LỜI GIỚI THIỆU
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng cũng chính là quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Tiếp theo cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam tập I và tập II, chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập III (1945-1954) Đảng lãnh đạo kháng chiến và kiến quốc.
Cuốn sách phản ánh thời kỳ Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo cách mạng từ tháng 9-1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến tháng 7- 1954, ký Hiệp định Giơnevơ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Những sự kiện được trình bày trong cuốn sách khắc họa lại những nội dung cơ bản của thời kỳ lịch sử này. Đó là quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ mới dưới chính thể Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đấu tranh chống "thù trong, giặc ngoài". Với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vừa xây dựng chế độ mới, vừa kiên quyết đấu tranh bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, giữ vững chính quyền dân chủ nhân dân, vượt qua những khó khăn hết sức to lớn về mọi mặt, đưa chính quyền cách mạng thoát ra khỏi tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Đó là quá trình Đảng lãnh đạo công tác chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc và chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ xâm lược, đánh bại từng kế hoạch chiến tranh của địch, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi to lớn với chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam và Đông Dương. Đó cũng là quá trình Đảng có sự lớn mạnh vượt bậc về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thể hiện qua việc nhận thức rõ hơn và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thể hiện qua tư duy kinh tế của Đảng, bước đầu đưa ra được những quan điểm đúng đắn về phát triển kinh tế mà Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một dấu mốc quan trọng. Do đó, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, Đảng đã lãnh đạo thực hiện thành công nhiệm vụ kiến quốc, góp phần trực tiếp vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và để lại kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng kinh tế hết sức quý báu.
Mặc dù các tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình lựa chọn, biên soạn những sự kiện lịch sử tiêu biểu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến các Đảng bộ địa phương, của các ban, ngành... nhưng nội dung cuốn sách không thể tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của đông đảo bạn đọc để nội dung cuốn sách được đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.
VIỆN LỊCH SỬ ĐẢNG
Năm 1945 NGÀY 3 - 9
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên đầu tiên
Sáng 3-9-1945, các Bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dự phiên họp đầu tiên của Chính phủ tại Bắc Bộ Phủ (Dinh Thống sứ Bắc Kỳ cũ), dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mở đầu phiên họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Chính phủ đối với đất nước; nêu lên sáu công việc cấp bách của cách mạng nước ta:
Một là, phải phát động ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói. Người đề nghị trong khi chờ đợi ngô, khoai và các thứ lương thực phụ khác phải ba bốn tháng mới có, phải mở một cuộc lạc quyên, mười ngày một lần, tất cả đồng bào nhịn ăn một bữa, gạo tiết kiệm được sẽ góp lại cho người nghèo.
Hai là, mở ngay một chiến dịch chống nạn mù chữ.
Ba là, tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Bốn là, mở một chiến dịch giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ thực dân để lại.
Năm là, bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
Sáu là, tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết.
Các Bộ trưởng đã thảo luận sôi nổi và hoàn toàn nhất từ những đề nghị của Người.
Phiên họp kết thúc trong buổi sáng cùng ngày.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.7-9.
- Biên bản Hội đồng Chính phủ năm 1945, lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 3 - 9
Chính phủ lâm thời phát động chiến dịch cứu đói và tăng gia sản xuất
Hậu quả của chính sách bóc lột tàn bạo của bọn phát xít Pháp, Nhật, cùng với nạn lũ lụt nghiêm trọng ở chín tỉnh Bắc Bộ đã cướp đi sinh mệnh hơn 2 triệu đồng bào từ Quảng Trị trở ra vào cuối năm 1944 đầu năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nạn đói vẫn nghiêm trọng đe doạ tính mạng hàng triệu người.
Ngày 3-9-1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại phiên họp đầu tiên. Chính phủ lâm thời quyết định phát động chiến dịch cứu đói và tăng gia sản xuất - một trong sáu công việc cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Mở đầu chiến dịch cứu đói, Chính phủ áp dụng ngay một số biện pháp cụ thể như việc cho phép vận chuyển thóc gạo, nghiêm trị những kẻ đầu cơ, tích trữ thóc gạo, cấm dùng gạo vào những công việc chưa cần thiết như nấu rượu, làm bánh, cấm xuất khẩu gạo, ngô, đậu; thành lập một tổ chức chuyên lo việc vận chuyển gạo từ miền Nam ra miền Bắc. Ngày 2-11-1945, Bộ trưởng Bộ Cứu tế quyết định thành lập Hội cứu đói. Hội có cơ sở xuống tận các làng. Ngày 28-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh thiết lập Uỷ ban tối cao tiếp tế và cứu tế.Ngoài Bộ Cứu tế, một số bộ khác cũng có nhiệm vụ cứu tế và tiếp tế. Cùng với những biện pháp mang tính chất hành chính, Chính phủkêu gọi toàn dân nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ, đùm bọc lẫn nhau để vượt qua nạn đói. Trong thư gửi đồng bào toàn quốc ra sức cứu đói tháng 9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với đồng bào cả nước và Người nêu gương thực hành trước "Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”.
Hưởng ứng lời kêu gọi tha thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua cứu đói nổi lên rầm rộ ở khắp các địa phương, dưới nhiều hình thức và sáng kiến như tổ chức "Hũ gạo cứu đói", "Ngày đồng tâm nhịn ăn", “Đoàn quân tiễu trừ giặc đói". Hàng vạn tấn gạo đã được nhân dân cả nước với tinh thần thương yêu đùm bọc, đoàn kết tương trợ nhau, quyên góp giảm bớt tình trạng căng thẳng lương thực.
Cùng với thực hiện những biện pháp cứu đói kịp thời trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ lâm thời quyết định phát động chiến dịch tăng gia sản xuất trong cả nước.
Người kêu gọi: "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập".
Trong tháng 10 và 11 năm 1945, Chính phủ ban hành nghị định giảm 20% thuế ruộng đất, miễn thuế hoàn toàn cho những vùng lụt. Bộ Kinh tế quốc dân ra thông tri quy định việc kê khai số ruộng đất vắng chủ, số ruộng công và ruộng tư không làm hết, tạm cấp cho nông dân không có ruộng hoặc thiếu ruộng.
Ngày 19-11-1945, Chính phủ thiết lập Uỷ ban Trung ương phụ trách vấn đề sản xuất. Tiếp theo, các Tiểu ban canh nông được thành lập ở các địa phương từ tỉnh đến xã. Báo Tấc đất được xuất bản để hướng dẫn nhân dân sản xuất. Chính phủ cho nhân dân vay thóc, vay tiền, cử cán bộ thú y về nông thôn chống bệnh cho gia súc, gia cầm; khuyến khích những người có sẵn vốn cho dân nghèo vay, khuyến khích dân khai khẩn đất hoang, củng cố lại những quãng đê bị vỡ, đắp thêm đê mới để phòng lũ lụt...
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cao cấp của Đảng, Chính phủ cũng dành giờ nghỉ, trực tiếp tham gia trồng trọt. Các giới, các ngành đều tự nguyện tổ chức thành từng đoàn, từng đội về nông thôn giúp nông dân đắp đê, phòng lụt, vỡ hoang, phục hoá... Khẩu hiệu "Tấc đất tấc vàng", "Không một tấc đất bỏ hoang" được toàn dân thực hiện triệt để.
Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, phong trào tăng gia sản xuất đã thu được kết quả to lớn. Sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục và có bước phát triển hơn trước. Nạn đói được đẩy lùi, đời sống của nhân dân, đặc biệt là nông dân lao động được dần dần ổn định và cải thiện một bước.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 7-9, 31, 114-115, 504.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật Hà Nội, 1979, t. II, tr. 16-17.
NGÀY 4 - 9
Chính phủ lâm thời đề ra những biện pháp giải quyết khó khăn về tài chính
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng ta mới thành lập đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, nhất là về kinh tế, tài chính. Một trong những biện pháp được Đảng và Nhà nước ta thực hiện để khắc phục những khó khăn đó là dựa vào sự tự nguyện đóng góp của nhân dân.
Theo Quyết nghị của Chính phủ ngày 4-9-1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ký ban hành Sắc lệnh số 4 lập "Quỹ độc lập" với mục đích "để thu nhận các món tiền và đồ vật của nhân dân sẵn lòng quyên giúp Chính phủ để ủng hộ nền độc lập của Quốc gia". Tiếp sau đó, cũng trong khuôn khổ Quỹ độc lập, Chính phủ đã đề ra biện pháp tổ chức "Tuần lễ vàng” từ ngày 17 đến ngày 24-9-1945. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào toàn quốc nhân dịp "Tuần lễ vàng”, nêu rõ mục đích của việc lập quỹ là "thu góp số VÀNG trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu có để cúng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là việc quốc phòng”.
Hưởng ứng Sắc lệnh của Chính phủ và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tổ chức "Quỹ độc lập". Tuần lễ vàng cả nước đã dấy lên phong trào tự nguyện thi đua đóng góp tiền của, vàng, bạc... ủng hộ Chính phủ. Phong trào diễn ra rộng khắp, sôi nổi, thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Chỉ trong một thời gian ngắn nhân dân cả nước đã quyên góp được 370 kg vàng và 20 triệu đồng Đông Dương. Ngân quỹ quốc gia đã có hàng trăm triệu đồng. Riêng tại Hà Nội, trong “Tuần lễ vàng" nhân dân đã góp được 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc cùng tiền bạc và các hiện vật khác, tổng trị giá lên 7 triệu đồng Đông Dương.
Cùng các hình thức tổ chức "Quỹ độc lập", tuần lễ vàng chính quyền cách mạng còn tổ chức nhiều hình thức khuyến khích để nhân dân có điều kiện tham gia đóng góp cho tài chính đất nước với hình thức tự nguyện như lập "Quỹ kháng chiến", “Quỹ bình dân học vụ”, "Quỹ giải phóng quân", “Ngày Nam Bộ"... Sự đóng góp, ủng hộ nhiệt tình của nhân dân đã góp phần giải quyết khó khăn về tài chính của đất nước.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 1, ngày 29-9-1945.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t. 4, tr. 17-18.
NGÀY 5 - 9
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh giải tán các đảng phái phản động
"Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng” là các tổ chức phản động tay sai của phát xít Nhật. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chúng vẫn tiếp tục các hoạt động chống phá cách mạng ở một số nơi; cấu kết với bọn phản động tay sai của Pháp, Mỹ, Tưởng âm mưu lật đổ Chính phủ ta.
Để giữ vững và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, ngày 5-9-1945, thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký ban hành Sắc lệnh số 8, giải tán các đảng phái phản động.
Sắc lệnh đã ghi rõ: "Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng" đã tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập của Việt Nam. Đại Việt Quốc dân Đảng đã âm mưu những việc có hại cho sự độc lập quốc gia và kinh tế Việt Nam.
Sắc lệnh đã quyết định giải tán Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng và cảnh báo, nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động, thì những người can phạm sẽ bị đem ra toà án, chiểu luật nghiêm trị.
Ngày 12-9-1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 30 “Giải tán Việt Nam hưng quốc thanh niên và Việt Nam ái quốc thanh niên".
Hai sắc lệnh trên đã đặt các đảng phái phản động ra ngoài vòng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp phản cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thực hiện các sắc lệnh trên, các cơ quan chức năng của Bộ Nội vụ đã kiên quyết nghiêm trị những tên đầu sỏ, nguy hiểm, ngoan cố, chống đối.
Cùng với sự tiến công của các chiến sĩ Bộ Nội vụ, quần chúng ở những nơi có quân Tưởng chiếm đóng, tổ chức biểu tình chống các hoạt động phản cách mạng. Quần chúng nhân dân đã đấu tranh phá nhiều cuộc biểu tình phản cách mạng do chúng tổ chức, vạch mặt tên cầm đầu các Đảng phái phản động và những hành động phản cách mạng của chúng.
Nhiều cuộc biểu tình biểu dương lực lượng của quần chúng nhân dân được tổ chức tỏ thái độ kiên quyết ủng hộ chính phủ nhân dân, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 1, ngày 29-9-1945.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, t. II, tr. 19-20.
NGÀY 7 - 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Bộ Tổng tham mưu
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quân đội Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 7-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Bộ Tổng tham mưu. Bộ Tổng tham mưu là cơ quan tham mưu quân sự cơ mật của đoàn thể, cơ quan đầu não của quân đội. Bộ có nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện quân đội, tổ chức nắm địch, nắm ta rõ ràng, bày mưu kế khôn khéo; tổ chức chỉ huy thống nhất, bí mật, nhanh chóng, kịp thời, chính xác để đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng.
Về tổ chức bộ máy, Bộ Tổng tham mưu có các phòng: Tác chiến, Đồ bản, Tình báo, Thông tin liên lạc quân sự, Văn phòng và Đội vệ binh.
Trụ sở của Bộ đóng tại nhà 16 phố Rikiê (nay là nhà số 18 phố Nguyễn Du, Hà Nội).
- Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Ban Tổng kết biên soạn lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản, 1991, tr. 6-7.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chủ Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.3, tr. 6- 7.
NGÀY 7-9
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân
Theo Nghị định ngày 11-12-1918 của Thống sứ Bắc Kỳ, tất cả những người bản xứ, tuổi tử 18 đến 60, đều phải đóng thuế thân đồng loạt 2,5 đồng/năm.
Gần nửa thế kỷ, ách "thuế thân" đè nặng lên đầu lên cổ nhân dân ta. Chỉ năm ngày sau khi tuyên bố độc lập, mặc dù Nhà nước dân chủ nhân dân đang gặp khó khăn trầm trọng về kinh tế, tài chính, mà thứ thuế này chiếm phần nửa tổng số thuế trực thu, thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký ban hành Sắc lệnh số 11 bãi bỏ thuế thân.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 1, ngày 29-9-1945.
NGÀY 8-9
Chính phủ lâm thời phát động chiến dịch chống nạn mù chữ
Do chính sách ngu dân của thực dân Pháp đến năm 1945, hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Ngay sau khi đất nước độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn “Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
Ngày 8-9-1945, thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký ban hành Sắc lệnh quy định việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Cùng ngày, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ để "trông nom việc học của nhân dân".
Sau khi các Sắc lệnh được ban hành, phong trào toàn dân tham gia Bình dân học vụ phát triển khắp từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng, miền biển đến rừng núi xa xôi hẻo lánh. Phong trào đã lôi cuốn được mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi giới tham gia. Ở các địa phương, nơi nào cũng có thể trở thành lớp học, từ đình chùa đến cổng làng, bờ ruộng, xưởng máy.
Nhiều khoá huấn luyện sư phạm cấp tốc được mở tại Hà Nội, Huế để cung cấp giáo viên. Những chiến sĩ diệt giặc dốt có mặt ở khắp các địa phương thực hiện vận động quần chúng tham gia học tập. Nhiều hình thức động viên khích lệ quần chúng tham gia học tập được vận dụng sáng tạo. Truyền thống hiếu học của dân tộc được đánh thức và nâng lên rất nhiều. Phong trào Bình dân học vụ không còn mang ý nghĩa văn hoá thuần tuý mà đã trở thành phong trào vận động yêu nước rộng lớn. Mặc dù thiếu phương tiện in sách, thiếu giấy mực, Nha bình dân học vụ đã in hàng triệu cuốn sách giáo khoa các loại, kịp thời cung cấp cho người học.
Nhờ đó, chỉ sau một năm thực hiện, ta đã mở được 15.000 lớp học, đào tạo 95.000 giáo viên. Chỉ tính riêng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã có 2.500.000 người thoát nạn mù chữ. Các tỉnh Hà Tĩnh, Thái Bình, Hải Dương là những nơi có phong trào khá nhất, được Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi. Nạn mù chữ được thanh toán một bước quan trọng.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 1, ngày 29-9-1945.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 36-37.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), NXB. Sự thật, Hà Nội, 1979, t. II, tr. 22-24.
NGÀY 8 – 9
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh mở cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước
Thiết thực xây dựng, củng cố chính quyền của nhân dân, thay mặt Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký ban hành Sắc lệnh mở cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước.
Sắc lệnh quy định, trong thời hạn hai tháng sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân Đại hội; tất cả công dân Việt Nam đều có quyền tuyển cử và ứng cử; số đại biểu của Quốc dân Đại hội là 300 người; Quốc dân Đại hội có toàn quyền ấn định Hiến pháp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; sẽ thành lập một Uỷ ban dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử; sẽ thành lập một Uỷ ban khởi thảo Hiến pháp gồm bảy người.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 1, ngày 29-9-1945.
TỪ NGÀY 10 ĐẾN NGÀY 11-9
Hội nghị Cán bộ Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương
Hội nghị Cán bộ Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 10 đến ngày 11-9-1945 quyết định những nhiệm vụ đối nội và đối ngoại. Hội nghị đề ra nhiệm vụ chính trong lúc này là củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, vũ khí cần thiết đến dùng quân sự để giữ vững nền độc lập. Chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để chống mọi sự xâm lăng.
Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cụ thể:
Về chính trị: phải huy động nhân tài và chính trị phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các Uỷ ban nhân dân làng, phố, các Uỷ ban công sở, nhà máy. Việc thi hành những điểm trong Chương trình Việt Minh phải thống nhất và do Chính phủ quyết định; bãi bỏ các thứ thuế thân, thuế đò, thuế chợ và phải giữ được ngân quỹ hàng tỉnh; việc tiễu trừ Việt gian và Pháp gian, phải căn cứ vào hành động chính trị phá hoại nền độc lập mới gọi là Việt gian và Pháp gian. Đối với bọn lãnh tụ Việt gian thì phải bắt và nghiêm trị, đối những người lầm đường thì phải thuyết phục. Việc tịch thu tài sản của Việt gian hay Pháp gian phải thi hành cho đúng đắn những nhà cửa đồ đạc, khi tịch thu phải niêm phong để bán đấu giá rồi bỏ tiền vào quỹ của Uỷ ban nhân dân địa phương hoặc dùng vào công việc chung.
Phải đặt một ban tư pháp trong địa phương để xét xử những việc kiện tụng.
Về vấn đề quân sự, phải đặc biệt tổ chức các đội tự vệ chiến đấu các làng; mỗi làng phải cử một người lên tỉnh học quân sự để huấn luyện cho đội viên tự vệ; mỗi phủ, huyện ít nhất phải có một trung đội canh gác; phải xoá bỏ hàng rào chia rẽ giữa giải phóng quân và bảo an binh, giữa sĩ quan và chính trị viên; phải thống nhất chỉ huy quân sự đến toàn vùng Bắc Bộ; tuyên truyền vận động dân chúng và tạo ra mối liên lạc giữa quân đội và nhân dân; thực hiện hoàn toàn khẩu hiệu quân, dân nhất trí.
Vấn đề kinh tế và tài chính, các tỉnh phải độc lập về kinh tế, lập hợp tác xã để sản xuất và tiêu thụ ở các tỉnh, phủ, huyện; phải hết sức tiết kiệm và thống nhất Quỹ độc lập; khuyến khích chăn nuôi, trồng trọt.
Vấn đề xã hội, phải đặc biệt tổ chức cứu tế nạn lụt giúp nông dân cày cấy, tìm cách giải quyết vấn đề công nhân thất nghiệp, kêu gọi tư bản, địa chủ địa phương mở mang đồn điền kỹ nghệ, mở lớp dạy chữ quốc ngữ chống nạn mù chữ và nghiêm trị bọn trộm cướp.
Về vấn đề văn hoá, phải lập Hội văn hoá Cứu quốc ở các tỉnh; giúp đỡ Phật giáo Cứu đoàn, Công giáo Cứu đoàn phát triển.
Về vận động các giới, mở cuộc vận động các giới, chú ý đặc biệt những giới: công nhân, thanh niên phụ nữ.
Về đề nội bộ, khi tuyên truyền, phải nhằm những khẩu hiệu chính là: thống nhất đoàn kết, chống xâm lược Pháp, Việt Nam hoàn toàn độc lập, ủng hộ Chính phủ Dân chủ Cộng hoà. Sử dụng các hình thức công khai để tuyên truyền, vận động.
Về tổ chức, thành lập các cấp bộ Việt Minh, phân biệt với cấp bộ Đảng, đưa ra công khai các tổ chức Cứu quốc, tổ chức Đảng phái bán công khai và phải mở rộng tổ chức Đảng …
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr 4- 13.
NGÀY 13-9
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự
Trước tình hình hoạt động của các đảng phái phản động (Việt Quốc, Việt Cách) và bọn tay sai cũ của Pháp, Nhật câu kết với thực dân Pháp và quân đội Tưởng chống cách mạng, đe doạ độc lập, chủ quyền và an ninh của nước ta, ngày 13-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh thiết lập các toà án quân sự.
Ở Bắc Bộ, Toà án quân sự được lập tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung Bộ, tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam Bộ, tại Sài Gòn, Mỹ Tho.
Toà án quân sự có nhiệm vụ xét xử những người có hành vi phương hại đến nền độc lập của nước ta.
Một thời gian sau khi ban hành Sắc lệnh này Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 7 (15-1-1946) về bổ sung chức năng và nhiệm vụ của Toà án quân sự và Sắc lệnh số 21 (14-2-1946) quy định tổ chức của Toà án quân sự thiết lập ở Bắc, Trung và Nam Bộ.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 2, ngày 6-10-1945.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 506-507.
GIỮA THÁNG 9
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị đổi tên Việt Nam Giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn
Giữa tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị về việc chấn chỉnh, mở rộng và đổi tên Việt Nam giải phóng quân thành Vệ quốc đoàn, quân đội của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Vệ quốc đoàn và các lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện sách lược mềm dẻo đối với quân đội Tưởng Giới Thạch (khi đó dưới danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, thực chất là thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân của ta, lập chính phủ bù nhìn tay sai cho chúng), phải hết sức tránh khiêu khích không để xảy ra xung đột, nếu xảy ra xung đột lớn thành xung đột nhỏ, biến xung đột nhỏ thành không có xung đột.
Thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chấn chỉnh mở rộng tổ chức, từ một số chi đội, đại đội với khoảng 5.000 người trong những ngày Tổng khởi nghĩa, đến cuối năm 1945, Vệ quốc đoàn đã phát triển lên đến 50.000 người gồm trên 40 chi đội (một chi đội có từ 1.000 đến 2.000 người).
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr 23-24.
TRUNG TUẦN THÁNG 9
Nhân dân cả nước đấu tranh phản đối quân đội Anh tiếp tay cho quân đội Pháp gây hấn ở Nam Bộ
Theo Hiệp ước Pốtxđam (tháng 7-1945), các cường quốc quyết định giao cho quân đội Anh tiếp nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật ở khu vực từ Đông Dương, nam vĩ tuyến 16 trở vào. Song, quân Anh chẳng những không tước vũ khí quân đội Nhật mà còn tiếp tay cho thực dân Pháp thực hiện các hoạt động khiêu khích và xâm lược.
Đầu tháng 9-1945, Tổng chỉ huy quân đội Anh ở Nam Đông Dương Gờraxây (Gracey) đòi Uỷ ban nhân dân Nam Bộ giải giáp lực lượng vũ trang, cấm quần chúng xuống đường biểu tình. Ngày 10-9-1945, phái bộ Anh gửi thư cho Uỷ ban Hành chính Nam Bộ đòi trao trụ sở Uỷ ban cho chúng. Ngày 14-9, Gờraxây thông báo cấm nhân dân thành phố Sài Gòn mang vũ khí, đi biểu tình. Hôm sau, y ra lệnh tước vũ khí của lực lượng vũ trang cách mạng. Ngày 20-9, quân Anh tuyên bố quyền kiểm soát thành phố.
Trước những hành động của quân đội Hoàng gia Anh, Đảng ta đã phát động cuộc đấu tranh trong cả nước phản đối quân đội Anh tiếp tay cho thực dân Pháp xâm lược nước ta.
Phong trào đấu tranh sôi nổi trên cả nước, bằng các hình thức biểu tình, mít tinh, bãi công, đưa kiến nghị lên Chính phủ phản đối quân đội Anh chấm dứt ngay những hành động can thiệp trắng trợn chủ quyền nước ta; đồng thời tỏ rõ quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ đến cùng Tổ quốc Việt Nam. Tiêu biểu là các cuộc biểu tình, tuần hành thị uy của hàng vạn nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn ủng hộ chính quyền cách mạng, biểu thị thái độ kiên quyết chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc vừa mới giành được.
Ngày 14-9-1945, hàng chục vạn đồng bào Thủ đô Hà Nội biểu tình, trong năm giờ đồng hồ phản đối quân đội Anh chiếm Nam Bộ Phủ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000),Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930- 1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
NGÀY 17-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhân Tuần lễ vàng
Tuần lễ vàng được tiến hành trong cả nước từ ngày 17- 9 đến ngày 24-9-1945. Nhằm động viên nhân dân quyên góp vàng ủng hộ chính quyền cách mạng, ngày 17-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước, nêu rõ ý nghĩa to lớn của việc tổ chức Tuần lễ vàng và kêu gọi mọi người tích cực tham gia.
Bức thư có đoạn viết: "Muốn củng cố nền tự do độc lập… chúng ta cần sức hy sinh phấn đấu của toàn quốc đồng bào, nhưng chúng ta cũng rất cần sức quyên góp của nhân dân, nhất là những nhà giàu có. Ý nghĩa của Tuần lễ VÀNG là ở đó(...). Tuần lễ VÀNG sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt Minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà, thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có, cũng có thể hy sinh được chút VÀNG để phụng sự Tổ quốc".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 17, 541- 542.
NGÀY 23-9
Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ
Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân Pháp trong trang phục quân Anh, lợi dụng đêm tối bất ngờ nổ súng tập kích các công sở của chính quyền cách mạng tại Sài Gòn.
Sáng sớm cùng ngày, Xứ uỷ Nam Bộ họp Hội nghị mở rộng tại Cây Mai (Chợ Lớn). Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định đồng thời với việc gửi điện báo gấp ra Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh xin chỉ thị phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến, thành lập Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, do đồng chí Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Sau đó, Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ đã chỉ định thành lập Uỷ ban Kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn do đồng chí Nguyễn Văn Tư làm Chủ tịch và ông Huỳnh Đình Mai và Tư Văn Ri làm Uỷ viên.
Chiều ngày 23-9-1945, Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ ra Tuyên cáo quốc dân kêu gọi đồng bào cương quyết phấn đấu, toàn dân hãy đoàn kết để bảo vệ quốc gia.
Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí với chủ trương kháng chiến của Xứ uỷ Nam Bộ, quan tâm chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ thông qua nhiều thư, điện khẩn cấp.
Thực hiện chủ trương kháng chiến của Đảng, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định đứng lên, mở đầu cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược.
Nhân dân Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định thực hiện triệt để tổng bãi công, bãi chợ, bãi khoá, lập chướng ngại vật trên khắp các đường phố để cản bước quân thù. Cả thành phố Sài Gòn thực hiện bất hợp tác với địch, tiến hành cuộc phá hoại để kháng chiến.
Trong thành phố Sài Gòn, gần 350 Đội xung phong công đoàn cùng các Đội tự vệ bám sát các vị trí chiến đấu. Bên ngoài các lực lượng vũ trang xiết chặt vòng vây.
Ngay trong ngày 23-9-1945, quân Pháp vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân ta tại dinh Đốc Lý, đường Vécđoong (Verdun), ga xe lửa, cầu Ông Lãnh, chợ Bến Thành… Trong trận chiến đấu bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ, một tiểu đội tự vệ đã anh dũng hy sinh đến người cuối cùng.
Liên tiếp trong một tuần lễ, từ ngày 23-9 đến ngày 29- 9-1945, cuộc chiến đấu ác liệt giữa ta và Pháp đã diễn ra khắp nơi của nội thị và ngoại ô thành phố Sài Gòn. Lực lượng ta được tổ chức thành phòng tuyến chặn địch: Mặt trận tiền tuyến miền Đông; Mặt trận Bắc - Tây Bắc Sài Gòn; Mặt trận tiền tuyến miền Tây; Mặt trận phía nam thành phố Sài Gòn. Cuối tháng 9-1945, quân Pháp nhiều lần đánh rộng ra, nhưng đều bị quân và dân ta chặn đánh quyết liệt, phải rút lui.
Bị tấn công liên tục và bị bao vây chặt trong thành phố, quân Pháp thiếu vũ khí, thiếu lương thực, thực phẩm, thiếu quân, buộc phải tìm cách hoãn binh chờ tăng viện, nhờ đại diện của quân Anh xin điều đình với Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ. Nhận rõ âm mưu của địch, để tỏ rõ chính nghĩa đồng thời tranh thủ được nhân dân tản cư khỏi thành phố, củng cố lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài, ta đã chấp nhận ngừng bắn một tuần lễ để đàm phán.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
NGÀY 26-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam Bộ
Ngày 26-9-1945, ba ngày sau khi nhân dân Sài Gòn - Gia Định nổ súng đánh trả sự xâm lược của thực dân Pháp qua Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư động viên toàn thể quân và dân Nam Bộ.
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất hèn nhát của thực dân Pháp trước sự xâm lược của phát xít Nhật, dã tâm cướp nước ta một lần nữa của chúng Người chỉ rõ: "Trong 4 năm, họ đã bán nước ta hai lần. Nay họ lại muốn thống trị nhân dân ta lần nữa". Người bày tỏ sự ủng hộ của Chính phủ và toàn thể nhân dân Việt Nam đối với cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Nam Bộ. Người khẳng định: "Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà".
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở quân và dân Nam Bộ phải nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đồng thời cũng độ lượng, khoan dung. Bởi vì "chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước". Trên cơ sở lực lượng đoàn kết của cả dân tộc; trên cơ sở chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Người tin rằng “chúng ta nhất định thắng lợi".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.4, tr 27-28.
CUỐI THÁNG 9
Xứ uỷ, Uỷ ban Nhân dân Trung Bộ mở Hội nghị Quân sự bàn biện pháp đối phó với âm mưu mới của địch
Cuối tháng 9-1945, khi giặc Pháp khởi hấn Nam Bộ, Xứ uỷ và Uỷ ban Nhân dân Trung Bộ mở Hội nghị quân sự do đồng chí Nguyễn Chánh, Uỷ trưởng Quốc phòng (trong Uỷ ban Nhân dân Trung Bộ) chủ trì.
Hội nghị quyết định đảm bảo giao thông thông suốt để chi viện cho cuộc kháng chiến Nam Bộ; huy động nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược, điều động lực lượng quân sự từ Bắc và Trung Trung Bộ vào tăng cường cho các tỉnh cực nam. Hội nghị quyết định thành lập Uỷ ban Quân chính Nam phần Trung Bộ, do đồng chí Phạm Kiệt làm Trưởng ban. Uỷ ban đóng tại Khánh Hoà để chỉ huy cuộc chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ.
Hội nghị còn quyết định những vấn đề về đảm bảo giao thông thông suốt để chi viện Nam Bộ kháng chiến.
- Viện Lịch sử Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Hà Nội, 1992, tr. 77-78.
THÁNG 9
Phong trào Nam tiến và ủng hộ Nam Bộ kháng chiến
Chi viện cho chiến trường Nam Bộ, Trung ương Đảng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân cả nước dốc sức ủng hộ cuộc kháng chiến của quân và dân Nam Bộ, với tinh thần "phải hút toàn lực vào đó; hy sinh hết thảy vì kháng chiến; hy sinh hết thảy vào mặt trận miền Nam”.
Hưởng ứng tiếng gọi cứu nước, phong trào Nam tiến ủng hộ Nam Bộ kháng chiến diễn ra sôi nổi khắp nơi trên toàn quốc, với nhiều hình thức phong phú.
Trên toàn quốc, liên tiếp tổ chức những cuộc mít tinh, biểu tình biểu thị quyết tâm kiên quyết kháng chiến, kiên quyết bảo vệ độc lập, tự do, với các khẩu hiệu "Đả đảo thực dân phản động Pháp xâm lược", "Nước Việt Nam của người Việt Nam", "Triệt để ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh". Các đoàn thể đã kịp thời động viên nhân dân ủng hộ kháng chiến. Các phương tiện thông tin đều phản ánh kịp thời tình hình chiến sự. Ngày 30-10-1945, hơn 25 ngàn Việt kiều ở Pháp đã xuống đường biểu tình tố cáo hành động xâm lược của thực dân Pháp.
Hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đều lập Phòng Nam Bộ, ghi tên những người tình nguyện vào Nam giết giặc. Các đơn vị Nam tiến được tổ chức, xây dựng, theo sự tình nguyện của hàng vạn nam, nữ thanh niên thuộc nhiều ngành, nghề khác nhau; các em thiếu niên, các cụ già, nhà sư cũng tình nguyện lên đường chiến đấu.
Ngày 26-9, Chi đội Nam tiến đầu tiên gồm 3 đại đội do Chi đội trưởng Hoàng Thơ phụ trách đã hành quân bằng tàu hoả từ ga Hàng Cỏ. Dọc đường đã bổ sung 2 đại đội của Thanh Hoá, Nghệ An. Chi đội đã vào chiến đấu tại miền Đông Nam Bộ. Tiếp theo, nhiều đơn vị thuộc các Chi đội Giải phóng từ nhiều tỉnh ở Bắc Bộ và Trung Bộ vào Nam Bộ chiến đấu.
Trong hàng ngũ những đoàn quân Nam tiến, có cả những Việt kiều mới về nước, những cựu binh sĩ Việt Nam rời bỏ hàng ngũ quân đội Pháp đóng tại Vân Nam cũng tình nguyện vào Nam đánh giặc.
Lực lượng Nam tiến vào các chiến trường đã sát cánh chiến đấu cùng các chiến sĩ Nam Bộ, Nam Trung Bộ trên khắp các chiến trường miền Nam. Nhiều người đã anh dũng hy sinh trên mảnh đất miền Nam Tổ quốc.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t. II, tr 25-26.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t. 1.
- Viện Lịch sử, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975). Hà Nội, 1992, tr. 79-80.
NGÀY 3-10
Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh giải thể các cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền
Ngày 2-9-1945, Chính phủ lâm thời thay mặt quốc dân tuyên bố "thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ tất cả những Hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Sau đó, ngày 3-10-1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh giải thể các cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền Pháp.
Theo Sắc lệnh này, tất cả các công sở và các cơ quan trước đây thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương (các sở lớn chung cho toàn hạt Đông Dương và các sở phụ thuộc Phủ Toàn quyền) đã thiết lập trên lãnh thổ Việt Nam đều bị bãi bỏ. Bất động sản và động sản ở tất cả các công sở trên đều phải giữ nguyên vẹn và chuyển giao cùng với những nhân viên hiện tòng sự tại đây sang các bộ của Chính phủ lâm thời Việt Nam theo sự phân phối của Chính phủ.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 3, ngày 13-10-1945.
NGÀY 4-10
Nhân dân biểu dương lực lượng ủng hộ Chính phủ nhân việc tướng Hà Ứng Khâm đến Hà Nội
Ngày 3-10-1945, Hà Ứng Khâm, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa cùng tướng Mắc Lơrơ (Mac Lure), Chỉ huy quân đội Mỹ ở Trung Hoa đến Hà Nội kiểm tra việc giải giáp quân đội Nhật, thực chất là để thực hiện âm mưu "diệt Cộng cầm Hồ".
Dưới danh nghĩa đón tiếp phái bộ Đồng minh, ngày 4-10-1945, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức một cuộc biểu dương lực lượng quần chúng khổng lồ với hơn 3 chục vạn người tham gia để biểu dương lực lượng cách mạng hùng hậu của khối đoàn kết toàn dân xung quanh Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Những người tham gia biểu tình được tổ chức thành đội ngũ chỉnh tề với băng cờ và biểu ngữ rợp trời rầm rộ kéo qua phủ toàn quyền cũ, hô vang các khẩu hiệu:
- Ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam.
- Ủng hộ Việt Nam độc lập đồng minh
- Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Nước Việt Nam của người Việt Nam.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr. 32.
- Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Sử học: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr 16.
NGÀY 17-10
Chủ tịch Hội đồng Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các cấp
Sau khi chính quyền cách mạng các cấp được thành lập, ở nhiều địa phương, cán bộ đã tuân thủ đúng chương trình của Chính phủ và rất được lòng dân. Song, cũng có nơi nhiều người phạm những lầm lỗi nặng nề như: cậy thế, hủ hoá, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo... Chấn chỉnh những sai lầm trên, đồng thời nâng cao ý thức phục vụ nhân dân, nâng cao sức chiến đấu của chính quyền cách mạng các cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng. Trong thư, Người chỉ rõ nghĩa vụ của chính quyền nhân dân các cấp đối với nhân dân lao động là: “…các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác công việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh".
Người yêu cầu cán bộ các cấp kịp thời sửa chữa những sai lầm đã mắc phải nếu không "Chính phủ sẽ không khoan dung”.
Bức thư của Người được đăng trên báo Cứu quốc, số 69 (17-10-1945).
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t. 4, tr 56-58.
NGÀY 25-10
Xứ uỷ Nam Bộ tổ chức Hội nghị Cán bộ Đảng Nam Bộ
Kịp thời chỉ đạo cuộc kháng chiến đang ngày càng lan rộng, đặc biệt là thống nhất và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, ngày 25-10-1945, Xứ uỷ Nam Bộ tổ chức tiến hành Hội nghị Cán bộ Đảng ở Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Dự Hội nghị có các đồng chí Hoàng Quốc Việt, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng và một số đồng chí khác vừa từ Nhà ngục Côn Đảo trở về; có các thành viên trong Xứ uỷ và đại biểu Đảng bộ các tỉnh, thành Nam Bộ.
Hội nghị phân tích tình hình, kiểm điểm, rút kinh nghiệm công tác chỉ đạo kháng chiến từ Hội nghị Cây Mai, Chợ Lớn (23-9-1945). Hội nghị biểu dương tinh thần chiến đấu ngoan cường và thành tích chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam Bộ. Hội nghị cũng chỉ rõ những sai lầm, thiếu sót trong việc xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Hội nghị đề ra nhiều biện pháp cấp thiết để củng cố và xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, đặt lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo trực tiếp tuyệt đối của Đảng; phát triển chiến tranh du kích thực hiện tiêu thổ kháng chiến; làm vườn không nhà trống, vận động quần chúng bất hợp tác với địch.
Hội nghị nhất trí bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Bí thư Xứ uỷ. Đồng chí Tôn Đức Thắng không nhận mà đề cử đồng chí Lê Duẩn đảm nhận trách nhiệm này. Hội nghị nhất trí và phân công đồng chí Tôn Đức Thắng phụ trách Uỷ ban Kháng chiến và chỉ đạo lực lượng vũ trang.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t 1.
NGÀY 26-10
Chính phủ lâm thời ban hành Nghị định giảm thuế ruộng đất và miễn thuế cho vùng bị lũ lụt
Trước tình hình nhân dân ở nhiều địa phương bị nạn lụt, đời sống rất khó khăn, thực hiện chủ trương của Đảng là xoá bỏ những thứ thuế vô lý, giảm nhẹ phần đóng góp của nhân dân, được sự đồng ý của Hội đồng Chính phủ, ngày 26-10-1945, Bộ trưởng Bộ Tài chính Phạm Văn Đồng ký và ban hành Nghị định giảm thuế điền và miễn thuế.
Nghị định nêu rõ, thuế điền năm 1945 nhất loạt giảm đi 20%. Các địa phương bị nạn lụt thì năm 1945 được miễn không trả thuế điền.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 8, ngày 10-11-1945.
NGÀY 29-10
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ
Trước tình hình thực dân Pháp gây nhiều tội ác ở Mỹ Tho, Tân An, Biên Hoà, Nha Trang, ngày 29-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ. Người biểu dương tinh thần chiến đấu dũng cảm của nhân dân Nam Bộ và nêu rõ: “Mặc dầu quân Pháp có đủ khí giới tối tân, tôi biết chắc rằng không bao giờ chúng cướp được nước ta đâu. Từ Nam chí Bắc đồng bào ta luôn sẵn sàng. Mấy triệu người như một, quyết tâm đánh tan quân cướp nước. Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc".
Người kêu gọi đồng bào Nam Bộ thực hiện "đồng không, nhà vắng", không cộng tác với địch, không chịu sống chung với thực dân Pháp.
Người khẳng định: "Trước nạn ngoại xâm, toàn thể quốc dân đã đoàn kết chặt chẽ thành một khối kiên cố, thành một lực lượng thống nhất mà không đội xâm lăng nào đánh tan được".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 77-78.
THÁNG 10
Nhân dân Nam Trung Bộ chuẩn bị kháng chiến
Sau khi thành lập, Uỷ ban Quân chính Nam phần Trung Bộ khẩn trương lãnh đạo nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ chuẩn bị kháng chiến. Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh phát động nhân dân biểu tình, mít tinh, lên án thực dân Pháp xâm lược, với khẩu hiệu hy sinh hết thảy vì kháng chiến, hy sinh hết thảy vì mặt trận miền Nam. Thanh niên nam, nữ hăng hái tham gia dân quân tự vệ, xung phong vào Vệ quốc quân. Các tỉnh đều có các Chi đội Vệ quốc quân (Quảng Nam lập Chi đội Trần Cao Vân; thành phố Đà Năng lập Đại đội Phan Thanh; Quảng Ngãi có Chi đội Lê Trung Đình; Bình Định có Chi đội Phan Đình Phùng và Đội hải thuyền Bạch Đằng ở Quy Nhơn; Phú Yên có chi đội IV; Khánh Hoà có Chi đội III; Ninh Thuận có Chi đội II; Bình Thuận có Chi đội I, Gia Lai và Kon Tum có Chi đội Tây Sơn; Đắc Lắc có Đại đội N’Trang Lơng; Lâm Viên có Phân đội Đa Thành, La Ba).
Về tổ chức chỉ đạo quân sự, Nam Trung Bộ chia thành 2 chiến khu: Chiến khu 5 gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, Kon Tum; Chiến khu 6 gồm Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Đắc Lắc.
- Viện Lịch sử Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Hà Nội, 1992, tr. 78-79.
NGÀY 23-10
Nhân dân Nha Trang tấn công địch mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Trung Bộ
Nha Trang - Khánh Hoà có một vị trí quan trọng trên tuyến chi viện của quân và dân cả nước cho mặt trận miền Nam. Do đó, địa bàn này là một trong những mục tiêu quan trọng mà Bộ chỉ huy Pháp sớm có kế hoạch đánh chiếm để chặt đứt tuyến chi viện của ta, đồng thời làm bàn đạp mở rộng việc tiến đánh ra các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đầu tháng 10-1945, địch đưa chiến hạm Risơliơ tới vùng biển Khánh Hoà. Trung tuần tháng 10, chúng đổ quân và tổ chức đánh chiếm các vị trí then chốt trong thị xã Nha Trang.
Tình hình Nha Trang được Trung ương, Xứ uỷ, Uỷ ban Nhân dân cách mạng Trung Bộ đặc biệt quan tâm. Trung ương Đảng giao cho Đảng bộ, chính quyền cách mạng Trung Bộ, trực tiếp là Đảng bộ, quân và dân Khánh Hoà một nhiệm vụ quan trọng và bức thiết là vây chặt giặc Pháp tại Nha Trang để giữ con đường chi viện cho Nam Bộ. Nhiều đơn vị Nam tiến từ Bắc vào được lệnh dừng lại ở Nha Trang, sát cánh cùng quân và dân địa phương thực hiện nhiệm vụ trên.
Quán triệt nhiệm vụ trên giao, với tinh thần chủ động tiến công địch, đúng 3 giờ sáng ngày 23-10-1945, quân và dân Nha Trang - Khánh Hòa thực hiện cuộc tấn công đồng loạt các vị trí của địch trong thị xã. Sau đó, lực lượng ta rút dần xa khỏi thị xã, lập các phòng tuyến bao vây địch, giam chân địch, không cho chúng mở rộng phạm vi chiếm đóng, giữ vững con đường chi viện từ Bắc vào Nam.
Cuộc chiến đấu giam chân địch trong thành phố của quân và dân Nha Trang kéo dài cho tới cuối tháng 1-1946. Đây là cuộc tiến công mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Nam Trung Bộ.
- Võ Nguyên Giáp: Mặt trận Nha Trang, Khánh Hoà năm ấy trong Bác Hồ trong lòng nhân dân Khánh Hoà, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Khánh Hoà, 1990, tr. 20-26.
- Viện Lịch sử, Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Hà Nội, 1992, tr. 80-86.
- Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Mặt trận Nha Trang - Khánh Hoà Nam Trung Bộ hồi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1947), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 23-46.
THÁNG 10
Thành lập các chiến khu trong cả nước
Tháng 10-1945, Chính phủ lâm thời quyết định thành lập các chiến khu (tức quân khu sau này), bổ nhiệm khu trưởng và uỷ viên chính trị chiến khu.
Chiến khu 1: gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên.
Chiến khu 2: gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Chiến khu 3: gồm các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Hải Ninh và thành phố Hải Phòng.
Chiến khu 4: gồm các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh như Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Chiến khu 5: gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum, Gia Lai.
Chiến khu 6: gồm các tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng.
Hà Nội là Khu đặc biệt trực thuộc Trung ương (Chiến khu 11).
Quyết định này lần lượt được thực hiện ở Bắc Bộ, miền Bắc Trung Bộ rồi đến Nam Trung Bộ. Đến tháng 11-1945, Nam Bộ thành lập xong các chiến khu.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 96.
NGÀY 5 - 11
Chủ tịch Hội đồng Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi Việt kiều ở Pháp
Trong thư, Người nhiệt liệt biểu dương cuộc đấu tranh yêu nước của Việt kiều ở Pháp, tố cáo hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp với sự tiếp tay thô bạo của đế quốc Anh. Người chỉ rõ trách nhiệm và tội ác của quân xâm lược Pháp trong việc gây ra cuộc chiến tranh ở nước ta; khuyên đồng bào cần phân biệt giữa dân tộc Pháp và bọn thực dân Pháp xâm lược, khẳng định thái độ của nhân dân ta là đoàn kết triệu người như một, quyết tâm bảo vệ độc lập và thống nhất dân tộc bằng mọi giá. Người khẳng định: "một đạo quân dù tối tân, làm trò trống gì được trước thái độ cương quyết của cả một dân tộc”.
Người kêu gọi đồng bào hãy đoàn kết, nêu cao ý chí đẩy mạnh đấu tranh để chặn bàn tay xâm lược, tội ác của bọn hiếu chiến Pháp. Người động viên: "Đồng bào hãy làm cho thế giới văn minh và nhất là dân tộc Pháp nghe thấy tiếng nói của Tổ quốc. Các bạn hãy chiến đấu để phá tan những sự điêu toa của thực dân Pháp đang tuyên truyền một cách bỉ ổi".
- Hồ Chí Minh: Toàn lập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 87-89.
NGÀY 11-11
Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán
Ngày 11-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Thông cáo "Tự ý giải tán".
Tuyên bố "Tự ý giải tán", nhưng thực chất Đảng rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Để công khai tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, Đảng lập ra Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương. Ngày 5-11-1945, Đảng ra tờ Sự thật kế tục báo Cờ giải phóng. Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng đã ra “Chỉ thị kháng chiến kiến quốc", nêu rõ: "Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên... thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp sự hoạt động bí mật với hoạt động công khai…".
Từ khi tuyên bố Tự giải tán, Đảng Cộng sản Đông Dương tiếp tục phát triển. Đến cuối năm 1945, số đảng viên lên tới 20.000. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương xuống các địa phương được củng cố và xây dựng; cơ sở Đảng phát triển; mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng vẫn được duy trì chặt chẽ. Đường lối, chính sách của Đảng, chủ nghĩa Mác-Lênin tiếp tục được tuyên truyền. Đảng vẫn lãnh đạo toàn diện sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.19-20, 28-29.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr. 38-39.
NGÀY 25-11
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc.
Trung ương Đảng phân tích sâu sắc toàn diện những thay đổi cơ bản về tình hình quốc tế và trong nước sau chiến tranh. Trung ương Đảng nhận định lực lượng hoà bình mạnh hơn lực lượng chiến tranh; bốn mâu thuẫn lớn trên thế giới vẫn tồn tại và gay go hơn hết là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam châu Á.
Về tình hình Đông Dương, Chỉ thị vạch rõ những khó khăn trong việc giữ chính quyền. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới thành lập đã phải đối phó ngay với ngoại xâm, nội phản và nạn đói đang đe doạ.
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan về tình hình ta, địch, Chỉ thị chỉ rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập".
Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong, giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Chỉ thị xác định, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là "thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng", đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông Dương đối với cách mạng thế giới. Đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ riêng, cần kíp là củng cố chính quyền; chống thực dân Pháp xâm lược; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân”.
Chỉ thị đã đề ra những nhiệm vụ cho từng mặt công tác như sau:
Về nội chính, xúc tiến việc thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.
Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để.
Về ngoại giao, nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc "bình đẳng, tương trợ"; đối với Tưởng Giới Thạch vẫn chủ trương "Hoa - Việt thân thiện", đối với Pháp, thực hành độc lập về chính trị, nhân nhượng kinh tế.
Về tuyên truyền, kêu gọi đoàn kết chống thực dân Pháp xâm lược phản đối chia rẽ, nhưng chống sự thống nhất vô nguyên tắc với bọn phản quốc chống âm mưu phá hoại và chia rẽ của bọn phản động, Việt gian, chống thực dân Pháp xâm lược (không nói đánh cả Ấn, Anh). Không công kích nhân dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.
Về kinh tế tài chính, khôi phục sản xuất công nghiệp, cho tư nhân góp vốn kinh doanh các nhà máy, khai mỏ, khuyến khích giới công thương, mở hợp tác xã, mở hội cổ phần; hỗ trợ và khuyến khích sản xuất nông nghiệp, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân hàng, lập ngân quỹ toàn quốc và ngân quỹ xứ, tỉnh, phát hành giấy bạc, định lại các ngạch thuế.
Về cứu tế, kêu gọi lòng yêu nước thương nòi, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, đẩy mạnh khai hoang tăng gia sản xuất, quyên góp tiếp tế cho dân nghèo...
Về văn hoá, chống nạn mù chữ, cải cách giáo dục theo tinh thần mới, mở đại học và trung học, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá.
Chỉ thị nhấn mạnh: muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên "Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển. Đảng phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, tuyển thêm đảng viên; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập Đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội;
Về Mặt trận Việt Minh thống nhất các tổ chức quần chúng trên toàn quốc; phân biệt ranh giới giữa các Uỷ ban nhân dân và Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo về Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược.
Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng tuyển cử...
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc là Cương lĩnh hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.8, tr. 21-34.
NGÀY 5-12
Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư ngỏ tới Việt Nam Quốc dân Đảng trong nhóm “Việt Nam”
Dựa vào quân đội Tưởng Giới Thạch, bọn phản động ráo riết hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Chúng ra báo Việt Nam, Thiết thực, Đồng tâm, rải truyền đơn công kích Chính phủ, gây hoang mang chia rẽ khối đoàn kết toàn dân; tiến hành các hoạt động bắt cóc cán bộ, ám sát, tống tiền. Để che lấp những hành động phản cách mạng đó, bọn phản động không ngừng rêu rao vì dân, vì nước, đoàn kết, hợp tác, và họ là những người cách mạng hải ngoại...
Với danh nghĩa những người mác xít Đông Dương, Đảng Cộng sản Đông Dương đã gửi bức thư ngỏ tới những người Việt Nam Quốc dân Đảng trong nhóm Việt Nam, nói rõ chủ trương và nguyên tắc đoàn kết dân tộc của Đảng.
Đảng Cộng sản Đông Dương bóc trần những hành động phản dân, hại nước của bọn phản động, những luận điệu tuyên truyền lừa bịp của chúng, nhằm phá hoại khối đoàn kết toàn dân, vi phạm những thoả thuận đã được ký kết giữa các đảng phái.
Với chủ trương đoàn kết tất cả các đảng phái, đoàn thể người Việt Nam yêu nước vào "Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược", Đảng đề ra ba nguyên tắc hợp tác giữa các đảng phái yêu nước như sau:
Đoàn kết hợp tác giữa tất cả các đoàn thể chân chính yêu nước nhưng không đoàn kết vô nguyên tắc với bọn phản quốc.
Sự đoàn kết thành thực giữa các đảng phái cách mạng chỉ có thể đặt trên nền tảng hành động chung.
Cấm chỉ mọi hành động có hại cho nước, có lợi cho địch, nhất là việc gièm pha cuộc kháng chiến và mạt sát Chính phủ kháng chiến.
Bức thư nhấn mạnh: "Vận mệnh nước nhà định đoạt trong giờ phút này. Chúng ta làm một việc, nói một lời, đều phải hết sức thận trọng. Nên phải đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên hết thảy. Nếu vì danh vọng và địa vị của cá nhân mình hay đảng phái mình mà di hại cho Tổ quốc thì nhất định chúng ta phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, mang tội với đồng bào".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 35-40.
NGÀY 10-12
Xứ uỷ Nam Bộ tiến hành Hội nghị (mở rộng)
Hội nghị họp tại xã Bình Hoà Nam, bên sông Vàm Cỏ Đông. Tham dự Hội nghị, ngoài các Xứ uỷ viên còn có các đồng chí Đàm Minh Viễn, Nguyễn Bình, Thanh Sơn, Đào Văn Trường. Hội nghị đã quyết định giải thể Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ, thành lập Uỷ ban Kháng chiến miền Nam do đồng chí Cao Hồng Lĩnh làm Chủ tịch, Đàm Minh Viễn làm Chủ nhiệm Tham mưu, Trần Ngọc Danh làm Chủ nhiệm Chính trị, Tôn Đức Thắng làm Chủ nhiệm Hậu cần.
Chấp hành quyết định của Trung ương, Hội nghị đã chia Nam Bộ thành ba khu và chỉ định cán bộ chỉ huy:
- Khu 7 gồm: Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh.
Khu trưởng: Nguyễn Bình; Khu phó: Dương Văn Dương, Chính trị Bộ chủ nhiệm: Trần Xuân Độ.
- Khu 8 gồm: Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc.
Khu trưởng: Đào Văn Trường; Khu phó: Trương Văn Giàu; Chính trị Bộ chủ nhiệm: Lê Văn Sĩ.
- Khu 9 gồm: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên.
Khu trưởng: Vũ Đức (Hoàng Đình Giong); Khu phó: Nguyễn Ngọc Bích; Chính trị Bộ chủ nhiệm: Phan Trọng Tuệ.
Hệ thống lãnh đạo của Đảng cùng hệ thống chỉ huy quân sự được thống nhất từ trên xuống dưới đã có tác dụng to lớn trong việc củng cố xây dựng các lực lượng vũ trang của Nam Bộ cũng như của Khu 7.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh 1995, t. 1.
NGÀY 31-12
Chính phủ lâm thời thành lập Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc
Trong Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, Trung ương Đảng chỉ rõ: "Kiến quốc" là một trong hai nhiệm vụ cơ bản của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công.
Ngày 31-12-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ban hành Sắc lệnh thành lập Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc.
Uỷ ban gồm 41 thành viên, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chính phủ. Uỷ ban có nhiệm vụ nghiên cứu một kế hoạch thiết thực để kiến thiết quốc gia về các mặt kinh tế, tài chính, hành chính, xã hội, văn hoá và thảo ra những dự án kiến thiết cho Chính phủ.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 12, ngày 12-1-1946.
CUỐI NĂM 1945 ĐẦU NĂM 1946
Quân và dân Tây Nguyên chống quân Pháp đánh chiếm địa bàn
Cùng với việc mở rộng đánh chiếm vùng nông thôn Nam Bộ, quân Pháp đánh ra các tỉnh Nam Trung Bộ và vùng rừng núi Tây Nguyên.
Ngày 19-11-1945, từ miền Đông Nam Bộ, quân Pháp theo đường số 14 đánh lên Tây Nguyên; chiếm thị xã Buôn Ma Thuột vào ngày 1-12-1945.
Cuộc chiến đấu chống Pháp ở Tây Nguyên diễn ra hết sức gay go. Nhiều đơn vị bộ đội Nam tiến được tăng cường cho Tây Nguyên. Các đơn vị vũ trang của ta được sự giúp đỡ của đồng bào các dân tộc đã chiến đấu anh dũng chặn địch. Nhiều trận đánh đã diễn ra ở thị xã Buôn Ma Thuột, trên các trục đường số 21, 14.
Tuy không ngăn được địch đánh chiếm Buôn Ma Thuột, song cán bộ và chiến sĩ trên mặt trận Tây Nguyên đã nêu cao tinh thần chiến đấu anh dũng ngoan cường. Phân đội Quảng Ngãi thuộc Đội du kích Ba Tơ đã chiến đấu đến người cuối cùng trên đường số 14. Có chiến sĩ bị thương vẫn không rời trận địa. Có bộ phận bị địch bao vây, đói ăn, thiếu ngủ nhiều ngày vẫn kiên cường đánh địch, tìm đường về đơn vị. Có chiến sĩ mất liên lạc đã ở lại địa phương, tuyên truyền vận động nhân dân đứng dậy kháng chiến.
- Viện Lịch sử, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Hà Nội, 1992.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 85-87.
CUỐI NĂM 1945
Đấu tranh chống quân Tưởng và bọn tay sai tại một số thành phố, thị xã
Từ cuối tháng 8 đến dầu tháng 10 năm 1945, gần 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch dưới danh nghĩa Đồng minh đã có mặt ở hầu hết các thành phố thị xã từ vĩ tuyến 16 trở ra: Hà Nội, Hải Dương. Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Ninh, Nam Định Vinh, Huế, Đà Nẵng. Chúng tăng cường gây sức ép, giúp bọn tay sai hoạt động phá hoại nhằm lật đổ chính quyền cách mạng.
Bọn phản cách mạng trong nước nhân cơ hội đó ngóc đầu dậy, chống phá cách mạng. Chúng cướp chính quyền ở một số địa phương, lập ra nhiều cơ sở phản động tại Lao Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Việt Trì, Vĩnh Yên, Lạng Sơn, Hải Ninh và một số thành phố, thị xã.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta ở các địa phương đấu tranh kiên quyết và khôn khéo với bọn phản động.
Ở Thủ đô Hà Nội và các thành phố lớn, tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng dưới sự che chở trực tiếp của quân Tưởng, ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, bắt cóc, tống tiền. Cán bộ, chiến sĩ tự vệ chiến đấu, tự vệ Cứu quốc và công an đã dựa vào nhân dân, bảo vệ và làm nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của quần chúng, trừng trị những tên đầu sỏ nguy hiểm. Các cơ quan của Đảng và Chính phủ được bảo vệ nghiêm ngặt. Hoạt động phá hoại của bọn phản động bị ngăn chặn, trật tự, trị an ở thủ đô và các thành phố được giữ vững.
Tại Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, bọn phản động cướp chính quyền ở tỉnh lỵ được quân Tưởng bảo vệ. Bộ đội ta cùng nhân dân, tự vệ và du kích bao vây, cô lập, hạn chế hoạt động của chúng trong phạm vi các thị xã.
Tại Hải Ninh, bọn phản động đã tràn vào trước khi chính quyền cách mạng được thành lập. Bộ đội ta tiến vào các vùng chúng chiếm cứ, tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng cùng đồng bào các dân tộc chiến đấu diệt bọn đầu sỏ, tiến công quân sự giải phóng địa phương, thiết lập chính quyền nhân dân. Được nhân dân ủng hộ, Vệ quốc quân và du kích đã gọi hàng một bộ phận, diệt phần lớn lực lượng phản động Việt quốc quân1 và bọn thổ phỉ, đuổi chúng ra khỏi Tiên Yên, Đình Lập, Đầm Hà. Chính quyền cách mạng tỉnh Hải Ninh thành lập.
Ở Hà Giang, Việt Nam Quốc dân Đảng lôi kéo được 400 lính khố đỏ từ Trung Quốc trở về và dùng họ vào mục đích phản cách mạng. Bộ đội ta đã kiên trì tiến hành một cuộc vận động chính trị, giành lại lực lượng này từ tay chúng. Tháng 12-1945, lực lượng lính khố đỏ nổi dậy phối hợp với Vệ quốc quân tiêu diệt bọn phản cách mạng, giải phóng thị xã Hà Giang.
Các cơ sở phản động khác do bọn Việt Nam quốc dân Đảng và bọn Đại Việt lập ra ở các địa phương như Di Linh (Thanh Hoá), Nga Mơ (Hoà Bình), Chiêm Hoá (Tuyên Quang) đều bị các lực lượng vũ trang, công an và nhân dân ta diệt trừ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 1, tr. 158-160.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), NXb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I.
____________
1. Tổ chức vũ trang của bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội.
Năm 1946 NGÀY 1-1
Thành lập Chính phủ Liên hiệp lâm thời
Đảng chủ trương thành lập Chính phủ Liên hiệp lâm thời có sự tham gia của một số nhân vật trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội, để cô lập hạn chế những hoạt động của bọn phản cách mạng, tập trung mũi nhọn chống thực dân Pháp xâm lược.
Ngày 1-1-1946, Chính phủ Liên hiệp lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu làm lễ ra mắt tại Nhà hát Thành phố Hà Nội, trước 30.000 nhân dân Thủ đô. Thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố danh sách nội các mới và đường lối đối nội, đối ngoại của Chính phủ.
Về đối nội, Chính phủ chủ trương mau chóng tiến hành Tổng tuyển cử trong cả nước, thống nhất các cơ quan hành chính theo nguyên tắc dân chủ; ra sức phát triển nông nghiệp (khuyến khích trồng trọt và chăn nuôi để giải quyết nạn đói), thống nhất các lực lượng vũ trang dưới sự chỉ huy của Chính phủ. Các đảng phái không có quân đội riêng; giúp đỡ các cơ quan văn hoá phát triển.
Về đối ngoại, làm cho các nước công nhận nền độc lập và chủ quyền của Việt Nam; thân thiện với các nước dân chủ; thi hành chính sách hữu hảo với kiều dân nước ngoài, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ.
Chính phủ sẽ từ chức khi triệu tập Quốc dân đại hội.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 1, ngày 5-1-1946.
- Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr. 312.
NGÀY 6-1
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam
Một trong sáu nhiệm vụ cấp bách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ là tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Ngày 6-1-1946, nhân dân ta từ Bắc đến Nam, từ 18 tuổi trở lên nô nức đi bầu cử. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam được tham gia bầu cử với một thể thức dân chủ. Trước đó, dù đã có sự thoả thuận giữa các đảng phái, tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn ra sức hoạt động phá hoại cuộc Tổng tuyển cử. Tại Hà Nội, chúng dùng tiểu liên đe doạ đồng bào ta tại Ngũ Xã, ngăn không cho ta đặt hòm phiếu, cấm nhân dân treo cờ. Nhân dân đã kéo sang khu phố gần đó để bỏ phiếu. Tại Nam Bộ cuộc bầu cử ở nhiều nơi diễn ra dưới bom đạn của quân thù. Hơn 40 cán bộ đảng và Việt Minh đã hy sinh anh dũng trong khi làm nhiệm vụ vận động Tổng tuyển cử. Mặc dù vậy, tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu rất cao, trung bình là 89%, nhiều nơi đạt 95%.
Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều được sự tín nhiệm tuyệt đối của nhân dân. Ra ứng cử ở Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử với số phiếu cao nhất 98,4%. Nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu vào Quốc dân Đại hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sĩ cách mạng chiếm 87%. Có 10 đại biểu là phụ nữ.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 47-53.
NGÀY 31-1
Chính phủ Liên hiệp lâm thời phát hành tiền Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào
Phát hành tiền Việt Nam để thay thế giấy bạc Đông Dương nhằm xây dựng nền tài chính độc lập là chủ trương được Đảng ta quan tâm rất sớm. Do Quốc dân Đảng Trung Hoa cưỡng bức dùng tiền quan kim, quốc tệ và thực dân Pháp đang điều đình với ta để thống nhất tiền tệ giữa các nước Đông Dương, phương tiện vật chất thiếu thốn, kỹ thuật in ấn thấp kém nên chủ trương phát hành tiền chưa được thực hiện.
Cùng với việc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho việc in giấy bạc Việt Nam, Chính phủ cho lưu hành trước các loại tiền nhỏ bằng kim loại để thay thế những đồng hào rách do ngân khố phát hành từ thời Pháp, Nhật.
Ngày 31-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 18b cho phép ban hành đồng bạc giấy Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở vào. Việc phát hành do Uỷ ban hành chính Trung Bộ tổ chức và điều khiển. Sau đó tiền Việt Nam nhanh chóng lan ra thị trường cả nước. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã biểu quyết cho lưu hành giấy bạc Việt Nam trong cả nước và tới tháng 8-1946, giấy bạc Việt Nam được chính thức phát hành.
- Tập Sắc lệnh năm 1946, phông Phủ Thủ tướng, lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
THÁNG 1
Thành lập Trung ương Quân uỷ
Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang nhân dân, tháng 1-1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Quân uỷ.
Trung ương Quân uỷ (sau đổi tên là Tổng Quân uỷ, từ năm 1951 gọi là Quân uỷ Trung ương), có nhiệm vụ giúp Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo quân đội. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng phân công làm Bí thư Quân uỷ Trung ương ; đồng chí Trần Tử Bình làm Phó bí thư (tháng 2-1947, đồng chí Văn Tiến Dũng thay).
Cơ quan giúp Trung ương Quân uỷ có ba uỷ ban: Quân sự, chính trị và Đảng vụ. Từ đây, hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội được hình thành ở các cấp, trong đó ở trung ương có Trung ương Quân uỷ. Đây là tổ chức lãnh đạo cao nhất của Đảng trong quân đội, có nhiệm vụ giúp Ban Chấp hành Trung ương Đảng trực tiếp nắm chắc hoạt động của lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội trung thành với Đảng, với Tổ quốc, chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân.
Sau khi Quân uỷ Trung ương được thành lập, việc xây dựng Đảng trong quân đội được đặc biệt chú trọng. Đảng tiếp tục điều động thêm cán bộ Đảng có năng lực tăng cường cho quân đội. Các Quân khu uỷ ra đời. Hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội từ Trung ương Quân uỷ đến chi bộ dần được hoàn chỉnh.
- Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I.
NGÀY 18-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Công hàm ngoại giao tới Chính phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ Liên Xô, Anh
Công hàm nêu rõ diễn biến tình hình ở Việt Nam kể từ năm 1940, khi thực dân Pháp ở Đông Dương phản bội Đồng minh, mở cửa Đông Dương để các đạo quân Nhật tràn vào; cho đến những ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã vùng lên giành chính quyền từ trong tay phát xít Nhật, rồi ngày 23-9-1945, thực dân Pháp tấn công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược trở lại Việt Nam. Công hàm khẳng định, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập một cách hợp pháp và là một yếu tố của hoà bình, tiến bộ trong việc xây dựng lại thế giới. Nước Việt Nam mới có quyền được bảo vệ theo những nguyên tắc bất khả xâm phạm nhất của Hiến chương Xan Phranxixcô và Hiến chương Đại Tây Dương.
Bức Công hàm đề nghị các nước với tư cách là những cường quốc hãy thực hiện tất cả những bước đi thích hợp, can thiệp khẩn cấp ngăn chặn cuộc đổ máu đang diễn ra ở Nam Việt Nam, và đi tới một giải pháp cấp bách, hợp lý cho vấn đề Đông Dương. Trong khi tin tưởng chờ đón một biện pháp tích cực của các Chính phủ Oasinhtơn, Mátxcơva, Luânđôn và Trùng Khánh, Việt Nam đã xác định sẽ chiến đấu tới giọt máu cuối cùng chống lại việc tái lập chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Công hàm viết: "Đưa vấn đề Đông Dương ra trước tổ chức Liên hợp quốc, chúng tôi chỉ đòi hỏi nền độc lập hoàn toàn, nền độc lập mà cho tới nay đã là một thực tế, và nó sẽ cho phép chúng tôi hợp tác với các quốc gia khác trong việc xây dựng nên một thế giới tốt đẹp hơn và một nền hoà bình bền vững" .
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.178-182.
NGÀY 21-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Việt Nam Công an vụ
Trước những khó khăn phức tạp của cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, để thống nhất tổ chức và nhiệm vụ của ngành công an cả nước theo đề nghị của Bộ Nội vụ, ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23- SL hợp nhất Sở Cảnh sát và Sở Liêm phóng toàn quốc thành một cơ quan đặt tên là Việt Nam Công an vụ. Việt Nam Công an vụ có nhiệm vụ tìm kiếm và tập trung các tin tức, tài liệu liên quan đến sự an toàn của quốc gia; đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những hành động có thể làm rối trị an và mất trật tự trong nước, bất cứ sự hoạt động đó là do người Việt Nam hay người nước ngoài; điều tra những hành động trái phép nói trên và truy tìm can phạm để giúp toà án trừng trị. Theo Sắc lệnh, đồng chí Lê Giản được cử phụ trách Việt Nam Công an vụ.
Ngày 18-4-1946, Bộ Nội vụ ra Nghị định 121-NĐ về tổ chức của Việt Nam Công an vụ với ba cấp (Công an Trung ương, Công an kỳ, Công an tỉnh). Ở Trung ương gọi là Nha Công an Việt Nam; ở ba kỳ Bắc, Trung, Nam gọi là Sở Công an; ở tỉnh gọi là Ty Công an.
Thực hiện Sắc lệnh số 23-SL, ở Bắc Bộ, Sở Liêm phóng đổi thành Sở Công an Bắc Bộ; ở Trung Bộ, Sở Trinh sát đổi thành Sở Công an Trung Bộ; Quốc gia Tự vệ Cuộc Nam Bộ đổi thành Sở Công an Nam Bộ. Ở các tỉnh và thành phố đều đổi thành Ty Công an.
Từ sau khi có Sắc lệnh 23-SL, đến ngày toàn quốc kháng chiến, Nha Công an Việt Nam có ba bộ phận chủ yếu (Văn phòng, Ty tập trung tài liệu, Ty thanh tra).
- Việt Nam Dân quốc Công báo, ngày 2-3-1946.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 62-65.
NGÀY 2-3
Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá I
Sáng 2-3-1946, Quốc hội khoá I đã họp kỳ thứ nhất tại Nhà hát lớn Thành phố Hà Nội với gần 300 đại biểu tham dự.
Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ ý nghĩa thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử là đã tỏ cho thế giới, cho toàn dân biết chúng ta đoàn kết nhất trí. Người đề nghị với Quốc hội mở rộng số đại biểu thêm 70 người nữa cho đại biểu của Việt Quốc, Việt Cách. Tất cả các đại biểu Quốc hội tán thành ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thay mặt Chính phủ Liên hiệp lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo với Quốc hội công việc đã làm trong 6 tháng và nêu rõ “Việc hệ trọng nhất bây giờ là kháng chiến" và tin tưởng rằng "Từ giờ về sau, Quốc hội và Chính phủ còn có những gánh nặng nề, phải bước qua nhiều sự khó khăn, nhưng tôi chắc rằng quốc dân sẽ nhất trí, dựa vào sức đoàn kết mà làm việc, và như thế thì dù có khó khăn đến đâu, kháng chiến sẽ thắng lợi và kiến quốc sẽ thành công. Bây giờ Chính phủ lâm thời giao lại quyền cho Quốc hội để tổ chức một Chính phủ mới: một chính phủ kháng chiến và kiến quốc".
Quốc hội hoàn toàn nhất trí với bản báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tuyên bố "Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng với Tổ quốc". Quốc hội đã trao cho Người quyền thành lập Chính phủ mới.
Quốc hội thông qua tuyên ngôn, các điện văn gửi nhân dân toàn quốc, gửi các chiến sĩ ngoài mặt trận, gửi anh em các dân tộc thiểu số...Tuyên ngôn của Quốc hội nêu rõ: “Chủ quyền của nước Việt Nam độc lập thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam".
Đồng thời với việc thông qua Tuyên ngôn, Quốc hội thảo luận về việc lập Ban Thường trực để thay mặt Quốc hội. Ban Thường trực Quốc hội được bầu ra với 15 Uỷ viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết, do cụ Nguyễn Văn Tố là Trưởng ban. Cuối cùng, Quốc hội đã bầu ra Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người.
- Báo Cứu quốc, số đặc biệt, ngày 3-3-1946.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr.189-192.
NGÀY 2-3
Thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến
Tại kỳ họp Quốc hội khoá I, Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo với Quốc hội việc thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến.
Chính phủ Liên hiệp lâm thời được thành lập ngày 1- 1-1946 đã “làm được nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc trong tình thế nghiêm trọng của nước nhà" và Chính phủ trao quyền cho Quốc hội để tổ chức một Chính phủ mới.
Kỳ họp Quốc hội khoá I đã thảo luận về việc thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Theo đề nghị của Chủ tịch kỳ họp Quốc hội khoá I Ngô Tử Hạ, Quốc hội tán thành Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ, Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch.
Được Quốc hội giao quyền thành lập Chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trước Quốc hội danh sách Chính phủ Liên hiệp, giới thiệu tóm tắt một số Bộ trưởng; danh sách Cố vấn đoàn và Kháng chiến Uỷ viên hội. Thành phần Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm:
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh
2. Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần
3.. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam
4. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng
5. Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chu Bá Phượng
6. Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến
7. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh
8. Bộ trưởng Bộ Xã hội kiêm y tế, cứu tế và lao động Trương Đình Tri
9. Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đặng Thai Mai
10. Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hoè
11. Bộ trưởng Bộ Giao thông công chính Trần Đăng Khoa1
12. Bộ trưởng Bộ Canh nông Bồ Xuân Luật2
Cố vấn đoàn do Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy đảm nhiệm. Kháng chiến Uỷ viên hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch.
Quốc hội công nhận Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Cố vấn đoàn, Kháng chiến Uỷ viên hội và "trao quyền bính" cho Chính phủ Liên hiệp kháng chiến.
Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập, có nhiệm vụ "thực hiện triệt để sự thống nhất các lực lượng của quốc dân về phương diện quân sự, tuyên truyền cũng như về phương diện hành chính tư pháp, tổng động viên nhân lực và tài sản của quốc gia theo sự nhu cầu của tình thế, để đưa kháng chiến đến thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn".
- Báo Cứu quốc, số đặc biệt ngày 3-3-1946.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội: 2000, tr. 68-75.
NGÀY 3-3
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương
Ngày 3-3-1946, sau khi chính quyền Tưởng Giới Thạch và Chính phủ Pháp ký kết Hiệp ước Pháp - Hoa vào ngày 1-3-1946, tại Trùng Khánh (Trung Quốc), trao cho thực dân Pháp quyền thay thế quân đội Tưởng tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc Việt Nam. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương.
Chỉ thị vạch rõ: "Vì muốn cứu vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa, Anh, Pháp và Mỹ - Tàu đã tạm dẹp mâu thuẫn bộ phận ở Đông Dương. Coi đó thì Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của Tàu và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở thuộc địa".
Do những khó khăn nội bộ của chúng và trước sự lớn mạnh của cách mạng Việt Nam và dư luận thế giới, cả Pháp và Tưởng đều "muốn dàn xếp với ta về việc quân Pháp kéo vào miền Bắc nước ta".
Trung ương Đảng chủ trương: "nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn ngày 24-3-1945, thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hoà, hoà để phá tan thâm thù của bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc để giử thực lực của ta tiêu hao".
Chỉ thị phân tích những thuận lợi, khó khăn ở trong nước, ngoài nước và chỉ ra rằng: "Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”.
Phân tích kỹ những tác hại và thuận lợi giữa hai chủ trương đánh và hoà với Pháp trong lúc này, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ, hoà với Pháp có thể phá tan âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động, bảo toàn được lực lượng, đồng thời giành được thời gian để chuẩn bị cuộc chiến đấu mới, tiến đi giành độc lập hoàn toàn.
Để có thể thực hiện được chủ trương hoà với Pháp, bản Chỉ thị nêu bật những nhiệm vụ cần kíp sau đây:
- Giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu rõ chủ trương của Đảng ta là duy nhất đúng.
- Lợi dụng thời gian hoà hoãn với Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tưởng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta và Pháp.
- Hết sức thận trọng trong khi và sau khi ký kết với Pháp, đề phòng thực dân Pháp phản bội.
- Liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp để phối hợp hành động.
- Lợi dụng những khả năng mới để tuyên truyền quốc tế và vận động phái đại biểu đi dự các cuộc hội nghị của Liên hiệp quốc.
- Chấn chỉnh đội ngũ, đào tạo cán bộ, củng cố phong trào.
- Tìm đủ phương pháp để giải quyết vấn đề dân sinh.
- Ấn định một chính sách khôn khéo và đúng đối với bọn địa chủ quan lại, trí thức.
Bản Chỉ thị nhấn mạnh: "Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr.41-47.
NGÀY 6-3
Chính phủ ta và Chính phủ Pháp ký Hiệp định Sơ bộ
Ngày 5-3-1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng ở làng Canh (Hà Đông), nhất trí tán thành chủ trương hoà để tiến, quyết định tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng, đồng thời loại bớt một kẻ thù nguy hiểm là Tưởng Giới Thạch.
Vào lúc 16 giờ ngày 6-3-1946, bản Hiệp định Sơ bộ được ký kết tại số nhà 38 phố Lý Thái Tổ (Hà Nội) giữa một bên là Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và một bên là Xanhtơny, đại diện Chính phủ Pháp.
Theo Hiệp định Sơ bộ, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp. Nước Việt Nam có Chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Việc thống nhất đất nước sẽ được quyết định bằng trưng cầu ý dân. Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào thay quân Tưởng. Quân Pháp phải rút khỏi Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút một phần năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Hai bên sẽ mở cuộc đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Pari.
Hiệp định Sơ bộ 6-3 là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên mà Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký kết với nước ngoài. Các đại diện của Trung Hoa Dân quốc, Anh, Mỹ đều có mặt trong buổi lễ ký kết.
Đánh giá sách lược hoà hoãn với kẻ thù này, đồng chí Lê Duẩn viết: "Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr.48-56.
- Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghệ xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật Hà Nội, 1976, tr 33.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội t. I, 1994, tr.117-120.
NGÀY 9-3
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hoà để tiến
Việc ký kết Hiệp định Sơ bộ với Pháp ngày 6-3-1946 thể hiện chủ trương hòa để tiến của Đảng. Để giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hiểu rõ chủ trương của Đảng về tạm thời hoà hoãn với Pháp, đồng thời chỉ rõ việc chuyển hướng mới về chiến thuật và những nhiệm vụ cần kíp trong giai đoạn mới, ngày 9-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hoà để tiến.
Bản Chỉ thị vạch rõ, hoà với Pháp là nhằm "Tránh tình trạng bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động”; bảo toàn lực lượng, giành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào... chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt, tiến lên giai đoạn cách mạng mới...
Chỉ thị khẳng định thắng lợi của ta buộc Chính phủ Pháp phải công nhận quyền tự chủ và thống nhất đất nước của Việt Nam. Tuy nhiên, thắng lợi ấy mới chỉ là bước đầu, thực dân Pháp chưa chịu công nhận nền độc lập hoàn toàn của nhân dân ta.
Nhiệm vụ của toàn Đảng và toàn dân ta trong giai đoạn này vẫn là: "hoàn toàn giải phóng cho Tổ quốc, thống nhất dân tộc và hoàn thành củng cố chế độ cộng hoà dân chủ. Muốn hoàn toàn giải phóng cho Tổ quốc, phải chống chủ nghĩa thực dân".
Bản Chỉ thị nêu bật nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân lúc này là: giải thích cho nhân dân hiểu rõ chủ trương “hoà để tiến" của Đảng là đúng, kiên quyết chống lại các biểu hiện bi quan, dao động hoặc "tả khuynh", chủ quan mất cảnh giác trong khi thi hành Hiệp định; ráo riết và kín đáo chuẩn bị kháng chiến lâu dài; duy trì và phát triển thực lực về quân sự, cảnh giác, đề phòng thực dân Pháp phản bội Hiệp định; thực hiện sách lược khôn khéo, mềm dẻo nhằm mau chóng đuổi quân đội Tưởng Giới Thạch về nước; nhân lúc các đảng phái phản động hoang mang, dao động do việc ta ký Hiệp định Sơ bộ mà tranh thủ lôi kéo những người lầm đường, trừng trị đích đáng bọn đầu sỏ phân hoá hàng ngũ chúng.
Về vấn đề nội bộ, Chỉ thị nêu rõ: phải thắt chặt các mối quan hệ trong các cấp bộ và địa phương, đào tạo cán bộ, phát triển cơ sở quần chúng, củng cố phong trào, chống lại cả tư tưởng bi quan và quá lạc quan, đẩy mạnh việc phát triển và kiện toàn tổ chức, ra sức tuyên truyền ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, chú trọng đào tạo cán bộ chính trị, cán bộ quân sự để lãnh đạo phong trào trong tình hình mới...
Đối với vấn đề Nam Bộ, Chỉ thị đề ra chủ trương, một mặt phải đòi thực dân Pháp thi hành ngay Hiệp định đình chiến và thừa nhận quyền hợp pháp của Việt Minh; mặt khác, phải bí mật phái cán bộ vào các thành phố quân Pháp chiếm đóng vận động phong trào đòi thống nhất với Trung Bộ, Bắc Bộ. Đồng thời giải thích để đồng bào Nam Bộ và chiến sĩ ngoài mặt trận biết rõ chiến thuật “hoà để tiến" của ta, giữ vững kỷ luật, phục tùng mệnh lệnh của Chính phủ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 48-56.
NGÀY 3-4
Thành lập Ban Trung ương Vận động đời sống mới
Sau Cách mạng Tháng Tám, những tàn dư của xã hội cũ còn nặng nề trong nông thôn và thành thị, ảnh hưởng đến sự nghiệp cách mạng xây dựng con người mới, xã hội mới.
Ngày 3-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 44, thành lập Ban Trung ương Vận động đời sống mới, nhằm giáo dục cho cán bộ và nhân dân ta tư tưởng cần, kiệm, liêm, chính, xoá bỏ những tư tưởng và tập quán lạc hậu của xã hội cũ.
Theo Sắc lệnh số 44, Ban Trung ương Vận động đời sống mới bao gồm các vị: Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè, Nguyễn Tấn Gi Trọng, Nguyễn Huy Tường, Đỗ Đức Dục, Phạm Biểu Tâm.
Ban Trung ương Vận động đời sống mới được quyền lập các tiểu ban trực thuộc ở các địa phương, được liên hệ trực tiếp với cán bộ và các cơ quan hành chính để nhận sự giúp đỡ. Chương trình hành động của Ban Trung ương Vận động đời sống mới phải được Hội đồng Chính phủ duyệt trước khi thi hành. Hàng tháng Ban phải báo cáo công việc với Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Ban Trung ương Vận động đời sống mới được phép lập một quỹ hoạt động riêng.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 16, ngày 20-4-1946.
NGÀY 10-4
Chính phủ ban hành Sắc lệnh Đảm phụ quốc phòng
Đến đầu năm 1946, nhu cầu tài chính cho quốc phòng rất lớn, trong khi thuế khoá hiện hành chưa đáp ứng được. Để hỗ trợ cho ngân sách quốc phòng, ngày 10-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 48, đặt ra một thứ đảm phụ đặc biệt gọi là Đảm phụ quốc phòng, chỉ áp dụng trong niên khoá 1946 trên toàn Việt Nam.
Đảm phụ quốc phòng thu vào công dân Việt Nam từ 18 đến 65 tuổi, cả nam lẫn nữ, trừ bốn trường hợp:
1) Những người nghèo khó, hoặc tàn tật không kế sinh nhai.
2) Những chiến sĩ tại ngũ trong quân đội Việt Nam.
3) Cha mẹ, vợ chồng các chiến sĩ tử trận.
4) Những chiến sĩ tàn tật mặc dù có kế sinh nhai.
Đảm phụ gồm có hai phần: đảm phụ chính và đảm phụ tỷ lệ.
Đảm phụ chính đồng loạt 5 đồng/người, thu tại địa phương người nộp cư trú.
Đảm phụ tỷ lệ (đảm phụ luỹ tiến) đánh vào người có tài sản, nộp thuế, thu tại nơi người nộp nộp các thuế đánh vào tài sản đó.
Đảm phụ tỷ lệ thu vào những người nộp thuế điền thổ, thổ trạch, môn bài, thuế mỏ từ 20 đồng trở lên, các viên chức và công nhân tại chức hay về hưu mà lương bổng đồng niên trên 1.000 đồng (không kể phụ cấp gia đình và khu vực).
Sắc lệnh quy định chi tiết, cụ thể mức thuế đảm phụ tỷ lệ, đánh vào điền chủ, trạch chủ, chủ mỏ, những người chịu thuế môn bài, viên chức và công nhân. Mức thuế này khác nhau, tuỳ theo thu nhập của mỗi người.
Sắc lệnh quy định các nhân viên được ủy quyền kiểm soát đảm phụ quốc phòng: Uỷ ban hành chính địa phương, thanh tra chính trị và hành chính, tổng thanh tra tài chính, giám đốc và chủ sự sở thuế trực thu, tất cả các nhân viên có giấy ủy quyền riêng của Bộ Tài chính.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 21, ngày 25-5-1946.
NGÀY 11-4
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho điền chủ nông gia Việt Nam
Ngày 11-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho điền chủ nông gia Việt Nam. Trong thư, Người đánh giá cao vai trò của nông dân, vị trí của sản xuất nông nghiệp. Người viết: "Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn".
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành một dung lượng lớn trong bức thư nói về vấn đề hợp tác xã. Người khẳng định: "Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã", "hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau”. Người cho rằng hợp tác xã nông nghiệp rất có lợi cho nông dân, khiến nông dân đoàn kết, thịnh vượng, ích nước lợi dân. Người viết: "Hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà nông. Nó là một cách tranh đấu kinh tế có hiệu quả nhất, để giúp vào việc xây dựng nước nhà".
Người kêu gọi từ làng mạc cho đến tỉnh, thành cần chung vốn góp sức lập ra các hợp tác xã nông nghiệp.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.215-216.
NGÀY 14-4
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về việc tổ chức kỷ niệm ngày 1 tháng 5
Tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 là công tác thường xuyên của Đảng, kể cả khi chưa nắm chính quyền. Ngày 14-4-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tổ chức kỷ niệm ngày 1 tháng 5.
Chỉ thị viết: "Trước hết phải nhận rằng ngày 1-5 là ngày đoàn kết và tranh đấu của lao động, nhưng trong hoàn cảnh hiện thời nó phải làngày hội của toàn dân, là ngày động viên lực lượng cứu quốc của toàn dân. Cho nên, công nhân phải cùng với các giới khác tổ chức kỷ niệm ngày ấy cho thật rộng rãi".
Để ngày 1-5-1946 được tổ chức thật long trọng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định một số điểm cụ thể:
- Chính phủ tuyên bố ngày lễ ấy là ngày lễ chung của toàn quốc. Các công sở, nhà máy nghỉ việc và khắp nước treo cờ.
- Các thành phố, các khu vực kỹ nghệ các thị trấn, v.v. đều tổ chức mít tinh, có đại biểu công nhân và đại biểu các giới khác lên diễn đàn. Nơi nào thuận tiện thì có thể biến mít tinh thành biểu tình kéo qua các đường phố.
Những khẩu hiệu đấu tranh phản ánh không khí đấu tranh sôi sục bảo vệ Tổ quốc lúc này, đồng thời biểu hiện rõ tính giai cấp của ngày 1-5: "Định rõ luật lao động theo tinh thần dân chủ mới", "Chú ý đến đời sống của lao động", "Tiến tới Đại hội công nhân toàn quốc, thành lập Tông Công hội Đông Dương". "Lao động trí thức và lao động chân tay đem toàn lực xây dựng nước nhà", "Tăng gia sản xuất", "Nam Bộ của nước Việt Nam", "Mở ngay cuộc đàm phán chính thức ở Pari", "Ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh".
Chỉ thị yêu cầu các nơi phải chuẩn bị cẩn thận cho ngày lễ 1-5, mở hội nghị trù bị, cử ra Uỷ ban tổ chức, mời những người Pháp mácxít dự lễ kỷ niệm, đề phòng bọn Tờrốtkít hay bọn phản động khác phá hoại ngày lễ. Trước ngày 1-5, Việt Nam Công nhân Cứu quốc hội cần phát hành lời hiệu triệu công nhân và nhân dân toàn quốc xuất bản một cuốn sách nhỏ nói về lịch sử ngày 1-5 và nhiệm vụ công nhân Đông Dương trong lúc này. Sau ngày 1-5, các tổ chức Công nhân Cứu quốc và các đoàn thể Cứu quốc khác trong Việt Minh cần kết nạp thêm người và hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr 60-62.
TỪ NGÀY 16-4 ĐẾN NGÀY 16-5
Phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thăm nước Cộng hoà Pháp
Nhận lời mời của Quốc hội Pháp, ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm 10 đại biểu do đồng chí Phạm Văn Đồng, Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội làm Trưởng đoàn lên đường sang thăm nước Pháp.
Trước khi đoàn đi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn đoàn phải làm cho người Pháp hiểu Việt Nam để gây tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Đoàn đến Pari ngày 26-4-1946.
Trong những ngày thăm Pháp, Đoàn đã hoạt động trong hầu hết các chính giới, gặp nhiều nghị sĩ của Quốc hội Pháp, nhiều đoàn thể quần chúng và các tầng lớp nhân dân Pháp, Việt kiều. Phái đoàn đã nêu rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mong muốn hợp tác với Chính phủ Pháp trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi.
Đoàn được nhân dân Pháp, Đảng Cộng sản Pháp hoan nghênh.
Ngày 16-5-1946, phái đoàn Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kết thúc chuyến thăm nước Pháp.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 87-88.
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 76.
TỪ NGÀY 19-4 ĐẾN NGÀY 11-5
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cộng hoà Pháp tổ chức Hội nghị trù bị Đà Lạt
Hiệp định Sơ bộ 6-3 thoả thuận sẽ có một Hội nghị chính thức ở Pari để bàn về vấn đề Đông Dương. Ngày 24-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp Đácgiăngliơ thoả thuận sơ tiến hành tại Đà Lạt một Hội nghị trù bị. Sau Hội nghị trù bị đó, hai bên Việt Nam và Pháp sẽ thương lượng chính thức tại Pháp.
Hội nghị trù bị Đà Lạt đã họp từ ngày 19-4 đến ngày 11-5-19462.
Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam làm Trưởng đoàn, Võ Nguyên Giáp làm Phó trưởng đoàn3.
Trưởng đoàn Cộng hoà Pháp là Mắc Ăngđrê (Mac André).
