đồng chí phụ trách quân sự trở về các chiến khu đưa lực lượng vũ trang đánh các đồn trung du, tước khí giới của quân Nhật và bảo an ở những nơi đã vũ trang quần chúng nhằm hỗ trợ cho nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.
Chấp hành Nghị quyết của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi, 16 giờ ngày 14-8-1945, tiếng trống khởi nghĩa vang lên tại nơi đóng cơ quan Tỉnh uỷ ở làng Phổ Nhất, báo hiệu giờ phút mở đầu cuộc nổi dậy của nhân dân trong tỉnh. Đến ngày 15-8-1945, hầu hết các làng, tổng nằm dọc quốc lộ 1 từ đèo Bình Đê (Đức Phổ) đến dốc Sỏi (Bình Sơn), đảo Lý Sơn, châu Ba Tơ khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Tối ngày 14-8-1945, Ban Khởi nghĩa thị xã Quảng Ngãi được thành lập, quyết định huy động lực lượng Hội Binh nhân Cứu quốc, công nhân và các tầng lớp nhân dân tham gia giành chính quyền.
Cuộc khởi nghĩa diễn ra quyết liệt ở thị xã. Đêm ngày 14 và ngày 15-8, các tầng lớp nhân dân thị xã thực hiện bãi công, bãi thị, giành chính quyền cơ sở. Đêm 15-8, Tự vệ Cứu quốc và nhân dân phối hợp với chi hội Bệnh nhân cứu quốc chiếm đồn khố xanh, khố đỏ thu súng đạn, quân trang, quân dụng, bắt tên lãnh binh giao chìa khoá, vũ khí, tài liêu, ấn tín của sở chỉ huy quân nguy. Cùng đêm, quân khởi nghĩa chiếm và tịch thu toàn bộ hồ sơ, sổ sách của Sở Mật thám. Đêm 16-8, lực lượng khởi nghĩa chiếm dinh tỉnh trưởng và các công sở, bắt tỉnh trưởng bố chánh, thu toàn bộ tài liệu, vũ khí. Toàn bộ chính quyền bù nhìn cấp tỉnh ở Quảng Ngãi bị đập tan. Một tiểu đoàn quân Nhật đóng ở thị xã không có phản ứng gì.
Ngày 30-8-1945, Uỷ ban Nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Ngãi ra mắt nhân dân.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 23 - 8
Xứ uỷ Nam Kỳ chủ trương khởi nghĩa ở Sài Gòn và Nam Kỳ
Được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa của Trung ương, Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) lập tức thành lập Uỷ ban Khởi nghĩa vào ngày 15-8-1945, gồm Trần Văn Giàu (Chủ tịch) Huỳnh Văn Tiếng, Nguyễn Văn Trấn...
Tối ngày 16-8, Xứ uỷ triệu tập Hội nghị mở rộng tại Chợ Đệm (tỉnh Chợ Lớn) bàn về vấn để khởi nghĩa. Đại đa số đại biểu tham dự Hội nghị cho rằng điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, nếu không nổi dậy sẽ bỏ lỡ thời cơ.
Một số đồng chí không tán thành khởi nghĩa vì cho rằng Nhật sẽ theo lệnh Đồng minh đàn áp cách mạng...
Sau khi tranh luận thẳng thắn, với tinh thần thận trọng, Hội nghị quyết định: xúc tiến việc hoàn thiện chuẩn bị khởi nghĩa sẵn sàng chờ tin từ Hà Nội, hễ được tin Hà Nội khởi nghĩa thì Xứ uỷ họp lại lập tức để quyết định ngày khởi nghĩa ở Sài Gòn và chỉ định ra Uỷ ban Hành chính lâm thời Nam Bộ.
Sáng ngày 21-8, sau khi được tin Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi, Hội nghị mở rộng Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) lại được triệu tập tại Chợ Đệm để định ngày giờ phát lệnh khởi nghĩa và chỉ định Uỷ ban Hành chính lâm thời Nam Bộ. Trong Hội nghị này, chủ trương và kế hoạch khởi nghĩa vẫn chưa được nhất trí cao trong Xứ uỷ. Do đó, Hội nghị quyết định cho Tân An khởi nghĩa thí điểm trong đêm 22 rạng ngày 23 để thăm dò phản ứng của Nhật. Đồng thời, Hội nghị Chợ Đệm định ngày giờ và cách thức khởi nghĩa ở Thành phố Sài Gòn; huy động lực lượng nông dân "vành đai đỏ" vũ trang kéo vào thành phố...
Sáng ngày 23-8, được tin Tân An khởi nghĩa thành công nhanh gọn, quân Nhật không phản ứng, Hội nghị Xứ uỷ mở rộng lập tức quyết định: “Tối 24 phát động khởi nghĩa giành chính quyền, ngày 25 huy động chừng một triệu nhân dân nội, ngoại thành và các tỉnh lân cận, chủ yếu là Gia Định, Chợ Lớn, có cả Tân An, Biên Hoà, Thủ Dầu Một và đoàn các tỉnh lên dự để rút kinh nghiệm và lãnh chỉ thị mới, tất cả làm tổng biểu tình vũ trang xem như hoàn thành việc giành chính quyền ở Thủ phủ miền Nam". Uỷ ban Hành chính Nam Bộ được chỉ định gồm chín đồng chí.
Chấp hành quyết định của Xứ uỷ, Đảng bộ và nhân dân Nam Kỳ, trước hết là Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn dốc sức vào công việc chuẩn bị nổi dậy giành chính quyền vào ngày 25-8.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1997, t. III, tr. 654-657.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 208-209.
- Tạp chí Lịch sử Đảng số 6-1990.
GIỮA THÁNG 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa
Sau Đại hội Quốc dân (16-8), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa.
Trong thư, Người thông báo với đồng bào tin Nhật đầu hàng; sự lớn mạnh của Mặt trận Việt Minh; sự ra đời của Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do “Việt Nam Quốc dân đại biểu Đại hội" cử ra, cho đó là "một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay”.
Người cũng chỉ rõ việc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta còn gay go, dằng dai, "không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do. Chúng ta vẫn phải ra sức phấn đấu. Chỉ có đoàn kết, phấn đấu, nước ta mới được độc lập". Người động viên đồng bào hãy gia nhập, ủng hộ Việt Minh, đoàn kết chung quanh Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam để giành lại quyền độc lập cho Tổ quốc.
Cuối thư, Người thiết tha kêu gọi: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ.
Tiến lên! Tiến lên? Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 183-184.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t .3, tr 553-554.
GIỮA THÁNG 8
Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam ra hiệu triệu
Ngày 16-8-1945, Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch ra đời tại Tân Trào huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Sau khi thành lập Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam ra lời hiệu triệu tới toàn thể nhân dân và các đoàn thể Cứu quốc.
Hiệu triệu thông báo Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam đã ra đời, đáp ứng mong đợi của toàn thể đồng bào về “một Chính phủ quốc dân có đủ uy tín và thực lực". Nó gồm những người xứng đáng nhất trong các đoàn thể Cứu quốc là cơ quan lãnh đạo tối cao của quốc gia để hành động cho kịp với sự chuyển biến rất mau lẹ của tình hình. Hiệu triệu viết: "Nó sẽ thay mặt quốc dân Việt Nam và dựa trên thực lực của quốc dân để tranh lấy sự đồng tình của các nước Đồng minh dân chủ...".
Hiệu triệu kêu gọi đồng bào: “Ngày vĩ đại và quyết liệt của dân tộc ta đã đến. Chúng ta hãy vùng dậy tuốt gươm, lắp súng để định đoạt lấy số phận của mình. Chúng ta quyết thắng và sẽ thắng”.
Trong không khí cách mạng sôi sục trên khắp cả nước, cùng với thư kêu gọi đồng bào của đồng chí Hồ Chí Minh. Hiệu triệu của Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam đã tiếp thêm sức mạnh, thôi thúc nhân dân khắp Bắc - Trung - Nam vùng lên tổng khởi nghĩa thành chính quyền.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 562-563.
NGÀY 17-8
Cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội
Trong không khí chuẩn bị khởi nghĩa sôi sục ở Hà Nội, cuộc mít tinh do Tổng hội Công chức được tổ chức ở Quảng trường Nhà hát lớn vào chiều ngày 17-8.
Từ nhiều nguồn chỉ đạo các tổ chức Cứu quốc ở nội, ngoại thành và một số huyện, phủ ở Gia Lâm, Hà Đông sát với Hà Nội đã bí mật huy động quần chúng đến tham dự, đưa tổng số người tham gia mít tinh lên tới hàng vạn, tràn ngập trước và xung quanh Nhà hát lớn. Các hội viên tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong được bố trí trong quần chúng đợi lệnh sẵn sàng hành động.
Cuộc mít tinh vừa khai mạc bất ngờ, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong đám đông, trên gác của Nhà hát lớn, quần chúng hò reo, cổ vũ. Cảnh sát và lính bảo an ngơ ngác, đứng im tại chỗ. Các đội viên tuyên truyền xung phong Việt Minh lên diễn đàn thông báo tin Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, kêu gọi nhân dân ủng hộ Việt Minh khởi nghĩa. Sau cuộc mít tinh, quần chúng đã tự động xếp thành hàng ngũ có các đội viên tự vệ chiến đấu dẫn đầu, diễu hành từ Nhà hát lớn qua các phố trung tâm, hô vang các khẩu hiệu: "Ủng hộ Việt Minh", “đả đảo bù nhìn", "Việt Nam độc lập" .
Cuộc mít tinh do Tổng hội Công chức tổ chức trở thành cuộc mít tinh tuần hành ủng hộ Việt Minh có một ý nghĩa rất to lớn đối với cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội.