Hội nghị thảo luận năm loại vấn đề: đình chỉ chiến sự và tạo không khí chính trị thuận lợi; vấn đề ngoại giao của Việt Nam; vấn đề liên hiệp Pháp; vấn đề Liên bang Đông Dương; vấn đề trưng cầu dân ý và thống nhất ba kỳ. Vấn đề Nam Bộ, gồm cả việc ngừng bắn, trưng cầu dân ý và thống nhất ba kỳ, đàm phán căng thẳng và mất nhiều thời gian nhất.
Lập trường của phía Pháp trên tất cả các vấn đề thể hiện rõ ý đồ muốn khôi phục lại ách thống trị như trước năm 1939; coi quan hệ Việt Nam với Pháp là một thứ quan hệ nội bộ, Pháp lập lại chế độ Toàn quyền ở Đông Dương; quân đội Việt Nam hạn chế về quân số với nhiệm vụ giữ trật tự bên trong; việc phòng thủ Đông Dương do Pháp đảm nhiệm; Việt Nam không có quyền về lĩnh vực ngoại giao mà chỉ có đại diện ngoại giao với các nước thông qua Liên hiệp Pháp, tách Nam Bộ khỏi Việt Nam không trưng cầu dân ý ở Nam Bộ...
Phái đoàn ta vạch trần âm mưu của Pháp là hòng đặt lại chế độ thống trị cũ của chúng ở Việt Nam, kiên quyết giữ vững lập trường độc lập và thống nhất, đồng thời khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác và bảo vệ các quyền lợi về kinh tế, văn hoá của Pháp. Phái đoàn Việt Nam khẳm định Việt Nam có quyền ngoại giao độc lập, có đại sứ ở các nước và ở Pháp, Cao uỷ Pháp là đại diện ngoại giao của Pháp tại Việt Nam. Về vấn đề Nam Bộ, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố tại Hội nghị: "Ngày nào Nam Bộ còn bị tách khỏi Việt Nam thì ngày ấy mỗi người dân Việt Nam còn không ngừng dốc hết nghị lực của mình vào cuộc đấu tranh để đưa Nam Bộ trở về lòng Tổ quốc".
Do lập trường ngoan cố và hiếu chiến của phái đoàn Pháp, Hội nghị trù bị Đà Lạt kết thúc mà không đưa đến một kết quả cụ thể nào.
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 74-76.
- Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại gia Việt Nam 1945-1995, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, t.I, tr. 71-79.
NGÀY 19-4
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam
Ngày 19-4-1946, các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam họp Đại hội tại thị xã Plâycu (Tây Nguyên). Đại hội có trên 400 đại biểu các dân tộc đến dự.
Thay mặt Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Đại hội khẳng định các dân tộc anh em trên đất Việt Nam là một khối thống nhất: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”.
Người nhắc nhở các dân tộc anh em phải đề phòng âm mưu gây chia rẽ, mất đoàn kết của thực dân Pháp. Người viết: “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta.
Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta".
Cuối thư, Người kêu gọi các dân tộc đoàn kết "góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 217-218.
NGÀY 29-4
Chính phủ ban hành Sắc lệnh về quyền hưởng lương của công nhân trong ngày Quốc tế Lao động 1-5
Ngày 29-4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 56 về quyền hưởng lương của công nhân trong ngày nghỉ lễ Quốc tế Lao động 1-5 hằng năm.
Theo Sắc lệnh này, tất cả công nhân cả nước đều được nghỉ việc trong ngày Quốc tế Lao động 1-5 hằng năm, được hưởng lương như ngày làm việc.
Sắc lệnh quy định những khoản phụ cấp nếu công nhân phải trực vào ngày 1-5. Đối với công nhân ăn lương tháng, nếu phải làm việc cần thiết vào ngày 1-5 thì được hưởng gấp đôi lương của một ngày. Đối với công nhân làm khoán, lương ngày nghỉ sẽ tính theo mức lương trung bình hàng ngày của 7 ngày trước ngày 1-5.
Nếu ngày l-5 vào ngày chủ nhật thì công nhân chỉ được hưởng lương khi hợp đồng hay nội quy xí nghiệp cho hưởng lương cả ngày chủ nhật. Nhưng công nhân nào phải đi trực ngày ấy thì cũng được lĩnh lương gấp đôi.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 18, ngày 4-5-1946
ĐẦU THÁNG 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giáo viên Bình dân học vụ
Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu dương đội ngũ giáo viên Bình dân học vụ, coi họ là đội tiên phong của sự nghiệp đưa kiến thức phổ thông đến đồng bào, xây dựng nền văn hoá dân tộc.
Người khen ngợi: “Anh chị em làm việc mà không có lương bổng, thành công mà không có tiếng tăm. Anh chị em là những người "vô danh anh hùng". Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em".
Người mong đội ngũ giáo viên Bình dân học vụ dạy đồng bào sớm biết đọc, biết viết, đồng thời, mong đồng bào các nơi tích cực giúp giáo viên Bình dân học vụ hoàn thành sứ mệnh của mình.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.4, tr. 220.
TỪ ĐẦU THÁNG 5 ĐẾN THÁNG 11
Tiêu diệt bọn phản động Đại Việt duy dân
Đại Việt duy dân là một tổ chức chính trị phản động của bọn phản cách mạng Việt Nam lưu vong lập ra tại Trung Quốc. Đảng trưởng là Lý Đông A (tên thật là Trần Khắc Tường). Năm 1945, chúng theo quân Tưởng về Việt Nam hoạt động ở vùng Mỹ Đức, Chương Mỹ (Hà Đông)4, Lạc Thuỷ (Hà Nam) Gia Viễn, Nho Quan (Ninh Bình) rồi vào Hoà Bình.
Tại Hoà Bình, chúng nhanh chóng móc nối với một số lang đạo trong đó có những lang đạo có thái độ hai mặt trong bộ máy chính quyền các cấp. Do đó địa bàn hoạt động của chúng trải từ thị xã đến các huyện Lạc Thuỷ, Lạc Sơn, Mai Đà, Lương Sơn, Kỳ Sơn. Sau khi nắm được lang cun Mường Diềm (Mai Đà), chúng chọn nơi đây làm sào huyệt chính. Giữa năm 1946, Lý Đông A cũng về đây ẩn náu, tuyên truyền ý đồ thành lập chính phủ theo chủ nghĩa Tam dân, tập hợp lực lượng âm mưu cướp chính quyền tỉnh Hoà Bình làm chủ toàn bộ tỉnh, làm bàn đạp chiếm tỉnh Sơn La, biến khu Hoà Bình - Sơn La thành căn cứ chống lại chính quyền cách mạng.
Nhờ tinh thần trách nhiệm cao, nghiệp vụ tốt, Công an Hoà Bình đã nắm rõ hệ thống tổ chức, những hoạt động của chúng và âm mưu đánh chiếm cơ quan chính quyền tỉnh vào ngày 2-5-1946. Ban Cán sự tỉnh đã chỉ đạo công an, quân đội, chính quyền tỉnh nắm tình hình, đập tan kế hoạch bạo loạn, tiêu diệt và bắt sống đại bộ phận lớn đầu sỏ, trong đó có Đảng trưởng Lý Đông A, Phó Đảng trưởng Lý Thái Đức và lực lượng vũ trang của chúng ở Bến Chương, Chợ Bờ, Suối Rút.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, t4. 74- 77.
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hoà Bình (1929-1954), Tỉnh uỷ Hoà Bình xuất bản, 1993, t. I.
NGÀY 13-5
Thành lập Nha Tổng giám đốc thông tin, tuyên truyền
Sau phiên họp đầu tiên của Quốc hội khoá I, Bộ Tuyên truyền và cổ động giải tán. Ngày 13-5-1946, Nha Tổng giám đốc Thông tin, tuyên truyền được tổ chức dưới quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp của Bộ Nội vụ, Tổng giám đốc là bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng điều hành, đến ngày 27-11-1946 đổi thành Nha Thông tin.
Các cơ quan phụ thuộc Nha lúc đó là Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Ty nhận tin vô tuyến điện, Ty kiểm soát giấy, Ty kiểm duyệt báo chí và sách.
Lúc đó, Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ mỗi vùng có một Sở Thông tin, mỗi tỉnh, thành phố có một Ty thông tin, cấp huyện và xã do một ủy viên Uỷ ban hành chính phụ trách.
- 50 năm ngành văn hoá thông tin Việt Nam, Bộ Văn hoá - thông tin, Hà Nội, 1995. t.1.
NGÀY 22-5
Sắc lệnh số 71 đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam
Trong thời gian tạm thời hoà hoãn với thực dân Pháp, Đảng ta đặc biệt quan tâm xây dựng lại lực lượng vũ trang, coi đó là công việc quan trọng nhất chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Ngày 22-3-1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 33-SL quy định cấp bậc, quân phục, phù hiệu cho Lục quân toàn quốc. Ngày 22-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 71-SL ấn định, đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Kèm theo Sắc lệnh có bản Quy tắc Quân đội quốc gia Việt Nam, nhằm chủ yếu dành cho lục quân, gồm 62 điều, quy định biên chế, tuyển binh, cấp bậc, thăng giáng và thuyên chuyển, kỷ luật, thưởng phạt, lễ nghi của quân đội.
Về tổ chức, Quy tắc quy định biên chế tiểu đội, trung đội đại đội tiểu đoàn, trung đoàn, đại đoàn, liên đoàn, tập đoàn của bộ binh, các đơn vị chuyên môn và hoả lực trợ chiến. Từ cấp trung đội trở lên có chính trị viên.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 13, ngày 30-3- 1946 và số 34, ngày 24-8-1946
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 34.
NGÀY 26-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn
Cùng với việc kiện toàn tổ chức Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chính trị, quân sự các cấp.
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn được thành lập ngày 17-4-1946 trên cơ sở Trường Huấn luyện cán bộ Việt Nam. Giám đốc là Hoàng Đạo Thúy, Phó giám đốc là Trần Tử Bình.
Ngày 26-5-1946, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng khoá học đầu tiên tại Sơn Tây. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và huấn thị. Sau khi căn dặn các học viên phải thực thà đoàn kết, cố gắng học tập, hết sức tôn trọng kỷ luật, Người nói: "Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề, nhưng cũng là vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta". Người tặng nhà trường lá cờ thêu dòng chữ: "Trung với nước, hiếu với dân".
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr. 174.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân Hà Nội, 1994, t. I, tr. 153-154.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.33.
NGÀY 29-5
Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam thành lập
Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chủ trương của Đảng về việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, ngày 29-5-1946,Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) tuyên bố chính thức thành lập lại Hà Nội.
Mặt trận Việt Minh là một thành viên tích cực của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, là tổ chức có sức tập hợp công nông, làm cơ sở cho Mặt trận Việt Minh lẫn Hội Liên Việt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch danh dự của Hội, Ban Chấp hành Hội do nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng làm Chủ tịch, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Phó Chủ tịch.
Cương lĩnh của Hội viết: "mục đích đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và các đồng bào yêu nước vô đảng vô phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị chủng tộc, để làm cho nước Việt Nam: độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường”.
Phần Chính trị chung, Cương lĩnh nêu rõ chủ trương của Hội: "1. Giữ vững quyền tự chủ để đi đến hoàn toàn độc lập; 2. Thống nhất Trung, Nam, Bắc làm cho lãnh thổ Việt Nam được toàn vẹn; 3. Thực hiện và củng cố chế độ dân chủ cộng hoà trong toàn cõi Việt Nam; 4. Bình đẳng, tương trợ và đoàn kết với tất cả các dân tộc thiểu số”.
Nhân dịp Hội Liên Việt thành lập, đồng chí Trường Chinh viết bài "Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam ra đời", trong đó khẳng định "Việc thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam là một trả lời đích đáng cho bọn phản động Pháp đang tìm hết cách chia rẽ đồng bào... cũng là một trả lời đích đáng cho các hạng Việt gian phản động cam tâm làm tay sai cho ngoại quốc chống lại quyền lợi của dân".
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (1930-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.1, tr. 506-507.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 69-71.
NGÀY 30-5
Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng Bí thư Trường Chinh gửi thư cho các đồng chí Xứ ủy Nam Bộ
Trước tình trạng những người cộng sản ở Nam Bộ mâu thuẫn, gây xung đột nhau, Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng Bí thư Trường Chinh viết thư gửi cho các đồng chí trong Nam.
Thường vụ Trung ương phê bình các đồng chí Nam Bộ “vì cá nhân mà quên đoàn thể", "vì óc bè phái lãnh tụ, vì tư hiềm hay vì lợi ích nhỏ nhen của cá nhân mà làm cho hàng ngũ Đảng rời rạc". Thường vụ Trung ương chỉ rõ lúc này hàng ngũ Đảng phải bền chặt hơn lúc nào hết, phải giữ gìn, bảo vệ nhau, làm gương tốt cho nhân dân. Thường vụ Trung ương quyết định "cải tổ lại Đảng bộ Nam Bộ”, giao cho một số đảng viên lập ra "Uỷ ban cải tổ Đảng bộ Nam Bộ" để tiến hành cải tổ và chấn chỉnh Đảng bộ Nam Bộ.
Đồng chí thông báo, từ ngày 25 đến ngày 27-5-1946, Trung ương Đảng triệu tập các đồng chí Nam Bộ ở Hà Nội họp bàn riêng về vấn đề Nam Bộ. Hội nghị đã cử ba đồng chí Lê Duẩn, Thập, Châu vào Uỷ ban cải tổ Đảng bộ Nam Bộ, ba đồng chí này phải về Nam Bộ cùng các đồng chí trong Nam lập thành Uỷ ban cải tổ Đảng bộ Nam Bộ. Kế hoạch cải tổ sẽ tiến hành như sau: Uỷ ban cải tổ phân công đi chắp mối với những đồng chí tốt ở các địa phương, cùng họ điều tra đảng viên ở đó đặt thành danh sách; lựa chọn trong danh sách ấy, những người tốt xếp đặt họ lại thành các tiểu tổ Đảng, và loại những phần tử xấu; tổ chức thêm một lớp đồng chí mới trong đám quần chúng hăng hái, trung thực, xuất sắc trong thời kỳ kháng chiến vừa qua; tẩy trừ tàn tích "V.M cũ”, "V.M mới”5 và kiên quyết gạt những phần tử bè phái..., phạm lỗi lầm cho đồng bào oán ghét ra ngoài Đảng; lập Xứ ủy lâm thời và đi tới Hội nghị cán bộ toàn kỳ để cử ra Xứ ủy chính thức.
Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu các đảng viên Nam Bộ thảo luận ngay Nghị quyết của Hội nghị ngày 25 - 27-5- 1946 và định ra kế hoạch cải tổ Đảng bộ Nam Bộ. Cuối thư, đồng chí Tổng Bí thư viết: "Mong các đồng chí ráng sức thành công.
Toàn thể T.Ư6 rất khâm phục tinh thần anh dũng của đồng bào Nam Bộ và luôn luôn bên cạnh các đồng chí”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr 63-68.
NGÀY 31-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam Bộ
Thực dân Pháp âm mưu chia cắt Nam Bộ khỏi Việt Nam, tiến tới lập Nam Kỳ quốc, mở rộng chiến tranh, thôn tính toàn bộ đất nước ta.
Sáng ngày 31-5-1946, trước khi lên đường sang thăm nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam Bộ nói rõ quyết tâm kiên quyết bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc.
Trong thư, Người khẳng định Nam Bộ là bộ phận hữu cơ của cả dân tộc Việt Nam: đồng bào Nam Bộ đã hy sinh tranh đấu mấy tháng trường, để giữ gìn non sông cho toàn nước Việt Nam. Cho nên đồng bào cả nước đều phải nhớ ơn đồng bào Nam Bộ.
Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.
Người yêu cầu toàn dân đại đoàn kết: "Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”.
Hiểu rằng lên đường thăm Pháp ở một thời điểm nhạy cảm có thể làm nảy sinh những tư tưởng khác nhau trong nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước".
- Báo Cứu quốc, số 225, ngày 1-6-1946.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 246-247.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 3, tr. 234-235.
TỪ NGÀY 31-5 ĐẾN NGÀY 19-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức nước Cộng hoà Pháp
Nhận lời mời của Chính phủ nước Cộng hoà Pháp, sau khi giao quyền Chủ tịch nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp. Đoàn đại biểu Chính phủ ta dự cuộc đàm phán chính thức Việt - Pháp cùng đi với Người. Trên đường sang Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân tại các nước Miến Điện (31-5), Ấn Độ (từ ngày 1 đến ngày 5-6), Irắc (6-6), Ai Cập (từ ngày 7 đến ngày 10-6), Angiêri (11-6).
Vì Chính phủ mới của Pháp chưa được thành lập, theo sự sắp xếp của nước chủ nhà, Người tạm dừng chân ở Biarít (miền tây nước Pháp). Tại đây, Người đã tiếp các đoàn đại biểu Việt kiều, các đoàn thể chính trị như Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Công hội Pháp Hội Pháp - Việt, phóng viên báo L’humanité (Nhân đạo) và gặp lại những đảng viên Đảng Cộng sản Pháp đã từng cùng Người hoạt động.
Ngày 22-6-1946, Chính phủ Pháp mời Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Pari. Cuộc đón tiếp Người được tổ chức trọng thể tại sân bay Lơ Buốcgiê (Le Bourget).
Ngày 2-7, Biđôn (Georges Bidault), Thủ tướng Chính phủ Pháp mới thành lập đã đón tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc hội đàm này mở đầu cuộc tiếp xúc chính thức với Chính phủ Pháp.
Người hội đàm với Bộ trưởng Mariúyt Mutê, trao đổi ý kiến với các nhà chính trị thuộc các Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Tự do, Đảng Cộng hoà bình dân, các tướng lĩnh, nhà tư bản, chính khách Pháp, đại biểu các phong trào yêu nước ở châu Phi, các nhà báo, Việt kiều. Người theo dõi Hội nghị Phôngtennơblô, chỉ đạo đoàn đại biểu ta, khi cần, trực tiếp thảo luận với giới chính khách Pháp.
Trong thời gian ở Pháp, thay mặt Đảng và Chính phủ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ thiện chí hoà bình, hữu nghị, lập trường chính nghĩa của nhân dân Việt Nam là đấu tranh giành độc lập, thống nhất thật sự cho Tổ quốc, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với cách mạng Việt Nam, tố cáo âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, phản đối ý đồ tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam và những hành động của nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương liên tục vi phạm Hiệp định Sơ bộ 6-3.
Trong cuộc họp báo tại khách sạn Roayan Môngxô ngày 12-7, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà:
1. Việt Nam đòi quyền độc lập, trong khối trên hiệp Pháp, và vui lòng cộng tác với Pháp về mặt kinh tế và văn hoá.
2. Việt Nam không chấp nhận chính phủ Liên bang Đông Dương.
3. Nam Bộ là một bộ phận không thể chia cắt của Việt Nam.
4. Việt Nam sẽ bảo hộ tài sản cho kiều dân Pháp nhưng họ phải tuân theo pháp luật của Việt Nam. Nước Việt Nam giữ quyền mua những tài sản quan hệ đến quốc phòng.
5. Nếu cần cố vấn thì Việt Nam sử dụng người Pháp trước.
6. Việt Nam có quyền cử đại sứ và lãnh sự của mình đi các nước.
Hội nghị Phôngtennơblô không thành. Để giành thêm thời gian chuẩn bị kháng chiến, thay mặt Chính phủ Việt Nam, ngày 14-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9, kèm một bản Tuyên bố chung 11 điều.
Ngày 15-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định lập một phái đoàn thường trực của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pari.
Ngày 19-9, Người lên đường về nước. Chiều ngày 21-10-1946 , Người về đến Hà Nội. Dọc đường đi nhân dân ta đã nồng nhiệt chào đón Người.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 3, tr. 234-332.
- Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 77.
TỪ NGÀY 21 ĐẾN NGÀY 23-6
Xứ ủy Trung Kỳ tiến hành Hội nghị đại biểu mở rộng
Từ ngày 21 đến ngày 23-6-1946, Xứ ủy Trung Kỳ triệu tập Hội nghị đại biểu mở rộng, bàn về công tác cách mạng ở Trung Kỳ trong tình hình mới. Hội nghị đã ra Nghị quyết của toàn kỳ đại biểu khoách đại tính đảng và Mặt trận Việt Minh ở Trung Kỳ ngày 21, 22, 23-6-1946.
Sau khi điểm tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị tự chỉ trích sâu sắc tính chất tả khuynh của phong trào cách mạng Trung Kỳ từ khi giành được chính quyền, như quá coi thường trí thức, tư sản, tiểu tư sản thành thị, liệt họ vào hạng phản động; không lãnh đạo được quần chúng tôn giáo; Đảng theo đuôi bần, trung nông trong các cuộc tuyển cử vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính; tả khuynh về cải cách tục lệ, tôn giáo, mê tín, chia ruộng; không có những hình thức tổ chức kinh tế thích hợp với địa phương; công tác vận động thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số, Pháp kiều và quân đội Pháp, Hoa kiều, các nhà văn hoá ít được chú trọng.
Các hoạt động của Xứ ủy Trung Kỳ còn nhiều hạn chế, công tác tuyên truyền không sát, khô khan và kém hiệu quả; công tác tổ chức yếu, nơi thì kết nạp đảng viên quá rộng rãi, nơi quá hẹp không chú ý tổ chức đảng viên trong tầng lớp trí thức, kỷ luật Đảng lỏng lẻo, có nơi cấp trên không đủ uy tín với cấp dưới. Các tổ chức Cứu quốc phần nhiều hỗn tạp, nhiều nơi tan rã dần. Nhiều cấp bộ Việt Minh làm sai chính sách của Mặt trận.
Hội nghị xác định "Thái độ và chủ trương của Đảng bộ đối với Pháp, với Chính phủ Tưởng Giới Thạch; đối với các tầng lớp nhân dân, các hội, các đảng phái như Hội quốc dân liên hiệp, Dân chủ Đảng, Quốc dân Đảng". Nghị quyết Hội nghị viết: tất cả các cấp bộ Đảng, các đồng chí phải kíp sửa chữa những sai lầm của mình đối với các tầng lớp nói trên, thực hành cho được chính sách “đoàn kết của Đảng. Phải thực hiện cho được Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho người xa ta đến gần ta, người sợ ta hoá thân ta".
Về Uỷ ban hành chính, Hội nghị khẳng định rằng Uỷ ban phải thể hiện rõ chính quyền là của toàn dân, giữ vững đường lối chính trị của Chính phủ. Uỷ ban hành chính phải gồm các đại biểu có uy tín của đủ các tầng lớp, và một số đảng viên hay cảm tình Đảng; ở vùng địch chiếm đóng thì lập Uỷ ban hành chính bí mật. Đối với các ngành chuyên môn, Hội nghị nhất trí rằng: Xứ ủy phải tổ chức đảng viên trong các ngành chuyên môn, đặc biệt trong các ngành công an, tư pháp, giáo dục.
Hội nghị đặc biệt chú trọng đến công tác quân sự, công tác Đảng, công tác Việt Minh. Hội nghị cho rằng: Xứ ủy phải có một Quân ủy để phát triển Đảng và thống nhất quyền lãnh đạo của Đảng trong bộ đội ở Trung Kỳ, phải đẩy mạnh kết nạp đảng viên mới, khôi phục đảng tịch cho các đảng viên cũ, chấn chỉnh các cấp bộ Đảng, chỉnh đốn các cấp bộ Việt Minh, các đoàn thể Cứu quốc.
Hội nghị còn bàn và đề ra chủ trương về công tác tuyên truyền công tác đào tạo cán bộ trí thức, phụ nữ, công nhân, công tác kiểm soát.
Kết thúc Hội nghị, Ban Thường vụ Xứ ủy Trung Kỳ kêu gọi các đảng viên mở ngay một đợt tự chỉ trích, kịp thời bài trừ xu hướng cô độc hẹp hòi, thực hiện sự đoàn kết rộng rãi trong Đảng và trong Mặt trận thống nhất dân tộc tạo sức mạnh lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm, bài trừ nội phản và kiến thiết nước nhà.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000, t.8, tr.72-97.
NGÀY 25-6
Bộ Nội vụ ra nghị định về tổ chức tại Nha Công an những lớp huấn luyện công an đầu tiên
Sau khi hợp nhất cảnh sát và liêm phóng cả nước thành Việt Nam Công an vụ, ngày 25-6, Bộ Nội vụ ra Nghị định 215-NV-P.2 thiết lập tại Nha Công an những lớp huấn luyện công an sơ cấp và trung cấp nhằm bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ công an những kiến thức cơ bản về công tác công an.
Nghị định quy định chương trình học kéo dài từ 2 đến 3 tháng, học viên học các điều giản yếu về hiến pháp, dân luật hình pháp, hình sự, tố tụng pháp, công pháp (luật hành chính) và nghiệp vụ công an... Học viên phải từ 21 tuổi trở lên, đủ sức khoẻ, có bằng sơ học hay một học lực tương đương đối với lớp sơ cấp, có bằng trung học hoặc một học lực tương đương với lớp trung cấp…
Đây là Nghị định đầu tiên về việc học tập và đào tạo của ngành công an.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), NXb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 79.
NGÀY 27-6
Nhân dân Hà Nội và các nơi phản đối thực dân Pháp chiếm đóng trái phép Phủ Toàn quyền cũ ở Hà Nội
Ngày 25-6-1946, sau khi quân Tưởng rút quân Pháp ở Hà Nội chiếm đóng trái phép Phủ Toàn quyền cũ. Đây là hành động vi phạm Hiệp định Sơ bộ, xâm phạm đến chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thực hiện lời kêu gọi của Chính phủ, ngày 27-6-1946, nhân dân Hà Nội, Hải Phòng và các nơi có quân đội Pháp đóng tiến hành tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá, biểu tình để phản đối Pháp.
Toàn Thành phố Hà Nội bãi công. Công nhân các nhà máy xe lửa, xe điện, vô tuyến điện, nhà in, công chức và nông dân các huyện ngoại thành biểu tình tuần hành phản đối những hành động vi phạm Hiệp định Sơ bộ của thực dân Pháp, đòi chúng phải rút quân khỏi phủ Toàn quyền cũ, đình chỉ ngay chiến sự ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, không được khiêu khích để kiếm cớ can thiệp công việc nội bộ của nước Việt Nam.
Thái độ kiên quyết của Chính phủ và nhân dân ta khiến thực dân Pháp buộc phải chối quanh rằng không phải chúng chiếm đóng, mà chỉ là một bộ phận tới để làm công việc bảo quản. Chúng nhận sẽ bàn bạc lại, nhưng vẫn không chịu rút quân khỏi Phủ Toàn quyền.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000),Nxb. Hà Nội, 2004.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện Lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr 72-73.
NGÀY 30-6
Tổng Bí thư Trường Chinh công bố trên báo Sự thật bài viết "Chính sách của chúng ta"
Bài viết gồm ba phần nêu ba quan điểm lớn của Đảng ta là "Thống nhất bên trong", và "Tìm bạn bên ngoài" và “Điều kiện đoàn kết".
Trong phần "Thống nhất bên trong”, Tổng Bí thư nêu rõ: kẻ thù trước mắt của dân tộc ta là thực dân phản động Pháp. Chúng đang uy hiếp chủ quyền của ta tiến công ta, dùng chiến thuật chính trị: chia rẽ để chia rẽ dân tộc, chia rẽ Nam Bắc, chia rẽ giai cấp, chia rẽ tôn giáo, chia đảng phái. Để chống lại chính sách chia rẽ và thâm độc ấy, chúng ta chủ trương: thống nhất, đoàn kết. Đó là thống nhất quốc gia, đoàn kết dân tộc.
Chính sách Thống nhất bên trong yêu cầu chúng ta thực hiện khẩu hiệu Trung, Nam, Bắc một nhà, lập Mặt trận toàn dân đoàn kết, không phân biệt chủng tộc, giai cấp tôn giáo, xu hướng chính trị, tham gia Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, "vì nó sẽ là một hình thức thật rộng rãi của mặt trận ấy trong giai đoạn này".
Chính sách Thống nhất bên trong chủ trương tất cả các dân tộc lớn nhỏ ở Đông Dương phải bình đẳng tương trợ; Trung, Nam, Bắc chỉ là ba bộ phận khăng khít của nước Việt Nam; giàu, nghèo trong nước phải nhân nhượng nhau, cưu mang, giúp nhau để chống lại kẻ thù chung từ bên ngoài. Đặt quyền lợi giai cấp dưới quyền lợi dân tộc.
Bên cạnh chính sách Thống nhất bên trong, Đảng chủ trương tìm bạn bên ngoài. Đồng chí Tổng Bí thư viết: “Muốn chống phản động Pháp, lập Mặt trận dân tộc thống nhất chưa đủ. Phải tìm bạn bên ngoài nữa". Thực hiện mục đích tự do độc lập, dân chủ, hoà bình, ta chủ trương kết bạn với tất cả những nước nào, những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích của ta, cùng ta chung một ý chí.
Tổng Bí thư Trường Chinh đưa ra bốn điều kiện đoàn kết của Mặt trận dân tộc thống nhất:
Một là, những phần tử trong Mặt trận Liên hiệp quốc dân phải chân thành vì dân, vì nước, chứ không thể đeo mặt nạ cách mạng, ái quốc mà phản nước, hại dân.
Hai là, các đảng phái đoàn kết không chỉ là đoàn kết trên giấy tờ mà phải là hành động chung.
Ba là, các đảng phái trong Mặt trận có quyền giữ nguyên bản sắc chính trị và tổ chức của mình, nhưng phải tuân theo một chương trình tối thiểu chung của Mặt trận và tham gia sinh hoạt Mặt trận.
Bốn là, trong khi đoàn kết các đảng phái phải luôn luôn giám thị lẫn nhau và phê bình nhau một cách thân mật và có chứng cớ.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: "Mặt trận dân tộc chỉ có thể vững chắc nếu thành phần của nó thuần tuý và nếu sự đoàn kết giữa các đoàn thể mặt trận được luyện trong lò lửa đấu tranh của nhân dân".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, t.8, tr. 434-443.
TỪ THÁNG 6 ĐẾN THÁNG 7
Nông dân, công nhân Hà Nội đấu tranh chống Pháp
Cùng với việc trực tiếp chi viện sức người, sức của cho miền Nam kháng chiến, nông dân, công nhân nhiều nơi trên miền Bắc đấu tranh đòi thực dân Pháp thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Sơ bộ đã ký với Chính phủ Việt Nam.
Tháng 3 và tháng 4-1946, hàng vạn nhân dân Hà Nội mít tinh phản đối thực dân Pháp chiếm đóng trái phép Sở Tài chính; ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Hải Phòng phản đối quân Pháp đến đóng quân ở nhiều công thự ở Hải Phòng.
Thực hiện lời kêu gọi của Chính phủ, ngày 27-6-1946, nông dân ngoại thành Hà Nội phối hợp với công nhân Nhà máy in Minh Sang, công nhân Vô tuyến điện Bạch Mai tuần hành, biểu tình phản đối hành động khiêu khích của thực dân Pháp, đòi quân đội Pháp đình chỉ ngay hành động xâm lược của chúng ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ.
Ngày 1-7-1946, đại biểu của nông dân 118 làng ngoại thành Hà Nội kiến nghị Chính phủ kiên quyết đối với hành động của thực dân Pháp phá hoại Hiệp định Sơ bộ.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 170-171.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930-2000),Nxb. Hà Nội, 2004.
TỪ NGÀY 6-7 ĐẾN NGÀY 13-9
Cuộc đàm phán chính thức giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cộng hoà Pháp ở Phôngtennơblô
Sau khi ký Hiệp định Sơ bộ 6-3, các thế lực thực dân hiếu chiến phản động ở Đông Dương tìm cách hạ thấp ý nghĩa của Hiệp định, trì hoãn việc thi hành, tiếp tục tiến hành chiến tranh ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, lập ra "Chính phủ Nam Kỳ" và "nước Cộng hoà Nam Kỳ". Cũng do lập trường thực dân ngoan cố và hiếu chiến, Hội nghị trù bị Đà Lạt diễn ra trong 22 ngày không đạt kết quả nào. Tuy vậy, Hội nghị là bước hai bên thăm dò, tìm hiểu lập trường của nhau, ý đồ của Pháp đã bộc lộ rõ, giúp Việt Nam chuẩn bị tốt hơn cho đàm phán chính thức tại Pari.
Ngày 6-7-1946, tại lâu đài Phôngtennơblô (Fontainebleau), cuộc đàm phán chính thức Việt Nam - Pháp khai mạc.
Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn1.
Đoàn đại biểu Chính phủ Cộng hoà Pháp do Mắc Ăngđơrê (Max André) làm Trưởng đoàn.
Hai bên thoả thuận chương trình nghị sự gồm những nội dung chính:
1. Vấn đề Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp.
2. Xây dựng Liên bang Đông Dương.
3. Vấn đề thống nhất ba kỳ và cuộc trưng cầu dân ý về Nam Kỳ.
4. Các vấn đề kinh tế, văn hoá.
5. Dự thảo một dự án hiệp ước.
Hai bên thảo thuận lập ra 5 tiểu ban chính trị, quân sự, kinh tế, tài chính và văn hoá.
Các ủy ban họp từ ngày 13 đến ngày 30-7, đề cập đến những vấn đề đã nêu ở Đà Lạt.
Trong khi Hội nghị đang tiến hành thì ngày 1-8-1946, thực dân Pháp ở Đông Dương triệu tập hội nghị Liên bang Đông Dương ở Đà Lạt, gồm đại diện của tay sai Pháp ở Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên, Lào, Campuchia, hòng đặt Hội nghị Phôngtennơblô trước sự đã rồi. Đoàn ta cực lực phản đối hành động đó của Pháp và tuyên bố tạm đình chỉ Hội nghị cho tới khi nào Chính phủ Pháp làm sáng tỏ sự mập mờ đó.
Suốt tháng 8-1946, hai đoàn trao đổi ý kiến chủ yếu bằng Công hàm, do đó Hội nghị không họp lại, nhưng quan điểm xích lại gần nhau không phải giải quyết xong các vấn đề mà để tìm một sự thoả thuận tạm thời về những vấn đề nóng bỏng tạo không khí thuận lợi cho đàm phán.
Qua thảo luận trao đổi, mặc dù hai bên tìm kiếm một thoả thuận, nhưng lập trường cơ bản của hai bên vẫn khác nhau. Chính phủ Pháp khăng khăng hạn chế quyền lợi của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp. Việt Nam phụ thuộc Pháp.
Ngày 10-9, Hội nghị được nối lại. Phía Pháp đưa ra một dự thảo "Hiệp định tạm thời" song không định rõ ngày và thể thức tiến hành trưng cầu dân ý ở Nam Bộ. Phái đoàn Việt Nam cự tuyệt bản dự thảo. Mắc Ăngđrê tuyên bố nghỉ họp.
Ngày 13-9, Đoàn ta ra một bản tuyên bố cho rằng Hội nghị Phôngtennơblô không đạt kết quả là do thái độ thực dân ngoan cố của Chính phủ Pháp và tin rằng Hội nghị sẽ họp lại trong những điều kiện tốt hơn, sau đó về nước.
- Lưu Văn Lợi: Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, t. I, tr. 81-84.
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 76-80.
NGÀY 12-7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo công an, bộ đội đập tan âm mưu của bọn phản động cấu kết với quân đội Pháp định lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Sau khi quân Tưởng rút về nước, bọn phản động tay sai của Tưởng bị phân hoá. Một số chạy theo quân Tưởng sang Trung Quốc, một số ở lại Việt Nam làm tay sai cho Pháp. Chúng tập hợp nhau lại, lập ra tổ chức Quốc dân Đảng Việt Nam do Vũ Hồng Khanh làm Đảng trưởng, Trương Tử Anh làm "Uỷ viên thường vụ”. Dựa vào thế lực của thực dân Pháp, chúng tổ chức lực lượng vũ trang, ráo riết hoạt động phá hoại cách mạng.
Theo đề xuất của Nha Công an Việt Nam, trước những chứng cứ rõ ràng về âm mưu đảo chính của bọn phản động Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo công an kiên quyết tiến công bọn phản động, quét hết 40 trụ sở Quốc dân Đảng ở Hà Nội.
Đồng thời, Trung ương Đảng, Chính phủ cũng chỉ đạo các địa phương truy quét bọn chúng. Trong cuộc truy kích này, riêng ở địa bàn Thủ đô, ta đã bắt gần 100 tên phản động, trong đó có những tên nguy hiểm như Phan Kích Nam, Nghiêm Kế Tổ...
Theo lệnh Chính phủ, cùng với Hà Nội công an nhiều địa phương trong cả nước cũng tiến hành truy quét bọn phản động ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên. Những nơi chúng có căn cứ vũ trang và lập chính quyền phản động như: Vĩnh Yên, Lào Cai, Móng Cái, Phú Thọ, Yên Bái, Việt Trì, công an phối hợp quân đội tiến công, tiêu diệt Quốc dân Đảng.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân Hà Nội, 1994, tr. 81-87.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr. 101-107.
NGÀY 22-7
Thành lập Đảng Xã hội Việt Nam
Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập nhằm đoàn kết rộng rãi những người trí thức Việt Nam yêu nước muốn cùng toàn dân bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.
Sau khi thành lập, Đảng Xã hội Việt Nam gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam.
- Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Sử học: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 32.
TỪ NGÀY 31-7 ĐẾN NGÀY 1-8
Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng
Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng họp từ ngày 31-7 đến ngày 1-8-1946.
Sau khi phân tích những chuyển biến lớn của tình hình thế giới từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, sự lớn mạnh của Liên Xô và giai cấp vô sản thế giới, vai trò quan trọng của Đông Dương trong thế chiến lược mới, Hội nghị đã chỉ rõ âm mưu của thực dân Pháp hòng cướp nước ta một lần nữa.
Hội nghị kiểm điểm các mặt công tác trong nước, nêu rõ Đảng phải luôn sẵn sàng về chính trị và quân sự để đối phó các bất trắc.
Hội nghị nêu chính sách cơ bản của Đảng là thống nhất bên trong, tìm bạn bên ngoài. Về đối ngoại, Đảng chủ trương gần gũi lực lượng hoà bình, dân chủ, chống phản động quốc tế. Về đối nội, Đảng chủ trương hoà hoãn bên trong, toàn dân đoàn kết chống thực dân phản động Pháp và tay sai. Hội nghị dành nhiều thời gian để thảo luận vấn đề củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Về công tác Đảng: Hội nghị phê phán những khuyết điểm cô độc hẹp hòi, tả khuynh, biệt phái, thành kiến, bè phái, kỷ luật không nghiêm, làm việc không đúng cách, tuỳ tiện. Hội nghị nêu những biện pháp sửa chữa để củng cố và phát triển Đảng như chú trọng công nhân, các nhà chuyên môn, trí thức, những vùng đông quần chúng mà Đảng có ít đảng viên khôi phục đảng tịch cho các đồng chí cũ đào tạo cán bộ.
- Về công tác dân vận: đẩy mạnh công vận, phụ vận, thanh vận, văn hoá vận. Riêng về công nhân, lập Ban Công vận toàn quốc, đổi tên Công nhân Cứu quốc thành Công đoàn; chủ trương vận động các đoàn thể các giới các cá nhân yêu nước tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Về quân sự: Hội nghị nêu những kinh nghiệm thất bại như tổ chức không thống nhất; thiếu những đơn vị cần thiết cho bộ đội như trinh sát, liên lạc, cán bộ chỉ huy kém, thiếu công tác chính trị trong quân đội nhất là công tác Đảng; công tác phá hoại tiêu thổ kháng chiến chưa tốt, quá tin vào Hiệp định Sơ bộ mà không tích cực chuẩn bị tiến công. Những thất bại, yếu kém này là bài học kinh nghiệm cho công tác quân sự trong tình hình mới.
- Về kinh tế, tài chính: Hội nghị nhất trí tổ chức các hợp tác xã sản xuất và ngân hàng thương mại ở các tỉnh, giữ độc quyền ngoại thương để lấy ngoại tệ.
- Về văn hoá: Hội nghị quyết định chấn chỉnh Văn hoá Cứu quốc đoàn, phái người của Đảng vào phụ trách, chuẩn bị triệu tập một hội nghị cán bộ văn hoá; xây dựng nền văn hoá với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr 98-114.
NGÀY 3-8
Nhân dân Sài Gòn bãi công phản đối thực dân Pháp triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương
Trong lúc Hội nghị chính thức Việt - Pháp đang họp ở Phôngtennơblô, thực dân Pháp lập ra cái gọi là Chính phủ Nam Kỳ tự trị. Ngày 1-8-1946, Pháp triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương ở Đà Lạt với ý đồ phá hoại cuộc đàm phán chính thức.
Ngày 3-8-1946, nhân dân Sài Gòn bãi công, bãi thị phản đối thực dân Pháp triệu tập hội nghị ở Đà Lạt. Tất cả các cửa hiệu đều đóng cửa, các cơ sở sản xuất ngừng hoạt động. Báo chí công khai đưa ra khẩu hiệu: Thống nhất Tổ quốc, phản đối Chính phủ tự trị.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Mmh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
NGÀY 14-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp Bản thỏa hiệp tạm thời 14-9
Cuộc đàm phán ở Phôngtennơblô không đạt kết quả. Để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến, làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới hiểu rõ thiện chí hoà bình của ta, ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký với đại diện Chính phủ Pháp một Bản thoả hiệp tạm thời (Modus vivendi) vào ngày 14-9.
Bản thỏa hiệp tạm thời có 11 điều khoản, thể hiện sự thoả thuận tạm thời giữa ta và Pháp về một số vấn đề bức thiết có tính chất bộ phận, có lợi cho cả hai bên. Những nội dung chính của Tạm ước là:
- Hai bên đình chỉ mọi xung đột.
- Phía Pháp cam kết thi hành các quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ và thả những người yêu nước bị bắt giam.
- Chính phủ Việt Nam bảo đảm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế và văn hoá ở Việt Nam.
Cuộc đàm phán giữa hai bên sẽ tiếp tục vào tháng 1-1947.
Những vấn đề chủ yếu liên quan đến vận mệnh Tổ quốc chưa được giải quyết, nhưng Bản thoả hiệp tạm thời 14-9 có tác dụng kéo dài thời gian hoà hoãn để nhân dân ta chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr.293
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 80-82.
NGÀY 17-10
Phát động phong trào may áo trấn thủ cho chiến sĩ
Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ lập Uỷ ban Vận động mùa đông binh sĩ ở Trung ương và các tỉnh. Ngày 17-10-1946, Uỷ ban Vận động mùa đông binh sĩ họp để phát động phong trào may áo trấn thủ cho chiến sĩ.
Mở đầu cuộc vận động, chiều ngày 17-10-1946, tại Nhà hát Thành phố Hà Nội, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức một buổi lễ Mùa đông binh sĩ. Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên trong Chính phủ tới dự. Tại buổi lễ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cởi chiếc áo len mà nhân dân tặng Người để tặng lại các chiến sĩ.
Sau đó, phong trào toàn dân may áo trấn thủ ủng hộ bộ đội trở thành một cuộc vận động quần chúng khắp mọi nơi, mọi giới, mọi ngành, Hội Phụ nữ Việt Nam coi cuộc vận động này là một hoạt động quan trọng của Hội, kêu gọi chị em nhiệt tình tham gia.
Ở Hà Nội, đến hết ngày 17-11-1946, nhân dân Thủ đô quyên góp được trên 30 vạn đồng và một số lớn bông, len đủ làm trên 50.000 lõi bông, áo trấn thủ. Thợ may trong thành phố nhận may hàng vạn áo không lấy tiền công.
Nhân dân các tỉnh, thành phố khác cũng rất hăng hái tham gia, với nhiều hình thức phong phú. Khẩu hiệu Mỗi làng hai áo trấn thủ, hai chăn cho bộ đội được nhân dân các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng.
Nhân dân đã mang hàng vạn chăn, áo trấn thủ gửi ra mặt trận ủng hộ bộ đội. Phong trào Mùa đông binh sĩ đã giải quyết được một phần quần áo ấm cho bộ đội, áo trấn thủ bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong quân đội ta.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979, t. II, tr. 83.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 153.
NGÀY 19-10
Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng
Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng họp ngày 19-10-1946, tại nhà số 58 phố Nguyễn Du, Hà Nội, dưới sự chủ toạ của Tổng Bí thư Trường Chinh. Các đồng chí Quân uỷ hội, cán bộ quân sự, chính trị chủ chốt của các khu dự. Đây là hội nghị quân sự lớn nhất của Đảng sau khi giành được chính quyền.
Hội nghị nhận định: sau Tạm ước 14-9, Pháp sẽ lấn dần Việt Nam về kinh tế, chính trị, quân sự, "nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp".
Hội nghị chỉ rõ: "Phải tự tin rằng tuy kém về kỹ thuật, vũ khí nhưng với một tinh thần dẻo dai bền bỉ, mình nhất định sẽ thắng". Hội nghị quyết định đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang và đề ra một số lĩnh vực công tác mới:
- Về quân sự: đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng chất lượng chính trị, chỉnh đốn cơ quan chỉ huy, thống nhất Quân ủy và Quốc phòng, xây dựng các ngành quân nhu, quân giới, quân y.
- Về tư tưởng: tăng cường giáo dục tình hình và nhiệm vụ mới, cán bộ phải học tập, trau dồi mọi mặt, chú trọng tự phê bình, giữ vững kỷ luật của Đảng, giữ gìn bí mật, phản đối tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, cá nhân, phân tán, bao biện.
- Về tổ chức: phát triển Đảng trong quân đội, Đảng phải thống nhất ý chí, hành động và kỷ luật, đảng viên phải bỏ lợi ích cá nhân phục tùng lợi ích Đảng. Chế độ chính trị viên và cơ quan công tác chính trị cần kiện toàn, đưa người có năng lực làm chính trị viên. Điều chỉnh cán bộ, thống nhất chương trình huấn luyện, lập cơ quan chuyên trách về cán bộ, mở trường chuyên huấn luyện cán bô dân quân. Mỗi đại đội hay tiểu đoàn bộ trở lên sẽ lập một chi bộ. Trong 2 tháng, những đại đội nào chưa có chi bộ phải tổ chức xong, những đại đội có chi bộ rồi phải phát triển tới trung đội, mỗi trung đội một tổ.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp các lực lượng vũ trang. Với quan điểm "phải trọng tập đoàn chỉ huy... tuyệt đối phục tùng đoàn thể”, Hội nghị đã đem nguyên tắc tổ chức của Đảng để xác định các nguyên tắc chỉ huy và lãnh đạo, đem truyền thống đoàn kết của Đảng để xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong lực lượng vũ trang.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 8, tr. 126-133.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.38.
NGÀY 23-10
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về
Sau chuyến thăm nước Pháp trở về, ngày 23-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời Tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về. Người cho biết, trong hơn 4 tháng ở Pháp, đã gây dựng uy tín của Việt Nam trong con mắt nhân dân Pháp và nhân dân thế giới. Chính phủ và nhân dân Pháp đã biết lá quốc kỳ Việt Nam, hiểu rõ vấn đề Việt Nam hơn, do đó có một bộ phận ủng hộ Việt Nam độc lập, ủng hộ quan hệ Việt -Pháp bình đẳng. Các tổ chức thế giới công nhận các đoàn thể thanh niên, phụ nữ và lao động Việt Nam là hội viên. Tạm ước 14-9 sẽ tạo điều kiện để hai Chính phủ hội đàm tiếp.
Người cũng nêu rõ, cho đến tháng Giêng năm mới, Chính phủ và nhân dân Việt Nam phải ra sức đoàn kết xây dựng đất nước, phải đối xử khôn khéo với người Pháp ở Việt Nam.
Người khẳng định Việt Nam là một nước thống nhất, độc lập; Nam Bộ không thể bị chia cắt khỏi Tổ quốc và viết: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 416-420.
TỪ NGÀY 28-10 ĐẾN NGÀY 9-11
Kỳ họp thứ hai của Quốc hội khoá I
Từ ngày 28-10 đến ngày 9-11-1946, Quốc hội họp kỳ thứ hai tại Hà Nội để nghe Chính phủ báo cáo những công việc đã làm trong 8 tháng, thông qua Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thành lập Chính phủ mới. Dự họp có 290 đại biểu các tỉnh thành, đại diện các lãnh sư quán Anh, Mỹ, Trung Quốc, Thụy Sĩ và một số nhà đương chức Pháp. Công chúng được vào dự thính kỳ họp và chất vấn khen, chê Chính phủ.
Quốc hội đã nghe đại diện Chính phủ Vũ Đình Hoè báo cáo những hoạt động của Chính phủ trong thời gian qua, đồng chí Phạm Văn Đồng báo cáo về việc giao thiệp với Chính phủ Pháp.
Chính phủ đã trả lời nhiều câu hỏi của các đại biểu Quốc hội về các vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, nội vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh giải đáp trước Quốc hội các câu hỏi về quốc kỳ, về việc Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh tự ý bỏ đi, về chính sách ngoại giao của Chính phủ, về tính liêm khiết làm gương của Chính phủ.
Quốc hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về nội trì, ngoại giao, lập chính phủ mới, quyền quan thuế, phát hành giấy bạc Việt Nam.
Quốc hội đã chấp nhận sự từ chức của Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Quốc hội bầu ra tại kỳ họp thứ nhất (3- 1946) và ủy nhiệm cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ mới. Ngày 3-1946, Chính phủ mới ra mắt Quốc hội, do Chủ tịch Hồ Chủ Minh đứng đầu. Việt Quốc, Việt Cách không còn chỗ trong Chính phủ cách mạng.
Ngày 8-11-1946, Quốc hội thông qua dự án Luật Lao động.
Quốc hội đã nghe trình bày dự án Hiến pháp, sau đó thảo luận sôi nổi. Ngày 9-11-1946, Quốc hội biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240/242 đại biểu tán thành.
Quốc kỳ nước Việt Nam được Quốc hội công nhận là cờ đỏ sao vàng.
Quốc hội bầu ra Ban Thường trực Quốc hội gồm 18 người do Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng ban. Ngày 11-11-1946, Ban Thường trực Quốc hội họp bầu Ban Thường vụ gồm 5 người, Trưởng ban là cụ Bùi Bằng Đoàn.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2000, tr. 94-112.
THÁNG 10
Chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến
Chuẩn bị địa bàn đứng chân của cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng sớm chỉ đạo xây dựng căn cứ địa kháng chiến, gồm căn cứ địa ở từng địa phương và căn cứ địa cả nước.
Việt Bắc được chọn làm căn cứ địa của cả nước, vì có vị thế chiến lược quan trọng, nhân dân theo Đảng, kinh tế tự cấp tự túc. Sau Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Phạm Văn Đồng ở lại Việt Bắc một thời gian để củng cố căn cứ địa. Cuối tháng 10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng lên Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Nửa đầu tháng 11-1946, Trung ương Đảng lập Đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh phụ trách để nghiên cứu kế hoạch di chuyển các cơ quan lãnh đạo và cơ sở vật chất kỹ thuật lên Việt Bắc. Các huyện Định Hoá, Chợ Đồn, Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) và Sơn Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang) được chọn làm nơi đóng các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ tháng 10-1946, nhân dân các dân tộc Việt Bắc, đặc biệt ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên tích cực chuẩn bị xây dựng căn cứ địa kháng chiến, chuẩn bị đón các cơ quan Trung ương, Chính phủ và nhân dân.
Từ đầu tháng 12-1946, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, quân đội đã chuyển về các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, đến tháng 3-1947 lên Việt Bắc. Cơ sở vật chất, kỹ thuật của cuộc kháng chiến cũng được chuyển về các căn cứ địa từ đầu tháng 11-1946.
Nhân dân các địa phương ở Việt Bắc có cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, quân đội đóng được huấn luyện quân sự, chỉ đạo việc bố phòng, an ninh. Đồng bào ra sức tham gia kháng chiến, giữ bí mật, thực hiện khẩu hiệu ba không, góp phần bảo đảm tuyệt đối an toàn cho cơ quan đầu não.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr 276-280.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 172.
NGÀY 5-11
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ
Trước nguy cơ chiến tranh, ngày 5-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Chỉ thị quan trọng Công việc khẩn cấp bây giờ.
Trong Chỉ thị, Người nêu rõ nhiệm vụ cơ bản khẩn cấp của nhân dân ta lúc này là kháng chiến và kiến quốc. Người viết: "Một mặt phá hoại. Một mặt kiến thiết. Phá hoại để ngăn địch. Kiến thiết để đánh địch". Từ nhiệm vụ chung đó, Người chỉ rõ những công tác cụ thể trên các mặt quân sự, kinh tế chính trị, giao thông.
Người nhấn mạnh kháng chiến, kiến quốc cần có vai trò lãnh đạo và tiên phong của các đảng viên, cán bộ thanh niên. Người yêu cầu các đảng viên "phải rửa sạch những thói hẹp hòi, phu diễn2, tự đại, ỷ lại, lười biếng, nhút nhát, hủ hoá. Cần phải kỷ luật, hoạt bát, siêng năng, dũng cảm, có sáng kiến, làm kiểu mẫu. Trước hết phải ăn ở làm sao cho dân phục, dân yêu, dân nghe". Người cho đó là các điều kiện bảo đảm thắng lợi. Bên cạnh việc quán triệt nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc cho các cấp bộ Đảng, đảng viên, Người chỉ thị phải làm cho toàn thể đồng bào thấm nhuần quan điểm kháng chiến trường kỳ. Người chỉ rõ: “Ta phải hiểu và phải cho dân hiểu rằng: cuộc kháng chiến sẽ rất gay go cực khổ. Dù địch thua đến 99%, nó cũng rán sức cắn lại. Vì nó thất bại ở Việt Nam, thì toàn bộ cơ nghiệp đế quốc nó sẽ tan hoang”. Ta phải "Tổ chức du kích khắp nơi. Tăng gia sản xuất khắp nơi. Dù phải rút khỏi các thành phố, ta cũng không cần. Ta sẽ giữ tất cả thôn quê". Cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Ta cần giữ được lòng dân: "Ta phải có và phải làm cho dân ta có Tín tâm và Quyết tâm".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính tri quốc gia, Hà Nội 2002, t. 4, tr. 432-434.
NGÀY 9- 11
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời
Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với 240/242 đại biểu tán thành.
Ngoài Lời nói đầu ghi rõ thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn mới và những nguyên tắc xây dựng Hiến pháp, Hiến pháp có 7 chương, 70 điều gồm các phần Chính thể (Chương I), Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (Chương II), Nghị viện nhân dân (Chương III), Chính phủ (Chương IV), Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (Chương V), Cơ quan tư pháp (Chương VI),Sửa đổi Hiến pháp (Chương VII).
Về Chính thể, Hiến pháp ghi rõ:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Điều 1).
“Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia" (Điều 2).
“Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh. Quốc ca là bài Tiến quân ca. Thủ đô đặt ở Hà Nội" (Điều 3).
Về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, Hiến pháp 1946 ghi:
"Mỗi công dân Việt Nam phải: bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật" (Điều 4) . "Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính" (Điều 5), "Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá" (Điều 6), đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình" (Điều 7), "Những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8), "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" (Điều 9), "Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài" (Điều 10), "Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật (Điều 11), “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm" (Điều 12), "Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm" (Điều 13), "Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14), "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước" (Điều 15), "Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín" (Điều 17), “Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên... đều có quyền bầu cử... Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi..." (Điều 18), "Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra" (Điều 20), "Có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia" (Điều 21).
Hiến pháp quy định rõ về Nghị viện nhân dân, chương III: "Nghị Viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Điều 22); về Chính phủ (Chương IV) là "Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc; về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (Chương V), "Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra uỷ ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Uỷ ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra" (Điều 58).
Hiến pháp cũng quy định hệ thống tổ chức và quyền hạn của cơ quan tư pháp và những điều quy định về sửa đổi Hiến pháp.
Bản Hiến pháp trở thành chính thức từ ngày 9-11-1946, nhưng do tình hình chiến tranh, nên Quốc hội đã biểu quyết chưa ban hành Hiến pháp bằng một Sắc lệnh và chưa thi hành Hiến pháp ngay. Việc bầu Nghị viện nhân dân theo quy định của Hiến pháp chưa được tổ chức. Quốc hội tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu được Nghị viện nhân dân Quốc hội cũng đã chuẩn y, quyết định uỷ nhiệm cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp. Trong thời kỳ chưa thi hành được thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành các đạo luật.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.104-112, 271-286.
NGÀY 13-11
Tỉnh uỷ Nam Định lãnh đạo công nhân Nhà máy sợi Nam Định bãi công
Sau Tạm ước 14-9, ở Nam Định, thực dân Pháp tiến hành nhiều hành động khiêu khích về quân sự, kinh tế. Ngày 16-10-1946, Pháp tăng thuế bình quân đánh vào bông nhập từ 20 đồng/kg lên 40 đồng/kg. Do vậy, bọn chủ Nhà máy sợi Nam Định, theo lệnh Cao uỷ Pháp, tăng giá vải bán cho Chính phủ ta lên gấp đôi. Đây là hành vi của Pháp vi phạm chủ quyền dân tộc ta trong vấn đề thuế quan và ngoại thương.
Chính quyền ta thông qua đại diện của mình trong Ban liên kiểm phản đối hành động trên. Ngày 25-10-1946, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định gửi thư yêu cầu Uỷ viên Sở Kinh tế Bắc Kỳ của Pháp và bọn chủ máy sợi phải hủy bỏ ngay việc tăng giá vải. Chúng không thực hiện yêu cầu của ta. Chủ nhà máy còn quyết định tăng giá vải cân bán cho công nhân lên gấp đôi và tự ý giãn 200 thợ.
Được Trung ương Đảng và Xứ uỷ chỉ đạo, Tỉnh uỷ Nam Định lãnh đạo công nhân Nhà máy sợi bãi công. Uỷ ban đấu tranh của công nhân được lập gồm bốn tiểu ban: tuyên truyền - đối chất, điều tra, kinh tế xã hội, giao thông liên lạc.
Ngày 12-11-1946, Uỷ ban đấu tranh nêu yêu cầu cho bọn chủ bãi bỏ lệnh tăng giá vải và đuổi công nhân, song bọn chủ không đáp ứng. Ngày 13-11-1946, cuộc đình công nổ ra. Tất cả 300 công nhân Nhà máy sợi nghỉ việc. Uỷ ban đấu tranh hoạt động tích cực. Tiểu ban tuyên truyền giải thích cho đồng bào các nơi hiểu rõ ý nghĩa, mục đích cuộc bãi công và kêu gọi mọi người ủng hộ. Tiểu ban kinh tế xã hội tích cực tìm kiếm lo liệu công ăn việc làm và gạo cho công nhân. Uỷ ban đấu tranh còn xuất bản báo Công ty bông sợi mỗi số 300 tờ để chỉ đạo và khích lệ công nhân. Báo Cứu quốc và tất cả báo chí lúc đó đã đưa tin về cuộc đấu tranh này, biểu dương tinh thần công nhân sợi Nhà máy Nam Định, kêu gọi công nhân và nhân dân cả nước ủng hộ.
Cả nước đã ủng hộ công nhân Nhà máy sợi Nam Định. Công nhân và nhân dân các tỉnh Nam Định, Hồng Gai, Hà Đông, Phú Thọ, Sơn Tây, Quảng Ngãi, Hà Nội đã đình công, gửi thư, đánh điện hưởng ứng và cổ vũ. Nhiều nơi quyên tiền, thuốc ủng hộ. Số tiền quyên được lên tới hàng chục nghìn đồng.
Cuộc bãi công kéo dài đến ngày Toàn quốc kháng chiến, vì thực dân Pháp không chịu nhượng bộ. Cuộc bãi công có tiếng vang lớn, gây nhiều thiệt hại cho bọn chủ Pháp.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định (1930-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
NGÀY 16-11
Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày về Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước
Ngày 16-11-1946, đồng chí Trường Chinh đệ trình chủ tịch Hồ Chí Minh bản thuyết trình về Nhiệm vụ văn hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước.
Về văn hoá và cách mạng giải phóng dân tộc, mục I của bản thuyết trình nêu rõ: trước cuộc cách mạng, văn hoá cách mạng đóng một vai trò khá quan trọng là tuyên truyền giác ngộ, cổ động nhân dân khởi nghĩa giành độc lập. Trong cuộc cách mạng, văn hoá cách mạng phải kích thích tinh thần khởi nghĩa, làm sôi nổi nhiệt huyết cách mạng của nhân dân, thôi thúc nhân dân nổi dậy tất cả giành lấy chủ quyền; kháng chiến giữ vững chủ quyền ấy. Sau cuộc cách mạng, văn hoá cách mạng phải động viên mọi lực lượng văn hoá của dân tộc, hăng hái tham gia kiến quốc; gây đời sống mới, gột rửa những tư tưởng, tập quán hủ bại, giáo dục nhân dân, làm cho dân tộc có một nền văn hoá tiến bộ.
Bản thuyết trình của Tổng Bí thư nhấn mạnh thái độ các nhà văn hoá Việt Nam lúc này là phải tích cực tham gia mặt trận dân tộc, giành thống nhất và giành độc lập cho Tổ quốc. Phải đem hết năng lực ra cứu nước và xây dựng trước; lập trường của các nhà văn hoá Việt Nam lúc này phải là dân tộc và dân chủ, nghĩa là yêu nước và tiến bộ. Tổng Bí thư nêu ra bốn nhiệm vụ cụ thể của văn hoá Việt Nam giai đoạn này như sau:
1. Phát triển tinh thần đoàn kết và yêu nước của dân tộc, củng cố đức tin của dân tộc ở sự nghiệp dân tộc giải phóng.
2. Phát triển những cái hay, cái đẹp trong văn hoá cổ truyền của dân tộc; đồng thời bài trừ những cái xấu xa hủ bại.
3. Ngăn ngừa sức thâm nhập và tấn công của văn hoá phản động, văn hoá thực dân; đồng thời học những cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới, nhất là văn hoá Tàu và Pháp.
4. Kiến thiết một nền văn hoá mới cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bao gồm: giáo dục nhân dân, gây đời sống mới, phát triển tư tưởng khoa học và học thuật tiến bộ, phát triển văn nghệ đại chúng.
- Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 143-146.
TỪ NGÀY 20-11 ĐẾN NGÀY 26-11
Quân dân Hải Phòng đánh trả hành động lấn chiếm của thực dân Pháp
Âm mưu chiếm Bắc Bộ, thực dân Pháp chọn Hải Phòng làm khởi điểm cho cuộc chiến tranh. Tháng 10-1946, thực dân Pháp hoàn tất kế hoạch đánh chiếm Hải Phòng. Tổng số quân Pháp ở Hải Phòng lên tới 3.000 tên, quá mức quy định của Hiệp định Sơ bộ là 1.250 tên.
Ngày 15-l0-1946, Cao uỷ Pháp Đácgiăngliơ (D Argenlieu) ban hành một quyết định về thuế quan, ra lệnh cho tướng Moóclie (Morlière), Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ tổ chức thiết lập quyền kiểm soát thuế quan tại cảng Hải Phòng.
Sáng ngày 20-11-1946, một chiếc ca nô của Pháp đến bến Tam Kỳ định bắt chiếc tàu chở dầu của người Hoa mà chúng khám xét trái phép hôm trước. Bị công an và thuế quan ta can thiệp, chúng bắn chết một chiến sĩ công an và hai dân thường. Tự vệ ta nổ súng, tiếp đó, theo phản ứng dây chuyền, tự vệ khắp Hải Phòng bắt và bắn bị thương một số lính Pháp.
Nhân cớ này, sau khi đưa ra những điều kiện mà ta không thể chấp nhận và bị ta bác bỏ vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 20-11-1946, quân Pháp tại Hải Phòng tấn công đánh chiếm khắp nơi trong thành phố: Nhà hát lớn, nhà ga, trụ sở Đoàn Công an xung phong, Sở Cảnh sát, nhà Ngân hàng, nhà Bưu điện, nhà Đốc lý (trụ sở Uỷ ban Nhân dân thành phố hiện nay), Nhà máy nước, Nhà máy điện. Tại các nơi đó, nhất là Nhà hát lớn, bộ đội tự vệ, Công an xung phong Hải Phòng đã chiến đấu dũng cảm.
Do sự can thiệp của Ban liên kiểm Việt - Pháp trung ương, hai bên tạm ngừng nổ súng từ 13 giờ 30 phút ngày 21-11- 1946. Nhưng lúc 17 giờ 52 phút cùng ngày, tướng Valuy (Valluy) đã điện cho đại tá Đépbơ (Debès) chỉ huy quân Pháp ở Hải Phòng phải lợi dụng sự cố để chiếm Hải Phòng.
10 giờ 5 phút ngày 23-11-1946, sau khi tối hậu thư đòi lực lượng Việt Nam phải rút khỏi thành phố trước lúc 9 giờ sáng bị bác bỏ, quân Pháp mở lại các cuộc tấn công ở Hải Phòng.
Ngay khi nhận được tối hậu thư của địch đại diện Xứ uỷ Bộ Chỉ huy Chiến khu 3, Thành uỷ, Uỷ ban Bảo vệ thành phố đề ra chủ trương quyết tâm đánh địch. Bộ Chỉ huy Chiến khu 3 ra lệnh cho lực lượng vũ trang Hải Phòng và toàn chiến khu chủ động tiến công địch.
Nhiều cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 41 viết quyết tâm thư bằng máu gửi lên Bác Hồ, Trung ương Đảng hứa sẽ chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ thành phố Cảng. Lực lượng vũ trang ta chặn đánh tất cả các mũi tấn công của địch, gây cho địch nhiều tổn thất.
Phối hợp với nội thành, ngày 25-11-1946, lực lượng vũ trang (Kiến An), Chiến khu 3 tấn công sân bay Cát Bi phá huỷ kho đạn, kho xăng; đánh hỏng một tàu chở quân tăng viện từ Sài Gòn ra, đang trên đường từ Cửa Cấm vào cảng, tại khu vực Sâm Bồ (Hải An).
Trung ương Đảng cử các đồng chí Lê Thanh Nghị, Nguyễn Khang, Thường vụ Xứ uỷ Bắc Bộ về Hải Phòng nghiên cứu tình hình. Đêm 24-11, các đồng chí đã cùng bàn bạc với Thành uỷ, Uỷ ban Bảo vệ thành phố thống nhất ba vấn đề:
- Cân nhắc sức chiến đấu của thành phố Hải Phòng, nếu thấy không còn khả năng giữ Hải Phòng thì rút lui để bảo toàn lực lượng.
- Dù tình huống diễn ra như thế nào cũng phải giữ vững được hai tuyến: tuyến Trại Cau - An Dương - Cầu Niệm nhằm bảo đảm nối liền Hải Phòng với Kiến An, ngăn chặn địch tiến sang Kiến An và tuyến đường 5 đoạn từ Cam Lộ - Quán Toan - Chợ Hỗ nhằm ngăn chặn địch tiến lên Hải Dương, tạo điều kiện cho hai tỉnh này hoàn thành công việc chuẩn bị và tổ chức lực lượng chuyển sang thời chiến.
- Luôn luôn thể hiện tư tưởng tiến công địch bằng cách đánh linh hoạt theo lối du kích vận động chiến.
Uỷ ban Bảo vệ thành phố ra lệnh triệt để tản cư đồng bào ra khỏi nội thành. Kiến An, nhất là vùng phụ cận với Hải Phòng trở thành chỗ dựa trực tiếp cho mặt trận Hải Phòng.
Cuộc chiến đấu ở Hải Phòng đặt ra nhu cầu thống nhất Hải Phòng và Kiến An thành một chiến trường. Ngày 26-11-1946, sau khi được Trung ương Đảng, Chính phủ chấp nhận, liên tỉnh Hải Kiến được thành lập. Đảng bộ Liên tỉnh ra đời đo đồng chí Nguyễn Văn Khả làm Bí thư. Ngay sau khi thành lập, Liên tỉnh uỷ đã nhận định tình hình, đề ra chủ trương rút đại bộ phận lực lượng vũ trang ra khỏi nội thành để bảo toàn lực lượng, xây dựng phòng tuyến giam chân địch, cho nhân dân nội thành triệt để tản cư thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
Đêm 26-11-1946, quân dân Hải Phòng rút khỏi nội thành.
Lực lượng vũ trang Hải Kiến đã lập phòng tuyến Cầu Niệm, Cầu Rào - Đồ Sơn, An Dương, Thuỷ Nguyên bao vây địch, kìm chân địch 32 ngày trong nội thành Hải Phòng cho đến ngày toàn quốc kháng chiến.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 161-163.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), NXb. Hải Phòng, 1991, t. 1.
- Hội đồng Chỉ đạo biên soạn công trình Lịch sử kháng thiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng: Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng 1945-1955, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83-99.
TỪ NGÀY 20-11 ĐẾN NGÀY 27-11
Quân dân Lạng Sơn đánh trả hành động lấn chiếm của thực dân Pháp
Theo Hiệp định Sơ bộ, ngày 7-7-1946, quân Pháp đến đóng tại thị xã Lạng Sơn.
Ngay sau khi đóng quân ổn định, quân Pháp bắt đầu có những hành động vi phạm quy định. Chúng đưa quân chiếm đóng trái phép một số đồn, đi lại trong thị xã ngoài tuyến đường cho phép, tự tiện xông vào công sở của ta, doạ nạt nhân dân Lạng Sơn.
Trước tình hình đó, cuối năm 1946, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Lạng Sơn đã họp, đề ra một số chủ trương nhằm tổ chức các căn cứ địa trong tỉnh, sẵn sàng sơ tán nhân dân và làm vườn không nhà trống khi có chiến sự, củng cố dân quân tự vệ phá hoại các đường giao thông, phát động phong trào thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, chuẩn bị lương thực, thực phẩm cung cấp cho bộ đội khi có chiến sự. Sau Hội nghị, công việc chuẩn bị kháng chiến được tiến hành khắp tỉnh: lực lượng vũ trang, nòng cốt là Trung đoàn chủ lực 125, được tăng cường quân số, vũ khí trang bị, lập phương án tác chiến.
Ngày 20-11-1946, lấy cớ là đi tìm hài cốt lính Pháp bị Nhật giết hồi đảo chính tháng 3-1945, quân Pháp kéo quân lên các điểm cao xung quanh thị xã. Ta buộc phải tự vệ. Quân Pháp nổ súng và sau đó dùng hàng chục xe tăng xe bọc thép đánh chiếm nhiều nơi trong thị xã.
Trung đoàn 125 (Lạng Sơn) cùng tự vệ, thanh niên, nhân dân tổ chức các trận địa kiên cường đánh giặc. Cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Lạng Sơn kéo dài hơn một tuần lễ. Để giữ gìn lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, ngày 27-11-1946, quân ta ở Lạng Sơn rút ra ngoài thị xã. Lực lượng vũ trang thị xã Lạng Sơn phối hợp với các đội vũ trang ở Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Uyên lập phòng tuyến trên đường số 1 và số 4 buộc quân Pháp phải thả dù tiếp tế cho binh lính đóng trong thị xã.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 161-163.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn 1930-1954 (Tái bản lần thứ nhất), Ban Tuyên giáo tỉnh uỷ Lạng Sơn, 1998.
NGÀY 24-11
Hội nghị Văn hoá toàn quốc
Ngày 24-11-1946, Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất khai mạc tại Nhà hát Thành phố Hà Nội. Hơn 200 nhà hoạt động văn hoá đại diện cho phong trào văn hoá toàn quốc và đại diện Chính phủ, Uỷ ban Thường trực Quốc hội đã đến dự.
Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nhiệm vụ của văn hoá mới là phải lấy hạnh phúc của đồng bào, sự nghiệp đấu tranh của dân tộc làm nội dung phản ánh, đồng thời phải tiếp thu những kinh nghiệm của văn hoá xưa và nay để xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam với ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng. Người nêu rõ vị trí, ảnh hưởng của văn hoá nghệ thuật trong việc giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng con người Việt Nam yêu nước, độc lập, tự cường, tự chủ. Người kêu gọi các nhà văn hoá Việt Nam "hãy chú ý đặc biệt đến nhi đồng".
Tiếp theo, đại diện của Uỷ ban vận động văn hoá toàn quốc đọc báo cáo nêu bật những thành tích, hoạt động của các nhà văn hoá Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời nêu lên sự cần thiết phải đoàn kết cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nhà hoạt động văn hoá của cả nước trong tình hình mới.
Hội nghị đã bầu ra Uỷ ban Văn hoá toàn quốc gồm 15 uỷ viên chính thức và 5 uỷ viên dự khuyết.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 460.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t. II, tr 92.
NGÀY 27-11
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào thành lập quỹ Nghĩa thương
Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Chính phủ đề ra nhiệm vụ cứu đói, một trong những nhiệm vụ cấp bách. Nhờ có nỗ lực của nhân dân, cán bộ, đầu năm 1946, nạn đói đã được khắc phục.
Vụ mùa năm 1946, nông nghiệp được mùa.
Ngày 27-11-1946, báo Cứu quốc đăng Lời kêu gọi đồng bào nông dân thành lập nghĩa thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, vụ này được mùa, nhưng để lo xa, nông dân cần lập quỹ Nghĩa thương. Theo Người lập quỹ Nghĩa thương sẽ phòng được đói cho mỗi người, đồng thời cho cả đồng bào. "Cách tổ chức thế nào Bộ Canh nông sẽ bày cho. Vậy toàn thể nhân dân mọi làng, kẻ giàu để nhiều, kẻ nghèo để ít, phải mau mau thành lập nghĩa thương".
Nghĩa thương là một loại quỹ tương trợ nhau của nông thôn Việt Nam cổ truyền. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự vận dụng một hình thức vốn có trong xã hội để cách mạng Việt Nam vượt qua khó khăn tạm thời trước mắt.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 461.
THÁNG 11
Chia cả nước thành 12 khu hành chính và quân sự
Phục vụ công tác chỉ đạo chiến tranh, phát huy khả năng độc lập tác chiến của từng địa phương, cả nước chia thành 12 khu hành chính quân sự.
Khu I: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên.
Khu II: Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu.
Khu III: Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương.
Khu IV: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
Khu V: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Công Tum, Gia Lai.
Khu VI: Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng.
Khu VII: Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.
Khu VIII: Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
Khu IX: Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá.
Khu X: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên.
Khu XI: Hà Nội.
Khu XII: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh, Hồng Gai, Quảng Yên.
Mỗi khu có Khu uỷ, Uỷ ban kháng chiến. Chính phủ quyết định giải thể Uỷ ban hành chính Bắc Bộ, Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, thành lập Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Trung Bộ, Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr 159-160.
- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Sử học: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 36.
CUỐI THÁNG 11
Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ra Lời kêu gọi quốc dân
Mặc dù đã ký kết Tạm ước 14-9, trong đó định rõ vấn đề đình chiến giữa hai bên và phía Việt Nam đã thi hành triệt để điều quy định đó, bọn thực dân Pháp vẫn gây chiến ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Trước tình hình đó Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương ra lời kêu gọi đồng bào sẵn sàng chiến đấu để tự vệ.
Sau khi nêu rõ những bội ước của thực dân Pháp, những mưu đồ đen tối muốn quay trở lại xâm lược nước ta của chúng, Lời kêu gọi nhấn mạnh: Tạm ước 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc.
Lời kêu gọi có đoạn:
“Hỡi các chiến sĩ Hải Phòng và Lạng Sơn anh dũng!
Các bạn đang hy sinh phấn đấu bảo vệ đất nước yêu quý của tổ tiên ta để lại. Cùng đồng bào miền Nam, các bạn đang đem xương máu xây bức trường thành ngăn bọn phản động Pháp, bảo vệ những thành tích vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám.
Toàn quốc đang dõi trông bước tiến của các bạn.
Những chiến công đầu tiên của các bạn đang phấn khởi toàn dân, làm vững chắc thêm sự tin tưởng của dân tộc ta vào vận mệnh nước nhà.
Hội toàn quốc đồng bào! Những hành động của Pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam rất có thể lan rộng. Tình thế vô cùng nghiêm trọng. Hãy sẵn sàng chiến đấu để tự vệ bất cứ nơi nào và chỗ nào. Mỗi người dân Việt Nam lúc này phải hăng hái gánh nhiệm vụ thiêng liêng: bảo vệ chủ quyền của Tồ quốc. Đoàn kết phấn đấu nhất định chúng ta sẽ thắng”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 147-149.
TỪ CUỐI THÁNG 11-1946 ĐẾN THÁNG 2-1947
Di chuyển cơ sở vật chất vào căn cứ địa kháng chiến
Từ cuối tháng 11-1946 đến tháng 2-1947, ta tổng di chuyển cơ sở vật chất ở Hà Nội, các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ vào các căn cứ ở nông thôn và rừng núi, để xây dựng cơ sở vật chất của kháng chiến bảo đảm đời sống cán bộ, nhân dân, lực lượng vũ trang ở Nam Bộ, ta tiếp tục vận chuyển lương thực vào các căn cứ.
Những cơ sở phương tiện vật chất kỹ thuật được chuyển lên các căn cứ địa là máy móc vật tư, nguyên liệu, các cơ sở y tế, giáo dục, hậu cần...
Tổng cộng, đến tháng 2-1947, ta đã chuyển được gần 40.000 tấn máy móc, nguyên vật liệu ra vùng tự do, về các căn cứ. Riêng Bắc Bộ, gần 2/3 số máy móc các xí nghiệp được chuyển lên căn cứ. Nhờ đó ta xây dựng được 57 cơ sở sản xuất khi kháng chiến toàn quốc nổ ra.
Cùng với máy móc, nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm, nhất là gạo, muối được Đảng và Chính phủ quan tâm chuyển tải đến các khu căn cứ. Tháng 5-1946, Chính phủ lập Nha Tiếp tế (thuộc Bộ Kinh tế) để thu mua, dự trữ gạo, thóc. Sau đó, lập cơ quan "phân tán muối" (thuộc Bộ Tài chính) để tổ chức vận chuyển muối thuế của Nhà nước và muối mua trên thị trường tự do về các khu an toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Uỷ viên Trung ương Đảng tìm cách chuyển gần 20.000 tấn muối ở kho Văn Lý (Nam Định) lên Việt Bắc và Tây Bắc trước khi địch chiếm vùng ven biển. Từ cuối tháng 12-1946, muối từ Văn Lý được chuyển lên Lào Cai, Sơn La, Hà Giang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng, phân phối vào trong dân và các kho dự trữ của Bộ Tài chính. Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, Cục Quân nhu chuyển được trên 400 tấn muối lên Việt Bắc. Do có muối dự trữ, trong kháng chiến, ta đảm bảo được nhu cầu về muối, dù địch đã chiếm vùng ven biển. Cuộc vận chuyển được thực hiện trong điều kiện rất khó khăn, nhiều nơi đã có chiến sự; phương tiện thiếu thốn, nhưng đã thành công. Nhân dân các địa phương đã góp nhiều công sức vào cuộc vận chuyển này.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 231-238.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 171-172.
NGÀY 12-12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến
Ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, vạch rõ những nét cơ bản về đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài của nhân dân ta.
Bản Chỉ thị gồm năm phần cơ bản:
1- Cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc ta.
2- Chương trình kháng chiến.
3- Cơ quan chỉ đạo kháng chiến.
4- Những điều răn trong khi kháng chiến.
5- Khẩu hiệu tuyên truyền trong thời kỳ kháng chiến.
Bản Chỉ thị vạch rõ mục đích cuộc kháng chiến là đánh thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Tính chất cuộc kháng chiến là lâu dài và toàn diện. Chính sách của kháng chiến là liên hiệp với nhân dân Pháp, chống thực dân Pháp xâm lược; đoàn kết với Campuchia và Lào; thân thiện với các dân tộc yêu chuộng tự do hoà bình trên thế giới; đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến, bảo vệ dân và được lòng dân; phải tự cấp tự túc về mọi mặt. Cách đánh là triệt để dùng du kích, vận động chiến; bảo toàn thực lực kháng chiến lâu dài; phá hoại nhiều hơn bắn, triệt để làm cho địch tiêu hao, mệt mỏi, chán nản; vừa đánh vừa vũ trang thêm, đào tạo thêm cán bộ. Kháng chiến chia ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công.
Chương trình tháng chiến có 12 điểm cụ thể, trong đó có: đoàn kết toàn dân; quân, chính, dân nhất trí; động viên sức người, sức của và tài chính, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài; đánh Pháp, tiễu phỉ, trừ gian; giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất đất nước; củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc và một số nội dung khác.
Chỉ thị còn nêu nhiều điểm cụ thể về cơ quan lãnh đạo kháng chiến: đoàn thể (Đảng), Chính phủ, Mặt trận dân tộc thống nhất; những điều răn dân và quân ta khi kháng chiến; những khẩu hiệu tuyên truyền trong kháng chiến.
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến là một trong những văn kiện mang tính chất cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 150.155.
NGÀY 13-12
Hội nghị các Khu trưởng họp tại Hà Đông
Sau khi đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, quân đội Pháp ngày càng tăng cường hoạt động gây hấn ở miền Bắc và miền Trung nước ta.
Trước tình hình đó, ngày 13-12-1946, Trung ương Quân uỷ Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị các Khu trưởng tại Hà Đông. Hội nghị quán triệt nhận định của Trung ương Đảng: "Phản động Pháp ở thuộc địa cố gắng và đẩy chúng ta vào chiến tranh", chủ trương của Đảng “vẫn là tranh thủ khả năng hoà bình", nhưng "phải chuẩn bị cấp tốc để tiến hành chiến tranh toàn dân toàn diện và trường kỳ”. Hội nghị rút kinh nghiệm tác chiến ở Nam Bộ, Hải Phòng, Lạng Sơn, kiểm điểm công tác chuẩn bị kháng chiến đề ra từ Hội nghị Quân sự toàn quốc của Đảng, vạch kế hoạch tác chiến chung, chỉ đạo việc sửa soạn chiến đấu ở các địa phương. Hội nghị thảo ra một kế hoạch phá hoại, làm vườn không nhà trống.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 165-166.
NGÀY 16-12
Trung ương Đảng gửi thư cho Xứ uỷ Nam Bộ
Cuối năm 1946, thực dân Pháp ngày càng tỏ rõ dã tâm xâm lược nước ta. Toàn quốc chuẩn bị kháng chiến, quân dân ta đã sẵn sàng. Ngày 12-12-1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn quốc kháng chiến, hạ quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn diện đánh thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập.
Ngày 16-12-1946, Trung ương Đảng gửi thư cho Xứ uỷ Nam Bộ, nêu rõ, cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi nữa: "Theo tình hình bên Pháp và lòng tham của thực dân, chỉ có một cuộc chiến tranh toàn diện, lâu dài, gay gắt, khó khăn mới giải quyết được chủ quyền của Việt Nam. Chủ trương của Đảng đã nhất định gấp rút chuẩn bị".
Thư xác định phương châm cuộc chiến tranh sắp xảy ra: "Phải cho đồng chí và dân chúng hay, nhận rõ trường kỳ kháng chiến", "thế nào thắng lợi cũng về ta”. Trong cuộc chiến tranh này, ta không chủ trương giữ các đô thị lớn và thành phố.
Thư nêu rõ: "Nhiệm vụ Nam Bộ là không thể để cho Pháp đem hết tài sản chiếm được ở Nam Bộ ra đánh Trung, Bắc". Nam Bộ phải tiến hành cuộc chiến tranh uy hiếp, phá hoại Sài Gòn: “Việc hành binh phải tìm cách có ý thức uy hiếp Sài Gòn. Nhất là phá quân nhu, đạn dược ở Sài Gòn. Việc này phải làm cho kỳ được. Tổ chức phá hoại tàu bè chuyên chở".
Thư yêu cầu "mật thiết liên lạc với phái tả Pháp", nhằm tạo lực lượng hỗ trợ cuộc kháng chiến của Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 156.
NGÀY 18 VÀ NGÀY 19-12
Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc
Tiếp theo những hành động lấn chiếm trái phép của thực dân Pháp ở Hải Phòng và Lạng Sơn, liên tiếp từ ngày 6 đến ngày 15-12-1946, chúng liên tiếp khiêu khích ở nhiều địa phương miền Bắc, đồng thời tăng quân trái phép ở Hải Phòng, Đà Nẵng, Hải Dương... Đặc biệt nghiêm trọng là trong các ngày từ ngày 15 đến ngày 19-12-1946, thực dân Pháp liên tiếp khiêu khích ta ở Thủ đô Hà Nội, làm chết nhiều thường dân, chiến sĩ công an và bộ đội ta. Ngày 17- 12, chúng gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh. Trong hai ngày 18, 19-12, chúng liên tiếp gửi cho ta ba tối hậu thư với nội dung: đòi chiếm Sở Tài chính và nhà viên Giám đốc Sở Giao thông ở đường Pátxkiê (đường Điện Biên Phủ hiện nay), đòi ta phá dỡ công sự và chướng ngại vật trên đường phố (trưa 18-12), đòi làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội (chiều 18-12), đòi tước vũ khí tự vệ, đòi ta đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, để chúng giữ trật tự trong thành phố, cho thời hạn 48 tiếng đồng hồ (sáng 19-12). Nếu ta không chấp nhận điều kiện của tối hậu thư, quân Pháp sẽ tự do hành động.
Trước tình hình đó, trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của đồng chí Hồ Chí Minh.
Phân tích những hoạt động của thực dân Pháp trong hai tháng cuối năm 1946, đặc biệt là những ngày cuối, Trung ương Đảng đã nhận định: âm mưu của thực dân Pháp mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam đã chuyển sang một bước mới. Thời kỳ hoà hoãn đã qua. Chúng ta đã nhân nhượng để giữ hoà bình, nhưng ta càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới. Nhân dân ta quyết không thể trở lại cuộc đời nô lệ một lần nữa. Cuộc kháng chiến sẽ lâu dài và gian khổ, song nhất định thắng lợi.
Hội nghị quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên quy mô cả nước, vạch ra những vấn đề cơ bản về dường lối kháng chiến: Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng, chiều ngày 19-12-1946, mật lệnh Tổng tiến công vào lúc 20 giờ ngày 19-12 được chuyển tới các chiến khu, đơn vị. Tiếp đó, đúng 8 giờ tối ngày 19-12-1946, Bộ trưởng Quốc phòng -Tổng Chỉ huy ra mật lệnh chiến đấu qua làn sóng điện của Đài Tiếng nói Việt Nam: "Tổ quốc lâm nguy!
Giờ chiến đấu đã đến!
Theo Chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Quốc phòng - Tổng Chỉ huy, tôi hạ lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung - Nam - Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước".
Cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 168-169.
NGÀY 19-12
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Người chỉ rõ, chúng ta đã nhân nhượng để giữ hoà bình, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết cướp nước ta một lần nữa. Người kêu gọi: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước".
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiên đoán thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp:
“Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 480.
THÁNG 12
Trung ương Đảng gửi thư cho các đồng chí Nam Bộ
Cuộc chiến tranh toàn quốc đang tới gần. Thư của Trung ương Đảng gửi các đồng chí Nam Bộ nêu rõ âm mưu của thực dân Pháp là biến Nam Bộ thành căn cứ có thể khai thác nhân lực, vật lực, tài lực để đánh ra toàn Việt Nam và Đông Dương.
Để phá âm mưu đó, Trung ương Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác phá hoại bất hợp tác ở Nam Bộ. Thư nêu rõ: "công tác phá hoại, bất hợp tác về mọi phương diện là công tác chánh", một công tác không chỉ của lực lượng vũ trang mà còn của toàn dân. Thư viết: "phải hợp tác công tác xung phong cảm tử với quảng đại quần chúng bằng phương pháp lãn công, đình công, đòi quyền lợi kinh tế trong các công xưởng, các sở với những hình thức tranh đấu chính trị chung, tẩy chay chính phủ bù nhìn, đòi các quyền tự do dân chủ, chống khủng bố...kết hợp những cuộc tranh đấu không bạo lực với các cuộc chiến đấu bằng lực lượng võ khí” lực lượng vũ trang phải bảo vệ nhân dân, đồng thời tiêu diệt Việt gian.
Mặc dù địch đánh chiếm Nam Bộ, song chính quyền cách mạng vẫn tồn tại. Thư yêu cầu các đồng chí ở Nam Bộ giữ vững chính quyền cách mạng: "Một điều đáng chú ý là luôn luôn bảo vệ và xây đắp chính quyền chúng ta khắp thôn quê, thành thị, phải có những cơ quan hành chính bí mật hay công khai, bao giờ cũng tiêu biểu chính quyền của ta vẫn có ở Nam Bộ”.
Thư nhắc nhở các đồng chí ở Nam Bộ phải đoàn kết tôn giáo (gồm Công giáo, Cao đài, Hoà hảo); chú trọng công tác binh vận, đề phòng các đảng phái Đệ Tứ, Việt Quốc, Đại Việt, đồng thời quan hệ chặt chẽ với Đảng Dân chủ và các đảng phái khác.
Thư yêu cầu Đảng bộ Nam Bộ phải thống nhất: "Muốn thực hành những nhiệm vụ này, Đảng ta cần phải mạnh và thống nhất. Không có một Đảng thống nhất và mạnh mẽ không thể đương đầu với tình thế hiện tại được. Thống nhất... củng cố Đảng, phát triển Đảng thành một đảng quần chúng đủ oai quyền đầy đủ năng lực lãnh đạo là điều kiện cốt yếu để kháng chiến kiến quốc".
Cuối cùng, Trung ương Đảng mong mỏi các đồng chí Nam Bộ "nỗ lực chiến đấu để làm tròn nhiệm vụ người cộng sản".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 162-164.
CUỐI NĂM 1946
Xúc tiến mạnh mẽ xây dựng các lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho kháng chiến toàn quốc
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Quân sự toàn quốc tháng 10-1946, việc xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân được xúc tiến mạnh mẽ.
Vệ quốc quân chính thức trở thành Quân đội quốc gia Việt Nam tử ngày 22-5-1946, nay đã phát triển lên tới 82.000 người, được biên chế thống nhất theo từng trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội. Nam Bộ có 25 chi đội, Bắc Bộ và Trung Bộ có hơn 40 trung đoàn và tiểu đoàn độc lập. Đơn vị pháo binh đầu tiên (được thành lập ngày 29-6-1946) được củng cố, sẵn sàng chiến đấu. Các Cục Công binh, Quân y, Quân chính, Quân huấn, chế tạo quân giới, Quân nhu được tăng cường. Quân giới đẩy mạnh sản xuất đạn, lựu đạn, bom ba càng, sửa chữa các loại súng hư hỏng. Tháng 11-1946, Bộ Quốc phòng thực hiện cấp sinh hoạt phí cho bộ đội.
Công tác phát triển Đảng trong quân đội được tiến hành tích cực. Đảng tiếp tục điều thêm cán bộ của Đảng vào quân đội. Toàn quân đã có gần 8.000 đảng viên chính thức và dự bị. Hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội được thành lập từ Trung ương Quân uỷ đến chi bộ. Chế độ chính trị viên cùng đội trưởng phụ trách đơn vị được thực hiện trong toàn quân. Hệ thống cơ quan công tác chính trị được xây dựng ở các cấp. Hệ thống tổ chức Đảng, chế độ là những cơ cấu bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng đối với quân đội.
Hàng nghìn cán bộ, quân sự, chính trị được đào tạo, kịp thời bổ sung cho các đơn vị chủ lực.
Lực lượng tự vệ được tổ chức rộng rãi, nhất là ở các thành phố, thị xã có quân Pháp đóng, được tăng thêm vũ khí. Số quân tự vệ lên tới gần 1 triệu người.
Công tác huấn luyện quân sự trong các đơn vị chủ lực, tự vệ được xúc tiến mạnh mẽ.
Cả nước chia thành 12 khu hành chính - quân sự, thuận tiện cho việc chỉ đạo chiến tranh. Các căn cứ địa, nhất là Việt Bắc, được củng cố. Cơ sở vật chất kỹ thuật chuyển dần về các căn cứ địa. Ở Nam Bộ, các vùng giải phóng chiếm phần lớn nông thôn, các căn cứ lớn nhỏ hình thành Hà Nội và các thành phố khác tích cực chuẩn bị cho kháng chiến.
Cả nước đều sẵn sàng đối phó với giặc, không khí kháng chiến tràn ngập khắp nơi.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr. 166-174.
- Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 149-154.
CUỐI NĂM
Thành lập các chiến khu
Theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuối năm 1946, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lực lượng vũ trang tại một số chiến khu như sau:
- Chiến khu l: gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phúc Yên. Lực lượng vũ trang có Trung đoàn 22 (Thái Nguyên - Phúc Yên), Trung đoàn 23 (Bắc Kạn), Trung đoàn 24 (Cao Bằng).
- Chiến khu 2: gồm các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu. Lực lượng vũ trang có Trung đoàn 35 (Sơn Tây), Trung đoàn 37 (Hà Đông), Trung đoàn 39 (Sơn La), Trung đoàn 33 (Nam Định).
- Chiến khu 3: gồm các tỉnh Hải Kiến, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Yên10. Lực lượng vũ trang có Trung đoàn 41 (Thái Bình -Kiến An), Trung đoàn 44 (Hải Dương - Hưng Yên), Trung đoàn 50 (Quảng Yên).
- Chiến khu 4: gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Lực lượng vũ trang có Trung đoàn 55 (Thanh Hoá), Trung đoàn 59 (Nghệ An), Trung đoàn 63 (Hà Tĩnh), Trung đoàn 57 (Quảng Trị), Trung đoàn 71 (Thừa Thiên), hai tiểu đoàn 70 (Quảng Bình) và 75 (Cửa Lò).
- Chiến khu 5: gồm các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Công Tum, Gia Lai. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn: 67, 93, 94, 95, 96.
- Chiến khu 6: gồm các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng. Lực lượng vũ trang có các trung đoàn: 79, 80, 81, 82.
- Chiến khu 7: gồm các tỉnh, thành phố Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn, Sài Gòn.
- Chiến khu 8: gồm các tỉnh Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre.
- Chiến khu 9: gồm các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá.
- Chiến khu 10: gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên. Lực lượng vũ trang có Trung đoàn 76 (Việt Trì, Phú Thọ), Trung đoàn 81 (Vĩnh Yên), Trung đoàn 86 (Hà Giang - Tuyên Quang). Trung đoàn 91 (Lao Cai) và Tiểu đoàn 420 (Phú Thọ).
- Chiến khu 11: thành phố Hà Nội. Lực lượng vũ trang có các tiểu đoàn: 145, 523, 77, 101, 212.
- Chiến khu 12: gồm các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Ninh. Lực lượng vũ trang có Trung đoàn 125 (Lạng Sơn), Trung đoàn 118 (Bắc Ninh - Bắc Giang), Trung đoàn 132 (Chũ) và hai tiểu đoàn 515, 517.
Mỗi khu có Khu uỷ và Uỷ ban kháng chiến.
Ở Nam Bộ, các chiến khu 7, 8, 9 vẫn giữ tổ chức các chi đội Vệ quốc đoàn.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lich sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 1, tr. 173.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. I, tr. 159.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 44-46.
- Hội đồng Chỉ đạo biên soạn công trình Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng: Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng 1945-1955, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 99.
CUỐI NĂM 1946
Chính quyền cách mạng được lập lại ở 1.100 xã Nam Bộ
Sau khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết, nông dân miền Nam đã nổi dậy, làm tan rã từng mảng lớn hội tề. Đến cuối năm 1946, chính quyền cách mạng được lập lại ở 1.100 xã/1.200 xã nông thôn Nam Bộ, vùng giải phóng được mở rộng, căn cứ kháng chiến được hình thành và củng cố, nông dân tích cực sản xuất và tự vũ trang.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trrị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 169.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 1, tr. 166.
CUỐI NĂM 1946
Lực lượng công an chuẩn bị kháng chiến
Cuối năm 1946, trước khi cuộc kháng chiến toàn quốc nổ ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng công an chuẩn bị các địa bàn bí mật và an toàn di chuyển các cơ quan đầu não... ra ngoại thành Hà Nội; chuyển mọi hoạt động của các cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước vào bí mật.
Lực lượng công an được tăng cường, củng cố về tổ chức, bổ sung bộ phận trinh sát, bổ sung cán bộ, đảng viên; lấy chi bộ làm hạt nhân lãnh đạo. Tới tháng 11-1946, các sở ty công an đã có chi bộ hoặc tổ Đảng. Số người trung lập, có liên quan đến Đại Việt, hoặc Quốc dân Đảng từng bước chuyển khỏi ngành công an. Ngành quy định nhiệm vụ khi chiến tranh xảy ra, xây dựng cơ sở bí mật trong cán bộ và nhân dân, bố trí công an nằm vùng.
Ở Hà Nội, Nha Công an phiên chế 400 cán bộ trinh sát của Nha và Hà Nội thành 17 đội, phụ trách 17 khu vực trong thành phố.
Hầu hết các tỉnh thành lập Đội Công an xung phong; Hồ sơ tài liệu được chuyển dần đến nơi an toàn.
Công an đẩy mạnh trấn áp những phần tử xét nguy hại tới kháng chiến; tiêu diệt Trương Tử Anh thủ lĩnh Đại Việt; diệt tổ chức Bàn tay máu của Việt Quốc, cảnh cáo bọn đội lốt tôn giáo chống cách mạng.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân Hà Nội, 1994, tr 95-96.
- Bộ Nội vụ - Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr 110-112.
______________________
1,2. Bộ Giao thông công chính và Bộ Canh nông để dành cho đại diện Nam Bộ. Song vì đại biểu Nam Bộ chưa ra họp được, nên các đảng phái thỏa thuận để Trần Đăng Khoa và Bồ Xuân Luật quản lý hai bộ đó.
3. Các sách cho ngày bắt đầu Hội nghị trù bị là ngày 17-4-1946, ngày kết thúc Hội nghị là ngày 10-5-1946 hoặc ngày 12-5-1946.
4. Thành phần Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bao gồm: Nguyễn Tường Tam, Võ Nguyên Giáp, Trịnh Văn Bính, Cù Huy Cận, Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền, Vũ Hồng Khanh, Trần Đăng Khoa, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Luyện, Phạm Ngọc Thạch, Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường và các cố vấn: Tạ Quang Bửu, Kha Vạng Cân, Kiều Quang Cung, Đinh Văn Hớn, Phạm Khắc Hòe, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Liên, Phạm Văn Phác, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Tường Thụy, Hồ Hữu Tường.
5. Nay thuộc Hà Nội.
6. “V.M cũ”, “V.M mới”: “Việt Minh cũ”, “Việt Minh mới”.
7. T.Ư: Trung ương (BT.).
8. Đoàn viên có: Phan Anh, Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Bửu Hội, Huỳnh Thiện Lộc, Dương Bạch Mai, Chu Bá Phượng, Đặng Phúc Thông, Phạm Khắc Hoè, Hoàng Minh Giám. Chuyên viên có: Nguyễn Đệ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọng Khánh, Hồ Đắc Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Đắc Khê.
9. Phô trương hình thức.
10. Một thời gian sau thì tỉnh Quảng Yên (bao gồm cả Hòn Gai), các huyện Đông Triều, Chí Linh của tỉnh Hải Dương tách khỏi Chiến khu 3 nhập vào Chiến khu 12.
Năm 1947 ĐẦU NĂM
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cuộc đưa đón đồng bào tản cư ra khỏi vùng có chiến sự
Kiên quyết không sống chung với thực dân Pháp, hàng chục vạn đồng bào ở các vùng có chiến sự, nhất là ở thành phố, thị xã tản cư ra vùng tự do với tâm niệm tản cư cũng là kháng chiến.
Việc đưa đón đồng bào tản cư ra khỏi vùng có chiến sự là một công việc quan trọng để chuyển đất nước vào chiến tranh. Uỷ ban tản cư các cấp được thành lập đầu năm 1947.
Ngày 17-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào tản cư, khẳng định "tản cư cũng là kháng chiến", "các đồng bào tản cư cam chịu linh đinh cực khổ, chứ không chịu đội trời chung với quân thù”, "hy sinh cửa nhà, của cải, kiên quyết tản cư", "Chính phủ và đồng bào hậu phương không thể để các đồng bào tản cư bị lưu ly cực khổ,… tìm mọi cách đặng sắp xếp cho các đồng bào có nơi ăn, chỗ ở, việc làm". Người căn dặn "mỗi người phải làm một việc, không nên một ai ăn rỗi, ngồi không”, "phải đoàn kết chặt chẽ", vì "đoàn kết là sức kháng chiến".
Ngày 10-3-1947, Người lại chỉ thị cho Bộ Nội vụ cử người về các địa phương, kể cả vùng mới bị địch chiếm đóng, để có biện pháp cụ thể khắc phục những thiếu sót trong việc đưa đón đồng bào tản cư, "Vô luận thế nào, các Uỷ ban hành chính không được bỏ dân bơ vơ".
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 30-SL ngày 17-3-1947, cử Bộ trưởng Bộ Lao động đặc nhiệm tản cư và di dân, Sắc lệnh số 32b-SL ngày 19-3-1947 ấn định quỹ Tản cư, di cư toàn quốc do Bộ trưởng Bộ Lao động sử dụng.
Lúc đầu, do không có kinh nghiệm, không dự kiến hết số lượng người tản cư, di cư và tình hình diễn biến của chiến sự cho nên Uỷ ban tản cư các cấp có nhiều lúng túng. Không ít đồng bào tản cư, di cư gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Sang tháng 4-1947, việc đưa đón đồng bào tản cư, di cư đi vào nền nếp, Uỷ ban tản cư các cấp hoạt động có hiệu quả, đồng bào tản cư, di cư nhanh chóng hoà nhập với nhân dân địa phương, đoàn kết sản xuất, ổn định đời sống.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.5, tr.49-50, 90, 735.
ĐẦU NĂM
Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo cuộc phá hoại cản bước tiến của quân Pháp
Từ đầu tháng 12-1946, trên báo Sự thật, số 66 và 67, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đề ra chủ trương “tiêu thổ kháng chiến" ở thành thị, làm “vườn không nhà trống” ở nông thôn, coi “phá hoại là một bộ phận quan trọng của chiến thuật du kích" và "công tác phá hoại phải được chỉ huy theo kế hoạch chung”.
Tiếp đó, trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 12-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã coi công tác "phá hoại" là "cách đánh" "làm cho địch đói, khát, què, mù, điếc, câm, tiêu hao, mệt mỏi, chán nản. Công tác phá hoại đã được khẳng định lại trong Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất từ ngày 12 đến ngày 16-l-1947.
Ngày 16-l-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến. Người chỉ rõ: “Vì ta không chịu làm trâu ngựa cho Pháp...cho nên ta phải đánh bọn thực dân Pháp.
Đánh thì phải phá hoại… để chặn Pháp lại, không cho chúng tiến lên, không cho chúng lợi dụng.
Các chiến sĩ ở trước mặt trận hy sinh xương máu cho Tổ quốc, họ còn không tiếc. Không lẽ đồng bào ta lại tiếc một đoạn đường, một cái cống, hoặc một ngôi nhà, mà để bọn Pháp lợi dụng, đặng đánh Tổ quốc ta.
Đồng bào đều là người ái quốc, chắc không ai nỡ lòng như thế”.
Người kêu gọi: "mọi người đều ra sức giúp phá. Phá cho rộng, phá cho sâu, phá sao cho bọn Pháp không lợi dụng được. Một nhát cuốc của đồng bào, cũng như một viên đạn của chiến sĩ bắn vào quân địch vậy".
Người nói: "Tôi lại trân trọng hứa với đồng bào rằng: kháng chiến thắng lợi rồi, tôi sẽ ra sức cùng đồng bào sửa sang tu bổ lại hết. Chúng ta sẽ làm những đường sá cầu cống khéo hơn, những nhà cửa tốt hơn, và xứng đáng một dân tộc tự do độc lập hơn".
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, theo lời kêu gọi của Người, quân và dân ta đã hăng hái tham gia cuộc phá hoại, đồng bào ta đã tự tay phá nhà mình, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống trên hướng địch có thể hành quân đánh chiếm, nhất là các trục đường lớn từ Hà Nội đi các tỉnh. Theo thống kê của Cục Công binh, trong những ngày kháng chiến toàn quốc, nhân dân ta đã phá hoại 1.060 km đường sắt, 5.840 km đường bộ, 30.500 cầu, cống, 59.100 nhà xưởng, 84 đầu máy và 868 toa xe lửa.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.25-26.
- Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Kinh tế học, Đặng Phong (Chủ biên): Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-1954, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, t.I, tr. 240.
ĐẦU NĂM
Thành lập Uỷ ban Mặt trận Việt Minh Nam Bộ
Dự lễ thành lập có đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Dân chủ, các Hội Cứu quốc (Công nhân, Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ), đại biểu các tôn giáo và các dân tộc. Đồng chí Hà Huy Giáp được bầu làm Chủ nhiệm, Trần Bạch Đằng làm Tổng thư ký. Tham gia Uỷ ban còn có ông Trần Chính (Thanh niên Cứu quốc), Nguyễn Thị Thập (Phụ nữ Cứu quốc), Nguyễn Thành Vinh (Nhân sĩ Công giáo), linh mục Nguyễn Bá Luật (Công giáo kháng chiến), hoà thượng Thích Minh Nguyệt (Phật giáo), Cao Triều Phát (Cao đài 12 phái thống nhất), Hoàng Xuân Nhị (trí thức), Vương Văn Lễ (Đảng Dân chủ Việt Nam).
- Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004, t.1, tr.546-547.
TỪ NGÀY 12 ĐẾN NGÀY 16-1
Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất
Ngày 12-l-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy triệu tập Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất tại Chương Mỹ (Hà Đông) để bàn về nhiệm vụ quân sự trước mắt thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc trực tiếp chỉ đạo Hội nghị. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng, đến dự và báo cáo về đường lối kháng chiến của Đảng.
Hội nghị nhận định: với viện binh đang kéo đến, thực dân Pháp sẽ mở "cuộc phản công và tiến công", "cố tình đi sâu vào chiến tranh", “hòng nuốt trôi nước ta".
Hội nghị quyết định: "Nhiệm vụ chính lúc này là bảo toàn chủ lực để kháng chiến lâu dài". Do đó phải "tránh mũi dùi chủ lực của địch để bảo toàn chủ lực và duy trì sức chiến đấu của bộ đội ta".
Phát động chiến tranh du kích, không cho địch phát triển vị trí và tiến quân mau lẹ.
Tập trung lực lượng tiêu diệt từng phần lẻ tẻ của địch, tiêu hao lực lượng địch, động viên cả nước, duy trì cuộc chiến tranh trường kỳ và tiêu hao cho tới khi giành được thắng lợi cuối cùng.
Hội nghị đề ra nhiệm vụ quân sự trước mắt là phát triển chiến tranh du kích rộng khắp với lối đánh tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, thực hiện phá hoại đường sá, cầu và nhà kiên cố, làm vườn không nhà trống nhằm cản bước tiến quân của địch và duy trì sức chiến đấu lâu dài của quân và dân ta.
Hội nghị ra thông báo kêu gọi nhân dân "sửa soạn về mọi phương diện để đối phó với cuộc tấn công mà bọn thực dân Pháp đang chuẩn bị gấp".
Hội nghị quyết định tặng danh hiệu Trung đoàn Thủ đô cho Trung đoàn Liên khu I (Hà Nội) đã chiến đấu dũng cảm và hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ tiêu hao và kìm chân địch trong thành phố.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.113-114.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.47.
NGÀY 27-1
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô
Cuộc chiến đấu dũng cảm của quân dân Thủ đô Hà Nội mà nòng cốt là Trung đoàn Thủ đô, đã kìm chân và tiêu hao quân Pháp. Nhân dân ta vô cùng khâm phục những gương hy sinh của các chiến sĩ cảm tử quân ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch.
Để cổ vũ tinh thần chiến đấu quên mình vì nước của các đội Cảm tử quân Thủ đô, ngày 27-1-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi các chiến sĩ Cảm tử quân Thủ đô. Bức thư có đoạn: "Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh1. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau...
Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng Chính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn luôn bên cạnh các em".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.35-36.
TỪ THÁNG 1 ĐẾN THÁNG 5
Tổng di chuyển cơ quan lãnh đạo kháng chiến lên An toàn khu ở Việt Bắc
Dự kiến tình hình chiến tranh sẽ xảy ra, ngay từ mùa thu 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ đạo xây dựng an toàn khu của cơ quan lãnh đạo Trung ương tại Chiến khu Việt Bắc. Từ đầu tháng 12-1946, đề phòng địch đánh úp, một số cơ quan lãnh đạo đã rời ra ngoại thành Hà Nội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Ban Thường vụ Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy vừa chỉ đạo chuẩn bị và thực hành chiến đấu ở các thành phố, thị xã, vừa theo dõi và chỉ đạo kế hoạch di chuyển cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Các cơ quan Trung ương Đảng, chính quyền, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy,... đã di chuyển dần theo hướng Hà Đông - Sơn Tây - Phú Thọ - Tuyên Quang - Bắc Kạn - Thái Nguyên.
Địch thường xuyên tung mạng lưới gián điệp và dùng các phương tiện trinh sát kỹ thuật để theo dõi từng chặng di chuyển của cơ quan lãnh đạo kháng chiến hòng tập kích, tiêu diệt. Nhưng hàng rào chính trị của nhân dân đã bảo đảm bí mật, an toàn cho cuộc tổng di chuyển cơ quan lãnh đạo kháng chiến.
Suốt thời gian di chuyển, việc chỉ đạo kháng chiến, chỉ huy các chiến trường không hề bị gián đoạn. Chẳng những thế, trong thời gian di chuyển, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy còn triệu tập hai Hội nghị Quân sự lần thứ nhất (l-1947) và lần thứ hai (3-1947), Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng (2-1947), Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ hai (4-1947), Hội nghị Dân quân du kích toàn quốc (5-1947) để chỉ đạo kịp thời công cuộc kháng chiến.
Đến tháng 5-1947, các cơ quan đầu não của Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy... đã ổn định nơi ở và làm việc tại các bản làng trên căn cứ địa Việt Bắc mà Trung tâm là khu tam giác Thái Nguyên - Bắc Kạn - Tuyên Quang.
- Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, Nxb.Quân đội nhân dân, Nxb. Thanh niên Hà Nội, 1995, tr.85-l19.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6-1996, tr.43-45.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3-1997, tr.45-48.
- Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9-1997, tr.50-52.
NGÀY 15-2
Hội nghị Chính trị viên toàn quân lần thứ nhất
Đầu năm 1947, sau khi được tăng thêm viện binh, nhất là khi đánh thông được đường 5 vào cuối tháng 1 để tăng viện cho mặt trận Hà Nội, thực dân Pháp đẩy mạnh tấn công trên các mặt trận; chiến sự diễn ra trên hầu hết 30 tỉnh thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ. Để bảo toàn chủ lực, sau khì kìm chân và tiêu hao nhiều sinh lực địch trong các thành phố, thị xã, các trục đường giao thông quan trọng, bộ đội ta tạm rút về nông thôn, tổ chức đánh du kích chuẩn bị cơ sở kháng chiến lâu dài.
Quân uỷ Trung ương đã triệu tập Hội nghị Chính trị viên toàn quân lần thứ nhất. Dự Hội nghị có các đồng chí trong Quân uỷ Trung ương, các đồng chí Chính trị viên khu và chính trị viên trung đoàn2. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân uỷ Trung ương và đồng chí Văn Tiến Dũng, Cục trưởng Cục Chính trị Bộ Quốc phòng, chủ trì Hội nghị. Thay mặt Quân uỷ Trung ương, đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc báo cáoChiến lược và chiến thuật.
Hội nghị đã phân tích bản chất phản động, ngoan cố, hiếu chiến và âm mưu thâm độc của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đồng thời chỉ rõ những đặc điểm cuộc kháng chiến của nhân dân ta và quy luật phát triển của chiến tranh để làm sáng tỏ thêm đường lối kháng chiến và phương châm chiến lược và chiến thuật quân sự của Đảng ta.
Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt, Hội nghị vạch rõ: "Tình hình quân sự đang diễn ra cái thế bộ đội ta có thể bị bao vây, tan rã hay tiêu diệt", vì vậy, nhiệm vụ công tác chính trị lúc này là : "Đề phòng bị bao vây và tan rã, rèn luyện bộ đội thành một bộ đội du kích, tổ chức thêm và chỉnh đốn dân quân". Nhiệm vụ của các đảng viên trong quân đội là: "dù trong trường hợp nào cũng phải nắm cho vững bộ đội, củng cố và mở rộng cơ sở Đảng, thi hành cho được nhiệm vụ quân sự”.
Hội nghị đã đề ra 10 nhiệm vụ của công tác chính trị trong quân đội và 12 điều kỷ luật dân vận cho toàn thể Vệ quốc quân, lấy "việc bộ đội ta đánh thắng và đi đâu đều được dân chúng hoan nghênh" làm tiêu chuẩn đánh giá mọi kế hoạch công tác chính trị.
Về chế độ công tác chính trị trong quân đội, Hội nghị chỉ rõ phải củng cố và kiện toàn các cơ quan công tác chính trị trong quân đội từ cấp khu, cấp trung đoàn xuống đến cấp trung đội và phải lấy công tác chính trị ở đại đội làm nội dung căn bản. Hội nghị đã định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của thủ trưởng chính trị trong các cấp trong quân đội.
Hội nghị quyết định cho ra báo Vệ quốc quân (tiền nhân của báo Quân đội nhân dân hiện nay).
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.211-212.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.258.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.49.
NGÀY 17-2
Trung đoàn Thủ đô rút an toàn ra khỏi Hà Nội
Sau trận đánh của Trung đoàn Thủ đô bảo vệ chợ Đồng Xuân ngày 14-2-1947, nhận thấy nhiệm vụ kìm chân địch, tiêu hao địch đã đạt yêu cầu, để bảo toàn lực lượng Bộ Tổng chỉ huy ra lệnh cho lực lượng vũ trang Liên khu 1 rút ra khỏi Hà Nội.
Kế hoạch rút lui được giữ bí mật tuyệt đối. Ta nghi binh, lừa địch tổ chức nhiều cuộc tiến công trong nội thành thu hút sự chú ý của địch.
8 giờ tối ngày 17-12-1947, một đêm tối trời và rét ngọt, Trung đoàn Thủ đô đông hơn 1.200 người với tất cả thương binh, bệnh binh, vũ khí từ Liên khu 1 vượt qua vòng vây dày đặc của quân thù, vượt qua sông Hồng, ngay sát các vị trí địch, rút ra ngoài một cách an toàn. Riêng Tiểu đội du kích Hồng Hà do đảng viên Nguyễn Ngọc Nại làm Tiểu đội trưởng, đã kiên cường đánh địch ở Bãi giữa, Phúc Xá để thu hút địch. Tiểu đội đã chiến đấu đến người cuối cùng để bảo vệ đội hình di chuyển nêu tấm gương sáng ngời "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.212-214.
NGÀY 19-2
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về hệ thống tổ chức của Đảng trong quân sự
Đến đầu năm 1947, hệ thống tổ chức của Đảng trong quân sự gần như một hệ thống độc lập, không gắn bó với các cấp bộ Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận thấy cách tổ chức và làm việc sai lầm ấy không đúng với nguyên tắc tổ chức của Đảng và còn đẻ ra nhiều tai hại: làm cho sự chỉ huy và hành động của Đảng không thống nhất, dễ sinh ra đầu óc biệt phái. Ngày 19-2-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết sửa đổi như sau:
“1. Trung ương Quân uỷ do Trung ương của Hội chỉ huy.
2. Quân khu uỷ do Xứ uỷ (nay là Khu uỷ) chỉ huy.
3. Trung đoàn uỷ hay Tiểu đoàn uỷ do Tỉnh uỷ chỉ huy.
4. Các cấp bộ trong bộ đội phải làm báo cáo hàng tháng gửi cho Trung ương Quân uỷ và đồng thời phải gửi cho cấp bộ Hội tương đương.
5. Các cấp bộ của Hội phải mật thiết liên lạc (khai hội thường lệ) với các cấp bộ Hội trong quân sự".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.165-166.
NGÀY 20-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm tỉnh Thanh Hoá
Trong hành trình lên căn cứ địa Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm tỉnh Thanh Hoá. Ngày 20-2-1947, Người gặp và nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hoá, sau đó gặp các đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá.
Trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt... nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được". Người căn dặn cán bộ phải học hỏi, cầu tiến bộ, siêng năng, tiết kiệm, thân ái với đồng chí mình, không nên kiêu ngạo, hiếu danh, hiếu vị, "Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm gương cho dân... muốn cho dân tin phải thanh khiết"; phải tuyệt đối trung thành với đoàn thể, phục tùng mệnh lệnh của đoàn thể, hy sinh tính mạng và quyền lợi cho đoàn thể khi cần, "Muốn giữ danh giá của đoàn thể phải giữ danh giá mình. Không được báo cáo láo", phóng đại thành tích, che giấu thất bại. Người khẳng định rằng cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi.
Trong bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Tỉnh Thanh Hoá... muốn trở thành một tỉnh kiểu mẫu, nhất định được, vì người đông, đất rộng, của nhiều, chỉ còn thiếu sự điều khiển sắp đặt”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ những việc cần làm của từng ngành văn hoá, quân sự, chính trị, kinh tế trong tỉnh: "Tỉnh Thanh Hoá phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì phải làm sao cho mọi mặt chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu”.
Ngày 21-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào thiểu số Thanh Hoá.
Sau chuyến thăm và làm việc tại Thanh Hoá, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những ý kiến chỉ đạo đối với lãnh đạo của tỉnh. Người chỉ rõ việc phấn đấu trở thành “Thanh Hoá kiểu mẫu” phải nhằm "mục đích: làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ, người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.54, 65.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.4, tr.46-47.
NGÀY 1-3
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư các đảng viên Bắc Bộ và Trung Bộ
Thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng, phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong tình thế chiến tranh, nhất là trong hoàn cảnh thực dân Pháp đang mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược, ngày 1-3-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư các đảng viên Bắc Bộ. Bức thư này được Người sửa đôi chỗ về câu chữ và bớt một phần về nội dung làm thư gửi các đảng viên Trung Bộ.
Trong hai bức thư gửi các đảng viên Bắc Bộ và Trung Bộ, Người căn dặn:
"l. Trong lúc dân tộc đang ở ngã tư đường, chết hay sống, mất hay còn, mỗi đồng chí và toàn cả Đoàn thể phải đem tất cả tinh thần và lực lượng ra để đưa toàn dân quay về một hướng, nhằm vào một mục đích đánh đuổi thực dân Pháp làm cho nước thống nhất và độc lập. Vì vậy mỗi một đồng chí và toàn cả Đoàn thể phải: Sáng suốt, khôn khéo, cẩn thận, kiên quyết, siêng năng, nhất trí.
2. Cuộc trường kỳ kháng chiến này tức là dân tộc cách mệnh đến trình độ cao. Trong lúc này tư tưởng và hành động của mỗi một đồng chí rất có quan hệ đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to; sai một ly đi một dặm".
Người căn dặn mọi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm như địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, óc quân phiệt quan liêu, óc hẹp hòi, ham chuộng hình thức, làm việc lối bàn giấy, vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm, ích kỷ, hủ hoá. Người vạch rõ những biểu hiện, nguyên nhân và tác hại của những khuyết điểm trên. Đồng thời, Người chỉ rõ: "Vẫn biết các đồng chí nói chung có nhiều ưu điểm như: nhẫn nại, chịu khó, tháo vát, nhiều sáng kiến. Đó là những tính rất quý báu. Nó làm căn bản cho những tính tốt khác phát triển. Nhưng… chưa đủ. Các đồng chí cần phải đem căn bản tốt đó mà kiên quyết khắc phục những khuyết điểm vừa kể trên thì chúng ta mới chắc đi đến thắng lợi hoàn toàn".
Người yêu cầu các đảng viên phải làm được những điều sau đây:
"Đoàn thể phải quân sự hoá, tư tưởng và hành động phải tuyệt đối nhất trí.. "; "Trong các cơ quan chỉ huy chọn người phải đích đáng, quyền hạn phải phân minh..."; "Phải giữ vững giao thông, liên lạc giữa các tỉnh, các khu, giữa Trung Bộ, Nam Bộ và Bắc Bộ".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.71-79.
NGÀY 4-3
Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi
Quán triệt tinh thần Chỉ thị Toàn dân kháng chiến ngày 12-12-1946 của Đảng, cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, Tổng Bí thư Trường Chinh viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật - Cơ quan ngôn luận Trung ương của Đảng từ số 70 (4-3-1947) đến số 81 (l-8-1947). Những bài báo này đã được Nhà xuất bản Sự thật xuất bản thành sách với nhan đề Kháng chiến nhất định thắng lợi nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến.
Trong tác phẩm này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đề ra các luận chứng và phát triển toàn bộ đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ nhất định thắng lợi của Đảng ta.
Tổng Bí thư vạch rõ kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, còn nhân dân Pháp là bạn của ta. Mục đích cuộc kháng chiến của nhân dân ta là độc lập và thống nhất thật sự. Để đạt mục đích đó, quân dân ta phải đạt được ba mục tiêu về quân sự: tiêu diệt sinh lực địch trên đất ta; đè bẹp ý chí xâm lược của địch; lấy lại toàn bộ đất nước.
Giành độc lập và thống nhất là mục đích của cuộc kháng chiến song cuộc kháng chiến chống Pháp là sự tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bằng hình thức chiến tranh. Bởi vậy, nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính sách ruộng đất vẫn phải đi đôi với nhiệm vụ chống đế quốc. Nhưng vì giải phóng dân tộc là yêu cầu cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độc lập dân tộc. Chủ trương của Đảng là thực hiện từng bước chính sách ruộng đất với nội dung cụ thể là tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia ruộng đất công, giảm tô và giảm tức tiến lên thực hiện cải cách ruộng đất.
Tác phẩm trình bày rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng, chiến tranh chính nghĩa, là "một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do độc lập, dân chủ và hoà bình".
Tác phẩm luận chứng rõ cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc kháng chiến toàn dân và toàn diện, lâu dài và gian khổ.
Về chính trị: đường lối kháng chiến của Đảng là đoàn kết toàn dân chống Pháp xâm lược trên cơ sở củng cố liên minh công nông trong mặt trận dân tộc thống nhất. Trên trường quốc tế, phải cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta chống lại thực dân Pháp và làm cho các lực lượng hoà bình và dân chủ trên thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc chiến tranh nhân dân, do nhân dân tiến hành. Do đó, phải làm cho toàn dân tham gia và phục vụ kháng chiến. Muốn vậy, phải làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, chăm lo cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng quyền dân chủ cho nhân dân đặng "dốc lực lượng của 25 triệu đồng bào vào cuộc chiến đấu”.
Để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến về chính trị, một mặt phải củng cố chính quyền nhân dân, tăng cường bộ máy kháng chiến, thống nhất quân, chính, dân, quân sự phải phục tùng chính trị; mặt khác, kiên quyết trấn áp bọn phản động, triệt mầm chia rẽ và phá hoại trong nhân dân, đào thải các phần tử phản bội phá hoại, cơ hội, ươn hèn quan liêu, quân phiệt, bè phái khỏi bộ máy kháng chiến.
Về quân sự: phương châm chiến lược chung của cuộc kháng chiến là đánh lâu dài, vừa đánh vừa giữ gìn, bồi dưỡng và phát triển lực lượng ta, chuyển yếu thành mạnh; đồng thời làm cho địch bị tiêu diệt và tiêu hao, mỏi mắt, chán nản, từ mạnh chuyển thành yếu và bị bại. Chiến thuật của chiến tranh nhân dân là tích cực tiến công, giải quyết mau trong từng trận. Vì vậy, du kích chiến là lối đánh phổ biến nhất trong toàn bộ cuộc kháng chiến và trong cả nước, dần dần vận động chiến được áp dụng nhiều hơn cho tới lúc chiếm ưu thế. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, và tổng phản công và trong quá trình kháng chiến có thể "có những cuộc đàm phán mới xen vào".
Để kháng chiến lâu dài, phải xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu gồm ba thứ quân: quân chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Để tiến hành chiến tranh nhân dân thì phải huy động toàn dân đánh giặc, phải có phương thức tác chiến thích hợp để động viên lực lượng toàn dân vào cuộc chiến đấu với địch ở bất cứ đâu.
Với kinh tế: một mặt, phá hoại kinh tế địch, không cho địch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"; mặt khác, xây dựng kinh tế ta theo hướng tự cung tự cấp về mọi mặt, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Chính sách kinh tế ta là nâng cao sức sản xuất đáp ứng nhu cầu của thời chiến "ăn no, mặc ấm, đánh khoẻ”, bước đầu xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã, coi trọng nông nghiệp và thủ công nghiệp, chú trọng công nghiệp quốc phòng, tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, giảm nhẹ sự đóng góp của dân, củng cố tiền tệ, giữ vững giá hàng,...
Về văn hoá: đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân và xâm lược của thực dân Pháp và xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng...
Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ rõ, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi nếu Đảng nắm vững chủ nghĩa Mác -Lênin và bám chắc lấy quần chúng nhân dân, phát huy khả năng của toàn dân. Đồng chí khẳng định: "Dưới tay lái tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Mình, con tàu Việt Nam với đoàn thuỷ thủ dũng cảm của nó, nhất định sẽ tránh được mọi đá ghềnh, vượt cơn sóng cả để cập bến vinh quang”.
- Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.6-144.
NGÀY 5-3
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Quốc hội và nhân dân Pháp về vấn đề Việt Nam
Được tin Quốc hội Pháp sắp họp để thảo luận về vấn đề Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi tới Quốc hội và nhân dân Pháp một bức thư nói rõ sự thật về vấn đề Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ: Bọn thực dân xâm lược Pháp và kẻ đại diện đầu tiên của nước Pháp ở Đông Dương là Tiơry Đácgiăngliơ đã xé bỏ Hiệp định Sơ bộ 6-3- 1946 và Tạm ước 14-9-1946, tiếp tục chiến tranh xâm lược ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, lập ra cái gọi là "Chính phủ Nam Kỳ và cái nước Cộng hoà Nam Kỳ giả hiệu”, đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và nhiều nơi khác..., "áp dụng một chính sách vũ lực, một chính sách xâm lăng, sau cùng đã có kết quả là đưa tới cuộc chiến tranh hiện tại”. Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu chống Nhật, bên cạnh nước Đồng minh trong khi thực dân Pháp đầu hàng Nhật trong cuộc thế chiến thứ hai. Nhân dân Việt Nam đã nhờ sức tranh đấu của mình mà giành lại được độc lập và lập nên nền dân chủ cộng hoà, muốn sống tự do và làm việc trong hoà bình, mong được hợp tác thân ái với dân tộc Pháp. Nhưng thực dân Pháp và kẻ đại diện cho nước Pháp ở Đông Dương đã gây ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, gieo rắc chồng chất đổ nát và tang tóc trên đất nước Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam muốn độc lập và thống nhất, cương quyết chịu mọi sự hy sinh để bảo vệ những nguyện vọng và quyền lợi của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Quốc hội và nhân dân Pháp, Chính phủ Pháp phải làm chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam vì "máu Pháp và Việt chảy đã nhiều”. Người viết: "Chúng tôi sẵn sàng lập lại hoà bình. Chỉ cần Quốc hội và nhân dân Pháp có một cử chỉ thân thiện".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.82-84.
NGÀY 20-3
Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thành tác phẩm Đời sống mới
Xuân Bính Tuất (1946), trong thư gửi phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
"Năm mới Bính tuất
Phụ nữ đồng bào
Phải gắng làm sao
Gây "đời sống mới"
…
Cần kiệm, liêm chính
Giữ được vẹn mười
Tức là những người
Sống Đời sống mới.
Theo Lời kêu gọi của Người, toàn dân ta dấy lên phong trào xây dựng đời sống mới. Cuộc vận động đời sống mới do Đảng lãnh đạo nhằm giáo dục tinh thần yêu nước, lòng căm thù bọn cướp nước và bọn bán nước, yêu lao động, yêu chính nghĩa và xây dựng đạo đức "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” được đồng bào nhiệt liệt hưởng ứng. Nhiều thói hư, tật xấu, phong tục, tập quán lạc hậu trong ma chay, cưới xin, lễ hội... và nạn cờ bạc, rượu chè, được xoá bỏ.
Để đẩy mạnh phong trào đời sống mới phục vụ công cuộc kháng chiến kiến quốc, với bút danh tác giả là Tân Sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đời sống mới. Tác phẩm này được hoàn thành ngày 20-3-1947, Uỷ ban Trung ương vận động Đời sống mới xuất bản trong năm. Trong Lời tựa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Trong lúc kháng chiến cứu quốc, chúng ta phải đồng thời kiến quốc. Thực hành đời sống mới là một điều cần kíp cho công cuộc cứu quốc và kiến quốc".
Dưới hình thức hỏi - đáp, cuốn sách trình bày một cách dễ hiểu, vắn tắt rõ ràng, đầy đủ, thiết thực những nội dung của đời sống mới và yêu cầu cụ thể đối với mỗi người, mỗi gia đình, từng giới và từng ngành trong việc thực hiện đời sống mới.
Tác phẩm Đời sống mới đã được in và phổ biến rộng rãi trong nhân dân cả nước.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.92-110.
TỪ CUỐI THÁNG 3 ĐẾN GIỮA NĂM 1948
Đảng và Nhà nước tăng cường công tác đối ngoại để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bè bạn trên thế giới
Song song với các mặt hoạt động lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng và Nhà nước ta chú trọng tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước bè bạn và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Ngày 22-3-1947, Đoàn đại biểu của Việt Nam đi dự Hội nghị Liên Á. Ngày 25-3-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Chủ tịch G.Nêru và các vị đại biểu dự Hội nghị Liên Á, nói rõ: “Nhân dân Việt Nam, bộ phận của đại gia đình châu Á, đang tranh đấu giành thống nhất và độc lập. Chúng tôi mong rằng tất cả các nước anh em ở châu Á hết lòng giúp chúng tôi". Tháng 4-1947, Việt Nam đặt cơ quan Đại diện của Chính phủ ở Thái Lan, và đầu năm 1948, đặt cơ quan Đại diện Chính phủ ở Diến Điện. Tháng 2-1948, Chính phủ cử một đoàn ngoại giao đi các nước Thái Lan, Diến Điện, Trung Quốc và Tiệp Khắc để tuyên truyền về cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Trước lúc đoàn lên đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn "đi đường, chân cứng, đá mềm, thuận buồm xuôi gió... khắc phục mọi sự gian nan để tranh lấy thắng lợi,… xứng đáng lòng tin cậy của anh em thanh niên, của đoàn thể và của đồng bào".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.114,384.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.363-391.
TỪ NGÀY 3 ĐẾN NGÀY 6-4
Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng lần thứ hai
Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng lần thứ hai diễn ra từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị.
Hội nghị nhận định: chiến tranh đã làm cho kinh tế nước ta đảo lộn, "đời sống nhân dân khó khăn, nhưng ai nấy đều hăng hái tham gia hay ủng hộ kháng chiến". Cuộc kháng chiến tuy gian khó nhưng có đủ căn cứ "làm cho ta rất tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng".
Hội nghị đề ra những chủ trương và chính sách của Đảng trong cuộc kháng chiến:
Về chính trị: củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, thực hiện chính sách toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài. Hoạt động của Đảng "phải nhằm vào mục đích thống nhất dân, được lòng dân, vì dân".
Về quân sự: chủ trương kháng chiến lâu dài, vừa đánh vừa bồi bổ lực lượng, "chuyển thế yếu của ta thành thế mạnh, chuyển thế mạnh của địch thành thế yếu”. Chiến thuật căn bản của ta là du kích vận động chiến; đó là cách đánh của toàn dân, chứ không chỉ riêng bộ đội, cho nên phải phát động phong trào dân quân và vũ trang toàn dân. Phải xây dựng hậu phương và các căn cứ địa kháng chiến, "nắm chắc thắng lợi bằng cách mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả ở sau lưng địch, trong ruột địch và tổ chức căn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng bằng”. Phải "áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi".
Về kinh tế: chủ trương đồng thời phá kinh tế địch và xây dựng kinh tế ta, vừa kháng chiến vừa kiến quốc và xây dựng nền kinh tế tự túc. Chỉ sản xuất những thứ cần cho mặt trận và đời sống của dân, chú trọng nhất là nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại rồi mới đến công nghiệp, trước hết là công nghiệp quân giới và khai thác...
Về văn hoá: động viên tất cả trí thức, văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, mở mang nền giáo dục kháng chiến, phát triển bình dân học vụ, tiếp tục vận động đời sống mới, vừa kháng chiến vừa dựng nên một nền văn hoá mới, hợp với trình độ của đông đảo quần chúng nhân dân.
Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cần kíp của Đảng:
Về quân sự: đối với bộ đội, phải nắm vững và rèn luyện bộ đội, thi hành thưởng phạt nghiêm minh, đề cao kỷ luật, kiên quyết tẩy trừ tệ hủ hoá, quân phiệt trong một vài cấp chỉ huy "làm cho bộ đội ta xứng đáng là đội quân cách mạng của nhân dân".
Kiên quyết chuyển sang du kích vận động chiến, chống thói quen đánh trận địa, hay phòng ngự theo lối trận địa, học cách phòng ngư theo lối vận động; dùng những đội du kích quấy nhiễu, dụ địch, đánh tỉa, dùng những đội quân đặc biệt luồn nhanh, sâu vào vùng địch, đánh chớp nhoáng rồi rút nhanh ra khỏi vùng địch, phối hợp dân quân du kích và quân chính quy cùng đánh địch, "dùng cách đánh vòng, đánh sau lưng, đánh bên hông quân địch".
Cấp tốc tổ chức, huấn luyện, vũ trang và lãnh đạo dân quân, phổ biến kinh nghiệm lập "làng kháng chiến", "hoá một phần bộ đội thành dân quân"...
Tổ chức căn cứ địa ở miền núi và đồng bằng; lập những đội công tác vũ trang, đội danh dự trừ gian, chuẩn bị tổ chức các "tiểu tổ bí mật" ở các căn cứ địa sát mặt trận..
Sản xuất cả vũ khí tối tân lẫn vũ khí thô sơ; phổ biến cho dân cách chế tạo vũ khí thô sơ...
Bộ đội phải tham gia sản xuất; tích trữ lúa, gạo, muối, thuốc ký ninh tại các kho bí mật và phân tán.
Về công tác chính quyền: Chính phủ Trung ương lãnh đạo thống nhất nhưng chính quyền địa phương được giao quyền rộng rãi; các Uỷ ban kháng chiến thống nhất và điều chỉnh việc lãnh đạo, mọi phương diện hoạt động của nhân dân trong thời kỳ kháng chiến, cần gạt bỏ những hiểu lầm hoặc xích mích giữa các cơ quan hành chính và Uỷ ban kháng chiến.
Về vấn đề ngoại giao: không bỏ lỡ cơ hội nào đàm phán nếu Pháp nhận Việt Nam độc lập và thống nhất, nhưng cần làm cho cán bộ và nhân dân hiểu rằng "chưa đánh đến hết giai đoạn thứ ba của cuộc trường kỳ kháng chiến, thì dù có dàn xếp cũng chưa thể giải quyết hẳn được sự xung đột giữa ta và thực dân Pháp"; "không được sơ hở để quân địch lợi dụng đàm phán hay đình chiến mà đánh úp ta"; tranh thủ sự đồng tình của nhân dân châu Á và thế giới đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam.
Về tài chính, kinh tế: Nhà nước bỏ tiền cho nông dân vay tín dụng để tăng gia sản xuất; tổ chức tiếp tế cho các nơi thiếu gạo, muối; kiểm soát ngoại thương vừa phải và hợp lý để nhà buôn khỏi oán...
Sản xuất trong chi tiêu; trữ tiền Đông Dương để dùng cho ngoại thương và vùng địch tạm chiếm; cổ động dân tiêu tiền Việt Nam; trừng trị bọn đầu cơ, buôn bán tiền để giữ vững giá bạc Việt Nam.
Hội nghị còn đề ra những nhiệm vụ cần kíp về di cư, tản cư, giáo dục, chống chính quyền bù nhìn, về dân vận...
Hội nghị đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng. Hội nghị chỉ rõ: "Tiếp tục phát triển đoàn thể theo khẩu hiệu làm cho đoàn thể thành một đoàn thể quần chúng. Nhưng phải tránh lối phát triển ô hợp. Đặc biệt chú trọng phát triển Đảng trong quân đội, dân quân trong các trại sản xuất, các xưởng mới lập trong kháng chiến toàn quốc, trong vùng địch tạm chiếm, ở Lào và Miên. Trung ương Đảng sẽ chọn và bổ sung một số uỷ viên Trung ương Đảng, chấn chỉnh các tiểu ban của Trung ương, các đảng đoàn trong Chính phủ và các hội quần chúng, quy định nguyên tắc làm việc giữa các cấp uỷ Đảng và các đảng đoàn. Hội nghị nhấn mạnh việc "Tẩy rửa các khuyết điểm sai lầm theo bức thư chỉ thị của Cụ3, nhất là ba bệnh lớn của cán bộ ta hiện nay: chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa cô độc, hẹp hòi, óc địa phương”.
Hội nghị kết luận: "Máu các chiến sĩ hy sinh vì nước đang chảy. Chúng ta có bổn phận báo thù cho họ, noi chí họ.
Bổn phận những người cộng sản chúng ta là phải dũng cảm đi đầu trong Mặt trận thống nhất dân tộc chống quân xâm lăng, giành thống nhất và độc lập cho Tổ quốc".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.8, tr.173-206.
TỪ THÁNG 4 ĐẾN CUỐI NĂM
Các địa phương đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa kháng chiến
Dự kiến thực dân Pháp sẽ quay lại xâm lược nước ta, trước khi về Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt việc tiếp tục xây dựng, tăng cường căn cứ địa Việt Bắc. Trong Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-ll-1945), Đảng ta đã đặt ra vấn đề chọn "những địa điểm chiến lược lợi hại: tiến có thể đánh, lùi có thể giữ" ở vùng chiến khu, từng tỉnh, từng huyện. Từ giữa năm 1946, việc xây dựng căn cứ địa Việt Bắc được tiến hành khẩn trương. Ở Nam Bộ, Chiến khu Đ ở Biên Hoà được xây dựng từ tháng 10-1945, các chiến khu U Minh, Đồng Tháp Mười xây dựng đầu năm 1946. Các căn cứ địa kháng chiến được xây dựng ở nhiều tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, nhất là từ khi có Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương tháng 4-1947, các khu, tỉnh, huyện và Trung ương đều tăng cường việc xây dựng, mở rộng, củng cố và phát triển các căn cứ kháng chiến. Căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn được xây dựng, phát triển trở thành nơi đặt các cơ quan lãnh đạo đầu não của Đảng, Nhà nước, Mặt trận, Quân đội, nơi đặt Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
Căn cứ địa Đồng Tháp Mười trở thành khu trung tâm đầu não kháng chiến Nam Bộ, nơi đứng chân của Xứ uỷ, Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, Sở Công an Nam Bộ, Đài phát thanh Tiếng nói Nam Bộ, các cơ quan quân sự, chính trị, các binh công xưởng.
Vùng tự do Khu IV bao gồm ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, vùng tự do Khu V bao gồm bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên trở thành căn cứ địa hậu phương kháng chiến của Tnmg Bộ và nước bạn Lào.
Nhiều căn cứ địa kháng chiến đã được xây dựng ngay trong vùng địch kiểm soát, kể cả ven đô các thành phố Hà Nội, Sài Gòn, Huế.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1979, t.II, tr.122-123.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.276-280.
NGÀY 11-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh hội kiến với Pôn Muýt
Ngày 25-4-1947, Chính phủ ta gửi cho Chính phủ Pháp một bức thư (do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng Minh Giám ký), đưa ra đề nghị đình chiến để mở cuộc đàm phán giảng hoà giữa hai nước Việt - Pháp.
Ngày 11-5-1947, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương Bôlae (Bollaert) phái người đại diện là Giáo sư sử học Pháp Pôn Muýt (Phút Mus) tới thị xã Thái Nguyên gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hoàng Minh Giám. Trong cuộc hội kiến này, phía Pháp công nhận Việt Nam thống nhất và độc lập nhưng lại đòi phía Việt Nam phải chịu bốn điều kiện: 1. Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho quân đội Pháp. 2 Quân đội Pháp được quyền tự do đi lại và đóng quân khắp đất nước Việt Nam. 3. Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người Pháp và người Việt thân Pháp đã bị phía Việt Nam bắt. 4. Chính phủ Việt Nam phải giao cho Pháp tất cả những người nước ngoài đã chạy sang phía Việt Nam. Tóm lại, Pháp đòi Việt Nam phải đầu hàng hòng thực hiện dã tâm xâm lược.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cự tuyệt những điều kiện của phía Pháp; cuộc hội kiến không mang lại kết quả.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.207-213.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.126-127.
NGÀY 15-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cho phép lưu hành trong toàn quốc một số loại giấy bạc
Phục vụ cho nhu cầu của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, ngày 15-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 48-SL cho phép lưu hành trong toàn quốc các loại giấy bạc lđ, 5đ, 10đ, 20đ, 50đ, l00đ, 500đ.
Tiếp đó, do yêu cầu của từng miền, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các Sắc lệnh số 231-SL/M ngày 18-7-1947 cho phép phát hành tại Nam Trung Bộ các loại tín phiếu lđ, 5đ, 10đ, 20đ, 50đ, 100đ, 500đ có giá trị như giấy bạc Việt Nam với tổng số giá trị không quá một trăm triệu đồng; Sắc lệnh số 67-SL ngày 26-7-1947 cho phép Uỷ ban hành chính Nam Bộ phát hành công trái lần thứ hai để lấy tiền chi dùng trong khu vực Nam Bộ và ấn định số tiền vay nhiều nhất là năm triệu đồng, phát hành 5 kỳ, lãi suất không quá 5%. Ngày 1-11-1947, Chính phủ cho phép Nam Bộ phát hành giấy bạc riêng cho Nam Bộ (chủ yếu là Tây Nam Bộ).
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 7, tháng 5-1947.
NGÀY 16-5
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ nhất
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng (tháng 4-1947), Nha Công an tổ chức Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ nhất tại Tuyên Quang vào ngày 16-5-1947. Hội nghị có 15 đại biểu tham dự do đồng chí Tổng Giám đốc Nha Công an chủ trì. Do tình hình chiến sự, các đại biểu Khu II và các địa phương từ Khu IV trở vào không đến dự Hội nghị được.
Sau khi nhận xét, đánh giá tình hình, Hội nghị xác định nhiệm vụ của công an trong thời gian tới là: tiễu phỉ, trừ gian, nắm tình hình địch; kiểm soát nội bộ; có chính sách với Công giáo và dân tộc; lập đội danh dự trừ gian tổ chức mạng lưới giao thông, xây dựng tổ chức công an; cấp giấy thông hành và bảo vệ mùa màng cho nhân dân.
Hội nghị đề ra những công tác cụ thể:
Đối với Việt gian, do thám, phải thận trọng, "tránh bắt bừa, bắt ẩu” và cần có sự phân biệt các hạng Việt gian, đáng chú ý là bọn đặc vụ Tưởng và thổ phỉ.
Về xây dựng cơ sở trong vùng địch, phải chú trọng những trí thức, nhất là những nhân sĩ đã tham gia Chính phủ, có cảm tình với cách mạng để họ nắm tình hình và cung cấp tin tức cho ta.
Về lập đội danh dự trừ gian và công an xung phong trong vùng địch, công an phải trở lại vùng địch để gây cơ sở cho các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể về hoạt động, lập các đội công an xung phong vũ trang tuyên truyền để áp đảo bọn bù nhìn tay sai, gây cơ sở giao thông liên lạc, lượm tin, trừ Việt gian, diệt bọn địch đi lẻ tẻ để lấy tài liệu.
Về công tác kiểm soát nội bộ, đề phòng địch đưa người vào các cơ quan ta.
Về chính sách tôn giáo và dân tộc, phải đẩy mạnh công tác nắm tình hình các vùng Công giáo và vùng dân tộc thiểu số, cần phải kiên quyết hơn đối với số linh mục phản động.
Về tổ chức ngành công an, bỏ cấp Sở Công an Bắc Bộ và Sở Công an Trung Bộ, lập các cơ quan công an khu, ty, quận… để phù hợp với thời chiến, làm cho công an gần dân hơn; cần tăng cường biên chế cho cơ quan công an ở Nha và Khu để có đủ người làm việc.
Đối với nhân dân, cần quy định sự đi lại của dân để tránh lộn xộn và tập trung vào việc sản xuất; công an phải giúp dân bảo vệ đê điều và mùa màng.
Hội nghị còn định ra một số công tác khác: Nha và các Ty công an phải mở các lớp huấn luyện cho công an viên; áp dụng các biện pháp kết hợp giáo dục với răn đe những đối tượng mà địch có thể lợi dụng lập chính quyền bù nhìn ở các cấp; đánh lạc hướng tin tức địch thu được,...
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 117-119.
NGÀY 22-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về những âm mưu và hành động xâm lược của thực dân Pháp
Tiếp theo việc Pôn Muýt, đại diện của Cao uỷ Pháp ở Đông Dương Bôlae đưa ra những điều kiện "bắt ta đầu hàng nhục nhã mà nuốt chửng cái bánh vẽ độc lập và thống nhất giả hiệu”, thực dân Pháp xúc tiến việc lập ra cái gọi là Mặt trận liên hiệp quốc gia (Front d’ union nationale) để tiến tới lập chính phủ bù nhìn.
Trước động thái mới của quân xâm lược, ngày 22-5-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị gửi cho toàn Đảng vạch trần dã tâm và thái độ của Pháp, nêu rõ lập trường "kháng chiến đến toàn thắng” của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta, chỉ ra những biện pháp chống âm mưu và hành động mới của thực dân Pháp.
Chỉ thị nêu rõ: "Chỉ có Chính phủ Hồ Chí Minh là Chính phủ duy nhất hợp pháp của nước Việt Nam,... mới có quyền ngoại giao với Pháp hoặc với một nước ngoài nào khác. Kẻ nào mạo nhận là thay mặt dân, đứng ra đàm phán với Pháp đều bị quốc dân coi là Việt gian, bị Chính phủ xử vào tội phản quốc, thông mưu với giặc và sẽ bị trừng trị theo pháp luật... Pháp muốn giải quyết vấn đề Việt Nam thì chỉ có một cách là thẳng thắn mở cuộc đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh và công nhận Việt Nam thống nhất và độc lập thực sự trong khối Liên hiệp Pháp".
Chỉ thị đề ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng là phải vạch rõ mưu gian thâm độc của thực dân Pháp trước nhân dân Việt Nam, trước dư luận nhân dân Pháp và thế giới, đồng thời tạo nên một phong trào sâu rộng chống bọn phản động Pháp là bọn bù nhìn, ủng hộ kháng chiến, ủng hộ Chính phủ bằng những hình thức sau:
- Toàn quân và toàn dân đánh địch mạnh mẽ hơn để "dùng hành động quân sự mà trả lời cho thực dân Pháp rằng mưu gian của chúng không lừa được quân và dân Việt Nam".
- Tổ chức các cuộc mít tinh vạch trần mưu gian của Pháp, tỏ thái độ kiên quyết chống bọn phản động Pháp và mọi hạng bù nhìn, kiến nghị Chính phủ và Mặt trận kiên quyết đối phó với chúng.
- Các đoàn thể yêu nước khai hội gửi điện cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ bày tỏ thái độ hoàn toàn ủng hộ; cho các tổ chức dân chủ ở Pháp yêu cầu kiên quyết can thiệp với Chính phủ Pháp bắt bọn phản động thuộc địa, bọn quân phiệt thực dân phải đình chỉ kế hoạch gian dối và đàm phán ngay với Chính phủ Hồ Chí Minh.
- Thực hiện các hình thức tuyên truyền (truyền đơn, áp phích, báo chí, diễn thuyết, đài phát thanh...), để nêu rõ lập trường kháng chiến của nhân dân ta, vạch mặt bọn xâm lược Pháp...
- Xiết chặt khối đại đoàn kết toàn dân làm nổi bật vai trò của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam trong cuộc vận động này.
Chỉ thị chỉ rõ: "muốn độc lập và thống nhất cho ra trò, phải đoàn kết nhất trí hơn nữa, kháng chiến kiên quyết hơn nữa. Tự do không xin mà được. Tự do phải chiến đấu mà giành lấy".
Tiếp theo Chỉ thị, cuối tháng 5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ sau cuộc hội kiến với Pôn Muýt, đại diện Cao uỷ Pháp Bôlae. Lời kêu gọi có đoạn: "Chúng ta quyết không chịu làm "vong quốc nô"... Mỗi quốc dân phải là một chiến sĩ. Mỗi làng phải là một chiến hào. Chúng ta phải kiên quyết hy sinh chiến đấu để đánh tan bọn quân phiệt thực dân, để tranh lấy thống nhất và độc lập".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.207-213.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.126-127.
NGÀY 24-5
Hội nghị Dân quân toàn quốc lần thứ nhất
Tháng 2-1947, Bộ Quốc phòng ra thông tư tổ chức mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi vào dân quân, quy định nhiệm vụ của dân quân tự vệ và nhiệm vụ của các đội du kích địa phương. Tháng 4-1947, Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng lần thứ hai đặt cho các cấp uỷ Đảng nhiệm vụ xúc tiến tổ chức, huấn luyện, vũ trang và lãnh đạo dân quân, hoá một phần bộ đội thành dân quân. Từ chỗ là những tổ chức vũ trang của quần chúng do Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể Cứu quốc xây dựng tại địa phương, dân quân tự vệ và du kích trở thành một bộ phận trong các lực lượng vũ trang của Nhà nước do cơ quan quân sự chỉ huy. Vai trò của dân quân du kích ngày càng trở nên quan trọng trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Ngày 24-5-1947, Hội nghị Dân quân toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập họp tại Việt Bắc. Dự Hội nghị có đông đủ cán bộ lãnh đạo và chỉ huy dân quân, tự vệ và du kích trong cả nước.
Hội nghị đã kiểm điểm về hoạt động của các lực lượng dân quân, tự vệ và du kích, rút ra những ưu, nhược điểm, chỉ rõ những thiếu sót để đẩy mạnh hơn nữa chiến tranh du kích, thực hiện toàn dân đánh giặc.
Hội nghị đã bàn việc thống nhất tổ chức dân quân, tự vệ và du kích trong cả nước, công bố 10 lời thề và 12 điều kỷ luật dân vận của dân quân, tự vệ và du kích.
Nhân dịp này, ngày 27-5-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nam nữ chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích toàn quốc. Người khen ngợi và đánh giá cao vai trò của lực lượng dân quân, tự vệ và du kích. Người viết: "Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã". Người căn dặn các chiến sĩ dân quân, tự vệ và du kích những điều cụ thể cần luôn ghi nhớ và thực hiện trong nội bộ đội ngũ, đối với dân, đối với công việc, đối với địch.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.173-206.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.132-133, 767.
- Bộ Quốc phòng: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.48-49.
NGÀY 25-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho anh em văn hoá và trí thức Nam Bộ
Trong thư, Người thay mặt Chính phủ cảm ơn sự ủng hộ của giới văn hoá và trí thức Nam Bộ.
Người nêu rõ: Chính phủ cùng toàn thể đồng bào Việt Nam kiên quyết chiến đấu, tranh quyền thống nhất và độc lập cho nước nhà để cho văn hoá cũng như chính trị và kinh tế, tín ngưỡng, đạo đức được phát triển tự do. Ngòi bút của các anh em văn hoá và trí thức Nam Bộ cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp kháng chiến. Đồng thời, Người căn dặn: nhân dân ta sẵn lòng thân thiện với nhân dân Pháp, nhưng cương quyết không chịu làm nô lệ cho thực dân phản động. Anh em văn hoá, trí thức là lớp hiểu biết trước, càng phải quyết tâm không chịu làm nô lệ.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.131.
NGÀY 8-6
Trung ương Đảng ra Chỉ thị đối với tờ Sự thật
Chỉ thị đề cao vai trò của tờ Sự thật "là một công cụ sắc bén để tuyên truyền cổ động: tuyên truyền chính sách và chủ nghĩa của đoàn thể cổ động toàn dân kháng chiến; tờ báo cũng là một lợi khí để giác ngộ nhân dân, đưa nhân dân vào tổ chức cách mệnh, bày vẽ công tác cách mạng cho hàng vạn cán bộ và đồng chí, cho hàng triệu nhân dân yêu nước.. muốn giác ngộ cho quần chúng nhân dân và huấn luyện cho đảng viên về lý luận và thực hành không thể không có tờ báo".
Chỉ thị vạch ra những "khuyết điểm" của tờ báo như: chưa phản ánh được sinh hoạt của đoàn thể; ít bàn về công tác; ít phê bình các sai lầm, khuyết điểm của các tổ chức, cơ quan; chưa có mục tranh luận giữa những điểm chống nhau; chưa có người ngoài đoàn thể bày tỏ ý kiến trên mặt báo.
Chỉ thị đưa ra những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên: Bộ biên tập ít người lại không được chuyên trách; các đồng chí phụ trách các ngành công tác trọng yếu không viết bài cho tờ báo; không có thông tin viên và đặc phái viên nằm ngay trong quần chúng; cấp trên chưa chú ý giúp đỡ mọi mặt; vì hoàn cảnh chiến tranh nên việc in báo phát hành chậm và thất thường.
Trên cơ sở đó, Chỉ thị đề ra nhiệm vụ của các đồng chí Trung ương đối với tờ Sự thật trong thời gian tiếp theo như: Ban tuyên truyền cổ động Trung ương phải chọn người vào Bộ biên tập cho tờ báo. Các đồng chí phụ trách các ngành công tác chính, bắt buộc phải viết bài gửi cho Sự thật. Mỗi khu ít nhất phải có một đồng chí trong khu uỷ làm thông tin viên, hay biên tập viên cho báo. Gắng cho báo ra đúng và đều mỗi tuần một kỳ. Tất cả các đồng chí đảng viên phải bắt buộc nghiên cứu Sự thật, thảo luận những bài quan trọng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.214-218.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 17-6
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng)
Sau 6 tháng kháng chiến toàn quốc, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng đề ra một số công tác trước mắt nhằm củng cố Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và kiện toàn bộ máy của Đảng ở các cấp, trong quân đội và chính quyền.
Hội nghị đã bàn và quyết định những nội dung chính như sau:
Về hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, ở toàn quân, lập Uỷ ban đảng vụ quân đội; ở khu và trung đoàn là Ban Đảng vụ khu và trung đoàn.
Hội nghị quyết định những vấn đề cấp bách khác:
- Tăng cường giao thông liên lạc cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ, chú ý mở đường hành lang cho việc này; chuẩn bị cử một phái đoàn của Trung ương gồm có đại biểu Đảng, quân sự, hành chính, vào Nam Trung Bộ và Nam Bộ...
- Lập Phân khu Bình - Trị - Thiên của Khu IV, chỉ định cán bộ phụ trách phân khu; phê phán nghiêm khắc cách làm việc và tinh thần kỷ luật kém, nặng óc địa phương và óc bản vị của các đồng chí phụ trách Khu IV. Chú trọng xây dựng căn cứ Thanh - Nghệ - Tĩnh và vùng Trấn Ninh.
- Trung ương nắm danh sách cán bộ Đảng từ cấp tỉnh trở lên và cán bộ quân sự từ trung đoàn trở lên,…
- Mở trường huấn luyện, đào tạo huấn luyện viên cho các tỉnh.
- Đặt trách nhiệm cho các cán bộ phụ trách các ngành, các khu phải viết bài cho báo Sự thật; cho ra tạp chí Sinh hoạt của Đoàn thể Nam Bộ và Trung Bộ ra Nội san.
- Kiện toàn cơ quan chỉ đạo điều động cán bộ cấp dưới tăng cường cho cấp trên, thi hành kỷ luật một số cán bộ do Trung ương quản lý.
Hội nghị cũng kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương (4-1947) trên các mặt: đạo đức của cán bộ, đảng viên, tăng gia sản xuất của bộ đội, huấn luyện cán bộ...
Nghị quyết của Hội nghị đã đáp ứng kịp thời yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.8, tr.219-224.
6 THÁNG ĐẦU NĂM
Di chuyển máy móc, nguyên vật liệu tới các căn cứ địa kháng chiến
Để bảo đảm cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến trường kỳ, tự lực cánh sinh, Đảng và Chính phủ chủ trương di chuyển máy móc, nguyên vật liệu từ các nơi đang xảy ra chiến sự và các vùng có thể xảy ra chiến sự đến các căn cứ địa kháng chiến của Trung ương, các khu và các tỉnh. Trong điều kiện không có phương tiện vận tải cơ giới, lại qua nhiều chặng đường bị phá hoại, bị địch bắn phá, qua đường rừng núi, việc vận chuyển gặp rất nhiều khó khăn. Được nhân dân tận tình giúp đỡ, với tinh thần dũng cảm, chịu đựng khó khăn, mưu trí, cán bộ, công nhân ta đã vận chuyển hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu tới các căn cứ địa. Đặc biệt là ta đã vận chuyển được 2.500 tấn máy móc từ Quảng Yên men theo vùng tự do lên Việt Bắc.
Những máy móc và nguyên vật liệu đó là cơ sở vật chất ban đầu để ta lập nên những công binh xưởng, những nhà máy sản xuất ra vũ khí, vải, giấy để đánh giặc và bảo đảm đời sống nhân dân trong kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu: Toàn quốc tự cấp tự túc, địa phương tự lập để kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Pháp, thắng lợi và bài học,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.103.
NGÀY 7-7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về cách kiểm thảo theo bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các đảng viên Bắc Bộ và Trung Bộ ngày 1-3-1947
Nhận thấy việc kiểm thảo theo bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "một việc khẩn thiết của tất cả các đồng chí trong Đảng”, song "nhiều nơi đã làm một cách chiếu lệ”, ngày 7-7-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc kiểm thảo. Chỉ thị đã vạch ra những điều chủ yếu sau đây:
Về ý nghĩa và mục đích bức thư, Chỉ thị nêu rõ: lãnh tụ Hồ Chí Minh mong muốn Đảng "ngày càng đoàn kết chặt chẽ và thêm mạnh mà để gánh vác nhiệm vụ lãnh đạo cuộc trường kỳ kháng chiến giành thống nhất độc lập cho dân tộc". Đồng thời, vì Hồ Chủ tịch đã nhận thấy những khuyết điểm về tư tưởng, hành động của các đ.c4 có thể làm cản trở bước tiến của đoàn thể, nên Người chỉ thị cho chúng ta biết cách sửa chữa để được xứng đáng là những người hội viên của Hội".
Về kế hoạch kiểm thảo, Chỉ thị nêu rõ:
Việc kiểm thảo cần theo các nguyên tắc: tất cả các cấp bộ từ chi bộ trở lên đều phải kiểm thảo; thời gian kiểm thảo kể từ ngày tổng khởi nghĩa đến tháng 7 năm 1947, kiểm thảo cấp mình đồng thời kiểm thảo cấp trên trực tiếp và cấp dưới trực tiếp; kiểm thảo cả những khuyết điểm mà bức thư chưa vạch ra; kiểm thảo phải căn cứ vào thời gian, không gian, chứ không được chỉ trích một cách vu vơ; luôn kiểm điểm mình, chứ không chỉ kiểm điểm một lần rồi thôi; phải ấn định thời gian gột rửa sai lầm.
Trước khi kiểm thảo, cần chuẩn bị đầy đủ: nghiên cứu kỹ bức thư rồi tự liên hệ tư tưởng và hành động của mình, tìm ra nguồn gốc sai lầm phải chuẩn bị đủ tài liệu về chủ trương và công tác của cấp uỷ và chi bộ để tiện xem xét.
Trong khi kiểm thảo, việc kiểm thảo tiến hành theo nguyên tắc "tự nhận định, tự giác theo tinh thần tự chỉ trích của hội chứ không lấy đa số quyết định", "chú ý tới những nguyên tắc chung, chứ đừng quá chú trọng về những sự vụn vặt”, “Hết sức tránh sự xoi mói có tính cách ghen ghét để gây thành ác cảm cá nhân”; vạch sai lầm của các đồng chí, đồng thời "phải tìm nguyên nhân và phương pháp bổ khuyết cho các đồng chí”, kiểm thảo từng cá nhân, đồng thời phải kiểm thảo cả chủ trương của cấp bộ.
Sau khi kiểm thảo, mỗi đồng chí phải cương quyết tẩy rửa sai lầm, phát huy ưu điểm, nhắc nhở nhau sửa chữa sai lầm.
Cuối Chỉ thị, Ban Thường vụ Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng: "Chúng ta là những người đã hy sinh tất cả cho sự nghiệp của dân tộc, của hội, thì chúng ta phải nâng cao tinh thần tự ngã chỉ trích. Kiểm thảo theo bức thư của Hồ Chủ tịch phải là việc học tập nghiên cứu hằng ngày trong mỗi đồng chí... để làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo giành thắng lợi cho dân tộc”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.225-228.
NGÀY 13-7
Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Về việc thi hành kế hoạch giúp đỡ đồng bào di cư, tản cư
Sau nửa năm thực hiện di cư, tản cư, Đảng ta nhận định công tác này “là một thất bại", vì ta quan niệm việc di cư, tản cư không thực tế, chủ quan, thi hành không có kế hoạch. một bộ phận đồng bào tản cư tự động trở về; số còn lại gặp nhiều khó khăn trong đời sống.
Trước tình hình đó, ngày 13-7-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các khu có đồng bào tản cư đến, phải thành lập Uỷ ban phụ trách công tác tài chính trong các trại di cư để gây cơ sở Đảng và Mặt trận, tuyên truyền nâng cao tinh thần đồng bào; lập các tiểu ban di cư chuyên lo thực hiện chương trình di cư.
- Các Khu III, Khu II, Khu XI có đồng bào di cư trở về, phải cử cán bộ, dân chúng đến uý lạo, cứu tế và tuyên truyền tổ chức.
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương, các địa phương đã thành lập các tiểu ban đón tiếp đồng bào tản cư, sắp xếp công ăn việc làm, nơi ăn chốn ở cho đồng bào. Chỉ tính riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có hơn 500 trại sản xuất thu hút 7 vạn đồng bào tản cư.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.243-247.
NGÀY 27-7
Ngày Thương binh toàn quốc
Tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm Ngày Thương binh để nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một Hội nghị trù bị với sự tham dự của đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh được triệu tập họp tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hội nghị đã nhất trí đề nghị lấy ngày 27-7- 1947 làm Ngày Thương binh toàn quốc trong cả nước.
Ngày 17-7-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ban thường trực của Ban tổ chức Ngày Thương binh toàn quốc nói rõ ý nghĩa của ngày kỷ niệm và kêu gọi mọi người có hành động thiết thực giúp đỡ thương binh. Trong thư, Người nói: "Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt.
Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy... Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh".
Nhân ngày này, Người xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu Người, một tháng lương, tiền một bữa ăn của Người và của cả các nhân viên làm việc trong Phủ Chủ tịch, cộng là 1.127 đồng. Người đề nghị đồng bào ta "vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị thương", đó là một việc nghĩa, mọi người tự động làm, tuyệt đối không cưỡng bức. Người còn nói: "các cụ già thượng thọ, các cháu bé sơ sinh, các bộ đội các mặt trận, những đồng bào đang đau yếu, thì không nên nhịn".
Bức thư đầu tiên của Người nhân dịp ngày thương binh đã được Ban tổ chức trịnh trọng đọc trước cuộc mít tinh trọng thể có khoảng 2.000 người dự vào ngày 27-7-1947 tại Đại Từ.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào ta đã phát huy truyền thống Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, sôi nổi xung phong ủng hộ, giúp đỡ, chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ. Đó là một nguồn động viên, cổ vũ các chiến sĩ đang đánh giặc, giữ nước, giữ làng.
Từ đó, ngày 27-7 hằng năm đã trở thành Ngày Thương binh liệt sĩ của nước ta.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.175-176, 767.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử đảng (1945-1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.130-131.
TỪ NGÀY 28-7 ĐẾN NGÀY 2-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về Phát triển đảng viên “Lớp Tháng Tám"
Ngày 28-7-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc tổ chức "Lớp Tháng Tám" nhằm "phát triển Hội và kỷ niệm cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám một cách đặc biệt". Chỉ thị nêu rõ: Những đồng chí được kết nạp trong đợt này gọi là đồng chí "Lớp Tháng Tám" để các đồng chí ấy cũng như toàn Đảng nhận rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời nhận rõ nhiệm vụ phát triển tinh thần và sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám. “Lớp Tháng Tám", được tổ chức từ ngày 19-8 đến ngày 2-9-1947. Những người được giới thiệu vào “Lớp Tháng Tám" cũng như lệ thường, nhất thiết phải là những người hăng hái, tích cực, trung thực, tán thành chủ nghĩa cộng sản, có lý lịch rõ ràng; tuyệt đối không vì cảm tình riêng, vì sự gần gũi mà giới thiệu vào Đảng một cách ẩu thả, làm cho thành phần của Đảng trở nên phức tạp. Các cấp bộ Đảng phải chuẩn bị mở lớp huấn luyện ngay cho những đảng viên "Lớp Tháng Tám" về chủ nghĩa cộng sản, công tác và đạo đức cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.250-251.
NGÀY 4-8
Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về thống nhất các Uỷ ban Kháng chiến và hành chính từ xã đến tỉnh
Do yêu cầu của công cuộc kháng chiến kiến quốc và để tiện cho việc điều hành từ Trung ương xuống cơ sở, ngày 4-8-1947, Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về thống nhất các Uỷ ban Kháng chiến và hành chính từ xã đến tỉnh.
Theo Nghị quyết này, các Uỷ ban Hành chính kiêm kháng chiến cũ sẽ đổi là Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính để cho công việc kháng chiến được đặc biệt chú trọng. Chủ tịch Uỷ ban mới này sẽ được bầu lên tuỳ theo năng lực (có thể là Chủ tịch Kháng chiến hoặc hành chính cũ).
Nghị quyết cũng yêu cầu các cấp bộ Đảng sửa soạn vận động trước để có thể đưa các đồng chí đủ năng lực vào phụ trách Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính. Ở địa phương chỉ cần một đồng chí làm Phó chủ tịch cũng điều khiển được mọi công việc thì nên đưa người tỉnh ngoài có cảm tình danh vọng và có năng lực lên làm Chủ tịch để có thể hiệu triệu toàn dân tham gia kháng chiến. Nếu Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính là Chủ tịch kháng chiến cũ thì nên để Chủ tịch hành chính cũ giữ chức Phó chủ tịch để cho công việc được dễ dàng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.256.-257.
NGÀY 14-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị cho các Bí thư Khu uỷ chú trọng về công tác vận động binh lính Việt Nam trong hàng ngũ quân đội Pháp
Thực hiện âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", “dùng người Việt đánh người Việt", thực dân Pháp đã tổ chức ra những đội quân mà thành phần là những phần tử Việt gian phản động và một số đông người bị chúng dụ dỗ hoặc bắt ép theo chúng.
Ngày 14-8-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các đồng chí Bí thư Khu uỷ đặc biệt chú trọng đến công tác vận động binh lính Việt Nam trong hàng ngũ quân đội Pháp".
Chỉ thị nói rõ: "Muốn thực hiện nhiệm vụ này, phải đặt kế hoạch cụ thể, vạch các hình thức tuyên truyền cho thích hợp, nêu những khẩu hiệu đại đoàn kết, nêu cao tinh thần quốc gia để kêu gọi những binh lính lầm đường trở lại với Tổ quốc".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.260.
NGÀY 31-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra nguyên tắc tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, phương pháp làm việc của các Đảng đoàn, các cơ quan chuyên môn của Đảng và các chi bộ đặc biệt ở các cấp
Trước tình hình các cấp uỷ Đảng vẫn xao lãng việc lãnh đạo các Đảng đoàn, các cơ quan chuyên môn của Đảng và các chi bộ đặc biệt ở các cấp, ngày 31-8-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đề ra nguyên tắc tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn, phương pháp làm việc của các tổ chức ấy.
Về tổ chức Đảng đoàn, Ban Thường vụ quy định:
Đảng đoàn do Đảng chỉ định, gồm từ hai đảng viên trở lên được tổ chức ở mỗi đoàn thể quần chúng hay cơ quan chính quyền. Những đảng viên trong Đảng đoàn của một đoàn thể quần chúng chịu trách nhiệm mang nghị quyết của cấp bộ Đảng thi hành trong đoàn thể quần chúng ấy.
Trong chính quyền nhân dân, Đảng chỉ tổ chức Đảng đoàn trong Quốc hội, Chính phủ và Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Hành chính kháng chiến các cấp. Trong các cấp chỉ huy bộ đội, không có Đảng đoàn, Tổ chức Đảng trong quân đội theo hệ thống đặc biệt: đơn vị lập chi bộ là đại đội, trên cùng là Trung ương Quân uỷ. Trong các bộ phận chuyên môn trực thuộc Chính phủ và Uỷ ban Hành chính như: Bộ Tài chính, Bộ Canh nông, các cơ quan công an,... không có Đảng đoàn, nhưng để thống nhất hành động, khi Đảng đoàn cơ quan hành chính các cấp họp bàn đến vấn đề của ngành chuyên môn nào, phải triệu tập các đồng chí phụ trách ngành ấy.
Đảng đoàn ở cấp nào do cấp uỷ cấp ấy lập ra.
Nhiệm vụ của Đảng đoàn là đem chính sách Đảng và Nghị quyết của cấp uỷ Đảng tương đương thi hành trong các cơ quan và đoàn thể quần chúng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng, giữ quyền lãnh đạo của Đảng.
Đảng đoàn cấp nào do cấp uỷ Đảng bộ cấp ấy chỉ huy. Quyền hạn của Đảng đoàn phải được thực hiện theo Điều lệ Đảng.
Đảng đoàn các cấp không có liên lạc và quyền hạn gì với nhau, trừ trường hợp đặc biệt thì có thể liên lạc với nhau để giải quyết một vấn đề nào đó nhưng phải thông qua sự giới thiệu của cấp uỷ Đảng.
Phương pháp làm việc căn bản của Đảng đoàn là phương pháp đề nghị, vận động, thuyết phục, chứ không phải dùng mệnh lệnh bắt quần chúng thi hành nghị quyết của Đảng và Đảng đoàn phải tôn trọng hệ thống tổ chức độc lập và sáng kiến của tổ chức quần chúng do mình lãnh đạo.
Cấp uỷ Đảng phải ra chỉ thị, sinh hoạt đều đặn với Đảng đoàn, Đảng đoàn không được xa lìa sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.
Về tổ chức các cơ quan chuyên môn của Đảng, Ban Thường vụ quy định:
Từ trên xuống dưới, các cấp bộ Đảng có các cơ quan chuyên môn chính như Tổ chức, Kiểm soát, Tuyên truyền, huấn luyện, Tài chính, Dân vận. Các cơ quan chuyên môn của Trung ương gọi là Bộ, của khu, tỉnh, huyện gọi là Ban; các cơ quan trực thuộc bộ gọi là ban, trực thuộc ban gọi là tiểu ban. Cơ quan chuyên môn cấp nào do cấp uỷ cấp ấy lập ra, không có hệ thống dọc các cơ quan chuyên môn.
Nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn là lo thực hiện những công tác chuyên môn của Đảng. Cơ quan chuyên môn có quyền quyết định mọi vấn đề về chuyên môn miễn là hợp với chính sách chung của Đảng. Cơ quan chuyên môn ở cấp bộ nào do cấp uỷ cấp ấy lập ra và cấp uỷ có toàn quyền thành lập hay giải tán, thay đổi các nhân viên. Cơ quan chuyên môn các cấp không có quyền hạn gì với nhau. Cơ quan chuyên môn cấp trên có thể ra chỉ thị cho cơ quan chuyên môn cấp dưới, song chỉ thị ấy phải được cấp bộ Đảng tương đương thông qua và coi như là nghị quyết của cấp bộ ấy.
Về tổ chức các chi bộ đặc biệt, Nghị quyết quy định:
Chi bộ đặc biệt là những chi bộ ở những nơi đặc biệt, không theo hệ thống bình thường của Đảng (từ chi bộ lên huyện, tỉnh, khu, trung ương...) mà do các cấp bộ trên trực tiếp lãnh đạo. Đó là các chi bộ tổ chức ở cơ quan trực tiếp giúp việc cấp trên (văn phòng, giao thông, báo, nhà in), ở trụ sở các đoàn thể quần chúng và các cơ quan chính quyền tương đương với cấp bộ ấy.
Chi bộ đặc biệt ở cấp nào do cấp ấy duyệt y rồi mới được tổ chức, còn quy tắc tổ chức của các chi bộ này cũng như các chi bộ thường.
Nhiệm vụ của chi bộ đặc biệt cũng giống như chi bộ thường. Chi bộ đặc biệt ở cấp nào do cấp uỷ ấy lãnh đạo và có quyền cử đại biểu tham dự các cuộc hội nghị đại biểu ở cấp bộ chỉ huy mình.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.261-268.
NGÀY 1-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc lập Ban tổ chức khu và tỉnh
Để chấn chỉnh công tác tổ chức Đảng, ngày 1-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc lập Ban tổ chức khu và tỉnh.
Về thành phần: Ban Tổ chức khu gồm ba đồng chí, đồng chí Khu uỷ phụ trách tổ chức làm Trưởng ban, hai đồng chí còn lại phải là trình độ Tỉnh uỷ hay Tỉnh uỷ viên. Tỉnh, huyện có Ban tổ chức tỉnh, huyện. Nếu thiếu người thì ít nhất phải cử một đồng chí trong cấp uỷ phụ trách về tổ chức.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban tổ chức như sau:
- Có trách nhiệm lo tất cả những công tác thuộc về tổ chức Đảng như: đặt kế hoạch củng cố, phát triển Đảng, chấn chỉnh các cơ quan chỉ đạo các Đảng đoàn, tổ chức các cuộc hội nghị Đảng, kiểm soát việc làm lý lịch, phát thẻ đảng viên, chăm lo việc đề bạt cán bộ, tổ chức thi đua, thưởng phạt trong Đảng,…
- Phải thi hành những nghị quyết của cấp bộ về tổ chức Đảng những chỉ thị của Ban tổ chức cấp trên.
- Có quyền quyết định tất cả mọi phương pháp làm việc thuộc phương diện chuyên môn, nhưng không có quyền hạn gì về công tác lãnh đạo (ví dụ thi hành kỷ luật, quyết định thay đổi cán bộ).
- Mọi chỉ thị của Ban tổ chức gửi xuống cấp dưới phải được cấp uỷ Đảng thông qua và coi như nghị quyết cửa cấp uỷ.
Phương pháp làm việc của Ban tổ chức là căn cứ vào nghị quyết của Đảng về tổ chức vào tình hình cụ thể ở địa phương, với chỉ thị kế hoạch của Ban tổ chức cấp trên mà đặt kế hoạch hàng tháng; ra chỉ thị về tổ chức cho cấp bộ bên dưới; đề nghị với cấp uỷ Đảng triệu tập các đồng chí phụ trách tổ chức Đảng cấp dưới họp 3 tháng 1 lần để trao đổi kinh nghiệm, đặt kế hoạch công tác.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.273-275,
NGÀY 1-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Đề phòng cái bả độc lập thống nhất giả hiệu
Sau khi đưa ra những điều kiện mà thực chất là bắt nhân dân ta khuất phục và bị Chính phủ ta bác bỏ, thực dân Pháp xúc tiến âm mưu đưa Vĩnh Thụy về nước để lập một chính phủ bù nhìn, công nhận độc lập, thống nhất giả hiệu cho Việt Nam.
Trước âm mưu mới của địch, ngày 1-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Đề phòng cái bả độc lập thống nhất giả hiệu. vạch ra nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động lúc này là:
- “Nêu rõ thái độ của ta là: giành cho được "độc lập và thống nhất trong khối liên hiệp Pháp", nhưng phải độc lập và thống nhất thật sự".
- Phản đối mưu mô của Pháp cho bọn Việt gian và bọn lưu manh được Pháp thuê tiền, hoặc bắt ép một số đồng bào biểu tình hoặc làm đơn thỉnh nguyện mạo nhận là quần chúng chửi Việt Minh hay yêu cầu Pháp lập chế độ "quân chủ lập hiến”.
- Nêu cao giá trị của chế độ Dân chủ Cộng hoà, phê phán chế độ quân chủ bù nhìn đã chết và chế độ quân chủ lập hiến đã lỗi thời.
- Nói rõ toàn dân Việt Nam vẫn hết lòng ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Thực dân Pháp chỉ có thể đàm phán trực tiếp với Chính phủ Hồ Chí Minh.
- Nêu rõ Pháp đang lúng túng và bị suy nhược thêm do lao đầu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đang bị Mỹ dùng kế hoạch Mác San khống chế và uy hiếp nền độc lập của Pháp.
- Dùng hành động vũ trang phá những cuộc biểu tình giả hiệu nếu có thể; bộ đội, dân quân và các đội tuyên truyền xung phong hợp tác vũ trang tuyên truyền ngay tại các vùng địch kiểm soát; cần đề phòng địch mở các cuộc tấn công lớn.
- Vận động quần chúng biểu tình, mít tinh thật đông đảo phản đối mưu đồ của Pháp lừa bịp dư luận thế giới và dụ cảm cố vấn Vĩnh Thụy; các đoàn thể biểu tình và gửi diễn văn ủng hộ Chính phủ và Quốc hội, phản đối âm mưu của thực dân phản động Pháp, biểu quyết thái độ gửi cho các báo, các đoàn thể dân chủ và thân sĩ có tiếng bên Pháp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.269-272.
NGÀY 1-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác thanh vận
Chỉ thị đề ra một số chủ trương chung:
- Công tác vận động thanh niên đều hướng theo mục đích kháng chiến kiến quốc.
- Động viên thanh niên phải theo tính chất năng lực của từng giới như thanh niên lao động làm trong công binh xưởng: tăng gia sản xuất để kháng chiến; thanh niên trí thức học tập và sáng tạo để kháng chiến kiến quốc, thanh niên nông dân tham gia du kích dân quân xung phong giết giặc cứu nước...
- Động viên tinh thần thanh niên, đồng thời chú ý đến quyền lợi thiết thực của họ.
- Đề cao thành tích của thanh niên trong các ngành, các giới.
Về tổ chức Ban thanh vận các cấp, Chỉ thị nêu rõ, trong Ban dân vận các cấp phải có một đồng chí phụ trách thanh niên. Đồng chí ấy sẽ lấy thêm từ một đến năm đồng chí nữa tổ chức thành Tiểu ban thanh vận. Nếu không có đảng viên đủ năng lực thì có thể lấy thêm những quần chúng tốt vào, bề ngoài phải lấy danh nghĩa là Ban thanh vận của Việt Minh.
Chỉ thị đề ra một số quyền hạn và nhiệm vụ của Ban thanh vận như: Ban thanh vận các cấp phải chịu quyền chỉ huy của cấp bộ tương đương; có quyền ấn định chủ trương và kế hoạch vận động thanh niên, nhưng phải được cấp bộ Đảng thông qua. Các Ban thanh vận phải mật thiết liên lạc về chuyên môn, phải làm báo cáo gửi cho cấp bộ Đảng đúng định kỳ.
Về hình thức tổ chức thanh niên phải rộng rãi và thích hợp với tình thế: Đội thanh niên kháng chiến ở gần tiền tuyến, thanh niên xung phong sản xuất ở hậu phương; những tổ chức thanh niên Cứu quốc, thanh niên du kích dân quân…; những tổ thanh niên đã ở trong các tổ chức riêng biệt như cứu quốc du kích, công đoàn, phụ nữ... thì sinh hoạt chính vẫn trong các tổ chức ấy.
Về cán bộ thanh niên, Chỉ thị yêu cầu các cấp bộ Đảng phải phân công những cán bộ có năng lực chuyên môn phụ trách.
Chỉ thị còn nêu rõ các cấp bộ trong Đoàn Thanh niên Việt Nam phải có người chuyên môn phụ trách thiếu nhi; phải đào tạo và đưa thiếu nhi tham gia kháng chiến; phải mở những lớp dạy chữ cho các em; nêu cao thành tích của thiếu nhi; giúp đỡ trẻ em lưu lạc vì chiến tranh; tổ chức thiếu nhi ở các nơi đều do Đoàn thanh niên phụ trách.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.8, tr.276-281.
NGÀY 1.9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác dân vận
Dân vận là một công tác quan trọng của Đảng, song, cho đến tháng 9-1947, các ban dân vận ở các cấp vẫn chưa được tổ chức chu đáo; việc vận động quần chúng còn chưa được thi hành đúng mức.