Đó là cuộc biểu dương sức mạnh của quần chúng cách mạng ở Hà Nội; thể hiện rõ quyết tâm hành động và tinh thần sẵn sàng bước vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân. Tuyệt đại đa số nhân dân, kể cả tầng lớp trung gian đều không còn ảo tưởng gì vào Nhật và bọn bù nhìn, tin tưởng vào Việt Minh và sẵn sàng ủng hộ Việt Minh. Chính quyền bù nhìn không dám chống lại, lính cảnh sát, bảo an bất lực, bó tay nằm im. Cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh diễn ra chỉ cách tổng hành dinh Quân đoàn 38 của Nhật không đầy 200 mét, nhưng bọn Nhật không can thiệp. Điều này chứng tỏ khả năng vô hiệu hoá quân Nhật là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc mít tinh sau đó biến thành cuộc biểu tình diễn ra thắng lợi, gợi mở một phương thức khởi nghĩa ở Hà Nội: đó là tổ chức mít tinh hiệu triệu quần chúng đánh đổ chính quyền bù nhìn rồi biến thành cuộc tuần hành vũ trang, dùng áp lực của quần chúng có lực lượng vũ trang làm nòng cốt chiếm đóng các cơ quan trọng yếu trong thành phố, giành chính quyền.
Trên cơ sở phân tích những nhân tố được thể hiện qua cuộc mít tinh, Uỷ ban Khởi nghĩa Hà Nội họp và ra một quyết định lịch sử: khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19-8-1945.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 190-195.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t.III, tr. 666-668.
- Báo Đông Pháp, các ngày 16,17, 18, 20-8-1945
TỪ NGÀY 17 ĐẾN NGÀY 24 - 8
Phong trào quần chúng dâng cao, tiến tới giành chính quyền Sài Gòn
Thắng lợi dồn dập của khởi nghĩa ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tiếp thêm sinh khí cho phong trào cách mạng ở Nam Kỳ và Sài Gòn đã đến lúc chín muồi.
Sau Hội nghị Xứ uỷ (Tiền phong) ở Chợ Đệm (tối ngày 16-8), công việc chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành rất khẩn trương ở Sài Gòn. Số lượng các đội “Công đoàn xung phong” và “Thanh niên Tiền phong" được tăng cường. Các Đội tự vệ được trang bị thêm vũ khí.
Sáng ngày 19-8, 70.000 “Thanh niên Tiền phong" tổ chức tuyên thệ lần thứ hai tại vườn ông Thượng để biểu dương lực lượng. Chiều tối ngày 20-8, tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo, Việt Minh trình bày chương trình hành động, hô hào quần chúng đứng lên giành độc lập dưới cờ Việt Minh. Cờ Việt Minh, cờ Đảng xuất hiện ở nhiều nơi.
Ngày 20-8, Việt Minh ra công khai ở Thành phố Sài Gòn. Sáng ngày 21-8, hàng chục xe loa cắm cờ đỏ sao vàng chạy khắp Thành phố Sài Gòn.
Sáng ngày 23-8, sau khi Tân An khởi nghĩa "thí điểm" thắng lợi, Xứ uỷ Nam Kỳ họp, quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn vào đêm 24 rạng ngày 25-8, trong khi đó, Việt Minh thành phố vận động nhân dân tẩy chay cuộc biểu tình đón Nguyễn Văn Sâm vào Nam Kỳ để thực thi chức vụ Khâm sai đại thần do chính quyển bù nhìn và bọn tay sai Mặt trận quốc gia thống nhất tổ chức.
Tối ngày 23-8, tại trụ sở Thanh niên Tiền phong ở số 14 đại lộ Sácnê (Charner), trước đại biểu các đảng phái, Việt Minh trân trọng giới thiệu chương trình hành động, kêu gọi toàn dân đoàn kết, quyết tâm giành độc lập tự do; khẩu hiệu "Chính quyền về tay Việt Minh” được tất cả các đảng phái, tổ chức môn giáo nhiệt liệt tán thành.
Sáng ngày 24-8, lá cờ búa liềm bay phấp phới trên nóc nhà số 272 đường Sátxơlu Lôba (Chasseloup Laubat). Quần chúng nhân dân tụ họp đông đảo, ngắm nhìn lá cờ Đảng sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa.
Chiều ngày 24-8, Ban Chấp hành Công đoàn công chức Nam Bộ ra lệnh cho toàn thể công chức tham gia Mặt trận Việt Minh, khắp thành phố hừng hực khí thế khởi nghĩa. Các khẩu hiệu "Bảo Đại thoái vị”, “Nguyễn Văn Sâm từ chức", "Việt Nam hoàn toàn độc lập", “Chế độ dân chủ cộng hoà", “Chính quyền về tay Việt Minh". “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm" được đăng trên các báo, in trên truyền đơn, áp phích phổ biến khắp thành phố. Việt Minh công khai kêu gọi nhân dân tham gia cuộc mít tinh ngày 25-8.
Cả thành phố sẵn sàng chờ lệnh khởi nghĩa của Xử uỷ Nam Kỳ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr. 654-657.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1990.
NGÀY 18 - 8
Một số địa phương khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở tỉnh lỵ
Ngày 15-8, được tin Nhật chính thức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, Xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định ra lệnh xúc tiến khởi nghĩa.
Mặc dù chưa nhận được lệnh của cấp trên, song do thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng bộ và Việt Minh các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Mỹ Tho đã phát động và lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ thắng lợi. Trong đó, các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện lên tỉnh rồi tiếp theo kết thúc ở một số huyện, xã còn lại. Hai tỉnh Quảng Nam và Mỹ Tho khởi nghĩa ở tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện, xã.
Phương thức khởi nghĩa ở các tỉnh này là kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định, lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích, hỗ trợ.
Ở Bắc Giang, Quảng Nam, Mỹ Tho trong khởi nghĩa đã thực hiện việc; huy động lực lượng từ các huyện, xã tiến vào thị xã, tỉnh lỵ phối hợp lực lượng tại chỗ giành chính quyền. Hai tỉnh Hải Dương, Hà Tĩnh, do điều kiện thuận lợi nên lãnh đạo khởi nghĩa đã kịp thời chớp thời cơ, phát động nhân dân trong thị xã, tỉnh lỵ giành chính quyền, không chờ lực lượng ở vùng nông thôn về phối hợp.
Trong cùng một ngày khởi nghĩa nổ ra và thành công nhanh chóng ở năm tỉnh nói trên là biểu hiện sinh động tinh thần chủ động, sáng tạo, năng lực cách mạng dồi dào của các cấp bộ Đảng, cấp bộ Việt Minh và quần chúng các địa phương.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 184-188.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Hưng (1927-1954), 1990, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t. I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh (1930- 1954), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1993, t. 1.
- Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng: Lịch sử Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng (1930-1945), sơ thảo, Nxb. Đà Nẵng, 1991, t. I.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tiền Giang (1927-1954), sơ thảo, 1985, t. I.
NGÀY 19-8
Cách mạng Tháng Tám thành công tại Thủ đô Hà Nội
Sau một thời gian chuẩn bị rất ngắn, Xứ uỷ Bắc Kỳ, Thành uỷ Hà Nội đã phát động nhân dân Hà Nội nổi dậy giành chính quyền vào ngày 19-8-1945.
Ngay từ sáng sớm, Hà Nội đỏ rực màu cờ cách mạng. Hàng vạn nông dân, dân nghèo, với các vũ khí thô sơ từ Láng, Mọc kéo ra chiếm đại lý Hoàn Long, tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng khu vực Ngã Tư Sở, mở đầu cho cuộc khởi nghĩa ở nội thành.
Hàng vạn quần chúng nhân dân ngoại thành, từ các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Hoài Đức, Đan Phượng (Hà Đông), Gia Lâm (Bắc Ninh) mang theo cờ Việt Minh, gậy gộc, mã tấu, dao phát bờ, câu liêm tiến vào nội thành với sức mạnh như thác đổ. Tất cả đều tập hợp trước Nhà hát lớn. Cả Thành phố Hà Nội như rung chuyển trong tiếng hô khẩu hiệu: "Ủng hộ Việt Minh", “Chính quyền nhân dân cách mạng", "Cách mạng thành công muôn năm", "Lập uỷ ban dân quân cách mạng", “Việt Nam hoàn toàn độc lập", “Đả đảo các cuộc xâm lăng", “Đả đảo mọi thế lực chống cách mạng Việt Nam”, “Chống xâm lăng"...
Đúng 11 giờ, trước hơn 20 vạn người tập trung trước Nhà hát lớn, Uỷ ban Khởi nghĩa đọc lời kêu gọi khởi nghĩa. Sau đó cuộc mít tinh biến thành cuộc biểu tình vũ trang giành chính quyền. Quần chúng cách mạng có các đơn vị võ trang tự vệ dẫn đầu chia thành hai khối lớn đi chiếm các vị trí trọng yếu: Phủ Khâm sai, Sở Bưu điện, Sở Cảnh sát... Trước sức mạnh áp đảo của quần chúng và lực lượng tự vệ kiên cường hầu hết các công sở chính quyền địch đều nhanh chóng về tay nhân dân. Riêng ở trại lính bảo an, quân Nhật cho xe tăng chặn đầu đoàn biểu tình, nhưng trước khí thế sôi sục của quần chúng, lại được các đồng chí ta thuyết phục, nói rõ chính sách của Đảng, Việt Minh, chúng phải rút lui. Ngay khi chiếm được Phủ Khâm sai, đồng chí uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ có mặt tại đó gọi điện cho Thị trưởng, Tỉnh trưởng các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định báo tin cách mạng đã thành công ở Hà Nội, ra lệnh cho chúng phải nhanh chóng trao chính quyền cho Việt Minh địa phương. Tối ngày 19-8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội kết thúc thắng lợi.