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp khu, tỉnh, phủ, huyện về công tác dân vận.
Chỉ thị nêu rõ chủ trương chung về vận động các giới phải theo lập trường đoàn kết rộng rãi, hướng theo mục đích kháng chiến, chú ý cải thiện đời sống thiết thực của họ. Những giới quan trọng phải đặc biệt chú ý vận động là công nhân, thanh niên, phụ nữ, công giáo, nông dân, các dân tộc miền ngược. Phải vận động các giới nhân dân trong những vùng địch kiểm soát.
Về kế hoạch tổ chức, Chỉ thị yêu cầu: khu, tỉnh nào chưa thành lập ban dân vận phải thành lập ngay; những nơi đã thành lập rồi phải chấn chỉnh và tích cực hoạt động. Thành phần các ban dân vận bao gồm những đồng chí phụ trách các tiểu ban vận động các giới tổ chức lại. Số đồng chí trong ban dân vận tuỳ theo sự quan trọng của địa phương và cấp bộ mà tổ chức. Mỗi giới phải tổ chức ra tiểu ban chuyên môn phụ trách như thanh vận, phụ vận, v.v.. Các ban dân vận phải chịu sự chỉ huy trực tiếp của cấp bộ Đảng cấp mình. Hàng tháng, các tiểu ban vận động các giới các tỉnh phải báo cáo tình hình đặc biệt về giới mình lên tiểu ban vận động các giới cấp khu. Cấp khu lại báo cáo lên Ban Dân vận Trung ương. Khu, tỉnh nào có những vùng bị địch kiểm soát thì các tiểu ban vận động các giới và ban dân vận phải có trách nhiệm vận động nhân dân trong vùng bị địch kiểm soát.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.282-286.
NGÀY 2-9
Chủ tịch Hồ Chi Minh ra lời kêu gọi đồng bào toàn quốc nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Ngày 2-9-1947, nhân dịp lễ kỷ niệm ngày độc lập lần thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tới đồng bào toàn quốc.
Người điểm lại những khó khăn chồng chất mà Chính phủ cùng đồng bào đã trải qua và khẳng định tuy ra đời trong hoàn cảnh “nội ưu ngoại hoạn5, đủ sự gay go”, nhưng Chính phủ ta "dựa vào sức của toàn dân và tin vào vận mệnh của Tổ quốc để cố gắng vượt mọi gian nan và đã đạt được ít nhiều kết quả". Về kinh tế, sửa chữa đê điều, tăng gia sản xuất, bỏ sưu, giảm thuế, cứu nạn đói và cải thiện sinh hoạt cho nhân dân. Về quân sự, tổ chức nên một quân đội quốc gia, huấn luyện nên hàng triệu dân quân, tự vệ để chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Về chính trị, hoàn thành cuộc tổng tuyển cử tự do và định ra Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Về văn hoá, hơn bốn triệu đồng bào nam nữ biết đọc, biết viết, đã có nhiều làng xã, toàn dân đều biết chữ.
Về mặt kháng chiến cứu nước, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, "Chính phủ, quân đội và nhân dân ta, đã đoàn kết thành một bức tường đồng, kiên quyết giữ gìn Tổ quốc”. Nhờ vậy mà "hai năm kháng chiến ở Nam, chín tháng kháng chiến toàn quốc, lực lượng của địch ngày càng hao mòn, ta thì càng đánh càng hăng, càng mạnh".
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể đồng bào, toàn thể chiến sĩ, những đồng bào nơi địch chiếm đóng, các kiều bào ở nước ngoài "Hãy tin tưởng vào vận mệnh vẻ vang của Tổ quốc, tin tưởng vào sức đoàn kết và chiến đấu của chúng ta. Chúng ta hãy cắn răng chịu khổ, ra sức chiến đấu. Chịu khổ chiến đấu mấy năm, để đánh tan ách nô lệ hơn 80 năm vừa qua, để xây nền tự do muôn ngàn đời sắp tới thì cũng bõ công... Kháng chiến nhất định thắng lợi”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.200-203.
NGÀY 7-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc vận động "Mùa đông binh sĩ”
Do yêu cầu của cuộc kháng chiến, mùa hè 1947 đã có thêm 35.000 thanh niên tình nguyện nhập ngũ, đội ngũ Vệ quốc đoàn đã từ 85.000 người trước ngày 19-12-1946 tăng lên 125.000 người. Đội ngũ dân quân, tự vệ và du kích cũng có tới mấy chục vạn người. Trong khi đó, ngân sách quốc gia không đáp ứng được nhu cầu chi phí cho quốc phòng cho nên đời sống của bộ đội, du kích thoát ly rất khó khăn. Mùa đông sắp đến mà các chiến sĩ còn chưa có đủ quần áo, chăn, màn, giầy dép,... Nếu không khắc phục được tình trạng đó thì rất có thể sẽ có tác động không tốt tới tinh thần, sức khoẻ và sức chiến đấu của bộ đội và du kích thoát ly.
Trước tình hình đó, ngày 7-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Về việc vận động "Mùa đông binh sĩ".
Chỉ thị yêu cầu các Bí thư Khu uỷ phải tích cực tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện; tránh địa phương chủ nghĩa; tránh bắt dân ủng hộ một cách bắt buộc mà phải để tuỳ nhiệt tâm của dân.
Sau khi Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị, ngày 12-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn về việc tổ chức nhân dân hưởng ứng cuộc vận động "Mùa đông binh sĩ”. Ngày 25-9-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới cụ Võ Liêm Sơn, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ, trong đó có đoạn viết: "Uỷ ban Trung ương Mùa đông kháng chiến giúp binh sĩ chỉ quyên vải vóc hoặc chăn áo. Nhưng tôi không biết may, không có vải, mà áo cũng chỉ có hai bộ đã cũ. Vậy tôi xin quyên một tháng lương là 1.000 đồng, nhờ Cụ mua giùm vật liệu và may giùm mấy chiếc chăn, áo cho chiến sĩ, gọi tỏ chút lòng thành.
Đồng bào ta đã giúp nhiều lần. Lần này, mặc dầu hoàn cảnh khó khăn, nhưng tôi rất mong đồng bào cũng ra sức giúp, để cho chiến sĩ khỏi lạnh lùng và đủ ấm áp để ra sức xung phong diệt địch".
Noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta nhiệt liệt hưởng ứng cuộc vận động Mùa đông binh sĩ. Uỷ ban “Mùa đông binh sĩ" các cấp đã được thành lập. Các đoàn thể quần chúng, đặc biệt là Hội Phụ nữ Cứu quốc, tích cực vận động hội viên, đoàn viên tham gia cuộc vận động. Đồng bào ta đã quyên góp vải vóc, quần áo, chăn màn ủng hộ bộ đội. Nhiều bậc phú hào đã hằng tâm, hằng sản quyên góp cho bộ đội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.287-288.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.4, tr.124.
NGÀY 15-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Bola nói gì, ta phải làm gì?
Ngày 10-9-1947, Bôlae, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương, đọc diễn văn ở thị xã Hà Đông tuyên bố lập trường của thực dân Pháp về vấn đề Việt Nam với hai điểm chính: một là, không công nhận Việt Nam độc lập và thống nhất; Hai là, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là đại diện chính thức của nước Việt Nam. Bôlae đã không giấu giếm lập trường phản động là định lập ra chính quyền bù nhìn và dùng nỗ lực thủ tiêu nền độc lập, tự do của nhân dân ta.
Ngày 15-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Bola nói gì, ta phải làm gì? vạch trần ý đồ nham hiểm, lừa mị, chia rẽ của thực dân Pháp đối với nhân dân ta; khẳng định lại lập trường kiên quyết chiến đấu bảo vệ độc lập và thống nhất thật sự của nước ta, dấu tranh chống các khuynh hướng thoả hiệp đầu hàng.
Chỉ thị phân tích rõ bài diễn văn của Bola phơi bày “lập trường của thực dân Pháp lúc này đối với ta còn phản động hơn hồi Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946", tỏ rõ thái độ thực dân Pháp "tham lam, gian dối, khiêu khích, cố chấp, ương ngạnh, trịch thượng. Thái độ ấy chỉ làm cho dân tộc Việt Nam căm ghét và thế giới dân chủ cười thêm".
Chỉ thị nêu rõ lập trường của Việt Nam như sau:
1. Độc lập và thống nhất thật sự. Nếu thực dân Pháp không công nhận Việt Nam độc lập và thống nhất thật sự thì dân tộc Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến khi giành được độc lập và thống nhất thật sự.
2. Nước Việt Nam nhận đứng trong Khối liên hiệp Pháp nhưng Việt Nam phải có quân đội riêng (cả quân đội chính quy và cảnh binh, công an riêng), ngoại giao riêng (cả đại sứ và lãnh sự), tài chính riêng (tiền tệ riêng, thuế quan riêng...). Khối liên hiệp Pháp phải là hình thức hợp tác thân thiện và bình đẳng giữa các dân tộc.
3. Pháp muốn chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, thì chỉ có một cách là phải đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh là đại diện duy nhất chính thức của Việt Nam và là Chính phủ đang kháng chiến chống xâm lược, chứ không thể giảng hoà với bọn Việt gian bù nhìn phản quốc.
Chỉ thị vạch rõ: "Sau bài diễn văn của Bola, toàn thể bộ đội và nhân dân Việt Nam càng nhận rõ rằng không dùng bạo lực mà đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp thì không thể có độc lập và thống nhất thực sự".
Chỉ thị còn đề ra những nhiệm vụ cần kíp của dân tộc ta là: "đoàn kết toàn dân, đoàn kết một cách rộng rãi và chặt chẽ hơn nữa" trong Mặt trận Liên Việt; vạch trần âm mưu mới xảo quyệt và thái độ ương ngạnh của thực dân Pháp trước dư luận trong và ngoài nước, phát động phong trào sôi nổi phản đối âm mưu và thái độ của chúng; tích cực chuẩn bị chiến dịch mùa đông về mọi mặt để đối phó với cuộc tấn công của quân Pháp sau mùa mưa; phá hoại triệt để những thị trấn, phố phủ, phố huyện mà địch có thể tới, lập làng chiến đấu; tích cực thực hiện tự cấp tự túc, tổ chức vận tải tiếp tế gạo, ngô, sắn, muối. ... tới những nơi thiếu, bảo vệ mùa màng.
Chỉ thị khẳng định dứt khoát: “Rồi đây, không phải những kẻ như Bola có thể ra điều kiện cho ta, mà chính sức đoàn kết và tranh đấu mạnh mẽ của dân tộc ta và dân tộc Pháp sẽ bắt buộc bọn thực dân phản động Pháp hàng phục”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.289-303.
NGÀY 1-10
Hợp nhất Uỷ ban Kháng chiến và Uỷ ban Hành chính từ xã đến tỉnh thành Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính
Tăng cường việc điều hành và chỉ đạo công việc kháng chiến ở địa phương và gạt bỏ những sự không ăn khớp hay hiểu lầm, xích mích giữa các cơ quan hành chính và Uỷ ban Kháng chiến, ngày 4-8-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết "quyết định thống nhất các UBKC và hành chính từ xã đến tỉnh... Các Uỷ ban Hành chính kiêm kháng chiến cũ sẽ đổi là UBKC kiêm hành chính để cho công việc kháng chiến được đặc biệt chú trọng”.
Ngày 1-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 91-SL hợp nhất Uỷ ban Kháng chiến và Uỷ ban Hành chính các cấp tỉnh, huyện, phủ hay châu, xã thành Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính, viết tắt là UBKCKHC và quy định thành phần Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính mỗi cấp bổ nhiệm hoặc thay thế các thành viên trong Uỷ ban các cấp và quan hệ làm việc giữa Uỷ ban các cấp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.256-257.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.739.
NGÀY 5-10
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vận động các giới đối với chính sách phản động của thực dân phản động Pháp định lập Chính phủ bù nhìn
Đối phó với âm mưu của thực dân Pháp định lập chính phủ bù nhìn, tiếp theo các chỉ thị trước, ngày 5-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vận động các giới đối với chính sách phản động của thực dân phản động Pháp định lập Chính phủ bù nhìn.
Chỉ thị vạch rõ: chính phủ bù nhìn thành lập thì “trước hết chúng sẽ dùng thủ đoạn phỉnh phờ, lừa gạt lấy quyền lợi, địa vị lôi kéo các tầng lớp thanh niên trí thức, quan lại cũ, công chức, cựu binh sĩ, đồng bào có đạo và các thổ ty và đồng bào miền ngược". Để phá tan chính sách phản động của Pháp và tay sai của chúng, Đảng có chủ trương đối phó như sau:
Đối với thanh niên trí thức và công chức, cần đem lại quyền lợi thực tế cho họ, thu dụng họ tham gia kháng chiến, tái lập trường cho họ học tập; biệt đãi và cải thiện đời sống cho công chức, tăng lương cho công chức trong các vùng giá cả đắt đỏ; kêu gọi thanh niên trí thức và công chức trong vùng địch kiểm soát không cộng tác với địch, ra vùng tự do và vùng căn cứ tham gia kháng chiến; đưa những nhà trí thức văn nghệ sĩ vào công tác văn hoá, giúp đỡ họ tiền, tài liệu, tổ chức họ thành những nhóm văn hoá kháng chiến.
Đối với kỳ hào, quan lại cũ, cần phải giao cho họ công tác thực tế, cho họ có địa vị, có trách nhiệm hẳn hoi, chứ không phải sử dụng họ một cách đối phó; vận động họ đứng ra phản đối chính thể quân chủ lập hiến, tỏ ý cương quyết trung thành với Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh; nếu chính phủ bù nhìn thành lập thì vận động họ vui lòng đốt bằng, sắc, tỏ ý đoạn tuyệt với chế độ cũ; nơi nào mà địch sắp lấn tới thì phải thuyết phục hoặc cưỡng bách những phần tử có manh tâm phản động tản cư (phải khéo léo, sáng suốt, nếu không sẽ đẩy họ theo địch).
Đối với cựu binh sĩ, cần đưa họ vào dân quân, du kích và tham gia các công việc kháng chiến; giúp đỡ họ có nghề làm ăn sinh sống và động viên họ đem hiểu biết về quân sự ra cứu nước, giữ làng; đối với những người thuộc hạng cai, đội, quản trước đây nên khéo léo đưa họ vào Vệ quốc đoàn và trọng dụng họ.
Đối với đồng bào có đạo, cần hết sức tránh mọi hành động phạm tôn giáo; gây lòng công phẫn của giáo dân đối với việc địch tàn sát giáo dân; đem lại quyền lợi thiết thực cho giáo dân; mời các cha cố cảm tình với kháng chiến lập ra các Hội Công giáo kháng chiến, Hội ủng hộ kháng chiến; phải dùng pháp luật nghiêm trị bọn phản động phá rối trật tự, an ninh, khi cần thiết phải dùng lực lượng quân sự uy hiếp tinh thần bọn phản động, giữ vững tinh thần dân chúng.
Đối với các thổ ty, cần đi sát họ, cho họ có công tác thực tế, quyền lợi và địa vị; vận động các thổ ty có uy tín đi hô hào, động viên tinh thần nhân dân tham gia kháng chiến; đem lại quyền lợi thực tế cho đồng bào miền núi: mở bình dân học vụ, tiếp tế muối và những thứ hàng cần thiết; đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động để nắm vững các tầng lớp dưới; vận động binh lính dân tộc miền núi trở về làng bản, chạy sang hàng ngũ ta, không nên giết tù binh là người dân tộc miền núi.
Chỉ thị nêu rõ khi thực hiện chủ trương trên, cần phải đề cao Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, giao công tác cho Hội ấy làm; phải thực hiện triệt để chính sách đại đoàn kết của Đảng để giữ vững Mặt trận thống nhất dân tộc, phá tan thủ đoạn xảo trá của địch.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.306-310.
TỪ NGÀY 7-10 ĐẾN NGÀY 22-12
Cuộc phản công Việt Bắc thắng lợi
Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công lên Việt Bắc - căn cứ địa kháng chiến của cả nước. Kế hoạch tấn công này mang tên là Lêa và Clôclô nhằm mục đích tóm gọn cơ quan lãnh đạo tối cao của ta, tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, phá tan căn cứ địa kháng chiến trung tâm của ta để mau chóng kết thúc chiến tranh xâm lược.
Thực hiện ý đồ trên, địch huy động khoảng 112.000 quân gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 3 đại đội cơ giới của Trung đoàn bộ binh cơ giới Marốc 800 xe, 2 phi đội máy bay 40 chiếc, 1 thuỷ đội 40 tàu xuồng vào cuộc tấn công này.
Ngày 7-10, địch bắt đầu tấn công Việt Bắc.
Cuộc tấn công của Pháp đã gây cho ta bất ngờ, nên lúc địch nhảy dù, một số nơi đã bị động, đối phó lúng túng.
Ngay tối 17-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện cho các Khu uỷ, Quân khu uỷ thông báo địch tấn công Việt Bắc, ra lệnh cho các khu đánh mạnh để chia xẻ lực lượng địch, phá kế hoạch của chúng.
Ngày 8-10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi bộ đội, dân quân, du kích và toàn thể đồng bào ta ra sức tiêu diệt địch, đánh bại cuộc hành quân của chúng. Cùng ngày, Bộ Tổng chỉ huy ra nhật lệnh cho bộ đội và dân quân chiến đấu phá tan cuộc tiến công mùa đông của địch, ra quân lệnh diệt địch, bảo vệ Việt Bắc.
Ngày 9-l0-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị cần kíp cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn, kịp thời đánh địch bảo vệ nhân dân, cơ quan, kho tàng.
Ngày 15-10, Ban Thường vụ Trung ương đã ra Chỉ thị phải phá cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Tổng chỉ huy đã chỉ huy quân và dân Việt Bắc, phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" và cách đánh du kích, vận động, đánh trên các địa bàn trọng điểm, bẻ gãy các mũi tấn công đường không, đường bộ, đường thuỷ của địch, đánh bại cuộc tấn công của chúng vào căn cứ địa kháng chiến.
Phối hợp với quân dân Việt Bắc, quân dân cả nước đã chiến đấu anh dũng, đập tan âm mưu tập trung quân đánh Việt Bắc của địch. Ở vùng sau lưng địch, chiến tranh du kích được đẩy mạnh, hoạt động phá tề, trừ gian sôi nổi. Ngày 22-12-1947, cuộc chiến đấu chống địch tấn công Việt Bắc kết thúc thắng lợi. Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, bắn rơi 16 máy bay địch, bắn đắm 11 tàu chiến, ca nô lớn nhỏ, phá huỷ 100 khẩu pháo, cối, hàng nghìn súng, hàng trăm xe quân sự và nhiều quân trang, quân dụng khác. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn, căn cứ địa Việt Bắc đứng vững và trưởng thành, bộ đội chủ lực và dân quân du kích được tôi luyện trong chiến đấu.
Thắng lợi của quân và dân Việt Bắc là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng, là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lượcđánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tòan tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.5-8 và 19-21.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.317-344.
NGÀY 9-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn
Ngày 7-10-1947, địch nhảy dù và đổ bộ xuống Bắc Kạn mở đầu cho cuộc tấn công chiến lược với quy mô lớn lên Việt Bắc. Trước tình thế đó, ngày 9-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị gửi các đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chí phụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn.
Chỉ thị đã vạch rõ mục đích của việc địch nhảy dù xuống Bắc Kạn là nhằm: 1. Làm cho ta phải để quân chống đỡ ở Việt Bắc, khiến cho địch dễ càn quét và chiếm đóng vùng xuôi; uy hiếp căn cứ địa chính của ta; phá cơ quan Trung ương của ta; triệt một đường tiếp tế khá quan trọng của nền kinh tế kháng chiến. 2. Cố lập vài “chiến công” để giữ vững lòng tin tưởng của bọn thực dân Pháp chủ chiến và để vận động cho cuộc tuyển cử hội đồng hàng tổng ở Pháp ngày 19-10 tới, đồng thời để xúc tiến việc tập hợp lực lượng Việt gian tiến tới lập Mặt trận phản kháng chiến và lập chính phủ bù nhìn.
Chỉ thị cũng đã nói rõ việc nhảy dù xuống Bắc Kạn và một số nơi khác ở Việt Bắc và trung du trong cùng một lúc tuy không chứng tỏ rằng địch dồi dào lực lượng, đủ sức tấn công ta trên khắp các mặt trận, nhưng "dù sao nó cũng tỏ ra địch mạo hiểm và coi thường ta. Chúng nhân chỗ hớ hênh, khinh địch của ta (như phá hoại chậm chạp, cho rằng địch không thể nhảy dù Bắc Kạn, v.v.) mà tấn công ta. Cuộc tấn công này của chúng vừa phải làm cho cán bộ ta bớt chủ quan, vừa phải là một dịp cho bộ đội dân quân học thêm kinh nghiệm và rèn luyện trong chiến đấu”.
Chỉ thị vạch rõ nhiệm vụ cần kíp của tỉnh Bắc Kạn là: Về quân sự, phải:
1- Dùng lúc lượng bộ đội, dân quân du kích và toàn dân bao vây địch chung quanh tỉnh lỵ, giam chân địch trong đó, không cho chúng chiếm toả ra, đặc biệt ngăn địch trên mấy đường: Bắc Kạn - Chợ Đồn, Bắc Kạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc Kạn - Chợ Mới, Bắc Kạn -Na Rì, Bắc Kạn - Chợ Chu.
2- Dùng những đội phá hoại cản địch; triệt để phá hoại đường xá, cầu cống, dinh thự, nhà ngói ở các phố, phủ, huyện; ngả cây, đắp ụ.
3- Dùng những đội chuyên môn phục kích và đánh địa lôi để tiêu hao tiêu diệt địch, ngăn chặn việc tiếp tế, liên lạc của địch.
4- Mau chóng tổ chức bộ đội, dân quân phản công địch ngay ở thành phố và các điểm địch mới chiếm đóng.
5- Thực hiện việc trừ gian, phòng phỉ, phong toả tin tức kiểm soát việc đi lại.
6- Thực hiện nghiêm mật việc phòng không, cấm các cơ quan phơi quần áo lộ thiên, phải đào hầm trú ẩn, phòng Việt gian làm hiệu cho máy bay, cấm mọi người chạy nhốn nháo khi báo động.
7- Cắm chông những nơi địch có thể nhảy dù.
8- Bản doanh của bộ chỉ huy và các cơ quan trọng yếu, nơi ở và nơi làm việc của cán bộ phải thay đổi, hạn chế người đi lại, canh gác nghiêm mật.
9- Yểm hộ cho các cơ quan di chuyển đến nơi an toàn.
Về chính trị và kinh tế.
1- Bộ đội, dân quân và các đoàn thể phối hợp động viên nhân dân tham gia kháng chiến, ủng hộ bộ đội.
2- Bộ đội và dân quân phải giúp dân gặt và cất lúa.
3- Tổ chức việc thu dung đồng bào tản cư, di cư vào các làng bản tham gia sản xuất hoặc đưa họ sang tỉnh khác.
Chỉ thị nhắc nhở cán bộ phụ trách của tỉnh phải thảo luận gấp nội dung Chỉ thị và thi hành ngay, không được chậm chễ, đồng chí nào gan dạ hy sinh phải được khen thưởng, những kẻ cơ hội nhát gan, trốn tránh nhiệm vụ phải bị trừng trị; báo cáo công trạng và tội lỗi lên cấp trên. "Chiến tranh lan rộng đến tỉnh ta là một dịp cho ta lập chiến công, góp sức với đồng bào toàn quốc giết địch".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.311-314.
NGÀY 15-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp
Quân Pháp mở đầu chiến dịch mùa Đông ở Bắc Bộ bằng cuộc hành quân đánh thẳng vào căn cứ địa Việt Bắc và chiếm đóng các thị trấn ngăn cách Việt Bắc với miền xuôi, mở đầu là nhảy dù xuống Bắc Kạn vào ngày 7-10-1947. Tiếp theo chỉ thị gửi các đồng chí lãnh đạo tỉnh Bắc Kạn, ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phải phá cuộc tấn công mùa Đông của giặc Pháp.
Sau khi thông báo tình hình chiến sự, phân tích âm mưu và cách đánh của địch, Chỉ thị đã chỉ ra những điểm yếu cơ bản của địch. Chúng có quân đông, trang bị mạnh, nhưng lực lượng có hạn nên "cuộc tấn công này chỉ ồ ạt lúc đầu”. Điểm yếu cơ bản của địch là rải quân ra trên một địa bàn quá rộng, "càng dàn quân ra càng mỏng lực lượng. Chúng đem quân lên mạn ngược là một dịp cho ta để đánh chúng miền xuôi. Chúng đóng quân nơi xa càng dễ cho ta bao vây chúng là chặn đường tiếp tế, đánh chúng một cách rất có lợi trong khi chúng vận động. Cuộc tấn công này của địch không tỏ ra chúng mạnh, có đủ sức đánh ta khắp các mặt trận, mà tỏ ra chúng yếu, phải mạo hiểm".
Đối phó với tình thế mới, Chỉ thị vạch rõ: "Chúng ta không sợ địch, nhưng cũng không được khinh địch. Chiến tranh sẽ gay go, quyết liệt hơn… Chúng ta phải dự trước tất cả để trấn tĩnh mà đối phó, đối phó có kế hoạch".
Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ mới trước mắt do tình thế mới đặt ra:
Về quân sự và hành chính, phải đánh mạnh khắp toàn quốc khiến cho địch không thể tập trung quân đánh Việt Bắc; giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm ở Việt Bắc; đẩy mạnh chiến tranh du kích, đột kích, bao vây địch; triệt để làm vườn không nhà trống quanh vùng địch chiếm đóng; chặt đứt đường giao thông liên lạc của địch để chúng không thể tiếp ứng và tiếp tế, củng cố các căn cứ địa về mọi mặt; củng cố bộ máy hành chính và kháng chiến ở vùng địch kiểm soát, có thể lợi dụng tổ chức hành chính công khai của địch để hoạt động và tổ chức hành chính và kháng chiến bí mật để tiếp tục hoạt động; đẩy mạnh công tác phòng gian, bảo mật, đề phòng nội gián,...
Về tuyên truyền và cổ động, việc chủ yếu là làm cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ hơn, tham gia tác chiến, giúp đỡ bộ đội, tăng gia sản xuất nhiều hơn, giải thích cho dân không sợ địch nhưng cũng không khinh địch.
Về kinh tế, tài chính, bộ đội chưa trực tiếp tác chiến phải giúp đỡ và bảo vệ nhân dân sản xuất; mở đường chuyên chở, tiếp tế, đặt lại các mối ngoại thương để nhập khẩu những thứ cần thiết cho quân giới, quân y; phân tán xưởng máy, kho tàng; thực hiện tự cấp, tục túc.
Về ủng hộ mùa đông binh sĩ, cổ động dân ủng hộ với khẩu hiệu "mỗi làng hai áo trấn thủ” hay "một chăn cho bộ đội", làng giàu gắng quyên nhiều hơn...
Về dân vận, kêu gọi toàn dân đoàn kết, tham gia kháng chiến, ủng hộ Chính phủ, ủng hộ bộ đội. Phát triển và củng cố cơ sở quần chúng trong vùng địch kiểm soát công giáo, vùng dân tộc thiểu số.
Về kiện toàn Đảng, Chỉ thị nói rõ Đảng "Trong những lúc khó khăn như lúc này, Hội ta không vững thì không thể chèo chống nổi với tình thế”. Vì vậy, phải tiếp tục vừa phát triển Đảng, vừa thanh trừ những phần tử xấu xa khỏi Đảng, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo các cấp, sa thải những phần tử kém cỏi, nhát gan, hủ hoá và cất nhắc những phần tử trung thành, gan dạ và có năng lực; đồng thời kiên quyết bài trừ những khuynh hướng biệt phái, chia rẽ, gièm pha, ganh tỵ có hại lớn cho sự đoàn kết nội bộ, làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến; đặc biệt củng cố các chi bộ xí nghiệp, làng, cơ quan... làm cho các chi bộ đó thực sự lãnh đạo được quần chúng trong mọi tình thế.
Chỉ thị vạch rõ: cuộc tấn công mùa Đông của địch làm cho chúng ta chữa được bệnh chủ quan cho rằng địch không dám đánh Việt Bắc, không dám đổ bộ xa căn cứ; thúc giục các cấp chỉ huy phải nhanh chóng nắm được quy luật chiến tranh nói chung và quy luật chiến tranh Việt - Pháp, chỉ cho ta muốn thắng địch phải dự đoán đúng mưu kế của địch, giữ bí mật mưu kế của địch. Ta cần giữ gìn chủ lực nhưng phải nhè những chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt để nâng cao tinh thần bộ đội và củng cố lòng tin của dân vào tiền đồ kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.315-326.
NGÀY 25-10
Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết về phân tán các đơn vị bộ đội
Do tình hình chiến sự thay đổi, Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam đã quyết định phân tán một phần các đơn vị bộ đội. Trên cơ sở đó, ngày 25-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết về phân tán các đại đội về các phủ, huyện, châu (mỗi phủ, huyện, châu một đại đội) phối hợp với du kích tác chiến, giúp đỡ cho phong trào du kích phát triển và sau này dần dần sống lẫn với dân chúng.
Theo Nghị quyết này, cấp tiểu đoàn ở nhiều nơi sẽ bỏ đi. Ở những nơi nào cấp tiểu đoàn bỏ đi, đại đội sẽ trực tiếp với trung đoàn.
Nghị quyết nêu rõ: đứng về phương diện Hội, khi bắt đầu thi hành Nghị quyết này, khi một phủ, huyện, châu đã chính thức có một đại đội Vệ quốc đoàn do quân sự điều động về, mỗi đại đội uỷ phải có một đồng chí được chỉ định tham gia vào ban phủ, huyện, châu uỷ và có quyền hành nhiệm vụ như đại biểu của Trung đoàn uỷ hoặc Tiểu đoàn uỷ trong ban Tỉnh uỷ.
Đứng về mặt kháng chiến hành chính thì đại biểu của đại đội được làm một uỷ viên chính thức trong Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính phủ, huyện, châu cũng như là đại biểu của trung, tiểu đoàn trong Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.332-333.
THÁNG 10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng phụ chú một điểm trong Chỉ thị ngày 15-10-1947 của Trung ương
Trong Chỉ thị ngày 15-10-1947 có một câu nói về quy luật chiến tranh và quy luật chiến tranh Việt - Pháp chưa rõ nghĩa. Vì vậy có nhiều đồng chí viết thư hỏi Trung ương, Ban Thường vụ Trung ương đã trả lời chung bằng một bản phụ chú gửi tới các đồng chí trong các khu uỷ và quân khu uỷ.
Ban Thường vụ Trung ương giải thích:
“Quy luật chiến tranh là phép tắc mà bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng phải theo". Trong thời đại ngày nay, chiến tranh phải theo những phép tắc sau:
1- "Chiến tranh là sự kế tục của chính trị một nước. Chính trị quyết định quân sự..."
2- "Chiến tranh ở thời đại này là chiến tranh toàn diện, chiến tranh nhân dân (guerre totale, guerre du peuple). Đối với đế quốc hay đối với ta cũng thế...
3- "Chiến tranh của một nước phải do trình độ kinh tế, chính trị xã hội, văn hoá của nước đó quyết định..."
4- "Quá trình của chiến tranh là quá trình biện chứng. . ."
5- "Giai đoạn chiến lược của chiến tranh là do lực lượng so sánh giữa hai phe đánh nhau mà quyết định..."
6- "Chiến lược quyết định chiến thuật..., chiến thuật (mẹo đánh của từng trận) là bộ phận khăng khít của chiến lược (mưu cơ đánh để cố thắng trong cả một cuộc chiến tranh).
Tiếp đó, bản phụ chú vận dụng quy luật của chiến tranh nói chung vào cuộc chiến tranh Việt - Pháp: "cuộc chiến tranh Việt - Pháp hoàn toàn theo những phép tắc đó. Song nó có những đặc điểm của nó do trình độ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá của hai nước, do lực lượng so sánh và tình thế chính trị, kinh tế của hai nước, do kỹ thuật, tập quán của quân đội hai nước mà quyết định".
Là một nước đế quốc đi xâm lược, Pháp dùng "mọi phương pháp tàn nhẫn, đánh nhanh đánh lối trận địa và vận động chiến, có du kích nhưng ít. Ta là một nước nông nghiệp, ta tự vệ, ta làm chiến tranh cách mạng, võ khí ta kém, nên ta đánh lén và đánh lối du kích nhiều”. Địch lợi dụng ưu thế kỹ thuật lớn nhất của chúng là máy bay và bom. Chúng có kỹ thuật vận chuyển nhanh nên hay dùng lối đánh vòng bao vây ta. Chiến tranh toàn diện và kinh tế tài chính cũng là mặt trận đánh, nên địch dùng lối đổi tiền 100đ Đông Dương để làm khó cho ta.
Ban Thường vụ Trung ương thẳng thắn nhận định: "Trong việc chuẩn bị chiến dịch mùa đông vừa rồi, ta chủ quan đánh giá quá thấp địch, không đoán đúng được mưu mô của địch, hoặc đoán không đến nơi, hơn nữa không nhận rõ quy luật chiến tranh nói chung và quy luật chiến tranh Việt - Pháp nhưng thất bại đầu tiên ở Bắc Kạn, Cao Bằng, Chợ Đồn, Tuyên Quang, v.v. vừa rồi là những bài học dạy cho ta".
Bản phụ chú nhắc nhở: "Cuộc kháng chiến này là cuộc chiến tranh giải phóng lớn nhất trong lịch sử nước ta, lần đầu tiên dân tộc ta phải đối phó với bọn xâm lược mạnh, thao luyện, có võ khí tối tân như bọn Pháp. Ta vừa đánh vừa học, ta luôn luôn gắng sức học cái hay của địch, ta sửa chữa sai lầm của ta, phát triển ưu điểm của ta, lợi dụng triệt để những nhược điểm của địch mà đánh... Như thế nhất định ta sẽ chuyển bại thành thắng".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.327-330.
THÁNG 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, rèn luyện cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng và phong cách công tác, tháng 10-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, ký bút danh X.Y.Z. Cuốn sách do Nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên vào đầu năm 1948.
Trong cuốn sách, Người chú trọng sáu nội dung:
I. Phê bình và sửa chữa: Người nêu lên tầm quan trọng của việc tự phê bình và phê bình, cách thức tiến hành phê bình và tự phê bình, ba chứng bệnh (bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa) rất nguy hiểm cần phải sửa trong lối làm việc của Đảng.
II. Mấy điều kinh nghiệm: Người chỉ ra các kinh nghiệm: muốn công việc thành công phải có cán bộ tốt; có chính sách đúng đồng thời phải có cách làm đúng; phải biết nghiên cứu kinh nghiệm đến gốc; phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái; bất kỳ việc gì lợi ích của nhân dân thì làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân; sát quần chúng, hợp quần chúng.
III. Tư cách và đạo đức cách mạng: Người nhấn mạnh tư cách của Đảng chân chính cách mạng gồm 12 tiêu chí; phận sự của đảng viên và cán bộ là trọng lợi ích của Đảng hơn hết; có đạo đức cách mạng gồm "năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm"; phải giữ kỷ luật, phải "chí công vô tư, chống chủ nghĩa cá nhân và sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm bằng phê bình và tự phê bình...; tư cách và bổn phận đảng viên là phải căn cứ vào Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương; phải rèn luyện tính Đảng.
IV. Vấn đề cán bộ. Người viết: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc... huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng". Người chỉ rõ những biện pháp tiến hành công tác huấn luyện cán bộ, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ, chính sách cán bộ.
V. Cách lãnh đạo. Người phân tích rõ: lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào? lãnh đạo thế nào? học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng.
VI. Chống thói ba hoa, Người chỉ rõ thói ba hoa là gì? cách chữa thói ba hoa.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.230-306.
NGÀY 12-12
Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về triển vọng của tình hình chính trị Pháp và công tác tuyên truyền và ngoại giao
Bản Thông cáo nêu rõ triển vọng của tình hình chính trị Pháp trên bảy nội dung chính sau:
1. Phái Đờ Gôn (De Gaulle) lợi dụng dân Pháp thiếu thốn và xu hướng muốn yên thân mà tuyên truyền thân Mỹ.
2- Rất có thể khi điều kiện thuận lợi, phái Đờ Gôn sẽ làm đảo chính, đặt chế độ độc tài cá nhân và giải tán Đảng Cộng sản.
3- Đảng Cộng sản quyết không nhường và đang chuẩn bị dùng bạo lực cản đường phái Đờ Gôn.
4- Nếu Pháp có nội chiến Mỹ sẽ can thiệp thẳng vào tình hình Pháp và Việt Nam, cũng như chúng sẽ can thiệp vào tình hình các thuộc địa Pháp.
5- Pháp có nội chiến thì ảnh hưởng lợi hại cho ta thế nào? lợi là đế quốc Pháp phải phân tán lực lượng, binh lính Pháp hoang mang; hại là, Mỹ sẽ can thiệp vào tình hình Việt Nam.
6- Nếu xảy ra nội chiến ở Pháp thì phong trào cách mạng châu Âu lên cao.
7- Nếu Mỹ can thiệp vào Việt Nam thì mặt trận chống phản động Mỹ và Tưởng của nhân dân Tàu và mặt trận chống Pháp, Mỹ của nhân dân Việt Nam sẽ hoà làm một.
Qua nhận định triển vọng tình hình chính trị Pháp ở trên, Thường vụ Trung ương Đảng đề ra phương hướng công tác tuyên truyền và ngoại giao. Chủ trương tuyên truyền là vạch rõ mưu mô của địch trong cuộc tiến công mùa đông và chính sách "dùng người Việt trị người Việt"; cổ động toàn dân đoàn kết hơn và ủng hộ Chính phủ và bộ đội nhiệt liệt hơn; vạch rõ tham vọng của Mỹ và nguy cơ Mỹ, chống xu hướng thân Mỹ và sợ Mỹ; ta cần lợi dụng triệt để những mâu thuẫn dù nhỏ đến mấy giữa Pháp và Mỹ. Về ngoại giao vẫn tuyên bố thân thiện với Mỹ và vẫn phải dùng hội Việt - Mỹ làm lợi khí tuyên truyền quốc tế.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.337-339.
NGÀY 12-12
Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc Pháp có thể lập Chính phủ bù nhìn toàn quốc
Bản Thông cáo nhận định: ngày 6-12-1947, Bảo Đại từ Hồng Kông về Hạ Long gặp Bôla trên một chiếc tàu. Sau đó Bôla về Pháp. Có thể một chính phủ bù nhìn toàn quốc do Bảo Đại cầm đầu sắp thành lập. Chính phủ ấy sẽ là lợi khí của cả Mỹ và Pháp. Bên cạnh đó, sẽ có thêm một Chính phủ bù nhìn miền Nam Việt Nam do Nguyễn Văn Xuân làm Chủ tịch. Đây là một thủ đoạn tiến công chính trị đối với ta. Địch sẽ nhân cơ hội này mà vận động các lực lượng phản quốc, cám dỗ bọn nhát gan và bọn cơ hội, tuyên truyền mê hoặc dân ta hòng chia rẽ và làm yếu mặt trận dân tộc thống nhất của ta.
Thông cáo của Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ của ta là phải vạch rõ mưu đồ "dùng người Việt trị người Việt", mưu mô lập chính phủ bù nhìn toàn quốc của địch. Cần nói rõ cho quốc dân đồng bào hiểu rõ Bảo Đại đóng một vai trò hại nước như thế nào.
Trung ương yêu cầu các cấp bộ Đảng nhân dịp kỷ niệm một năm kháng chiến toàn quốc (19-12-1947), nên tổ chức họp quần chúng, nói rõ mưu mô của Pháp và vận động quần chúng gửi điện ủng hộ Quốc hội, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, đồng thời phản đối mưu gian của Pháp và tất cả các hạng bù nhìn tay sai nước ngoài.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.340-342.
NGÀY 19-12
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân kỷ niệm một năm kháng chiến toàn quốc
Nhân kỷ niệm một năm kháng chiến toàn quốc, ngày 19-12-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Người viết: Từ ngày đầu xâm lược, thực dân Pháp huênh hoang sẽ chinh phục nước ta trong thời gian ngắn dăm ba tuần, chậm thì 3 tháng nhưng kết quả thực tế là: chúng mất hơn 20.000 lính Pháp chết và bị thương, tốn hơn 3.000 triệu bạc, mà chỉ chiếm được mấy thành phố đổ nát hoang tàn; Chính phủ Pháp và Bộ chỉ huy xâm lược Việt Nam phải thay đổi mấy lần; nhân dân Pháp đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa hao người, tốn của. Còn về phía ta thì chúng ta biết trước rằng kháng chiến ắt phải gay go, phải trường kỳ, nhưng chắc chắn sẽ thắng lợi. Vì vậy, mặc dầu gian nan cực khổ, nhân dân ta ngày càng đoàn kết, càng hăng hái, càng kiên quyết kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng... Chính phủ ta càng thêm oai tín, càng được ủng hộ vì là một Chính phủ kiên quyết kháng chiến, một Chính phủ đại đoàn kết, một Chính phủ đồng cam cộng khổ với dân, một Chính phủ của dân… Lực lượng của chúng cũng như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng cũng gần tắt nghỉ… Lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến, không có thoái.
Người khen ngợi động viên các tướng sĩ, công nhân, công chức, đồng bào hậu phương, các cháu nhi đồng, kiều bào ở hải ngoại đã hết lòng tham gia, giúp đỡ kháng chiến. Người cũng cám ơn các dân tộc yêu chuộng chính nghĩa trên thế giới, nhân dân Pháp đã ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước "quyết không đầu hàng địch quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ một lần nữa".
Người trịnh trọng tuyên bố và hứa với đồng bào: “Chính phủ Hồ Chí Minh thề quyết lãnh đạo nhân dân và quân đội chiến đấu đến cùng, để phá tan xiềng xích của bọn thực dân, để tranh lại quyền thống nhất và độc lập. Chính phủ Hồ Chí Minh quyết làm trọn cái nhiệm vụ vẻ vang mà quốc dân đã giao cho và quyết không phụ lòng tin cậy mà đồng bào đã đặt vào Chính phủ”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.313-316.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 20-12
Hội nghị đại biểu Xứ uỷ Nam Bộ
Hội nghị diễn ra tại Kinh Năm Ngàn, xã Nhơn Ninh, huyện Mộc Hoá, Đồng Tháp Mười, căn cứ của Khu 8. Đây là Hội nghị đại biểu đầu tiên có mặt đông đủ đại biểu các tỉnh uỷ, khu uỷ. Đồng chí Lê Duẩn chủ trì Hội nghị.
Hội nghị bàn và ra nghị quyết về các vấn đề chính trị (tăng cường vai trò của Hội Liên Việt, tranh thủ lôi kéo các đảng phái, tôn giáo, giúp dỡ phong trào cách mạng ở Cao Miên...) quân sự, hành chính, kinh tế tài chính...
Hội nghị chú trọng đặc biệt về công tác Đảng. Nghị quyết Hội nghị viết để chỉ huy sát với tình thế, Xứ uỷ “phải được coi là phần cục của Trung ương nghĩa là phải phụ trách chỉ huy Cao Miên và Nam phần Trung Bộ".
Hội nghị đã bầu ra Xứ uỷ chính thức do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.349-358.
- Nam Bộ - Thành đồng Tổ quốc đi trước về sau, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.64, 142, 528.
NGÀY 31-12
Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo gửi các Khu uỷ và Tỉnh uỷ về chấn chỉnh tổ chức, phân công giữa Đảng và Mặt trận
Cho đến cuối năm 1947, công việc của Đảng, của Việt Minh và Liên Việt thiếu sự phân công rõ ràng. Ở các địa phương, Khu uỷ có khi còn kiêm thêm cả việc của Việt Minh và Liên Việt; hành chính và kháng chiến. Thực trạng đó làm cho công việc của Đảng và quần chúng rất lủng củng, bề bộn; tổ chức không phát triển mạnh được, lãnh đạo không được sáng suốt và mau lẹ; Đảng luôn luôn ở trong tình trạng thiếu cán bộ và không đào tạo được cán bộ mới.
Thường vụ Trung ương quyết định:
a) Các cấp bộ Đảng và Việt Minh phải có tổ chức riêng biệt để công tác khỏi lẫn lộn. Tổ chức Đảng đoàn trong mỗi cấp bộ Việt Minh để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
b) Công việc mặt trận phải do các cấp bộ Việt Minh ra chỉ thị. Về báo cáo thì mỗi cấp phải làm hai bản mỗi kỳ. Một gửi lên cấp trên (Việt Minh), một gửi cho cấp tương đương ngành ngang (Đảng).
c) Mỗi cấp bộ phải mở lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh để đưa vào các cấp đương chỉnh đốn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.359-360.
____________
1. Có không ít sách in là: "Các em là đội quyết tử. Các em quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh" chẳng hạn như cuốn Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.26-27 và cuốn Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994. Theo ý kiến chúng tôi thì "quyết tử” chứ không phải "cảm tử” vì Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý dùng cụm từ "quyết tử” để đối với "quyết sinh”; vả lại các nhân chứng lịch sử đều biết rõ các khẩu hiệu viết trên tường ở Thủ đô là "Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh” (BT.) .
2. Trong cuốn sách Tổng kết cuộc kháng chiến chống Pháp, thắng lợi và bài học của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh thuộc Bộ Chính trị do Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 gọi Hội nghị này là Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng.
3. Cụ: tức Chủ tịch Hồ Chí Minh (BT.).
4. đ.c: tức đồng chí (BT).
5. Nội ưu ngoại hoạn có nghĩa là cái lo (cái nguy cơ) bên trong và cái lo (cái nguy cơ bên ngoài) (B.T).
Năm 1948 NGÀY 1-1
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Hãy đẩy mạnh cuộc vận động luyện quân đội, lập chiến công
Ngày 10-11-1947, Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam ra Huấn lệnh Luyện quân đội, lập chiến công (gọi tắt là luyện quân, lập công) nhằm gây một phong trào ganh đua luyện tập và thi đua, giết giặc trong bộ đội chính quy và các đội du kích. Huấn luyện đã định thời hạn của cuộc vận động luyện quân, lập công từ ngày 15-12-1947 đến ngày 15-4-1948.
Để cuộc vận động đạt kết quả, ngày 1-1-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị nêu rõ: hãy đẩy mạnh cuộc vận động này. Các đảng viên trong bộ đội phải làm gương mẫu, xung phong trong cuộc vận động. Còn Đảng ta lấy danh nghĩa Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác cùng các đoàn thể Cứu quốc trong Việt Minh và cùng Hội Liên Việt tham gia ủng hộ cuộc vận động bằng những cách sau:
- Viết thư tặng cờ khuyến khích khen ngợi các chiến sĩ (cá nhân hay toàn đội) đã lập được chiến công đáng kể, hoặc đã nêu gương luyện tập, nêu gương sinh hoạt và làm việc có quy củ.
- Phái những đoàn đại biểu đến thăm các đơn vị đã lập chiến công oanh liệt hoặc đã nêu gương luyện tập và công tác…
- Cùng các đoàn thể Việt Minh và Liên Việt chia nhau đỡ đầu cho những bộ đội nào khá nhất. Nhận rõ bổn phận mà người đỡ đầu là phải chăm nom, săn sóc, giúp đỡ "con nuôi" về mọi phương diện vật chất và tinh thần. Cần vận động những nhà giàu có uy tín đứng đỡ đầu cho một đơn vị bộ đội, một quân y xá hay một trại thương binh nào đó, rồi lấy tên người đó đặt cho "con đỡ đầu”...
- Động viên báo chí ra sức tuyên truyền cổ động cuộc vận động luyện quân, lập công.
- Cùng các đoàn thể chia nhau đặt giải thưởng (bằng tiền, quần áo, sách báo, vũ khí,...) cho các đơn vị đánh giỏi hoặc luyện tập khá.
- Đề nghị Tổng chỉ huy đặt huy hiệu riêng cho các chiến sĩ đã tham gia các trận Sông Lô, Thất Khê, Phủ Thông, Cây số bảy.
- Đề nghị Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy định các cấp chỉ huy, định rõ các cấp cho các tướng sĩ1 và gắn huy chương một cách trọng thể cho các tướng sĩ lập được chiến công, truy tặng các chiến sĩ đã hy sinh, cấp đỡ gia đình họ.
Chỉ thị yêu cầu các cấp Đảng bộ từ khu đến tỉnh, phủ, huyện phải thảo luận kỹ càng Chỉ thị và định kế hoạch tham gia cuộc vận động luyện quân, lập công.
Thực hiện Chỉ thị, các cấp ủy Đảng trong quân đội đã đẩy mạnh phong trào luyện quân, lập công trong đơn vị mình và các đoàn thể Cứu quốc, Tổng bộ Việt Minh, Hội Liên Việt đã tích cực tham gia cổ động, khuyến khích phong trào bằng nhiều hình thức: đỡ đầu các đơn vị quân đội vận động các thân hào thân sĩ có danh tiếng và có của đỡ đầu các đơn vị quân đội, khao quân khi có đơn vị bộ đội đánh thắng trận. Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy quy định những hình thức khen các cá nhân và đơn vị lập được nhiều thành tích trong luyện tập và tác chiến. Cuộc vận động "luyện quân, lập công” đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng quân đội ta ngày càng lớn mạnh, trở thành quân đội bách chiến bách thắng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.1-4.
TỪ NGÀY 15 ĐẾN NGÀY 17-1
Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Sau chiến thắng Việt Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị Trung ương (mở rộng) tại Việt Bắc từ ngày 15 đến ngày 17-1-1948, nhằm đánh giá tình hình cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ của giai đoạn mới.
Về tình hình cuộc kháng chiến sau thắng lợi ở Việt Bắc, Hội nghị nhận định: "Về phía chúng, các khả năng chiến tranh đã giảm sút, còn về phía ta, các khả năng kháng chiến đã tăng thêm và sẽ càng tăng thêm. Lực lượng so sánh giữa ta và địch đã biến chuyển. Đã đến lúc chúng không thể tự do tung lực lượng ra chiếm đất ta một cách dễ dàng như trong thời kỳ kháng chiến toàn quốc mới nổ... và chiến dịch Việt Bắc là một cái đà cho ta nhảy sang giai đoạn thứ hai của cuộc kháng chiến lâu dài". Hội nghị dự đoán: "Năm 1948 đồng thời là năm có nhiều triển vọng mới, nhưng cũng là năm kháng chiến rất gian khổ gay go. Chiến tranh thực sự sẽ diễn ra khắp nước” vì địch đang chuẩn bị đánh ra vùng tự do, càn quét dữ dội hơn ở đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời sẽ thành lập Chính phủ bù nhìn toàn quốc, lập các xứ Nùng, xứ Thái, xứ Mường "tự trị", tổ chức đội thân binh cho Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, chia rẽ dân có đạo và dân không có đạo.
Căn cứ vào những chuyển biến mới của tình hình, Hội nghị chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới và đề ra những nhiệm vụ như sau:
Về quân sự: ra sức phát triển dân quân, phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là trong vùng địch kiểm soát; xúc tiến việc luyện quân, lập công, tập dượt, tập trung đánh vận động tiêu diệt một bộ phận địch; thực hiện phương châm tác chiến "du kích chiến là chính, vận động chiến là phù trợ", “giúp Lào và Miên mở rộng chiến trường" buộc địch phải phân tán lực lượng…
Về chính trị: củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện khẩu hiệu "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", củng cố Việt Minh, phát triển Liên Việt; phá chính sách "dùng người Việt hại người Việt” của thực dân Pháp, phá mọi chính quyền bù nhìn; cảnh giác với đế quốc Mỹ có âm mưu can thiệp vào Việt Nam; củng cố chính quyền dân chủ kháng chiến; tăng cường công tác vùng sau lưng địch, phá tề trừ gian, đẩy mạnh công tác địch vận.
Về kinh tế tài chính: phá kinh tế tài chính địch; thực hiện tự cấp tự túc, cải thiện dân sinh; tịch thu tài sản, ruộng đất của bọn phản quốc cấp cho dân nghèo và gia đình bộ đội; triệt để thực hiện giảm tô 25%; chia lại công điền một cách hợp lý và công bằng; quy định luật lao động và chế độ thích hợp trong thời chiến.
Về văn hoá: động viên mọi lực lượng văn hoá phục vụ kháng chiến; chấn chỉnh giáo dục, xoá nạn mù chữ, đào tạo nhân tài và cán bộ cho các ngành.
Về hành chính: kiện toàn bộ máy hành chính từ trên xuống dưới; hợp nhất các khu ở Bắc Bộ thành các liên khu.
Hội nghị chú trọng đến việc phát triển và củng cố Đảng để Đảng đủ năng lực gánh vác những nhiệm vụ lịch sử mới. Đảng phải tích cực gây cơ sở Đảng ở những nơi lực lượng Đảng còn rất kém: vùng địch kiểm soát, nhất là những nơi tập trung công nhân; ở Miên, Lào; vùng biên giới; các cơ quan chuyên môn của Chính phủ; bộ đội và dân quân. Phải đặt công tác củng cố Đảng thành vấn đề trọng yếu; củng cố các chi bộ để có thể tự động lãnh đạo mọi mặt ở địa phương; chấn chỉnh bộ máy chỉ đạo và chuyên môn ở tất cả các cấp, nhất là ban tổ chức của Đảng lên kịp trình độ chính trị; tăng cường giáo dục cho tất cả đảng viên về ý thức giai cấp, tinh thần kỷ luật và đạo đức cách mạng; chấn chỉnh và nâng cao công tác huấn luyện; trong 6 tháng tới, bầu lại tất cả các cấp ủy Đảng bộ huyện, tỉnh, khu chính thức bằng Hội nghị đại biểu; chuẩn bị Đại hội toàn quốc của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.16-50.
NGÀY 19-1
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phá hội tề
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng, trước âm mưu địch đang lập hội tề ở các làng trong vùng chúng kiểm soát, ngày 19-1-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phá hội tề.
Chỉ thị chỉ rõ: "Hội tề là gì?". Đó là "một tổ chức hành chính bù nhìn của giặc Pháp lập ở các làng trong vùng chúng kiểm soát”. Giặc Pháp lập hội tề nhằm "dùng người Việt hại người Việt", dựng lại chức quyền của hương lý, kỳ mục cũ để áp bức, bóc lột dân ta, để thu thuế, thu thóc, bắt lính, bắt phu tuần phòng canh gác cho chúng, giúp chúng phá hoại các tổ chức kháng chiến và hành chính của ta, chụp bắt cán bộ ta, giúp chúng tuyên truyền lừa phỉnh dân ta.
Sau đó, Chỉ thị nêu rõ chủ trương của Đảng và Chính phủ đối với hội tề: ta phải tìm hết cách phá hội tề cũng như mọi tổ chức bù nhìn khác, đồng thời phải củng cố cơ quan chính quyền của ta ngay trong vùng địch kiểm soát. Tuy nhiên, ta phải hết sức khôn khéo và mềm mỏng, tuỳ theo hoàn cảnh, tuỳ theo tình thế mà định cách đối phó với hội tề cho đúng: có nơi phải dùng vũ lực khủng bố, giải tán hội tề, có nơi phải dùng lời lẽ thuyết phục. Song dẫu sao, trước khi khủng bố, cần thuyết phục và hăm doạ trước một cách gián tiếp, thuyết phục và hăm doạ không được sẽ khủng bố. Làm như thế thì nhân dân cảm phục chính sách của ta, ta cũng có thể biến những tổ chức bù nhìn của địch thành lợi khí của ta trong những vùng không thể triệt để bỏ hội tề hoặc vì hoàn cảnh đặc biệt, triệt để bỏ hội tề không bằng lợi dụng hội tề. Có khi, có nơi do địch o ép, khủng bố dữ dội, nhân dân đã chịu đựng tới cực điểm, không thể cưỡng việc lập hội tề được nữa, thì ta phải chủ trương đưa người tin cẩn đứng ra nhận lập hội tề đặng lợi dụng hội tề, chứ không nên để quần chúng bị khủng bố, uy hiếp quá nặng nề đến nỗi mất tinh thần mà đành chịu nhận những hội tề đểu giả, hoặc nhận lập hội tề với những điều kiện hết sức bi đát.
Chỉ thị còn đề ra những phương pháp cụ thể đối với hội tề trong các tình huống ở địa phương.
Khi Pháp đang chuẩn bị lập hội tề ở một địa phương ta phải: buộc những phần tử bất mãn hay lưu manh phải tản cư xa vùng tự do, rồi một mặt bao vây giám sát chặt họ, một mặt thuyết phục họ, nếu cần có thể bắt giam bọn nguy hiểm ương ngạnh, cho người kèm sát bọn lừng chừng trong đám hào lý cũ để lôi kéo họ về phía ta và bảo vệ họ khỏi bị Pháp bắt ép lập hội tề; ở những nơi mà dân đã chịu đựng tới cực điểm, không thể cưỡng được việc lập hội tề (do ở gần vị trí địch, bị bao vây bởi các hội tề phản động ở các làng chung quanh, bị khủng bố quá mạnh), phải chọn những phần tử trung kiên (đảng viên càng tốt) đưa ra nhận lập tề. Đương nhiên, cần có kế hoạch cho sát, tỷ mỷ và linh động cho người của ta đứng ra lập tề như định rõ cách làm việc, cách đối phó với địch, cách liên lạc với ta,...
Khi Pháp đã lập xong hội tề ở một địa phương rồi thì ta phải: đối phó bằng cách thuyết phục và hăm doạ (mời hội tề gặp ta ở nơi chắc chắn, hoặc vũ trang vào tận nhà hay gửi thư cho hội tề để kêu gọi, thuyết phục, đồng thời cảnh cáo; xung phong diễn thuyết vào các làng có hội tề để hô hào ra hàng, dùng hội tề để theo ta mà lôi kéo các hội tề khác; vũ trang đột nhập nhà các nhân viên hội tề để bắt họ làm giấy cam đoan phải bảo vệ ta, báo tin tức của Pháp cho ta (ta giữ một bản để hăm dọa nếu bội phản sẽ gửi cho Pháp nhằm khống chế họ). Còn đối với bọn hội tề ngoan cố và phản động thì cho đội danh dự trừ gian ám sát hoặc bắt đem xử trước dân chúng, đem du kích tập kích vào làng có hội tề phản động, tước súng lính dõng và bắt nhân viên hội tề, làm cho bọn hội tề khác hoảng sợ.
Ở những nơi ta không thuyết phục được hoặc cũng chưa thể dùng vũ lực để giải tán hội tề thì ta phải dùng cách ly gián: bằng thư nặc danh hoặc phao tin đồn để gây sự nghi ngờ giữa Pháp và hội tề, giữa các hội tề, giữa hội tề với bọn bù nhìn ở phủ huyện, giữa bọn bù nhìn phủ, huyện.
Trong các làng có hội tề, ta cần vận động nhân dân đấu tranh bằng các hình thức như bí mật tản cư đi nơi khác, lãn công, trốn lính, trốn phu, dùng biểu tình gây áp lực bắt hội tề phải yêu cầu Pháp miễn việc đi phu, đi lính, nộp thực phẩm, xoá thuế hay giảm thuế. Mặt khác, ta vận động hội tề đấu tranh chống Pháp bằng cách: khất lần việc phải nộp thuế, đi phu, đi lính,...; yêu sách đòi Pháp giảm nhẹ hay bãi lệnh lấy cớ là nếu cứ làm thì dân oán, không làm việc được.
Ta cần tiến hành võ trang kinh lý vào những khu địch chiếm đóng, kiểm soát để nhân dân thấy rõ sự vững vàng của chính quyền ta, tranh thủ những người lừng chừng, thuyết phục được hội tề.
Chỉ thị nhắc nhở: điều quan trọng nhất là chính quyền ta phải bí mật tồn tại ngay trong vùng địch kiểm soát, nắm được dân, có sức thuyết phục hoặc khống chế được hội tề.
Thực hiện chỉ thị, các cấp Đảng và chính quyền ở vùng địch kiểm soát đã tích cực xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ngay trong vùng địch kiểm soát, chuẩn bị cho đợt tổng phá tề cuối năm 1948, đưa chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, tạo ra các căn cứ - hậu phương ngay trong vùng bị địch tạm chiếm.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tòan tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.9-15.
NGÀY 25-1
Hợp nhất các khu thành liên khu
Ngày 20-1-1948, Nghị quyết Hội nghị Trung ương mở rộng đã quyết định: "Bảy khu Bắc Bộ sẽ hợp thành ba khu và nhân dịp thống nhất các khu này, các Uỷ ban Kháng chiến kiêm hành chính các khu ấy phải được chấn chỉnh lại.
Trừ Nam Bộ ra, vẫn có Uỷ ban Kháng chiến hành chính riêng còn các kỳ khác đều tiến tới thủ tiêu Uỷ ban Hành chính kỳ".
Đến ngày 25-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 120-SL tổ chức lại các khu.
Bảy khu ở Bắc Bộ thành ba liên khu: Khu 1 và Khu 12 thành Liên khu I; Khu 2, Khu 3 và Khu 11 thành Liên khu III; Khu 10 và Khu 14 thành Liên khu X. Khu 4 thành Liên khu IV, trong đó bao gồm cả Phân khu Bình - Trị - Thiên. Khu 5 và khu 6 hợp nhất thành Liên khu V. Nam Bộ vẫn giữ ba khu 7, 8, 9 và Đặc khu Sài Gòn - Chợ lớn.
Liên khu là đơn vị hành chính do Liên khu ủy và Uỷ ban kháng chiến kiêm hành chính liên khu chỉ đạo và là đơn vị trực thuộc Trung ương. Cấp dưới trực thuộc liên khu là các tỉnh, thành.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.33-34.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân Hà Nội, 1999, Hà Nội, tr.60-61.
NGÀY 25-1
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ hai
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng (l-1948), Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ hai được tổ chức tại Tuyên Quang từ ngày 25 đến ngày 29-1-1948 với sự tham dự của 30 đại biểu.
Hội nghị đã thảo luận Dự án Chương trình hoạt động của Công an Việt Nam do đồng chí Tổng Giám đốc Việt Nam Công an vụ trình bày và thống nhất các vấn đề:
- Tiến hành đào tạo quận trưởng công an theo chương trình huấn luyện thống nhất của Nha Công an, huấn luyện thêm cho những quận trưởng yếu về năng lực công tác.
- Công tác đào tạo các tổ trưởng điều tra, cảnh giới và hành động ở các khu, ty công an phải theo chương trình do Nha Công an soạn thảo. Các khu phải có báo cáo về các vấn đề: công giáo, đảng phái, hội tề, do thám của địch, công sở của địch, kinh tế - tài chính, Hoa kiều, thân binh, dân tộc thiểu số, cảnh giới, phá hoại để Nha có tài liệu soạn thảo chương trình huấn luyện.
- Cần ấn định tổ chức mới cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ hiện tại. Nha Công an Trung ương đặt thêm ty tuyên nghiên huấn và kiểm tố; đặt Sở công an liên khu, thêm chức phó giám đốc công an liên khu...
Ở cấp tỉnh, trưởng ty công an kiêm trưởng ban chính trị. Cần phải quán triệt tinh thần xây dựng bộ máy công an gọn nhẹ, bảo đảm bí mật để phù hợp với tình hình thời chiến.
Hội nghị đã vạch chương trình hoạt động của công an trong sáu tháng tới gồm tám phần việc:
- Đào tạo quận trưởng, huấn luyện bổ túc quận trưởng cũ.
- Đào tạo tổ trưởng điều tra, cảnh giới, hành động giỏi.
- Ấn định một hệ thống tổ chức thích hợp và thống nhất cả ngang lẫn dọc cho toàn quốc.
- Gọn nhẹ và bảo đảm bí mật bộ máy.
- Cách mạng hoá bộ máy công an.
- Triệt để phá chính quyền bù nhìn.
- Tích cực xúc tiến công tác phản gián, trừ diệt do thám, đặc vụ, Việt gian, trộm cướp, cờ bạc.
- Tích cực phá hoại âm mưu, kế hoạch kinh tế, tài chính và tiếp tế của địch.
Các Sở và Ty công an địa phương căn cứ vào chương trình hành động của Nha Công an kết hợp với tình hình thực tế ở địa bàn để đề ra chương trình hành động cụ thể góp phần thúc đẩy kháng chiến thắng lợi.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.139-141.
NGÀY 14-2
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc vận động thân binh
Sau thất bại ở Việt Bắc cuối năm 1947, thực dân Pháp buộc phải chuyển từ chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" sang chiến lược đánh kéo dài với chính sách căn bản là “dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Chúng ráo riết chuẩn bị lập chính phủ bù nhìn toàn quốc, mua chuộc và bắt ép một số dân chúng đi lính, tổ chức ra các đội thân binh gắn cho cái tên là "quân quốc gia” để vũ trang cho chính phủ bù nhìn, đẩy "quân quốc gia" ấy chống chính phủ và nhân dân ta, bổ sung lực lượng cho quân đội viễn chinh ngày càng bị thiếu hụt và phân tán trong khi tiến hành các cuộc hành quân chiếm đóng, càn quét, bình định. Bởi vậy, việc vận động thân binh, tức ngụy quân, trở thành một việc quan trọng cấp bách.
Ngày 14-2-1948, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Về việc vận động thân binh. Chỉ thị ấn định những nguyên tắc chính của công tác này như sau:
Một là, tuyên truyền giải thích để không một ai chịu đi lính cho địch, nếu bị bắt ép thì bỏ trốn; tiễu trừ bọn Việt gian đứng ra chiêu mộ thân binh cho Pháp, tìm mọi cách làm cho địch không tổ chức được thân binh ở địa phương mình.
Hai là, ở những nơi mà quần chúng bị địch ép buộc, khủng bố dữ dội hoặc có người lầm đường đi lính thì phải bí mật cử một số cán bộ thật trung thành và có năng lực, đã được huấn luyện đặc biệt luồn vào hàng ngũ quân ngụy để tuyên truyền vận động làm tan rã hàng ngũ quân ngụy.
Ba là, đối với các đội thân binh đã được thành lập thì trừ bọn cầm đầu phản động, nói chung không nên coi thân binh là Việt gian phản quốc, mà cố gắng kêu gọi họ trở về với Tổ quốc.
Chỉ thị còn nêu rõ cách thức tuyên truyền, vận động thân binh bỏ hàng ngũ địch trở về với Tổ quốc.
Thực hiện Chỉ thị này, các đảng bộ địa phương và trong quân đội đã lãnh đạo toàn quân và toàn dân ta tiến hành công tác vận động ngụy quân dưới nhiều hình thức như tổ chức cho thanh niên ra vùng tự do để tránh bị bắt đi lính, vận động các gia đình có chồng con bị bắt đi lính đòi chồng con về với gia đình, phát động chiến tranh du kích chống các cuộc càn quét bắt lính của địch, cài người vào hàng ngũ địch để tuyên truyền vận động ngụy binh nổi dậy, giết bọn chỉ huy, đem súng về với kháng chiến,…
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.57-59.
NGÀY 18-2
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tịch thu ruộng đất, tài sản của Việt gian phản quốc
Hội nghị Trung ương mở rộng họp ngày 15, 16, 17-1-1948 đã quyết định tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian phản quốc cấp cho dân cày. Thực hiện chủ trương đó, ngày 18-2-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị gửi các khu ủy về việc tịch thu ruộng đất, tài sản của bọn Việt gian phản quốc.
Chỉ thị yêu cầu các khu ủy cần lập ngay danh sách bọn Việt gian phản quốc từ trước khởi nghĩa đến bấy giờ và điều tra ruộng đất, tài sản của chúng, truy tố chúng trước pháp luật. Nghiên cứu cách thức chia ruộng đất thế nào cho công bằng, thích hợp. Muốn liệt một người vào hạng Việt gian phải căn cứ vào những hành động cụ thể, không nên mơ hồ. Khi tịch thu ruộng đất, tài sản của bọn Việt gian, phải để cho vợ con họ có những phương tiện sinh sống, nếu những kẻ ấy vô can. Đối với những kẻ cơ hội cần khoan hồng. Trong việc tuyên truyền không nên làm cho giới tư sản, điền chủ hiểu lầm rằng: đây là một bước đầu để nay mai sẽ đi tới tịch thu ruộng đất địa chủ, do đó họ có thể sinh hoang mang lo sợ.
Chỉ thị của Trung ương nhằm mục đích trừng trị bọn phản quốc để nêu gương, đồng thời thi hành một phương sách cải thiện, nâng cao đời sống cho dân cày.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.60-61.
NGÀY 20-2
Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia Việt Nam ra Chỉ thị về xây dựng căn cứ địa Tây Bắc
Sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp ra sức mở rộng và củng cố phạm vi kiểm soát vùng Tây Bắc ra đến hữu ngạn sông Hồng nhằm bao vây, cô lập Việt Bắc, phong tỏa biên giới Việt - Trung. Dựa vào bọn phản động trong các dân tộc thiểu số, chúng thiết lập và củng cố nguỵ quyền, ngụy quân tiến hành càn quét và bình định. Cơ sở kháng chiến ở nhiều nơi bị tan vỡ, ta bị mất đất, mất dân.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng quyết định hợp nhất Khu 10 và Khu 14 thành Liên khu X, tăng cường lực lượng kháng chiến cho vùng Tây Bắc. Ngày 20-2-1948, Bộ Tổng chỉ huy ra Chỉ thị về xây dựng căn cứ địa Tây Bắc. Chỉ thị nêu rõ: "Nhiệm vụ giải phóng cho đồng bào Tây Bắc và xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là một nhiệm vụ căn bản của Liên khu X". Chỉ thị yêu cầu Liên khu X phải phá kế hoạch bao vây biên giới của địch, đưa các đội xung phong công tác, đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập vào vùng địch tạm chiếm, phát động phong trào toàn dân đánh giặc, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiến tới xây dựng và mở rộng căn cứ địa Tây Bắc.
Tháng 3-1948, bốn đội xung phong công tác của Liên khu X đã được thành lập. Cán bộ, đội viên là các cán bộ huyện ủy, cán bộ tiểu đoàn, đại đội, trung đội của bộ đội chủ lực, những chiến sĩ người địa phương hoặc không thuộc địa bàn. Mỗi đội gồm nhiều tổ, phân chia theo hai nhiệm vụ: xung phong phát triển và xung phong củng cố. Bộ phận làm nhiệm vụ phát triển đi trước đặt cơ sở rồi giao lại cho bộ phận sau làm nhiệm vụ củng cố. Sau đó, đến lượt đội vũ trang tuyên truyền thâm nhập hoạt động khi có điều kiện. Tiếp sau là các đại đội độc lập đi sâu vào vùng địch tạm chiếm. Tất cả các lực lượng tiến hành một cuộc chiến đấu thầm lặng, đầy hy sinh, gian khổ.
Đội xung phong Quyết thắng tiến vào hướng Bát Xát, Phong Thổ (Lào Cai).
Đội xung phong Trung dũng hướng vào Mộc Châu, Yên Châu, Thuận Châu (Sơn La) phát triển lên Điện Biên Phủ.
Đội xung phong Lào Bắc tiến vào biên giới Việt - Lào sang Phong Xa Lỳ.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.l.
TỪ NGÀY 6 ĐẾN NGÀY 11-3
Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ hai
Theo Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương quyết định triệu tập Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ hai từ ngày 6 đến ngày 11-3-1948. Tham dự Hội nghị có các đồng chí chính trị ủy viên khu và chính trị viên trung đoàn. Các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng chủ trì Hội nghị.
Hội nghị đã nghe và thảo luận các báo cáo sau đây:
1- Báo cáo về nhiệm vụ chiến lược, chiến thuật và nhiệm vụ công tác chính trị trong giai đoạn hiện tại do đồng chí Võ Nguyên Giáp trình bày.
2- Báo cáo về tình hình công tác chính trị trong bộ đội do đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày.
3- Báo cáo về tình hình thế giới, tình hình trong nước và nhiệm vụ chính trị của quân đội do đại biểu của Tổng bộ Việt Minh trình bày.
4- Các báo cáo bổ sung về công tác chính trị trong các khu và các đơn vị độc lập do các đồng chí chính trị ủy viên khu và chính trị viên trung đoàn trình bày.
Hội nghị đã quán triệt nhiệm vụ của toàn quân là “phát động chiến tranh du kích rộng rãi", "đẩy mạnh vận động chiến", "bồi dưỡng lực lượng, khuếch trương bộ đội"; nhiệm vụ của công tác chính trị là phải bảo đảm thực hiện phương châm chiến lược, động viên bộ đội nêu cao tinh thần anh dũng, đoàn kết thống nhất, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, chống các biểu hiện của tư tưởng chủ quan, quân phiệt để hoàn thành nhiệm vụ.
Hội nghị ra Nghị quyết về hệ thống tổ chức công tác chính trị, nhiệm vụ và quyền hạn của các cấp chính trị trong quân đội, chế độ chính trị ủy viên và việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chính trị cho cán bộ quân sự.
Về hệ thống tổ chức, Hội nghị quyết định: cấp tiểu đoàn không có Ban Chính trị, trừ các tiểu đoàn độc lập, lưu động; cơ quan chính trị ở đại đội đổi tên là Ban công tác chính trị đại đội.
Về chế độ chính trị ủy viên, Hội nghị đã quy định chế độ chính trị ủy viên từ cấp trung đoàn trở lên và chế độ chính trị viên từ cấp tiểu đoàn trở xuống. Chính trị ủy viên là người thay mặt Bộ tổng chỉ huy ở đơn vị và có quyền tối hậu quyết định về chính trị, quân sự, tài chính, nhưng không trực tiếp chỉ huy quân sự và lấn át sang công tác chuyên môn của đội trưởng. Chính trị viên từ tiểu đoàn trở xuống kiêm chỉ huy quân sự và chịu trách nhiệm trước cấp trên. Tiến tới bỏ chế độ chính trị viên ở cấp trung đội, trừ các trung đội vũ trang tuyên truyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Hội nghị, nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của chính trị viên đối với đơn vị bộ đội: "Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt”. Người nêu ra ba nhiệm vụ chính của người chính trị viên vô luận ở cấp bậc nào và những nội dung chính của các nhiệm vụ đó. "Đối với bộ đội, chính trị viên phải thân thiết như một người chị, công bình như một người anh, hiểu biết như một người bạn. Đối với dân, “Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội… Đối với quân địch, " Chính trị viên phải biết cách tuyên truyền khôn khéo, thiết thực, để giác ngộ họ, lôi kéo họ về phía ta".
Hội nghị Chính trị viên toàn quốc lần thứ hai đánh dấu bước chuyển biến của công tác chính trị trong quân đội, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân, đối với quân đội.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.392-393.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.64.
NGÀY 11-3
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra sáu điều về tư cách người Công an cách mạng
Ngày 11-3-1948, sau khi nhận được tờ nội san Bạn dân số Tết của Công an Khu 12 do đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an Khu 12 gửi biếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng chí Hoàng Mai. Trong thư, Người căn dặn: “Trên báo, cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc". Người nêu: “Tư cách của người Công an cách mệnh là:
- Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
- Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
- Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
- Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
- Đối với công việc, phải tận tụy.
- Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo" .
Sáu điều về tư cách người Công an cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra đã trở thành mục tiêu phấn đấu của người công an trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Lực lượng công an trong cả nước phát động phong trào học tập và làm theo sáu điều dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1951, Sở Công an Nam Bộ xuất bản cuốn sách 6 lời dạy của Hồ Chủ tịch để cán bộ, chiến sĩ công an học tập, kiểm thảo và thực hiện theo lời Bác. Cuốn sách nêu rõ "6 điều” đó "lời ít nhưng ý nghĩa thật nhiều, tổng kết tất cả đạo đức và kỷ luật của người Công an cách mệnh".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.406-407.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.147-148.
TỪ NGÀY 15 ĐẾN NGÀY 25-3
Chiến dịch Nghĩa Lộ
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa Tây Bắc và trước mắt là tạo điều kiện thuận lợi cho các đội xung phong tiến vào Tây Bắc, Bộ chỉ huy Liên khu X sử dụng 4 tiểu đoàn mở chiến dịch Nghĩa Lộ (còn gọi là chiến dịch Gia Hội - Quang Huy) trên một địa bàn rộng, dài khoảng 200km từ Quang Huy tới Gia Hội. Quân ta diệt 7 đồn, gọi hàng 163 lính ngụy.
Chiến dịch này đã tạo thuận lợi cho công tác vùng địch tạm chiếm ở Tây Bắc, nhất là Yên Bái. Từ khẩu hiệu: “Chống nộp thuế", “Chống đi phu”, "Chống đi lính", quần chúng đã tiến lên đấu tranh ở mức cao hơn "Phá chính quyền địch, thành lập chính quyền nhân dân". Các đội du kích được thành lập, củng cố và phát triển. Nhiều vùng đã có những căn cứ kháng chiến.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954),Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.363.
NGÀY 18-3
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị đưa các đơn vị độc lập về cơ sở
Ngày 25-l0-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc đưa các đơn vị bộ đội về các phủ, huyện, châu để giúp đỡ phong trào du kích địa phương, xong nhiều nơi vẫn chưa thi hành. Do đó, ngày 18-3-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc đưa các đại đội độc lập về các phủ, huyện, châu.
Chỉ thị yêu cầu: các Khu ủy và các Quân ủy phải theo đúng huấn lệnh của Bộ Tổng chỉ huy lập tức thi hành việc đưa các đơn vị độc lập về cơ sở.
Chỉ thị của Thường vụ nhằm phát động mạnh mẽ phong trào du kích, chiến thuật căn bản của giai đoạn này và bỏ thái độ bản vị chủ nghĩa muốn giữ bộ đội trong tay của một số đồng chí trong quân đội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.64.
NGÀY 18-3
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc vận động công nhân
Chỉ thị nhận định: phong trào công nhân gần đây không phát triển mạnh. Phong trào trong các vùng địch kiểm soát cũng rất kém. Sở dĩ phong trào công nhân không lên cao được là vì: các cấp bộ Hội nhiều nơi ít chú ý giúp đỡ cho phong trào công nhân; phát triển Hội trong công nhân còn chưa có kế hoạch hợp lý.
Chỉ thị nêu rõ: để sửa chữa những khuyết điểm trên, Trung ương quyết định:
1- Các cấp bộ Hội phải đặc biệt giúp đỡ cho phong trào công nhân được phát triển, nhất là ở những nơi quan trọng trong các vùng địch chiếm đóng, các nhà máy điện, nước, xe lửa, hàng hải, hầm mỏ...
2- Các chi bộ công nhân nên giao cho các đồng chí cán bộ công nhân phụ trách.
3- Các cấp bộ Hội thường xuyên cho Ban công vận hiểu rõ tình hình trong Hội, trong Công nhân Phản đế, định kế hoạch vận động cho sát.
4- Cán bộ công vận và Hội đoàn trong tổ chức công nhân phải được nâng đỡ và sinh hoạt chính trị cũng như vật chất. Các cuộc Hội nghị mở rộng nên triệu tập các đồng chí ấy tham dự.
5- Chú ý đào tạo, nâng đỡ các đồng chí công nhân đưa vào các cấp chỉ đạo làm cho thành phần các cấp lãnh đạo thuần tuý hơn.
6- Việc điều động cán bộ theo đúng Chỉ thị của Trung ương. Những cán bộ công đoàn không phải là đồng chí thì do Tổng Liên đoàn có quyền tự điều động.
7- Các cấp bộ Hội cần giúp đỡ về tài chính cho công vận và các cấp công đoàn để họ có tiền hoạt động.
Chỉ thị nhấn mạnh: "Phát triển Hội trong giới công nhân và nâng cao phong trào công nhân trong cuộc kháng chiến là việc rất cần. Mong các đồng chí thi hành ngay Chỉ thị này".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.67.
NGÀY 27-3
Phát động phong trào thi đua ái quốc
Nhằm thúc đẩy việc hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ mà Hội nghị Trung ương mở rộng tháng 1-1948 đã đề ra, ngày 27-3-1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phát động phong trào thi đua ái quốc động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phát huy nhiệt tình cách mạng và trí sáng tạo, ra sức thi đua kháng chiến và kiến quốc.
Chỉ thị vạch rõ: "Mục đích thi đua ái quốc là làm sao cho kháng chiến mau thắng lợi, kiến thiết chóng thành công". Công nhân thi đua sản xuất ra nhiều súng đạn giết giặc. Nông dân thi đua làm ra nhiều thức ăn, vật dụng nuôi dân, nuôi bộ đội. Bộ đội và du kích thi đua bắn giỏi, cướp được nhiều súng đạn, giết được nhiều Tây. Viên chức thi đua cải tiến công tác, làm việc có hiệu quả. Các nhà tư sản, địa chủ ra sức mở mang kinh doanh, thực hiện khẩu hiệu "Người Việt dùng hàng Việt", “Tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc". Phạm vi thi đua ái quốc là cá nhân thi đua với cá nhân, đoàn thể với đoàn thể, cơ quan với cơ quan, các địa phương, các đơn vị bộ đội thi đua với nhau. Tóm lại, cả nước thi đua về mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá.
Ngày 11-6-1948, nhân dịp kỷ niệm 1000 ngày kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc. Người kêu gọi: "Bổn phận của người dân Việt Nam, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, binh; bất kỳ làm việc gì, đều cần phải thi đua nhau”. Trong Thơ chúc Tết Kỷ Sửu - 1949, Người viết:
“Người người thi đua,
Ngành ngành thi đua,
Ngày ngày thi đua,
Ta nhất định thắng.
Địch nhất định thua".
Ban vận động thi đua ái quốc Trung ương được thành lập do cụ Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban để chỉ đạo phong trào thi đua yêu nước. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nô nức hưởng ứng cuộc vận động. Từ đó, ngày 27-3 trở thành ngày truyền thống của phong trào thi đua ở nước ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.70-81.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.444-557.
NGÀY 15-4
Hội nghị Dân quân toàn quốc lần thứ hai
Theo chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, ngày 15-4, Hội nghị Dân quân toàn quốc lần thứ hai được triệu tập để đánh giá những mặt mạnh và mặt yếu của phong trào chiến tranh du kích.
Hội nghị biểu dương những thành tích của dân quân du kích toàn quốc trong các mặt đánh giặc, trừ gian, tiễu phỉ, phá giao thông địch, tăng gia sản xuất tự cấp tự túc và học tập bổ túc văn hoá, trong cuộc vận động "luyện quân, lập công”. Hội nghị biểu dương những đơn vị và hội viên dân quân, du kích đạt nhiều thành tích xuất sắc.
Hội nghị cũng chỉ rõ những thiếu sót của dân quân, du kích: chưa phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, chưa chủ động linh hoạt trong tác chiến, còn nặng về hình thức, ít thiết thực trong việc tổ chức và huấn luyện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới Hội nghị. Trong thư, Người nhiệt liệt biểu dương những ưu điểm và thành tích của dân quân, du kích: "Dân quân du kích đã có công khá to trong cuộc kháng chiến này". Người đặc biệt khen ngợi những đội phụ lão du kích và phụ nữ du kích, đồng thời chỉ rõ "những khuyết điểm cần phải sửa chữa ngay" như: có khuynh hướng sai lầm là ham đánh trận to, ham đánh những cứ điểm kiên cố của địch do chưa hiểu rõ ràng, chưa hiểu triệt để ý nghĩa du kích; chưa thiết thực thi hành sự tự cấp tự túc, xem thường việc tăng gia sản xuất; chưa biết tự động tìm địch mà đánh, chưa phối hợp thật chặt chẽ với Vệ quốc quân; ham hình thức, ít thiết thực trong công tác tổ chức và huấn luyện.
Người nêu ra bảy nhiệm vụ cụ thể của dân quân du kích phải thực hiện để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang: "Giết nhiều giặc, cướp nhiều súng, để giúp cho trường kỳ kháng chiến mau thắng lợi, thống nhất và độc lập mau thành công”.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, biến hậu phương địch thành tiền phương ta, sau Hội nghị Dân quân toàn quốc lần thứ hai, phong trào dân quân, du kích có những chuyển biến mới. Ở một số vùng địch kiểm soát, trước đây cán bộ và du kích bỏ đất, mất dân, nay cán bộ và du kích đã trở về bám đất, bám dân, gây dựng lại cơ sở kháng chiến. Nhiều tiểu tổ du kích bí mật đã phát triển thành những tiểu đội. trung đội du kích rải khắp các đường giao thông huyết mạch, len lỏi ven các thành phố, thị xã, thị trấn. Các đội du kích kiên cường bám dân, bám đất, bám địch, chiến đấu dũng cảm và mưu trí bảo vệ bản làng. Nhiều khu du kích và căn cứ du kích hình thành ngay trong vùng địch kiểm soát trở thành căn cứ hậu phương tại chỗ của kháng chiến. Nhiều làng kháng chiến kiểu mẫu xuất hiện. Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.415-416.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.67.
NGÀY 19-5
Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về vấn đề vận động nông dân
Hội nghị Trung ương mở rộng tháng 1-1948 nhấn mạnh việc chú trọng công tác nông vận, cải thiện sinh hoạt cho nông dân để động viên nông dân tham gia kháng chiến. Một số tỉnh, khu đã tổ chức Hội nghị cán bộ nông vận, nhưng việc điều tra nông thôn nhiều nơi vẫn chưa tiến hành.
Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề vận động nông dân, chỉ ra các nhiệm vụ cụ thể:
"l- Điều tra nông thôn về mọi mặt theo những điều đã vạch ra trong chỉ thị cuối tháng giêng.
2- Mở những cuộc Hội nghị nông dân ở các tỉnh, các khu.
3- Đặc biệt cho Trung ương biết về những ruộng đất, gia tài của bọn Việt gian phản quốc trong tỉnh".
Chỉ thị nhấn mạnh: "Phải nhận thức rõ địa vị quan trọng của nông dân trong cuộc kháng chiến hiện giờ và tương lai cách mệnh của nước ta. Phải đặt vấn đề vận động nông dân là một công tác rất khẩn thiết".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.140-141.
NGÀY 20-5
Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ tư
Nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, ngày 20-5-1948, Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ tư (miền Bắc Đông Dương) đã tiến hành. Dự Hội nghị có đông đảo cán bộ các tỉnh, thành ở miền Bắc Việt Nam. Hội nghị thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:
Về kế hoạch quân sự mùa hè, Hội nghị vạch rõ nhiệm vụ của ta là: "tích cực lợi dụng thời gian bổ sung bộ đội, phát triển dân quân, ở những nơi địch có thể tiến công ráo riết thì đề phòng phá các cuộc tấn công của địch". Để hoàn thành nhiệm vụ, Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cụ thể là bổ sung quân đội, tăng cường các đội chủ lực, tiếp tục luyện quân, tăng cường trang bị và cung cấp cho bộ đội; đánh mạnh ở hậu phương địch; củng cố và phát triển phong trào du kích ở Bắc Bộ, Trung Bộ và vùng dân tộc ít người; dọc các đường giao thông; xây dựng làng chiến đấu, căn cứ du kích.
Về vấn đề cải thiện dân sinh, Hội nghị đã đề ra những chính sách và biện pháp đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, văn hoá xã hội nhằm phục vụ nhu cầu kháng chiến và cải thiện đời sống nhân dân.
Về cuộc vận động “thi đua ái quốc”, Hội nghị phân tích những vấn đề: nơi nào thi đua?, lãnh đạo phong trào thi đua như thế nào?, những phương pháp, khẩu hiệu tuyên truyền cổ động thi đua.
Về công tác vùng địch tạm chiếm, Hội nghị cho rằng công tác vùng địch kiểm soát và chiếm đóng đã trở thành một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác kháng chiến của Đảng. Hội nghị đề ra nhiều biện pháp và hình thức cụ thể hướng dẫn nhân dân đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch nhằm giữ vững và nâng cao trình độ giác ngộ và tinh thần chiến đấu của nhân dân, làm kiên cố tổ chức quần chúng và Đảng, làm rối ren, tan rã hàng ngũ địch, phá chính quyền địch, lập lại chính quyền ta...
Về công tác Việt Minh và Liên Việt, Hội nghị chú trọng việc chấn chỉnh các tổ chức Việt Minh, các cấp bộ Việt Minh, đào tạo cán bộ, mối liên quan giữa Việt Minh và Liên Việt.
Về vấn đề tổ chức trong Đảng, Hội nghị nêu rõ hướng phát triển trong Đảng trước hết nhằm vào các vị trí chiến lược quân sự, đường giao thông, vùng dân tộc ít người, vùng địch kiểm soát, tiến tới xã có chi bộ, thôn có tổ Đảng. Hội nghị đề ra nguyên tắc củng cố Đảng làm cho chi bộ tự động công tác. Hội nghị đề ra các biện pháp nâng cao trình độ lý luận và công tác cho cán bộ, đảng viên; phê phán những biểu hiện chủ quan, chia rẽ, cô độc, hẹp hòi.
Hội nghị đã đưa ra những tư tưởng chỉ đạo quan trọng thúc đẩy hơn nữa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trong cả nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.95-139.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.69.
NGÀY 23-5
Liên khu X chủ trương phá âm mưu và kế hoạch lôi kéo, dụ dỗ tầng lớp trí thức của Pháp
Thực hiện âm mưu đánh phá ta về mọi mặt, thực dân Pháp tung một số Việt gian trà trộn vào quần chúng liên lạc với các tầng lớp trí thức quan trọng như bác sĩ, giáo sư, kỹ sư, tổng đốc, tuần phủ để lôi kéo dụ dỗ họ hoạt động cho chúng. Do đó, một số trí thức, quan lại đã bỏ hàng ngũ kháng chiến vào trong vùng địch làm tay sai.
Trước tình hình đó, ngày 23-5-1948, Ban Thường vụ Liên khu X đưa ra chủ trương phá âm mưu của thực dân Pháp với các nội dung sau:
1- Đặt kế hoạch để kê khai đầy đủ danh sách các nhà trí thức như kỹ sư, bác sĩ, sinh viên, dược sĩ, luật sư ở các địa phương để biết rõ xu hướng chính trị của họ trong từng thời điểm mà kịp thời tìm phương pháp đối phó.
2- Huy động những tầng lớp trên vào các tổ chức như Liên Việt, Hội văn hoá kháng chiến để họ có thể tham gia đóng góp vào công cuộc kháng chiến.
3- Lựa chọn những người có năng lực chuyên môn, có tinh thần, tư cách đúng đắn vào công tác kháng chiến như ủy ban hành chính huyện, xã; các sở, ngành chuyên môn để họ trực tiếp giúp đỡ ta và phấn khởi tin tưởng vào cuộc kháng chiến.
4- Phải nghiên cứu phương pháp cải thiện đời sống nhân dân như: phụ cấp cho các gia đình đông con; phụ cấp sinh hoạt đắt đỏ, phụ cấp nước độc...
Đặt các giải thưởng hay bằng khen để khuyến khích tinh thần làm việc của anh chị em trí thức trong khi vẫn kiên quyết trừng phạt những kẻ ươn hèn, lười biếng. Tuyên truyền nâng cao trình độ chính trị, tăng cường tinh thần kháng chiến.
Chủ trương của Liên khu X thể hiện đường lối toàn dân, toàn diện của Đảng, góp phần củng cố và tăng cường lực lượng kháng chiến, đập tan mọi âm mưu phá hoại của thực dân Pháp.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, phông Liên khu Việt Bắc.
NGÀY 24-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương lập Uỷ ban Bao vây kinh tế địch
Sau thất bại ở Việt Bắc (1947), thực dân Pháp quay sang đánh phá ta về mọi mặt. Về kinh tế, hàng hoá địch tràn sang ta ngày càng nhiều, đồng bạc Việt Nam ở nhiều nơi bị sụt giá, có chỗ sụt tới 50%.
Để đối phó với tình hình trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương thành lập Uỷ ban Bao vây kinh tế địch ở các cấp nhằm phối hợp với các ngành công an, tình báo, kinh tế, quan thuế bàn định kế hoạch và đôn đốc việc bao vây kinh tế địch một cách có hiệu quả.
Bao vây kinh tế địch trong những năm 1948, 1949 làm ảnh hưởng tới sản xuất của ta (lâm thổ sản ở Việt Bắc, sản xuất lúa và chăn nuôi ở Nam Bộ): không bán được sản phẩm của vùng tự do vào vùng địch hậu, không rút được từ vùng địch hậu ra một số mặt hàng cần thiết cho kháng chiến. Giá cả tăng vọt, nhất là giá gạo, ảnh hưởng tới đời sống nhân dân và bộ đội, nhất là bộ đội Việt Bắc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.142.
NGÀY 30-5
Chủ trương của Đảng đối với việc Pháp thành lập chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân
Ngày 20-5-1948, thực dân Pháp đã đưa Nguyễn Văn Xuân ra làm “Thủ tướng” chính phủ bù nhìn toàn quốc, thực hiện âm mưu "dùng người Việt trị người Việt”, tăng cường bộ máy tay sai, phục vụ âm mưu xâm lược của chúng.
Để ngăn chặn ảnh hưởng của chính phủ bù nhìn Nguyễn Văn Xuân trong dân chúng, làm cho nhân dân Pháp và thế giới hiểu rõ thực chất, ngày 30-5-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị đề ra một số nhiệm vụ:
1. Vạch rõ mục đích của Pháp là chia rẽ dân ta, thực hiện chính sách dùng người Việt hại người Việt.
2. Dựa vào tư cách của Xuân không có gốc tích Việt, không biết nói tiếng Việt, gọi Pháp là Tổ quốc và tuyên truyền vạch rõ chính phủ ấy chỉ đưa dân ta đến vòng nô lệ “mất mọi quyền nội trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế”, đến chỗ chia rẽ ba kỳ.
3. Đối với Vĩnh Thụy, cần khéo léo vạch mặt thân Mỹ của y cho quần chúng hiểu, bọn ngoan cố sẽ lợi dụng thái độ làm cao của y để gây ảnh hưởng cho y, cần phải chú ý.
4. Tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình của nhân dân, của các đoàn thể, các cơ quan chính phủ, lập Ban tuyên ngôn của các nhân sĩ trí thức đả đảo Xuân, đả đảo mọi chính phủ bù nhìn, thề trung thành với Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh, quyết tâm kháng chiến, đòi xử tội Xuân và bọn phản quốc.
Đặc biệt, cổ động nhân dân các vùng địch kiểm soát tỏ thái độ chống Xuân rải truyền đơn, dán biểu ngữ, vẽ tranh, đặt ca dao chế nhạo, tổ chức các cuộc mít tinh đả đảo Xuân, ủng hộ Chính phủ ta, kiên quyết phá bỏ mọi cuộc họp hoan nghênh Xuân mà địch sẽ tô chức. Tìm mọi cách trừ một số trùm Việt gian nguy hiểm ở vùng địch kiểm soát, nhất là các thành phố để làm gương cho kẻ khác.
5. Về quân sự, nên đề phòng những nơi địch có thể đánh để tạo uy tín cho bù nhìn. Nơi nào có thể thì quét tề, thu hẹp phạm vi địch kiểm soát, đột kích quấy rối các thành phố.
Ngoài ra, các hội đoàn chính quyền, các đoàn thể quần chúng nhân cuộc thi đua ái quốc cần chú ý cải thiện đời sống cho nhân dân để đề cao uy tín của chính phủ, của chế độ dân chủ cộng hoà. Đặc biệt, gần gũi và chú ý đời sống các giới trí thức, công chức, thanh niên, tăng gia tổ chức quần chúng dân tộc thiểu số và Công giáo, chấn chỉnh các Ban địch vận, đặt kế hoạch cụ thể vận động và phá binh lính bù nhìn theo Chỉ thị Vận động thân binh số 4- CT/TW ngày 14-2, của Trung ương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.143-146.
THÁNG 5
Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng bộ Liên khu IV
Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (đầu năm 1948) về tích cực đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tháng 5-1948, Đảng bộ Liên khu IV tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Trường Chinh dự Đại hội, chỉ rõ: nhiệm vụ của Đại hội là phải kiểm thảo chủ trương, chính sách, công tác thực tế của Hội và khu uỷ, quyết định phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch cho thời kỳ mới.
Đại hội làm việc khẩn trương, dân chủ với tinh thần thẳng thắn tự phê bình và phê bình; nghe báo cáo và các đề án công tác cụ thể về quân sự, kinh tế, xã hội, dân vận, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân và công tác.
Từ tình hình thực tế, Đại hội nhất trí thông qua chủ trương: "Tất cả cho Bình - Trị - Thiên", chuyển khẩu hiệu "Tất cả cho kháng chiến" sang khẩu hiệu "Tất cả để chiến thắng", đề ra nhiệm vụ:
1. Đánh mạnh ở Bình - Trị - Thiên.
2. Thúc đẩy phong trào kháng chiến, đề phòng địch đánh mạnh ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng.
3. Mở rộng mặt trận Trung Lào.
Về xây dựng Đảng, Đại hội đề ra những biện pháp quan trọng nhằm "xây dựng Đảng thành một Đảng quần chúng”, đẩy mạnh xây dựng "chi bộ tự động công tác", tích cực đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt cán bộ.
Đại hội Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu IV chính thức đầu tiên do đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, PGS, TS. Trình Mưu (chủ biên): Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.192-194.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, phông Liên khu ủy IV.
TỪ THÁNG 5 ĐẾN CUỐI NĂM 1948
Ngành công an tăng cường các hoạt động chống Pháp
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng, ngành công an không ngừng đấu tranh chống phá địch về mọi phương diện, lập nhiều chiến công.
Ngày 17-5-1948, Công an Liên tỉnh Hải Kiến đánh đắm tàu Điamăng của Pháp, bắt gọn thuyền trưởng và các thuyền viên, phá huỷ 800 tấn lương thực. Cũng trong tháng 5-1948, công an ngăn chặn kịp thời âm mưu của bọn phòng nhì Pháp lôi kéo cán bộ ở Hải Kiến và Bình Xuyên, đập tan kế hoạch thành lập chiến khu quốc gia Bình Xuyên chống kháng chiến của Pháp .
Tháng 7-1948, Hội nghị Liên khu ủy Liên khu IV chủ trương đẩy mạnh công tác ở vùng sau lưng địch, chú trọng công tác ở vùng đông dân. Ngày 30-8-1948, Ty Công an tỉnh Quảng Trị tấn công đốt cháy trại lính ở Đông Hà, thiêu huỷ 15 nhà lính địch, 2 xe vận tải, 1 trại lính lê dương, 20 thùng ét xăng, 40 thùng dầu, 5 gian nhà chứa quân trang, quân dụng, đạn dược, kho lúa, 1 kho cà phê, sở bưu điện.
Ngày 25-9-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc đề phòng gián điệp Pháp chui vào nội bộ ta, Nha Công an Trung ương cùng các địa phương tăng cường kiểm soát nội bộ, làm rõ những vấn đề nghi vấn, bắt được nhiều tên phản động.
Ngày 19-11-1948, Ty Công an Rạch Giá bắt được tên Xenhê, Chánh mật thám Rạch Giá và nhiều tên khác. Ngày 28-11, Ty Công an Thừa Thiên bắt hai tên phản bội nguy hiểm là Lâm Tuấn và Hoàng Văn Tường. Ngày 24-12-1948, Công an Vĩnh Yên theo dõi và bắt quả tang Hoàng Xuân Bích là nhân viên công an đang trao tài liệu cho gián điệp Pháp ở chợ Lầm.
Ở Nam Bộ, Công an Gò Công phát hiện một tên nội gián là Tỉnh đội phó dân quân. Công an Rạch Giá phát hiện và bắt tên Hà Quang Giang, Trưởng ban Công giáo kháng chiến tỉnh làm gián điệp cho Pháp. Công an Nam Bộ phát hiện tên Nguyễn Bình Điền do Phòng nhì cài vào văn phòng của Trung tướng Nguyễn Bình. Y tạo vỏ bọc khôn khéo và kín đáo nên được dùng làm phái viên hoạt động thành.
Bên cạnh công tác phòng gian, trừ gian, ngành công an cũng chú trọng đưa người vào lòng địch xây dựng cơ sở nội tuyến.
Nắm được tính thần chỉ đạo của Đảng, lợi dụng sơ hở của địch trong việc dùng người lập chính quyền tỉnh, cuối năm 1948, Công an Thừa Thiên đưa đồng chí Tráng Thông (thành phần gia đình hoàng tộc) quen biết với nhiều trí thức Huế, vào thành tham gia chính quyền địch, được chúng bổ nhiệm làm Trưởng ty An ninh Thừa Thiên. Đồng chí Tráng Thông tổ chức được nhiều viên chức ngụy quyền tham gia kháng chiến, lập Hội công chức kháng chiến, lấy tài liệu quan trọng của địch gửi ra chiến khu.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.155-180.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.167-172.
TỪ THÁNG 5 ĐẾN CUỐI NĂM 1948
Ban chỉ huy Mặt trận 5 chỉ đạo cuộc chiến đấu trên khu vực đường 5
Đường số 5 là con đường huyết mạch nối liền căn cứ đầu não và căn cứ hậu cần chủ yếu của quân Pháp trên miền Bắc là Hà Nội và cảng Hải Phòng.
Đối với ta, phần lớn nguồn nhân lực, vật lực đồng bằng Bắc Bộ và một phần từ Thanh - Nghệ chuyển lên căn cứ Việt Bắc và tỏa đi các nơi đều phải vượt qua hành lang này.
Tháng 2-1948, thực hiện chủ trương của Bộ Tổng chỉ huy, Ban chỉ huy Mặt trận 5 được thành lập để thống nhất và trực tiếp chỉ đạo các lực lượng tác chiến ở khu vực đường số 5.
Ban chỉ huy Mặt trận đường 5 do đồng chí Dương Hữu Miền, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 là Chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Năng Hách, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Hải Dương làm Chính uỷ. Liên khu uỷ III còn phân công các đồng chí Đỗ Mười, Nguyễn Khai trực tiếp dẫn đoàn cán bộ Liên khu III xuống tăng cường chỉ đạo cho mặt trận và để truyền đạt nghị quyết của Liên khu uỷ, thống nhất chỉ đạo các tỉnh, thành uỷ và các lực lượng vũ trang trong khu vực tập trung vào nhiệm vụ của mặt trận, sự tăng cường chỉ đạo của các liên khu đã tạo ra cho các tỉnh những thuận lợi mới để đẩy mạnh kháng chiến.
Đầu tháng 5-1948, Mặt trận 5 mở đợt Tổng công kích đường 5 lần thứ nhất. Đợt tổng công kích không đạt được kết quả như ý muốn do dựa vào hoạt động quân sự đơn thuần của bộ đội chủ lực, thiếu phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương chưa gắn hoạt động quân sự với hoạt động đánh địch về cả chính trị và kinh tế.
Thực hiện chủ trương của Đảng về đánh mạnh ở hậu phương địch; củng cố và phát triển phong trào du kích Bắc Bộ, Trung Bộ, cán bộ, du kích cùng các đơn vị bộ đội vũ trang tuyên truyền thâm nhập vào vùng địch hậu gây dựng cơ sở, nắm dân, sống chết cùng nhân dân đấu tranh với địch. Ngay ở khu tập trung đông dân như Kẻ Sạt, địch đóng hơn chục vị trí, nhân dân vẫn nuôi dưỡng, che chở cán bộ, giúp bộ đội nắm địch, cất giấu thương binh. Nhân dân các xã Ái Quốc (Nam Sách), Như Quỳnh (Văn Lâm), Bình Định (Cẩm Giàng) đã đào hàng trăm hầm bí mật, có gia đình đào tới sáu hầm ở trong nhà, ngoài vườn, ngay cạnh hàng rào vị trí địch để che giấu cán bộ. Những tấm gương bất khuất, anh dũng hy sinh bảo vệ cán bộ, bộ đội ở vùng địch hậu dọc đường 5 không sao kể hết.
Sáng ngày 12-9, du kích huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) đã nổ mìn đánh đường sắt ở địa phận làng Tú La làm tan đầu tàu, làm đổ 3 toa đĩa, 8 toa chở lính, 5 tôm xông bị phá hủy, 30 lính Pháp, 15 lính da đen và 30 ngụy binh bị tiêu diệt, 12 tên khác bị thương.
Trên đà thắng lợi ở Tú La, tháng 10 năm 1948, Ban chỉ huy Mặt trận 5 mở đợt Tổng công kích đường 5 lần thứ hai. Ngày 8-10, du kích xã Trần Hưng Đạo đánh địa lôi phá hủy 1 đầu máy và toa xe, làm chết và bị thương hàng trăm tên địch. Bọn địch phải huy động 4 xe quân sự đến chở bọn chết và bị thương.
Ngày l2-10, du kích Cẩm Giàng (Hải Dương) do nữ đồng chí Nguyễn Thị Ái giật mìn đánh đổ một đầu tàu ở Kim Thành, diệt 30 lính Pháp. Đại đội Vũ Hổ, bộ đội Văn Lâm, bộ đội Kim Thành cùng đánh đổ nhiều đoàn tàu địch.
Trong năm 1948, 26 đoàn tàu của địch bị đánh đổ liên tiếp trên đường số 5 chủ yếu vào những tháng cuối năm. Một số chiến sĩ: Quách Phù, Nguyễn Văn Sóc - chuyên đánh mìn, được gọi là Vua mìn đường 5. Lực lượng vũ trang huyện An Lương (Hải Phòng), được sự phối hợp của công nhân ga Hải Phòng đánh nhiều trận, phá hủy nhiều tàu địch, được tặng danh hiệu Con sư tử đường 5.
Con đường 5 đã trở thành Con đường khủng khiếp đối với kẻ địch. Trong lời tuyên dương của Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy năm 1948, mặt trận đường số 5 được coi là Mặt trận điển hình thứ nhất đánh vào địch hậu, vùng biển và miền đồng bằng.
- Quân khu 3, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 148, 155-161.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Dương (1928- 1954), 1997, t.1, tr.162-175.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t.I, tr.289-290.
- Hội đồng Chỉ đạo biên soạn công trình Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng: Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng 1945-1955, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.144-145.
NGÀY 1-6
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị về thi đua xây dựng Đảng
Tiếp theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng (1-1948) và Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng (5-1948), ngày 1-6-1948, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc thi đua xây dựng Hội.
Chỉ thị nêu rõ, sau 18 năm kể từ ngày thành lập, Đảng ta đã cùng dân tộc làm cuộc Cách mạng Tháng Tám và hiện đang lãnh đạo cuộc trường kỳ kháng chiến giành độc lập thống nhất. Tuy thành tích vẻ vang nhưng Đảng vẫn mắc nhiều khuyết điểm. Chỉ thị vạch ra những mặt thiếu sót trong công tác phát triển và củng cố Đảng, như kết nạp ồ ạt, thiếu lựa chọn kỹ càng; chưa chú trọng xây dựng chi bộ tự động công tác đều khắp; phần đông cán bộ, đảng viên trình độ còn thấp; cán bộ còn thiếu, nhất là các ngành chuyên môn; ý thức tổ chức kỷ luật nhiều nơi chưa được đề cao. Chỉ thị nêu rõ mục đích thi đua xây dựng Đảng là: "phát triển Hội mạnh mẽ vào quân đội, dân quân du kích, các công binh xưởng, các vùng bị địch chiếm, các vị trí chiến lược quan trọng và các vùng dân tộc thiểu số chung cho toàn quốc". Chỉ thị nhấn mạnh: công tác xây dựng chi bộ tự động công tác nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Từ mục đích đó, Chỉ thị nêu rõ: "Toàn quốc, khu, tỉnh, huyện, xã, xí nghiệp căn cứ vào kế hoạch chung của cấp trên, dựa theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể địa phương mình mà đặt kế hoạch thi đua cho sát". Riêng về thi đua tổ chức Đảng trong quân đội, việc đặt kế hoạch cho các quân khu do Trung ương Quân uỷ đảm nhận.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.147-153.
NGÀY 14-6
Trung ương Đảng chủ trương thành lập Ban Hoa vận khu và tỉnh
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp thời gian này bước sang giai đoạn chuẩn bị phản công, yêu cầu của cuộc kháng chiến ngày càng lớn, nhất là vấn đề động viên mọi lực lượng kháng chiến. Hoa kiều ở Việt Nam là một lực lượng lớn, nhất là ở các Liên khu I, III, IV và Liên khu X, Trung ương Đảng nhận rõ cần phải lãnh đạo họ kháng chiến chống Pháp.
Với chủ trương đó, ngày 14-6-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các địa phương có Hoa kiều sinh sống thành lập Ban Hoa vận cấp khu và tỉnh để động viên, tổ chức Hoa kiều kháng chiến.
Ban Hoa vận có nhiệm vụ nắm vững công tác Hoa kiều, dùng hình thức công khai: Hoa kiều vụ (đã thành lập từ trước) để có phương tiện và tài chính hoạt động. Ban Hoa vận của Đảng sẽ nằm trong Hoa kiều vụ để lãnh đạo. Ban Hoa vận ở những địa phương có Hoa kiều vụ thì giám đốc sở, khu, ông trưởng ty tỉnh, tuỳ theo cấp ủy địa phương chọn lựa Trưởng ban Hoa vận, có thể lấy thêm 1 đồng chí Trung Hoa, 1 đồng chí cấp ủy tham gia. Các cấp bộ phải chịu trách nhiệm trông nom giúp đỡ Ban Hoa vận.
Việc thành lập Ban Hoa vận khu và tỉnh, cùng với Hoa kiều vụ tổ chức công tác vận động, lãnh đạo Hoa kiều kháng chiến, giải quyết một phần vấn đề lực lượng cho cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ22, phông Trung ương.
TỪ NGÀY 9 ĐẾN NGÀY 11-7
Hội nghị Cán bộ Đảng trong quân đội
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các lực lượng vũ trang, Quân ủy Trung ương triệu tập Hội nghị Cán bộ Đảng trong quân đội từ ngày 9 đến ngày 11-7-1948. Đến dự Hội nghị có các đồng chí trong Quân ủy Trung ương, bí thư các quân khu ủy, các đồng chí phụ trách công tác Đảng các trung đoàn, tiểu đoàn trong toàn quân. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân ủy Trung ương chủ trì Hội nghị.
Hội nghị đánh giá cao những thành tích về công tác xây dựng Đảng và sự lãnh đạo của Đảng trong các lực lượng vũ trang, kiểm điểm những thiếu sót cần kiên quyết khắc phục trong thời gian tiếp theo.
Việc củng cố và tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng trong quân đội có ý nghĩa quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự của quân đội. Nhận thức đúng đắn đó chưa được quán triệt đầy đủ trong toàn quân, nhất là ở những cơ sở đơn vị. Công tác Đảng chưa đi đôi với công tác chính trị, có khi công tác Đảng không gắn liền với việc lãnh đạo thực hiện những nhiệm vụ quân sự. Chi bộ Đảng ở các đơn vị chưa được củng cố, tỷ lệ số chi bộ có khả năng tự công tác thấp. Việc giáo dục, bồi dưỡng năng lực, trình độ và tính đảng cho đảng viên chưa được giáo dục đúng mức. Chưa hướng công tác phát triển Đảng vào những thành phần cơ bản, tiên tiến nhất. Nhiều nơi kết nạp đảng viên còn thiếu chọn lọc, chưa đảm bảo chất lượng. “Việc giáo dục các đồng chí chưa đi đôi với việc phát triển, nên nói chung các đồng chí chúng ta hãy còn kém về trình độ, năng lực công tác, lãnh đạo, lý luận và đạo đức cách mạng”.
Để tạo một sự chuyển biến về nhận thức và tổ chức trong quân đội, Hội nghị đề ra những nhiệm vụ đối với hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội, những nhiệm vụ cụ thể về công tác xây dựng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, nội dung và nguyên tắc xây dựng chi bộ ở đại đội, phân chi bộ ở trung đội và tiểu tổ ở tiểu đội.
Hội nghị chủ trương phải chấn chỉnh và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan chuyên môn trong quân đội như tuyên huấn, tổ chức, kiểm tra để động viên toàn bộ lực lượng Đảng trong quân đội thực hiện thắng lợi phương châm chiến lược, chiến thuật của Đảng, đưa sự nghiệp kháng chiến mau đến thắng lợi.
Về lề lối làm việc, Hội nghị chỉ rõ phải cải tiến phương thức lãnh đạo, mở rộng dân chủ, tăng cường công tác kiểm tra, bảo đảm chế độ báo cáo thỉnh thị, thống nhất ý chí hành động từ trung ương xuống các đơn vị cơ sở. Hội nghị đặc biệt chú trọng công tác xây dựng chi bộ ở các đơn vị và quyết định các đồng chí lãnh đạo các cấp bộ Đảng phải thực hiện khẩu hiệu đi xuống chi bộ xây dựng những chi bộ kiểu mẫu.
Hội nghị Cán bộ Đảng trong quân đội lần này đề nghị xác lập chế độ chính trị ủy viên thay cho chế độ cấp ủy Đảng trong quân đội. Đề nghị này đã được Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ năm (8-1948) và Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (10-1948) thông qua.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.168-170.
TỪ NGÀY 12 ĐẾN NGÀY 20-7
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ ba
Ngày 20-5-1948, Hội nghị Cán bộ miền Bắc Đông Dương đã ra Nghị quyết về Kế hoạch quân sự mùa hè và Nghị quyết về Công tác vùng địch kiểm soát và chiếm đóng, nêu rõ những trọng tâm công tác trong vùng địch kiểm soát và chiếm đóng là "làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, lập lại chính quyền ta".
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Cán bộ miền Bắc Đông Dương, từ ngày 12 đến ngày 20-7-1948, Nha Công an Việt Nam tổ chức Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ ba, tại Tuyên Quang với gần 100 đại biểu dự.
Hội nghị nghe các báo cáo về tình hình thế giới, trong nước và hoạt động của công an; báo cáo về vấn đề tổ chức cán bộ, tài chính, công tác hành chính, quy chế tổ chức của ngành công an; vấn đề bao vây kinh tế địch; huấn luyện, phản gián và thi đua.
Sau khi nghe báo cáo, Hội nghị thảo luận và đi đến thống nhất:
1. Nha Công an Trung ương phải giao thiệp với các bộ để giải quyết vấn đề bao vây kinh tế địch tốt hơn.
2. Phải phụ cấp nguy hiểm cho các nhân viên công an; nhân viên hoạt động 60%, nhân viên văn phòng 40%.
3. Các đơn vị tham gia thi đua sẽ được tổng kết trong hội nghị sau.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân Hà Nội, 1994, tr.161-162.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 20-7
Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai
Từ ngày 16 đến ngày 20-7-1948, Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai được tổ chức tại Phú Thọ. Mục tiêu của Hội nghị là vạch ra đường lối, nhiệm vụ và phương châm công tác văn hoá; đoàn kết những hoạt động văn hoá thành một mặt trận nhằm động viên các hoạt động văn hoá, văn nghệ kháng chiến, góp phần xây dựng nền văn hoá ở Việt Nam.
Tại Hội nghị, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đọc bản báo cáo quan trọng Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, chỉ rõ lập trường văn hoá cách mạng trên thế giới và ở nước ta là: “Về xã hội, lấy giai cấp công nhân làm gốc. Về chính trị, lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc. Về tư tưởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm gốc. Về sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc".
Báo cáo phân tích tính chất và nhiệm vụ của nền văn hoá mới Việt Nam: “Mục đích của những người làm công tác văn hoá chúng ta là thắng địch, giữ nước, làm cho dân mạnh, dân tiến, dân tin, dân vui, là chống văn hoá nô dịch, ngu dân của thực dân Pháp, khắc phục những tư tưởng phong kiến, lạc hậu trong văn hoá nước nhà, là xây dựng một nền văn hoá dân chủ mới Việt Nam và góp phần văn hoá Việt Nam vào kho tàng văn hoá thế giới". Qua đó, tác phẩm chỉ ra trách nhiệm của những chiến sĩ văn hoá lúc này là:
“1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với kháng chiến, không thoả hiệp với tư tưởng và văn hoá phản động, không trung lập, không giữ thái độ bàng quan.
2. Ra sức nghiên cứu khoa học, kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất, chiến đấu và đời sống con người; lấy học thuyết của Mác làm kim chỉ nam cho hành động; biết và làm đi đôi, lý luận và thực tiễn kết hợp.
3. Một lòng một dạ phục vụ nhân dân; gần gũi quần chúng công nông binh, cảm thông với quần chúng, học hỏi nhân dân, nhưng giáo dục và dìu dắt nhân dân".
Cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hoá là một bộ phận của cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc, do đó, các nhà hoạt động văn hoá không thể đứng ngoài mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp.
Hội nghị cũng phê phán một số khuynh hướng, một số quan điểm lệch lạc về mối quan hệ giữa nghệ thuật tuyên truyền về chủ nghĩa hiện thực trong văn nghệ, về quan điểm phục vụ, đối tượng phục vụ. Nhiệm vụ của những người làm công tác văn hoá văn nghệ là phải có lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân, phản ánh đầy đủ cuộc chiến đấu của dân tộc, dấn mình trong cách mạng sôi động của dân tộc để sáng tạo và phản ánh.
Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ hai đánh dấu một bước tiến quan trọng của phong trào Văn hoá nước ta. Tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam được Đại hội thông qua là một tác phẩm lý luận về đường lối, phương châm văn hoá của Đảng đặt nền tảng cho mặt trận thống nhất văn hoá Việt Nam, đồng thời xác định nhiệm vụ chân chính của những người làm công tác văn hoá trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.170-172.
- Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, in lần thứ hai, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr.31,75.
TỪ NGÀY 18 ĐẾN NGÀY 26-7
Hội nghị đại biểu Liên khu III lần thứ nhất
Đến giữa năm 1948, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã có những bước tiến quan trọng. Chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang từng bước trưởng thành, bước đầu làm thất bại kế hoạch bình định của địch... Nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến mọi mặt trong Liên khu, từ ngày 18 đến ngày 26-7-1948, Hội nghị đại biểu Liên khu III lần thứ nhất được tổ chức.
Tham dự Hội nghị có 142 đại biểu của Liên khu ủy, của quân khu, các ban ngành, các địa phương thuộc Liên khu.
Hội nghị đã tiến hành kiểm điểm các công tác trong Liên khu, nhấn mạnh đến công tác xây dựng Đảng, Hội nghị khẳng định cơ sở Đảng đã phát triển ở cả vùng tự do và vùng tạm chiếm. Tuy nhiên, Hội nghị cũng chỉ rõ cơ sở của Đảng ở các thành phố còn "ít" và "kém"; một số nơi công tác xây dựng Đảng còn có những hạn chế như chủ quan, quá tả hoặc biệt phái…
Trên cơ sở nhận định tình hình, Hội nghị đã thông qua dự án Tình hình và nhiệm vụ của Liên khu trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá.
Về chính trị: thực hiện đoàn kết, củng cố chính quyền (nhất là các cấp xã) đề phòng bọn chia rẽ, phá hoại; tổ chức việc bảo vệ, giúp đỡ...
Về quân sự: tổ chức làng kháng chiến, phát triển phong trào du kích, tổ chức canh gác, báo động, vũ trang du kích, dân quân...
Về kinh tế: đẩy mạnh tham gia sản xuất phát triển công nghiệp, nội thương, cải thiện đời sống nhân dân, khuyến khích các hình thức tập đoàn, triệt để bao vây kinh tế địch.
Về văn hoá: chống nạn mù chữ, chấn chỉnh ngành tiểu học, gây phong trào đời sống mới. Hội nghị cũng thảo luận các công tác quân sự, chính trị, văn hoá trong vùng bị chiếm.
Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Liên khu ủy mới gồm 15 đồng chí, trong đó có 3 đồng chí là Uỷ viên dự khuyết.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
TỪ NGÀY 25-7 ĐẾN NGÀY 2-8
Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo chiến dịch
Đường số 3 Thực hiện nhiệm vụ quân sự do Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở rộng (ngày 15 đến ngày 17-1-1948) đề ra, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương mở chiến dịch Đường số 3 nhằm bức địch rút khỏi Bắc Kạn và đường số 3.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm hai trung đoàn (308, 74), ba tiểu đoàn và một số đại đội độc lập do Bộ chỉ huy Liên khu I phụ trách, cùng du kích tiến công địch tại Ngân Sơn - Bắc Kạn trên tuyến phòng thủ Bắc Kạn - Cao Bằng, phá kế hoạch thu đông của địch. Đồng chí Thanh Phong được cử làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Lâm Kính làm Chỉ huy phó.
Ngày 25-7-1948, Tiểu đoàn 11 (Trung đoàn 308) được tăng cường một đại đội pháo dùng lối đánh cường tập tiến công Phủ Thông, một vị trí nằm ở phía bắc thị xã Bắc Kạn 20km do 1 đại đội và một trung đội trợ chiến thuộc trung đoàn lê dương số 3 chiếm giữ. Trận chiến đấu ác liệt kéo dài từ 8 giờ sáng đến 23 giờ đêm. Ta tiêu diệt đại bộ phận quân địch nhưng không chiếm được cứ điểm. Trận đánh không thành công trọn vẹn nhưng ta rút được nhiều kinh nghiệm về công tác chuẩn bị tiêu diệt đồn địch, việc lựa chọn mục tiêu. Tiểu đoàn 11 được tặng danh hiệu Tiểu đoàn Phủ Thông.
Đợt 1, chiến dịch kết thúc ngày 27-7. Chiến dịch đường số 3 tiếp tục đợt 2 và đợt 3, kết thúc ngày 12-8-1948. Đây là một trong ba chiến dịch tiến công đầu tiên của quân đội ta. Ta chưa đạt được mục tiêu chiến dịch. Trong công tác tổ chức chiến dịch, ta chưa thực hiện được sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, chưa có sự liên hệ chặt chẽ với cấp uỷ và chính quyền địa phương để huy động nhân dân phục vụ chiến dịch.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.56-65.
CUỐI THÁNG 7
Đại hội đại biểu xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất
Nhằm tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cuối tháng 7-1948, Đại hội đại biểu xứ Đảng bộ Nam Bộ lần thứ nhất họp dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng.
Đại hội nhấn mạnh, đối với địch, "Nam Bộ đã trở nên trung tâm hoạt động chính trị và cũng là vị trí quân sự quan trọng”. Chiến lược của địch là tiến hành bao vây toàn diện, đánh đòn chính vào dự trữ chiến lược của ta.
Đại hội xác định: "Chiến lược của ta phải nhằm vào chống chiến lược giặc, vào sự bảo vệ dự trữ của chúng ta, bảo vệ hậu phương của ta". Đại hội quyết nghị mở rộng phong trào dân quân, để bảo vệ dự trữ của ta, phá hoại dự trữ của địch, gây phong trào làng chiến đấu rộng rãi. Đồng thời "phải có chủ lực mạnh mẽ để đánh những trận lớn".
Nhận định và chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ đối với âm mưu của địch được quán triệt trong các hội nghị khác, như Hội nghị Quân sự Nam Bộ mở rộng 1-1948, Hội nghị Dân quân toàn Khu 7 tháng 7-1948. Đại hội bầu đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư Xứ uỷ.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 1994, t.I, tr.379.
NGÀY 8-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri về việc chọn đại biểu các cấp Liên Việt sau khi thống nhất Việt Minh và Liên Việt
Sau Cách mạng Tháng Tám, tổ chức Việt Minh hầu như không phát triển, trong khi Liên Việt ngày càng lớn mạnh, tranh thủ được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Việc duy trì hai hình thức mặt trận cùng một lúc khiến công tác lãnh đạo quần chúng trở nên lúng túng, khó khăn, cán bộ thiếu, không đủ để phân phối lãnh đạo.
Trước tình hình ấy, Trung ương Đảng quyết định thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Ban Thường vụ Trung ương ra thông tri để các khu ủy, tỉnh ủy chuẩn bị cử những đại biểu xứng đáng dự Đại hội đại biểu Việt Minh toàn quốc. Tiếp đó, các cấp chuẩn bị một số hội viên đưa vào các cấp Liên Việt làm hội đoàn, chọn đại biểu các giới, người ngoài hội vào các cấp Liên Việt ấy.
Thông tri quy định: đại biểu, hội viên phải là người đứng tuổi, có uy tín trong Hội và trong quảng đại quần chúng, tượng trưng cho đại đoàn kết.
Đây là công việc quan trọng nhằm nâng cao uy tín của Mặt trận dân tộc thống nhất; củng cố lòng tin đối với Mặt trận; tạo điều kiện cho sự lãnh đạo thống nhất của Đảng trên toàn Mặt trận, động viên được mọi giới, mọi ngành vào một mặt trận đoàn kết dân tộc chống kẻ thù chung.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
TỪ NGÀY 8 ĐẾN NGÀY 16-8
Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng lần thứ năm
Sau hơn 1000 ngày kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng kháng chiến của ta ngày càng tiến bộ về mọi mặt. Để thúc đẩy phong trào phát triển hơn nữa, Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng được tổ chức từ ngày 8 đến ngày 16-8-1948. Hội nghị thảo luận và thông qua các báo cáo quan trọng sau:
1. Chúng ta chiến đấu cho độc lập và dân chủ, do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng trình bày.
2. Kiểm thảo mùa hè và chuẩn bị thu đông năm 1948 do đồng chí Võ Nguyên Giáp trình bày.
3. Công tác dân vận và công tác Mặt trận dân tộc thống nhất do đồng chí Hoàng Quốc Việt, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, trình bày.
4. Tình hình và nhiệm vụ mới của Đảng do đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, trình bày.
Hội nghị đề ra nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là chống đế quốc và phong kiến. Hai nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, bồi bổ cho nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Cần tập trung lực lượng mọi mặt làm cho xong nhiệm vụ phản đế, nhưng không phải nhiệm vụ phản phong kiến được gác lại hoàn toàn sau khi làm xong nhiệm vụ phản đế rồi mới tính đến. "Có cải cách ruộng đất lần đầu thủ tiêu những tàn tích bóc lột phong kiến mới mong cải thiện đời sống cho quần chúng nhân dân đông đảo, làm cho số rất đông nhân dân ngày càng thiết tha ủng hộ chế độ cộng hoà dân chủ và tích cực tham gia kháng chiến chống đế quốc Pháp và bọn Việt gian".
Phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn dân ta trong lúc này là tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân; thống nhất Việt Minh - Liên Việt; cải thiện đời sống nhân dân và thực hành chính sách ruộng đất của Đảng; củng cố chính quyền các cấp, phá chính quyền địch và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.
Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị chủ trương đẩy mạnh công tác phát triển Đảng ở Nam Bộ kịp với miền Bắc, gây cơ sở phát triển Đảng sâu rộng ở vùng địch kiểm soát và chiếm đóng để thực hiện khẩu hiệu biến hậu phương địch thành hậu phương ta. Củng cố đi đôi với phát triển, chú trọng xây dựng chi bộ tự động công tác; thực hiện thống nhất tư tưởng và hành động, đề cao kỷ luật, đào tạo cán bộ, chuẩn bị triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.166-238.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.179-181.
NGÀY 10-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về sự liên lạc giữa Hội đoàn chính quyền và các cấp
Để thống nhất lãnh đạo giữa các cấp Hội đoàn chính quyền từ Trung ương đến địa phương, đồng thời để phối hợp chặt chẽ công tác giữa các ngành chuyên môn, ngày 10-8-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị quy định sự liên lạc giữa Hội đoàn chính quyền và các cấp như sau:
“Các công văn chỉ thị của Hội đoàn chính quyền cấp trên gửi xuống cấp dưới cũng như cấp dưới gửi lên cấp trên về những vấn đề quan trọng đều phải gửi một bản sao cho cấp ủy tương đương", "khi Chính phủ triệu tập hội nghị hành chính, kháng chiến, Hội đoàn chính quyền Trung ương sẽ họp các đại biểu liên khu trước để thảo luận những vấn đề đưa ra Hội nghị xem xét và quyết định". Hội đoàn chính quyền các cấp từ Trung ương đến Liên khu đều có liên hệ ngành dọc trong việc thi hành sắc lệnh và chỉ thị của Chính phủ.
Về mối liên hệ trong giải quyết công việc giữa các cấp hội đoàn chính quyền, Chỉ thị quy định: "Những công việc quan trọng do cấp hành chính bên trên đưa xuống, hội đoàn bên dưới phải đưa ra bàn với cấp hội tương đương, để đặt kế hoạch thi hành cho sát với thực tế địa phương. Những việc ít quan trọng, thì tất cả các hội đoàn chính quyền ở các cấp hành chính kháng chiến có thể thi hành theo đúng chủ trương, đường lối của Hội không phải hỏi ý kiến cấp ủy tương đương nhưng sau đó phải báo cáo kết quả".
Những quy định trên có ý nghĩa quan trọng giúp Trung ương hiểu sâu sát tình hình địa phương, còn địa phương nắm vững chủ trương đường lối của Trung ương, đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 19-8
Thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao
Nhằm nâng cao hơn nữa sự lãnh đạo thống nhất của Đảng trong quân đội, kịp thời đối phó với những tình huống mới có thể xảy ra. Ngày 19-8-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 206-SL thành lập Hội đồng Quốc phòng tối cao và xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao. Đồng chí Lê Văn Hiến, Bộ trưởng Bộ Tài chính giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng, cùng các ủy viên là các ông Phan Kế Toại, quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Kinh tế; Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam; Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Sắc lệnh ghi rõ: "Hội đồng Quốc phòng tối cao có nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch kháng chiến toàn diện trình Chính phủ phê duyệt, phối hợp các ngành về phương diện kháng chiến, chịu trách nhiệm trước Chính phủ giải quyết những vấn đề khẩn cấp".
Hội đồng Quốc phòng tối cao được thành lập góp phần giúp với Chính phủ giải quyết sát, đúng và kịp thời yêu cầu của cuộc kháng chiến đặt ra, nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, từng bước đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.
- Việt Nam Dân quốc Công báo, số 4, tháng 11-1948.
NGÀY 1-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc chuẩn bị đối phó với các cuộc hành quân Thu Đông của giặc Pháp
Để đối phó với cuộc hành quân Thu Đông hàng năm của thực dân Pháp, ngày 1-9-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc chuẩn bị đối phó với các cuộc hành quân Thu Đông của giặc Pháp.
Bản Chỉ thị chỉ ra nhiệm vụ cho các địa phương, các đơn vị bộ đội và dân quân du kích chủ động tiến công địch trước khi chúng hành quân đánh ta, làm cho chúng gặp khó khăn, bị động thay đổi kế hoạch; kiện toàn bộ máy tình báo, tổ chức phòng gian trong hàng ngũ ta; động viên tinh thần chiến sĩ thi đua giết giặc lập công; khi chiến sự nổ ra, cần diệt ngay những cứ điểm chúng mới chiếm, đánh giao thông tiếp tế, tiêu diệt những đơn vị nhỏ, hoạt động du kích quấy rối khắp nơi, đẩy mạnh các hoạt động phối hợp.
Ra sức xúc tiến công tác địch vận, ngụy vận làm tan rã hàng ngũ địch, tiến lên tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phá tan âm mưu của chúng. Chỉ thị nhấn mạnh sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng. "Trong chiến dịch Thu Đông này, các cấp uỷ đảng có lãnh đạo mau lẹ, sát hoàn cảnh trong mọi ngành công tác, các đảng viên có xung phong đi đầu thì mới mang lại nhiều thắng lợi".
Chỉ thị Về việc chuẩn bị đối phó với các cuộc hành quân Thu Đông của giặc Pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc chủ động đánh địch, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.331-336.
NGÀY 10-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết về tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng ở Lào và Cao Miên
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Cán bộ lần thứ năm (5-1948), ngày 10-9-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết định ra hệ thống tổ chức đảng và các hình thức tổ chức quần chúng ở Lào và Cao Miên như sau:
1. Đối với Lào
Đảng Ai Lao tự do, gồm những người Lào yêu nước, không phân biệt tôn giáo, giàu nghèo bao gồm các ban. Mỗi ban là một chi bộ Đảng cử ra chi đảng ủy để chấp hành công việc. Ban chấp hành cao nhất là tổng đảng trưởng, tổng đảng phó và các ủy viên
Hội Ai Lao Cứu quốc là một tổ chức quần chúng, lấy công nhân, nông dân làm cơ sở, có tính chất giống như các hội Cứu quốc ở Việt Nam. Hội cũng lấy các ban làm đơn vị tổ chức theo nguyên tắc giống như Đảng Ai Lao tự do. Ai Lao Cứu quốc đồng minh là Mặt trận dân tộc thống nhất gồm đại biểu của các đoàn thể, tôn giáo và những người không đảng phái. Uỷ ban chỉ đạo cũng là Ban hội ủy, huyện hội ủy, tỉnh hội ủy và tổng hội ủy. Nguồn phụ trách là chủ nhiệm, phó chủ nhiệm và ủy viên. Mỗi tổ chức trong Mặt trận có quyền độc lập trong phạm vi công tác nội bộ, tránh xung đột.
Về tổ chức, Đảng hoạt động bí mật, tổ chức đảng lồng vào hệ thống tổ chức các mặt trận. Khi cơ sở còn yếu thì tạm thời lập ra các ban cán sự huyện, tỉnh, xứ nằm trong mặt trận.
2. Đối với Cao Miên.
Ở Cao Miên, Trung ương Đảng cũng chủ trương lập ra một chính đảng quốc gia, một hội quần chúng và một mặt trận dân tộc thống nhất. Ban Cán sự Trung ương căn cứ vào tình hình cụ thể rồi đề nghị với Trung ương hình thức và tên hệ thống sau. Đảng bộ Cao Miên không thành lập công khai cũng lồng vào tổ chức mặt trận dân tộc mà hoạt động. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động ở Cao Miên cũng giống như ở Lào.
Do tình hình cụ thể ở mỗi nước khác nhau cho nên việc đưa ra hình thức tổ chức quần chúng và tổ chức đảng ở mỗi nước khác nhau là đảm bảo phù hợp với điều kiện từng nước, thống nhất sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh chống kẻ thù chung trên bán đảo Đông Dương.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 18-9
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc chuẩn bị hợp nhất Việt Minh, Liên Việt
Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ năm (8-1948) chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt, tiếp theo Thông tri ngày 8-8-1948 về việc chọn đại biểu các cấp Liên Việt sau khi thống nhất, ngày 18-9-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc củng cố Việt Minh, phát triển Liên Việt, chuẩn bị hợp nhất Việt Minh và Liên Việt.
Về Việt Minh, chậm nhất là cuối tháng 1-1949, từ xã đến liên khu phải củng cố xong các cấp Việt Minh, bầu lại ban chấp hành, bài trừ nạn bao biện, cất nhắc đúng cán bộ, củng cố Việt Minh làm cho Việt Minh trở thành một mặt trận, thi hành chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh. Các hội Cứu quốc cũng phải được tổ chức, củng cố lại theo kế hoạch trên.
Về Liên Việt, các cấp Liên Việt từ xã đến khu cũng phải bầu lại ban chấp hành, đưa họ vào hoạt động, hướng phát triển của Việt Minh là chú trọng củng cố vì sau này các tổ chức Cứu quốc của Việt Minh là trụ cột trong Liên Việt, còn Liên Việt phải chú trọng phát triển làm cho Liên Việt trở thành rộng rãi. Để tránh lôi kéo quần chúng của nhau trong khi cùng phát triển các tổ chức Việt Minh nhằm vào các tầng lớp trung, bần nông, tiểu tư sản và tiểu tư sản trí thức. Liên Việt tích cực kết nạp cá nhân thật rộng rãi, nhằm vào các địa chủ, phú nông, kỳ hào, quan lại cũ, công chức cao cấp, đại trí thức Công giáo, vừa kết nạp từng đoàn thể như Hội bảo trợ du kích, bình dân học vụ.
Công tác tuyên truyền giải thích "phải khôn khéo gây uy tín cho Liên Việt đừng để cho các thân sĩ ngoài Việt Minh cho đó là Việt Minh sẽ hoà vào Liên Việt để choán quyền Liên Việt và đồng thời cũng đừng để cho các quần chúng Cứu quốc cho là vào Liên Việt là mất hết tính tranh đấu truyền thống của Việt Minh".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.340-343.
NGÀY 18-9
Đảng chủ trương chấn chỉnh và phát triển Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội Việt Nam
Cũng như Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam tự nguyện gia nhập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam và chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Tuy nhiên, đến tháng 9-1948, hai đảng này hầu như không phát triển, vai trò mờ nhạt. Đảng Xã hội nhiều nơi tan rã dần. Đảng Dân chủ có nơi lại định hướng phát triển vào thân hào, phú nông. Công tác lãnh đạo và tổ chức phát triển hai đảng này chưa được Đảng chú ý đúng mức.
Để khắc phục tình trạng trên, ngày 18-9-1948, Trung ương Đảng ra Chỉ thị nêu rõ chủ trương của Đảng đối với hai đảng này như sau:
Đối với Đảng Dân chủ, các cấp ủy phải đưa vào hoạt động thực tế, các đảng đoàn phải lãnh đạo khôn khéo, dùng cách thuyết phục, đề nghị hơn là mệnh lệnh, tuyệt đối giữ bí mật. Hướng phát triển phải chú trọng đến các tầng lớp tiểu tư sản trí thức và các tầng lớp khác. Đối với việc phát triển Đảng Xã hội, chú trọng đến các tầng lớp tư sản, địa chủ, trí thức. Đảng chủ trương chấn chỉnh Đảng Xã hội, đưa một số cán bộ có năng lực vào lãnh đạo, củng cố, đi xuống các chi bộ, thanh bớt các phần tử phức tạp.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 19-9
Đảng tăng cường lãnh đạo hoạt động của Hội Văn hoá Việt Nam
Hội Văn hoá Việt Nam thành lập năm 1947 nhằm động viên mọi lực lượng văn hoá phụng sự Tổ quốc, đánh đuổi thực dân Pháp, xây dựng một nền văn hoá Việt Nam mới. Nhằm thống nhất các hoạt động văn hoá trong toàn quốc, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tham gia và giúp đỡ Hội Văn hoá Việt Nam.
Chỉ thị chỉ rõ: Các đồng chí hoạt động văn hoá phải gia nhập các chi hội văn hoá địa phương. Đồng thời gây một phong trào văn hoá sôi nổi trong nhân dân, lập nhóm tự học, tổ đọc sách, câu lạc bộ, nhóm sáng tác. Hội Văn hoá kháng chiến trước kia nay đổi thành Hội Văn hoá Việt Nam. Cải tổ các tổ chức sẵn có theo điều lệ mới. Những người không đủ điều kiện gia nhập Hội Văn hoá thì nên tham gia những tổ chức kháng chiến hay cứu quốc khác. Chỉ thị còn quy định cụ thể việc gây quỹ hoạt động của Hội Văn hoá.
Các ban Tuyên huấn của đoàn thể tại các địa phương, ngoài việc huấn luyện đảng viên còn dạy đảng viên về văn hoá. Chúng ta nên cùng các tổ chức văn hoá sưu tầm tư liệu, biên tập sách vở, đọc báo, giảng sách, vẽ, nhạc.
Quan điểm sáng tác dựa vào Đề cương văn hoá (1943) và bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc (7-1948).
Thực hiện chủ trương trên, phong trào tham gia và giúp đỡ Hội Văn hoá phát triển mạnh trong cả nước góp phần nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, phát triển phong trào đời sống mới, giúp đỡ các văn nghệ sĩ, các nhà khoa học phát triển tài năng, phối hợp hoạt động và trao đổi kinh nghiệm cho nhau giữa các ngành văn hoá.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.347-350.
NGÀY 24-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị tổ chức Ban Quân sự Nam Bộ
Để thống nhất tổ chức và tiện cho sự lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, ngày 24-9-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị tổ chức lại Ban Quân sự Nam Bộ.
“Tên và thành phần: để phù hợp với hệ thống chung, Ban Quân sự Nam Bộ gọi là Bộ Tư lệnh Nam Bộ".
Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tư lệnh Nam Bộ:
1.Về bàn việc, theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Nghĩa là kế hoạch, chủ trương phải đưa ra thảo luận trong Ban Thường vụ hay Bộ Tư lệnh, tuỳ theo điều kiện.
2. Chính phủ phải có quyền quyết định tối hậu. Nhưng trong lúc dùng quyền ấy, cần trọng uy tín của Tư lệnh và Phó tư lệnh và không lấn át sáng kiến chuyên môn.
Thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 10-1948, Bộ Tư lệnh Nam Bộ chính thức được thành lập. Tư lệnh là Trung tướng Nguyễn Bình.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.73,75.
NGÀY 25-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị Về việc đề phòng gián điệp chui vào hàng ngũ Đảng và các cơ quan chính quyền
Lợi dụng tình trạng thiếu cán bộ của cơ quan đảng và chính quyền của ta, bọn gián điệp Pháp tìm mọi cách thâm nhập vào nội bộ ta. Chúng trà trộn vào số tân binh, người đi tham gia kháng chiến để lọt vào số cơ quan quân sự, hành chính nhiều nơi để chống phá cách mạng từ bên trong.
Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc đề phòng gián điệp chui vào hàng ngũ Đảng và các cơ quan chính quyền nêu rõ: 1. Khi tuyển dụng nhân viên phải thẩm tra kỹ lý lịch, cương quyết không nhận vào những người không có lý lịch rõ ràng, đối với người định giới thiệu kết nạp Đảng càng thận trọng hơn; 2. Mỗi khi đề bạt cán bộ phải xét thành tích và xem xét lại lý lịch, các đảng viên chuyển công tác phải có giấy giới thiệu rõ ràng, giới thiệu cán bộ trung ương phải thật thận trọng; 3. Các cơ quan đảng và chính quyền phải thi hành nguyên tắc giữ gìn bí mật, các nhân viên không cần biết đến người khác và phải biết giữ bí mật công việc được giao; 4. Tổ chức kiểm tra, giám sát nội bộ chặt chẽ và toàn diện, nâng cao tinh thần phê bình và tự phê bình; 5. Phải tiến hành ngay một cuộc thẩm tra lý lịch các nhân viên trong các cơ quan quân sự, dân sự và trong Đảng, có vấn đề nghi vấn phải làm cho rõ và báo cáo lên cấp trên; 6. Cần ôn lại kinh nghiệm chống A-B trong thời kỳ hoạt động bí mật để chống nội gián.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.351-353.
NGÀY 28-9
Củng cố Thanh niên Cứu quốc, phát triển Đoàn Thanh niên Việt Nam để thống nhất mặt trận thanh niên
Thanh niên là lực lượng hùng hậu, biểu hiện của tuổi trẻ sức mạnh và tương lai của dân tộc. Thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" đối với thanh niên, thực dân Pháp dùng thủ đoạn vừa lôi kéo, vừa đàn áp khủng bố. Chúng còn lập ra các tổ chức thanh niên phản động để lôi kéo, ru ngủ, chia rẽ thanh niên hòng cho họ lãng quên dân tộc, đất nước.
Liên tục trong các năm 1947, 1948, các nghị quyết của các Hội nghị Trung ương Đảng đều khẳng định tầm quan trọng của công tác thanh vận và nhắc nhở các cấp bộ Đảng phải tăng cường lãnh đạo Đoàn thanh niên, giúp Đoàn củng cố tổ chức để tiến tới mở rộng và thống nhất phong trào thanh niên trong cả nước.
Ngày 28-9-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng có Chỉ thị gửi các cấp bộ Đảng Về việc củng cố Thanh niên Cứu quốc, phát triển Đoàn Thanh niên Việt Nam để thống nhất mặt trận thanh niên.
Chỉ thị nêu rõ: "Chủ trương của Trung ương là thống nhất mọi lực lượng của thanh niên vào một mặt trận. Mặt trận ấy là Đoàn Thanh niên Việt Nam... Trong Đoàn Thanh niên Việt Nam, Thanh niên Cứu quốc phải là trụ cột và có một hệ thống chắc chắn từ trên xuống dưới. Đảng sẽ nắm chắc lấy trụ cột ấy để dễ điều khiển các tổ chức khác và các tầng lớp thanh niên rộng rãi trong nước"...
Chỉ thị đã nêu nhiệm vụ cho các cấp bộ Đảng là phải củng cố Thanh niên Cứu quốc và phát triển Đoàn Thanh niên Việt Nam. "Đoàn Thanh niên Cứu quốc là đoàn thể tập họp các thanh niên yêu nước, tích cực, cấp tiến có tinh thần dân chủ rõ rệt... Thanh niên Cứu quốc không những chỉ gồm có thanh niên nông dân mà thôi, mà phải bao gồm cả một phần thanh niên hăng hái khác nữa, như thanh niên trí thức tiểu tư sản... Củng cố Thanh niên Cứu quốc còn phải đặc biệt chú trọng củng cố các Ban chấp hành".
Đoàn Thanh niên Việt Nam cần phải đoàn kết, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên, kể cả thanh niên con em gia đình phú nông, địa chủ, tư sản có tinh thần yêu nước, ủng hộ kháng chiến, phát triển Đoàn Thanh niên Việt Nam trong các vùng Công giáo. Ngay trong các vùng bị chiếm đóng, thanh niên Việt Nam lợi dụng những khả năng hợp pháp để tổ chức qua các hội bóng, hội nhạc, hội học tập của thanh niên.
Về công tác tuyên truyền huấn luyện: Đoàn Thanh niên Việt Nam và Thanh niên Cứu quốc phải ra ngay những tờ báo của mình để tuyên truyền, giáo dục, động viên đông đảo thanh niên hăng hái tham gia kháng chiến, kiến quốc.
Bản Chỉ thị đặt cơ sở quan trọng về tổ chức và tư tưởng của công tác vận động thanh niên, phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.354-359.
TỪ NGÀY 8-10 ĐẾN NGÀY 26-11
Bộ Tổng chỉ huy mở chiến dịch Đông Bắc
Đông Bắc là một hướng chiến lược quan trọng được Bộ Tổng chỉ huy dự kiến đẩy mạnh hoạt động trong năm 1948. Sau chiến dịch Đường số 3 ở Bắc Kạn, Bộ Tổng chỉ huy và Bộ Tư lệnh Liên khu I chủ trương mở chiến dịch Đông Bắc nhằm phá cơ sở kinh tế, đánh vào tuyến hậu cần của địch từ Hải Phòng lên Lạng Sơn, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, mở rộng khu tự do Đông Bắc, đồng thời cầm chân một bộ phận quân địch, phá kế hoạch thu đông của chúng.
Chiến dịch Đông Bắc diễn ra trong khu tứ giác An Châu - Đình Lập - Tiên Yên - Hòn Gai (1800m2). Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 trung đoàn chủ lực 98, 28 và 55 của Liên khu I, hai tiểu đoàn 18 và 29 (Trung đoàn 308), ba tiểu đoàn độc lập 215, 426 và 517, một đại đội và một trung đội trợ chiến cùng các lực lượng địa phương. Đồng chí Lê Quảng Ba được cử làm Chỉ huy trưởng chiến dịch.
Công tác chuẩn bị địa bàn được tiến hành từ tháng 6 đến tháng 9-1948. Ngày 8-10, chiến dịch bắt đầu, bộ đội đánh hai vị trí An Châu và Đồng Dương trong phân khu An Châu. Bên hướng Đồng Dương ta tiêu diệt gọn vị trí. Ở An Châu bộ đội ta gặp nhiều lúng túng nên chỉ tiêu diệt được 2/3 cứ điểm. Đến đêm 1-11, ta tiêu diệt vị trí Đồng Khuy. Trên hướng phối hợp Lạng Sơn, bộ đội chủ lực tác chiến thu được nhiều kết quả. Theo đó, các đại đội độc lập xúc tiến mạnh mẽ công tác gây cơ sở, quét nhiều ban tề và làm tan rã một số lớn ngụy binh. Căn cứ Đông Bắc được mở rộng và củng cố.
Sau trận An Châu, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Mai Siu, đồng thời tăng cường lực lượng bố trí ở những nơi trọng yếu, tổ chức lùng sục quấy rối ta. Bộ đội ta vội vã bước vào giai đoạn 2 trong khi chuẩn bị chưa đầy đủ, tiến công không dứt điểm ở Khe Cháy. Ngày 7-12, Bộ Chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch.
Thành công lớn nhất của chiến dịch là mở rộng căn cứ Đông Bắc, thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh trong khu vực được địch coi là an toàn. Lần đầu tiên ta mở chiến dịch tương đối lớn (xấp xỉ 4 trung đoàn chủ lực cùng lực lượng vũ trang địa phương), trong thời gian dài (gần 2 tháng), trên chiến trường khá rộng lại có địa hình đặc biệt, xa hậu phương. Bộ đội ta tuy chưa thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đặt ra nhưng đã có những bước tiến đáng kể về tổ chức và thực hành chiến dịch.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.73-78.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.416.
NGÀY 16-10
Thành lập Ban Kiểm tra Trung ương
Công tác kiểm tra Đảng đã được tiến hành ngay từ khi Đảng mới thành lập. Tuy nhiên, do tình hình cuộc kháng chiến, kiến quốc ngày càng phức tạp, yêu cầu lãnh đạo của Đảng ngày một cao, ngày 16-10-1948, Trung ương Đảng quyết định thành lập Ban Kiểm tra Trung ương.
Ban Kiểm tra Trung ương có nhiệm vụ điều tra và báo cáo để Trung ương hiểu rõ đường lối chỉ đạo của Trung ương có đúng và sát không, việc thi hành trong toàn Đảng thế nào, báo cáo lên Trung ương những việc bất thường xảy ra ở các địa phương, tình hình cán bộ và việc thi hành kỷ luật ở các cấp.
Về quyền hạn, Ban Kiểm tra Trung ương có quyền xem xét mọi mặt công tác của cấp dưới và các ngành chuyên môn thuộc phạm vi lãnh đạo của toàn Đảng; triệu tập các cuộc họp bất thường của cấp dưới để giải quyết công việc.
Ban Kiểm tra Trung ương gồm 3 đến 5 người, có 1 trung ương ủy viên phụ trách. Dưới Ban kiểm tra có các phái viên giúp việc. Ban Kiểm tra được chia làm hai bộ phận: bộ phận thường trực và bộ phận đi kiểm tra.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.369-371.
NGÀY 18-10
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về sửa chữa những khuyết điểm trong việc lãnh đạo thi đua ái quốc
Nhận thấy từ khi phát động phong trào thi đua ái quốc, các cấp bộ đảng đã mắc phải nhiều khuyết điểm trong lãnh đạo như: thiên về thi đua trong Đảng, sao nhãng việc lãnh đạo thi đua của nhân dân, coi thi đua ái quốc là công việc của Chính phủ, không phải một phong trào quần chúng rộng rãi, Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập các cuộc Hội nghị thi đua vào hai ngày 11 và 12-10-1948 để rút kinh nghiệm chung, sửa chữa khuyết điểm về thi đua, chấn chỉnh các Ban thi đua và đặt kế hoạch lãnh đạo thi đua.
Ngày 18-10-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về sửa chữa những khuyết điểm trong việc lãnh đạo thi đua ái quốc. Chỉ thị nêu rõ: các cấp bộ đảng căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị thi đua do Thường vụ Trung ương triệu tập ngày 11 và ngày 12-10-1948 làm tài liệu phổ biến cho cán bộ và nhân dân. Các cấp ủy Đảng và các Đảng đoàn phải sửa chữa ngay những khuyết điểm về lãnh đạo thi đua ái quốc.
Chỉ thị yêu cầu: Đảng đoàn Chính phủ, đồng chí Tổng chính ủy, Đảng đoàn Trung ương các đoàn thể Mặt trận, các bộ, các ban của Trung ương, Khu ủy kịp gửi ngay về Thường vụ Trung ương chương trình kế hoạch thi đua của nơi mình. Căn cứ vào đó Trung ương ấn định chương trình kế hoạch, thi đua chung năm 1949.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.378-279.
NGÀY 20-10
Thành lập Liên khu V
Thực hiện các nghị quyết của Trung ương về việc xây dựng lực lượng và động viên sức người, sức của cho giai đoạn chiến đấu mới, ngày 20-10-1948, Liên khu V chính thức thành lập trên cơ sở hợp nhất Khu 5, Khu 6 và Khu 15.
Liên khu V bao gồm 12 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận (đồng bằng ven biển), Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Tây Nguyên.
Các đồng chí Nguyễn Thế Lâm làm Quyền Tư lệnh, Nguyễn Chánh làm Chính ủy. Ba cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần thuộc Bộ Tư lệnh Liên khu hình thành. Các binh chủng kỹ thuật: thông tin, công binh, quân báo được củng cố cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới.
Việc thành lập Liên khu V đã thống nhất sự chỉ đạo, chỉ huy trên các địa bàn Nam Trung Bộ, đánh dấu bước trưởng thành mới của quân và dân Liên khu V.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.405.
- Viện Lịch sử, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Hà Nội, 1992, tr.124.
NGÀY 24-10
Kiện toàn hệ thống Đảng trong quân đội
Căn cứ vào đề nghị của Hội nghị Cán bộ Đảng trong quân đội lần thứ hai và đề nghị của Hội nghị Cán bộ lần thứ năm (ngày 20-10-1948), Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết nghị Về tổ chức và hệ thống đảng trong quân đội quốc gia. Quyết nghị nêu rõ nguyên tắc tổ chức: “1. Đảng chỉ có một hệ thống tổ chức. 2. Bỏ hệ thống cấp uỷ Đảng trong quân đội TUQU, QKU, TDU, TDU)2, 3. Lập chế độ chính trị uỷ viên, đại diện đảng phụ trách trong quân đội".
1. Về hệ thống tổ chức cấp trung ương, khu và trung đoàn, quyết nghị quy định: Tổng chính ủy do Trung ương cử ra, là ủy viên Trung ương phụ trách công tác Đảng và lãnh đạo công tác quân sự trong toàn quốc. Chính ủy Liên khu do Tổng chính ủy đề nghị, là uỷ viên Khu ủy. Chính ủy Trung đoàn là uỷ viên Tỉnh ủy do Khu ủy đề nghị, Tổng chính ủy chỉ định, Trung ương duyệt.
2. Uỷ ban quân sự Trung ương phụ trách nghiên cứu đường lối chiến lược và chiến thuật quân sự, do Trung ương chỉ định, Tổng chính ủy phụ trách.
3. Hội đồng kỷ luật ở Trung ương, khu và trung đoàn gồm những đồng chí nhiều tuổi đảng, nhiều thành tích chiến đấu. Ở Trung ương do Tổng chính ủy đề nghị Trung ương duyệt. Ở các khu, trung đoàn do chính ủy cấp dưới đề nghị, chính ủy cấp trên duyệt.
4. Các ban giúp việc gồm ba ban: Tổ chức, Tuyên huấn, Kiểm tra, cán bộ phụ trách do Chính ủy chỉ định.
5. Các ủy viên phụ trách các ngành chuyên môn ở các cấp thay Chính ủy đôn đốc, điều khiển công việc. Mỗi ngành có một ủy viên phụ trách. Ngoài ra còn tổ chức các Hội nghị chuyên môn để đóng góp ý kiến.
6. Văn phòng của Chính ủy viên ở các cấp phụ trách phối hợp ba ngành công tác: nội bộ, quản trị và chỉ huy do Chính ủy trực tiếp tổ chức và điều khiển.
Trung ương cũng quy định rõ quyền hạn và nhiệm vụ của chính trị ủy viên, Uỷ ban quân sự trung ương; về sự liên lạc với cấp trên, cấp dưới và cấp tương đương Đảng bộ bên ngoài.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.388-395.
NGÀY 21-10
Thành lập Đặc biệt khu Hòn Gai
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Cán bộ lần thứ năm và căn cứ vào đề nghị của Liên khu ủy I, ngày 29-9-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị lập Ban Chấp hành Đặc biệt khu Hòn Gai gồm các đồng chí: Nguyễn Cộng Hoà, Khu ủy viên Liên khu I làm Bí thư và các đồng chí Trần Quốc Cư, cán bộ Tổng Liên đoàn; đồng chí Hoàng, Cường, Phúc, cán bộ công vận Liên khu I làm ủy viên.
Sau khi tách Hòn Gai làm Đặc biệt khu, Ban Tỉnh ủy Quảng Yên phải tổ chức riêng, Trung ương cũng chỉ định đồng chí Cư tức Lang làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Yên.
Trung ương tạm thời ủy nhiệm Liên khu I phụ trách Đặc biệt khu Hòn Gai theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Cán bộ lần thứ năm của Đảng.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu: II.3/2/23.6.
NGÀY 23-10
Đồng chí Thận* gửi thư cho đồng chí Lê Duẩn và Xứ uỷ Nam Bộ về việc củng cố phong trào cách mạng và chỉnh đốn công tác đảng
Theo đánh giá của Trung ương, phong trào kháng chiến ở Nam Bộ còn nhiều yếu kém, khó khăn. Sự liên lạc giữa đồng chí Duẩn, Xứ ủy Nam Bộ và các thường vụ tỉnh ủy chưa được mật thiết. Để khắc phục khó khăn, phát huy thế mạnh của địa hình Nam Bộ có nhiều ao đầm, ngòi rạch, rừng dừa, bụi rậm để đánh địch, ngày 23-10-1948, đồng chí Trường Chinh gửi thư cho đồng chí Lê Duẩn và Xứ uỷ Nam Bộ nêu rõ những nhiệm vụ sau:
1. Đào tạo cán bộ mới, bổ túc cán bộ cũ. Thường xuyên mở các lớp huấn luyện, thống nhất chương trình và phương pháp huấn luyện.
2. Chỉnh đốn tư tưởng, lề lối làm việc, đề cao kỷ luật của Đảng và đạo đức của người đảng viên theo tư tưởng của cuốn Sửa đổi lối làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Đề cao vấn đề học tập lý luận và kinh nghiệm, học tập chủ nghĩa và nghiên cứu chủ trương, chính sách của Đảng.
4. Kiện toàn bộ máy lãnh đạo các cấp của Đảng gồm những đồng chí trung thực, có năng lực.
5. Chú trọng đến vấn đề tổ chức, nâng cao mức tổ chức ngang với nhu cầu chính trị của Đảng, đảm bảo thi hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
6. Đoàn kết cho đúng, tránh cô độc, hẹp hòi, đồng thời tránh hợp tác vô nguyên tắc với các đoàn thể, giai cấp, thân sĩ.
7. Đặc biệt đề phòng nội gián trong hàng ngũ Đảng, các đoàn thể mặt trận, bộ đội, kháng chiến - hành chính, các ban ngành chuyên môn...
8. Phát triển chiến tranh du kích, phát triển dân quân, du kích chiến tiến lên vận động chiến. Thống nhất chiến lược thống nhất chỉ huy toàn Nam Bộ.
9. Phát triển Đảng bộ Cao Miên, mở rộng du kích lên đất Cao Miên để chia lực lượng địch, tiến tới làm cho cách mạng Cao Miên thật là của nhân dân Cao Miên. Đồng thời tích cực tiếp tế thóc gạo và các nhu yếu phẩm cho Nam Trung Bộ.
10. Giữ vững liên lạc với Trung ương cũng như với Nam Trung Bộ và Xiêm.
11. Đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc với ba khẩu hiệu lớn: tăng gia sản xuất, luyện quân lập công, chống nạn mù chữ. Thi đua phát triển Đảng thi đua sửa đổi lối làm việc, đồng thời thi đua lãnh đạo mọi ngành hoạt động của nhân dân.
12. Muốn làm tròn những nhiệm vụ trên cần đặc biệt chú ý củng cố chi bộ xã, các ban kháng chiến hành chính xã, các đơn vị đại đội.
Trung ương cũng cử đồng chí Thọ vào xem xét, giải quyết các vấn đề của Nam Bộ, rút kinh nghiệm để Trung ương kịp có chủ trương lãnh đạo sát với tình hình. Vai trò lãnh đạo của Trung ương đối với phong trào kháng chiến của nhân dân Nam Bộ được tăng cường, thúc đẩy phong trào phát triển, phối hợp cùng cả nước chống thực dân Pháp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.380-387.
NGÀY 8-11
Ban Thường vụ Trung ương Chỉ thị xây dựng các tổ chức quần chúng bí mật để hoạt động khi chiến sự lan tới
Đề phòng chiến sự lan tới, sẵn có cơ sở quần chúng làm địa bàn hoạt động, ở các vùng tự do, các Liên khu ủy, Tỉnh ủy đã tổ chức các "Tổ bí mật" như “Tổ Việt Minh bí mật", "Tổ trung kiên", "Tổ xung phong". Tuy nhiên trong quá trình kháng chiến, các tổ chức trên đã mắc một số khuyết điểm, nhất là ở vùng địch kiểm soát, nhiều tổ chức bí mật hoá ra không bí mật ảnh hưởng không tốt cho phong trào.
Để khắc phục tình trạng trên, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương: "Ở vùng tự do, không nên tổ chức ra một tổ chức bí mật gì hết”, các cấp bộ đảng chỉ nên phân công nâng đỡ, huấn luyện đào tạo những quần chúng tốt làm cơ sở cách mạng khi chiến sự lan tới. Ở tiền tuyến, tuỳ từng hoàn cảnh mà lập nên các tổ chức "bí mật" khi chiến sự lan tới. Ở các vùng địch kiểm soát hay chiếm đóng, những tổ chức bí mật phải nằm lại hoạt động với các hình thức: Việt Minh bí mật, du kích bí mật, công đoàn bí mật tuỳ theo điều kiện từng địa phương.
Chỉ thị nêu rõ: "những hình thức tổ chức sẽ thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện thực tế từng lúc và từng nơi, không nên áp dụng một cách máy móc và cứng nhắc".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.399-401.
NGÀY 23-11
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị về điều tra nông thôn
Điều tra nông thôn là việc làm rất cần thiết nhằm làm cho Đảng nắm vững tình hình sinh hoạt của các tầng lớp nhân dân đưa ra chính sách ruộng đất cho sát. Tháng 10-1948, việc điều tra nông thôn đã được tiến hành thí điểm ở tỉnh Vĩnh Yên và thu được nhiều kết quả. Vì vậy, ngày 23-11-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc điều tra nông thôn trong cả nước.
Chỉ thị nêu rõ: "mỗi liên khu phải chọn lấy một tỉnh, mỗi tỉnh chọn lấy một huyện làm đơn vị điều tra thí nghiệm, để sau có kinh nghiệm làm nơi khác". Những nơi được chọn thí điểm phải có nhiều đặc điểm hơn nơi khác: về ruộng đất phải có nhiều loại ruộng, về xã hội, gồm nhiều giai tầng, có nhiều hình thức bóc lột của địa chủ, phú nông và nhiều phong tục tập quán khác nhau.
Các liên khu phải lập Ban Điều tra nông thôn, kế hoạch điều tra phải thống nhất và sát với tình hình địa phương. Khi điều tra phải cộng tác chặt chẽ với các cấp ủy đoàn thể địa phương để sưu tầm tài liệu thông suốt và cụ thể.
Căn cứ vào kết quả điều tra, các Liên khu ủy sẽ rút kinh nghiệm báo cáo tỷ mỷ cho các cấp đảng bộ, thành lập các ban điều tra từ tỉnh, huyện đến xã. Đồng thời phân phối các nhân viên trong Ban Điều tra liên khu về giúp các Ban Điều tra tỉnh.
Chỉ thị nhấn mạnh: "Đảng ta cần phải cộng tác với Đoàn thể trong Mặt trận Việt Minh để có thể có nhiều cán bộ đắc lực giúp việc, cũng như để công việc điều tra tiến hành được mau chóng".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.405-407.
Ngày 25-11
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về sự hoạt động của các giới dọc
Ở nhiều địa phương, các giới dọc chưa có sự hoạt động thực sự hoặc chưa tự động công tác. Nguyên nhân là do: các cấp ủy chưa chú trọng đến công tác vận động các giới; công tác các giới hầu như phụ thuộc vào các cấp ủy; tình trạng chung là thiếu tiền, thiếu phương tiện, trình độ cán bộ các giới non kém, chưa hiểu thấu tình hình dân chúng; đời sống cán bộ lại thiếu thốn.
Trước tình hình đó, ngày 25-11-1948, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về sự hoạt động của các giới dọc.
Chỉ thị nhấn mạnh: "Phải làm cho công tác các giới tự động và thiết thực". Cấp ủy đưa thêm cán bộ có năng lực nghiên cứu vào hoạt động các giới. Đảng không nên bao biện, choán quyền lợi của các đoàn thể quần chúng. Cấp ủy phải hiểu rõ các vấn đề chuyên môn của các giới và giúp cho các giới có kế hoạch thực hiện chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Các giới dọc phải tôn trọng nguyên tắc của các đoàn thể quần chúng; phải thi hành chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành giới dọc cấp trên. "Phải bồi dưỡng tinh thần năng lực cho các cán bộ ngành dọc". Đặc biệt chú trọng đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.417-421.
NGÀY 3-12
Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị cho Đảng đoàn Hội Văn hoá Việt Nam
Trước việc một số nhà văn Pháp như P.Sartre, Philip, Farge... lên tiếng yêu cầu Chính phủ Pháp phải mở cuộc điều đình với Chính phủ ta, ngày 3-12-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị cho Đảng đoàn Hội Văn hoá Việt Nam viết bài hoan nghênh thái độ một số nhà báo Pháp.
Chỉ thị yêu cầu: Hội Văn hoá Việt Nam và Hội Văn nghệ Việt Nam ra tờ hiệu triệu chung nhân dịp kỷ niệm hai năm ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1948), trong đó nhắc nhở những hành động chính đáng của những nhà văn Pháp nói trên, tỏ thái độ hoan nghênh họ và đồng thời kêu gọi các nhà văn trên thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của ta. Các bài viết sẽ cho phát thanh bằng nhiều thứ tiếng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.9, tr.424.
NGÀY 5-12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Chấn chỉnh phong trào sinh viên Việt Nam
Công tác phát triển giáo dục đại học và chuyên nghiệp sớm được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, bên cạnh việc khôi phục các trường cao đẳng kỹ thuật đại học chuyên môn có từ thời Pháp, ta đã thành lập một số trường đại học mới đáp ứng yêu cầu cuộc kháng chiến kiến quốc. Đội ngũ sinh viên ngày càng đông đảo đóng góp tích cực cho cuộc kháng chiến của dân tộc đặc biệt là sinh viên y, dược.
Để động viên hơn nữa tinh thần hăng hái kháng chiến của sinh viên, ngày 5-12-1948, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các Khu ủy chú trọng công tác chấn chỉnh sinh viên, tiến tới thống nhất sinh viên trong Đoàn sinh viên Việt Nam, bầu Ban Chấp hành khu.
Các Khu ủy cử một đồng chí Hội đoàn có năng lực (thanh vận hay do cấp ủy trực tiếp cử ra) để phụ trách thanh niên, trực tiếp liên lạc với các cấp ủy và thanh vận khu.
Đoàn sinh viên Việt Nam ở các cấp nào phải có đại biểu vào Ban Chấp hành Thanh niên Việt Nam ở cấp ủy ấy và thi hành chỉ thị, nghị quyết của Đoàn Thanh niên Việt Nam.
Đối với cựu sinh viên, Đoàn sinh viên Việt Nam không cần phải tổ chức vì họ đã trở thành kỹ sư, bác sĩ, công chức cao cấp đã vào Đảng Dân chủ hoặc Đảng Xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.426-427.
NGÀY 8-12
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về chống gián điệp của Pháp
Sau một thời gian điều tra xét các ổ Việt gian ở Liên khu I, X và Bộ Tổng chỉ huy, ta thấy bọn gián điệp của Pháp chui vào các cơ quan chính quyền, quân sự, các đoàn thể, đảng phái của ta, mục đích dò xét tình hình, dò xét cán bộ, ăn cắp tài liệu, mệnh lệnh quân sự, phá ngầm gây chia rẽ nội bộ. Để được tín nhiệm, bọn chúng tỏ ra trung thành tận tụy. Có tên đã được tổ chức vào Đảng làm đến trung đoàn ủy, trưởng phòng tình báo. Các đoàn thể bị Việt gian chui vào như Liên Việt, Hội ủng hộ kháng chiến, Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác, Dân chủ Đảng.
Trước tình hình trên, ngày 8-12-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về chống gián điệp của Pháp. Chỉ thị nêu rõ: để đối phó với những thủ đoạn, mưu mô xảo quyệt của địch; để phòng gian, trừ gian có hiệu quả, chúng ta phải: tăng cường công tác kiểm tra lý lịch cán bộ, hành động của cán bộ; thanh trừ ngay các phần tử có thành tích bất hảo, khả nghi, nhưng phải phán đoán công minh, không mắc mưu địch, nghi ngờ lung tung. Giữ bí mật khi di chuyển, đi công tác; cẩn thận trong việc chụp ảnh, kiểm duyệt các báo, không để lộ thông tin, tài liệu của Đảng. Tăng cường công tác chính trị trong các cơ quan, quân đội. Thủ trưởng phải tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân viên, tìm cách nâng cao đời sống cho họ. Đối với bọn phạm tội cần trang trị thích đáng dù là cấp cao hay thấp. Củng cố mạng lưới tình báo, công an của ta tốt hơn. Mở rộng các cuộc nói chuyện trong nhân dân, các hội quần chúng để họ hiểu mánh khoé của bọn Việt gian, từ đó giác ngộ họ tham gia công tác phòng gian, trừ gian.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.430-434.
NGÀY 14-12
Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc tổ chức các chi hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dương
Nhằm bổ sung cho bản điều lệ Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dương mà Trung ương đã gửi cho các Liên khu ủy trước đó, ngày 14-12-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc tổ chức các chi hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác ở Đông Dương.
Thông tri nêu rõ: “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác nhằm mục đích truyền bá chủ nghĩa cộng sản trong đám trí thức tư sản và làm cho họ hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng ta. Vậy chỉ nên tổ chức chi hội Nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác trong đám trí thức tư sản (không tổ chức trong các giới công nông) và Hội ấy chỉ chú trọng nghiên cứu, học tập lý thuyết, chủ nghĩa, chứ không chú trọng động viên nhân dân tham gia các công tác kháng chiến như các hội Cứu quốc và các tổ chức quần chúng khác".
Thông tư của Thường vụ đã giúp các địa phương nhận rõ tác dụng và phạm vi hoạt động của. Hội nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác và thực hiện đúng điều lệ của Hội mà Trung ương đã ban hành.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.439.
NGÀY 17-12
Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Về việc đỡ đầu bộ đội
Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho bộ đội là việc làm tích cực giúp bộ đội yên tâm, hăng say chiến đấu. Ngày 17-12-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc đỡ đầu bộ đội, yêu cầu các cấp chỉ huy bộ đội và các địa phương phải chăm lo hơn nữa đến sinh hoạt vật chất và tinh thần của bộ đội, trong đó nhấn mạnh phong trào “Đỡ đầu bộ đội".
Chỉ thị nêu rõ: “Phải tích cực gây một phong trào mạnh mẽ liên tiếp "Đỡ đầu bộ đội" sâu rộng trong dân chúng, trong các đoàn thể". Giới thiệu bộ đội, chiến sĩ đến các nhà phú hộ để đỡ đầu "Gây thành một phong trào lập những "gia đình chiến sĩ", khắp nơi nhận các chiến sĩ làm con hay anh em".
Đẩy mạnh phong trào "Đỡ đầu bộ đội" góp phần động viên chiến sĩ, thanh niên hăng hái chiến đấu giết giặc lập công bảo vệ Tổ quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.440-441.
NGÀY 18-12
Trung ương Đảng Chỉ thị tịch thu ruộng đất, tài sản của Việt gian phản quốc
Tháng 1-1948, Hội nghị Trung ương họp đã bàn và ra nghị quyết về việc tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian phản quốc cấp cho dân cày. Để triển khai chủ trương này, ngày 18-12-1948, Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các khu ủy thi hành tịch thu ruộng đất của bọn Việt gian.
Chỉ thị nêu rõ: các Khu ủy phải lập danh sách bọn Việt gian phản quốc, điều tra ruộng đất, tài sản của chúng, các Khu ủy phải nghiên cứu để phân chia ruộng đất cho dân cày được công bằng.
Chỉ thị nhắc nhở rằng khi liệt ai vào hạng Việt gian phải căn cứ vào hành động cụ thể, không được mơ hồ; khi tịch thu ruộng đất, tài sản của Việt gian nên để cho vợ, con họ những phương tiện sinh sống nếu những người đó không phạm tội phản quốc, trong khi tuyên truyền phải tránh làm cho giới tư sản, điền chủ hiểu sai chính sách của Đảng mà sinh ra hoang mang, lo sợ.
Trung ương còn vạch rõ cách phân phát ruộng đất của Việt gian như: tạm cấp cho dân cày mướn, giao cho bộ đội để thực hiện tự cấp một phần; giao cho ủy ban hành chính địa phương quản lý hoặc giao cho tư nhân canh tác và nộp địa tô cho chính phủ.
- Chỉ thị của Trung ương Đảng ngày 18-12-1948, gửi các Khu ủy về việc tịch thu ruộng đất, tài sản của bọn Việt gian, phản quốc, tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
NGÀY 20-12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt
Nhằm củng cố Việt Minh, phát triển Liên Việt, tiến tới thống nhất hai tổ chức này, ngày 20-12-1948, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt.
Chỉ thị yêu cầu các địa phương cần giải thích tuyên truyền sớm, rộng trong quần chúng để họ hiểu rõ tầm quan trọng của việc thống nhất hai tổ chức đáp ứng yêu cầu thực tế của công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nhân những ngày lễ kỷ niệm 19-12, Tết Nguyên đán, nên tổ chức khai Hội nghị Liên tịch Việt Minh - Liên Việt, bàn đến việc thống nhất, trao đổi ý kiến, vận động các vị thân sĩ đứng lên phát biểu ý kiến hoan hô việc thống nhất mặt trận dân tộc.
Chỉ thị nêu rõ: Trong khi củng cố Việt Minh và các đoàn thể trong Mặt trận thì Liên Việt cũng phải được xây dựng theo đúng hình thức mặt trận có đủ các đoàn thể như Đảng Thống nhất Việt Nam, Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, Hội ủng hộ kháng chiến, bảo trợ du kích .. Chỉ thị còn nhắc nhở các địa phương cần chú trọng đặc biệt chấn chỉnh cấp xã.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.9, tr.444-445.
NGÀY 25-12
Những người cộng sản Việt Nam gửi thư cho đồng bào Công giáo nhân ngày lễ Thiên Chúa giáng sinh
Để chống phá cách mạng Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường chia rẽ lương - giáo, phá khối đoàn kết dân tộc, chúng tung ra những luận điệu xuyên tạc để lừa bịp nhân dân, nói xấu Việt Minh.
Nhân dịp lễ Nôen (25-12-1948), trong bức thư gửi đồng bào Công giáo Việt Nam đăng trên báo Sự thật số 105 ra ngày 25-12-1948, Đảng đã một lần nữa tỏ rõ lập trường của mình đối với tôn giáo: những người cộng sản Việt Nam “không hề phản đối quyền tự do tín ngưỡng". "Chúng tôi yêu nước và tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người. Chúng tôi không tin ở thiên đường sau khi chết, nhưng chúng tôi tin có thể lập "thiên đường" ngay lúc sống. Chúng tôi không phản đối việc truyền bá và thờ cúng của tôn giáo, nhưng chúng tôi phản đối những kẻ đội lốt tôn giáo làm những điều bất nhân, bội nghĩa, phản nước hại nòi".
Vạch rõ âm mưu thâm độc của bọn thực dân Pháp và bọn "giáo gian" phản động, đoàn kết lương giáo để chống Pháp; những người cộng sản Việt Nam hoan nghênh những người theo đạo tham gia tích cực vào hàng ngũ kháng chiến cứu nước của dân tộc, đồng thời kiên quyết tiêu diệt bọn "giáo gian” làm "ô nhục tôn giáo".
Những người cộng sản Việt Nam "mong rằng đồng bào Công giáo nước ta càng ngày càng góp thêm phần vinh dự vào công cuộc cứu nước thiêng liêng và luôn luôn cầu khẩn cho Việt Nam chiến thắng”.
- Báo Sự thật, số 105, ngày 25-12-1948.
CUỐI NĂM 1948 ĐẦU NĂM 1949
Phong trào du kích chiến tranh ở Liên khu V
Thực hiện chủ trương tổng phá tề, đập tan chính quyền địch ở cơ sở của Trung ương Đảng, cuối năm 1948, nhân dân vùng tạm chiếm các tỉnh ven biển Liên khu V nổi dậy quét sạch tề trên nhiều vùng rộng lớn.
Du kích Quảng Nam đột nhập thị xã Hội An, bắt sống tỉnh trưởng bù nhìn Hồ Ngận. Cảm tử đội Phan Thiết đột nhập thị xã, bắt và giết hàng chục tên tay sai, làm tan rã phần lớn bộ máy hội tề ở các phường và khu phố. Bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở bị phá vỡ từng mảng ở nông thôn và trong một số đô thị.
Phong trào du kích: bao vây, uy hiếp các vị trí, phục kích giao thông... phát triển rộng rãi. Hàng loạt đoàn xe lửa quân sự, hàng trăm xe vận tải quân sự của địch bị mìn của du kích làm nổ tung. Nhiều cầu trên các đường số 1,11, 21,100 bị đánh sập.
Trước sức uy hiếp mạnh mẽ của phong trào du kích, lính địch trong nhiều đồn bốt không dám ra ngoài. Binh lính trong các đồn địch ở khu Tam Giác (Bình Thuận) bị du kích vây hãm triệt nguồn nước uống, phải dùng xe chở nước từ Phan Thiết lên, nhưng vẫn không đủ. Bọn chỉ huy phải viết thư xin chính quyền cách mạng cho đi lấy nước.
Kết hợp với phong trào tiến công địch rộng rãi của du kích ở khắp các địa phương trong đông xuân 1948-1949, ta còn mở một đợt hoạt động mạnh trên một số hướng chiến trường, nhằm: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, tạo điều kiện đẩy mạnh hơn nữa phong trào chiến tranh du kích.
Ở Khánh Hoà và Phú Yên, từ ngày 11-11-1948 đến cuối tháng 2-1949, Liên trung đoàn 80-83, Trung đoàn trưởng Lư Giang và Chính ủy Nguyễn Đường chỉ huy, tiến công địch các cứ điểm Phước Thuận, Trại Cá, Đại Điền Trung, Phú Khê, phục kích tiêu diệt các đội quân ứng chiến ở Phước Mỹ, Quảng Thiệu, mở đầu cho việc đánh bại chiến thuật cứ điểm nhỏ, đội ứng chiến nhỏ của địch. Trung đoàn còn táo bạo cho lực lượng thọc sâu đánh chìm chiến hạm Amiran Vécnon (Amiral Vernon) trên biển Hòn Khói.
Với chiến công này, Trung đoàn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ danh dự thêu tên các chiến công vừa giành được. Đây cũng là trung đoàn đầu tiên và là trung đoàn duy nhất ở Nam Trung Bộ được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ thưởng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Phong trào kháng chiến ở Liên khu V, cuối năm 1948 đầu năm 1949, góp phần làm cho lực lượng ta ngày càng lớn mạnh về mọi mặt, tiến lên giành quyền chủ động trên chiến trường.
- Viện Lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Khu V, ba mươi năm chiến tranh giải phóng,Bộ Tư lệnh Liên khu V, 1989, t.1, tr.245-247.
- Viện Lịch sử, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), Hà Nội, 1992, tr.125.
CUỐI NĂM
Đảng chủ trương đưa các đại đội độc lập về hoạt động ở các địa phương địch hậu
Nhằm phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, đánh phá âm mưu bình định của địch, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương, Trung ương Đảng đưa ra công thức đại đội độc lập, binh đoàn tập trung, chủ trương phân tán hai phần ba bộ đội chủ lực thành các đại đội độc lập về hoạt động ở các huyện, theo phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra trước đây, dân quân du kích là nguồn bổ sung dồi dào cho chủ lực.
Các đại đội này phải bám chắc vào dân, dựa vào làng chiến đấu, khi tập trung, khi phân tán thành từng đội, tiểu đội chiến đấu với quân địch. Đặc biệt ở vùng địch hậu, phải mạnh dạn phân tán một bộ phận bộ đội thành những đại đội đi sâu vào vùng địch hậu để phát động chiến tranh du kích.
Ở các khu, mỗi trung đoàn chỉ để lại bộ chỉ huy trung đoàn và một tiểu đoàn chủ lực tập trung; riêng ở Bộ, các tiểu đoàn chủ lực vẫn giữ nguyên và sẽ bố trí từng tiểu đoàn tác chiến trên một địa bàn hoặc một hướng...