Ngày 20-8, Uỷ ban Nhân dân cách mạng Hà Nội được thành lập, Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời Bắc Bộ cũng được tổ chức.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội có ý nghĩa rất lớn lao.
Suốt hơn nửa thế kỷ, Hà Nội là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp. Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi có ý nghĩa tượng trưng cho sự sụp đổ của chế độ thực dân trên đất nước ta.
Khởi nghĩa thành công ở Hà Nội là một đòn chí mạng giáng vào chính quyền tay sai Nhật ở hầu khắp cả nước, đẩy chúng đến chỗ hoàn toàn tuyệt vọng, tan rã và đầu hàng cách mạng.
Khởi nghĩa thành công ở Hà Nội như một tiếng bom vang dội nhanh chóng lan truyền khắp nơi, động viên, cổ vũ nhân dân cả nước gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Gần như toàn bộ các tỉnh miền Bắc đến Thanh Hoá, Nghệ An đều tiếp theo Hà Nội tiến hành khởi nghĩa. Quân đội chính quyền Trung Hoa dân quốc mới vào tỉnh lỵ ở thượng du, thì tất cả các vùng trung du, châu thổ đã rợp bóng cờ cách mạng. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi ở Hà Nội đã tạo điều kiện để Trung ương Đảng, lãnh tụ Hồ Chí Minh chuyển đại bản doanh về Hà Nội, từ đó chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, chuẩn bị các điều kiện đón tiếp quân Đồng minh.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội còn có tầm quan trọng trong việc gợi mở một phương thức khởi nghĩa “giành lấy chính quyền một cách không phải đổ máu ở những nơi giằng co với Nhật và nguỵ quyền thân Nhật, hoặc ở ngay những nơi ta đã giành được chính quyền rồi nhưng chính quyền chưa ổn định".
Đồng chí Trường Chinh nhận định: “Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở miền Bắc gồm cả Hà Nội, Huế là thắng lợi có tính chất quyết định của cuộc khởi nghĩa. Thắng lợi của miền Bắc tạo điều kiện và cổ vũ nhân dân ở Nam Bộ và những vùng chưa giải phóng nổi dậy giành chính quyền không chậm trễ được nữa".
Hà Nội xứng đáng là ngọn cờ đầu của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.
- Viện Nghiên cứu cho nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 194-195.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phô Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Báo Đông Pháp, số 6096, ngày 20-8-1945.
- Bài giải đáp của đồng chí Trường Chinh về Cách mạng Tháng Tám, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ NGÀY 19 ĐẾN NGÀY 22 - 8
Các địa phương Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ khởi nghĩa thắng lợi
Khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội đã đưa Tổng khởi nghĩa lên một tầm cao mới, mở ra thời kỳ khởi nghĩa dồn dập trong phạm vi cả nước.
Hoà nhịp với cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, nhân dân các tỉnh Thái Bình, Phúc Yên, Khánh Hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, vùng lên giành chính quyền thắng lợi ở tỉnh lỵ vào ngày 19-8.
Sau ngày 19-8, các cuộc khởi nghĩa nổ ra đồng loạt, mang tính dây chuyền, thành công nhanh chóng tại các tỉnh Thanh Hoá, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thái Nguyên (ngày 20-8); Sơn Tây, Yên Bái, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Nam Định, Nghệ An, Ninh Thuận (ngày 21-8); Cao Bằng, Hưng Yên, Kiến An, Tân An (ngày 22-8).
13 tỉnh: Thanh Hoá, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thái Nguyên, Sơn Tây, Yên Bái, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Nam Định, Nghệ An, Cao Bằng, Hưng Yên, Kiến An khởi nghĩa bắt đầu từ xã, huyện lên tỉnh, từ nội ra ngoại thị, rồi tiếp theo kết thúc ở các huyện, xã còn lại. Hai tỉnh Ninh Thuận và Tân An, khởi nghĩa nổ ra ở tỉnh lỵ trước rồi sau đó lan về các xã, huyện.
Ở các tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Kiến An, Tân An tấn công vũ trang đóng vai trò chính trong khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Sơn Tây, Yên Bái giành chính quyền ở tỉnh lỵ chủ yếu bằng mít tinh hoặc biểu tình của quần chúng cách mạng tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn. Sáu tỉnh còn lại là Thanh Hoá, Bắc Ninh, Hưng Yên, Bắc Cạn, Nghệ An, Ninh Thuận khởi nghĩa có sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng chính trị giữ vai trò quyết định, lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích hỗ trợ.
Các tỉnh Thanh Hoá, Nam Định, Tân An do điều kiện thuận lợi, nên lãnh đạo các tỉnh trên kịp thời chớp thời cơ phát động nhân dân trong thành phố, tỉnh lỵ giành chính quyền, không chờ lực lượng ở vùng nông thôn về phối hợp, hỗ trợ 12 tỉnh còn lại đã huy động lực lượng từ các huyện, xã tiến vào tỉnh lộ phối hợp với nhân dân thị xã giành chính quyền.
- Viện Nghiên của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 194-203.
NGÀY 20 - 8
Việt Nam giải phóng quân tấn công giải phóng thị xã Thái Nguyên
Ngày 16-8, đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, chỉ huy một đơn vị Giải phóng quân, xuất phát từ Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên. Sáng ngày 19-8, Đội Tuyên truyền xung phong châu Võ Nhai (Thái Nguyên) huy động nhân dân, tự vệ xã Đồng Bẩm tiến vào thị xã. Nhân dân các phố xuống đường tuần hành thị uy. Quân Nhật đóng tại thị xã hoảng sợ rút vào doanh trại để phòng thủ.
Sáng sớm ngày 20-8, lực lượng Việt Nam giải phóng quân chiếm lĩnh các vị trí hình thành thế bị vây thị xã và tiếp nhận sự đầu hàng của Tỉnh trưởng Thái Nguyên, Huyện trưởng Đồng Hỷ và Đồn trưởng bảo an binh. Ngay lập tức 600 khẩu súng tước của Đội bảo an được trang bị cho quân cách mạng. Chính quyền tay sai của Nhật ở thị xã bị sụp đổ. Chính quyền cách mạng tỉnh được thành lập và ra mắt đồng bào trong cuộc mít tinh lớn của nhân dân thị xã và các xã lân cận được tổ chức cùng ngày.
Sau khi hoàn toàn làm chủ tình thế ở thị xã, được sự cổ vũ và hỗ trợ của nhân dân, quân khởi nghĩa nổ súng tấn công doanh trại Nhật. Vừa tiến công, lực lượng ta vừa dùng loa kêu gọi quân Nhật đầu hàng và siết chặt vòng vây.
Ngày 26-8, sau khi Hà Nội và phần lớn các tỉnh Bắc Kỳ khởi nghĩa thành công, phái viên Bộ tư lệnh quân Nhật cùng phái viên Việt Minh từ Hà Nội lên thị xã Thái Nguyên để điều đình cho quân Nhật rút khỏi Thái Nguyên và trao lại cho quân cách mạng toàn bộ vũ khí chúng đã tước của Pháp trong và sau ngày đảo chính.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 198.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Bắc Thái: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Thái, Bắc Thái, 1980, t. I.
NGÀY 22 - 8
Tân An khởi nghĩa thắng lợi
Thực hiện quyết định của Xứ uỷ Nam Kỳ, Tân An khởi nghĩa "thí điểm" chiếm tỉnh lỵ và giữ hai cầu huyết mạch Bến Lức và Tân An, vào đêm 22 rạng ngày 23-8, để thăm dò phản ứng của Nhật.
Tỉnh uỷ Tân An gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa. Tỉnh uỷ họp khẩn cấp, ra “Nghị quyết đỏ”, phân công các tỉnh uỷ viên tổ chức may cờ đỏ sao vàng, tập trung người và vũ khí về chung quanh thị xã đợi giờ hành động, dự kiến danh sách Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh. Nghị quyết được phổ biến về các quận.
Trong khi chờ giờ hành động theo kế hoạch, trưa ngày 21-8, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Một tổ chức thân Nhật định cướp chính quyền trước ta bằng cách dùng mưu lừa lính "bảo an" ra khỏi thị xã. Trước tình hình đột biến đó, Tỉnh uỷ Tân An quyết định chớp thời cơ, mạnh dạn hành động ngay. Các đồng chí trong Tỉnh uỷ tương kế, tựu kế, dẫn lực lượng xông vào Trại lính bảo an, ra lệnh cho chúng đầu hàng, chiếm toàn bộ kho súng hơn 140 khẩu. Sau đó, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ đến trụ sở Thanh niên Tiền phong, tuyên bố cách mạng đã giành chính quyền và ra lệnh cho Thanh niên Tiền phong triển khai chiếm các công sở, canh gác các cầu, các đầu mối quan trọng. Một đồng chí Tỉnh uỷ viên đưa lực lượng đi lùng bắt một số tên công chức chóp bu và những tên phản động đầu sỏ. Đến 5 giờ chiều ngày 21-8, toàn bộ chính quyền tỉnh và quận Châu Thành đã về tay cách mạng.
Sáng ngày 22-8, hơn 4000 quần chúng với tầm vông, giáo mác, khẩu hiệu, cờ đỏ sao vàng từ các quận Châu Thành, Thủ Thừa tiến về sân đá bóng thị xã, trước dinh Tỉnh trưởng, tham gia cuộc mít tinh chào mừng cách mạng thắng lợi. Trước dông đảo quần chúng, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời ra mắt nhân dân.
Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi nhanh chóng có một ý nghĩa quan trọng dối với cuộc Tổng khởi nghĩa ở Nam Kỳ và Sài Gòn. Trên cơ sở thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Tân An, Xứ uỷ Nam Kỳ hạ quyết tâm phát động Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn, Nam Kỳ vào ngày 25-8- 1945 và đã thành công rực rỡ.
- Thạch Phương - Lưu Quang Tuyến (Chủ biên): Địa chí Long An, Nxb. Long An, Nxb. Khoa học xã hội 1989, tr. 251-254.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. I.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t. III, tr. 690.
NGÀY 23 - 8
Cố đô Huế giành chính quyền thắng lợi
Sáng ngày 23-8, cả thành phố Huế rực rỡ cờ đỏ sao vàng 15 vạn nhân dân Huế cùng nhân dân các phủ, huyện theo kế hoạch tiến vào thành phố, dòng người tràn ngập các khu phố, chật ních trên các ngả đường.
Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, quần chúng nhân dân tiến công chiếm nốt các cơ sở còn lại của chính quyền địch, rồi kéo về dự cuộc mít tinh khổng lồ tại sân vận động thành phố, chào mừng cách mạng thành công. Tại đây, Uỷ ban Việt Minh và Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn, lập chính quyền cách mạng. Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời Thừa Thiên - Huế ra đời.
Khởi nghĩa thành chính quyền ở Huế thắng lợi nhanh chóng và không đổ máu. Khởi nghĩa thành công ở Huế có ý nghĩa hết sức lớn lao. Huế là dinh luỹ của chế độ phong kiến và chính quyền bù nhìn. Khởi nghĩa thắng lợi ở Huế tượng trưng cho sự chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm trên đất nước ta. Khởi nghĩa thắng lợi ở Huế đã bồi tiếp một đòn sấm sét vào chính quyền bù nhìn còn lại ở các tỉnh Nam Trung Bộ, động viên, cổ vũ, tạo thêm sức mạnh tinh thần và uy thế cho nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ và cả ở Nam Bộ vùng lên.
Bằng cuộc khởi nghĩa thành công ở Huế, ta làm chủ một địa bàn cực kỳ quan trọng, nắm chắc được một đầu mối mà các thế lực đế quốc âm mưu sử dụng để ngăn cản và tước đoạt thành quả cách mạng của nhân dân ta.
Huế khởi nghĩa thắng lợi đã dẫn đến sự tuyên bố thoái vị Vua phong kiến cuối cùng ở Việt Nam vào ngày 30-8-1945.
Đồng chí Trường Chinh nhận xét: “Những thắng lợi ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, nhất là ở Hà Nội và Huế, ảnh hưởng vang dội rất mạnh, nhân dân cách mạng buộc Bảo Đại thoái vị, chính quyền bù nhìn buộc phải đầu hàng ở Bắc Bộ và Trung Bộ làm cho địch ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ càng thêm hoang mang, phân hoá sâu sắc và tan rã".
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 203.
- Báo Nhân dân số 2346, ngày 21-9-1960.
- Bài giải đáp của đồng chí Trường Chinh về Cách mạng Tháng Tám tháng 4-1963, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
TỪ NGÀY 23 ĐẾN NGÀY 24 - 8
Nhiều tỉnh, thành trong cả nước tiếp tục khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi
Khởi nghĩa ở Huế (ngày 23-8) đánh dấu một bước chuyển biến mới của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, thúc đẩy các địa phương tiếp tục nổi dậy giành chính quyền.
Cùng ngày với khởi nghĩa ở Huế, các tỉnh thành phố như: Hải Phòng, Hà Đông, Hoà Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Lâm Viên, Gia Lai, Bạc Liêu cũng nổi dậy giành chính quyền.
Tiếp đó các tỉnh Hà Nam, Quảng Yên, Đắk Lắk, Phú Yên và Gò Công tiến hành giành chính quyền thắng lợi.
Trong số 14 tỉnh, thành phố nói trên thì 8 tỉnh về cơ bản khởi nghĩa bắt đầu từ xã huyện lên tỉnh, rồi tiếp theo kết thúc ở những xã huyện còn lại, đó là: Hà Đông, Hà Nam, Hoà Bình, Quảng Trị, Gia Lai, Đắk Lắk, Lâm Viên và Bạc Liêu; 4 tỉnh Bình Định, Quảng Yên, Quảng Bình, Phú Yên khởi nghĩa từ tỉnh lỵ trước rồi lan về huyện, xã. 2 tỉnh, thành là Gò Công và Hải Phòng khởi nghĩa ở tỉnh lỵ và nông thôn nổ ra cùng một ngày.
Ở hai tỉnh Hà Đông và Phú Yên, tấn công vũ trang đóng vai trò chính trong khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ba tỉnh là Đắk Lắk, Gia Lai, Bạc Liêu khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ chủ yếu bằng biểu tình hoặc mít tinh của quần chúng cách mạng, tuyên bố xoá bỏ chính quyền bù nhìn. Ở Gò Công giành chính quyền theo phương thức bàn giao, thoả thuận. Ở Quảng Yên, khởi nghĩa chỉ là việc lập chính quyền vì trước đó lực lượng cách mạng đã làm chủ hoàn toàn tỉnh lỵ. Các tỉnh, thành còn lại là Hà Nam, Hoà Bình, Quảng Trị, Lâm Viên, Bình Định, Hải Phòng, Quảng Bình khởi nghĩa có sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và vũ trang, trong đó lực lượng chính trị đóng vai trò quyết định, lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích, hỗ trợ.
Trong 14 tỉnh, thành trên, 3 tỉnh Quảng Bình, Phú Yên, Đắk Lắk khởi nghĩa bằng lực lượng trong thị xã, tỉnh lỵ. Hầu hết các tỉnh còn lại huy động lực lượng từ các huyện, xã, tiến vào kết hợp với lực lượng tại chỗ giành chính quyền.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 203-205.
NGÀY 25 - 8
Nhân dân Sài Gòn khởi nghĩa thành công
18 giờ ngày 24-8, Uỷ ban Khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ (Tiền phong) phát lệnh khởi nghĩa.
Chấp hành lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, từ 20 giờ các đội Thanh niên Tiền phong xung kích gồm hàng nghìn đội viên ưu tú, đa số là đoàn viên Tổng công đoàn mà nòng cốt là các đảng viên cộng sản, được vũ trang triển khai lực lượng đánh chiếm các cơ sở trọng yếu trong thành phố như: Kho bạc, Nhà máy đèn, Nhà máy nước, Sở bưu điện, Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Sở chữa cháy, Sở công an, các đầu cầu vào Sài Gòn, các bốt cảnh sát, các vùng lân cận trại lính Nhật, khu Pháp kiều, khu vực trại lính Pháp... Trong lúc các đội xung kích chiếm các công sở thì thanh niên, công nhân có vũ trang trên các xe cam nhông cắm cờ chạy khắp thành phố để cổ động và phòng ngừa bọn lưu manh, phản động.
22 giờ, ngày 24-8, tất cả bộ máy cai trị của chính quyền bù nhìn trong thành phố đã về tay cách mạng, trừ Dinh Toàn quyền, cảng hải quân, Đông Dương ngân hàng, sân bay Tân Sơn Nhất vì Nhật không chịu nhượng bộ. Khâm sai Nguyên Văn Sâm bị bắt tại Dinh Khâm sai lúc 22 giờ cùng ngày. Trước 0 giờ ngày 25-8, một kỳ đài ghi tên các uỷ viên Uỷ ban Hành chính lâm thời Nam Bộ được dựng lên tại ngã tư Đại lộ Bông (Bonnard) - Sácnê (Charner).
Cũng từ nửa đêm 24-8, hàng chục vạn quần chúng, nhân dân từ các vùng ngoại thành Bà Điểm, Hóc Môn, Bình Đông, Bình Xuyên, Chợ Đệm... từ các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho, với băng cờ, gậy gộc, dao găm, giáo mác, súng... ồ ạt tiến vào Thành phố Sài Gòn. Cả thành phố vang lên những tiếng hát, tiếng hô khẩu hiệu: “Đả đảo Khâm sai Nguyễn Văn Sâm", "Chính quyền về tay Việt Minh", "Việt Minh độc lập muôn năm" ...
Rạng sáng ngày 25-8, Sài Gòn bừng dậy trong không khí cách mạng hào hùng. Các đường phố tràn ngập cờ, biểu ngữ. Tiếng hô khẩu hiệu quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do vang dội trong thành phố. Cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại của trên một triệu người bắt đầu từ Nhà thờ Đức Bà diễu qua các đường phố Catina (Catinat), Bengichcơ (Belgique) Kitsơnê (Kitchener)... tập hợp trước Dinh đốc lý thành phố, nơi được chọn làm trụ sở của Uỷ ban Hành chính lâm thời Nam Bộ. Từ trên bao lơn của trụ sở, đại diện Việt Minh Nam Bộ đọc danh sách Uỷ ban Hành chính lâm thời Nam Bộ trong tiếng hô vang dậy của đồng bào. Đồng chí Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ Trần Văn Giàu, thay mặt Xứ uỷ đọc lời kêu gọi nhân dân quyết tâm ủng hộ bảo vệ cách mạng. Trong không khí hào hùng, đại diện Tổng Công đoàn Nam Bộ đọc lời hứa của giai cấp công nhân, nhân dân lao động cùng toàn thể nông dân sát cánh bên nhau quyết giữ vững chính quyền cách mạng.
Cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn thành công rực rỡ.