Thực hiện chủ trương của Đảng và huấn lệnh của Bộ trưởng chỉ huy, các đại đội độc lập và vũ trang tuyên truyền đã tiến vào vùng sau lưng địch. Vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, cán bộ, chiến sĩ ta cùng với cán bộ, đảng viên địa phương, lấy gốc cây, hang đá, bụi tre làm nhà, lấy rau đồng thay cơm, đêm đêm lần vào thôn, xóm bắt liên lạc với cơ sở cũ, nắm tình hình xây dựng cơ sở mới, phục hồi các tổ chức quần chúng, tổ chức các đội du kích. Nhờ đó, chỉ trong một thời gian ngắn, cơ sở cách mạng được phát triển khắp trong miền ngược, miền xuôi, vùng đồng bào Công giáo. Ở Tây Bắc, ta đã gây dựng lại nhiều cơ sở chính trị từ Nhà tù Sơn La tới Mộc Châu, tạo chỗ đứng vững chắc cho cách mạng. Ở Đông Bắc, nhiều cơ sở quần chúng ở Hải Ninh, Hồng Quảng được xây dựng, tạo điều kiện mở chiến dịch Đông Bắc vào giữa năm 1949, đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Tây Nguyên, các tỉnh Nam Trung Bộ ta phục hồi được nhiều cơ sở chính trị và quân sự. Ở Nam Bộ, nhờ công tác vũ trang tuyên truyền mà ta đã gây dựng lại cơ sở quần chúng ở nhiều nơi, lôi kéo gần 10 vạn đồng bào theo đạo Hoà hảo ở Long Châu Tiền và Sa Đéc trở về kháng chiến.
Đi đôi với việc phục hồi cơ sở quần chúng, nhiều cơ sở Đảng được gây dựng lại. Trên cơ sở đó lực lượng vũ trang địa phương cũng phát triển nhanh. Được sự dìu dắt của các đại đội độc lập, các du kích tập trung ngày càng trưởng thành. Căn cứ du kích ngày càng mở rộng. Làng chiến đấu mọc lên ở nhiều nơi. Tiêu biểu là Cự Nẫm, Cảnh Dương, Hưng Đạo (Quảng Bình), Chi Lăng (Lạng Sơn), Xi Tơ (Tây Nguyên).
Hình thức đại đội độc lập bắt nguồn từ đại đội nghĩa quân - một sáng tạo của các huyện nam phần Bắc Ninh và Đảng bộ địa phương. Công thức đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung phù hợp với loại hình chiến tranh du kích: gọn, cơ động và bất ngờ. Khi phong trào địa phương mạnh thì chủ lực rút, địa phương càng mạnh thì lại càng phải tiếp tục bổ sung cho chủ lực...
Chủ trương đưa bộ đội chủ lực về hoạt động ở các địa phương góp phần đánh bại một bước kế hoạch bình định của địch, đưa kháng chiến vào vùng địch hậu, biến hậu phương địch thành tiền phương ta.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây (Hồi ức), Nxb. Quân đội nhân dân, Nxb.Thanh niên, Hà Nội, 1995, tr.151-161.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.256.
NĂM 1948
Liên khu uỷ IV chỉ đạo hoạt động trấn áp bọn phản cách mạng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng được thành lập trên phạm vi cả nước, nhưng ở Thanh - Nghệ - Tĩnh bọn phản động núp dưới các hình thức chính trị, xã hội, tôn giáo vẫn ngấm ngầm hoạt động.
Từ khi thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm nước ta, bọn phản động càng ráo riết hoạt động, đặc biệt là ở vùng Công giáo và thượng du hai tỉnh Thanh - Nghệ.
Tại Nghệ An, bọn phản động Công giáo Xã Đoài công khai bàn kế hoạch gây bạo loạn, lập chính quyền Công giáo thống nhất giáo hội với Liên đoàn Công giáo, đưa những tên phản động cực đoan vào vị trí chủ chốt. Chúng quy định “Các cha là ủy ban, Liên đoàn là mặt trận" và thông qua một chương trình hành động toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự nhằm biến tổ chức này thành một chính quyền riêng biệt của những người theo đạo Thiên chúa.
Tại Thanh Hoá, bọn phản động lập ra cái gọi là "Liên hiệp quốc gia" ở Nông Cống và mở rộng hoạt động ra các huyện Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng Hoá. Đặc biệt là miền thượng du Thanh Hoá, cha con Lê Xuân Kỳ và Lê Xuân Tín đã lợi dụng chức Chủ tịch Uỷ ban Thượng du để bóc lột nhân dân, xây dựng lực lượng riêng, nhằm chống phá cách mạng và âm mưu liên hệ với Pháp lập "Xứ Mường tự trị". Bên cạnh đó, tổ chức "Liên châu Thái Bắc Việt" cũng ráo riết hoạt động ở miền Tây Nghệ An.
Trước tình hình trên, Liên khu ủy IV đã chỉ đạo các tỉnh kiên quyết dập tắt những âm mưu phản động của địch. Lực lượng công an phối hợp với bộ đội các tỉnh mưu trí, dũng cảm, sáng tạo cùng nhân dân các địa phương lần lượt bắt và trừng trị những tên đầu sỏ.
Đến cuối năm 1948, hầu hết các tổ chức phản động đã bị dập tắt, nhân dân được giác ngộ ủng hộ chính quyền cách mạng và tham gia kháng chiến.
- Quân khu IV, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.187-190.
NĂM 1948
Phong trào Tổng phá tề trong toàn quốc
Từ năm 1948, thực dân Pháp chuyển hướng chiến lược quay về bình định, củng cố vùng chiếm đóng. Cùng với việc càn quét, bình định và tấn công lấn chiếm, đánh đến đâu giặc Pháp xây đồn, lập bốt, tổ chức hội tề tay sai đến đó. Hệ thống hội tề là chỗ dựa, là công cụ trực tiếp thi hành các chính sách của địch ở thôn xã.
Về chính trị, Pháp dùng hội tề để phá Mặt trận dân tộc thống nhất, chia rẽ tôn giáo, chia rẽ nhân dân với chính quyền kháng chiến, tổ chức các đảng phái phản động, gây cơ sở và thanh thế cho chính quyền bù nhìn. Về quân sự, hội tề giúp Pháp tuyển mộ thân binh, bắt phu giúp cho các hoạt động quân sự, tổ chức các đội hương dũng, nghĩa dũng chống lại ta, là tai mắt dò xét cơ sở, lực lượng và các hoạt động kháng chiến của ta. Về kinh tế, hội tề là công cụ để thu thuế, vơ vét của cải cho Pháp, phục vụ chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", phá hoại, bao vây, bóp nghẹt kinh tế kháng chiến.
Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn độc ác của giặc Pháp, ngày 19-1-1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác phá tề, phát động phong trào phá tề trên toàn quốc.
Thực hiện Chỉ thị của Đảng, quân và dân ta ở các địa phương trong cả nước đã sáng tạo ra nhiều biện pháp phá tề trừ gian có hiệu quả, tranh thủ hoặc vô hiệu hoá các hội tề.
Đối với bọn phản động gian ác, ta đi từ thuyết phục, cảnh cáo đến thẳng tay trừng trị nếu chúng ngoan cố. Đối với loại lừng chừng, ta tìm cách lôi kéo hạn chế mặt tác hại. Đối với loại bất đắc dĩ, ta tìm cách sử dụng họ. Ngoài số tề do địch lập, ở nhiều địa phương xuất hiện tề hai mặt, ta đưa người ra làm, có khi là quần chúng trung kiên, có khi có đảng viên, cốt cán.
Ở những nơi địch chuẩn bị lập tề, ta buộc những phần tử có thể theo Pháp phải di dời đi nơi khác, thuyết phục, giáo dục chúng, lúc cần thiết thì bao vây, không cho chúng theo Pháp. Ở một số nơi, ta còn sử dụng ngay tổ chức hội tề để che mắt địch và lợi dụng làng tề để ràolàng, sắm sửa vũ khí, canh gác tuần tra, tổ chức nhân dân lập làng chiến đấu. Ta cũng đã thuyết phục được nhiều hội tề làm việc cho kháng chiến, nắm tình hình, giúp liên lạc tiếp tế, báo trước các kế hoạch càn quét của địch để kịp thời đối phó giúp ta bao vây kinh tế địch, bảo vệ kinh tế kháng chiến.
Đi đôi với hoạt động phá tề thường xuyên, khi điều kiện cho phép, nhân dân ta đã thực hiện những đội phá tề ở địa phương và tổng phá tề đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, toàn miền. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng cuộc tổng phá tề toàn quốc, đặc biệt là cuối năm 1948, khiến địch hoang mang khiếp sợ.
Ở Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) trong đêm 25-10-1948, được bộ đội, du kích làm nòng cốt, hỗ trợ, nhân dân nổi dậy phá hơn 90% số hội tề trong huyện, bức rút một số đồn bốt.
Ngày 24-12-1948, nhân dân các huyện An Dương, An Lão, Hải An, Kiến Thuỷ, thị xã Đồ Sơn (Kiến An) nổi dậy phá 458 ban hội tề các thôn xã, trừng trị 72 tên phản động tay sai cho địch. Ở Cẩm Giàng (Hải Dương), sau khi đánh đổ hội tề, nhiều thôn xây dựng chính quyền kháng chiến, chuẩn bị chống địch lập hội tề. Ở huyện Kim Thành (Hải Dương), ta tranh thủ củng cố được nhiều cơ sở, phát triển chiến tranh du kích.
Từ ngày 6-12-1948 đến ngày 6-1-1949, trong một tháng, tại chín tỉnh Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hoà Bình, Hà Nam, Hà Nội, ta đã phá 631 ban hội tề, bắt giữ 1.429 tên, diệt tại chỗ 64 tên tay sai gian ác.
Tại các vùng tạm chiếm Liên khu IV, Liên khu V, Nam Bộ, quân và dân ta cũng mở các đợt tổng phá tề, thu nhiều kết quả. Đến tháng 8-1948, 80% hội tề ở Bình - Trị - Thiên bị giải tán, chính quyền nhân dân thôn, xã lần lượt ra đời.
Cuối năm 1948, Trung ương lại ra lệnh tổng phá tề, các tỉnh Bình - Trị - Thiên tiếp tục tổng phá tề lần thứ hai, 95% hội tề bị giải tán. Trong ba tháng cuối năm 1948, Bình - Trị - Thiên phá tan 432 ban hội tề, trong đó giải tán 271, thuyết phục 123, bắt truy tố 38, thu 136, diệt và bắt 40 tên phản động.
Ở Tây Nguyên, công tác diệt tề, phá tề cũng được tiến hành liên tục, chính quyền cách mạng được xây dựng và phát triển nhanh, đầu năm 1948, ta chỉ làm chủ được 300 bản, đến cuối 1948 ta đã làm chủ được 700 bản.
Tại Nam Bộ, cuối năm 1948 đầu năm 1949, trong tổng số 1.024 xã toàn Nam Bộ, chính quyền nhân dân đã làm chủ 693 xã. Phong trào diệt tề, phá tề phát triển ở các tỉnh Mỹ Tho, Sa Đéc, Tân An, Gò Công, Châu Đốc. Tại các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên (Châu Đốc), 70% hội tề bị phá vỡ.
Trong phong trào phá tề trừ gian, vai trò của các chiến sĩ công an rất quan trọng. Các đội công an xung phong, đội hành động, đội trừ gian diệt tề luồn sâu vào lòng địch nắm tình hình, lập danh sách, phân loại để có biện pháp xử lý. Đội Hùng Sơn (Sơn Tây) được Công an Liên khu III, tỉnh uỷ, Uỷ ban Kháng chiến hành chính khen thưởng. Công an Hoà Bình, Tuyên Quang được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tặng một áo lụa vì đã lập thành tích xuất sắc trong công tác diệt tề trừ gian. Từ tháng 5 đến tháng 8, Công an Hà Nội mở 20 đợt phá tề kết hợp với trừng trị ác ôn ngoan cố, phá hoại địch, điển hình là các trận đánh phá kho dầu ở Sở Lục Lộ làm cháy 3.400 lít xăng, phá 3 xe, diệt một số tên địch.
Tổng phá tề thực chất là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân vùng sau lưng địch, có lực lượng vũ trang hỗ trợ và phối hợp, dưới sự chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp ủy Đảng, làm thất bại một bước âm mưu bình định của chúng.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.372-377.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.157- 160.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945-1954), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003, t. 204-205.
- Quân khu 3, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.161, 178-180.
____________
1. Đầu năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các Sắc lệnh số 110-SL ngày 20-1-1948 phong quân hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp; số 111-SL ngày 20-1-1948 phong quân hàm Thiếu tướng kể từ ngày 1-1-1948 cho các ông Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn; số 112-SL ngày 20-1-1948 phong quân hàm Thiếu tướng kể từ ngày 1-1-1948 cho các ông Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai; số 115-SL ngày 25-1-1948 phong quân hàm Trung tướng cho ông Nguyễn Bình; số 117-SL, ngày 25-1-1948 phong quân hàm Thiếu tướng cho ông Trần Đại Nghĩa.
2. TUQU, QKU, TDU, TDU: Trung ương Quân uỷ, Quân khu uỷ, Trung đoàn uỷ, Tiểu đoàn uỷ (BT).
* Bí danh đồng chí Trường Chinh.
Năm 1949 TỪ NGÀY 14 ĐẾN NGÀY 18-1
Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ sáu
Trải qua hơn ba năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân và dân ta "càng đánh càng mạnh", quân địch ngày càng lâm vào thế "suy nhược", "lúng túng", lực lượng so sánh giữa ta và địch chuyển biến rõ rệt; trong khi đó lực lượng so sánh giữa phe dân chủ và phe đế quốc trên thế giới cũng đang chuyển biến mau lẹ, quân Giải phóng Trung Quốc đã làm chủ Hoa Bắc và tiến công vũ bão xuống Trung Nguyên. Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trong giai đoạn thứ hai, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ sáu từ ngày 14 đến ngày 18-1-1949 tại Việt Bắc nhằm "kiểm điểm năm qua, nhận định tình hình hiện tại, nhận định nhiệm vụ và bước đường trước mắt để chuẩn bị tổng phản công, giành lấy thắng lợi cuối cùng”.
Hội nghị đã thảo luận và nhất trí với Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh với nhan đề: "Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công" và các báo cáo khác của Trung ương: "Nhiệm vụ quân sự của chúng ta trong giai đoạn hiện tại", "Củng cố chính quyền nhân dân trong giai đoạn mới", "Về công tác mặt trận và dân vận", "Về tình hình Đảng năm 1948 và kế hoạch công tác nội bộ năm 1949", "Những nhiệm vụ kinh tế trong năm mới" và ra Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ sáu.
Căn cứ vào tình thế mới của cuộc kháng chiến, Hội nghị đã đề ra chủ trương thực hiện phương châm chiến lược mới là “Tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công” với khẩu hiệu "Tất cả để chiến thắng”.
Từ chủ trương nói trên, Hội nghị đã định ra những nhiệm vụ và công tác quan trọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta như sau:
Về quân sự: Đánh mạnh hơn nữa vào hậu phương địch, đánh vào các vị trí chiến lược, cắt các đường giao thông quan trọng với hướng hoạt động chính là những vùng chiến lược và kinh tế quan trọng mà địch đang ra sức củng cố, từ chủ động chiến dịch đi đến chủ động chiến lược từng bộ phận; mở rộng mặt trận ở Lào và Campuchia; phối hợp với Quân giải phóng Trung Quốc ở vùng biên giới hai nước Việt- Trung; phương châm chính vẫn là: du kích chiến là căn bản, vận động chiến là phụ trợ, nhưng cần đẩy mạnh vận động chiến và khi có đủ điều kiện thì nâng vận động chiến lên địa vị quan trọng để tiến sang giai đoạn phản công; nỗ lực xây dựng bộ đội chủ lực, rút dần các đại đội độc lập để tập trung thành các tiểu đoàn, trung đoàn chủ lực, tập trung cán bộ, vũ khí và phương tiện, thông tin liên lạc cho các đơn vị có nhiệm vụ đánh vận động chiến, thực hiện chế độ chính ủy và củng cố nền nếp chính trị trong bộ đội; phát triển dân quân mà trọng tâm là dân quân xã, dân quân thành trong địa hạt quận du kích địa phương trong các vùng quan trọng về chiến lược, về chính trị và kinh tế, xây dựng dân quân thực sự là "hậu bị quân của quân đội chính quy", v.v..
Về chính trị: Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, xúc tiến việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt; củng cố chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở, thống nhất hệ thống kháng chiến hành chính toàn quốc; gây lại chính quyền ta trong vùng địch tạm chiếm, kiên quyết phá tề phá chính quyền bù nhìn trong các đô thị; tăng cường công tác phòng gian và trừ gian; sa thải các phần tử sa đọa ra khỏi bộ máy chính quyền; phổ biến sâu rộng quan niệm chính quyền dân chủ mới; ra sức tuyên truyền quốc tế và cử các phái đoàn ra nước ngoài tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ thế giới, v.v..
Về kinh tế: Cải thiện đời sống nhân dân ta về mọi mặt, đầy mạnh tăng gia sản xuất bảo đảm tự cấp tự túc không những song toàn quốc mà cả từng địa phương; triệt để thi hành chính sách ruộng đất đã ban hành (tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân cày, giảm địa tô chính, bỏ địa tô phụ, gây phong trào hiến ruộng, v.v.); xây dựng các hợp tác xã sản xuất, tiêu thụ và vận tải, phát triển các hội đổi công, hợp công; ban hành chế độ thuế khóa mới dân chủ và công bằng; tiếp tục phát hành công phiếu kháng chiến, đặt Quỹ tham gia kháng chiến cấm lưu hành mọi thứ bạc của địch, tẩy chay và chống thuế trong vùng địch ra sức phá hoại kinh tế địch; điều động một số cán bộ Đảng sang công tác kinh tế - tài chính, tích cực đào tạo cán bộ kinh tế - tài chính, kể cả gửi người đi học ở nước ngoài, v.v..
Về xây dựng Đảng: Tích cực đào tạo và mạnh dạn đề bạt cán bộ; mở các lớp huấn luyện nâng cao trình độ chính trị và lý luận của đảng viên; đẩy mạnh cuộc vận động gây chi bộ tự động công tác; phát triển Đảng mạnh mẽ ở khắp nơi, nhất là ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ; xây dựng Đảng bộ ở Lào và Campuchia; ra sức gây và phát triển cơ sở Đảng trong vùng địch tạm chiếm, nhất là ở đô thị, ở các vùng dân tộc thiểu số, v.v..
Trong buổi bế mạc Hội nghị, ngày 18-1, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các đại biểu phải thực hiện "phê bình và tự phê bình" để ngày càng đoàn kết, tiến bộ, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần đưa "kháng chiến nhất định chóng thắng lợi. Kiến quốc nhất định chóng thành công”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.1-167.
NGÀY 1-2
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về công tác vận động nhân dân Nam Bộ
Căn cứ vào những báo cáo của Xứ ủy Nam Bộ do đoàn đại biểu Nam Bộ dự Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ sáu mang ra và sự thảo luận với các đồng chí trong đoàn đại biểu, ngày 1-2-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết Về công tác vận động nhân dân Nan Bộ nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm của công tác dân vận ở Nam Bộ.
Nghị quyết nêu rõ: "Ở Nam Bộ phong trào quần chúng tốt, vững chắc, hăng hái chống giặc, tha thiết với chế độ dân chủ cộng hòa, nhưng trong từng lớp tiểu tư sản, trí thức có một xu hướng biệt phái rõ rệt”, "sự thống nhất, sự đoàn kết giữa các từng lớp ở các cấp bộ dưới chưa được như ý muốn. Quyền lãnh đạo của Đảng ở các cấp này không được nổi bật". Nguyên nhân của tình hình này là do cơ sở Đảng bên dưới chưa được sâu rộng, kém gắn với các tổ chức quần chúng và các cấp bộ đảng có sự hẹp hòi trong sự lãnh đạo nhân dân, thậm chí ở một vài địa phương còn có thành kiến giai cấp, chẳng hạn như cấp ủy Đảng chủ trương Đoàn Thanh niên Cứu quốc là một đoàn thể công nông.
Để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm của công tác vận động nhân dân ở Nam Bộ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ ra một số vấn đề như sau:
Về các tổ chức Cứu quốc và Công đoàn: phải bỏ quan điểm coi tổ chức Thanh niên Cứu quốc chỉ là một tổ chức công nông, hai tổ chức Thanh niên Cứu quốc và Phụ nữ Cứu quốc phải kết nạp cả những phần tử trung kiên, ưu tú trong các tầng lớp khác nữa theo như Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ năm, cần vận động Thanh niên Dân chủ và Phụ nữ Dân chủ vào Thanh niên Cứu quốc và Phụ nữ Cứu quốc, trường hợp bất đắc dĩ mới đưa họ vào Thanh niên Việt Nam và Phụ nữ Liên hiệp. Cần đặc biệt chú ý Nông dân Cứu quốc là một lực lượng cải tạo hương thôn, cải cách ruộng đất. Công đoàn đã gây cơ sở trong vùng địch, cần tổ chức ngay Công đoàn ởvùng tự do, Xứ ủy phải cử một Xứ ủy viên phụ trách công vận. Các tổ chức Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc và Công đoàn phải là những cột trụ quần chúng vững chắc nhất của Đảng trong Mặt trận Dân tộc thống nhất. Về công tác của những đoàn thể đó, ngoài công tác kháng chiến, phải giải quyết thiết thực những quyền lợi bản thân của đoàn viên, hội viên nữa, tránh lối sinh hoạt chính trị suông.
Vấn đề cải thiện sinh hoạt cho nhân dân: Trong công tác dân vận, các cấp bộ đảng có ưu điểm là hướng công tác của nhân dân vào kháng chiến. Nhưng về việc cải thiện sinh hoạt cho nhân dân còn có không ít khuyết điểm: Phong trào chống nạn mù chữ chưa mạnh mẽ, nền giáo dục tiểu học và trung học chưa mở mang, có rất ít trường tiểu học, thanh thiếu niên phải đi học ở các trường trong vùng địch; nền kinh tế tự túc chưa được xây dựng. Cần thấy rằng "kháng chiến mạnh mẽ, nhưng cũng không quên sự sinh sống của nhân dân", “đời sống của nhân dân mà ngày một cải tiến... là một yếu tố bồi dưỡng cho tinh thần kháng chiến của nhân dân bền bỉ và tích cực".
Nghị quyết còn chỉ cho Xứ ủy Nam Bộ phương hướng và nhiệm vụ công tác gây cơ sở trong vùng địch, vấn đề Hoa vận, vấn đề phòng gian.
Nghị quyết nhấn mạnh: "Công tác vận động nhân dân lúc này nhằm xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất thật rộng rãi vững chắc để kháng chiến và kiến quốc. Để cho các tổ chức quần chúng được tự do phát triển những khả năng sáng kiến của họ, nhưng Đảng phải giữ được vai trò lãnh đạo".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.178-184.
NGÀY 5-2
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc cổ động “Tham gia kháng chiến"
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuẩn bị bước sang giai đoạn mới, chi phí mọi mặt cho cuộc kháng chiến tăng lên gấp bội, trong khi địch ra sức phá hoại kinh tế ta khiến tình hình tài chính trở nên khan hiếm.
Để bù đắp khó khăn về tài chính, đồng thời để có thể động viên tàn dân kháng chiến, Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ sáu (l-1949) đã thông qua đề nghị của Đảng đoàn tài chính chính quyền thành lập quỹ "Tham gia kháng chiến" do sự đóng góp của mỗi người dân trong nước.
Ngày 5-2-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc cổ động "Tham gia kháng chiến" nêu rõ: "Các cấp bộ cần chú trọng tuyên truyền cho quỹ T.G.K.C1, để chính sách của Đảng được toàn dân nhiệt liệt hoan nghênh và tuân theo triệt để".
Về cách thức tuyên truyền, các địa phương dựa vào kế hoạch của Bộ Tài chính chính quyền để thi hành. Chỉ thị bổ khuyết và sửa đổi là một số điểm:
1. Làm cho toàn dân hiểu rõ "Tham gia kháng chiến" là gì, toàn dân đóng quỹ "Tham gia kháng chiến" để góp phần vào cuộc kháng chiến.
2. Chia việc cổ động thành hai thời kỳ trước và sau khi chính phủ ra Sắc lệnh.
3. Nhấn mạnh "Tham gia kháng chiến” không phải là chính sách thuế khoá mà là quỹ góp thêm của toàn dân.
…
Ngày 25-4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 36-SL thành lập quỹ "Tham gia kháng chiến".
Lập quỹ "Tham gia kháng chiến" nằm trong chủ trương dựa vào nhân dân để cung cấp cho kháng chiến, là một trong những biện pháp góp phần giải quyết khó khăn về tài chính, đảm bảo cung cấp cho nhu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.185-187.
- Bộ Tài chính: Lịch sử tài chính Việt Nam, 1993, t.I.
NGÀY 13-2
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về chương trình thi đua xây dựng Đảng năm 1949
Nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ chiến lược chung, đẩy mạnh "cuộc cầm cự chuẩn bị tổng phản công", Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về chương trình thi đua xây dựng Đảng năm 1949 gồm những nội dung sau:
1. Củng cố chi bộ làm cho 2/3 tổng số chi bộ tự động công tác nghĩa là không cần cán bộ phụ trách mà có thể sinh hoạt đều đặn, nội bộ đoàn kết, thi hành được chỉ thị, nghị quyết cấp trên và lãnh đạo được mọi mặt công tác trong đơn vị hoặc địa phương mình nêu gương là chi bộ gương mẫu.
2. Đào tạo cán bộ các cấp xứ ủy, khu ủy, tỉnh ủy tăng 40%; Cán bộ chính quyền như quân sự, hành chính kháng chiến, kinh tế tài chính và các ngành chuyên môn khác tăng 50%; Mạnh dạn cất nhắc cán bộ, khuyến khích cán bộ đi học chuyên môn.
3. Nâng cao trình độ chính trị và lý luận của toàn Đảng. Tất cả cán bộ đều phải tinh thông đường lối, chính sách và chủ trương hàng ngày của Đảng, phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin. Các trường của khu, xứ phải mở liên tiếp, tổ chức việc tự học cho cán bộ. Tất cả các đồng chí chi bộ phải được huấn luyện theo chương trình cơ bản của Trung ương.
4. Gây vững chắc cơ sở Đảng trong vùng địch tạm chiếm, chú ý trong các thành phố lớn, các cơ sở kinh tế và vùng chiến lược quan trọng của địch.
5. Phát triển mạnh số đảng viên để theo kịp các khu miền Bắc, nhưng tránh phát triển ẩu, đề phòng gián điệp của địch chui vào phá, tổ chức đến đâu phải huấn luyện đến đó.
6. Thành lập cho được Đảng bộ Miên, Lào.
7. Sửa đổi lề lối làm việc, đề cao kỷ luật và đạo đức cách mạng, chống óc địa phương hẹp hòi, mở rộng dân chủ trong Đảng, thống nhất tư tưởng, hành động, thực hiện tập thể chỉ đạo, cá nhân phụ trách, kiện toàn kiểm tra và giao thông liên lạc; chấn chỉnh lề lối báo cáo, tổ chức việc rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm.
Chỉ thị đã vạch ra những định hướng quan trọng để xây dựng và phát triển Đảng năm 1949 "làm cho Đảng ta thành một Đảng quần chúng mạnh mẽ", đảm bảo giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng về mọi mặt, kịp thời chỉ đạo kháng chiến phù hợp với tình hình mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.190-192.
NGÀY 26-2
Hội nghị Cán bộ văn hóa của Đảng
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các ngành văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế, sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, Hội nghị văn hóa của Đảng được tổ chức từ ngày 26-2 đến ngày 2-3-1949.
Hơn 70 đại biểu các ngành văn nghệ, khoa học, giáo dục, tuyên huấn cấp khu, cùng một số đại biểu quân đội và đoàn thể nhân dân đã dự Hội nghị.
Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương đã phát biểu ý kiến, định ra phương hướng và nhiệm vụ công tác văn hóa trong giai đoạn mới. Tiếp đó Hội nghị đã nghe và thảo luận các vấn đề:
1. Tình hình giáo dục trong nước với phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng và nhiệm vụ cụ thể của ngành giáo dục.
2. Nền y tế Việt Nam và sự tiến triển của y học thế giới.
3. Khoa học, kỹ thuật với phong trào thi đua yêu nước.
4. Tình hình văn nghệ và tính chất đặc biệt của văn nghệ kháng chiến.
Sau năm ngày làm việc khẩn trương, Hội nghị đã định ra đường lối và nhiệm vụ cụ thể của ngành giáo dục, văn nghệ trong giai đoạn mới; phát triển những nét lớn về lý luận xây dựng nền văn hóa mới.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1979, t.II, tr.186-187.
TỪ NGÀY 26-2 ĐẾN NGÀY 4-3
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tư
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ năm và lần thứ sáu, từ ngày 6-2 đến ngày 4-3-1949, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tư họp tại Tuyên Quang, xác định chương trình hoạt động trong toàn lực lượng để đáp ứng tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng.
Hội nghị nêu rõ: cuộc kháng chiến của nhân dân ta chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng phản công nên tổ chức và lề lối làm việc của ngành công an phải chấn chỉnh lại:
1. Xây dựng bộ máy tổ chức của toàn ngành thống nhất, đơn giản, khoa học; kiện toàn Nha, củng cố Ty; giản đơn Sở, rút bớt quân số; 2. Lề lối làm việc phải khẩn trương, giản dị, bớt giấy tờ; rút kinh nghiệm và tổ chức hội nghị điều tra toàn quốc, xây dựng lý luận Công an Việt Nam; 3. Tiến hành kiểm tra về tổ chức, công tác, cán bộ; 4. Liên lạc thường xuyên với Công an Nam Trung Bộ và Nam Bộ; tiến tới thống nhất chỉ đạo trong toàn quốc.
Hội nghị xác định một số công tác như:
- Công tác phản gián và điệp báo: giữ cho hậu phương được bí mật và diệt trừ do thám địch; điệp báo tích cực giúp cho bộ đội tìm hiểu địch tình, có kế hoạch công tác giữa các địa phương, đơn vị để đối phó với do thám của địch có hiệu quả, phát triển công tác điệp báo và phản gián trên các đường tiến công hoặc rút lui của địch; chú trọng đến binh vận; chuẩn bị để liên lạc trao đổi tài liệu với các nước bạn; củng cố bộ máy giao thông liên lạc.
- Về công tác trật tự: chuẩn bị cán bộ để tiếp quản đô thị sau khi giải phóng; nghiên cứu xây dựng tổ chức mới cho hợp với tính chất nhân dân và nhiệm vụ của Mặt trận; xúc tiến việc huấn luyện cán bộ trật tự cho các thành phố lớn, phải có một kế hoạch giữ gìn trật tự và tổ chức bộ máy công an trật tự cho Hà Nội; thảo một kế hoạch công an biên phòng, đặc biệt chú ý tới biên giới Miên - Lào, vũ trang cho công an trật tự; nghiên cứu lại tổ chức các đội công an bảo vệ cơ quan, phối hợp với Uỷ ban Kháng chiến hành chính và đoàn thể thực hiện trật tự xã khắp nơi.
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tư đề ra nhiều nhiệm vụ quan trọng, chuẩn bị mọi mặt cho lực lượng công an bước sang giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.187-189.
THÁNG 2
Thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào
Tháng 2-1949, Chính phủ Lào cử đoàn đại biểu do hai cán bộ cao cấp dẫn đầu là ông Khăm Tày Xiphănđon, đại diện Chính phủ và ông Xỉthôn Cômmăđăm là Khu trưởng, mang theo công hàm của Hoàng thân Xuphanuvông chính thức đề nghị ta giúp đỡ để lập khu kháng chiến Hạ Lào. Công hàm giới thiệu ông Xởm Manôviêng là Chủ tịch Ủy ban chính quyền Khu. Cùng sang với bạn có một trung đoàn Việt kiều do đồng chí Nguyễn Đình Hin phụ trách.
Đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Nguyễn Thế Lâm, quyền Tư lệnh Liên khu V đi cùng đã làm việc với bạn và đi đến thỏa thuận như sau: Bạn thành lập Khu kháng chiến Hạ Lào do các đồng chí giới thiệu trên phụ trách; ta giải thể Khu đặc biệt và lập ra phái đoàn Ủy ban Kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ bên cạnh cơ quan của bạn. Phái đoàn gồm đồng chí Nguyễn Chính Cầu làm Đoàn trưởng và các đồng chí Đoàn Huyên (mới được điều thay đồng chí Trần Công Khanh, Trưởng Khu đặc biệt Hạ Lào) phụ trách quân sự, đồng chí Đoàn Kim phụ trách chính quyền; bạn và ta lập ban chỉ huy quân sự hỗn hợp do đồng chí Xỉthôn Cômmăđăm làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Đoàn Huyên, chỉ huy các lực lượng của ta, làm phó để chỉ huy chung lực lượng của ta và bạn, nhưng vẫn duy trì tổ chức, quản lý riêng lực lượng mỗi bên.
Thích ứng với sự thay đổi trên, Liên khu V chỉ định Ban Cán sự Hạ Lào do đồng chí Nguyễn Chính Cầu làm Bí thư và các ủy viên là Đoàn Huyên, Đoàn Kim, Nguyễn Đình Hin. Bộ Tư lệnh Liên khu V cũng chỉ định Ban chỉ huy bộ đội ta2 để lãnh đạo, chỉ đạo công tác giúp bạn.
- Viện Lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Khu V, ba mươi năm chiến tranh giải phóng,Bộ tư lệnh Liên khu V, 1989, t.1.
- Ban liên lạc quân tình nguyện Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia: Quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia (1948-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.26-27.
TỪ NGÀY 4-3 ĐẾN NGÀY 27-4
Bộ Tư lệnh Liên khu I mở chiến dịch Đông Bắc
Để phối hợp với chiến dịch Cao - Bắc - Lạng phá âm mưu "khóa chặt biên giới Việt – Trung" của thực dân Pháp, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tư lệnh Liên khu I mở chiến dịch Đông Bắc nhằm mục đích kiềm chế và đánh quân tiếp viện, phá hoại giao thông; nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của địch, mở rộng cơ sở vùng duyên hải, liên lạc với Giải phóng quân Trung Quốc ở Phòng Thành, Khâm Châu, Liêm Châu.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Trung đoàn 98, Trung đoàn độc lập Hải Ninh và một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 59.
Nhằm đánh lạc hướng phán đoán của địch, giành thế bất ngờ cho hướng Cao - Bắc - Lạng, mặt trận Đông Bắc nổ súng trước, tiến công địch trên đường số 4 và tổ chức nghi binh phía Đông Triều, Phả Lại, Lục Nam. Ngày 4-3, Trung đoàn 98 phục kích đoàn xe địch ở Điền Xá, diệt và bắt sống hơn 100 tên, phá hủy 18 xe. Cùng ngày, bộ đội ta đánh chiếm vị trí Ba Sơn, uy hiếp thị xã Lạng Sơn từ phía Đông Bắc. Ngày 27-3, kết hợp tác chiến với địch vận, ta bất ngờ tập kích thị trấn Móng Cái làm tan rã nhiều ngụy binh, khiến địch ở Đông Bắc hoang mang khiếp sợ. Ta chủ động kết thúc chiến dịch đêm 27-4.
Chiến dịch Đông Bắc góp phần nghi binh, đánh lạc hướng địch nhằm phân tán lực lượng địch, phối hợp chặt chẽ với chiến dịch Cao - Bắc -Lạng, phá từng mảng lớn “Liên khu biên thùy" của giặc Pháp, làm phá sản âm mưu “khóa chặt biên giới Việt - Trung của địch".
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954),Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994. t.I, tr.422.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.88-96.
NGÀY 12-3
Đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam
Ngày 12-3-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 14-SL, ấn định: kể từ ngày 22-12-1948, đổi tên Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam thành Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; các bộ chỉ huy liên khu quân sự đổi tên là Bộ Tư lệnh liên khu; danh hiệu Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam đổi tên là Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam; Liên khu trưởng gọi là Tư lệnh liên khu.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.4, tr.290-291.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.752.
TỪ NGÀY 15-3 ĐẾN THÁNG 5
Bộ Tư lệnh Liên khu I mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng
Thực hiện âm mưu khóa chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn "làn sóng đỏ" từ Trung Quốc tràn xuống, phá sự chiến đấu phối hợp giữa cách mạng hai nước, ở Cao - Bắc - Lạng và Đông Bắc, thực dân Pháp tăng cường lực lượng tổ chức "Liên khu biên thùy" bao gồm hai khu: khu Bắc và khu Đông Bắc. Khu Bắc có các phân khu Bắc Kim, Nguyên Bình, Cao Bằng, Án Lại, Đông Khê, Thất Khê. Khu Đông Bắc có các phân khu Lạng Sơn, Lộc Bình, Tiên Yên, Móng Cái, An Châu.
Về phía ta, Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ sáu (từ ngày 14 đến ngày 18-2-1949) xác định Cao - Bắc - Lạng và Đông Bắc là hướng chính trong xuân - hè 1949. Trên tinh thần đó, Bộ Tư lệnh Liên khu 1 mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng nhằm tiêu diệt sinh lực địch, làm tê liệt đường số 4, triệt tiếp tế của địch trên hướng Đông Bắc, làm tan rã khối ngụy binh, buộc địch phải rút khỏi Bắc Kạn.
Lực lượng tham gia gồm các Trung đoàn 28, 74, 72, Tiểu đoàn 517 và dân quân du kích Liên khu I, cùng các Tiểu đoàn 29, 35, 23, 18; Tiểu đoàn pháo binh của Bộ Tổng tư lệnh. Tư lệnh chiến dịch là đồng chí Đào Vân Trường, Chính uỷ là đồng chí Hà Kế Tấn.
Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng diễn ra trên ba mặt trận: Mặt trận đường số 4 (Mặt trận 4), Cao Bằng (Mặt trận l) và Bắc Kạn (Mặt trận 1 bis), trong đó trọng điểm là Mặt trận 4. Do đó, chiến dịch Cao - Bắc - Lạng còn được gọi là chiến dịch Đường số 4.
Ngày 15-3-1949, chiến dịch mở màn bằng trận phục kích 1 đoàn xe hơn 80 chiếc từ Cao Bằng về Thất Khê, buộc đoàn xe 16 chiếc từ Thất Khê lên đón đoàn xe Cao Bằng, tới Bông Lau - Lũng Phầy phải quay trở lại. Đêm 15-3, ta bắn pháo vào thị trấn Na Sầm, công kích vị trí Bông Lau, Thất Khê, Bản Trại, một vị trí kiên cố nằm trên đường số 4, diệt vị trí Đèo Khách nằm giữa Thất Khê - Na Sầm. Vị trí Bản Trại bị tiêu diệt, cầu Bản Trại bị phá, đường số 4 bị cắt đứt. Bộ đội chủ lực còn phối hợp với bộ đội địa phương và du kích hoạt động xung quanh khu vực Thất Khê, Bản Nề, Pò Mã, buộc địch phải rút bỏ vị trí Bình Nhi, Na Mân. Từ ngày 30-3 đến ngày 14-4, quân ta hai lần bắn phá thị xã Lạng Sơn, sân bay Mai Pha, phục kích một đoàn xe địch trên đường Đồng Khê - Phục Hòa, bắn phá thị xã Cao Bằng. Giữa tháng 4, đợt 1 chiến dịch Cao - Bắc - Lạng kết thúc thắng lợi.
Ngày 25-4, đợt 2 mở đầu bằng trận phục kích Bông Lau - Lũng Phầy trên đường số 4, tấn công 114 chiếc xe của địch. Bị bất ngờ, địch hốt hoảng tháo chạy. Hơn 500 tên phần lớn là lính Âu - Phi bị chết, bị thương và bị bắt. Ta phá 53 xe, 500 thùng xăng, thu hàng trăm súng. Ngày 27-4, ta diệt đồn Bản Lát nằm trên đường từ Cao Bằng đi Trà Lĩnh. Ngày 30-4, địch rút bỏ hai vị trí Pò Mã, Pò Pheo. Đường số 4 trở thành "con đường máu” của địch. Đầu tháng 5, chiến dịch kết thúc.
Thắng lợi của chiến dịch Cao - Bắc - Lạng có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ tình hình chiến trường, đến so sánh lực lượng trên chiến trường toàn quốc. Qua chiến dịch, trình độ đánh tiêu diệt cứ điểm của bộ đội ta đã tiến bộ rõ rệt, số trận đánh tiêu hao giảm nhiều. Các trận đánh vận động phục kích giao thông trên đường số 4 của ta liên tiếp thắng lợi khiến cho giặc Pháp phải kinh hoàng. Tuy vậy, hoạt động của ta chưa đủ mạnh để làm tê liệt hoàn toàn đường số 4, mặc dù đã tập trung lực lượng hơn trước.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến thực dân Pháp (1945- 1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.421-425.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.97-105.
NGÀY 25-3
Xứ ủy Nam Bộ chủ trương mở rộng chiến tranh du kích
Thực hiện sự chỉ đạo của Đảng về công tác Nam Bộ theo Chỉ thị ngày 23-10-1948 của Trung ương Đảng: "Phát triển du kích chiến tranh, phát triển dân quân, phát triển du kích chiến lên vận động chiến", ngày 25-3-1949, Xứ ủy Nam Bộ ra chỉ thị mở rộng chiến tranh du kích với các nhiệm vụ:
1. Củng cố và chỉnh đốn các Ban chỉ huy dân quân, đưa những đồng chí có năng lực, tích cực, hăng hái vào phụ trách; Ban chỉ huy dân quân phải có một đồng chí tỉnh ủy viên và huyện ủy viên.
2. Mỗi xã phải tổ chức được các tổ trung kiên trong dân quân do chi bộ xã lãnh đạo làm nòng cốt lôi cuốn phong trào.
3. Đặc biệt trong những đô thị và vùng tạm chiếm, phải tổ chức những tổ du kích trung kiên do đồng chí ta lãnh đạo làm tiêu chuẩn phát triển phong trào; đẩy mạnh du kích trong các thành phố, những vùng bị chiếm đóng, biến hậu phương địch thành hậu phương ta.
4. Đặc biệt chú ý phát triển Hội trong các đội du kích xã và liên xã, Hội ta phải nắm lấy Ban chỉ huy đó. Mở rộng chiến tranh du kích, đẩy mạnh xây dựng lực lượng, rèn luyện dân quân trong chiến đấu chính là bảo tồn được dự trữ chiến tranh, tiêu hao lực lượng địch, biến hậu phương địch thành tiền phương của ta, đồng thời, tạo cho bộ đội có thời gian củng cố chuẩn bị đánh lớn.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 22, phông Trung ương Cục miền Nam.
NGÀY 28-3
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị vạch mặt tên bán nước Vĩnh Thụy
Sau những thất bại về quân sự trên chiến trường, ngày 8-3-1949, thực dân Pháp tiến thêm một bước trong âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt": "Hiệp ước Êlydê (Élysée) được ký kết giữa Tổng thống Pháp Vanhxăng Ôrion (Vincent Auriol), Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Cốt Phơlôrê (Coste Floret) với Vĩnh Thụy tại Pari. Theo bản hiệp ước, Pháp công nhận Việt Nam "độc lập", nhưng lệ thuộc Pháp về ngoại giao và kinh tế. Về quân sự, Việt Nam có một đội quân do sĩ quan người Việt chỉ huy, nhưng do Pháp huấn luyện và điều khiển. Quân đội Pháp được tự do di chuyển trên toàn cõi Việt Nam, đóng quân tại các căn cứ hải, lục, không quân trọng yếu. Chúng hy vọng lập Chính phủ bù nhìn vào ngày 30-6-1949 do Bảo Đại làm Quốc trưởng kiêm Tổng Tư lệnh quân đội, Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng và xây dựng “Quân đội quốc gia" 50.000 tên nhằm giành ảnh hưởng chính trị có lợi, chia rẽ và làm suy yếu lực lượng kháng chiến.
Trước tình hình đó, ngày 28-3-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị chủ trương: phải kịp thời vạch trần âm mưu của giặc Pháp, vạch mặt tên bán nước Vĩnh Thụy trước nhân dân ta, nhân dân Pháp và thế giới, phát động phong trào đấu tranh chống Vĩnh Thụy, chống bù nhìn gắn với phong trào đấu tranh hàng ngày, phong trào thi đua chiến đấu và sản xuất của nhân dân ta. Trong những ngày Vĩnh Thụy về nước, cần vận động nhân dân tẩy chay các cuộc biểu tình cưỡng bách, phá các cuộc tiếp đón Vĩnh Thụy, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động quân sự, trừ gian, phá hoại kinh tế địch...
Chỉ thị đã dấy lên một phong trào yêu nước chống bù nhìn Vĩnh Thụy sôi nổi trong cả nước. Ngày 24-4, đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn tổng bãi công, bãi thị trong hai giờ liền. Gần một trăm trí thức kiến nghị, đòi Chính phủ Pháp điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Ở Hà Nội, tháng 7-1949, các tầng lớp nhân dân đấu tranh phản đối Bảo Đại khi ông ta ra Bắc.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.470-471.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.187-188.
NGÀY 7-4
Thành lập Bộ đội địa phương
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Trung ương tháng 1-1949 về xây dựng các lực lượng vũ trang, ngày 7-4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Bộ đội địa phương.
Sắc lệnh nêu rõ: "Quân đội quốc gia Việt Nam có hai phần: quân đội chính quy và quân đội địa phương. Bộ đội địa phương có ba đặc điểm chính là: Có tính cách địa phương, có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ địa phương, tự trang bị và tự túc về cấp dưỡng" .
Tiếp đó, thi hành Sắc lệnh của Chủ tịch nước, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh ra Nghị định số l03/NQ (ngày 7-7-1949) tổ chức bộ đội địa phương và Thông tư số 46/TT (ngày 7-7-1949) quy định nhiệm vụ của cơ quan các cấp các ngành đối với việc xây dựng bộ đội địa phương.
Đến cuối năm 1949, ở Bắc Bộ có 20.500 bộ đội địa phương tổ chức thành trung đội ở cấp huyện và đại đội hoặc tiểu đoàn ở cấp tỉnh. Ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, kế hoạch xây dựng bộ đội địa phương cũng được xúc tiến. Đây là lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực.
Sự ra đời và phát triển của bộ đội địa phương tỏ rõ sức mạnh của lực lượng vũ trang Việt Nam có thể đáp ứng yêu cầu chiến lược trong giai đoạn mới.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội. 1999, tr.81.
NGÀY 11-4
Thường vụ Khu ủy 4 triệu tập Hội nghị bàn về vấn đề Lào
Ngày 11-4-1949, Thường vụ Khu ủy 4 triệu tập Hội nghị bàn về vấn đề Lào nhằm kiểm thảo những hoạt động về công tác Lào trong thời gian qua và bàn phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới. Dự Hội nghị còn có các đồng chí trong Ban Cán sự và Liên chi Lào.
Hội nghị nhận định: hiện tại ở Lào có ba phe cách mạng với ba xu hướng khác nhau:
1. Nhóm của Chính phủ kháng chiến Phaxeratti ở Xiêm, đại diện là Khamphon ở Đông Lào. Đây là nhóm tiêu biểu cho lực lượng kháng chiến của Lào, có uy tín.
2. Nhóm cán bộ cũ ở phương Đông do Nouhack phụ trách một mặt ủng hộ Chính phủ Phexarath, một mặt khẳng định mình, nhưng thiếu năng lực gây dựng cơ đồ.
3. Nhóm Lào tự do: gồm thanh niên, tiểu tư sản, giáo học, hướng đạo, nhóm này tự cho mình là cấp tiến, xung đột với nhóm Chính phủ Phexarath. Nhóm này không có quần chúng hay phe đảng mà chỉ là một phe nhóm cá nhân gây rối.
Kiểm thảo công tác biên chính, Hội nghị nêu rõ: về tổ chức của Lào có Ủy ban giải phóng phương Đông Lào, có bộ đội gồm 300 lính Lào có khí giới và Tiểu đoàn Trấn Ninh 300 người Việt hợp thành Quân đội giải phóng Lào. Về cơ sở quần chúng đã gây được bốn vùng:
- Vùng Huapanh (giáp Thanh Hóa).
- Vùng Mường Mô (giáp Nghệ An) có 3000 quần chúng.
- Vùng Thaiphaban, Khăm Muộn (giáp Hà Tĩnh) có 5 xã tổ chức 20 ban cán bộ địa phương có 200 người, hội viên Cứu quốc có 1 vạn.
- Vùng Banaphao, Boulapha (giáp Quảng Bình).
Về thành tích quân sự: đã giết được 4 tên quan ba Pháp, 7 trung úy, 11 thiếu úy, 23 cai đội và một số lính, thu được 35 súng trường và 4 liên thanh.
Hội nghị đã chỉ ra những ưu, khuyết điểm trong công tác Lào, đồng thời nhận định những kinh nghiệm và khó khăn trước mắt của mặt công tác này.
Sau khi thảo luận, Hội nghị đã quyết định chuyển hướng công tác Lào trong thời gian tới như sau:
- Quay về phía nam, dùng Baolapha làm bàn đạp để tiến về Hạ Lào, liên lạc với Khu 5 để phối hợp hoạt động chặt chẽ.
- Giữ vững các cơ sở đã có, bảo vệ đường liên lạc, chú trọng đường số 8 và 12.
- Chỉnh đốn bộ đội giải phóng Lào, bồi dưỡng chính trị, quân sự.
- Mở hội nghị chung giữa Lào và ta, sửa đổi thái độ quang minh, chính đại, thân mật.
- Cô lập bọn tự do bằng cách cho đi học, đề nghị Chính phủ Phaxarath gọi về.
- Trong công tác gây cơ sở quần chúng lấy vũ trang tuyên truyền làm phương châm, kết hợp tổ chức và tranh đấu với những hình thức thấp; bày cho họ cách tăng gia sản xuất, chú ý phát triển cơ sở Đảng.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 77.
NGÀY 6-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương tiếp tục và đẩy mạnh chiến dịch Tây Bắc
Qua các chiến dịch Đông Bắc, Tây Bắc, Trung ương Đảng nhận thấy mặt trận Tây Bắc là nơi địch yếu nhất, nhưng đối với ta đây lại là một cứ điểm quan trọng bảo vệ phía sau cho căn cứ địa Việt Bắc, là bàn đạp tiến sang vùng Thượng Lào. Đây cũng là nơi mà địch coi là kho nhân lực, bàn đạp uy hiếp Việt Bắc và bảo vệ Thượng Lào.
Căn cứ vào nhận định trên, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định tiếp tục và đẩy mạnh chiến dịch Tây Bắc cho đến hết tháng 6-1949, thực hiện các nhiệm vụ sau:
1. Mở rộng căn cứ địa Tây Bắc của ta từ sông Thao đến sông Đà, phá vỡ phòng tuyến Yên Bình xã - Bảo Hà - Nghĩa Lộ và cô lập tiểu khu Lào Cai của địch, củng cố bàn đạp tiến sang Thượng Lào.
2. Tiêu diệt một phần sinh lực địch, phá tan khối ngụy binh, Thái trắng để phá kế hoạch củng cố của địch và tạo đà cho cuộc tổng phản công…
Phương châm chiến dịch được xác định là:
1. Tập trung chủ lực đánh vào chỗ yếu nhất của địch.
2. Chuẩn bị bộ đội dự bị để khuếch trương chiến quả.
3. Phát động nhân dân chiến tranh.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, đồng chí Bí thư Liên khu ủy X phải triệu tập các đồng chí Chính trị ủy viên, Liên khu trưởng để thảo luận kế hoạch chuẩn bị chiến trường theo các điểm sau:
1. Các địa phương phải trên lạc và giúp đỡ các cán bộ tình báo hoặc báo cáo cho cấp ủy Đảng rõ tình hình địch để chuẩn bị và tiến đánh.
2. Cán bộ Đảng vụ, dân vận, chính quyền phải mật thiết liên lạc với các đồng chí phụ trách đại đội độc lập, bộ đội địa phương và dân quân để củng cố và phát triển cơ sở Đảng, quần chúng, chính quyền và du kích thật vững chắc.
3. Các cấp ủy địa phương phải trên lạc với các cán bộ địch vận để tổ chức cho bằng được nội ứng trong hàng ngũ nguy binh
4. Liên khu ủy chỉ thị cho các cấp phải chuẩn bị sẵn sàng lương thực cho bộ đội và vận động nhân dân tiếp tế cho bộ đội khi chiến dịch đã phát động.
5. Trong khi chuẩn bị chiến trường chính, phải chuẩn bị trước các chiến trường tương lai như Hạ Lào, Nghĩa Lộ, Hòa Bình để khuếch trương chiến quả nếu có điều kiện thuận lợi.
6. Trong mọi việc chuẩn bị, phải thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa quân, dân, chính.
Chỉ thị cũng nhấn mạnh tính bí mật trong việc thực hiện kế hoạch chuẩn bị chiến dịch.
Tiếp tục và đẩy mạnh chiến dịch Tây Bắc là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc từ phía sau, chuẩn bị tiến sang vùng Thượng Lào; thắng lợi của chiến dịch sẽ làm đà cho việc chuẩn bị tổng phản công của ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.212-214.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 31-5
Bộ Tổng tư lệnh mở chiến dịch Sông Lô
Ngày 29-4-1949, Bộ chỉ huy Pháp đã huy động 2600 quân gồm 5 tiểu đoàn bộ binh và dù, mở cuộc hành quân Pômôn (Pomone) đánh lên Phú Thọ, Tuyên Quang. Mục tiêu của cuộc hành quân nhằn "phá kho tàng công xưởng" hòng "náo động hậu phương” ta, gây tiếng vang trước ngày Bảo Đại về nước phá kế hoạch sông Thao của ta. Đối phó với âm mưu của địch, ngày 16-5, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Sông Lô, nhằm làm thất bại cuộc hành binh Pômôn, phối hợp và hỗ trợ cho chiến dịch Sông Thao.
Lực lượng tham gia chiến dịch có 8 tiểu đoàn bộ binh (gồm 2 tiểu đoàn của Bộ, 6 tiểu đoàn chủ lực của Liên khu X), một số đơn vị công binh, pháo binh và lực lượng ba tỉnh Vĩnh Yên, Tuyên Quang, Phú Thọ.
Chiến dịch được phát động khi địch đang lùng sục phá cơ sở kho tàng của ta ở Đoan Hùng, Phù Tiên (Chợ Hiên) và thị xã Tuyên Quang. Ngày 16-5-1949, một bộ phận chủ lực ta được lệnh bám sát, chặn đánh quân địch càn quét trên cả đường bộ, đường sông.
Do thiếu binh lực nên ta đã không tiêu diệt được địch ngay trong trận đầu. Ba tiểu đoàn được điều động đến tấn công quân địch ở Phù Tiên, nhưng do chuyển quân chậm trước khi triển khai lực lượng, địch đã rút chạy, mở đầu cuộc lui quân. Từ ngày 25-5, địch rút lui dọc hai bờ sông cùng một bộ phận rút lui bằng ca nô. Đến Lệ Mỹ, chúng bị quân ta chặn đánh cả trên bộ và trên sông, diệt 100 tên. Ở Tiên Du, hai Tiểu đoàn 510 và 532 đã tiêu diệt được 130 tên. Tiểu đoàn 29 chặn địch ở Núi Hét diệt hơn 100 tên.
Ngày 31-5, chiến dịch Sông Lô kết thúc. Ta đã đẩy lùi được cuộc hành binh của địch đánh phá hậu phương, tạo điều kiện cho chiến dịch Sông Thao triển khai theo kế hoạch.
Chiến dịch Sông Lô cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm về công tác chuẩn bị, về cơ động tác chiến, phối hợp chiến đấu giữa các lực lượng. Do chuẩn bị chưa đầy đủ nên khi triển khai chiến dịch ta còn gặp nhiều lúng túng.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.427.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.106-119.
TỪ NGÀY 19-5 ĐẾN NGÀY 18-7
Chiến dịch Sông Thao
Đầu tháng 5-1949, Bộ Tổng tư lệnh quyết định đánh mạnh ở Tây Bắc là hướng địch yếu, sơ hở để mở rộng địa bàn từ sông Thao đến sông Đà, phá vỡ phòng tuyến Yên Bình xã - Bảo Hà - Nghĩa Lộ, cô lập tiểu khu Lào Cai, phá thế uy hiếp đối với Việt Bắc từ phía tây, củng cố bàn đạp tiến sang Lào.
Thực hiện chiến dịch này, các lực lượng đang chuẩn bị tiến công giải phóng Bắc Kạn và lực lượng tham gia chiến dịch Cao - Bắc - Lạng được lệnh hành quân lên Tây Bắc cùng bộ đội Liên khu X mở chiến dịch Sông Thao.
Phòng tuyến Sông Thao của địch được xây dựng từ năm 1947, kéo dài hàng trăm kilômét từ Lào Cai, Hoàng Su Phì, dọc sông Thao qua Nghĩa Lộ, xuống Thu Cúc, Hòa Bình. Lực lượng địch có 12 đại đội phân chia đóng giữ các vị trí thuộc hai phân khu Lào Cai, Nghĩa Lộ. Trước khi ta mở chiến dịch Sông Thao, phòng tuyến của địch đã bị hổng ở hai mảng phía bắc và phía nam. Nhiệm vụ đề ra cho chiến dịch là phá vỡ tuyến phòng thủ của địch trên khu vực Yên Bình xã - Bảo Hà - Nghĩa Lộ, phá tề, làm tan rã khối ngụy binh Thái, phát động chiến tranh du kích.
Ngày 19-5, trong lúc mặt trận Sông Lô còn vang tiếng súng thì Tiểu đoàn 54 được tăng cường Đại đội pháo binh 303 và Tiểu đoàn 11 (thuộc Trung đoàn 308) cùng lúc tiến công tiêu diệt 2 cứ điểm Đại Bục, Đại Phác mở màn chiến dịch Sông Thao. Ngày 24-5, Tiểu đoàn 54 tiến công vị trí Dóm, tiếp đó, vị trí Phát và Phục Linh cũng bị đánh liên tiếp. Bị đòn đau ở Đại Bục, Đại Phác và bị bao vây uy hiếp ở nhiều nơi, Bộ chỉ huy Pháp buộc phải điều quân từ Lào Cai, Phong Thổ đến tăng cường các vị trí Dóm, Bảo Hà, Phát, Phục Linh, Than Uyên.
Đợt 2 bắt đầu từ ngày 24-6, các Tiểu đoàn 11, 54 và 79 có pháo binh và công binh phối hợp tấn công tiêu diệt cứ điểm chỉ huy phân khu Phố Ràng, phòng tuyến sông Thao bị phá vỡ trên một quãng dài 30km từ Bảo Hà đến Bắc Cương. Đường liên lạc giữa Bảo Hà - Lào Cai, Bảo Hà - Nghĩa Đô bị cắt đứt, địch hoảng hốt bỏ nhiều vị trí.
Ngày 16-7, hai Tiểu đoàn 54 và 79, các đại đội pháo binh 301 và 307 tấn công tiêu diệt vị trí Dóm buộc địch rút chạy khỏi một loạt các vị trí khác: Phát, Đồng Bồ, Ca Vịnh, Sài Lương. Phòng tuyến Sông Thao bị vỡ thêm một mảng lớn từ Ba Khe đến Bảo Hà, dài 70km.
Sau 2 tháng chiến đấu, chiến dịch Sông Thao kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt hàng ngàn tên địch, thu một số lớn vũ khí đủ trang bị cho 2 tiểu đoàn chủ lực, tiêu diệt và bức rút 20 cứ điểm. Tuyến phòng thủ Sông Thao, hành lang che chở hậu phương địch ở phía tây bắc bị phá vỡ mảng lớn. Cơ sở chính trị, vũ trang của ta trong vùng địch tạm chiếm được mở rộng gồm 82 bản làng với 2000 dân trên địa bàn rộng 6000km2. Qua chiến dịch, bộ đội chủ lực có tiến bộ vượt bậc về chiến thuật diệt cứ điểm, ta đã biết kết hợp đánh điểm với diệt viện.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.427-429.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.82.
NGÀY 21-5
Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo thực hiện chính sách tôn giáo
Ở một số địa phương thuộc Nam Bộ, một số cán bộ đã hiểu sai lạc chính sách đoàn kết của Đảng đối với các đoàn thể, đảng phái, nhất là đối với các tổ chức tôn giáo vừa mới thành lập sau này, từ đó dẫn đến tình trạng là ta thu nhận một cách bừa bãi các tổ chức đó vào Việt Minh, Liên Việt và những phần tử háo danh, lừng chừng, kể cả bọn mật thám, gián điệp đã trà trộn vào để lợi dụng các đoàn thể kháng chiến, các tổ chức tôn giáo mà gây thế lực, chia rẽ hàng ngũ kháng chiến.
Trước tình hình đó, ngày 21-5-1949, Xứ ủy Nam Bộ ra chỉ thị nêu rõ chủ trương đoàn kết của Đảng đối với các đảng phái tôn giáo để mở rộng hàng ngũ kháng chiến, “chứ không phải khuyến khích họ cầu trời khấn phật mà quên lãng nhiệm vụ kháng chiến". Chúng ta đoàn kết nhưng vẫn thẳng thắn phê bình, đấu tranh để các đoàn thể các tôn giáo đi đúng đường lối kháng chiến, đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích chính trị, tôn giáo.
Để sửa chữa kịp thời những sai lầm trong chính sách đoàn kết đối với các tổ chức tôn giáo, Xứ ủy đã đề ra một số nhiệm vụ để các cấp Đảng bộ thi hành:
1. Kiểm điểm lại thái độ và chủ trương đối với các tổ chức tôn giáo (Công giáo, Cao đài, Tin lành, Phật giáo...).
2. Kiểm tra công tác Đảng đoàn và đôn đốc Đảng đoàn nỗ lực làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo và báo cáo hàng tháng cho cấp ủy.
3. Kiểm tra gắt gao hàng ngũ các tổ chức tôn giáo, nhất là các ban chấp hành, để trừ bọn gián điệp, bọn tay sai cho ngoại quốc.
4. Chú ý phát triển cơ sở trong Công giáo và Tin lành vì hai tôn giáo này chịu ảnh hưởng của nước ngoài và cố gắng nắm chắc những quần chúng tốt.
5. Chống chủ trương "vơ đũa cả nắm", nghi ngờ tất cả các tín đồ, gây sự hoang mang sợ sệt cho họ. Đối với bọn phản động theo giặc, phải đối phó với đúng quy định của Bộ Tư pháp.
Chỉ thị đã quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng đối với tôn giáo, ngăn chặn các thế lực phản động, Việt gian, tay sai, những phần tử cơ hội, lợi dụng chính sách đoàn kết của ta mà len lỏi vào hàng ngũ ta, chống phá ta từ bên trong. Bên cạnh đó, chỉ thị đã đề ra nhiều kế hoạch nhằm củng cố lại tổ chức, tăng cường khối đoàn kết kháng chiến.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 72, phông Trung ương Cục.
NGÀY 31-5
Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị về Gây và phát triển cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng và chính quyền trong vùng địch chiếm và kiểm soát
Việc gây và phát triển cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng và chính quyền trong vùng địch chiếm đóng và kiểm soát đã được đề cập ở nhiều hội nghị của Đảng từ đầu năm 1949, nhưng trong thi hành, các địa phương còn nhiều khuyết điểm.
Ngày 31-5-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị chủ trương xây dựng cơ sở Đảng ở khắp nơi, nhất là ở những đô thị lớn, những vùng chiến lược và kinh tế quan trọng.
Công tác trong các thành phố, các trung tâm quân sự, kinh tế, chính trị hiện đang bị địch chiếm phải nặng về tổ chức (bí mật gây và phát triển cơ sở) hơn là đấu tranh công khai. Ở các vùng thôn quê, các đội vũ trang tuyên truyền và đại đội độc lập phối hợp để gây cơ sở là phương pháp hiệu quả.
Phải kết hợp nhiều hình thức đấu tranh: công khai, bán công khai, bí mật, kết hợp đấu tranh kinh tế với chính trị, quân sự, phối hợp nội, ngoại thành, giữa các vùng với nhau. Tổ chức các đội tự vệ, trinh sát, liên lạc... lấy nhà máy, trường học, đường phố làm cơ sở.
Về chính quyền, phải lập lại các Ủy ban Kháng chiến hành chính ở các khu phố, thị xã đã có một cơ sở tương đối vững để nắm dân, đẩy mạnh phá chính quyền địch.
Thi hành Chỉ thị trên, các cơ sở chính trị và vũ trang được chú ý xây dựng ở khắp nơi, đặc biệt là ở các đô thị lớn, những vùng chiến lược và kinh tế quan trọng. Các cơ sở tổ chức bí mật được củng cố, phát triển, những "đội quân ngầm" du kích, tự vệ trinh sát... bắt đầu được thành lập trong các nhà máy, trường học, khu phố. Các Ủy ban Kháng chiến hành chính khu phố, thị xã cũng bắt đầu được xây dựng lại.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.225-228.
NGÀY 1-6
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về chuẩn bị chiến trường Hà Nội
Chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng phản công, ngày 1-6-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị cho Hà Nội và Liên khu III chuẩn bị chiến trường Hà Nội.
Chỉ thị nêu rõ địa vị chiến lược của Hà Nội. Đối với địch, "Hà Nội là một địa bàn quan trọng vào bậc nhất của địch về mặt quân sự, chính trị, kinh tế”. Đối với ta, Hà Nội cũng là một chiến trường quan trọng. Trong thời kỳ đầu của cuộc chuẩn bị tổng phản công, mặt trận Hà Nội, ngoài việc chuẩn bị chiến trường, có nhiệm vụ phối hợp với Liên khu III hoạt động và nghi binh ở đường số 5, Hà Đông, Sơn Tây (còn trong giai đoạn tổng phản công, Trung ương sẽ có chỉ thị sau).
Ban Thường vụ Trung ương dự đoán âm mưu của giặc trong thời kỳ ta chuẩn bị tổng phản công. Về quân sự, địch mở những cuộc càn quét hết sức tàn khốc chung quanh Hà Nội; mở những cuộc tấn công sâu vào các tỉnh chung quanh Hà Nội; củng cố các vị trí đóng quân (xây công sự, tăng quân số, thay lính Âu vào lính ngụy); đóng thêm nhiều vị trí ở ngoại thành, Hà Đông, Sơn Tây, Gia Lâm dọc sông Hồng và đường số 5 để bảo vệ Hà Nội. Về chính trị, địch ra sức củng cố ngụy quyền trung ương, bắc phần, các khu phố và các xã, củng cố các tổ chức phản động; tăng cường việc điều tra, kiểm soát, chăng lưới mật thám khắp nơi, cho bọn AB chui vào hàng ngũ ta, cho bọn khiêu khích hoạt động để phá vỡ cơ sở ta. Trong thời kỳ ta chuyển sang tổng phản công thì địch càng ráo riết củng cố Hà Nội.
Về quân sự, địch sẽ triệt hạ các làng ở ngoại thành để làm cho ta mất chỗ đứng tấn công vào Hà Nội; xây nhiều pháo đài ở chung quanh Hà Nội, ở các cửa ô, các khu phố, tập trung quân số về Hà Nội để đối phó ta. Về chính trị, địch tổng quét mọi người bị tình nghi là yêu nước đem đi nơi khác; rất có thể, chúng sẽ bắn giết tất cả những đồng chí và quần chúng trung kiên đang bị giam giữ.
Ban Thường vụ Trung ương còn chỉ rõ mặc dù địch có âm mưu thâm độc, dã man song trong tình thế ngày càng có lợi cho ta thì hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền và bè lũ Việt gian càng lung lay, binh sĩ địch, nhất là lê dương, lính Đức càng hoang mang, mất tinh thần chiến đấu, còn dân ta thì phấn khởi và tin tưởng ở sự tất thắng của kháng chiến. Đó là thuận lợi cho ta trong việc chuẩn bị chiến trường Hà Nội.
Chỉ thị xác định nhiệm vụ và phương châm hoạt động của ta như sau:
Về nhiệm vụ: Nhiệm vụ đầu tiên và là nhiệm vụ chính của Hà Nội trong giai đoạn này là “chuẩn bị chiến trường", nghĩa là phải điều tra nghiên cứu các công sự phòng ngự, kho tàng, trại lính, sở mật thám, nhà tù, nhà ga, nhà dây thép, sở vô tuyến điện, kho bạc, nhà băng, các nhà máy điện, nước, các ổ Việt gian, các tổ chức phản động và bọn cầm đầu, v.v.; xây dựng cơ sở chính trị thật rộng rãi, vững chắc; xây dựng lực lượng vũ trang mạnh trong lòng địch, tổ chức Đội quân ngầm Thủ đô để phối hợp tác chiến với quân chủ lực ở ngoài đánh vào khi ta thực hiện tổng phản công.
Nhiệm vụ thứ hai, nhiệm vụ rất quan trọng của Hà Nội là xây dựng những bộ đội chủ lực tinh nhuệ để khi chuyển sang tổng phản công sẽ đi tiên phong đánh vào Thủ đô.
Nhiệm vụ thứ ba, nhiệm vụ phụ của Hà Nội là phối hợp với Liên khu III hoạt động và nghi binh để kiềm chế địch khỏi tấn công các mặt trận khác.
Về phương châm hoạt động: Một là, mọi hoạt động của ta ở Hà Nội suốt trong giai đoạn này là để “chuẩn bị chiến trường", chứ chưa phải là để thắng địch. Do đó, cần phải chú trọng tuyên truyền, gây ảnh hưởng để dễ xây dựng cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang. Mọi hoạt động quân sự, kể cả việc tác chiến của bộ đội chủ lực, đều nhằm mục đích đó, hết sức tránh những hành động bừa bãi có hại cho việc chuẩn bị chiến trường; cần phải nặng về tổ chức lực lượng hơn là đấu tranh, đương nhiên cũng cần tổ chức những cuộc đấu tranh để giác ngộ quần chúng chống địch, để đánh tan tư tưởng cần an, những khẩu hiệu, hình thức, kế hoạch và phương pháp đấu tranh phải đúng mực, kịp thời phát động và kịp thời rút lui, tránh bớt những tổn thất lực lượng nặng nề; cần đánh lạc hướng địch khi tổ chức đấu tranh; ở địa bàn an toàn khu, đường giao thông liên lạc của ta thì không nên phát động những cuộc đấu tranh không cần thiết; khi cần phối hợp đấu tranh thì phải phối hợp nội thành với ngoại thành và Hà Đông - Sơn Tây - Gia Lâm hay có thể rộng rãi hơn nữa. v.v để địch khó lường; cần phải mở rộng các an toàn khu và các đường giao thông liên lạc của ta.
Hai là, phải triệt để thực hiện phương châm phối hợp trong công tác như tổ chức chính trị phải gây cơ sở vũ trang và các tổ chức vũ trang phải gây cơ sở chính trị; trong sự điều động cán bộ như đưa một số cán bộ biết quân sự sang phụ trách các tổ chức chính trị và đưa một số cán bộ khá chính trị sang phụ trách các lực lượng vũ trang; trong đấu tranh về quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, xã hội; đấu tranh bí mật với đấu tranh bán công khai, công khai; đấu tranh ở nội thành với ngoại thành, các tỉnh lân cận và cả với vùng tự do.
Ba là, mọi hoạt động của ta ở Hà Nội phải có sự chỉ đạo thống nhất và tuyệt đối tuân theo nguyên tắc bí mật.
Chỉ thị hướng dẫn việc phá âm mưu và lực lượng địch, xây dựng lực lượng của ta ở Hà Nội.
Chỉ thị chỉ rõ Ban chỉ huy Hà Nội phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Thành ủy; mỗi khu phố có một Ban chỉ huy, Ban Cán sự Đảng khu phố có thể kiêm Ban chỉ huy khu phố, Bí thư Ban Cán sự Đảng sẽ làm chính trị viên trong Ban chỉ huy khu phố.
Cuối cùng, Chỉ thị nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của Hà Nội trong giai đoạn tổng phản công sau này hết sức trọng đại. Nhiệm vụ ấy làm được hay không là do việc chuẩn bị chiến trường trong giai đoạn này quyết định" và yêu cầu "các đồng chí phụ trách Hà Nội thực hiện Chỉ thị này một cách tích cực, quyết tâm, có kế hoạch và không lộ bí mật”.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.231-240.
TỪ NGÀY 2 ĐẾN NGÀY 8-6
Nhân dân Đồng Tháp Mười chống càn thắng lợi
Trong lúc quân và dân ta đánh địch trên một trận Tuyên Quang và Sông Lô, thì ở Nam Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh. Căn cứ Đồng Tháp Mười không những được củng cố mà còn mở rộng thêm, gây ảnh hưởng tốt đến Sài Gòn - Chợ Lớn.
Từ ngày 2 đến ngày 8-6-1949, thực dân Pháp huy động 4.000 quân, 50 tàu chiến, bốn máy bay càn quét Đồng Tháp Mười hòng tiêu diệt cơ quan chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ, tiêu diệt chủ lực ta để củng cố lại tinh thần quân đội của chúng sau những thất bại nặng nề trên chiến trường.
Đây là cuộc càn lớn nhất của địch vào Đồng Tháp Mười trong chương trình thực hiện chiến lược "bình định" thời kỳ này.
Quân và dân Đồng Tháp Mười kiên cường và anh dũng đã đánh trả quyết liệt, diệt 300 tên, làm bị thương 500 tên, phá huỷ và đoạt một số vũ khí quân dụng.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.190-191.
- Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945-1975), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.160.
NGÀY 8-6
Ban Công vận Trung ương ra nghị quyết về phong trào công nhân vùng địch kiểm soát
Thực hiện chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, thực dân Pháp chú trọng phát triển các ngành mỏ, cao su, xi măng, dệt, máy móc, vũ khí, đạn dược... và cố nắm những yết hầu kinh tế do chúng kiểm soát. Số Công nhân trong vùng địch lên tới 20 vạn người, họ bị bao vây chặt chẽ và bị kiểm soát bằng những đội mật thám, chỉ điểm. Chúng lôi kéo, lường gạt công nhân vào các tổ chức trá hình "công nhân chống Cộng", “công nhân Cần lao". Chúng dùng các thủ đoạn khủng bố, tra tấn, tù đày để chống lại cuộc đấu tranh của công nhân. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phong trào công nhân vùng địch kiểm soát trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngày 8-6-1949, Ban Công vận Trung ương đã ra nghị quyết kiểm điểm lại công tác và đề ra những nhiệm vụ của công nhân vùng địch kiểm soát.
Nghị quyết nêu rõ, công tác vận động công nhân trong vùng địch còn nhiều khuyết điểm, không có cán bộ công vận, công tác thiếu kế hoạch. Về đấu tranh, nặng về quân sự, đấu tranh bừa bãi, tiêu hao lực lượng, chưa gây được tinh thần đấu tranh bền bỉ trong nhân dân. Về tổ chức, thiếu hẳn một phương châm đúng đắn, chưa chú ý đến việc củng cố cơ sở, chưa tổ chức được các đội biệt động, chưa có kế hoạch hoạt động phối hợp với các cơ quan chuyên môn như công an, tình báo, chưa chú trọng vận động công nhân Hoa kiều để tổ chức họ vào Công đoàn Việt Nam...
Nhiệm vụ của công tác công nhân trong giai đoạn này là tích cực gây dựng, phát triển và củng cố phong trào ở những nơi chưa có, đặc biệt là các thành phố, các trung tâm kinh tế, xúc tiến vận động, tổ chức công nhân Hoa kiều; ra sức phá hoại, làm tê liệt kinh tế địch bằng mọi hình thức, gây ý thức phá hoại thường xuyên trong cán bộ; tích cực lãnh đạo công nhân thường xuyên đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giặc, phối hợp đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp và nhiệm vụ của kháng chiến, đề phòng tinh thần chờ đợi, cầu an của công nhân; chú trọng thành lập những tổ chức quân sự như những đội du kích, đội tự vệ, đội phá hoại, đội biệt động, đội danh dự trừ gian...; ra sức đào tạo cán bộ vùng địch, dìu dắt những phần tử hăng hái có triển vọng để họ trở thành những cán bộ đủ năng lực điều khiển mọi mặt công tác của xí nghiệp.
Phương châm công tác là phải triệt để bí mật; tổ chức công đoàn vùng địch phải đơn giản, thích hợp, dễ chỉ huy; việc phát triển Đảng phải chặt chẽ hơn vùng tự do, triệt để phá tan mọi tổ chức do địch lập nên, có kế hoạch tiến thoái mềm dẻo, đặc biệt chú trọng giáo dục lý luận và đạo đức cho cán bộ vùng địch; đề cao công tác tuyên truyền, cương quyết chống bệnh quan liêu, mạo hiểm, liều lĩnh, chủ quan khinh địch, cầu an... trong công nhân và cán bộ.
Chủ trương "nắm vững phong trào vùng địch kiểm soát để phá hoại và đấu tranh làm tê liệt kinh tế địch, tiến lên đánh quỵ địch ngay trong những yết hầu kinh tế do chúng kiểm soát" là một chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm đập tan mọi âm mưu phá hoại của địch.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 38, phông Liên khu uỷ I.
NGÀY 17-6
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về cuộc thi đua chuẩn bị tổng phản công
Để tiếp tục tinh thần thi đua sôi nổi trong kỳ thi đua 3 tháng (từ ngày 19-2 đến ngày 19-5-1949) và đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị tổng phản công trong toàn quốc, Trung ương Đảng quyết định mở một cuộc "Thi đua chuẩn bị tổng phản công" từ ngày 19-5-1949 đến ngày 31-12-1949 nhằm vào sáu bộ phận:
1. Về quân sự có cuộc vận động "Rèn luyện cán bộ, chấn chỉnh quân đội" (rèn cán, chỉnh quân).
2. Về kinh tế có cuộc vận động "Tự túc ăn mặc".
3. Cuộc vận động "Bài trừ nạn dốt".
4. Cuộc vận động "Sáng tác, phát minh".
5. Trong toàn dân và các cơ quan chính phủ, đoàn thể có cuộc vận động "Cần, kiệm, liêm chính".
6. Trong Đảng có cuộc vận động "Đào tạo cán bộ, học tập lý luận". Sáu cuộc vận động thi đua trên đều gắn với sáu chữ "Cơm no, súng tốt, đánh thắng" để kháng chiến thắng lợi. Khẩu hiệu chung là "Tất cả để chiến thắng”.
Đây là một cuộc thi đua rộng lớn tiếp tục cuộc thi đua ba tháng trước đó, phối hợp những cuộc thi đua lẻ tẻ của các ngành, các giới trong toàn quốc, nhằm vào những nhiệm vụ trọng tâm, nhằm thẳng vào đích “tích cực chuẩn bị tổng phản công". Chỉ thị nhấn mạnh: “Mong các đồng chí ra sức tiến hành sáu cuộc vận động lớn của cuộc thi đua chuẩn bị tổng phản công này khiến cho ngày toàn thắng của dân tộc ta chóng đến".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.247-249.
NGÀY 28-6
Công đoàn bí mật vận động công nhân mỏ đá Tràng Kênh đình công
Đến đầu năm 1949, bọn chủ mỏ đá Tràng Kênh đã mộ tới 1000 công nhân để mở rộng việc khai thác phục vụ cho chiến tranh. Anh chị em công nhân phải làm việc cực nhọc, nhưng tiền lương rất thấp và giá sinh hoạt ngày một tăng vọt.
Nhân việc bọn mật thám bắt 3 thuyền và 14 công nhân tình nghi chở cán bộ, tiếp tế kháng chiến, công đoàn bí mật của ta lập tức tổ chức ra Uỷ ban đấu tranh gồm 5 người và quyết định vận động công nhân đình công.
Ngày 28-6-1949, 900 công nhân gồm toàn bộ thủy thủ chuyên chở và 80% thợ đục đá nghỉ việc kéo đến bàn giấy của chủ đưa ra yêu sách:
- Chống kiểm soát, bắt bớ, phải thả thuyền và người bị bắt.
- Tăng giá chuyên chở đá lên 4 đồng 1 mét khối, đục đá 3 đồng 1 mét khối.
- Phải bán gạo, vải cho công nhân.
Sau 4 ngày đấu tranh kiên quyết, địch buộc phải thả hết số người và thuyền đã bị chúng bắt giữ. Song chúng lẩn tránh không giải quyết yêu sách tăng lương, cải thiện sinh hoạt cho công nhân. Đến ngày 16-7, công nhân lại tiếp tục đình công, có thêm 60 nữ công nhân tham gia.
Cuộc đấu tranh diễn ra quyết liệt tới ngày 8-9-1949, gây cho bọn chủ mỏ nhiều thiệt hại.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh xuất bản, 1980.
NGÀY 7-7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định lập căn cứ địa Việt Bắc
Ngay từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Việt Bắc đã được chọn làm căn cứ cách mạng, nơi tập trung các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Tại đây, quân và dân ta đã ra sức sản xuất và chiến đấu xây dựng một cuộc sống mới thực hiện chủ trương “kháng chiến, kiến quốc" của Đảng. Đến giữa năm 1949, cuộc kháng chiến sắp chuyển sang giai đoạn quyết định - giai đoạn tổng phản công, nhu cầu kháng chiến ngày một cao về mọi mặt. Để đáp ứng tình hình trên, ngày 7-7-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết nghị:
“Lập một căn cứ địa gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, sáu tỉnh này vẫn theo hệ thống của các khu, không phải tách riêng ra, mà chỉ được Trung ương đặc biệt chú ý giúp đỡ và đặt kế hoạch xây dựng về mọi mặt".
Trung ương cũng quyết định thành lập một Ban căn cứ địa như một ban chuyên môn do đồng chí Trần Quý Kiên làm Trưởng ban, giúp Trung ương nghiên cứu kế hoạch xây dựng căn cứ địa, đôn đốc kiểm soát việc thực hiện kế hoạch.
Ngày 23-9-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 110 - SL lập Ban căn cứ địa Việt Bắc.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 124, phông Liên khu Việt Bắc.
TỪ NGÀY 10 ĐẾN NGÀY 16-7
Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng bộ Liên khu IV
Từ ngày 10 đến ngày 16-7-1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV lần thứ II họp tại Nghệ An. Dự Đại hội có 200 đại biểu đại diện cho 56.357 đảng viên của Liên khu.
Đại hội đã tập trung thảo luận các đề án về kinh tế tài chính, gấp rút chuẩn bị tổng phản công, đảng vụ, dân vận, tuyên huấn, chính quyền và báo cáo về tình hình Liên khu IV từ ngày Toàn quốc kháng chiến đến tháng 7-1949.
Nghị quyết Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho từng lĩnh vực cụ thể:
Về kinh tế: Thực hiện tăng gia sản xuất để tự cung cấp; bao vây và phá kinh tế địch để bảo vệ kinh tế tài chính của ta, chống âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" ; xây dựng cơ sở kinh tế mới đi đến kinh tế kế hoạch hóa, cụ thể là xây dựng và mở rộng bộ phận kinh tế nhà nước, đẩy mạnh bộ phận tập thể, nhất là hợp tác xã, chỉ huy và hướng dẫn bộ phận kinh tế tư nhân, từng bước đưa họ vào con đường sản xuất tập thể.
Về quân sự: "Gấp rút chuẩn bị tổng phản công".
- Gấp rút tăng cường cho Bình - Trị - Thiên vì đây là chiến trường chính trong Liên khu.
- Giữ vững Thanh - Nghệ - Tĩnh, huy động và phát triển mọi khả năng ở đây thành một lực lượng dự trữ hùng hậu cung cấp cho tiền tuyến.
- Mở rộng mặt trận Đông Lào.
- Sẵn sàng phối hợp với chiến trường toàn quốc.
Về dân vận: - Thực hiện tốt hơn nữa chính sách đại đoàn kết, mở rộng, củng cố Mặt trận dân tộc kháng chiến; củng cố Việt Minh, phát triển Liên Việt, tiến tới thống nhất Việt Minh và Liên Việt.
- Thực hiện tốt cuộc vận động giảm tô, thực hiện nền dân chủ mới; hội đổi công, hợp tác xã.
- Vận động nhân dân tham gia xây dựng "đời sống mới" .
Về Đảng vụ: Với mục tiêu "làm cho Đảng thành một Đảng quần chúng mạnh mẽ", cần nâng cao trình độ lý luận chính trị và Đảng tính của đảng viên, đồng thời phải đẩy mạnh công tác phát triển Đảng.
Về tuyên huấn: - Công tác tuyên truyền: Thực hiện khẩu hiệu "Tất cả để chiến thắng", cần phải đi sâu vào nhân dân, làm cho mỗi người dân hiểu rõ và cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình, đồng thời phải vạch trần sự vô nhân đạo của địch để nâng cao lòng căm thù của nhân dân.
- Công tác huấn luyện: Cần chấn chỉnh, mở rộng các nhà trường và các lớp học của Đảng, sửa đổi và thống nhất lại các chương trình huấn luyện, đào tạo cấp tốc giảng viên chuyên môn để cung cấp đầy đủ cho các lớp học của Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ (khóa II) đủ sức đảm đương nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 02, phông Liên khu uỷ IV.
NGÀY 14-7
Chính phủ ban hành Sắc lệnh giảm tô
Thi hành chính sách ruộng đất của Đảng, ngày 14-7-1949, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 78-SL quy định giảm tô 25% so với mức địa tô trước ngày Cách mạng Tháng Tám, xóa bỏ các loại địa tô phụ, thủ tiêu chế độ quá điền và lập Hội đồng giảm tô cấp tỉnh triển khai sắc lệnh trong vùng chính phủ kháng chiến kiểm soát.
Cuộc vận động giảm tô thu được nhiều kết quả. Ở Nam Bộ, tất cả các địa chủ đều phải giảm tô (có nhiều địa chủ phải giảm quá 25%). Ở Liên khu III, trong vùng tạm bị chiếm, 80% địa chủ phải chịu giảm tô.
Sắc lệnh giảm tô là chính sách đúng đắn, tiến bộ và rất thiết thực của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, động viên nông dân - lực lượng cách mạng đông đảo nhất tham gia kháng chiến, giải quyết một bước nhiệm vụ dân chủ trong kháng chiến.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.756.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II. tr. 191.
- Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế học: 45 năm kinh tế Việt Nam (1945-1990), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, tr.97.
TỪ NGÀY 16 ĐẾN NGÀY 24-7
Hội nghị đại biểu Liên khu III (lần 2)
Ngày 16-7-1949, Liên khu ủy III đã triệu tập Hội nghị đại biểu Liên khu III (lần 2) nhằm đóng góp vào "Đề án cách mạng dân chủ mới" của Trung ương Đảng, nhận định tình hình kháng chiến trong Liên khu, đề ra chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
Tham dự Hội nghị có các Liên khu ủy viên, đại biểu các tỉnh, thành, quân sự, các hội đoàn, ban ngành trong Liên khu.
Hội nghị dành bốn ngày (từ ngày 16 đến ngày 19-7) để thảo luận và đóng góp vào "Đề án cách mạng dân chủ mới" của Đảng. Hội nghị chú trọng nội dung bàn về công tác Đảng: nâng cao trình độ chính trị và lý luận của đảng viên, kiện toàn tổ chức Đảng, giữ vững kỷ luật, đề cao phê bình và tự phê bình, trau dồi đạo đức cách mạng, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Hội nghị tiến hành phân tích, đánh giá tình hình của Liên khu trong 6 tháng đầu năm 1949 trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế tài chính, văn hóa, thi đua, Đảng, dân vận. Hội nghị xem xét phong trào của từng tỉnh; kiểm thảo cách làm việc của khu.
Trên cơ sở đó, Hội nghị vạch ra những nét chính về công tác 6 tháng cuối năm của Liên khu là: Liên tiếp mở chiến dịch để giữ vững thế chủ động trên các mạt trận; triệt để bao vây và phá hoại kinh tế địch; đào tạo cán bộ dự trữ chuẩn bị Tổng phản công, chú ý cán bộ quân sự, cán bộ chuyên môn và cán bộ chính quyền; gây cơ sở và phát triển phong trào ở vùng địch kiểm soát. Những công tác lớn này được cụ thể hóa bằng các nghị quyết của Hội nghị.
Hội nghị đại biểu Liên khu III (lần 2) đã thúc đẩy hơn nữa công cuộc kháng chiến ở đồng bằng Bắc Bộ. Tuy nhiên, trong thời gian này, thực dân Pháp bắt đầu triển khai kế hoạch Rơve nhằm đánh chiếm toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, song Hội nghị chưa nhận thức rõ âm mưu mới của địch và chưa đề ra các biện pháp đối phó hữu hiệu.
- Biên bản Hội nghị đại biểu Liên khu III (lần 2), lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 9-8
Giải phóng thị xã Bắc Kạn
Một mặt do bị quân ta đánh liên tiếp trong các chiến dịch Đường số 3, Đường số 4, chiến dịch Đông Bắc và mặt khác, để thi hành kế hoạch phòng ngự biên giới có trọng điểm của Rơve, tử hạ tuần tháng 7-1949, Bộ chỉ huy quân Pháp bắt đầu cho quân rút khỏi một số nơi.
Ngày 9-8-1949, địch rút khỏi thị xã Bắc Kạn, tiếp đó, ngày 10-8, chúng rút khỏi đồn Phủ Thông, ngày 13-8, chúng bỏ Nà Phạc, Ngân Sơn.
Nhận được tin báo, tiểu đoàn tập trung của Trung đoàn 72 đang ở thị trấn Đu được lệnh của Bộ Tổng tư lệnh gấp rút lên đường truy kích. Tối ngày 17-8, quân ta đánh vào Bằng Khẩu, thì sáng hôm sau, chúng rút hết về Cao Bằng. Ta truy kích phá 30 xe, diệt và làm bị thương gần 100 tên. Bắc Kạn là thị xã đầu tiên được giải phóng trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thị xã Bắc Kạn được giải phóng đánh dấu thắng lợi quan trọng của quân và dân ta. Căn cứ địa kháng chiến được củng cố và mở rộng.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.I,
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.429.
NGÀY 12-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về phá âm mưu chiếm đóng trung du của địch và tích cực chuẩn bị chiến dịch Thu Đông 1949
Để thoát khỏi bế tắc trên chiến trường, tháng 7-1949, Pháp thực hiện kế hoạch Rơve (Revers), coi Bắc Bộ là chiến trường chính; mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du, tăng cường tuyến phòng thủ trung du và khu tứ giác Lạng Sơn - Tiên Yên - Hải Phòng - Hà Nội, bao vây căn cứ địa Việt Bắc; gấp rút củng cố biên giới bằng cách rút ngắn, chỉ lập một tuyến yểm hộ từ Lạng Sơn đến Hòn Gai… Ngày 13-7-1949, giặc Pháp mở cuộc hành quân Bastille đánh lên Bắc Ninh, Bắc Giang và lan sang cả Phúc Yên.