Thắng lợi của khởi nghĩa ở Sài Gòn có một vị trí quan trọng trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi đó như một tiếng bom làm rung chuyển cả vùng nông thôn Nam Bộ, làm chính quyền địch ở 15 tỉnh chưa khởi nghĩa hoảng loạn. Cuộc khởi nghĩa ở thủ phủ miền Nam đã động viên, cổ vũ toàn thể nhân dân Nam Bộ vùng lên. Nó như "phát súng lệnh" cho các địa phương Nam Bộ giành chính quyền kịp thời, không đổ máu.
Nếu như cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội mở đầu và quyết định trong việc triển khai và thắng lợi của Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc thì khởi nghĩa ở Sài Gòn quyết định thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ở Nam Bộ, đưa Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 của nhân dân ta đến thành công rực rỡ.
Thắng lợi của tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn đã đặt dấu chấm hết chế độ phát xít, bù nhìn ở nước ta, đồng thời tạo điều kiện cho việc chuẩn bị bảo vệ thành quả cách mạng vĩ đại của nhân dân ta trước âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp và các thế lực đế quốc khác.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995,.t. I.
- Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, t.III, tr. 678-694.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1990.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 211-212.
NGÀY 25 - 8
Tổng khởi nghĩa tiếp tục diễn ra ở các địa phương
Cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn đêm 24 rạng ngày 25-8 đã đưa Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 ở Nam Bộ phát triển tới đỉnh cao.
Gần như đồng thời với cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn, nhân dân các tỉnh Nam Bộ: Chợ Lớn, Gia Định, Sóc Trăng, Long Xuyên, Vĩnh Long, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Bến Tre, Sa Đéc vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi vào ngày 25-8. Cơn lốc cách mạng bùng lên ở Nam Bộ đã thiêu trụi chính quyền bù nhìn phản động ở hầu khắp các tỉnh phía nam Tổ quốc, ghi thêm một nét son rực rỡ lên trang sử đấu tranh cách mạng ở miền đất anh hùng này.
Cùng với nhân dân Nam Bộ, nhân dân các tỉnh Lạng Sơn, Phú Thọ, Kon Tum, Bình Thuận đã đập tan chính quyền địch ở tỉnh lỵ, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Trong 15 tỉnh khởi nghĩa trong ngày 25-8 (không tính Sài Gòn) thì có năm tỉnh khởi nghĩa về cơ bản xuất phát từ huyện, xã, lên đến tỉnh là: Chợ Lớn, Long Xuyên, Thủ Dầu Một, Phú Thọ và Lạng Sơn. Bốn tỉnh khởi nghĩa lan từ tỉnh ly về các huyện, xã là Sa Đéc, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bình Thuận; sáu tỉnh khởi nghĩa nổ ra đồng loạt ở cả nông thôn và thành thị trong cùng một ngày: Trà Vinh, Bến Tre, Gia Định, Bà Rịa Tây Ninh và Kon Tum.
Mười tỉnh là Chợ Lớn, Gia Định, Vĩnh Long, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tây Ninh, Bến Tre, Sa Đéc, Lạng Sơn, Phú Thọ khởi nghĩa có sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích, hỗ trợ, lực lượng chính trị đóng vai trò chủ yếu. Hai tỉnh Kon Tum và Sóc Trăng giành chính quyền ở tỉnh lỵ chủ yếu bằng biểu tình: mít tinh của quần chúng cách mạng, tuyên bố xoá bỏ chính quyền địch.
Ba tỉnh Long Xuyên, Bà Rịa, Bình Thuận giành chính quyền theo cách thức bàn giao thoả thuận. Ở Bà Rịa, Tỉnh trưởng bỏ trốn trước khi khởi nghĩa bùng nổ.
Hầu hết các tỉnh tiến hành đập tan chính quyền địch, sau đó tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng, riêng Sóc Trăng quần chúng tổ chức tuyên bố thành lập chính quyền trước, sau đó tiến hành chiếm các công sở của địch. Trừ hai tỉnh Tây Ninh và Bình Thuận khởi nghĩa bằng lực lượng tại chỗ ở tỉnh lỵ, tất cả các tỉnh khởi nghĩa trong ngày 25-8 đều tiến hành huy động lực lượng từ các huyện, xã tiến vào tỉnh lỵ tham gia giành chính quyền.
Sự phong phú về phương pháp và cách thức tiến hành khởi nghĩa ở các tỉnh nói trên đã thể hiện rõ hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ và nhân dân các địa phương trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 206.
NGÀY 25 - 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội chỉ đạo các nhiệm vụ cách mạng cấp bách
Sau khi Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền cách mạng của nhân dân được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định về Hà Nội để tiếp tục chỉ đạo công cuộc giành chính quyền đang diễn ra sôi động trên cả nước, gấp rút chuẩn bị công việc khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 25-8, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào (Sơn Dương Tuyên Quang) về tới Hà Nội. Sau khi nghe báo cáo tình hình khởi nghĩa ở Hà Nội, chiều ngày 26-8, Người triệu tập và chủ toạ phiên họp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tổ chức tại số nhà 48 phố Hàng Ngang để bàn những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước cách mạng. Người nhất trí với chủ trương của Ban Thường vụ mở rộng thành phần Uỷ ban Giải phóng dân tộc và sớm công bố danh sách của Uỷ ban cho toàn dân biết, chuẩn bị bản Tuyên ngôn độc lập và tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội để Uỷ ban Giải phóng dân tộc ra mắt quốc dân. Ngày ra mắt của Uỷ ban cũng là ngày Việt Nam tuyên bố thành lập chính thể Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 27-8, Uỷ ban Giải phóng dân tộc tập hợp một cuộc họp các thành viên trong Uỷ ban. Tại cuộc họp này theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam do Quốc dân Đại hội (Tân Trào) bầu ra được cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâm thời nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sự tiến bộ. Một số uỷ viên Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ để nhường chỗ cho các thành phần khác, có cả những người đã từng tham gia trong chính quyền cũ. Hành động đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Đó là một cử chỉ vô tư tốt đẹp không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân".
Cũng trong ngày 27-8, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày hôm sau, danh sách Chính phủ gồm 15 thành viên do Người đứng đầu được công bố trên các báo ở Hà Nội.
Từ ngày 28-8, theo sự phân công của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, tại chiếc bàn ăn trên gác hai số nhà 48, phố Hàng Ngang, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung trí lực và tình cảm soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.
Nhằm huy động trí tuệ tập thể ngày 30-8, Người mời một số đồng chí đến trao đổi, góp ý kiến vào văn kiện lịch sử quan trọng này. Người trào dâng niềm xúc động vì trong quá trình hoạt động cách mạng Người "đã viết nhiều nhưng đến bây giờ mới viết được một bản Tuyên ngôn như vậy".
Sau khi suy ngẫm, trăn trở, ngày 31-8-1945, Người quyết định bổ sung thêm một số điểm vào bản Tuyên ngôn, hoàn chỉnh bản khai sinh của nước Việt Nam độc lập, dân chủ, tự do.
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh dự thảo được Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí thông qua trước khi công bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới vào ngày 2-9-1945, tại Hà Nội.
Cùng với dự thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ đạo chuẩn bị ngày quốc lễ 2-9-1945.
Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Nội lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng như trên lĩnh vực đối ngoại, khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đang tiến vào nước ta.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6. tr. 160.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 287-288.
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia – Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1994, tr. 105.
TỪ NGÀY 26 ĐẾN NGÀY 27 - 8
Tổng khởi nghĩa bước vào giai đoạn kết thúc
Sau khi những vị trí chiến lược như Hà Nội, Huế, Sài Gòn cùng đại bộ phận các địa phương khởi nghĩa thành công, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta chuyển vào giai đoạn kết thúc.
Ngày 26-8, nhân dân các tỉnh Sơn La, Châu Đốc, Biên Hoà và đặc khu Hồng Gai khởi nghĩa thắng lợi.
Ngày 27-8, nhân dân Rạch Giá giành chính quyền thành công ở tỉnh lỵ.
Trong số năm tỉnh kể trên, ba tỉnh Biên Hoà, Sơn La, Châu Đốc khởi nghĩa bắt đầu từ huyện, xã lên đến tỉnh lỵ, tỉnh Rạch Giá khởi nghĩa từ tỉnh lỵ trước rồi lan về các huyện, xã; đặc khu Hồng Gai khởi nghĩa nổ ra ở thị xã và nông thôn cùng một ngày.
Ở Biên Hoà giành chính quyền ở tỉnh lỵ dưới hình thức biểu tình, mít tinh, ở Châu Đốc giành chính quyền bằng bàn giao, thoả thuận; ba tỉnh, đặc khu còn lại là Sơn La, Lai Châu, Hồng Gai khởi nghĩa bằng sự kết hợp giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích, hỗ trợ, lực lượng chính trị đóng vai trò chủ yếu.
Trừ Biên Hoà khởi nghĩa bằng lực lượng tại chỗ, ở tỉnh lỵ các địa phương còn lại huy động nhân dân từ các huyện, xã kéo về thị xã tham gia giành chính quyền.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 214.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Quảng Ninh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Ninh (1928-1945), Quảng Ninh, 1985, t. I.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Kiên Giang (1930-1945), sơ thảo, Kiên Giang, 1985.