Trước tình hình đó, ngày 12-8-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị nói rõ việc địch mở vùng chiếm đóng ở trung du Bắc Bộ là để củng cố phòng tuyến của chúng ở biên giới Việt - Trung, chặt đường giao thông tiếp tế của ta giữa Việt Bắc và miền xuôi và để giữ vững miền đồng bằng Bắc Bộ, chiếm những vùng sẵn thóc gạo trực tiếp với Việt Bắc, tạo bàn đạp đánh lên Việt Bắc một lần nữa, hòng tiêu diệt chủ lực của ta.
Sau khi phân tích tình hình, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương:
1. Đánh mạnh để phá cuộc tiến công lên Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên của địch. Để thực hiện nhiệm vụ này, bộ đội, dân quân Liên khu I phải phối hợp chặt chẽ, chặn từng bước chúng, tiêu hao địch bằng những trận đánh tỉa, địa lôi, cạm bẫy, đồng thời phải dùng vận động chiến làm cho chúng thất bại nặng nề mà từ bỏ âm mưu đánh chiếm đường số 1, rút khỏi trung du. Tiếp tục đánh các vị trí địch ở biên giới, chặt các đường giao thông tiếp tế của chúng.
Đánh mạnh ở các mặt trận khác, chặn các đường giao thông thủy bộ, các đô thị lớn để chia sẻ lực lượng địch.
2. Tích cực chuẩn bị chiến dịch Thu Đông: động viên nhân dân tích cực chuẩn bị mọi mặt để có thể vượt qua mọi khó khăn; củng cố bộ đội địa phương, cấp thêm khí giới cho dân quân du kích xã, chuẩn bị tốt công tác địch vận, chuẩn bị "vườn không nhà trống" và tổ chức tránh giặc, tăng cường canh gác ở những vùng quan trọng có nhiều cơ quan đóng, đẩy mạnh công tác phòng gian, trừ gian trong quân dân.
3. Giải quyết tốt vấn đề tiếp tế lương thực cho bộ đội và nhân dân: tích cực tăng gia sản xuất, dự trữ, cất giấu thóc gạo, tổ chức vận tải tiếp tế, thực hành tiết kiệm phòng khi khó tiếp tế.
Chỉ thị nêu rõ: "Âm mưu của địch rất thâm độc, nhưng trước sau chúng cũng sẽ thất bại, khó khăn của ta còn nhiều, nhưng do sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, nhất định ta sẽ vượt qua".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.270-274.
NGÀY 18-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công
Tiếp theo Nghị quyết của Hội nghị Cán bộ Trung ương Đảng tháng 1-1949 về xây dựng các lực lượng vũ trang, nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chiến lược mới, ngày 18-8-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân trong giai đoạn mới.
Chỉ thị nêu rõ: "Bộ đội địa phương và dân quân trong quá trình tiến triển của chiến tranh là lực lượng hậu bị trực tiếp của quân chủ lực… Nhờ sự phát triển của những lực lượng ấy, tài sản của nhân dân, chính quyền nhân dân, các đoàn thể nhân dân và cơ sở Đảng được bảo vệ, chính quyền bù nhìn của giặc, kinh tế của chúng, ngụy binh và âm mưu chiếm đóng của quân địch bị phá hoại". Chỉ thị nhấn mạnh: việc xây đựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân “là một công tác then chốt để đẩy mạnh chiến tranh tiến tới", cho nên phải động viên nhân dân nuôi dưỡng bộ đội địa phương, gia nhập bộ đội và tham gia đông đảo vào phong trào dân quân, đồng thời đưa cán bộ có năng lực vào phụ trách các tỉnh, huyện đội và bộ đội địa phương.
Chỉ thị đề ra nhiệm vụ cho các cơ quan đảng vụ, tuyên huấn, dân vận, các đảng đoàn chính quyền các cấp; các đồng chí trong quân đội; các đồng chí phụ trách dân quân các cấp trong công tác xây dựng bộ đội địa phương và đẩy mạnh phong trào dân quân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.275-282.
NGÀY 20-8
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân bán gạo khao quân nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 2-9-1949
Nhằm động viên lực lượng vũ trang và khắc phục khó khăn trước mắt về lương thực, ngày 20-8-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Tôi lấy danh nghĩa cá nhân mà nhờ đồng bào giùm tôi việc đó. Tôi muốn nhờ đồng bào mỗi gia đình bán cho tôi 10 kolô gạo...” để khao quân nhân dịp kỷ niệm Độc lập 2-9.
Đáp lại tấm lòng Bác Hồ, nhân dân cả nước nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi, đã bán hàng vạn tấn thóc, gạo, cung cấp cho bộ đội ta một khối lượng lương thực khá lớn. Chỉ sau một thời gian ngắn, nhân dân Việt Bắc và Liên khu III bán thóc khao quân được gần 5.000 tấn; ở vùng tự do Liên khu V mỗi gia đình dự trữ 5-20 kg gạo để sẵn sàng bán cho bộ đội theo giá quy định. Cùng với nhiều biện pháp khác, việc bán gạo khao quân đã góp phần giải quyết khó khăn trước mắt trong việc cung cấp lương thực cho bộ đội.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.670-671.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.283-284.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Mmh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.4, tr.340.
NGÀY 21-8
Trung ương Đảng chỉ đạo việc đối phó với quân đội Tưởng Giới Thạch ở biên giới
Thất bại trên lĩnh vực quân sự, thực dân Pháp quay sang dùng thủ đoạn chính trị, chúng âm mưu liên hiệp với bọn Tưởng Giới Thạch để khép chặt biên giới Việt - Trung. Chúng sẽ rút quân ở biên giới để củng cố trung du và thỏa thuận cho quân Quốc dân Đảng Trung Quốc vào thay thế.
Trước tình hình đó, Trung ương chỉ thị cho các Ban Chấp hành Đảng bộ Liên khu I và X, các Ban chấp hành Đảng bộ các tỉnh biên giới đề phòng quân đội Tưởng Giới Thạch có thể tràn sang. Chỉ thị chỉ rõ các bước đối phó với tình hình trên:
1. Trong các vùng địch mới rút quân, phải giải thích cho quân dân hiểu rõ các tình thế có thể xảy ra, chuẩn bị “vườn không nhà trống", triệt để cất giấu lương thực, của cải khi quân "Tàu trắng” tràn vào.
2. Củng cố phong trào các huyện biên giới về mọi mặt, đưa thêm cán bộ về "vùng đỏ Hồ Chí Minh".
3. Ban Hoa vận Trung ương và các khu cử một số cán bộ Hoa vận được huấn luyện về công tác tuyên truyền quân đội "Tàu trắng” lên các tỉnh biên giới hoạt động.
4. Khi quân Tưởng Giới Thạch tràn sang, phải tìm cách khôn khéo tước khí giới của chúng và không để chúng quấy nhiễu dân, hoặc vận động họ chạy sang hàng ngũ ta, giao khí giới cho ta. Nếu lực lượng chúng quá mạnh thì huy động bộ đội chính quy để đối phó.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 125, phông Liên khu Việt Bắc.
NGÀY 28-8
Thành lập Đại đoàn Quân tiên phong
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng tháng 1-1949 về việc rút các đại đội độc lập về cùng các tiểu đoàn tập trung xây dựng thành những binh đoàn chủ lực, ngày 28-8-1949, Đại đoàn Quân tiên phong (tức Đại đoàn 308) được thành lập ở Đồn Đu (Thái Nguyên). Đồng chí Vương Thừa Vũ được cử làm Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy Đại đoàn 308.
Tiền thân của đại đoàn là Trung đoàn 308 (Trung đoàn này được tổ chức sau chiến dịch Việt Bắc 1947, gồm các đơn vị của Trung đoàn Vệ binh 147 và Trung đoàn Thủ đô) và một số tiểu đoàn có thành tích chiến đấu ở các Liên khu.
Đây là đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. "Đại đoàn có nhiệm vụ cùng các binh đoàn chủ lực khác, đi tiên phong trên con đường diệt sinh lực địch, trên con đường chính quy hóa...
Đại đoàn phải: hễ đánh là thắng
Hễ đánh là tiêu diệt sinh lực địch
Ngày càng lớn mạnh
Quyết định chiến trường..."
Thành lập Đại đoàn Quân tiên phong thể hiện sự lớn mạnh của quân đội ta, dân tộc ta, từ đây quân đội ta đủ mạnh để giành thế chủ động trên chiến trường. Thành lập đại đoàn chủ lực đầu tiên là một bài học lớn về tổ chức, không những trong lĩnh vực quân sự mà cả trong những lĩnh vực khác. Với nhân tố con người và nhất là cán bộ như thế nào, với nhân tố vật chất, tức là vũ khí và phương tiện chiến tranh như thế nào, hai nhân tố cơ bản nhất và cách mạng nhất như Ăngghen đã nhận định, thì với hình thức kết hợp hai nhân tố ấy, với hình thức tổ chức bộ đội hợp lý nhất mới có được một hoạt động tác chiến có hiệu quả nhất, đưa lại thắng lợi tương xứng".
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.197.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.88.
NGÀY 19-9
Chính phủ ban hành Công trái quốc gia
Trong giai đoạn "chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công", ngân sách quốc gia phải chi tăng lên gấp bội. Ngày 19-9-1949, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Công trái quốc gia nhằm huy động nhiều tiền của thóc gạo phục vụ nhiệm vụ quân sự sắp tới.
Sắc lệnh quy định: Công trái quốc gia ghi bằng thóc và thu bằng tiền, hoặc thóc với thời hạn vay là 5 năm. Phiếu công trái có ghi tên người mua và được hưởng lãi đồng niên là 3% tính vào số thóc ghi trên phiếu. Tổng số công trái được ấn định phát hành tính theo thóc là 100.000 tấn, gồm 5 loại phiếu A, B, C, D, E với số lượng khác nhau...
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào mua Công trái quốc gia là dịp để chứng tỏ lòng yêu nước của đồng bào cả nước ta. Từ cụ già không nơi nương tựa đến những thiếu niên còn lệ thuộc gia đình, ai ai cũng đều ra sức góp công, góp sức cho kháng chiến. Ở Tuyên Quang, phong trào mua công trái phát triển rầm rộ, có người mua một, hai triệu đồng. Một bà cụ đi ở mướn đã dốc tất cả số tiền dành dụm được từ ngày bắt đầu kháng chiến để mua công trái.
Riêng huyện Định Hóa (Thái Nguyên) trong vòng 25 ngày của tháng 2 và đầu tháng 3-1951, đã mua 84.600kg thóc (tính ra tiền gần 15 triệu đồng). Huyện Lục Yên (Yên Bái) trong 5 ngày mua 104 tấn thóc. Có người đã mua 160 000 đồng.
Tỉnh Hà Tĩnh tính đến cuối năm 1954 đã tham gia mua Công trái quốc gia là 533.842.023 đồng tài chính và 362.259.772 đồng ngân hàng, trị giá trên 5.277.522 tấn thóc.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Báo cáo thành tích 9 năm kháng chiến của tỉnh Hà Tĩnh…, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 20-9
Hội nghị Đảng vụ toàn Khu 3 ra Nghị quyết về xây dựng Đảng ở vùng địch
Để tiếp tục đẩy mạnh công tác vùng địch kiểm soát, làm cho công tác tổng phản công đều khắp ở cả ba vùng tự do, tạm chiếm và tranh chấp, Liên khu ủy III triệu tập Hội nghị Đảng vụ toàn Khu 3 kiểm điểm công tác, thảo luận và đề ra nghị quyết với công tác xây dựng Đảng ở vùng địch.
Nghị quyết đánh giá, phân tích tình hình phát triển, củng cố sinh hoạt của các chi bộ, cấp ủy Đảng ở vùng địch trong thời gian qua và khẳng định: "Công tác vùng địch đã được đề cao, được các cấp ủy thực hiện có kết quả, cơ sở đã lên hầu khắp mọi nơi". Nghị quyết cũng chỉ rõ những nhược điểm của công tác Đảng trong vùng địch như chưa tiến kịp để đủ sức xoay chuyển với những biến cố và sức tấn công của địch; phương pháp lãnh đạo và làm việc chưa được sát hợp; cơ sở Đảng thường bị vỡ và yếu trong đô thị, thiếu cán bộ, công tác thường bị động, mắc một số bệnh khinh địch, thỏa hiệp, cầu an, cá nhân chủ nghĩa...
Nghị quyết đề ra các nhiệm vụ cụ thể cho công tác xây dựng Đảng ở vùng địch kiểm soát là: gây cơ sở trong những hội tề; phát triển mạnh tại các thành phố, thị xã, chú trọng các xí nghiệp, đặc biệt vào thành phần công nhân; đề cao công tác củng cố, chú trọng đào tạo và duy trì các chi bộ tự động; đơn giản các bộ máy, cách làm việc hướng vào công tác thực tế; đào tạo rèn luyện và săn sóc đời sống cán bộ; giáo dục công tác bí mật, đề phòng nội gián.
Nghị quyết vạch ra kế hoạch cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên, đến hết năm 1949, các thành phố như Hải Phòng, Nam Định mỗi khu phố phải có một chi bộ; thị xã Kiến An, Hải Dương phải xây dựng cơ sở mạnh; mở các lớp huấn luyện với chương trình ngắn gọn, dễ hiểu, thích hợp; tẩy trừ các bệnh khinh địch, cầu an, vô kỷ luật; trao quyền cho các chi bộ tự động, bộ máy chi bộ cần phải đơn giản…
Nghị quyết xây dựng Đảng ở vùng địch của Hội nghị Đảng vụ toàn Khu 3 đã thúc đẩy công tác xây dựng Đảng ở vùng địch tiến lên nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở vùng sau lưng địch.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, phông Liên khu uỷ III.
THÁNG 9
Hội nghị Quân sự Nam Bộ
Năm 1949, thực dân Pháp tập trung nỗ lực quân sự vào chiến trường Nam Bộ, ráo riết thực hiện “kế hoạch Đơ Latua", kết hợp chiến thuật tháp canh với càn quét, gây cho ta nhiều khó khăn lớn. Tháng 9-1949, Xứ ủy Nam Bộ mở Hội nghị Quân sự Nam Bộ, kiểm điểm công tác quân sự và đề ra nhiệm vụ mới.
Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, đọc báo cáo quan trọng, nhận định tình hình quân sự giữa ta và địch trên chiến trường chính, nêu rõ gần ba năm qua, thực dân Pháp chỉ kiểm soát được các đô thị và một số vùng lân cận, những cuộc hành quân lớn của địch trong năm 1949 phần lớn chỉ diễn ra trong vùng tạm bị chiếm; tình trạng ấy biểu lộ sự khủng hoảng về quân số của chúng. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, nhưng tình hình quân sự của chúng ta ngày một tiến triển. Chúng ta đang tạo ra những điều kiện cần thiết để chuyển sang giai đoạn mới.
Về tình hình quân sự của Pháp tại Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn vạch rõ, tuy giặc Pháp có thu được một số kết quả như mở rộng phạm vi chiếm đóng, chế ngự giao thông, tiếp tế của ta, nhất là Khu 7 và Khu 8, nhưng chúng cũng tổn thất nặng. Thất bại lớn nhất là chính sách quân sự của chúng không gây được uy tín nào cho chính phủ bù nhìn Bảo Đại.
Sau khi phân tích kỹ những điều kiện cụ thể và tình hình quân sự của ta tại Nam Bộ, đồng chí Lê Duẩn đã phê phán "chủ nghĩa du kích đã làm chậm trễ việc tập trung bộ đội chủ lực".
Kiểm điểm tình hình tổ chức các lực lượng vũ trang Nam Bộ, đồng chí chỉ rõ những khuyết điểm còn tồn tại trong các ngành quân giới, quân nhu, quân báo, kỹ thuật, kỷ luật trong quân đội.
Đồng chí nhấn mạnh tới mục đích, ý nghĩa của công tác chính trị trong quân đội, đồng thời phải coi trọng công tác địch vận, ngụy vận là nhiệm vụ chiến lược quân sự.
Để hoàn thành nhiệm vụ chiến lược mới, đồng chí Lê Duẩn đã nêu lên sáu mặt công tác cần kíp là: Chỉnh đốn lại bộ máy quân sự các cấp; xây dựng ba thứ quân; tổ chức lại bộ máy quân giới, quân nhu; tăng gia công tác chính trị; địch ngụy vận; tuyên truyền đẩy mạnh phong trào thi đua giết giặc lập công.
Cuối cùng Hội nghị nhấn mạnh, cần phải tổ chức lại chiến trường. Riêng đối với khu Sài Gòn - Chợ Lớn là chiến trường trọng điểm trong nhiệm vụ chống chiến lược bình định toàn diện của địch. Nhiệm vụ chính trị quan trọng của Sài Gòn - Chợ Lớn là đẩy mạnh xây dựng cơ sở, tác chiến ngay trong vùng địch và phá các trục đường giao thông quan trọng của địch từ Sài Gòn đi các khu, các tỉnh, phá chính sách ngụy quân, ngụy quyền... Do vậy cần phải tăng thêm cán bộ cho khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
- Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1954), Nxb. Thành Phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.203-204.
NGÀY 3-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị về nhiệm vụ mới của công tác Hoa vận
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Hội nghị Dân vận đầu năm, ngày 3-10-1949, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc thực hiện nhiệm vụ mới của công tác Hoa vận.
Sau khi phân tích tình hình và những chuyển biến to lớn của cuộc cách mạng ở hai nước Trung Hoa và Việt Nam, Chỉ thị chỉ rõ cấp bộ Hoa kiều vận cần tích cực đẩy mạnh công tác Hoa vận, vận động Hoa kiều hưởng ứng sự phối hợp chiến đấu giữa cách mạng Trung Hoa và cách mạng Việt Nam, hướng quần chúng Hoa kiều tích cực ủng hộ và tham gia vào công cuộc kháng chiến của Việt Nam. Muốn làm được như vậy, ngay từ lúc này chúng ta phải nỗ lực tuyên truyền, gấp rút xây dựng tổ chức, cơ sở Hoa kiều ở vùng địch cũng như vùng tự do, vùng biên giới và vùng duyên hải.
Để thực hiện tốt công tác Hoa vận, Trung ương vạch rõ những nhiệm vụ cần kíp phải thực hiện ngay trong mấy tháng cuối năm là:
1. Phải hoàn thành nhiệm vụ công tác của các cấp Hoa kiều vụ.
2. Tích cực tuyên truyền giáo dục và phát triển các cơ sở tổ chức quần chúng Hoa kiều.
3. Phải đề cao tinh thần Hoa - Việt thân thiện.
4. Đào tạo cán bộ quần chúng.
Trung ương Đảng chỉ rõ rằng đứng trước tình hình cách mạng hiện thời, Đảng cần phải có sự góp sức hoạt động của ngành Hoa vận rất nhiều. Công tác Hoa kiều vận không thể chậm trễ trước đà tiến chung đang mạnh, mà còn phải tổ chức và nắm vững quần chúng đấu tranh, đem lại quyền lợi thiết thực cho quần chúng, phát triển Lý sự Hội đúng tinh thần dân chủ, trong tinh thần đoàn kết dân tộc.
Sau khi đã vạch rõ nhiệm vụ công tác Hoa vận, Trung ương nhấn mạnh: Hội Hoa vận các cấp cần nắm vững phương châm, chính sách để gấp rút thực hiện những công tác tiến hành cho kịp thời, tổ chức làm việc cho khoa học.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng
NGÀY 9-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về xây dựng một mặt trận dân tộc duy nhất, ngày 9-10-1949, Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt.
Kiểm điểm về công tác chuẩn bị thống nhất Việt Minh và Liên Việt trong các địa phương trên toàn quốc, Chỉ thị vạch rõ do việc: "tiến hành không đều, nên đến nay có địa phương đã làm xong, mà cũng có địa phương chưa làm xong".
Để thực hiện việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt, Trung ương chủ trương:
1. Có thể thực hiện ngay việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt, ở những địa phương nào có đủ bốn điều kiện sau đây: Hai bên Việt Minh -Liên Việt đã từng thực tế hành động chung; hội viên hai bên và nhân dân ở địa phương đã được giải thích và hiểu rõ cần phải thống nhất Việt Minh và Liên Việt; các đoàn thể trong Việt Minh đã được củng cố và thống nhất đến cấp địa phương đó; sắp xếp xong cán bộ để lập Ban Chấp hành Liên Việt mới.
2. Những địa phương chưa đủ bốn điều kiện trên, cần xúc tiến việc chuẩn bị thống nhất theo đúng những chỉ thị trước đây của Trung ương về vấn đề này.
Phần cuối, Chỉ thị nhắc nhở, các cấp ủy Đảng cần phải họp ngay với các Đảng đoàn Mặt trận cấp mình để nhận định kết quả công tác chuẩn bị thống nhất Việt Minh và Liên Việt, để xem xét nơi nào có thể thống nhất ngay, nơi nào còn phải chuẩn bị chu đáo việc thống nhất; thanh toán tài sản của Đảng và Việt Minh cho dứt khoán sau khi đã thống nhất, phải giúp cho Liên Việt có đủ phương tiện hoạt động thực sự, không ỷ lại vào Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.294-295.
NGÀY 14-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tạm cấp ruộng đất của Việt gian và phát cho dân cày nghèo
Thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến, ngày 14-10-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tạm cấp ruộng đất của Việt gian cho dân cày nghèo.
Chỉ thị nêu rõ: Mục đích của công việc này là để dân cày nghèo ngày càng tha thiết với chính quyền dân chủ, càng nỗ lực tham gia kháng chiến và tăng gia sản xuất.
Ban Thường vụ Trung ương chỉ thị các cấp bộ Đảng phải lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể nhân dân, nhất là Nông dân Cứu quốc, thực hiện đúng đường lối của Đảng; phải dùng mọi hình thức để phổ biến chính sách này trong nội bộ Đảng, ngoài quần chúng nhân dân, đưa những cán bộ thành phần cơ bản, có năng lực vào các Hội đồng tạm cấp tỉnh, xã...
Khi thi hành Chỉ thị, Hội đồng tạm cấp tỉnh xuống xã thực hiện việc tạm cấp. Trong khi thực hiện tạm cấp "phải làm sao cho mọi người dân trong xã thật công bằng hợp lý”. Trong công tác kiểm tra và báo cáo, các khu uỷ và tỉnh uỷ, “phái cán bộ xuống xã kiểm tra, đôn đốc việc chuẩn bị và thi hành việc tạm cấp, rút kinh nghiệm, sửa chữa kịp thời những sai lầm". Chỉ thị lưu ý: sau khi hoàn thành việc tạm cấp trong tỉnh, tỉnh uỷ phải làm bản rút kinh nghiệm gửi lên Trung ương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.299-303.
NGÀY 15-10
Báo Sự thật đăng tác phẩm Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 15-10-19493, báo Sự thật, cơ quan ngôn luận của Đảng đăng bài Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài viết trình bày ngắn gọn, súc tích những vấn đề cơ bản về bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Mở đầu bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại.
Bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm bốn phần:
Phần I: Nước ta là nước dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất của Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, "Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân", "Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”. Chính quyền, đoàn thể các cấp đều “do dân tổ chức nên".
Trong phần II: Dân vận là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu định nghĩa về Dân vận: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho". Trong công tác dân vận, phải làm cho dân biết, dân hiểu, học hỏi kinh nghiệm của dân, tổ chức khuyến khích, động viên nhân dân thực hiện, theo dõi và tổng kết đúc rút kinh nghiệm.
Phần thứ III: Ai phụ trách Dân vận? Đó là tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể, tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân lực lượng trong hệ thống chính trị. Mọi cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể địa phương phải phân công rõ và có sự phối hợp chặt chẽ.
Phần IV: Dân vận phải thế nào? Những người làm Dân vận "phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm", họ phải thực sự nhúng tay vào việc, chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Sửa chữa tư tưởng “xem khinh việc dân vận", bao biện làm thay hoặc khoán trắng việc Dân vận cho một vài người, “Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc".
Phần kết bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.698-700.
Ngày 4-11
Thành lập Liên khu Việt Bắc
Để tăng cường chỉ đạo chiến tranh và phát huy khả năng chủ động của từng địa phương, ngày 4-11-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 127-SL hợp nhất Liên khu I và Liên khu X thành Liên khu Việt Bắc gồm 15 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Kim, Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái, Hải Ninh, Quảng Yên.
Ngày 5-11-1949, Hội nghị thống nhất hai Liên khu I và X ra Nghị quyết quy định kế hoạch thống nhất, sắp xếp cán bộ và mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, chính quyền và cơ quan quân sự trong Liên khu nhằm: thống nhất chỉ huy; giản chính ở cấp liên khu để có thêm cán bộ, tiền tài… tăng cường cho cấp tỉnh; xây dựng Việt Bắc thành một căn cứ địa vững chắc trong kế hoạch phòng thủ nước ta.
Ngày 7-12-1949, Bộ Quốc phòng ra chỉ thị về nhiệm vụ quân sự cho Liên khu Việt Bắc:
1. Chỉ đạo các lực lượng vũ trang Liên khu về mặt tác chiến, xây dựng và củng cố hậu phương.
2. Tổ chức huấn luyện bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích và quân hậu bị.
3. Chỉ đạo các lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh nhân dân, bảo vệ cơ sở hậu phương (kho tàng, nhà máy của Liên khu và Bộ).
4. Phối hợp các đơn vị chủ lực, chuẩn bị chiến trường, hiệp đồng tác chiến khi Bộ mở chiến dịch trong địa bàn Liên khu, hoặc khi địch tiến vào Liên khu.
5. Tham gia huy động nhân lực, vật lực, tài lực phục vụ chiến tranh khi có quyết định của Hội đồng Quốc phòng tối cao, hoặc Chính phủ Trung ương.
6. Trực tiếp quan hệ với bạn để giải quyết các vấn đề liên quan giữa hai bên biên giới khi có lệnh của Bộ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.427-434.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.758.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.89-90.
NGÀY 4-11
Chính phủ ban hành Sắc lệnh nghĩa vụ quân sự
Nhằm đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển lực lượng ba thứ quân, ngày 4-11-1949, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 126-SL quy định nghĩa vụ quân sự cho nam công dân từ 18 đến 45 tuổi.
Sắc lệnh quy định: "Tất cả công dân Việt Nam từ 18 đến 45 tuổi phải có hai năm tại ngũ; khi có chiến tranh, thời hạn này có thể kéo dài đến hết chiến tranh".
Bản Sắc lệnh còn nêu rõ những trường hợp được hoãn nhập ngũ và quy định các thủ tục gọi tòng quân, phục vụ trong quân đội.
Thi hành Sắc lệnh của Chính phủ và hưởng ứng lời kêu gọi của Đoàn Thanh niên Cứu quốc chỉ trong một thời gian ngắn, hàng chục vạn thanh niên trong cả nước đã hăng hái gia nhập quân đội. Phong trào tòng quân trong thanh niên phát triển khá rầm rộ, chỉ tính từ Liên khu IV trở ra đã có 50 vạn thanh niên ghi tên tòng quân.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002, t.5, tr.758.
TỪ NGÀY 5 ĐẾN NGÀY 10-11
Thường vụ Trung ương Đảng họp với đại diện Xứ ủy Nam Bộ
Từ ngày 5 đến ngày 10-11-1949, Thường vụ Trung ương họp với các đồng chí đại diện Xứ ủy Nam Bộ để kiểm điểm tình hình và đề ra nhiệm vụ của Xứ ủy Nam Bộ cũng như phong trào kháng chiến Nam Bộ.
Sau khi phân tích sâu sắc tình hình nhiệm vụ quân sự ở Nam Bộ, Trung ương chỉ rõ những nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng thành tích của phong trào kháng chiến là do: đầu óc địa phương còn nặng..., không hiểu rõ nhiệm vụ quân sự của từng vùng, Xứ ủy Nam Bộ chủ trương "rải quân" các tỉnh có số quân như nhau là sai và không đạt được kết quả, dẫn đến tình trạng quân sự ở Nam Bộ chưa thống nhất được chỉ huy ở ba khu (Khu 7, Khu 8 và Khu 9) . Chủ trương phát triển dân quân lúc đầu có tư tưởng “kìm hãm", nhưng sau lại phải đấu tranh chống lại tư tưởng "dân quân hóa bộ đội”, đã làm chậm trễ việc tập trung xây dựng bộ đội chủ lực. Đồng thời, Trung ương nêu rõ những ưu điểm và khuyết điểm của phong trào kháng chiến Nam Bộ.
Về ưu điểm: Vì ở xa Trung ương nên Xứ uỷ Nam Bộ có nhiều khó khăn về liên lạc, tài chính. Nhưng nhờ có tinh thần yêu nước và quyết tâm đi theo kháng chiến của nhân dân Nam Bộ, cán bộ tận tụy hy sinh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn, từ Hiệp định Sơ bộ đến Bản Tạm ước ngày 14-9, Nam Bộ gây lại được phong trào, xây dựng được cơ sở và đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
Về khuyết điểm: Nam Bộ chưa đi đúng đường lối chính trị dân chủ mới của Đảng; chính sách đại đoàn kết còn hơi lệch, tư tưởng chiến lược, chiến thuật chưa thấm vào cán bộ từ trên xuống dưới. Công tác xây dựng Đảng chưa chú trọng đến đào tạo cán bộ lý luận…
Sau khi phân tích về những ưu điểm và nhược điểm của phong trào kháng chiến Nam Bộ, Trung ương đề ra nhiệm vụ quân sự mới và hướng khắc phục tình hình trên là: phải đấu tranh để chuẩn bị lực lượng; đấu tranh về lý luận; chú trọng công tác tổ chức và thống nhất lãnh đạo; giúp đỡ phong trào Cao Miên, đẩy mạnh vận động đồng bào thiểu số, tôn giáo, phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh vận động chiến tiến lên…
Ngày 17-11-1949, Ban Thường vụ Trung ương đã điện gửi đồng chí Lê Duẩn và Xứ ủy Nam Bộ về nhiệm vụ của Xứ ủy Nam Bộ. Đó là chỉ thị hướng dẫn Nam Bộ tiến bước trên chặng đường kháng chiến về sau.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.309-313.
TỪ NGÀY 11 ĐẾN NGÀY 12-11
Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng
Từ ngày 11 đến ngày 12-11-1949, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng họp tại chiến khu Việt Bắc, kiểm điểm tình hình và đề ra Nghị quyết Hội nghị.
Sau khi phân tích sâu sắc, toàn diện những chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước cuối năm 1949, Hội nghị nhận định: đế quốc Mỹ đang trù tính can thiệp tích cực vào cuộc chiến tranh Pháp - Việt, nên cuộc kháng chiến của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn mới. Căn cứ vào tình hình trên, Hội nghị ra nghị quyết về các mặt chính trị, quân sự và ngoại giao:
- Về chính trị: Vạch rõ âm mưu can thiệp của đế quốc Mỹ vào Việt Nam, tỏ thái độ phản đối quyết liệt đối với Bảo Đại, đánh đổ ảnh hưởng của đế quốc Mỹ trong một số trí thức và Công giáo. Chú ý vạch rõ cho nhân dân hiểu rõ âm mưu của Mỹ đối với Việt Nam, nhưng không sao nhãng kẻ thù chính là thực dân Pháp. Kịp thời động viên quân và dân ta quyết tâm kháng chiến, nhất định sẽ giành độc lập và thống nhất thật sự.
- Về quân sự: Trong những tháng vừa qua, địch tăng quân và củng cố sự chỉ huy quân sự ở Bắc Bộ, bộc lộ rõ âm mưu đánh chiếm đồng bằng Bắc Bộ. Tại Nam Bộ, thực dân Pháp đã đánh chiếm Khu 9, lập ra đội quân Công giáo phản động… Do vậy, ta đẩy mạnh hoạt động quân sự ở Bắc Bộ như trên mặt trận Đường số 4, mặt trận Trung du, khu vực Bùi Chu, Phát Diệm, ở khu vực Quảng Bình..., đánh thắng nhiều trận lớn nhỏ, buộc địch phải rút nhiều vị trí...
-Về ngoại giao: nguyên nhân làm các Đảng bạn hiểu lầm ta là do: "ta tuyên bố giải tán Đảng", tuyên truyền quốc tế của ta kém, lại bị kẻ địch vu cáo, chia rẽ. Do vậy, ta cần phải thông báo tình hình cho bạn biết, chuẩn bị một phái đoàn tuyên truyền ra nước ngoài, soạn sách tiếng Anh, chuẩn bị đưa một phái đoàn đi nghiên cứu các vấn đề kinh tế, dân sinh (ruộng đất và hợp tác xã).
Cuối cùng, Nghị quyết nhấn mạnh: biên giới thông sẽ có nhiều đoàn ngoại quốc vào nước ta, các cơ quan, chính quyền, quân sự, đoàn thể chuẩn bị địa điểm và có kế hoạch đón tiếp chu đáo.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.11-12.
NGAY 18-11
Ban Thường vụ Trung ương ra Thông tri Về việc chấn chỉnh tổ chức nông dân
Ngày 18-11-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc chấn chỉnh tổ chức nông dân.
Bản Thông tri nêu rõ: hiện thời, "công tác vận động nông dân nhiều nơi có tiến bộ, nhưng cũng còn nhiều nơi phong trào quá kém". Hội viên không được huấn luyện, tổ chức kém, hoạt động còn rời rạc. "Có nơi Ban Chấp hành đa số là phú nông, địa chủ nên không chú ý đem lại quyền lợi thiết thực cho nông dân".
Thông tri chỉ rõ những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là: do cấp ủy địa phương coi nhẹ công tác vận động nông dân, không chú ý công tác cán bộ, không đưa những cán bộ có chuyên môn, có năng lực sang phụ trách Nông dân Cứu quốc; trình độ cán bộ nông dân còn kém, cấp ủy không hướng dẫn cách làm cho cán bộ, nên công việc thường mò mẫm; không chú trọng đến thành phần các cấp lãnh đạo của tổ chức nông dân.
Trước tình hình trên, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp Đảng bộ những việc cần phải làm ngay để chấn chỉnh tổ chức và phong trào nông dân. Theo đó, mỗi cấp bộ có ít nhất hai cán bộ chuyên trách nông vận, vừa có kinh nghiệm, vừa có trình độ văn hóa; chỉnh đốn sinh hoạt của Đảng đoàn Nông dân Cứu quốc; đưa địa chủ ra khỏi Nông dân Cứu quốc (sang các hội khác); thành phần của Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc có cả bần, cố nông; cán bộ trẻ.
Bản Thông tri nhấn mạnh: ra sức phát triển hội viên Nông dân Cứu quốc trong vùng Công giáo, vùng tạm chiếm, miền ngược.
Cuối cùng Trung ương yêu cầu tất cả các cán bộ Nông vận cần được học tập lý luận và học tập về: nông thôn, hợp tác xã, ruộng đất, kinh tế, v.v..
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.10, tr.314-315.
TỪ NGÀY 25-11-1949 ĐẾN CUỐI THÁNG 1-1950
Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo chiến dịch Lê Lợi
Thực hiện kế hoạch mở rộng chiếm đóng đồng bằng, từ cuối năm 1949 đầu năm 1950, Bộ chỉ huy Pháp mở nhiều cuộc hành quân lần lượt đánh chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Hà Đông, Phủ Lý, Ninh Bình. Trước âm mưu mới của địch, tháng 9, Bộ Tổng tư lệnh ra Mệnh lệnh chuẩn bị chiến dịch Lê Lợi ở Hòa Bình.
Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ định các đồng chí: Hoàng Sâm làm Chỉ huy trưởng, Lê Quang Hòa làm Chính ủy, Lê Trọng Tấn và một đồng chí trong Bộ Tư lệnh Liên khu IV làm Chỉ huy phó.
Mục tiêu của chiến dịch Lê Lợi: tiêu diệt một phần sinh lực địch, phá thế uy hiếp của địch sau lưng Liên khu III; phối hợp với chiến dịch Lê Lợi, Bộ Tư lệnh Liên khu X đã liên tiếp mở chiến dịch Sông Mã và chiến dịch Yên Bình xã - Nghĩa Đô.
Chiến dịch diễn ra từ ngày 25-11-1949 đến cuối tháng 1-1950.
Đợt l: Bắt đầu từ ngày 25-11-1949, mở màn chiến dịch bắt đầu bằng trận đánh nội ứng, đã diệt gọn vị trí Gốt ở nam đường số 6, tiến công vị trí Mát, nhưng không thành công vì địch tăng viện binh. Tiếp đó, ta đánh và diệt gọn hai vị trí của địch ở Đồng Bến và Mỏ Hẽm, địch phải dùng hơn 30 xe chở gần 1000 quân từ Hà Đông lên chi viện cho Hòa Bình, đã bị ta tiến công tiêu hủy cả đoàn xe.
Đợt 2: Ta quyết định chuyển hướng tiến công từ đường số 6 sang đường số 12, đợt hoạt động này ta chỉ đánh tiêu hao, chưa thực hiện được yêu cầu đánh và diệt gọn quân địch. Chiến dịch Lê Lợi kết thúc cuối tháng 1-1950.
Ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, diệt 10 vị trí, bức rút 13 vị trí khác, phát triển chiến tranh du kích ở địa phương, đánh mạnh vào kế hoạch lập "Xứ Mường tự trị" và tinh thần ngụy người Mường. Tuy nhiên, ta chưa phá được thế uy hiếp của địch đối với Liên khu III, chưa khai thông được giao thông liên lạc giữa Việt Bắc và Thanh - Nghệ.
Trên mặt trận phối hợp bộ đội tình nguyện Việt Nam với bộ đội Lào, đã tiêu diệt vị trí Xiềng Khọ, phá vỡ phòng tuyến của địch từ Mường Xiềng Khọ đến Sốp Hào, mở rộng Khu giải phóng Thượng Lào.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.432-433.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999, tr.91.
TỪ NGÀY 28-11 ĐẾN NGÀY 7-12
Hội nghị Cán bộ Nông dân Cứu quốc toàn quốc lần thứ nhất
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Hội nghị Cán bộ Nông dân Cứu quốc toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại chiến khu Việt Bắc từ ngày 28-11 đến ngày 7-12-1949. Đại biểu của tổ chức Hội nông dân cả ba miền Trung, Nam, Bắc đến dự Hội nghị.
Hội nghị tập trung kiểm điểm, đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của Hội từ khi thành lập.
Hội nghị hoàn toàn nhất trí với đề án về chương trình và hành động của Hội năm 1950, gồm sáu cuộc vận động lớn: Tăng gia sản xuất; tự cấp tự túc; nuôi dưỡng cán bộ; xây dựng hợp tác xã; hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức; đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến Hội nghị, đánh giá cao vị trí, vai trò và tiềm lực lớn lao của nông dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người căn dặn: cán bộ Hội phải tránh bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh giấy tờ, phải đưa anh em bần cố nông tham gia thực sự trong các cấp chính quyền và tổ chức Hội. Công tác vận động nông dân "là phải vận thế nào cho toàn thể nông dân động, nghĩa là: làm cho nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình; làm cho nông dân vào Hội Nông dân Cứu quốc cho đông để phấn đấu cho mục đích của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc".
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.196-199.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.710-711.
NGÀY 9-12
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nôen
Cuối năm 1949, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Phát Diệm, chiếm đóng các trung tâm Công giáo. Chúng dựa vào bọn phản động đội lốt tôn giáo để tiến hành càn quét, bình định.
Trước tình hình đó, ngày 9-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nôen. Trong thư, Người "thay mặt Chính phủ gửi lời thân ái chúc phúc đồng bào" và cảm thông với "đồng bào Công giáo Phát Diệm, Bùi Chu và nhiều nơi khác đang đau khổ dưới gót sắt của giặc Pháp dã man”.
Người kêu gọi: "Chúng ta phải đoàn kết hơn nữa, kiên quyết hơn nữa, để giải phóng đất Thánh của chúng ta, và giải phóng tất cả đất nước của chúng ta".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.721.
NGÀY 14-12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Thông tri gửi cho các Liên khu uỷ, ngành Dân vận, Đảng đoàn mặt trận
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 14-12-1949, Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri cho các Liên khu ủy, ngành Dân vận, Đảng đoàn Mặt trận quy định một số điểm dưới đây để Đảng đoàn Mặt trận, ngành Dân vận làm việc được dễ dàng, đúng mực và có nền nếp.
Thông tri quy định:
1. Từ năm 1949, Mặt trận sẽ ra các chỉ thị chung về công tác kháng chiến và kiến quốc các đoàn thể trong Mặt trận căn cứ vào chỉ thị của Mặt trận mà chỉ thị cho các cấp đoàn thể thi hành.
2. Đảng đoàn Mặt trận cấp trên có thể căn cứ vào chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy thông tri cho Đảng đoàn Mặt trận cấp dưới.
3. Khi thống nhất hai Mạt trận sẽ không tổ chức Liên Việt Đoàn vì: trước kia Viết Minh đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra chính quyền nhân dân, trong Chính phủ Liên hiệp có cả các đảng phái và nhân sĩ không đứng trong Việt Minh, nên phải đặt ra Việt Mình Đoàn để thực hiện Chương trình Việt Minh; bây giờ Hội Liên Việt đã phát triển khắp trong các tầng lớp nhân dân, các nhân viên trong Chính phủ đều là hội viên của Liên Việt, chương trình của Chính phủ là chương trình của Mặt trận, chính quyền họp đều có đại biểu của Liên Việt tham dự.
Trung ương Đảng nhấn mạnh các cấp ủy Đảng phải nắm vững và thực hiện đúng chính sách của Đảng, đưa các đồng chí cấp ủy phụ trách các ngành Dân vận, Mặt trận.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 19-12
Chủ tịch Hồ Chí sinh ra Lời kêu gọi nhân dịp ba năm toàn quốc kháng chiến
Nhân ngày 19-12-1949, Toàn quốc kháng chiến bước sang năm thứ tư, Nam Bộ kháng chiến bước sang năm thứ năm. Chủ tịch Hồ Cho Minh gửi Lời kêu gọi tới toàn thể cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở trong nước cùng kiều bào ở nước ngoài.
Trong Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, chiến sĩ, đồng bào, kính cẩn nghiêng mình trước hàng ngàn, hàng vạn linh hồn các liệt sĩ đã "oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc", và hứa rằng: "Toàn thể quân và dân Việt Nam kiên quyết noi gương anh dũng của các liệt sĩ, kiên quyết đánh tan giặc thực dân cướp nước, để tranh lại độc lập và thống nhất thật sự cho nước ta". Nhân dịp này, Người gửi lời ân cần thăm hỏi các thương binh, cựu binh và gia đình các liệt sĩ. Đối với những người Việt Nam lầm đường làm việc hoặc đi lính cho Pháp, Người nhắn nhủ: "Trước mặt các người, chỉ có hai con đường. Hoặc theo giặc để vào con đường chết và để mang tiếng xấu muôn đời! Hay là lập tức quay về với Tổ quốc, đem công mới để chuộc tội cũ, đó là con đường sống, con đường vẻ vang. Hai đường đó, các người phải chọn lấy một".
Để bày tỏ lập trường chính nghĩa, thái độ thiện chí và quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước thế giới: "Vì quân đội thực dân Pháp xâm lược Việt Nam mà có cuộc chiến tranh này. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng hòa bình cộng tác với nhân dân Pháp và nhân dân thế giới, nhưng nhân dân Việt Nam quyết không chịu làm nô lệ, quyết không chịu mất nước.
Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự".
Ngày kỷ niệm ba năm toàn quốc kháng chiến, cũng là dịp kỷ niệm ngày thành lập đội quân giải phóng của ta (Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân 22-12). Nhân dịp này, Người kêu gọi "Quân và dân ta phải noi gương anh dũng của Quân giải phóng, phải ra sức thi đua chuẩn bị mau đầy đủ để mau chuyển sang tổng phản công, để quét sạch giặc ra khỏi đất nước, để tiến đến thắng lợi cuối cùng, để tranh lấy thống nhất và độc lập thật sự cho Tổ quốc.
Hỡi đồng bào, hỡi chiến sĩ! Tiến mạnh lên!
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.5, tr.718-720.
TRONG NĂM
Thành uỷ và Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn lãnh đạo công nhân đấu tranh
Thực hiện chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ, Thành ủy và Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định phát động phong trào đấu tranh của công nhân chống áp bức, bóc lột của bọn chủ thực dân, đòi quyền lợi giai cấp, phối hợp và hỗ trợ phong trào đấu tranh của học sinh.
Từ ngày 24 đến ngày 26-1-1949, khoảng 1000 công nhân Hãng Lave, BGI, Sôđa và 600 công nhân công xưởng bãi công, đòi cải thiện đời sống đã giành được thắng lợi.
Tháng 2, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra: cuộc bãi công của trên 1.000 công nhân Sở Bưu điện và kho bạc; 200 công nhân Hãng LUCIA; 500 công nhân Hãng SIMAC; 500 công nhân và tài xế xe Location và Autobus đồng loạt bãi công. Tiếp đó đến 400 học sinh trường máy bãi thực đòi cải thiện ăn uống; 400 thợ Hãng thuốc lá Basto, khoảng 1000 thợ Xưởng FACI bãi công đòi tăng lương.
Tháng 3-1949, gần 600 công nhân Hãng Caric, 1.200 công nhân Nhà đèn bãi công.
Tháng 7 và tháng 8-1949, những cuộc đấu tranh của nhân dân đòi quyền lợi hàng ngày lại liên tiếp diễn ra. Đặc biệt trong những ngày 21 và 22-7-1949, đã có đến 4.500 công nhân của Hãng FACI, Đơni Phơre, SCAMA, Đêcua và Cabô (Descours et Cabaud) và Nhà đèn đã đình công và bãi công đòi tăng lương, lôi kéo cả các tầng lớp cai và đốc công người Pháp tham gia.
Để hỗ trợ phong trào bãi khóa của học sinh, Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định tổ chức một cuộc đình công. Từ ngày 28-11 đến ngày 1-12-1949, công đoàn đã tích cực vận động công nhân tham gia. Cuộc đình công đã nổ ra từ 2-12 và bắt đầu từ Hãng SIT rồi lần lượt lan rộng ra các Hãng BGI (Chợ Lớn), BGI (Sài Gòn), SEGI (Khánh Hội), Hãng Mic, Mitac, Basto với các yêu sách: tăng lương 30-50%, không được sa thải thợ... Bọn chủ dùng biện pháp cô lập, chia rẽ lực lượng đấu tranh bằng cách trả lương cho một số công nhân để họ đi làm ngay, nhưng số đông công nhân vẫn đình công. Thấy cuộc đình công kéo dài không có lợi, nên cuối cùng chúng buộc phải nhượng bộ, tăng lương cho công nhân 20 - 30%.
Những cuộc đấu tranh của công nhân không những đã gây cho địch thiệt hại lớn về kinh tế, mà còn hỗ trợ cho phong trào bãi khóa của học sinh giành thắng lợi, tạo đà cho phong trào đấu tranh chung của nhân dân trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, đặc biệt là phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên vào cuối năm 1949 đầu năm 1950.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1, tr. 290-301.
____________
1. T.G.K.C: Tham gia kháng chiến (BT.).
2. Ban chỉ huy bộ đội Việt Nam do đồng chí Đoàn Huyên làm Chỉ huy trưởng và Nguyễn Chính Cầu làm Chính ủy chiến dịch Đông Bắc 2.
3. Nhân việc có bài báo này, Ban Dân vận Trung ương lấy ngày 15/10/1949 làm ngày thành lập Ban Dân vận Trung ương.
Năm 1950 TỪ NGÀY 1 ĐẾN NGÀY 15-1
Đại hội Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ nhất
Năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Tình hình mới đòi hỏi công đoàn phải được chỉnh đốn lại toàn bộ hệ thống tổ chức để đủ sức mạnh phục vụ yêu cầu của kháng chiến. Từ ngày 1 đến ngày 15-1-1950, Đại hội Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ nhất được tiến hành tại Việt Bắc, gần 200* đại biểu công đoàn và chiến sĩ thi đua các ngành, các địa phương dự Đại hội.
Đại hội nhận được thư chào mừng của Liên hiệp Công đoàn thế giới và Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Thư gửi Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn "giai cấp công nhân phải là người lãnh đạo... mỗi nam, nữ công nhân phải cố gắng học hỏi, tiến bộ, phải cố gắng xung phong làm kiểu mẫu trong mọi việc để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của giai cấp mình".
Đại hội nghe đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng trình bày báo cáo quan trọng "Nhiệm vụ của công đoàn". Đại hội kiểm điểm tình hình hoạt động của công đoàn từ khi mới thành lập đến năm 1950. Trên cơ sở những thành tích và kinh nghiệm đã thu được, căn cứ vào những lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội đề ra nhiệm vụ mới cho lao động và phong trào công đoàn Việt Nam là: "Tích cực cùng toàn dân chuẩn bị chuyển sang tổng phản công, tiêu diệt thực dân Pháp và bù nhìn tay sai, đánh bại âm mưu can thiệp Mỹ, giành độc lập thống nhất thật sự cho Tổ quốc, góp sức cùng lao động và nhân dân các nước đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới".
Đại hội nhất trí thông qua Nghị quyết chung, thông qua Điều lệ, kêu gọi toàn thể lao động Việt Nam đoàn kết chặt chẽ xung quanh Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố gắng nâng cao trình độ về mọi mặt, tích cực xây dựng tổ chức công đoàn, làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của giai cấp công nhân.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam gồm 21 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hoàng Quốc Việt được bầu làm Chủ tịch, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu làm Thư ký Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Đại hội Công đoàn lao động Việt Nam lần thứ nhất đã mở ra một thời kỳ mới của công tác công đoàn. Từ sau Đại hội, các mặt công tác công đoàn ở vùng tạm chiếm cũng như ở vùng tự do đã có chuyển biến mạnh mẽ.
- Từ Đại hội I đến Đại hội V, Nxb.Lao động, Hà Nội, 1984.
- Hoàng Quốc Việt: Những nét sơ lược về lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb.Lao động, Hà Nội, 1959, tr.30-33.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.3.
NGÀY 2-1
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tuyên truyền gây thiện cảm với nước Trung Hoa Dân chủ nhân dân và Quân giải phóng
Nhận thấy việc tuyên truyền về thắng lợi của cách mạng Trung Quốc và Quân giải phóng Trung Quốc đã được các cấp, các ngành thông tin tuyên truyền chú ý thực hiện, nhưng vẫn chưa sâu rộng, hình thức còn nghèo và chưa có hệ thống, ngày 2-l-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị đẩy mạnh việc tuyên truyền gây thiện cảm với nước Trung Hoa Dân chủ nhân dân và Quân giải phóng.
Chỉ thị chỉ rõ những nhiệm vụ cần thực hiện sau đây:
1. Cần phải nêu rõ sự toàn thắng của cách mạng Trung Quốc có ảnh hưởng lớn lao đối với thế giới nói chung và đặc biệt đối với cuộc kháng chiến của ta.
2. Hoan nghênh Quân giải phóng phá kế hoạch cấu kết của thực dân Pháp với tàn quân Tưởng, đồng thời vạch rõ quân đội ta và Quân giải phóng Trung Quốc đều vì mục đích dân tộc và dân chủ mà chiến đấu, nếu Quân giải phóng bắt buộc phải kéo vào đây truy nã tàn quân Tưởng, thì ta sẽ nhiệt liệt hoan nghênh, sẽ hợp lực cùng Quân giải phóng tiêu diệt kẻ thù chung.
3. Giải thích cho quân và dân hai nước hiểu rõ nhau về mọi mặt và hiểu rõ sự liên quan mật thiết, ràng buộc vận mạng của hai dân tộc trong hiện tại và tương lai.
Về kế hoạch thực hiện:
Tại các vùng biên giới, bộ đội ta cần tổ chức liên hoan, mít tinh hoan nghênh Quân giải phóng, lập các đoàn đại biểu quân đội, nhân dân ta sang thăm Trung Hoa và Quân giải phóng; trên các đài phát thanh, báo chí như Cứu quốc, Sự thật phải có bài, có mục nói về Trung Hoa; tiến tới thành lập một tổ chức mà tôn chỉ là phát triển tinh thần hữu nghị giữa hai dân tộc Hoa - Việt.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.11, tr.2-6.
NGÀY 6-1
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về mở chiến dịch Tây Bắc và chuẩn bị chiến trường Đông Bắc
Sau chiến dịch Lê Lợi, chiến tranh nhân dân ở địa phương phát triển lên một bước mới, nhưng ta vẫn chưa khai thông được liên lạc giữa Liên khu III, Liên khu IV với Việt Bắc. Trước tình hình đó, ngày 6-l-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về mở chiến dịch Tây Bắc và chuẩn bị chiến trường Đông Bắc.
Nhận định tình hình, Chỉ thị nêu rõ: "Hiện nay ở Bắc Bộ, Tây Bắc là nơi yếu nhất và sơ hở nhất của địch. Đông Bác là chiến trường quan trọng đối với ta cũng như đối với địch suốt từ nay cho đến khi chuyển sang tổng phản công".
Ban Thường vụ Trung ương chủ trương:
1. Mở chiến dịch Tây Bắc (Lê Hồng Phong I) để phối hợp với Quân giải phóng Trung Hoa tiêu diệt tàn quân Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch nếu chúng tràn qua biên giới; làm tan rã khối ngụy binh và phá ngụy quyền; tiêu diệt một số vị trí địch; khôi phục lại Lào Cai, mở thông đường quốc tế.
2. Chuẩn bị chiến trường Đông Bắc cho thật đầy đủ, để khi có điều kiện sẽ mở một chiến dịch lớn, quét địch ra khỏi đường số 4 và một số đoạn bờ biển, đánh bại quân địch ở vùng Đông Bắc.
Chỉ thị vạch rõ nhiệm vụ của các cấp ủy Đảng phải liên lạc với các cấp chỉ huy quân sự, để thảo luận và thi hành chỉ thị trên.
Cuối cùng, Trung ương nêu rõ một số vấn đề lớn cần phải chú ý:
- Ở Tây Bắc phải tích cực chuẩn bị đầy đủ, kịp thời đặc biệt chú trọng đến việc tiếp tế, cấp dưỡng cho quân đội, làm tan rã ngụy binh, phá tề trừ gian.
- Ở Đông Bắc trọng tâm của công tác là chuẩn bị, cần chú trọng đến củng cố và phát triển cơ sở chính trị và vũ trang, gây cơ sở du kích ở miền biển, điều tra địch tình, phá hoại kinh tế địch, chuẩn bị lương thực tiếp tế cho bộ đội đến đánh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.7-9.
TỪ NGÀY 8 ĐẾN NGÀY 15-1
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ năm
Từ ngày 8 đến ngày 15-1-1950, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ năm họp tại Tuyên Quang. Các đại biểu của cả ba miền Bắc, Trung, Nam đã đến dự Hội nghị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới Hội nghị, Người căn dặn: "Mỗi người công an phải là một chiến sĩ. Năm 1950 là năm toàn dân chuyển mạnh sang tổng phản công. Tôi mong rằng toàn thể công an sẽ cố gắng thi đua để lập công trong cuộc thắng lợi chung".
Sau khi kiểm điểm toàn diện công tác năm 1949, Hội nghị khẳng định những thành tích to lớn và sự trưởng thành mau chóng của công an trong công tác phản gián, điệp báo, phá ngụy quyền, bao vây kinh tế địch, nắm nguyện vọng nhân dân; đồng thời vạch rõ những khuyết điểm tồn tại trong lề lối làm việc, trong lãnh đạo, chỉ đạo, cách tổ chức bộ máy chính sách cán bộ và tu dưỡng đạo đức.
Các đại biểu thảo luận và nhất trí thông qua bản "Đề án công tác năm 1950" và nhiệm vụ của ngành công an trong tình hình mới, đề án "Công an nhân dân Việt Nam". Bản đề án "Công an nhân dân Việt Nam" tổng kết quá trình hình thành, đấu tranh và phát triển của lực lượng công an nhân dân từ năm 1945 đến năm 1950, phân tích, làm rõ sự khác biệt về bản chất giữa Công an nhân dân Việt Nam với công an chính quyền đế quốc. Từ đó, xác định nhiệm vụ của công an là phải kiện toàn, xây dựng bộ máy công an nhân dân; phải nghiên cứu và phổ biến lý luận công an nhân dân, làm cho mỗi công an viên thấm nhuần tư tưởng và ý thức phục vụ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chính quyền nhân dân và chế đô dân chủ mới, bài trừ mọi phong trào phản dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Đề án "Công an nhân dân Việt Nam" góp phần làm sáng tỏ lý luận Công an nhân dân Việt Nam ở những giai đoạn tiếp sau.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.210-213.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.10.
Ngày 9-11
Học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình chống chính quyền bù nhìn
Cuối năm 1949 đầu năm 1950, phong trào đấu tranh của học sinh trong các đô thị bùng lên mạnh mẽ, phản đối thỏa hiệp giữa bọn Bảo Đại, Trần Văn Hữu cùng Pinhông (Pignon) và Phờlôrê (Coste Floret) về việc thành lập Chính phủ bù nhìn Bảo Đại, đòi cải cách giáo dục và chế độ thi cử. Địch đã tìm mọi cách xuyên tạc và đàn áp phong trào.
Ngày 9-1-1950, tại Sài Gòn - Chợ Lớn, một cuộc biểu tình lớn đã nổ ra. Hơn hai ngàn học sinh cùng đại biểu các giáo sư, gia đình học sinh kéo đến dinh Trần Văn Hữu (Thủ hiến Nam phần), đòi ngụy quyền trả tự do cho 12 học sinh bị bắt, cuộc biểu tình được hàng vạn đồng bào các giới hưởng ứng. Thực dân Pháp đàn áp cuộc biểu tình hết sức dã man, 30 học sinh bị thương nặng, 150 em bị bắt. Học sinh Trần Văn Ơn bị sát hại. Tin Trần Văn ơn và một số học sinh bị chết gây xúc động mạnh trong các tầng lớp nhân dân.
Trước tình hình đó, Ban Cán sự nội thành chủ trương tổ chức lễ truy điệu lớn để phát động lòng căm thù giặc, đồng thời, biến đám tang thành cuộc biểu tình phản đối nhà cầm quyền Pháp.
Ngày 12-1-1950, hơn nửa triệu đồng bào thuộc nhiều tầng lớp công nhân, xích lô, xe kéo, tắc xi, buôn bán, báo chí… xuống đường tham gia đưa tang Trần Văn Ơn. Tại Chợ Lớn, một cuộc đấu tranh lại nổ ra, phản đối việc địch sát hại nữ sinh Trần Bội Cơ trong cuộc biểu tình mới xảy ra, địch tăng cường đàn áp dữ dội. Bất chấp mọi khủng bố, đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn đoàn kết chặt chẽ, sẵn sàng sử dụng những bước đấu tranh cao hơn. Cuộc biểu tình đã biến thành một cuộc tổng bãi công, bãi khóa, bãi thị, làm cho thực dân Pháp và bọn tay sai bù nhìn lo sợ và lúng túng.
Ngày 13-1-1950, hầu hết học sinh, sinh viên Thành phố Hà Nội đã bãi khóa bày tỏ tình đoàn kết với các bạn Sài Gòn.
Từ đó, ngày 9-1-1950 trở thành Ngày Học sinh, sinh viên toàn quốc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
NGÀY 14-1
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Lời tuyên bố cùng Chính phủ các nước trên thế giới
Sau hơn bốn năm chiến đấu anh dũng, nhất là từ năm 1947 đến đầu năm 1950, cùng với sự phát triển ngày càng vững chắc và toàn diện của cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang nhân dân từng bước trưởng thành, trên thực tế đã hình thành ba bộ phận: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Thế trận chiến tranh nhân dân được triển khai rộng khắp, làm thất bại chiến lược "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch, dồn chúng vào thế lúng túng bị động. Cách mạng Trung Quốc thành công tạo điều kiện cho cách mạng nước ta tiếp nhận sự trợ giúp, ủng hộ tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế. Đặc biệt sau chuyến bí mật đi thăm các nước Trung Quốc và Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh cuối năm 1949 đầu năm 1950, mối quan hệ đối ngoại giữa nhân dân ta và các nước xã hội chủ nghĩa được mở thông. Cho đến lúc bấy giờ nước ta mới được thế giới công nhận.
Trước tình hình đó, để nâng cao địa vị quốc tế của nước ta và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta, ngày 14-l-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ra tuyên bố: "Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam. Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp nền dân chủ thế giới”.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.7-8.
NGÀY 18-1
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tuyên truyền chính sách ngoại giao của Chính phủ ta
Sau Tuyên bố ngày 14-1 của Chính phủ ta cùng Chính phủ các nước trên thế giới, ngày 15-1, Bộ Ngoại giao tuyên bố Chính phủ ta công nhận Chính phủ Nhân dân Trung Quốc và quyết định kiến lập quan hệ ngoại giao chính thức, trao đổi hàng đại sứ với Chính phủ Nhân dân Trung Quốc.
Ngày 18-1, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc tuyên truyền chính sách ngoại giao của Chính phủ ta, quyết định: Chính phủ ta chính thức tỏ thái độ rõ rệt đứng vào hàng ngũ dân chủ thế giới.
Chỉ thị nêu rõ: "Sự quyết định và những lời tuyên bố trên đây là một bước mới trong chính sách ngoại giao của Chính phủ ta. Chính sách ngoại giao của Chính phủ ta vẫn là liên minh với các nước dân chủ và kiến lập ngoại giao với bất cứ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyển lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước ta, kiếm thêm thật nhiều vây cánh và sự giúp đỡ bên ngoài để mau thắng thực dân Pháp. Trước kia Chính phủ ta chưa tuyên bố rõ chính sách ấy vì ta ở trong hoàn cảnh bị bao vây. Đến nay nhờ những thắng lợi của ta đã thu được trong ba năm toàn quốc kháng chiến, nhờ thắng lợi vĩ đại của cách mạng Trung Quốc, khiến sự tương trợ quốc tế đối với ta có điều kiện thực hiện một cách cụ thể, nên ta đã có thể tuyên bố rõ chính sách của ta”.
Chỉ thị nhấn mạnh: "Từ nay, chúng ta công nhiên đứng trong hàng ngũ dân chủ thế giới do Liên Xô lãnh đạo, chống phe đế quốc chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu. Sự giúp đỡ của các nước bạn đối với ta, về tinh thần cũng như về vật chất sẽ thiết thực hơn. Trước hết là Trung Quốc, rồi đến các nước bạn khác, có thể trong một thời gian ngắn, công nhận Chính phủ ta. Song có những nước tuy không đứng về phe dân chủ, nhưng cũng có thể kiến lập ngoại giao với Chính phủ ta. Do những thắng lợi ngoại giao của ta, nhân dân ta sẽ hết sức phấn khởi, tin tưởng thêm ở sự thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến, trái lại, tinh thần hàng ngũ địch sẽ hoang mang".
Chỉ thị còn chỉ rõ: "Để đối phó với bước tiến của chúng ta, bè lũ địch tất nhiên sẽ hoạt động mạnh hơn, sẽ xúc tiến những mưu mô từ trước của chúng. Mỹ sẽ giúp thêm Pháp và phe đế quốc sẽ gây công nhận bọn bù nhìn Bảo Đại, giặc Pháp và bù nhìn sẽ ra sức hoạt động, tuyên truyền chống cộng để chia rẽ dân ta, lôi kéo các từng lớp địa chủ, tư sản, Công giáo, Hòa hảo, Cao đài, v.v.. Một số ít phần tử lừng chừng, cơ hội trong những từng lớp này có thể ngả về phe giặc. Nhưng dù giặc Pháp dùng mưu mô gì nhất định chúng cũng không thể cản nổi bước tiến của ta và cứu vãn nổi nguy cơ của chúng".
Cuối cùng, Chỉ thị định ra cho toàn Đảng những việc cần làm ngay: Nhân lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân những thắng lợi ngoại giao của ta, tuyên truyền, động viên nhân dân thi đua hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công; giải thích rõ trong toàn Đảng, toàn dân chính sách ngoại giao của Chính phủ ta; đề cao những thắng lợi ngoại giao của ta ắt hẳn những vận động ngoại giao của địch, làm cho toàn dân phấn khởi và tinh thần binh lính địch thêm hoang mang; song không quên nói rõ những khó khăn sẽ xảy ra và những đối phó mới của địch để ngăn ngừa tâm lý ỷ lại, chủ quan trong nhân dân; nhiệt liệt hoan nghênh Liên Xô và tất cả các nước dân chủ nhân dân công nhận Chính phủ ta. Đối với các nước trong phe đế quốc công nhận ta thì ta tuyên truyền cho khéo, tùy theo thái độ của Chính phủ ta đối với từng nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tòan tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.II, tr.14-16.
TỪ NGÀY 19-1 ĐẾN NGÀY 11-3
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược, bên cạnh sự nỗ lực tự thân mà Đảng ta đã xác định rõ bằng đường lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, nhân dân ta rất cần có sự trợ giúp về vật chất và tinh thần từ bên ngoài của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 19-1-1950, nhận lời mời của Đảng, Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bí mật đi thăm các nước Trung Quốc và Liên Xô.
Tại Bắc Kinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức (đồng chí cao Trạch Đông đã sang Liên Xô trước đó). Chủ tịch nghỉ lại và thăm Bắc Kinh ít ngày, ngày 3-2, Người đi thăm Liên Xô. Tại Mátxcơva, Chủ tịch Hồ Chí Minh hội đàm với Xtalin, cùng các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô, trao đổi ý kiến về các vấn đề liên quan đến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đại Nguyên xoái Xtalin nói: trước kia do nhiều nguồn tin chưa chính xác nên lãnh đạo Liên Xô chưa hiểu tình hình Đông Dương và Việt Nam, nay Liên Xô đồng tình với đường lối của Đảng Việt Nam, sẽ cùng các nước xã hội chủ nghĩa công nhận Việt Nam dân chủ Cộng hoà, viện trợ cho Việt Nam trong kháng chiến và đào tạo cán bộ cho xây dựng hoà bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Liên Xô giúp trang bị cho 10 đại đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo cao xạ phân công Trung Quốc trực tiếp giúp đỡ Việt Nam những thứ cần thiết, những gì Trung Quốc chuyển cho Việt Nam sẽ được Liên Xô hoàn trả. Mao Trạch Đông đồng ý và hứa sẽ trang bị vũ khí cho 6 đại đoàn và có thể nhận ngay vũ khí trên đất Trung Quốc, tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam. Khi trở về Bắc Kinh, Chủ tịch Hồ Chí Mmh đề nghị Trung Quốc cử cố vấn sang giúp Việt Nam. (Ít lâu sau, một đoàn cố vấn của Trung Quốc sang giúp Việt Nam gồm 4 người: La Quý Ba, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trưởng đoàn cố vấn, Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn về quân sự; Mai Gia Sinh, Cố vấn về công tác tham mưu; Mã Tây Phu, Cố vấn về công tác hậu cần). Ngày 11-3, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường về nước, kết thúc chuyến đi thăm Trung Quốc và Liên Xô.
Sau chuyến đi thăm bí mật của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan hệ ngoại giao giữa nước ta và các nước Trung Quốc, Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa có bước phát triển nhanh chóng.
Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, Việt Nam phá vỡ được vòng vây của chủ nghĩa thực dân đế quốc, mở rộng hậu phương quốc tế, tạo hậu thuẫn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để chúng ta hòa vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới một cách trực tiếp có hiệu quả.
- Ngoại giao Việt Nam 1945 -2000 (Tái bản có chỉnh lý và bổ sung), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.121-122.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Đường tới Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.14-15.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.4, tr.396-407.
TỪ NGÀY 21-1 ĐẾN NGÀY 3-2
Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng
Năm 1950, tình hình trong nước và thế giới có những chuyển biến to lớn. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, v.v.. Nhân dân ta đang nô nức "tích cực cầm cự và chuẩn bị tổng phản công" . Thực dân Pháp lâm vào thế suy yếu và lúng túng. Đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp với âm mưu can thiệp sâu vào chiến tranh Đông Dương. Cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập ngày 1-10-1949 làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng giữa phe dân chủ và phe đế quốc, Việt Bắc trở nên liền một dải với Bắc Kinh và Mátxcơva. Nhân dân ta có điều kiện thuận lợi nhận sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần của Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Trước tình hình mới và để đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng. Hội nghị tiến hành tại Việt Bắc từ ngày 21-1 đến ngày 3-2-1950.
Do bận công tác đối ngoại1, không thể tham dự Hội nghị được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới Hội nghị, trong đó Người "có vài ý kiến" gửi cho các đồng chí đại biểu. Người viết: "Xét tình hình trong nước và ngoài nước, thế lực của ta và của địch, năm nay là năm cuộc kháng chiến của ta chuyển biến lớn... Nhiệm vụ của năm mới là: hoàn thành việc chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công.
Thời cơ có lợi cho ta, nhưng khó khăn của ta còn nhiều. Tổng phản công là một việc lớn. Chúng ta chỉ có thể tổng phản công thắng lợi, nếu chúng ta chuẩn bị đầy đủ, khắc phục mau chóng những nhược điểm, phát triển mau chóng những ưu điểm". Người khẳng định rằng năm 1950 sẽ là năm đại thắng lợi nếu ta làm trọn được những công việc trước mắt như sau: giữ vững khối đại đoàn kết của dân tộc; tích cực xây dựng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương; đánh mạnh vào lực lượng vật chất và tinh thần của địch; động viên lực lượng toàn dân, tổ chức và vũ trang nhân dân rộng rãi ở vùng tự do cũng như vùng bị tạm chiếm; liên lạc hành động với nhân dân Pháp và các lực lượng hòa bình dân chủ trên thế giới... Người còn căn dặn: “Riêng về Đảng, các đồng chí hãy kiểm thảo sự lãnh đạo của Đảng về chính trị và tổ chức, đề cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong Đảng, tổ chức việc học tập lý luận và sửa đổi lối làm việc, để cho Đảng ta thành một lực lượng rất mạnh, đưa dân tộc đến bước thành công".
Hội nghị đã thảo luận các báo cáo sau đây:
- “Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang tổng phản công” do Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trường Chinh trình bày;
- "Nhiệm vụ quân sự trước mắt chuyển sang tổng phản công” do đồng chí Võ Nguyên Giáp trình bày;
- “Công tác mặt trận và dân vận trong năm chuyển mạnh sang tổng phản công" do đồng chí Hoàng Quốc Việt trình bày;
- "Phải kiện toàn chính quyền cộng hòa nhân dân để tổng phản công và kiến thiết chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam” do đồng chí Phạm Văn Đồng trình bày.
Hội nghị nhất trí với các báo cáo được trình bày tại Hội nghị và thông qua Nghị quyết của Hội nghị Về việc chuyển mạnh sang tổng phản công.
Đánh giá tình hình hai năm 1948 - 1949, Nghị quyết chỉ rõ: Ta càng đánh, càng mạnh, chính quyền nhân dân càng thêm vững chắc, tinh thần quân và dân ta càng cao, các lực lượng hòa bình và dân chủ thế giới càng ủng hộ nhiệt liệt; nhưng đồng thời càng thấy rõ mấy nhược điểm lớn: thiếu vũ khí nặng, thiếu quân chính quy, thiếu cán bộ, kinh tế và văn hóa phát triển chậm so với quân sự và chính trị. Địch được Mỹ - Anh giúp đỡ nhiều, nhưng quân đội viễn chinh bị sút kém về tinh thần, gặp khó khăn về tiếp tế, về bổ sung quân số, lại phải bố trí phân tán. Địch còn gặp hai khó khăn lớn ngay bên nước Pháp là: tài chính Pháp ngày một quẫn bách và phong trào phản chiến của nhân dân Pháp ngày càng cao.
So sánh thế lực giữa ta và địch, Hội nghị khẳng định: Thế của ta mạnh hơn địch vì: nội bộ địch lủng củng, còn toàn dân ta đoàn kết kháng chiến; hậu phương địch lung lay còn hậu phương ta vững và rộng, cơ sở của ta phát triển cả trong vùng tạm bị chiếm; địch bị phụ thuộc vào Mỹ - Anh, đồng thời mâu thuẫn với Mỹ - Anh, còn ta được lực lượng hòa bình, dân chủ thế giới, kể cả nhân dân Pháp nhiệt liệt ủng hộ, nhất là từ khi cách mạng Trung Quốc thành công, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lực của ta hiện còn kém địch về vật chất, nhưng hơn địch về tinh thần. Song lực lượng vật chất của ta có cơ phát triển mau, lực lượng vật chất của địch cũng có thể phát triển nữa nhưng không bù lại được lực lượng tinh thần của chúng sa sút mau chóng.
Thế và lực có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Thế mạnh có thể chuyển thành lực mạnh. Ta cần phải nhân đà tiến bộ, tích cực phát huy khả năng của ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, triệt để lợi dụng sự lúng túng và nhược điểm của địch, làm cho thế lực của ta lớn mạnh hơn "gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công trong năm 1950 này”, "để trong năm 1950 ta có thể chuyển sang tổng phản công được".
Nghị quyết chỉ rõ: tổng phản công là phản công trong cả một giai đoạn chiến lược theo một kế hoạch chung cho chiến trường Đông Dương, là phản công từng đợt cho tới khi địch hoàn toàn thất bại, ta hoàn toàn thắng lợi. Muốn chuyển sang tổng phản công thì ta phải chiếm ưu thế về quân sự trên chiến trường chính (Bắc Bộ), trong khi ở các chiến trường khác, ta phải đủ sức kiềm chế địch. Phương châm chiến lược của ta trong cả giai đoạn tổng phản công là: vận động chiến đóng vai trò chủ yếu, du kích chiến và trận địa chiến đóng vai trò bổ trợ. Giai đoạn tổng phản công sẽ gay go nhất vì là giai đoạn quyết định thắng bại cuối cùng. Tình hình có khả năng diễn biến: giai đoạn tổng phản công có thể kéo dài, vì bọn đế quốc Mỹ - Anh tích cực can thiệp vào vấn đề Đông Dương, song cũng có thể rút ngắn nếu lực lượng dân chủ thế giới phát triển vượt bực và tích cực giúp đó ta, nếu song song với những thắng lợi của ta, những thắng lợi của lực lượng hòa bình, dân chủ ở Pháp làm cho nội tình nước Pháp rối loạn, quân đội thực dân Pháp ở Đông Dương tan rã. Dù sao ta cũng phải chuẩn bị đối phó với mọi tình thế khó khăn, đồng thời ra sức cố gắng để rút ngắn giai đoạn tổng phản công.
Nghị quyết đề ra chương trình công tác gồm 10 điểm nhằm gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị để chuyển sang tổng phản công trong năm 1950. Mười điểm đó là những việc cốt yếu và cấp bách thuộc các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế - tài chính, văn hóa - xã hội và xây dựng Đảng.
Ngày 4-7-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Thông tri sửa lại những chữ trong Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ ba vì "Trung ương không muốn đóng khung việc chuyển sang tổng phản công trong năm 1950".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.17-219, 473.
NGÀY 3-2
Thường vụ Liên khu ủy III Chỉ thị phá tan âm mưu chiếm đóng đồng bằng của địch
Thực hiện kế hoạch Rơve (Revers), cuối năm 1949 đầu năm 1950, địch mở cuộc hành quân Điablô đánh chiếm vùng tự do nam Hải Dương, Hưng Yên, huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo của Hải Phòng. Trước ý đồ đánh chiếm đồng bằng ngày càng lộ rõ của địch, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, Liên khu ủy III Chỉ thị phá tan âm mưu chiếm đóng đồng bằng của địch.
Chỉ thị nhận định: Địch đánh chiếm đồng bằng Liên khu III nhằm bảo vệ đường rút lui ra bể, ngăn chặn những binh đoàn lớn của ta vào hoạt động sâu trong lòng địch; lập phòng tuyến sông Nhị... cắt đứt đường giao thông tiếp tế của ta giữa các tỉnh hai bên hữu ngạn, tả ngạn sông Hồng: Hải Dương, Hưng Yên, địch có thể đánh rộng sang Thái Bình và hữu ngạn sông Hồng, càn quét, phá cơ sở của ta.
Chỉ thị vạch rõ những nhiệm vụ phá âm mưu chiếm đóng đồng bằng của địch, đẩy mạnh việc chuẩn bị mau hoàn thành chuyển sang tổng phản công.
Để thực hiện mục tiêu trên, Liên khu ủy chủ trương: phát triển du kích kháng chiến liên hoàn; thực hiện khẩu hiệu "Quân sự hóa và vũ trang toàn dân"; giữ vững quyền chủ động, phát triển du kích chiến, vận động chiến; mở chiến dịch liên tiếp; gấp rút xây dựng thêm chủ lực; đẩy mạnh địch vận, xây dựng căn cứ địa miền núi, củng cố căn cứ địa đồng bằng.
Chống âm mưu cướp phá của cải của giặc, gấp rút tổ chức bảo vệ thóc, gạo, muối; đẩy mạnh canh tác, mở cuộc vận động tiết kiệm; hoàn thành bảo vệ việc lập kho thóc chuẩn bị tổng phản công; triệt để thực hiện phân tán các xưởng công nghệ.
Chỉ thị nhấn mạnh: "Toàn Đảng bộ phải tập trung mọi khả năng sức lực vào việc phá tan âm mưu giặc. Phá tan âm mưu này tức là chúng ta hoàn thành việc chuẩn bị bước sang tổng phản công".
Trung ương đã nêu rõ những hoạt động cụ thể cho quân và dân Liên khu chống lại cuộc chiếm đóng đồng bằng của địch; nhưng, do chưa nhận thức đầy đủ âm mưu của địch2 và những khó khăn của ta, nên chỉ thị chưa đề ra kế hoạch đầy đủ, sát hợp với tình hình của Liên khu.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, phông Liên khu uỷ III.
NGÀY 9-2
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân thừa nhận Chính phủ ta
Đáp Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 14-l-1950), Chính phủ các nước Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước dân chủ nhân dân khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta: Ngày 18-1,Trung Quốc; ngày 30-1, Liên Xô; ngày 31-1, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên; ngày 2-2, Tiệp Khắc và Cộng hòa Dân chủ Đức; ngày 3-2, Rumani; ngày 4-2, Ba Lan và Hunggari; ngày 8-2, Bungari; ngày 13-2, Anbani.
Trước thắng lợi này, ngày 9-2, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân thừa nhận Chính phủ ta. Chỉ thị nhận định việc Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân thừa nhận và kiến lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam là "một đại thắng lợi về chính trị của ta và cũng là một việc rất trọng yếu trong lịch sử nước ta. Nó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc kháng chiến hiện thời".
Thắng lợi này là kết quả bốn năm hy sinh phấn đấu anh dũng của quân và dân Việt Nam, kết quả của đường lối, chính sách đúng đắn của Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nó tăng cường địa vị Việt Nam trên trường quốc tế, làm cho thế lực Việt Nam mạnh thêm. Từ nay, tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các nước dân chủ thế giới thêm nồng thắm, sự giúp đỡ của các nước bạn đối với cuộc kháng chiến, kiến quốc của Việt Nam tăng thêm; dân tộc Việt Nam sẽ có dịp thuận tiện để học tập kinh nghiệm của các nước bạn và trao đổi kinh nghiệm với các nước bạn. Thắng lợi ngoại giao của ta càng đẩy mạnh thực dân Pháp và bọn đế quốc vào thế bị động lúng túng. Trước thắng lợi ngoại giao lớn lao của ta, Trung ương nhắc nhở và động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hăng hái hoàn thành vượt mức mọi nhiệm vụ trước mắt, đề phòng tư tưởng ỷ lại và lạc quan tếu, giải thích cho mọi người hiểu rằng thắng lợi ngoại giao là do toàn dân đoàn kết, hy sinh chiến đấu mới đạt được.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.II, tr.225-228.
NGÀY 12-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh Tổng động viên
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang bước vào thời kỳ chuyển mạnh sang tổng phản công, đòi hỏi sự đóng góp to lớn về sức người, sức của của nhân dân ta. Ngày 12-2-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh Tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể nhân dân để phục vụ cho nhu cầu kháng chiến. Thực hiện khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".
Sắc lệnh quy định: "Tất cả nhân lực, vật lực, tài lực của toàn thể nhân dân đều đặt dưới chế độ pháp luật đặc biệt trong thời kỳ chiến tranh".
Thực hiện Sắc lệnh Tổng động viên, nhân dân ta đã không tiếc công sức, tiền của, xương máu, nỗ lực đến mức cao nhất để hoàn thành nghĩa vụ đối với sự nghiệp chung. Hàng chục vạn thanh niên nô nức ghi tên tòng quân, hàng chục vạn đồng bào hăng hái lên đường phục vụ dân công tiền tuyến. Nhân dân còn ra sức đóng tiền của, thóc lúa, thực phẩm, không ít những người đã hiến cả những đồ vật quý báu, thiêng liêng của gia đình cho kháng chiến.
Tại vùng tạm chiếm, công cuộc tổng động viên gặp nhiều khó khăn, nhưng bất chấp mọi sự khủng bố và kiểm soát gắt gao của địch, đồng bào ở đây vẫn nêu cao tinh thần yêu nước, kháng chiến, tìm đủ cách để đóng góp phần tối đa của mình với kháng chiến.
Tại Liên khu III đã có 280.000 thanh niên ghi tên tòng quân, 700.000 dân công tham gia phục vụ các chiến dịch và vận chuyển thóc gạo, 20.000 tấn thóc được đóng góp vào thuế công lương.
Những cố gắng lớn lao, những hy sinh cao cả của toàn dân ta trong cuộc tổng động viên là tấm gương ngời sáng của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta.
- Bản chụp Sắc lệnh lưu tại Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính bị quốc gia, Hà Nội 2002, t.6, tr.594.
THÁNG 2
Liên khu uỷ Việt Bắc mở chiến dịch Tổng phá tề lần thứ hai
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, đầu tháng 2 đến đầu tháng 3-1950, Liên khu ủy Việt Bắc mở chiến dịch tổng phá tề lần thứ hai, tập trung lực lượng tấn công bộ máy chính quyền địch, tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến trỗi dậy.
Liên khu ủy Việt Bắc chủ trương tổng phá tề với phương châm: diệt tề loại A, giải tán tề loại B, tề loại C3, kết hợp phá tề với xây dựng cơ sở và phát động chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Bộ đội địa phương các tỉnh trong Liên khu đã phân tán lực lượng phối hợp cùng cán bộ, đảng viên, du kích, luồn sâu vào hậu phương địch, diệt tề tại các trọng điểm quan trọng như: ở Kinh Nỗ4 (Đông Anh); Mai Nội (Kim Anh); Tân Lợi (Yên Lãng); Đức Hậu (Đa Phúc); Di Lậu, Hương Nộn, Thượng Nông (Tam Nông); Tiên Du, Quế Dương và Võ Giang (Bắc Ninh)... rồi tiếp tục tấn công nhiều cơ sở ngụy quyền khác của nhiều tỉnh trong Liên khu.
Sau thời gian thực hiện chiến dịch tổng phá tề diệt bảo an, tại Vĩnh Yên, quân và dân ta đã diệt 62 tên tề phản động, bắt 252 tên tề lừng chừng. cầu an, đồng thời phá rã bộ máy nguy quyền địch trên 50 thôn.xã. Quân và dân Bắc Ninh, Bắc Giang đã phá 290 ban tề, làng tề diệt, bắt và gọi hàng gần 500 lính bảo an, phản động, thu hàng trăm súng.
Thắng lợi của chiến dịch tổng phá tề, diệt bảo an đã làm rung động bộ máy ngụy quyền và tay sai, ngăn trở các hoạt động kìm kẹp bóc lột của địch, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến của nhân dân.
- Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, t.I, tr.200-201.
NGÀY 8-3
Ban Thường vụ Trung ương ra Nghị quyết Về vấn đề thành lập Ban Cán sự Thanh - Nghệ - Tĩnh và Binh - Trị - Thiên
Sau khi xem xét nhu cầu của các mặt trận Bình - Trị - Thiên, Trung Lào, Bắc Quảng Nam và Đà Nẵng, tình hình giao thông liên lạc giữa các tỉnh Bình - Trị - Thiên và Thanh - Nghệ - Tĩnh, đề nghị của đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương đặc phái vào Liên khu IV công tác, ngày 8-3-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về vấn đề thành lập Ban Cán sự Thanh - Nghệ - Tĩnh và Bình - Trị - Thiên.
1. Thành lập Ban chỉ huy Mặt trận các vùng tạm chiếm ở Trung Đông Dương, Chính ủy Mặt trận này là đồng chí Trần Quý Hai, Chỉ huy trưởng là đồng chí Hà Văn Lâu, Chỉ huy phó sẽ do đồng chí Thanh bàn với Liên khu ủy IV đề nghị. Chính ủy mặt trận đồng thời là đại diện cho Bộ Tư lệnh Liên khu IV để chỉ huy bộ đội địa phương ở Bình - Trị - Thiên.
2. Thành tập hai ban cán sự liên tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh và Bình - Trị - Thiên, trực tiếp dưới sự lãnh đạo của Trung ương. Sau khi thành lập xong hai ban cán sự liên tỉnh, Liên khu ủy IV sẽ giải tán.
Trung ương chỉ rõ: Hiện tại, Ban Cán sự liên tỉnh Bình - Trị - Thiên có trách nhiệm lãnh đạo cả khu Trung Lào... đồng thời liên lạc với Liên khu ủy V để phối hợp với Đảng bộ Quảng Nam - Đà Nẵng, và tương lai sẽ có trách nhiệm lãnh đạo cả vùng tạm chiếm Quảng Nam - Đà Nẵng và Hạ Lào.
Trung ương chỉ định đồng chí Hoàng Anh làm Bí thư Ban Cán sự liên tỉnh Bình - Trị - Thiên.
Ban Cán sự Thanh - Nghệ - Tĩnh có trách nhiệm lãnh đạo phong trào các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, giúp đỡ Bình - Trị - Thiên và Liên khu ủy III trong mọi việc cần thiết, tiếp tục gây và phát triển cơ sở ở Trung Lào. Các ủy viên do đồng chí Thanh bàn với Liên khu ủy IV rồi đề nghị với Trung ương sau đó.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.247-249.
NGÀY 14-3
Thường vụ Trung ương Đảng Thông tri Về việc cấp dưới phê bình chủ trương của cấp trên
Trước đây trong các hội nghị của các cấp bộ, khi muốn phê bình cấp trên về chủ trương công tác hoặc lối làm việc của cấp trên, thường bắt buộc phải có mặt đại diện của cấp trên. Như vậy, cấp dưới ít có dịp để phê bình cấp trên, vì cấp trên ít có điều kiện về dự các hội nghị ở cấp dưới. Do vậy, ngày 14-3-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc cấp dưới phê bình chủ trương của cấp trên.
Thông tri nêu rõ: "Từ nay các cấp bộ dưới có thể phê bình chủ trương và lối làm việc của cấp trên trong các cuộc hội nghị của cấp bộ mình không nhất thiết phải có mặt đại diện cấp trên dự. Bản phê bình sẽ gửi về cấp trên và nếu nhận thấy có những điểm không đúng cấp trên sẽ cải chính hoặc giải thích cấp dưới hiểu rõ thêm". Thông tri cũng lưu ý: "những phê bình này chỉ làm trong các cuộc hội nghị không nên bất kỳ ở chỗ nào cũng phê bình" .
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.250.
NGÀY 19-3
Ban Cán sự nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn lãnh đạo đồng bào biểu tình chống Mỹ
Ngày 17-3-1950, đế quốc Mỹ cho hai tầu chiến Anđécxơn (Anderson) và Xtốccơn (Stocken) cập bến cảng Sài Gòn. Một tầu sân bay với 70 máy bay chiến đấu của Mỹ cũng tiến vào thả neo ở ngoài khơi Đà Nẵng. Chúng chuẩn bị một cuộc thao diễn lớn của không quân và hải quân, nhằm phô trương lực lượng, trấn áp tinh thần đấu tranh của đồng bào ta, nâng đỡ tinh thần thực dân Pháp và tay sai. Ngày 19-3-1950, dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự nội thành, hơn 300.000 đồng bào Sài Gòn đã xuống đường, tiến hành một cuộc biểu tình khổng lồ, đấu tranh trực diện với đế quốc Mỹ. Đồng bào giương cao cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu "Đả đảo can thiệp Mỹ, đả đảo đế quốc Pháp và bù nhìn Bảo Đại", "Đế quốc Mỹ cút đi", "Hồ Chí Minh muôn năm". Đoàn biểu tình diễu hành qua các phố chính và chia ra nhiều ngả, tiến về phía cảng. Địch dùng hơi cay đàn áp, đồng bào siết chặt đội ngũ và hành động kiên quyết hơn, đốt cháy xe quân sự của Pháp, một tên sĩ quan Pháp hung hăng giật cờ đỏ sao vàng đã bị tiêu diệt, cờ Pháp, cờ Mỹ, cờ Bảo Đại bị xé nát. Cùng ngày hôm đó, quân ta nã 20 phát súng cối vào tầu chiến Mỹ đang đậu trên sông. Trước sức mạnh của quần chúng, hai tầu chiến Mỹ lặng lẽ rút neo cút khỏi Sài Gòn, kế hoạch thao diễn bị phá sản.
Thắng lợi của cuộc biểu tình ngày 19-3-1950 chẳng những có ý nghĩa cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, mà còn giáng một đòn phủ đầu mạnh mẽ vào ý đồ can thiệp vào Đông Dương của đế quốc Mỹ. Đây là cuộc biểu tình chống Mỹ đầu tiên của nhân dân ta. Từ đó, ngày 19-3 hàng năm được gọi là Ngày toàn quốc chống Mỹ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), Nxb.Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
NGÀY 21-3
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc đề phòng và bài trừ nạn đói
Đầu năm 1950, ở nhiều nơi, giá gạo tăng vọt và bắt đầu xuất hiện nạn đói. Trong tình hình đó, ngày 21-3-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc đề phòng và bài trừ nạn đói.