NGÀY 28 - 8
Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước
Tính đến hết ngày 27, trên cả nước đã có 63 tỉnh, thành phố đặc khu nổi dậy giành chính quyền thắng lợi. Tình hình trên đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho những tỉnh còn lại tiếp tục nổi dậy giành chính quyền. Tại Hà Tiên, sáng ngày 28-8, dưới sự lãnh đạo của Quận uỷ Châu Thành, lực lượng quần chúng với gậy gộc, giáo mác, tầm vông vót nhọn từ các nơi: Hòn Chông, Ba Hoà, Dương Hoàn, Thuận Yên, Lộc Trĩ... kéo về thị xã Hà Tiên, phối hợp với lực lượng tại chỗ giành chính quyền. Lực lượng khởi nghĩa chiếm xong các vị trí của chính quyền địch, lực lượng khởi nghĩa diễu hành thị uy dọc các đường phố rồi kéo về sân quần vợt thị xã tổ chức cuộc mít tinh. Trước 3500 quần chúng, đại diện của Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh tuyên bố xoá bỏ chính quyền tay sai của Nhật, lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ, các địa phương khác cũng nổi dậy lật đổ chính quyền địch. Riêng Phú Quốc, vì ở xa đất liền nên khởi nghĩa muộn hơn.
Tại Đồng Nai Thượng, do chưa xây dựng được lực lượng cách mạng nên cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở đây được thực hiện nhờ sự giúp đỡ tích cực của Lâm Viên. Sau khi khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi (ngày 23-8), Uỷ ban Nhân dân cách mạng Lâm Viên phát hiện chính quyền Đồng Nai Thượng do Cao Minh Hiệu làm Chủ tịch thực chất chưa phải là chính quyền cách mạng nên cử 100 cán bộ và quần chúng ở thành phố Đà Lạt, đi trên ba xe cắm cờ Việt Minh xuống Di Linh, hỗ trợ cho nhân dân ở đây giành chính quyền. Dọc đường, đoàn được các đoàn biểu tình ở Đơn Dương, La Ba nhập vào.
Đến Di Linh, đoàn tranh thủ ý kiến của anh em trí thức, công chức người Kinh và người Thượng trong tỉnh, vận động và được anh em hoan nghênh, ủng hộ. Trong khi đó các đoàn biểu tình mới đến họp với đông đảo nhân dân Kinh, Thượng ở Di Linh, bao vây dinh tỉnh trưởng, đòi Cao Minh Hiệu trả lại chính quyền cho nhân dân. Khiếp sợ trước sức mạnh của quần chúng, Cao Minh Hiệu phải từ chức, đồng ý trao lại chính quyền.
Chiều ngày 28-8, hàng nghìn người thuộc các dân tộc Kinh, Thượng họp mít tinh ở sân vận động Di Linh, nghe thông báo về tình hình khởi nghĩa trong cả nước chính phủ cộng hoà dân chủ đã ra đời. Tại đây, Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Đồng Nai Thượng ra mắt nhân dân. Cùng ngày, Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời cử người đi tiếp quản đồn bảo an, các cơ quan của chính quyền địch.
Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng, kịp thời và không đổ máu ở hai tỉnh Hà Tiên và Đồng Nai Thượng vào ngày 28- 8 đã đánh dấu sự thắng lợi của Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Lâm Đồng, Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng (1930-1945), Lâm Đồng, 1981, tr. 93-96.
- Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Kiên Giang: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Kiên Giang (1930-1945), sơ thảo, Kiên Giang, 1985.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 227-231.
NGÀY 30 - 8
Chính phủ cách mạng lâm thời tiếp nhận sự thoái vị của Bảo Đại
Đêm 23-8, Bảo Đại nhận được điện của Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam từ Hà Nội điện vào yêu cầu nhà vua chính thức tuyên bố thoái vị. Ngày 24-8, Bảo Đại điện trả lời Uỷ ban Giải phóng dân tộc đồng ý tuyên bố thoái vị và “mong ước" Chủ tịch Uỷ ban về Huế để trao quyền.
Chiều ngày 28-8, nhân dân Huế đón Phái đoàn của Chính phủ lâm thời9 do Trần Huy Liệu làm Trưởng đoàn vào Huế để chứng kiến Bảo Đại thoái vị và thu ấn kiếm của vị vua cuối cùng ở Việt Nam.
16 giờ ngày 30-8, hàng vạn nhân dân Huế tụ họp tại Ngọ Môn chứng kiến một sự kiện lịch sử trọng đại: Bảo Đại đọc chiếu thoái vị "nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một chính phủ dân chủ cộng hoà" và tuyên bố "lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập"; rồi trao ấn kiếm cho dại diện của Chính phủ lâm thời. Trong không khí nghiêm trang, cờ quẻ ly bị hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên. Đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam tuyên bố xoá bỏ chính thể quân chủ ở Huế cũng như trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, công bố chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Sự kiện Bảo Đại tuyên bố thoái vị có một ý nghĩa quan trọng, chính thức đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền phong kiến lỗi thời; nhân dân ta đã thực hiện được một bước quan trọng đường lối cách mạng dân chủ mà Đảng ta đề ra từ năm 1930. Việc Bảo Đại tuyên bố thoái vị cũng đã triệt tiêu một đầu mối mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị lên đất nước ta.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 204.
- Báo Nhân dân, số 2346, ngày 21-8-1960.
- Trần Trọng Kim: Một cơn gió bụi, Nxb. Vĩnh Sơn, 1969, tr. 197-198.
NGÀY 31 - 8
Xứ uỷ Trung Kỳ được lập lại
Từ giữa năm 1942, do sự đánh phá điên cuồng của Pháp và tay sai, ở Trung Kỳ không còn cơ quan lãnh đạo cấp xứ. Trong quá trình vận động chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Trung ương và đảng viên ở Trung Kỳ có nhiều cố gắng để tái lập lại cơ quan lãnh đạo chung cho toàn xứ, song do tình hình rất khó khăn nên chủ trương trên không thực hiện được. Cho đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, ở Trung Kỳ không có Xứ uỷ.
Nhận rõ tầm quan trọng của việc tái lập Xứ uỷ Trung Kỳ, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (13-8-1945) đã bầu bổ sung đồng chí Nguyễn Chí Thanh10 vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Trung ương chỉ định đồng chí đảm trách nhiệm vụ Bí thư Xứ uỷ Trung Kỳ. Sau Hội nghị, đồng chí Nguyễn Chí Thanh cùng một số đồng chí khác nhanh chóng trở lại Trung Kỳ để lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa và lập lại Xứ uỷ .
Sau ngày Huế khởi nghĩa thành công (23-8-1945), đồng chí Nguyễn Chí Thanh về Huế, triệu tập Hội nghị cán bộ toàn Xứ Trung Kỳ vào ngày 31-8-1945, lập lại Xứ uỷ. Xứ uỷ mới được lập lại có đồng chí Nguyễn Chí Thanh (Bí thư), đồng chí Tố Hữu (Phó bí thư)...
Xứ uỷ Trung Kỳ được lập lại đánh dấu sự kiện toàn thống nhất về mặt tổ chức của Đảng bộ Trung Kỳ, đặt cơ sở cho những thắng lợi của nhân dân miền Trung trong chống giặc đói, giặc dốt, tổ chức phục vụ đội quân Nam tiến, xây dựng, bảo vệ chính quyền, chuẩn bị chống thực dân Pháp xâm lược.
- Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr. 178-179.
- Tỉnh uỷ Đắk Lắk - Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Nhà đầy Buôn Ma Thuột (1930-1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 122.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-1995.
CUỐI THÁNG 8
Tù chính trị Côn Đảo nổi dậy giành quyền làm chủ
Cùng với cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra và thắng lợi trên đất liền, Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng nổi dậy giành quyền làm chủ đảo.
Để bưng bít tin tức từ bên ngoài dội đến nhà tù, bọn địch trên đảo phá hết các phương tiện thông tin, thu thanh. Qua phân tích thái độ và hành động của lính Nhật trên đảo, các đồng chí phán đoán Nhật đã thất bại.
Trước hiện tượng hoang mang của địch, tuy không liên lạc được với do liền, song nhận thấy thời cơ đã đến vào cuối tháng tám năm 1945, Chi bộ Nhà tù lập tức lãnh đạo tù nhân nổi dậy chiếm trại lính, khống chế bảo an binh phá trật giam, tổ chức lực lượng tự vệ và các đoàn thể Cứu quốc, nắm giữ các cơ quan của địch, buộc giám ngục phải làm theo yêu cầu của ta; cử người vào đất liền xin chỉ thị Hội đồng liên hiệp quốc dân Côn Đảo ra đời như một hình thức chính quyền liên hiệp do tù chính trị lãnh đạo.
Đầu tháng 9-1945, cùng với nhân dân cả nước, tù nhân vừa được giải phóng ở Côn Đảo vui mừng đón nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập qua rađiô. Một cuộc mít tinh được tổ chức để chào mừng ngày độc lập của dân tộc.
Ngày 17-9, theo lệnh của Xứ uỷ, Uỷ ban hành chính lâm thời Nam Bộ đưa tàu Phú Quốc và 32 ghe, thuyền đến Côn Đảo, đón các chiến sĩ cách mạng về đất liền. Trong cuộc mít tinh trọng thể tổ chức tại sân vận động chiều ngày 17-9-1945, đại diện Uỷ ban Hành chính lâm thời Nam Bộ tuyên bố "Từ giờ phút này, Côn Đảo là một mảnh đất tự do độc lập". Con dấu của Nhà tù được nộp lại cho vị đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 23-9-1945, đoàn thuyền chở 1.800 tù chính trị cập bến Đại Ngãi (Sóc Trăng). Chưa kịp hưởng trọn một ngày tự do trên đất liền, các đồng chí vừa thoát ngục đã hăng hái tham gia vào cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược11.
- Nhà tù Côn Đảo (1862-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Nhà tù Côn Đảo (1945-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 19.
- Chúng tôi ở Côn Đảo, Hồi ký Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ - Ban Liên lạc cựu tù chính trị Côn Đảo tỉnh Nam Định xuất bản, 1998, tr. 157.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, tr. 216
THÁNG 8
Đảng bộ các địa phương thực hiện vô hiệu hoá quân đội Nhật Bản
Trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đồng thời với việc chớp thời cơ phát động nhân dân vùng dậy giành chính quyền, Đảng bộ các địa phương còn thực hiện vô hiệu hoá quân đội Nhật, tránh cho cuộc khởi nghĩa khỏi những tổn thất.
Sau khi Quân đội Liên Xô đánh bại một triệu quân Quan Đông ở chiến trường Đông Bắc Trung Quốc, Chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, quân Nhật chiếm đóng ở Đông Dương hoang mang, dao động đến cực độ. Nhiều nơi quân Nhật tê liệt, cố thủ trong doanh trại, bắn tin ra ngoài muốn thương lượng với Việt Minh. Trước tình hình đó, Đảng bộ một số địa phương quyết định "kịp thời chuyển từ hình thức vũ trang sang hình thức thương lượng với Nhật để giành lấy chính quyền một cách không phải đổ máu”.
Tại Hà Nội, sau khi phân tích thái độ của Nhật đối với cuộc mít tinh chiều ngày 17-8, Uỷ ban Khởi nghĩa thành phố nhận định cần phải làm cho Nhật "cứ tiếp tục giữ thái độ ấy” (tức thái độ không can thiệp) là một thuận lợi rất lớn cho việc tiến hành khởi nghĩa. Uỷ ban quyết định đưa ra khẩu hiệu “Chống mọi hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc độc lập của dân tộc Việt Nam". Uỷ ban còn cho rải truyền đơn quanh trại lính Nhật khuyên chúng đừng can thiệp vào nội bộ nước ta. Chủ trương cô lập Nhật của Đảng bộ Hà Nội đã thành công tốt đẹp. Quân đội Nhật không can thiệp vào cuộc khởi nghĩa của nhân dân thành phố ngày 19- 8.
Tại Sài Gòn, Xứ uỷ (Tiền phong) cử hai thủ lĩnh của Thanh niên Tiền phong đến Tổng hành dinh Đông Nam châu Á của Nhật để giải thích chính sách, đường lối của Việt Minh, yêu cầu chúng tuyệt đối không can thiệp vào phong trào dân tộc Việt Nam và trao cho Việt Minh số vũ khí chúng tước của Pháp trong và sau ngày đảo chính (9-3). Thống chế Têrauchi (Térauchi) đã hứa hẹn và trao cho đại diện của Xứ uỷ thanh gươm ngắn để làm bằng. Cũng như ở Hà Nội, chủ trương cô lập Nhật đạt kết quả tốt.
Hà Nội, Sài Gòn và 25 tỉnh, thành phố đã trực tiếp hoặc gián tiếp, gặp gỡ trực diện hay gửi tối hậu thư yêu cầu Nhật không được can thiệp vào cuộc tổng khởi nghĩa của nhân dân ta là; Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Phú Yên, Thanh Hoá, Khánh Hoà, Yên Bái, Bắc Ninh, Ninh Bình, Sơn Tây, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Nghệ An, Hoà Bình, Quảng Bình, Quảng Trị, Đắk Lắk, Bình Thuận, Phú Thọ, Châu Đốc, Biên Hoà, Bà Rịa, Sơn La, Hưng Yên. Hầu hết các tỉnh nói trên thực hiện tốt sách lược thương lượng buộc Nhật phải nằm im trong doanh trại. Riêng ở Tuyên Quang, Yên Bái, Khánh Hoà, công tác địch vận của ta với Nhật đạt kết quả thấp. Ngoài ra, hai tỉnh Thái Nguyên và Quảng Ngãi, thương lượng giữa ta với Nhật diễn ra sau khi đụng độ vũ trang, cũng đạt kết quả.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 190-195.
- Báo Nhân dân, số 2344, ngày 19-8-1960.
- Tạp chí Học tập, số 9-1963.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1, tr. 190.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1929-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa (1930-1954), Thanh Hoá, 2000, t. I.
NGÀY 2 - 9
Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Ngày 2-9, Hà Nội được vinh dự thay mặt cho các địa phương trong cả nước, tổ chức ngày lễ độc lập để Chính phủ lâm thời ra mắt đồng bào; đồng thời, nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập thể chế dân chủ cộng hoà.
Từ sáng sớm, cả Hà Nội bừng lên trong màu cờ đỏ sao vàng và đèn, hoa rực rỡ. Những biểu ngữ lớn bằng chữ Việt, Pháp, Nga, Anh, Trung Quốc chăng khắp các đường phố: "Nước Việt Nam của người Việt Nam", "Độc lập hay là chết", “Ủng hộ Chính phủ lâm thời”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh"...
Từ giữa trưa, nhân dân thành phố và các vùng lân cận cuồn cuộn đổ về vườn hoa Ba Đình, nơi dựng lễ đài Độc lập, tràn ngập các phố xung quanh.
Đúng 14 giờ, các thành viên của Chính phủ lâm thời bước lên lễ đài. Bài Tiến quân ca vang lên hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên. Một rừng cánh tay giơ lên chào, bàn tay nắm lại.
Trong không khí trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, tuyên bố với toàn thể nhân dân, với thế giới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập, tự do ra đời.
Sau lễ tuyên thệ của Chính phủ lâm thời, đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về tình hình trong nước và chính sách của Chính phủ; đồng chí Trần Huy Liệu tường trình về sử mệnh của đoàn đại biểu chính phủ vào Huế nhận sự thoát vị của Bảo Đại; đồng chí Nguyễn Lương Bằng kêu gọi toàn dân thống nhất, đoàn kết, ủng hộ Chính phủ.
Đến 15 giờ 30, toàn thể nhân dân tuyên thệ: kiên quyết một lòng ủng hộ Chính phủ Dân chủ Cộng hoà, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh; cùng Chính phủ giữ quyền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có chết cũng cam lòng; nếu thực dân Pháp đến xâm lược lần nữa thì kiên quyết không đi lính cho Pháp, không làm cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa đường cho Pháp.
Sau khi quốc dân tuyên thệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với đồng bào: độc lập tự do là của báu, quý giá vô ngần, nay ta đã khổ sở, đau đớn trong bao nhiêu năm mới giành được, cần phải cố gắng giữ gìn bảo vệ.
Cuộc mít tinh kết thúc. Cuộc biểu tình vĩ đại của hàng chục vạn quần chúng bắt đầu. Các đoàn thể lần lượt diễu quanh lễ đài rồi chia làm ba đường diễu hành qua các phố.
Ngày độc lập, mồng 2 tháng 9 năm 1945 là ngày hội lớn của dân tộc ta, ngày Quốc khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày Hà Nội trở thành Thủ đô của cả nước; một ngày có "ý nghĩa cực kỳ trọng đại trong đời sống chính trị, tinh thần của dân tộc".
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 241-245.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000), Nxb. Hà Nội, 2004.
- Võ Nguyên Giáp: Những năm tháng không thể nào quên, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1970, tr. 29.
NGÀY 2 - 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc tập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Tại cuộc mít tinh của hàng chục vạn nhân dân ở vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập do Người khởi thảo, được Ban Thường vụ Trung ương Đảng đóng góp ý kiến và nhất trí thông qua.
Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng một chân lý vĩnh cửu và phổ biến: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được".
Tiếp đó, Tuyên ngôn Độc lập tố cáo và lên án những tội ác của thực dân Pháp. Chúng đã "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”, thực hiện một chính sách cực kỳ phản động trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, không "bảo hộ" cho ta mà “bán nước ta cho Nhật. Từ đó, dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ nghèo nàn. Sau ngày 9-3-1945, thực dân Pháp thua chạy, dã man và hèn hạ hơn nữa, "chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng".
Tuyên ngôn Độc lập nêu cao tinh thần khoan hồng và nhân đạo của nhân dân ta, giương cao ngọn cờ chính nghĩa và chính sách đúng đắn của Mặt trận Việt Minh như cứu người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ... sau ngày 9-3-1945.
Sau khi phân tích tình hình nước ta từ mùa thu năm 1940 đến khi nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền, bản Tuyên ngôn Độc lập nhấn mạnh: "Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà".
Bản Tuyên ngôn Độc lập trịnh trọng tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời; thủ tiêu hoàn toàn chính quyền thực dân, phong kiến, khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam trước toàn thể nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít Nhật mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập.
Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy".
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng và ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc. Tuyên ngôn Độc lập là sự phát triển đến đỉnh cao của tư tưởng độc lập tự do đã được thể hiện trong bản “yêu sách" gửi Hội nghị Vécxai, trong "Đường Kách mệnh", trong "Chính cương vắn tắt”, trong "Luận cương chính trị", trong các văn kiện khác của Đảng cũng như của Mật trận Việt Minh.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng yêu nước, tự lực, tự cường đã nảy sinh và phát triển từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập là kết tinh những quyền lợi cơ bản và những nguyện vọng thiết tha nhất của nhân dân Việt Nam, là biểu hiện hùng hồn khí phách bản lĩnh kiên cường ý chí bất khuất của dân tộc ta. "Bản Tuyên ngôn Độc lập là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (...). Nó chấm dứt thể chế quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức. Nó mở ra một kỷ nguyên mới dân chủ, cộng hoà".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr. 555-557.
- Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia - Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1994, tr. 107-109.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1945, tr. 241- 245
CUỐI NĂM
Đấu tranh giành chính quyền ở một số tỉnh bị bọn phản động chiếm đóng
Đại hội Quốc dân ở Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 16- 8-1945 đã dự đoán: “Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go, trở ngại sẽ xảy ra". Đúng như sự đoán định tài tình của Đảng, trong khi 65 tỉnh, thành phố, đặc khu nổi dậy thắng lợi thì ở một số tỉnh lỵ, thị xã như Vĩnh Yên, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Móng Cái, Hải Ninh do quân đội chính quyền Tưởng Giới Thạch và bọn phản động chiếm đóng, chống lại khởi nghĩa, nên chính quyền cách mạng chưa được thiết lập song tháng 8-1945. Cuộc đấu tranh giành chính quyền ở những nơi đó diễn ra gay go, phức tạp, kéo dài và phải theo những phương thức khác nhau mới giành được thắng lợi.
Tại Vĩnh Yên, từ khi Nhật đầu hàng, bọn Đại Việt Quốc dân Đảng phản động đã cấu kết với bọn Bảo an binh trong chính quyền bù nhìn bàn cách cướp chính quyền. Ngày 19-8, trong khi Việt Minh khởi nghĩa ở các huyện và tập trung chống lũ lụt cứu dân, bọn phản động buộc tỉnh trưởng giao chính quyền và vũ khí cho chúng; tổ chức một cuộc mít tinh công khai nắm chính quyền tỉnh Vĩnh Yên. Do không đánh giá đúng bản chất, âm mưu và hành động của bọn phản động trong điều kiện quân Tưởng đã kéo vào nước ta, nên ngày 28-8, hội nghị Tỉnh uỷ quyết định huy động lực lượng quần chúng có lực lượng vũ trang hỗ trợ, biểu tình giành chính quyền ở thị xã Vĩnh Yên vào ngày 31-8. Do bọn phản động chống đối kịch liệt, xả súng bắn chết hàng trăm người, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ Vĩnh Yên theo hình thức biểu tình có vũ trang bị thất bại. Cuối tháng 9-1945, chính quyền cách mạng tỉnh mới được thành lập, đóng tại huyện Yên Lạc. Giữa năm 1946, thị xã Vĩnh Yên mới được giải phóng.
Tại Hà Giang, do phong trào cách mạng còn bó hẹp trong các vùng nông thôn, hẻo lánh, chưa có sự phối hợp chỉ huy nên khi thời cơ xuất hiện, Hà Giang không thực hiện được khởi nghĩa. Chính quyền ở tỉnh ly do bọn Quốc dân Đảng nắm giữ. Bốn tháng sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi, ngày 24-12-1946, chính quyền cách mạng ở Hà Giang mới được thành lập, qua một quá trình đấu tranh rất gay go, phức tạp.
Tại Lai Châu, do chưa có tổ chức Đảng và tổ chức Việt Minh nên chỉ có châu Quỳnh Mai giành được chính quyền từ sự hỗ trợ của bên ngoài. Sau khi châu Quỳnh Mai khởi nghĩa, Bộ Nội vụ, Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ cử phái viên thay mặt Chính phủ lên thương thuyết, lập chính quyền ở thị xã Lai Châu. Song lúc này, quân đội Trung Hoa dân quốc và bọn phản động Quốc dân Đảng đã vào thị xã và nắm được chính quyền bù nhìn, cuộc thương thuyết không đạt kết quả. Tháng 11-1945, hai tiểu đoàn quân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) tràn vào Lai Châu dùng nơi đây làm bàn đạp xâm lược vùng Tây Bắc nước ta.
Tại Lào Cai, khi cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa, ở đây chưa có đảng viên địa phương cơ sở cách mạng còn yếu. Trong khi đó bọn Việt Nam Quốc dân Đảng theo chân quân Trung Hoa dân quốc đột nhập vào Lào Cai, phá hoại, ngăn chặn phong trào cách mạng; lập chính quyền phản động. Trong tháng 8-1945, Lào Cai không nổ ra khỏi nghĩa. Thấy khởi nghĩa không nổ ra ở Lào Cai, Tỉnh uỷ Yên Bái phát một đơn vị vũ trang và cán bộ lên tiếp quản Lào Cai, song bị quân Tưởng chặn lại ở Phố Lu.
Cuối tháng 10-1945, Xứ uỷ và Kỳ bộ Việt Minh Bắc Bộ cử đoàn cán bộ lên Lào Cai để tổ chức lại chính quyền cách mạng ở thị xã Phố Lu bị vỡ do bọn Quốc dân Đảng phá hoại. Cuối năm 1946, sau khi bọn Quốc dân Đảng bị ta tấn công, rút chạy sang Trung Quốc tỉnh Lào Cai được giải phóng.
Tại Hải Ninh, lợi dụng Nhật đầu hàng, bọn phỉ người Hoa, bọn Việt Quốc, Việt Cách theo đuôi quân đội Trung hoa dân quốc tràn vào cấu kết với bọn phản động địa phương, chống phá cách mạng. Việc giành chính quyền ở Hải Ninh phải tiến hành bằng tấn công vũ trang, giành giật nhiều lần giữa ta và bọn phản động theo Tưởng. Đến tháng 2-1946, hơn nửa số huyện ở Hải Ninh được giải phóng. Uỷ ban Nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập đóng trụ sở ở Tiên Yên. Chính quyền cách mạng chưa quản lý hết các địa bàn trong tỉnh vì một số huyện vẫn còn bị bọn phản động và thổ phỉ người Hoa chiếm giữ.
Ở Móng Cái, sau khi Nhật đầu hàng theo chân quân đội Trung Hoa dân quốc, bọn Việt Cách và thổ phỉ người Hoa từ bên kia biên giới tràn sang cướp chính quyền từ rất sớm. Tháng 4-1946, một tiểu đoàn chủ lực và hai tiểu đoàn du kích của ta tiến ra Móng Cái. Sau khi ta cử đại biểu thương lượng không có kết quả bọn phản động láo xược đòi ta rút quân, lực lượng vũ trang ta nổ súng tấn công địch
Cuộc chiến đấu diễn ra suốt 23 ngày; ta chiếm được phần lớn thị xã. Sau đó do lực lượng quá chênh lệch so với địch, lực lượng vũ trang ta phải rút lui. Sau khi quân đội Trung Hoa dân quốc rút về nước, bọn phản động mất chỗ dựa cũng rút theo. Chính phủ ta cử cán bộ cùng nhân dân địa phương lập Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời ở Móng Cái vào giữa tháng 7-1946. Trong Uỷ ban nhân dân có một số phần tử Việt Cách tiến bộ tham gia. Giải phóng chưa được bao lâu thì quân Pháp đổ bộ lên chiếm thị xã Móng Cái.
Hiện tượng một số tỉnh không diễn ra khởi nghĩa hoặc khởi nghĩa không thành công cho thấy: mặc dù điều kiện thuận lợi nhưng nếu lực lượng cách mạng không được chuẩn bị đầy đủ, thiếu cơ quan lãnh đạo địa phương thì khởi nghĩa không thể nổ ra và kết thúc thắng lợi. Ngược lại, nếu bỏ lỡ thời cơ thì cuộc đấu tranh giành chính quyền sẽ gay go, ác liệt, kéo dài và bị tổn thất.
- Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 216-219.
- Hội thảo Cách mạng Tháng Tám khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc, 1995, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
___________
1. Khu an toàn Bãi Sậy của Hưng Yên được hình thành dưới sự giúp đỡ của Xứ ủy Bắc Kỳ, nằm ở phía Bắc tỉnh Hưng Yên, tiếp giáp với Hà Nội, Hà Đông và Bắc Ninh, bao gồm vùng giáp giới của ba huyện Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào, lấy Bần làm trung tâm.
2. Do nhiều nguyên nhân một số chiến khu nói trên không thành lập được; tên và phạm vi các chiến khu ở Bắc Kỳ cũng có sự biến đổi.
3. Có tài liệu viết Bộ tư lệnh đầu tiên của Việt Nam giải phóng quân gồm Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn, do Võ Nguyên Giáp đứng đầu.
4. Có tài liệu viết rằng Hội nghị đã lập ra Ban Cán sự Đảng bộ Nam Kỳ (tức xứ ủy lâm thời).
5. Trong bài “Để thống nhất Đảng bộ Nam Kỳ hãy kíp đi vào đường lối” (đăng trên báo Cờ Giải phóng số 15, ngày 17-7-1945), đồng chí Trường Chinh phê phán khẩu hiệu này. Đồng chí viết “... sau cuộc đảo chính, quyền thống trị của Pháp bị Nhật lật hẳn (...) mà ta còn hô đánh đổ Pháp thì có khác gì đánh vuốt đuôi một kẻ đã ngã, có khác gì chém dao xuống nước hay đẩy một cái cửa bỏ ngỏ”.
6. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch là đảng viên cộng sản.
7. Hoàng Văn Hoan sau này phản bội.
8. Lúc này Xứ ủy Bắc Kỳ phụ trách 10 tỉnh, 3 thành phố và chỉ huy Chiến khu III (Chiến khu Hòa – Ninh – Thanh).
9. Theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27-8-1945, Uỷ ban Giải phóng dân tộc Việt Nam cải tổ thành Chính phủ cách mạng lâmthời.
10. Hội nghị các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên. Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà tổ chức tại Quảng Ngãi (7- 1945) đã cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Trần Quý Hai đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào.
11. Sau chuyến cập bến ngày 23-9-1945, tàu Phú Quốc trở lại chuyến nữa, đón thêm 350 tù chính trị từ Côn Đảo về.
Trụ sở: 1A Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Email:congdcsvn@vptw.dcs.vn