Chỉ thị nêu rõ những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là giặc Pháp phá mùa màng; chặn đường giao thông tiếp tế, ruộng đất bị bỏ hoang, trâu bò bị giết hại; thời tiết không thuận lợi cho mùa màng; bọn đầu cơ tích trữ lúa gạo; giấy bạc phát hành nhiều hơn số sản phẩm bán trên thị trường. Nạn đói có thể trở nên trầm trọng, nếu không kịp thời chống lại, sẽ ảnh hưởng lớn đến tác chiến của bộ đội và sinh hoạt của nhân dân, làm cho đà chuẩn bị và chuyển sang tổng phản công chậm lại.
Chỉ thị chỉ ra nhiệm vụ trọng yếu vào bậc nhất của ta lúc này là tích cực chống nạn đói, tránh được nạn đói thì mới có điều kiện giải quyết mọi việc khác.
Để thực hiện mục tiêu trên, ngoài việc quân sự phải đánh mạnh để giải phóng các tuyến đường giao thông trọng yếu bị giặc Pháp chặt đứt và trừng trị bọn đầu cơ, Trung ương Đảng còn đề ra ba phương sách phải thực hiện ngay:
1. Đẩy mạnh việc tăng gia sản xuất.
2. Mở một cuộc vận động tiết kiệm.
3. Tổ chức cứu tế dân đói.
Phần cuối, chỉ thị đề ra các phương hướng cho các địa phương thực hiện tốt ba phương sách trên. Muốn vậy công tác giáo dục nhân dân, nhân viên, cán bộ về mặt tư tưởng là điều cốt yếu, nhằm làm cho mọi người có một sự nhận thức đúng, một ý thức rõ rệt về tăng gia, tiết kiệm và cứu tế để bài trừ nạn đói khi mới chớm nở.
Các Ban Tuyên truyền của Đảng, Mặt trận, bộ đội, các cơ quan thông tin của chính quyền, báo chí phải có kế hoạch tuyên truyền giải thích sâu rộng, phổ biến thành tích và kinh nghiệm tăng gia sản xuất, tiết kiệm và cứu tế sâu rộng trong quần chúng nhân dân, gây thành một phong trào thi đua ái quốc sôi nổi, đi đôi với việc chuyển ngũ cốc ở vùng địch kiểm soát ra vùng tự do.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.11, tr.256-259.
NGÀY 21-3
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề hiến ruộng
Thực hiện chính sách ruộng đất trong kháng chiến, Đảng chủ trương vận động các điền chủ hiến một phần ruộng của mình cho chính quyền để dùng vào việc kháng chiến và các việc công ích khác. Nhằm đẩy mạnh cuộc vận động, ngày 21-3-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị gửi các cấp Đảng bộ Về vấn đề hiến ruộng.
Chỉ thị biểu dương những kết quả đạt được trong công tác vận động địa chủ hiến ruộng, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót của công tác vận động hiến ruộng như: chưa giải thích đầy đủ ý nghĩa của việc hiến ruộng, làm còn lẻ tẻ, thiếu liên tục, không nhằm đúng đối tượng chính, vận động cả trung và bần nông hiến ruộng; việc hiến ruộng ở nhiều nơi không hợp lý, làm thiệt hại đến quyền lợi của tá điền, cũng như việc sản xuất ở nông thôn.
Chỉ thị nhấn mạnh: các cấp Đảng bộ chú trọng đẩy mạnh cuộc vận động vào các đối tượng là địa chủ và phú nông lớp trên, nhưng tránh ép buộc; vận động địa chủ hiến ruộng canh tác, chứ không phải là ruộng đất hoang; muốn tiến hành cuộc vận động đạt kết quả tốt, phải dựa vào Liên Việt và Hội Nông dân Cứu quốc.
Trung ương nhắc nhở các cấp Đảng bộ sử dụng ruộng hiến một cách hợp lý.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.260-262.
NGÀY 22-3
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc tổ chức Hội Việt - Hoa hữu nghị
Sau những thắng lợi về mặt ngoại giao, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức Hội Việt - Hoa hữu nghị để tăng cường tình thân thiện giữa hai dân tộc Trung Hoa và Việt Nam; làm cho nhân dân Việt Nam hiểu biết Trung Hoa về các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội; làm cho Trung Hoa hiểu rõ tình hình Việt Nam; tăng cường sự đoàn kết mật thiết giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa, kể cả đấu tranh cho dân chủ và hòa bình lâu dài của thế giới. Ngày 22-3-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tư Về việc tổ chức Hội Việt - Hoa hữu nghị. Thông tư nêu rõ: "Hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Hội đã được thành lập do đồng chí Hồ Tùng Mậu làm Hội trưởng. Điều lệ và Chương trình hoạt động của Hội đã được Trung ương thông qua. Ban Hoa kiều vận Trung ương đã sao gửi các ban Hoa kiều vận các cấp".
Thống tri yêu cầu các cấp Đảng bộ theo dõi và tiến hành ngay việc tổ chức các chi hội và đặt liên lạc với Ban Chấp hành Trung ương Hội để bảo đảm mọi sự hoạt động của Hội được thống nhất.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.263.
THÁNG 3
Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện tới các cấp uỷ chỉ đạo đấu tranh phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương
Ở Sài Gòn, ngày 19-3, cuộc biểu tình lớn của đồng bào, sinh viên và học sinh Việt Nam theo khẩu hiệu "Phản đối sự giúp đỡ của Mỹ cho Bảo Đại", "Đánh đổ Bảo Đại", "Hồ Chí Minh muôn năm" đã diễn ra. Thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc biểu tình, làm 40 người bị thương và một số người bị bắn chết. Trước tình hình đó, ngay trong tháng 3-1950, Thường vụ Trung ương Đảng điện gửi các Liên khu ủy và Xứ ủy Nam Bộ, chỉ đạo đấu tranh phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương.
Bức điện của Trung ương chỉ rõ: theo tinh thần của Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, để thống nhất phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong vùng tạm chiếm và vùng tự do, đồng thời phát triển phong trào đấu tranh chống đế quốc Mỹ can thiệp vào Đông Dương: "các địa phương cần tổ chức nhiều cuộc mít tinh hưởng ứng cuộc biểu tình ở Sài Gòn, tố cáo mưu mô của đế quốc Mỹ, phản đối sự đàn áp dã man của Pháp và bọn bù nhìn đối với sinh viên, học sinh biểu tình, gửi kiến nghị về cho Chính phủ ta và đăng báo địa phương. Nhân dịp này, cần nhắc lại vụ thảm sát ngày 9 tháng 1 năm 1950 ở Sài Gòn và vạch rõ vai trò chó săn của bọn bù nhìn". Những nơi có điều kiện, dùng hình thức vũ trang như diệt đồn, phá tề, v.v.. để hưởng ứng. Khẩu hiệu đấu tranh là:
“Tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược!”, “Phản đối đế quốc Mỹ can thiệp vào Đông Dương!", "Đả đảo bọn bù nhìn", "Tinh thần yêu nước của đồng bào Sài Gòn muôn năm!”.
Những nơi mà phái đoàn hay chiến hạm của Mỹ đến, cần tổ chức những cuộc đấu tranh như mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi khóa, truyền đơn, áp phích... để phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.11, tr.254-255.
NGÀY 4-4
Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định thành lập Đại đoàn chủ lực thứ hai
Căn cứ vào sự phát triển của cuộc kháng chiến và nhu cầu hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, công tác xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân được đẩy mạnh. Đối với bộ đội chủ lực, nhiệm vụ trong năm 1950 đặt ra là phải xây dựng bộ đội "hợp với khả năng và tình thế mới" để đủ sức thực hiện được "ưu thế về binh lực trên chiến trường chính", để có thể giành thắng lợi khi thời cơ đến. Bởi vậy, Bộ Tổng tư lệnh chủ trương gấp rút xây dựng thêm đại đoàn chủ lực thứ hai.
Ngày 10-3-1950, đại đoàn chủ lực thứ hai được thành lập tại Thọ Xuân, Thanh Hóa gồm có Trung đoàn 66, chủ lực Liên khu III và Trung đoàn 57, Trung đoàn 9, chủ lực Liên khu IV.
Trước tình hình trên, ngày 4-4-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định chuẩn y việc thành lập đại đoàn chủ lực thứ hai là Đại đoàn 304 - Đại đoàn Vinh Quang và cử đồng chí Trần Văn Quang phụ trách Chính ủy, đồng chí Hoàng Minh Thảo phụ trách Đại đoàn trưởng của Đại đoàn chủ lực thứ hai.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.306-308.
TỪ NGÀY 25-4 ĐẾN NGÀY 8-5
Hội nghị lần thứ hai Xứ ủy Nam Bộ
Từ ngày 25-4 đến ngày 8-5-1950, Hội nghị lần thứ hai Xứ ủy Nam Bộ họp để kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết Hội nghị Quân sự Nam Bộ tháng 9-1949.
Phân tích sâu sắc tình hình giữa ta và địch trên chiến trường Nam Bộ, Hội nghị nêu rõ trong năm 1949, địch dùng mọi biện pháp để chống du kích chiến tranh, tiêu diệt chủ lực, chặn đường tiếp tế của ta. Nhưng đầu năm 1950 có nhiều chuyển biến lớn, hệ thống phòng ngự của địch đã bị lung lay, nhiều nơi bị động. Chủ lực của ta không bị tiêu diệt, mà còn phát triển, tập trung được 8 trung đoàn, tinh thần chiến đấu rất cao.
Hội nghị kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết Hội nghị Quân sự tháng 9-1949 về các mặt.
Về quân sự, Hội nghị đã nêu lên những cố gắng to lớn của quân và dân Nam Bộ đã đạt thành tích về nhiều mặt và chỉ rõ những ưu điểm, nhược điểm cơ bản của ta, đề ra phương hướng khắc phục thiếu sót, để mau chóng hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công một cách tích cực.
Về ưu điểm: ta mở rộng được chiến trường Cao Miên, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Chính phủ bù nhìn không có uy tín, gặp nhiều khó khăn về kinh tế và tài chính, phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ cũng như tuyển mộ ngụy binh. Qua một số trận thắng lớn, quân sự có bước phát triển về chất. Ta đã chuyển từ đánh nhỏ lên đánh lớn, tiến lên mở chiến dịch. Trong chiến thuật, ta trưởng thành trong vận động chiến... Nhưng ta còn có nhiều nhược điểm như chỉ đạo chiến lược thì đúng nhưng chiến thuật và kỹ thuật còn kém, chưa theo kịp sự phát triển của chiến trường, lãnh đạo thiếu năng lực về tổ chức. Việc tổ chức bố trí ba thứ quân trong tư tưởng và sự thi hành còn sai lệch, các binh chủng còn kém, thiếu sự tích cực xây dựng bộ đội tinh nhuệ.
Về chính trị: nói chung tư tưởng có nhiều tiến bộ, nhưng còn nặng thủ công nghiệp, nặng hình thức. Tư tưởng chiến lược thực hiện đúng, nhưng tổ chức không theo kịp sự phát triển của tình hình.
Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị tập trung kiểm thảo một số vấn đề chính như đấu tranh về tư tưởng, công tác chỉnh phong, thống nhất tổ chức lãnh đạo trong quân đội đã làm cho tất cả cán bộ, đảng viên trong các Đảng bộ đến khu ủy đề cao ý thức kỷ luật, hiểu về Đảng, sinh hoạt Đảng dân chủ và đều đặn hơn, xóa bỏ được tư tưởng phân biệt Đảng trong quân đội và Đảng bên ngoài.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 1-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về cuộc vận động “Đào tạo cán bộ, học tập lý luận”
Nhận thấy nhiệm vụ chuyển mạnh sang tổng phản công hết sức nặng nề, đòi hỏi rất nhiều cán bộ, ngày 1-5-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về cuộc vận động "Đào tạo cán bộ, học tập lý luận". Cuộc vận động có mục đích nâng cao trình độ lý luận, chính trị cho cán bộ đảng viên; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong toàn Đảng về tư tưởng và phong cách công tác; đào tạo cán bộ cho các ngành hoạt động của Đảng.
Về nội dung cuộc vận động “Đào tạo cán bộ, học tập lý luận", Nghị quyết nêu rõ: "Muốn đào tạo cán bộ phải lấy việc học tập lý luận làm phương pháp căn bản, ngược lại phải nhận định rằng học tập lý luận cốt để đạt tới mục đích đào tạo cán bộ, đồng thời phải phối hợp việc học tập lý luận với việc đấu tranh tư tưởng".
Nghị quyết chỉ rõ cần chú trọng một số điểm trong việc đào tạo cán bộ:
- Đối với cán bộ mới và cũ: cần nâng đỡ cán bộ cũ, kiên quyết đưa những người có trình độ văn hóa thấp đi dự các lớp bổ túc văn hóa, sau đó cho học thêm lý luận; đối với cán bộ mới cần dìu dắt, đưa họ học lý luận cách mạng và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng.
- Đối với cán bộ công nông, cần được học văn hóa trước khi học lý luận.
- Đối với cán bộ chuyên môn trong các ngành chính quyền và quân sự, cần có những chương trình huấn luyện chính trị gồm các môn sau: phương pháp luận biện chứng, lịch sử cách mạng Việt Nam, cách mạng dân chủ nhân dân, quan điểm quần chúng, chính quyền nhân dân… Chú ý thành phần phụ nữ trong các lớp huấn luyện, đối với cán bộ mới phải mở những lớp dài hạn.
Về công tác tổ chức cuộc vận động, Trung ương nhấn mạnh: các cấp ủy sắp xếp ngay cán bộ theo chương trình học tập đã quy định, cương quyết rút cán bộ công nông và cán bộ cũ đưa đi dự các lớp bổ túc văn hóa. Trung ương đã chọn ngày 19-5-1950, ngày chúc thọ Chủ tịch Hồ Chí Minh 60 tuổi làm ngày phát động cho toàn quốc; Trung ương và các cấp lãnh đạo có trách nhiệm lãnh đạo và giúp cho Ban huấn luyện Trung ương điều khiển, hướng dẫn vận động và theo dõi liên tục.
Ngoài ra cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan huấn luyện, Đảng vụ, Tuyên truyền và các ban ngành khác, chú ý đối với vùng tạm chiếm tùy theo điều kiện và khả năng của từng địa phương mà thi hành.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.313-320.
NGÀY 3-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc sửa đường và vận tải
Trong những năm đầu chiến tranh, ta phá đường chủ yếu để ngăn chặn bước tiến của địch, song sang năm 1950, trước sự phát triển và đòi hỏi của tình hình mới, nhất là việc chuẩn bị cho chiến dịch Biên giới, việc mở đường, đặc biệt là các tuyến đường lên biên giới lại trở thành một công tác quan trọng và cấp thiết. Ngày 3-5-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho Liên khu ủy Việt Bắc Về việc sửa đường và vận tải.
Bản Chỉ thị nêu rõ: hiện thời, việc giao thông liên lạc giữa nước ta với nước ngoài, đặc biệt với Trung Quốc, là rất cần thiết, nên phải sửa gấp những con đường lớn trong Liên khu Việt Bắc, từ biên giới vào. Trong khi thi hành, các cấp chú ý giải thích làm cho nhân dân hiểu nhiệm vụ để họ phấn khởi làm việc; phải có kế hoạch cụ thể, tỷ mỷ về huy động, sử dụng nhân công. Chi bộ và Uỷ ban Kháng chiến hành chính xã phải bảo đảm việc giúp đỡ gia đình những người đi chữa đường.
Được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Trung ương, Liên khu Việt Bắc bắt tay sửa chữa một số tuyến đường lớn, trọng tâm là khôi phục đường số 3. Việc mở đường được thực hiện gấp rút trong điều kiện có nhiều khó khăn như: mưa, lũ; đường rừng nhiều núi cao, suối sâu; phương tiện thiếu thốn. Trên các tuyến đường, hàng vạn dân công, cùng với các đội xung phong công tác, chiến sĩ công binh, cán bộ, nhân viên giao thông công chính, ngày đêm làm việc quên mình với tinh thần "coi sửa đường như trực tiếp đánh giặc".
Riêng trên tuyến đường số 3, 5.000 đồng bào các dân tộc cùng lực lượng giao thông công chính, bộ đội, công binh sửa đường..., đào đắp hàng vạn khối đá, sửa chữa và làm mới nhiều cầu lớn nhỏ.
Chỉ sau một thời gian ngắn, ta hoàn thành thắng lợi việc mở hàng trăm kilômét đường lớn trên nhiều ngả, từ biên giới vào như: đường số 2 Tuyên Quang - Hà Giang, đường số 3 Thái Nguyên - Bắc Kạn - Cao Bằng và nhiều tuyến đường liên tỉnh, liên huyện được sửa chữa và mở rộng như: đường Thái Nguyên - Tuyên Quang qua Đèo Khế, đường Bạch Thông - Chợ Đồn... đáp ứng kịp thời yêu cầu nhận hàng viện trợ quốc tế, nối liền các vùng trong căn cứ địa, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ yêu cầu về nhiều mặt của cuộc kháng chiến, nhất là nhu cầu về quân sự.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.324-325.
- Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, t.I, tr.216-217.
NGÀY 5-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về Đảng lãnh đạo công an
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công an nhân dân, ngày 5-5-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về sự lãnh đạo công an của Đảng.
Nhận xét về sự lãnh đạo công an, Chỉ thị nêu rõ: trong bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân do Đảng ta lãnh đạo, công an là công cụ đấu tranh chống các lực lượng phản động trong nước và nước ngoài, bảo vệ quyền lợi cho nhân dân… Nhưng từ ngày thành lập chính quyền tới năm 1950, khuyết điểm lớn nhất là Đảng chưa đặt đúng vị trí quan trọng của công tác này, nên việc lãnh đạo công an còn có nhiều khuyết điểm. Một số lớn các cấp ủy không thực tế lãnh đạo công tác của ngành công an, thiếu sự giúp đỡ công an và phối hợp các ngành công tác Đảng và các đoàn thể nhân dân với công an, thiếu sự giáo dục, kiểm soát cán bộ công an, nên để xảy ra nhiều vụ đáng tiếc ảnh hưởng không tốt đến uy tín của chính quyền nhân dân.
Kiểm điểm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với các bộ máy chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân, đặc biệt là công an, cần phải sửa chữa những khuyết điểm trên. Do vậy, Thường vụ Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ cho các cấp Đảng bộ phải thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo công an như sau:
1. Nhận thức cho đúng vai trò quan trọng của công an trong bộ máy nhà nước dân chủ nhân dân, phổ biến sâu rộng quan niệm công an nhân dân trong Đảng và trong nhân dân.
2. Các cấp ủy cần chấn chỉnh cách lãnh đạo công an, phân công một ủy viên phụ trách và đưa các đồng chí có năng lực, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng vào lãnh đạo công an, tổ chức việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân viên công an, phối hợp chặt chẽ các ngành công tác Đảng với công tác công an.
3. Các đoàn thể quần chúng phải giúp đỡ công an, củng cố các chi bộ công an, làm cho chi bộ xã nắm vững trật tự xã.
Chỉ thị nhấn mạnh: năm 1950, "cuộc kháng chiến của ta sẽ chuyển sang tổng phản công, nhiệm vụ công an nặng nề và khó khăn hơn trước... Các cấp bộ Đảng bộ tổ chức những cuộc kiểm thảo về việc lãnh đạo công an để thi hành Chỉ thị này".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.326-327.
NGÀY 6-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất Về công tác huấn luyện và học tập
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 6-5-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất Về công tác huấn luyện và học tập được tổ chức nhằm kiểm điểm công tác huấn luyện và học tập, đề ra nội dung, phương hướng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Hội nghị vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tới thăm và huấn thị về công tác huấn luyện và học tập. Trước tiên, Người chỉ rõ: "Việc huấn luyện, học tập không phải là một việc đơn giản, muốn làm được thì phải hiểu cho rõ". Người tuyên dương những cố gắng của một số địa phương, đã tích cực mở nhiều lớp huấn luyện, bồi dưỡng cho cán bộ. Nhưng Người cũng phê phán “việc huấn luyện còn hữu danh vô thực”, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực chu đáo".
Về đối tượng huấn luyện, Người chỉ rõ công tác huấn luyện trước hết là phải huấn luyện cho cán bộ, vì "cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể… Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn".
Về mục đích của việc huấn luyện và học tập, Người nhấn mạnh: học để sửa chữa tư tưởng, để tu dưỡng đạo đức cách mạng, để tin tưởng vào Đảng, vào nhân dân, vào tương lai của dân tộc, của cách mạng, học để hành, học phải đi đôi với hành, "Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy".
Sau khi phân tích rõ nội dung và phương pháp huấn luyện, Người nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên, ngoài việc học ở trường, ở sách vở, học lẫn nhau, còn phải học hỏi ở quần chúng nhân dân. Cán bộ nắm được lý luận rồi phải đi sát dân, đoàn kết thương yêu, giúp đỡ nhân dân và phải tin dân, tranh thủ lòng tin cậy của nhân dân, trong công tác học tập của quần chúng, cán bộ phải biết hướng dẫn quần chúng vận dụng lý luận vào thực hành.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.45 - 53.
NGÀY 12-5
Thường vụ Trung ương Thông tri Về việc chọn địa điểm cơ quan, bám sát địa bàn chỉ đạo
Do thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm vùng trung du và vùng đồng bằng Liên khu III, nhiều cấp ủy bỏ địa phương, đóng cơ quan ở nơi quá xa địa phương mình chỉ đạo như: Tỉnh ủy Bắc Ninh đóng ở Bắc Giang, trước đây sáu tỉnh ủy thuộc Liên khu III đóng ở Thái Bình, nhiều huyện của Vĩnh Phúc, Bắc Ninh đóng ở Thái Nguyên, thậm chí một số chi uỷ của Nam phần Vĩnh Phúc chạy đóng xa địa phương tới 30 kilômét.
Trước tình hình đó, ngày 12-5-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Thông tri gửi Liên khu ủy Việt Bắc và Liên khu ủy III Về việc chọn địa điểm cơ quan, bám sát địa bàn chỉ đạo.
Thông tri chỉ rõ: "Việc đóng cơ quan chỉ đạo xa địa phương phụ trách… khiến việc lãnh đạo của cấp ủy khó khăn, để gây cho cán bộ tư tưởng cầu an, không tích cực gây cơ sở để trở về địa phương”.
Ban Thường vụ Trung ương chỉ thị cho các cấp ủy Đảng phải thực hiện: Một là khi địch mới đánh chiếm địa phương, cơ sở lung lay, cơ quan chỉ đạo không thể đóng ở địa phương phụ trách được, thì có thể tạm thời đóng cơ quan ở một địa phương khác, nhưng phải là nơigần nhất, để tiếp tục lãnh đạo được nhanh chóng và sát cấp dưới. Hai là, phải có kế hoạch phân công các chấp ủy viên bám sát địa bàn cấp bộ Đảng ở địa phương để hoạt động, tích cực củng cố gây cơ sở, ấn định một thời gian ngắn nhất định để trở về địa phương, bám sát địa bàn chỉ đạo.
Đó là những vấn đề quan hệ trong việc nắm vững quần chúng, cơ sở Đảng ở địa phương vùng địch chiếm đóng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.328-329.
NGÀY 14-5
Hội nghị Cán bộ, bộ đội địa phương và dân quân toàn quốc lần thứ tư
Song song với việc tăng cường sức mạnh của bộ đội chủ lực, việc phát triển và nâng cao chất lượng của bộ đội địa phương và dân quân du kích được Đảng và Nhà nước rất coi trọng. Ngày 14-5-1950, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh đã triệu tập Hội nghị Cán bộ, bộ đội địa phương và dân quân toàn quốc lần thứ tư, nhằm khẩn trương xúc tiến xây dựng bộ đội địa phương và mở rộng dân quân. Dự Hội nghị có đông đủ đại biểu cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Hội nghị xác định: chiến tranh du kích trong mấy năm qua đã có thành tích rất lớn, đã giữ vững được cơ sở nhân dân và phát động đấu tranh võ trang rộng rãi, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta, khôi phục dần những vùng đất đai rộng lớn. Từ trên cơ sở phong trào du kích chiến tranh được phát triển và yêu cầu của phương châm tác chiến, nên ba thứ quân (chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) đã hình thành.
Tại Liên khu I và Liên khu IV, các Bộ tư lệnh địa phương được thành lập với nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang toàn liên khu, Liên khu I đã xây dựng được một tiểu đoàn bộ đội địa phương. Liên khu IV phát triển mạnh hơn, có tỉnh xây dựng được hai tiểu đoàn. Tại Liên khu III, ta đã xây dựng được 1 tiểu đoàn ở cấp tỉnh và chú trọng phát triển bộ đội địa phương huyện. Từ cuối năm 1950, từ Thanh Hóa trở ra, ta có trên 45.000 bộ đội địa phương, tăng 83%, so với năm 1949. Tại Nam Bộ, việc xây dựng bộ đội địa phương gặp khó khăn hơn. Tuy nhiên, nhiều nơi việc xây dựng bộ đội địa phương đã được tiến hành tích cực.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.452-453.
NGÀY 25-5
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về nhiệm vụ văn hoá
Từ sau Hội nghị Cán bộ văn hóa của Đảng (2-1949) công tác văn hóa hoạt động còn tình trạng kém tích cực và ít hiệu quả. Để đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ văn hóa trong giai đoạn mới, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các Liên khu ủy, các Ban huấn luyện, tuyêntruyền Trung ương phải kịp thời sửa chữa khuyết điểm, đẩy mạnh công tác văn hóa trong giai đoạn mới.
Kiểm điểm sâu sắc tình hình hoạt động văn hóa hơn một năm qua, Chỉ thị nêu rõ: so với công tác chính trị, quân sự, thì hoạt động văn hóa còn ít thành tích và chưa đi sát đường lối, chính sách của Đảng, văn hóa chưa thiết thực phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng.
Nguyên nhân của những tồn tại trên là công tác văn hóa mắc một số khuyết điểm như sau: cán bộ văn nghệ trong và ngoài Đảng xa đường lối, chính sách của Đảng và của Chính phủ, do đó, văn nghệ nhân dân kém phát triển và chưa thỏa mãn được những đòi hỏi, yêu cầu của cuộc kháng chiến; cán bộ văn hóa xa quần chúng; cán bộ văn hóa tự cao tự mãn, chưa chú ý nghe lời phê bình của nhân dân và của Đảng; các cấp ủy chưa chú trọng đến vấn đề văn hóa dành cho hoạt động văn hóa những cán bộ kém năng lực v.v..
Để đẩy mạnh phát triển văn hóa, kịp thời đáp ứng đòi hỏi của kháng chiến, Trung ương nhấn mạnh: các cấp ủy cần kịp thời sửa chữa những khuyết điểm trên, đồng thời đề ra phương hướng và nhiệm vụ cụ thể để các cấp ủy thực hiện.
- Cấp ủy phải cử các đồng chí có năng lực để theo dõi, thúc đẩy, lãnh đạo công tác văn hóa (văn hóa, khoa học, giáo dục).
- Cán bộ phụ trách văn hóa phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo cán bộ trong và ngoài Đảng theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Cấp ủy phải giúp đỡ cán bộ văn hóa những phương tiện hoạt động tài chính, tài liệu.
- Văn hóa phải thỏa mãn nhu cầu kháng chiến, phục vụ nhân dân…
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.334-338.
NGÀY 12-6
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Thông tri Về chuyển thóc vùng tạm chiếm ra vùng tự do
Đảm bảo việc cấp dưỡng cho bộ đội và ổn định đời sống nhân dân, ngày 12-6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông tri cho Liên khu ủy Việt Bắc, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc tổ chức chuyển thóc ở vùng tạm chiếm (huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc) ra vùng tự do.
Chỉ thị nêu rõ: Sở dĩ có tình trạng thiếu lương thực cung cấp cho bộ đội và dân là do địch chiếm đóng những nơi đó hồi cuối tháng 8-1949, các cấp Đảng bộ địa phương đã không chú ý vận động nhân dân tổ chức chuyên chở nhanh số thóc mua định giá đến những nơi xa địch và do nhân dân vùng tạm chiếm tản cư ra vùng tự do, gặp nạn khan hiếm gạo trầm trọng.
Trung ương đề ra phương sách giải quyết tình trạng trên là chuyển thóc ở vùng tạm chiếm ra vùng tự do. Các cấp Đảng bộ địa phương có trách nhiệm tổ chức chuyên chở cần phải liên lạc với các cơ quan quân sự ở các địa phương để phối hợp.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
THÁNG 6
Chủ tịch Hồ Chi Minh gửi thư cho đồng bào Liên khu IV về việc sửa chữa sai lầm trong công tác tổng động viên
Ngày 12-2-1950, Sắc lệnh Tổng động viên được ban hành. Trong quá trình thực hiện Sắc lệnh, cán bộ ở một số nơi, do không nắm vững đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, huy động sức người, sức của của dân mà không tuyên truyền giải thích, chỉ dùng mệnh lệnh ép buộc dân, động viên mà không chú ý bồi dưỡng sức dân ảnh hưởng "tận gốc sinh kế của dân", làm sứt mẻ lòng dân kháng chiến.
Để kịp thời uốn nắn những sai lệch trong công tác tổng động viên, tháng 6-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư5 cho đồng bào Liên khu IV. Trong thư, Người động viên đồng bào đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc kháng chiến; khen ngợi tinh thần tận tụy hy sinh, vì dân phục vụ của một số đông cán bộ trong công tác lãnh đạo nhân dân thi đua tham gia kháng chiến.
Để xảy ra những khuyết điểm trên của cán bộ trong công tác tổng động viên, Người tự chỉ trích: "Tôi thật thà tự phê bình những khuyết điểm của tôi là giáo dục và lựa chọn cán bộ chưa được chu đáo". Các cấp liên khu và tỉnh cũng phải chịu một phần trách nhiệm vì thiếu sót, không kiểm tra chặt chẽ cán bộ cấp dưới. Người căn dặn: Tất cả công dân đều có quyền dân chủ, đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy cũng như đều phải hiểu rõ và làm tròn nghĩa vụ kháng chiến cứu quốc.
Người đòi hỏi cán bộ đều: cố gắng sửa đổi lối làm việc cho đúng đường lối của Chính phủ, đoàn thể, hợp lòng dân.
Ngày 22-7-1950, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc kiểm thảo để sửa đổi nền nếp vận động nhân dân theo thư Hồ Chủ tịch.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.65-66.
THÁNG 6
Những đơn vị dẫn đầu trong công tác thanh toán nạn mù chữ
Thực hiện chính sách giáo dục của Đảng, Chính phủ và sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác thanh toán nạn mù chữ trong nhân dân đã phát triển rầm rộ và trở thành một thành phần cách mạng của quần chúng nhân dân trong cả nước. Phong trào thi đua đạt được kết quả tốt.
Tính đến tháng 6-1950, số người thoát nạn mù chữ trong cả nước là trên 12 triệu người. Một số người được tiếp tục qua các lớp dự bị để biết đọc, biết viết một cách chắc chắn hơn. Tổng số các đơn vị được công nhận thoát nạn mù chữ là 10 tỉnh (Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Phúc Yên, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên) và 84 huyện, 1.500 xã, 7.350 thôn, trong đó có những huyện vùng địch kiểm soát chặt chẽ như: Yên Mỹ (Hưng Yên), Mỹ Lộc (Nam Định), Kỳ Sơn (Hòa Bình), Lạc Thủy (Hà Nam). Những vùng ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế... cũng được thanh toán nạn mù chữ ở từng thôn.
Những thành tích nói trên góp phần mở mang kiến thức cho nhân dân và thúc đẩy nhanh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
- Tổng kết thành tích giáo dục từ 1946-1953 của Bộ Giáo dục, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 3-7
Thường vụ Trung ương Đảng Thông tri Về việc hợp nhất Đoàn Phụ nữ Cứu quốc vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng (1-1950) về việc "đơn giản tổ chức và thống nhất lực lượng phụ nữ", ngày 3-7-1950, Trung ương Đảng ra Thông tư Về việc hợp nhất Đoàn Phụ nữ Cứu quốc vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Trung ương Đảng nêu rõ: Cả hai tổ chức có cùng chung một mục đích là làm cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời giải phóng phụ nữ. Hội Liên hiệp Phụ nữ có tính chất "vừa là một hội", vừa là “một mặt trận", trong đó lực lượng nòng cốt của Hội là khối nữ công nhân và nông dân.
Bản Thông tri nhấn mạnh: Nhiệm vụ chính của Hội là giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, tư tưởng cho phụ nữ, bảo vệ quyền lợi phụ nữ nhi đồng, thực hiện nam nữ bình quyền và hoàn toàn giải phóng phụ nữ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.375-378.
NGÀY 5-7
Đồng chí Trường Chinh báo cáo về chính sách của Đảng ở nông thôn
Tại Hội nghị Ban Kinh tế Trung ương Đảng mở rộng ngày 5-7-1950, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng đã báo cáo về chính sách của Đảng ở nông thôn. Nêu rõ vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta và sự cần thiết phải định ra chính sách của Đảng ở nông thôn, đồng chí Trường Chinh nhấn mạnh: muốn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, công nhân phải liên minh chặt chẽ với nông dân, phải đem lại quyền lợi cho họ, phải giải quyết vấn đề ruộng đất. Để thực hiện chính sách trên, đồng chí Trường Chinh đề ra 8 điểm cần phải thực hiện ngay, trong đó nêu rõ Đảng và giai cấp công nhân phải nắm vững quyền lãnh đạo; củng cố và phát triển tổ chức nông dân; giáo dục để nông dân hiểu rõ quyền lợi để đoàn kết đấu tranh...
Đồng chí chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của một số cấp ủy địa phương và các đồng chí trong Ban Kinh tế Trung ương khi thi hành chính sách của Đảng như việc giảm tô, giảm lực và tạm cấp ruộng đất làm chậm và không chu đáo; việc hiến điền và điều tra nông thôn còn bê trễ; phong trào hợp tác hóa còn kém; việc tổng động viên toàn lực của nhân dân không nhằm đúng trọng tâm…
Phân tích sâu sắc những nguyên nhân dẫn đến khuyết điểm trên, đồng chí Trường Chinh nghiêm khắc phê phán tư tưởng “tả” khuynh, nhưng cũng có chỗ hữu khuynh, đã làm hại không ít đến việc thi hành chính sách của Đảng. Từ đó, đồng chí đề ra một số biện pháp cụ thể để khắc phục những khuyết điểm trên.
Đồng chí nhấn mạnh: "Dựa vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, hợp tác với phú nông, hạn chế sự bóc lột của địa chỉ để đánh bại địch, phát triển nông nghiệp, phát triển hợp tác xã và đẩy cuộc cách mạng dân chủ nhân dân của ta tiến tới, đó là tóm tắt chính sách căn bản của Đảng, của giai cấp công nhân ở nông thôn Việt Nam lúc này".
Báo cáo kết luận: Nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên là phải thấm nhuần và áp dụng cho đúng chính sách của Đảng ở nông thôn, tích cực sửa chữa khuyết điểm, kiên quyết lãnh đạo đông đảo nhân dân ở nông thôn tích cực tham gia cuộc kháng chiến và kiến quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.591-626.
NGÀY 11-7
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam
Triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (l-1950), Thường vụ Trung ương Đảng ra Nghị quyết chấn chỉnh tổ chức Bộ Tổng tư lệnh và kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự Trung ương. Ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 121-SL tổ chức Bộ Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam gồm những cơ quan sau đây:
1. Bộ Tổng tham mưu;
2. Tồng cục Chính trị;
3. Tổng cục Cung cấp.
Sắc lệnh quy định: Bộ Tổng tham mưu có nhiệm vụ giúp đỡ Tổng tư lệnh tổ chức quân đội, dân quân và chỉ đạo tác chiến; Tổng cục Chính trị có nhiệm vụ giúp đỡ Tổng tư lệnh chỉ đạo quân đội về phương diện chính trị; Tổng cục Cung cấp có nhiệm vụ quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng.
Để tập trung hơn nữa sự chỉ đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, Ban Thường vụ Trung ương cử đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, cơ quan Bộ Tổng tư lệnh được kiện toàn, nhiệm vụ, chức trách được quy định rõ hơn. Ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 122-SL bổ nhiệm các chức vụ này.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.11, tr.380-381.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.601-602.
NGÀY 15-7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và ngày Quốc khánh
Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám (19-8) và Quốc khánh (2-9) năm 1950 diễn ra giữa lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang ra sức thi đua nhằm đẩy mạnh việc tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực để hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Ngày 15-7, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc kỷ niệm các ngày này.
Chỉ thị nêu rõ: Nhân dịp kỷ niệm, các cấp bộ Đảng, chính quyền, quân sự, dân vận kiểm điểm công tác một cách thiết thực để sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, đẩy mạnh cuộc tổng động viên hơn nữa. Trong Đảng kiểm điểm thêm việc thực hiện Nghị quyết đào tạo cán bộ, học tập lý luận.
Trung ương nhắc các cấp bộ Đảng, đoàn thể khi nhắc tới sự nghiệp của Hồ Chủ tịch, của mặt trận Việt Minh - Liên Việt, chú ý nêu rõ vai trò của Đảng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc; tuyên truyền cổ vũ để nhân dân hiểu rõ sự đoàn kết chặt chẽ giữa ba dân tộc Việt -Miên - Lào trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Triều Tiên, tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh và hòa bình thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.382-383.
NGÀY 15-7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về tổ chức phụ nữ công nhân và nông dân
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, ngày 6-8-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị gửi các cấp ủy, Đảng đoàn công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ công nhân và nông dân.
Chỉ thị đề ra việc tổ chức thanh niên và phụ nữ công nhân, nông dân phải lấy những hình thức tồ chức có tính chất giai cấp (Công đoàn và Hội Nông dân Cứu quốc) làm hình thức tổ chức chủ yếu.
Phụ nữ sẽ sinh hoạt chủ yếu ở Hội Nông dân Cứu quốc và Công đoàn, cũng vì vậy mà các chỉ thị của Hội Liên hiệp Phụ nữ sẽ do Ban chấp hành Công đoàn và Hội Nông dân Cứu quốc đưa về bàn bạc. Hội Liên hiệp Phụ nữ sẽ chú trọng đến quyền lợi chung của tất cả phụ nữ hơn là đến quyền lợi riêng của từng giai cấp công nhân hoặc nông dân.
Chỉ thị đề ra nhiệm vụ lúc này là kiện toàn bộ máy vận động phụ nữ trong các Ban chấp hành Công đoàn và Nông dân Cứu quốc. Bộ máy này sẽ theo sát hoạt động của chị em nữ công nhân và nông dân.
Chỉ thị nhấn mạnh: mỗi khi Ban chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ họp sẽ có đại biểu phụ nữ tham gia. Nghị quyết của Hội nghị phải được thi hành trong Công đoàn và Nông dân Cứu quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.1, tr.384-385.
NGÀY 17-7
Ban Thường vụ Trung ương Chỉ thị Hoàn thành giảm tô, giảm tức và công tác nông thôn của Đảng
Giảm tô và giảm tức là hai nhiệm vụ quan trọng được Đảng nêu ra từ sau Cách mạng Tháng Tám nhưng nhiều nơi chưa làm xong giảm tô, mới bắt đầu làm giảm tức.
Thực hiện chủ trương hoàn thành nhiệm vụ giảm tô, thực hiện giảm tức của Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, ngày 17-7-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị: hoàn thành giảm tô thực hiện giảm tức.
Chỉ thị nêu rõ, do chưa hiểu rõ chính sách của Đảng ở nông thôn, nên nhiều cấp ủy, chi bộ xã vẫn chưa vận động cuộc đấu tranh giảm tô đúng mức. Hội Nông dân Cứu quốc còn yếu, một số dân cày nghèo chưa có ý thức đấu tranh, nên nhiều nơi chưa giảm tô xong. Năm 1950, ta phải hoàn thành cuộc vận động giảm tô.
Cùng với giảm tô phải thực hiện giảm tức. Việc cho vay nặng lãi còn là một nạn ở thôn quê. Điểm chính của giảm tức là giảm lãi những món nợ vay từ trước ngày ra Sắc lệnh, xóa bỏ nợ lưu cữu và hoãn nợ cho dân nghèo không đủ sức trả nợ. Điều quan trọng hơn là làm sao cho dân cày nghèo bớt phải đi vay, bằng cách đẩy mạnh tăng gia sản xuất và thi hành chính sách tiết kiệm.
Sau hơn một năm làm thí điểm, việc thực hiện công tác nông thôn của Đảng, ở một số tỉnh thuộc Liên khu Việt Bắc, Trung ương đã mở Hội nghị đầu tháng 2-1950, tổng kết rút kinh nghiệm, thông qua Nghị quyết công tác nông thôn của Đảng. Các Liên khu ủy, Tỉnh ủy có nhiệm vụ nghiên cứu bản nghị quyết tùy theo tình hình địa phương đề ra kế hoạch cho sát hợp.
Chỉ thị yêu cầu cần xúc tiến gấp để: thi hành kịp thời việc giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất, sử dụng công điền, công thổ hợp lý và đánh thuế lũy tiến về ruộng đất; bảo đảm việc thi hành Sắc lệnh Tổng động viên của Chính phủ được nhanh chóng và công bằng; chuẩn bị điều kiện cho cuộc cải cách ruộng đất lớn hơn.
Muốn hoàn thành công tác giảm tô, giảm lực và thực hiện công tác nông thôn của Đảng có kết quả, trước hết các cấp ủy Đảng chú trọng việc củng cố và phát triển Hội Nông dân Cứu quốc đoàn kết chặt chẽ, giác ngộ quyền lợi cho dân cày; cử một số đồng chí cấp ủy vào Đảng đoàn nông dân phụ trách công tác nông thôn; dành một số cán bộ có năng lực chuyên trách công tác nông thôn; phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các đoàn thể quần chúng, huấn luyện cho cán bộ, hội viên Hội Nông dân, lấy chi bộ và Nông hội làm trung kiên, tuyên truyền giải thích rộng rãi trong nhân dân về ý thức và nghĩa vụ thực hiện chính sách nông thôn của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.386-392.
NGÀY 20-7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về chuyển hướng công tác thanh vận
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng nhấn mạnh vai trò và nhiệm vụ của thanh niên là xung phong hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Ngày 20-7-1950, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về chuyển hướng công tác thanh vận, xây dựng Đoàn Thanh niên trung liên phát triển rộng rãi mặt trận thanh niên.
Nghị quyết kiểm điểm lại phong trào thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở nơi nào, ngành nào, thanh niên cũng tích cực công tác, song phong trào lại chưa nổi bật lên được vì "tổ chức đoàn kém, tổ chức thanh niên làm công tác chưa hợp lý, sự lãnh đạo của Đảng ta khuyết điểm nhiều”. Trong khi đó, tại vùng địch tạm chiếm, địch lại có chính sách thâm độc hòng khủng bố, chia rẽ, đồng thời mua chuộc, lôi kéo thanh niên.
Nghị quyết nhấn mạnh: "Tất cả các khuyết điểm về tổ chức, công tác về sự lãnh đạo của Đảng cần được kịp thời sửa chữa ngay".
Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ cụ thể của công tác thanh niên:
1. Động viên thanh niên xung phong trong công cuộc hoàn thành chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công.
2. Kiên quyết xây dựng tổ chức thanh niên trung kiên, phát triển rộng rãi mặt trận thanh niên.
3. Chú trọng vấn đề học tập văn hóa và nghiệp vụ cho thanh niên.
4. Phụ trách công tác giáo dục, bảo vệ thiếu niên, nhi đồng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.409-431.
NGÀY 22-7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc kiểm thảo để sửa đổi nền nếp vận động nhân dân theo Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trước những sai lầm trong công tác tổng động viên nhân dân về nhân tài, vật lực, tài lực phục vụ nhu cầu của kháng chiến ở Liên khu IV, tiếp theo Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22-7-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị gửi các Liên khu ủy Về việc kiểm thảo sửa đổi nền nếp vận động nhân dân theo Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đề ra phương hướng giáo dục cán bộ, nhân dân, nhất là giáo dục ý thức tư tưởng dân chủ nhân dân.
Kiểm điểm những khuyết điểm về công tác tổng động viên, Trung ương chỉ rõ: không riêng Khu IV, mà các khu khác cũng dùng mệnh lệnh, kém tuyên truyền giải thích, lấy thóc giống; trâu bò, vốn liếng của dân, dọa nạt dân… Khu IV phải nghiên cứu, áp dụng nội dung Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh để kiểm thảo. Các khu cũng phải căn cứ Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho Khu IV, kiểm thảo từ Liên khu ủy đến chi bộ; kiểm thảo trong Đảng, trong chính quyền, sửa đổi lại nền nếp vận động nhân dân, giáo dục cán bộ, nhân dân về ý thức, tư tưởng dân chủ, làm cho họ hiểu dân chủ nhân dân một cách đúng đắn, đồng thời phải có thái độ nghiêm khắc đối với những cán bộ làm ảnh hưởng xấu đến tình hình chính quyền và đoàn thể.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tòan tập, Nxb.Chính tri quốc gia, Hà Nội, 2001, t.II, tr.432-433.
NGÀY 24-7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ
Từ ngày cả nước bước vào cuộc kháng chiến đến năm 1950, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng. Sau thất bại ở Trung Quốc, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhằm biến Đông Dương thành căn cứ chống cộng ở Đông Nam Á, đồng thời chống phá phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển ở đây. Thực hiện mục tiêu trên, đế quốc Mỹ sử dụng con bài viện trợ kinh tế, quân sự hòng biến ngụy quyền tay sai thành lính đánh thuê cho Mỹ ở Đông Dương. Từ cuối năm 1949, Mỹ và cả Anh đã liên tiếp đưa quan chức sang Việt Nam để tìm hiểu tình hình, nghiên cứu “giúp Pháp chống nguy cơ cộng sản".
Trước tình hình đó, ngày 24-7-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị kiên quyết chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chỉ thị chỉ rõ: chính sách can thiệp nói trên của đế quốc Mỹ nhằm mục đích hất cẳng thực dân Pháp, chiếm Đông Dương và nô dịch các dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia. Nếu Pháp thắng thì Mỹ ngồi không hưởng lợi, trái lại Pháp bại thì đế quốc Mỹ tiếp tục chiến tranh xâm lược Đông Dương... Muốn được hoàn toàn giải phóng, các dân tộc Đông Dương không những phải đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà còn phải chống chính sách can thiệp của đế quốc Mỹ. Do đó, khẩu hiệu đấu tranh của ta lúc này là “chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, hoàn toàn giải phóng Đông Dương".
Chỉ thị nhấn mạnh những nhiệm vụ cấp bách trước mắt như vạch trần âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, giải thích để nhân dân hiểu rõ chủ trương mới của Đảng đối với đế quốc Mỹ, đánh tan tư tưởng sợ Mỹ, phục Mỹ; động viên nhân dân tích cực đấu tranh chống can thiệp Mỹ; tiếp tục đẩy mạnh tổng động viên sức người, sức của, tài chính, cải thiện đời sống nhân dân.
Chỉ thị nêu rõ: "Mưu mô, chính sách của đế quốc Mỹ rất quỷ quyệt. Nhưng lực lượng hòa bình dân chủ thế giới đã trội hơn lực lượng đế quốc. Bất kể bọn đế quốc dùng thủ đoạn gì, chúng cũng sẽ thất bại nhục nhã ở Đông Dương".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.440-445.
NGÀY 31-7
Bộ Quốc gia giáo dục Thông tri Về cải cách giáo dục
Từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ và ngày càng ác liệt, nền giáo dục của ta gặp nhiều khó khăn mới. Được sự quan tâm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nỗ lực của cán bộ giáo dục, ngành giáo dục phổ thông dần dần phát triển mạnh mẽ trong kháng chiến, đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên giáo dục vẫn tồn tại nhiều nhược điểm: "phát triển không đều”, "nặng phát triển cấp dưới, còn cấp trên bị thu hẹp lại", trong tình hình đó, các trường tư thục mở ra bừa bãi. Đồng chí Trường Chinh nhận xét và chỉ thị "mỗi năm học hiện tượng mâu thuẫn giữa bên dưới phát triển nhanh và bên trên chậm lại ấy, lại càng trở nên sâu sắc và nhu cầu học hỏi của công, nông, của thiếu niên chưa được giải quyết thỏa đáng. Đó là một nhược điểm và cũng là một khuyết điểm lớn cần phải tích cực phấn đấu để giảm bớt và xóa bỏ"6.
Tháng 3-1949, Đại hội Giáo dục toàn quốc khai mạc tại Việt Bắc. Đồng chí Nguyễn Khánh Toàn thay mặt cho Bộ Quốc gia giáo dục trình bày Báo cáo về “Giáo dục dân chủ mới" trước Đại hội.
Căn cứ vào sự phát triển của nền giáo dục mới và những nhược điểm còn tồn tại, nền giáo dục Việt Nam đòi hỏi cần được cải cách nhằm đáp ứng nhu cầu mới của công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Chấp hành Nghị quyết của Hội nghị Trung trong lần thứ sáu, ngày 31-7-1950, Bộ Quốc gia giáo dục ra Thông tư Về cải cách giáo dục.
Quyết định cải cách hệ thống giáo dục cũ gồm tiểu học, trung học phổ thông; trung học chuyên khoa, thay bằng một hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất 9 năm được xây dựng, chia thành ba cấp: cấp I (4 năm); cấp II (3 năm); cấp III (2 năm). Sách giáo khoa được soạn lại theo nội dung dân tộc, dân chủ, khoa học và đại chúng.
Để đảm bảo cho cuộc cải cách giáo dục đạt kết quả tốt, nhiều đợt học tập chính trị và nghiệp vụ được tổ chức cho giáo viên làm cho họ phân định được ranh giới giữa nhân dân, dân tộc với đế quốc và phong kiến. Thông qua đó, những cán bộ làm công tác giáo dục thêm phấn khởi tin tưởng, ra sức chỉnh đốn tổ chức, cải cách giảng dạy, biến nhà trường thành công cụ sắc bén của kháng chiến.
Nhờ có chủ trương cải cách giáo dục, chỉnh huấn cán bộ cũ, đào tạo cán bộ mới thi đua học tập, thi đua giảng dạy mà bộ mặt nhà trường trong kháng chiến đã thay đổi hẳn. Các trường đều khắc phục khó khăn gian khổ của tình trạng kháng chiến, vừa giảng dạy, vừa học tập, vừa tham gia sản xuất tuyên truyền đánh giặc, đi dân công phục vụ chiến dịch...
- Thông tri số 56 TT-P, ngày 30-7-1950, Giáo dục tập san, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, 1950, số 1, tr.157.
THÁNG 7
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về cuộc vận động phê bình và tự phê bình trong Đảng
Trong những năm 1947-1949, Đảng ta phát triển mạnh, số lượng đảng viên tăng vượt bậc, ảnh hưởng của Đảng sâu rộng trong nhân dân. Nhưng ở nhiều địa phương, việc phát triển đảng viên còn nhiều khuyết điểm, việc giáo dục đảng viên lại chưa chu đáo, cho nên còn nhiều đảng viên rất kém về tinh thần và trình độ giác ngộ, ý thức Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị toàn quốc lần thứ ba và Hội nghị Đảng vụ đầu năm, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị các cấp ủy Đảng mở cuộc vận động phê bình và tự phê bình trong Đảng.
Cuộc vận động được thực hiện trong tất cả các chi bộ nhằm "xem xét công tác, ý thức và tinh thần của đảng viên mà đặt kế hoạch giáo dục, rèn luyện đảng tính, nâng cao trình độ chính trị, công tác của đảng viên và chấn chỉnh tổ chức cơ sở của Đảng".
Chỉ thị nêu rõ: Do một số lớn đảng viên thiếu ý thức đối với việc phê bình và tự phê bình, nên chỉ làm lấy lệ cho qua chuyện; các chi bộ không được cấp trên hướng dẫn, chỉ đạo, việc phê bình còn lúng túng, không biết nhằm vào những điểm gì để phê bình kiểm thảo. Để tiến hành cuộc vận động này có kết quả, Trung ương đề ra một số điểm quan trọng là:
- Các cấp ủy Đảng giải thích thật sâu rộng để toàn thể đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng của cuộc vận động.
- Nội dung kiểm thảo cần nhằm vào sự thi hành những nghị quyết và chính sách hàng ngày của Đảng, quy định cụ thể những vấn đề kiểm thảo cho từng chi bộ. Ngoài ra cần kiểm thảo thêm về tinh thần thi đua gương mẫu trước quần chúng (chú ý đối với đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng, chi bộ theo dõi, nâng đỡ để họ tiến bộ).
Các chi bộ chuẩn bị kiểm thảo, củng cố trong vòng 3 tháng, báo cáo kết quả và kinh nghiệm lên cấp trên biết kết quả và những kinh nghiệm thu được.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.434-437.
THÁNG 7 - THÁNG 8
Đồng chí Trường Chinh viết hai bài báo quan trọng trong năm 1950
Do không nhận thức đầy đủ và toàn diện quan điểm kháng chiến lâu dài và gian khổ, lại có xu hướng ỷ lại vào thuận lợi quốc tế nên cán bộ, bộ đội ta nảy sinh tư tưởng lạc quan tếu, "muốn đánh nhanh, giải quyết nhanh". Một số nơi tập trung xây dựng bộ đội chủ lực quá sớm trong khi phong trào còn yếu; ham ăn to, đánh lớn; coi nhẹ chiến tranh du kích; thực hiện tổng động viên tùy tiện, không chú ý bồi dưỡng sức dân...
Cũng do chủ quan, khi địch mở rộng vùng chiếm đóng, Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương, ta gặp một số khó khăn về đời sống, trong cán bộ, đảng viên, nhân dân có lúc có nơi lại chuyển sang bi quan, dao động.
Trước tình hình trên, để kịp thời uốn nắn, khắc phục những tư tưởng sai lệch đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, viết hai bài đăng trên Tạp chí Cộng sản: "Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" số 1 tháng 7-1950, "Chúng ta đã làm gì và còn phải làm gì để chuyển sang giai đoạn mới" số 2 tháng 8-1950.
Phân tích cơ sở phát sinh khuynh hướng lệch lạc, có hại cho cuộc kháng chiến, đồng chí nhận xét: "Trong Hội nghị toàn quốc lần thứ ba, tâm lý quá lạc quan của cán bộ ta cũng ảnh hưởng nhiều đến việc nhận định tình hình và thảo luận về nhiệm vụ trước mắt".
Để hoàn thành nhiệm vụ trước mắt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đồng chí nêu rõ các công tác cần phải thực hiện sau đây:
Về chính trị, làm cho nhân dân thấy rõ lúc này, Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương, thực dân Pháp hoàn toàn là tay sai của đế quốc Mỹ, cho nên ta đánh Pháp tức là đánh Mỹ, ta không thể đánh Pháp nếu không đồng thời chống Mỹ can thiệp, đánh bại Pháp tức là làm thất bại kế hoạch của Mỹ, định biến nước ta thành căn cứ quân sự và thị trường của chúng. Khẩu hiệu lúc này là: tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và chống bọn can thiệp Mỹ, đấu tranh cho độc lập, dân chủ và hòa bình.
Về công tác xây dựng lực lượng, chú ý xây dựng bộ đội chủ lực, vừa xây dựng bộ đội địa phương, dân quân... xây dựng lực lượng chậm ảnh hưởng đến tác chiến, xây dựng sớm chưa có điều kiện trang bị và cán bộ, cấp dưỡng thì có hại.
Về công tác tổng động viên, phải nắm vững nguyên tắc tùy theo khả năng của mỗi người, không làm cho dân kiệt sức đồng thời thi hành những cải cách để cải thiện đời sống nhân dân.
Về công tác vùng sau lưng địch, phương châm chủ yếu là phối hợp việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh với củng cố cơ sở tổ chức của Đảng và quần chúng.
Về công tác xây dựng Đảng, đồng chí nhấn mạnh muốn lãnh đạo nhân dân làm tròn nhiệm vụ cách mạng, Đảng phải mạnh, tổ chức cơ sở Đảng phải vững, thành phần đảng viên không phức tạp, hệ thống tổ chức Đảng các cấp được chấn chỉnh và kiện toàn, trong công tác xây dựng Đảng phải nắm phương châm "củng cố nặng hơn phát triển", "chất lượng trọng hơn số lượng”, chú trọng công tác đào tạo cán bộ, đưa việc phê bình và tự phê bình thành nếp sống sinh hoạt bình thường trong các chi bộ và Đảng bộ.
Những bài báo của đồng chí Trường Chinh đã giúp cho cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ và quán triệt tình hình, nhiệm vụ trước mắt, kịp thời khắc phục những sai lệch trong tư tưởng và hành động, nâng cao tinh thần chiến đấu đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.648-674.
- Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân Việt Nam, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1960, t.I, tr.397-420.
NGÀY 1-8
Ban Thường vụ Trung ương ra Thông tri Về việc liên lạc ở biên giới
Đầu năm 1950, sau khi Chính phủ các nước Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta, để tạo điều kiện trong việc liên lạc với các nước, nhất là với Trung Quốc được đúng mực và dễ kiểm soát, ngày 1-8-1950, Ban Thường vụ Trung ương Thông tri cho các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, V, Xứ ủy Nam Bộ về việc Trung ương quyết định từ nay, việc liên lạc ở biên giới phải theo đúng các nguyên tắc sau:
1. Những địa phương giáp biên giới, dân chúng các làng Việt Nam có quan hệ qua lại thường xuyên với các làng Trung Hoa, hoặc bị địch càn quét tự được phép sang biên giới, nhưng phải được sự thỏa thuận của chính quyền hai bên.
2. Nhân dân địa phương giáp biên giới muốn sang Trung Hoa có việc gì thì các Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện hoặc tỉnh được quyền hạn cho phép đi, song trong giấy tờ phải định rõ kỳ hạn, đi đến đâu, làm gì và cách biên giới mấy kilômét.
3. Các Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh, khu muốn giao thiệp với các cơ quan chính quyền bạn ở biên giới phải xin phép Chính phủ Trung ương chuẩn y, trường hợp gấp có thể tự sang giao thiệp, nhưng phải tìm cách báo về cho Chính phủ Trung ương biết ngay.
Các cấp bộ Đảng ở các địa phương, nhất là các tỉnh biên giới, phải triệt để thi hành các nguyên tắc này, đồng thời Trung ương sẽ thông tri để các Đảng bộ Trung Hoa ở biên giới biết việc này.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.449-450.
NGÀY 5-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề chấn chỉnh giao thông liên lạc
Ngày 1-6-1950, Hội nghị Cán bộ giao thông Trung ương lần thứ hai của Ban Giao thông liên lạc Trung ương đã ra Nghị quyết Về chấn chỉnh công tác giao thông liên lạc. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết này.
Ngày 5-8-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp Về vấn đề chấn chỉnh giao thông liên lạc và những nhiệm vụ sau đây mà các cấp cần phải nghiên cứu và thi hành:
1. Trung ương chủ trương sáp nhập ngành giao thông liên lạc của Đảng vào bưu điện của Chính phủ, củng cố bưu điện các cấp và duy trì hai hệ thống giao thông liên lạc thì cán bộ, phương tiện phân tán, sáp nhập lại sẽ hợp lý hơn. Các cấp ủy cần xem xét tình hình giao thông liên lạc và bưu điện địa phương mình, đặt kế hoạch củng cố, chú ý đưa cán bộ giao thông liên lạc của Đảng vào công tác ở các cơ quan bưu điện của Chính phủ.
2. Nghị quyết Hội nghị quyết định việc thống nhất hai đường thư hỏa tốc (vận chuyển công văn cho Đảng và các đoàn thể nhân dân với đường thư thường lệ vận chuyển công văn cho các cơ quan chính quyền). Việc thống nhất này phải được chuẩn bị chu đáo và chỉ thực hiện thống nhất khi đường thư thường lệ thật sự được củng cố vững chắc, nhanh lẹ và giữ bí mật công văn, tài liệu của Đảng.
3. Các chi bộ giao thông cần được thống nhất về tổ chức để tiện việc phối hợp công tác đảng, công tác chuyên môn. Chi bộ và tổ đảng của Bưu điện phải liên lạc mật thiết với chi bộ địa phương để phối hợp công tác.
4. Đặt kế hoạch kiểm tra, theo dõi cả đồng chí và quần chúng, đề phòng địch tung gián điệp vào dò la hoặc lấy cắp tài liệu.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.455-456.
NGÀY 12-8
Ban Thường vụ Trung ương Chỉ thị Về việc phát động “Tuần lễ thi đua giết giặc lập công”
Nhằm phát động các địa phương trong toàn quốc phối hợp với chiến dịch Biên giới để kiềm chế địch, không cho chúng tiếp viện và làm tiêu hao lực lượng địch ở địa phương. Ngày 12-8-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Tuần lễ thi đua giết giặc lập công".
Chỉ thị nêu rõ: Nhiệm vụ của các cấp Đảng bộ phải ra sức lãnh đạo và phối hợp các ngành quân, dân, chính ở địa phương, thực hiện “Tuần lễ thi đua giết giặc lập công”, coi đó là công tác chính, tập trung mọi phương tiện làm cho có kết quả. Trung ương đề ra một số yêu cầu phải làm trong tuần lễ là:
Phát động mạnh chiến tranh du kích; chống càn quét, quấy rối, diệt tề, trừ gian, phá hoại kho tàng của địch; tăng cường công tác địch vận, chú trọng vận động ngụy binh.
Vùng tạm chiếm: Lãnh đạo nhân dân dùng mọi hình thức đấu tranh thích hợp chống chính sách bóc lột, áp bức, ngu dân của địch.
Vùng tự do: Đẩy mạnh cuộc tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực, tăng gia sản xuất, luyện tập quân sự, v.v..
Chấp hành Chỉ thị của Trung ương Đảng và huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các Liên khu ủy, Tỉnh ủy trong toàn quốc phát động phong trào thi đua giết giặc lập công và cùng phối hợp với chiến dịch Biên giới.
Ở Liên khu ủy Việt Bắc, Tỉnh ủy Bác Ninh phát động tuần lễ thi đua từ ngày 13 đến hết ngày 25-9-1950, nhằm đẩy mạnh các hoạt động quân sự tiêu diệt địch: mai phục, đánh đường giao thông, ngăn chặn sự tiếp viện lên biên giới, phá tề, diệt bảo an, bảo vệ dân công vận chuyển thóc ra vùng tự do. Lực lượng du kích các xã phối hợp cùng các đơn vị bộ đội tỉnh, huyện đánh địch. Ngày 23-9, bộ đội Bắc Ninh phối hợp Đại đội công binh Bắc Sơn đánh địch ở Đáp Cầu, du kích các xã dọc đường lA tổ chức đánh phá hơn 100 km đường giao thông, mai phục, đánh mìn trên đường 38, đường 18, phá hỏng hàng chục xe, diệt hàng trăm tên địch.
Tại Liên khu III, trong tuần lễ “Thi đua giết giặc lập công", bộ đội tỉnh, huyện phối hợp cùng du kích diệt và bức rút gần 20 đồn địch, diệt và làm bị thương gần 1.000 tên địch; tổ chức đánh hàng trăm trận. Cùng với hoạt động ngụy vận, thắng lợi liên tiếp đã làm tan rã từng mảng ngụy quân, hai trung đội địch ở Xuân Trường trả súng về nhà, gần 30 thanh niên trường huấn luyện quân sự của địch ở Nam Trực bỏ trốn…
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.459-461.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (1926-1954), Bắc Ninh, 1998, t.I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Hà: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Hà (1930-1954), Nam Hà, 1996, t.I.
NGÀY 12-8
Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Về việc giữ gìn kỷ luật của chính quyền nhân dân và đoàn thể cách mạng
Trung ương nhận thấy có nhiều cơ quan chính quyền, các đoàn thể quần chúng có hiện tượng sai lầm như: một số đồng chí của Đảng làm việc trong chính quyền và đoàn thể không tôn trọng kỷ luật của các tổ chức đó, nhất là khi người phụ trách cơ quan không phải là cấp ủy, hoặc chưa phải là đảng viên. Trước tình hình đó, ngày 12-8-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị Về việc giữ gìn kỷ luật của chính quyền nhân dân và các đoàn thể cách mạng.
Chỉ thị vạch rõ: Hiện tượng kém kỷ luật trên diễn ra nhiều hình thức như: nhận được chỉ thị của chính quyền không chịu đưa ra nghiên cứu xem xét và thi hành, mà đợi chờ chỉ thị của Đảng mới làm; các cấp ủy Đảng điều động đồng chí làm trong chính quyền không tôn trọng thể lệ của Chính phủ… Hiện tượng kém kỷ luật trên của đồng chí đối với chính quyền và đoàn thể đã làm giảm sự đoàn kết, thống nhất trong hàng ngũ cách mạng, nhất là giữa Đảng với người ngoài Đảng, làm tổn hại đến lợi ích cách mạng, có thể còn làm cho quần chúng xa rời đảng viên. Để sửa chữa những sai lầm trên, Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị cho toàn thể đảng viên: "ngoài việc giữ gìn và tôn trọng kỷ luật của Đảng, còn bắt buộc phải giữ gìn và tôn trọng kỷ luật của chính quyền nhân dân và các đoàn thể cách mạng".
Trung ương còn nhấn mạnh thêm rằng người đảng viên cho dù trong cương vị nào ở trong Đảng, khi vào cơ quan chính quyền, các đoàn thể quần chúng luôn có bổn phận gương mẫu trước quần chúng và nhất định phải phục tùng nguyên tắc "cấp dưới phục tùng cấp trên". Người đảng viên nào làm sai nguyên tắc đó không giữ gìn kỷ luật của chính quyền nhân dân và các đoàn thể cách mạng là không giữ gìn kỷ luật của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.467-469.
NGÀY 20-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về công tác giữ bí mật nhà nước
Trong kháng chiến, giữ bí mật quốc gia là một vấn đề vô cùng quan trọng, tuy nhiên cũng còn không ít trường hợp để lộ bí mật quốc gia. Ngày 20-8-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về công tác giữ bí mật nhà nước. Chỉ thị quy định:
1. Các cán bộ, nhân viên làm ở tất cả các ngành, các cơ quan, nhà máy, bộ đội, giao thông liên lạc… phải tuyệt đối giữ bí mật, không được để lộ bí mật cơ quan, tài liệu, nhất là những thư từ, tài liệu quan trọng.
2. Mỗi người đều phải thực hiện: Không nói chuyện làm lộ bí mật, không nghe những điều không liên quan đến mình; không chỉ đường và phải cảnh giác với người lạ mặt; khi thấy người khác nói lộ bí mật thì phải phê bình, nếu việc quan trọng phải tố cáo để trừng trị.
Phần cuối, Chỉ thị nhấn mạnh: “Địch sắp đến bước đường cùng. Chúng càng phát triển chiến tranh gián điệp, tung nhiều tay sai vào dò tin tức để phá hoại ta thì việc giữ bí mật lại càng quan trọng hơn lúc nào hết, chúng ta phải tích cực đề phòng, giáo dục ý thức giữ bí mật trong Đảng và ngoài nhân dân, cán bộ và đồng chí phải làm gương trước".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.467-469.
NGÀY 23-8
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc thành lập Hội hữu nghị Việt - Xô, Việt - Hoa
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 23-8-1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông tri gửi cho các Liên khu ủy, các Ban, các Đảng đoàn thuộc Trung ương, các đồng chí phụ trách các báo về chủ trương thành lập Hội Việt - Xô, Việt - Hoa hữu nghị.
Thông tư nêu rõ: ngoài mục đích như trong Điều lệ và chương trình đã định, các hội đó thắt chặt tình hữu nghị giữa Việt Nam và Liên Xô, Việt Nam và Trung Quốc, làm cho nhân dân Việt Nam hiểu biết Liên Xô và Trung Quốc về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội và làm cho Trung Quốc, Liên Xô hiểu rõ tình hình Việt Nam, tăng cường đoàn kết trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và hòa bình lâu dài của thế giới.
Các Hội đó còn có tác dụng giáo dục tinh thần quốc tế vô sản, giúp cho quần chúng nhân dân, đảng viên học tập kinh nghiệm của các nước bạn.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, các cấp ủy cần phải thảo luận Chương trình và Điều lệ của Hội Việt - Xô, Việt - Hoa hữu nghị, mở rộng tuyên truyền những thắng lợi ngoại giao và ý nghĩa mục đích của Hội trên các báo chí, đài phát thanh, xúc tiến tổ chức ngay các phân hội Việt -Xô và Việt Hoa ở những nơi cần thiết. Hội lấy đơn vị tổ chức là tỉnh và nhằm những xí nghiệp, cơ quan, nhà trường, nơi quần chúng tập trung mà thành lập phân hội.
Thông tri chỉ rõ cách thức tổ chức và hoạt động của Hội. Ở những nơi chưa thành lập được Hội, tùy từng việc, từng trường hợp cụ thể mà lấy danh nghĩa Liên Việt hoặc đoàn thể nào đó thích hợp mà hoạt động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.1, tr.470-472.
NGÀY 6-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc sưu tầm, biên soạn tài liệu về tội ác của Pháp và gương anh dũng của quân, dân, cán bộ ta
Trong 5 năm kháng chiến (1945 - 1950), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta giành được nhiều thắng lợi to lớn nhưng nhân dân ta cũng phải chịu biết bao sự tổn thất, hy sinh do tội ác dã man của bọn thực dân Pháp xâm lược gây ra. Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, "hàng ngàn, hàng vạn chiến sĩ và đồng bào đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc, đã đưa xương máu để giữ gìn non sông". Ngày 6-9-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp bộ Đảng sưu tầm, biên soạn tài liệu về tội ác của thực dân Pháp và gương anh dũng của quân, dân và cán bộ.
Chỉ thị nêu rõ: Việc sưu tầm và biên soạn tài liệu phải đúng sự thật, đầy đủ về mọi mặt...
Để làm tốt công tác biên soạn, sưu tầm tài liệu, các cấp bộ Đảng phải gây phong trào, ghi chép, biên soạn sâu rộng trong quần chúng, lấy cơ sở (xã, nhà máy, đại đội cơ quan, trường học, hội nghị, lớp huấn luyện... làm đơn vị chính).
Cuối cùng, Chỉ thị nhắc nhở các cấp ủy có nhiệm vụ lãnh đạo cơ quan tuyên truyền văn nghệ cổ động, hướng dẫn, đặt giải thưởng, đôn đốc việc này.
Tài liệu sưu tầm được sẽ do các cơ quan tuyên truyền văn nghệ tập trung lại, gửi về Ban tuyên truyền Trung ương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.477-478.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.718.
NGÀY 14-9
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về tạm ngừng việc kết nạp đảng viên mới trong toàn quốc
Cuối năm 1949 đầu năm 1950, Đảng ta phát triển quá nhanh, củng cố Đảng không kịp với phát triển, thành phần giai cấp trong Đảng phức tạp, trình độ chính trị, lý luận của cán bộ, đảng viên thấp kém trong khi yêu cầu to lớn về năng lực tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến ngày càng cao. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải được tăng cường và củng cố, trở thành một Đảng mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hết sức nặng nề. Ngày 14-9-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về tạm ngừng kết nạp đảng viên mới trong toàn quốc.
Chỉ thị đã nêu rõ: Việc tạm ngừng kết nạp đảng viên mới sẽ thi hành ở các địa phương, kể từ ngày nhận được Chỉ thị này cho đến khi có chỉ thị mới của Trung ương. Trừ những trường hợp đặc biệt sau đây có thể kết nạp vào Đảng, nhưng phải do Tỉnh ủy chuẩn y mới được: những chiến sĩ công nông, Vệ quốc quân, bộ đội địa phương, dân quân du kích, đặc biệt hăng hái hy sinh trong các cuộc vận động tăng gia sản xuất, tổng động viên, gan dạ xung phong lập nhiều chiến công ngoài mặt trận.
Chỉ thị nhắc các cấp ủy: trong khi tạm ngừng việc kết nạp đảng viên mới, các cấp ủy Đảng phải hết sức chú trọng việc chấn chỉnh Đảng bằng cách thực hiện hai cuộc vận động "đào tạo cán bộ, học tập lý luận" và "phê bình và tự phê bình" do Trung ương đề ra, đồng thời phải đề phòng xu hướng sai lầm, tạm ngừng kết nạp đảng viên mới thì không chú ý tuyên truyền, phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng và đào tạo những cán bộ tốt, để sau này kết nạp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.II, tr.481-483.
TỪ NGÀY 16-9 ĐẾN NGÀY 14-10
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo chiến dịch Biên giới
Vùng biên giới Việt - Trung có tầm chiến lược quan trọng, có đường huyết mạch số 4 trải dài trên 300km, chạy qua ba tỉnh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, qua căn cứ địa Việt Bắc. Từ sau chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947, thực dân Pháp tập trung xây dựng hệ thống đồn binh trên đường số 4, với mưu đồ "cắm mũi dao sâu” vào giữa căn cứ địa Việt Bắc, đánh phá hậu phương kháng chiến, khóa chặt biên giới, cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta đối với quốc tế, ngăn cản sự liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu III và Liên khu IV.
Tháng 6-1950, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Biên giới. Thực hiện nhiệm vụ giải phóng biên giới của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 7-7-1950, Bộ Tổng tư lệnh ra Mệnh lệnh mở chiến dịch Biên giới Cao - Bắc - Lạng lấy mật danh là chiến dịch Lê Hồng Phong II, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch; giải phóng một phần biên giới; mở đường giao thông nối liền các nước xã hội chủ nghĩa mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, được cử làm Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy chiến dịch. Ngày 12-8, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho toàn Đảng về việc phát động "Tuần lễ thi đua giết giặc lập công", trong đó có viết: "Trung ương, Chính phủ và Bộ Tổng Tư lệnh đương chuẩn bị một chiến dịch lớn do... Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo và do Hồ Chủ tịch ra lệnh phát động".
Để đảm bảo đánh chắc, Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng tập trung một lực lượng mạnh gồm Đại đoàn 308, Trung đoàn 174 và 209 cùng một số tiểu đoàn độc lập của Cao Bằng, Lạng Sơn, Liên khu Việt Bắc, với nhiều đại đội pháo, công binh, bộ đội địa phương, dân công mở đường vận chuyển 4.000 tấn lương thực, vũ khí, thuốc men phục vụ chiến dịch.
Ngày 2-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi về chiến dịch Cao - Bắc - Lạng: "Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này". Ngày 9-9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào Cao - Bắc - Lạng: hãy tiếp tục giúp đỡ bộ đội để chiến dịch được thắng lợi. Trung tuần tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường ra mặt trận. Người nghe báo cáo, kiểm tra công tác chuẩn bị, thị sát trận địa, động viên cán bộ, bộ đội, nhân dân, cùng Bộ chỉ huy trực tiếp chỉ đạo trận đánh giành thắng lợi.
Từ ngày 16 đến ngày 18-9, bộ đội chủ lực của ta pháo kích, tiêu diệt gọn cứ điểm Đông Khê mở màn cho chiến dịch. Tử ngày 2 đến ngày 8-10, Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209 vận động tiến công tiêu diệt binh đoàn Lơpagiơ từ Thất Khê lên và binh đoàn Sác tông từ Cao Bằng về tại khu vực Cốc Xá, điểm cao 477. Ngày 10-10, quân địch bỏ Thất Khê, và ba ngày sau, quân địch ở Na Sầm cũng tháo chạy. Tuy các hoạt động quân sự còn tiếp tục, nhưng về cơ bản, chiến dịch đã kết thúc ngày 14-10-1950.
Kết quả của chiến dịch Biên giới, trong vòng gần một tháng, quân và dân Cao - Bắc - Lạng đã đập tan hệ thống phòng thủ của địch trên đường số 4, giải phóng 5 thị xã, 13 thị trấn với 350.000 dân, tiêu diệt, làm bị thương và bắt sống trên 8.300 tên địch gồm 10 tiểu đoàn (trong đó có 8 tiểu đoàn Âu-Phi), chiếm 41% lực lượng cơ động của Pháp trên toàn chiến trường Đông Dương. Nếu tính cả các loại chiến trường khác phối hợp với chiến trường Biên giới cộng lại thì ta loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 10.000 tên. Nhiều vùng quan trọng ở biên giới Việt-Trung được giải phóng, căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, nối liền nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa.
Trên các hướng phối hợp, ở Tây Bắc và Hòa Bình, quân và dân ta truy kích, bức địch phải rút khỏi Lào Cai, Sa Pa, Phong Thổ.
Cuộc hành quân Phôcơ lên Thái Nguyên nhằm giải vây cho tàn quân kéo từ đường số 4 xuống cũng bị ta đánh tan.
Tại mặt trận Bình - Trị - Thiên, ta mở chiến dịch Phan Đình Phùng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giải phóng một vùng rộng lớn phía nam Quảng Bình. Ở Liên khu V, bộ đội ta liên tiếp diệt nhiều đồn địch ở Phước Thuận (Ninh Hòa)... Ở Tây Nguyên, trung đoàn 120 chủ lực đánh thắng nhiều trận phục kích địch trên đường số 4 và số 7. Ở Quảng Nam, Trung đoàn 210 đánh thắng nhiều trận phục kích trên tuyến đèo Hải Vân... Ở Nam Bộ, ta mở nhiều chiến dịch nhỏ ở các khu: Khu VII mở chiến dịch Bến Cát ở Thủ Dầu Một. Khu VIII mở chiến dịch Cầu Ngang ở Trà Vinh; Khu IX đánh mạnh ở Long Châu Hậu, phá tan kế hoạch lập ngụy quân, ngụy quyền ở các vùng có đạo Hòa hảo, Cao đài, tiêu diệt và bức rút nhiều đồn địch...
Thắng lợi của chiến dịch Biên giới đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta trong việc lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh, mở ra bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến của ta từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy; biên giới được khai thông, căn cứ địa Việt Bắc được củng cố và mở rộng.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.102-104.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.531-566.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.6, tr.86-87, 108-112.
NGÀY 19-9
Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Về việc tuyên truyền chiến dịch mùa Thu 1950
7 giờ 20 ngày 16-9, bộ đội ta đã bắt đầu đánh vào thị trấn Đông Khê (Cao Bằng), mở đầu chiến dịch Biên giới mùa thu 1950. Chiến dịch này là một trong những hoạt động để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn mới, nhưng không phải là một chiến dịch mở đầu cho giai đoạn tổng phản công. Ngày 19-9-1950, Ban Thường vụ Trung ương Chỉ thị gửi các cấp bộ Đảng, các Đảng đoàn Trung ương, các Ban Tuyên truyền các cấp về việc tuyên truyền rộng rãi chiến dịch này đối nội cũng như đối ngoại. Song, cần phải căn cứ vào những điểm dưới đây:
1. Để giữ bí mật và để nhân dân, cán bộ khỏi chủ quan, trong các tài liệu tuyên truyền đánh chỗ nào, nêu tên chỗ ấy. Sau khi tổng kết mới nêu tên chung cho cả chiến dịch.
2. Phương châm tuyên truyền là: không tiết lộ bí mật; tuyên truyền kịp thời; thắng chừng nào nói chừng ấy; nêu thắng lợi, đồng thời nêu cả khó khăn; nói ưu điểm thì cũng nói khuyết điểm.
3. Nội dung tuyên truyền cần chú trọng những vấn đề tiêu biểu: những tiến bộ của ta về kỹ thuật tác chiến, năng lực tổ chức, chỉ huy; tinh thần chiến đấu dũng cảm hy sinh của bộ đội ta và những thành tích tiêu diệt địch; ta đối đãi với tù binh, hàng binh, lấy ý kiến và phát biểu của tù binh, hàng binh để tuyên truyền và phỏng vấn...
4. Địch vu khống là Quân giải phóng Trung Quốc giúp ta, thì ta cần nêu rõ: vì địch muốn thúc Mỹ giúp thêm và gây dư luận trước để giải thích sự thất bại lớn của chúng…
5. Nhân dịp này, nhấn mạnh rằng cuộc kháng chiến Việt Nam là một bộ phận của phong trào hòa bình thế giới và nêu cao phong trào phản chiến của nhân dân Pháp đang giúp cho cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.484-486.
NGÀY 10-10
Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về Kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga
Ngày 10-10-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp bộ Đảng, các Đảng đoàn, các ban chuyên môn Trung ương về kế hoạch và nội dung kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga.
1. Trong nội bộ Đảng: tổ chức học tập kinh nghiệm của Đảng Bônsêvích đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười thành công và nhấn mạnh những kinh nghiệm thiết thực với hoàn cảnh kháng chiến của ta như: chống ngoại xâm và nội phản, tổng động viên... (học chương nói về Cách mạng Tháng Mười trong Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô do Sự thật xuất bản, đề là Cách mạng Tháng Mười). Những vùng địch kiểm soát nghiêm ngặt không có điều kiện tổ chức học dài ngày, thì tổ chức nói chuyện theo tinh thần trên.
2. Trong nhân dân:
- Chính phủ, Mặt trận, Hội Việt - Xô và các đoàn thể điện mừng Liên Xô và Đại Nguyên soái Xtalin.
- Hội Việt - Xô cùng Mặt trận hiệu triệu đồng bào kỷ niệm Cách mạng Tháng mười, tổ chức mít tinh, kẻ khẩu hiệu, treo cờ Liên Xô, Việt Nam và ảnh các vị lãnh tụ Xtalin, Hồ Chí Minh.
- Nhân dịp kỷ niệm, các cấp bộ cần tuyên truyền cho nhân dân biết rõ Hội Việt - Xô và vận động thành lập các Chi hội Việt - Xô ở địa phương (khu, tỉnh).
- Báo chí ra số báo đặc biệt kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười. Các nội san có bài nói về kinh nghiệm lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười của Đảng Bônsêvích. Về khẩu hiệu tuyên truyền là:
1. Học tập kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười.
2. Việt - Xô đoàn kết muôn năm.
3. Ủng hộ Liên Xô, thành trì của hòa bình thế giới.
4. Đảng Cộng sản Liên Xô muôn năm!
5. Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công.
6. Kiên quyết phá tan kế hoạch thu đông của địch, giữ vững căn cứ địa, bảo vệ mùa màng, công xưởng...
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tòan tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.II, tr. 488-491.
NGÀY 10-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo Về những nhiệm vụ trước mắt sau chiến thắng Đông Khê
Ngày 16-9-1950, quân đội ta đánh Đông Khê, mở chiến dịch Đường số 4. Sau khi đánh chiếm Đông Khê, quân ta đã tiêu diệt 1 tiểu đoàn quân địch, bức địch rút khỏi thị xã Cao Bằng. Tiếp đó, từ ngày 1 đến ngày 7-10- 1950, quân ta thu được những thắng lợi liên tiếp trên mặt trận Đường số 4.
Để đề phòng hai điều: Một là, dân ta tưởng lầm chiến dịch Đường số 4 này đã mở đầu cho giai đoạn tổng phản công, rồi làm tếu, phiêu lưu, khinh địch, hai là thấy một phần lớn biên giới Bắc Bộ được giải phóng sinh ra ỷ lại vào sự giúp đỡ của các nước bạn, không cố gắng, không nhận thấy khó khăn của ta. Ban Thường vụ Trung ương họp từ ngày 9 đến ngày 10-10-1950 đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt sau chiến thắng Đông Khê.
1. Tiếp tục chiến dịch7 quét sạch tàn quân địch, củng cố những vị trí mới chiếm được, giữ vững và phát triển thắng lợi mới.
2. Tích cực sửa chữa và bảo vệ đường vận tải (nơi nào không có lệnh sửa đường thì tuyệt đôi không được tùy ý sửa).
3. Thi hành chính sách thu hồi thành thị đúng mức trong những thị trấn vừa được giải phóng.
4. Chống càn quét ở Thái Nguyên và tổ chức việc gặt tập đoàn, nhanh chóng cất giấu thóc lúa.
5. Các liên khu cần triệt để lợi dụng lúc quân địch đang mắc đánh Việt Bắc, phát triển du kích chiến tranh, nhất là Liên khu III.
6. Triệt để lợi dụng tin tức chiến thắng và tài liệu bắt được của địch để tuyên truyền, làm cho tinh thẩn binh lính địch mau tan rã, đồng thời tuyên truyền quốc tế, nhất là Pháp, giúp cho phong trào phản chiến của nhân dân Pháp mạnh lên.
7. Do những thắng lợi mới, động viên chính trị toàn dân, đẩy tới phong trào thi đua ái quốc, phát triển chiến tranh nhân dân...
8. Chống lại hai khuynh hướng chủ quan, khinh địch và ỷ lại vào các nước bạn.
9. Cán bộ quân, chính, dân, tham gia tác chiến trên đường số 4 chuẩn bị để khi kết thúc chiến dịch, mở một cuộc phê bình và tự phê bình, tổng kết kinh nghiệm, rút ra bài học quý báu của chiến dịch.
Các bộ phận sở quan nghiên cứu bản Thông cáo, ra sức làm tròn nhiệm vụ. Nơi xa địch phải hăng hái tiến hành mọi việc thường lệ: tăng gia sản xuất, nộp đủ công lương, thực hành tiết kiệm, thực hành giản chính, xây dựng bộ đội địa phương, tập luyện quân sự, ủng hộ mùa đông binh sĩ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.492-499.
NGÀY 11-10
Ban Thường vụ Trung ương ra Quyết nghị Về vấn đề báo chí
Nhận thấy báo chí của ta thường đăng những tin tức, nhất là tin chiến sự, lộ bí mật và không đúng sự thật, việc viết, duyệt và chịu trách nhiệm về bài đăng báo, phỏng vấn, tuyên bố trên báo chí chưa có quy định rõ rệt, để xảy ra một số khuyết điểm ngày 11-10-1950, Ban Thường vụ Trung ương Quyết nghị:
1. Từ nay trở đi, trong việc đăng tin tức, các báo cần chú ý: nói đúng sự thật; tránh lộ bí mật; không những nêu cái hay, mà cần phải nói cả khuyết điểm của ta, dưới hình thức phê bình và tự phê bình, nhưng phải đúng mực và giữ bí mật.
2. Những cơ quan có trách nhiệm cung cấp tin tức cho báo chí phải cung cấp tin tức đúng sự thật, tránh lộ bí mật.
3. Quy định việc viết bài, phỏng vấn và tuyên bố như sau: Các đồng chí phụ trách chung và phụ trách các ngành ở mỗi cấp có trách nhiệm viết bài cho báo Đảng, báo Mặt trận và báo các ngành cấp đó; việc phỏng vấn phải hết sức thận trọng, không nên lạm dụng những hình thức này; đồng chí nào viết bài hoặc tuyên bố vấn đề gì phải có trách nhiệm trước Đảng, nếu sai phải kịp thời cải chính.
4. Quy định việc duyệt bài đăng báo và tuyên bố. Tòa soạn phân định bài đăng báo làm ba loại: xã luận trọng yếu nhất, loại trọng yếu vừa, hoặc thường, và chịu trách nhiệm trước cấp ủy Đảng.
- Trước khi đăng, các bài xã luận phải được đồng chí bí thư cấp ủy hoặc cấp ủy viên được ủy nhiệm hoặc đồng chí bí thư Đảng đoàn (nếu là báo của đoàn thể) duyệt; loại bài thứ hai phải do đồng chí trưởng ban tuyên truyền cấp tương đương duyệt; loại bài thứ ba sẽ do tòa soạn cùng duyệt.
- Trước khi công bố, những bản tuyên bố trọng yếu phải do đồng chí bí thư đảng ủy duyệt (người tuyên bố thuộc đảng bộ cấp nào thì đưa đồng chí bí thư Đảng ủy cấp ấy duyệt).
- Những vấn đề trọng yếu mới chưa có chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, bất kỳ phát biểu dưới hình thức nào (viết báo, phát thanh hoặc tuyên bố...) đều phải do Trung ương duyệt trước khi công bố.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.II, tr.500-502.
NGÀY 18-10
Ban Thường vụ Trung ương Thông tri Về việc cho vay của tín dụng sản xuất
Theo thông báo của Đảng đoàn Chính phủ, Trung ương nhận thấy ở một số địa phương có một số đồng chí phụ trách chính quyền hay đoàn thể thường can thiệp với tín dụng sản xuất để được cấp vốn kinh doanh, gây quỹ hoặc giúp họ giải quyết nhu cầu kinh tế gia đình. Ngoài ra, ở một số địa phương, nhân viên trong cơ quan tín dụng còn có tệ nể nang, lấy vốn của tín dụng sản xuất cho bà con họ hàng vay, ít chú ý đến người thật sự thiếu vốn. Những việc làm trên là không đúng với chính sách về tín dụng sản xuất của Chính phủ, nhằm cấp vốn giúp người thiếu, động viên nhân lực tăng gia sản xuất, đáp ứng nhu cầu kháng chiến.
Để chấm dứt tình trạng trên, ngày 18-10-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông tri gửi các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, V và Hà Nội, thực hiện đúng tinh thần chỉ thị Trung ương.
1. Tích cực giúp đỡ tín dụng sản xuất thực hiện nhiệm vụ cấp vốn và động viên vốn.
2. Ra chỉ thị cho các tổ chức kinh tế của Đảng, các quần chúng, cá nhân muốn được giúp vốn, phải tuân theo nguyên tắc chung là: có khả năng sản xuất; dùng vốn vay của tín dụng để sản xuất đúng chương trình, kế hoạch kinh tế của địa phương; thật sự thiếu vốn.
3. Triệt để cấm mọi việc can thiệp, hay mọi sự quyết định cho vay vốn theo lối cảm tình, cho vay sai nguyên tắc. Tiền tín dụng sản xuất trước hết phải dành cho các tầng lớp cần lao sản xuất đông đảo để phát triển nền kinh tế nhân dân, cải thiện dân sinh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.506-507.
NGÀY 22-10
Ban Thường vụ Trung ương Đảng Chỉ thị Về việc giản chính
Trước đây, Trung ương có chủ trương kiện toàn các cơ quan chỉ đạo và củng cố các ngành, các ban sửa đổi cách làm việc cho khoa học. Từ năm 1950, việc thi hành chủ trương của Đảng còn nhiều sai sót, phần nhiều nặng về hình thức, mà không chú ý đến kết quả thực tế của công việc.
Tình trạng trên dẫn đến bộ máy quân đội, chính quyền, dân vận, Đảng các cấp cồng kềnh, nặng nề, tốn ngân sách chi phí, không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Do vậy, ngày 22-10-1950, Ban Thường vụ Trung ương chỉ thị cho các ngành, các cấp phải thi hành giản chính.
Trung ương chỉ rõ: việc thi hành tinh giản biên chế nhằm làm cho bộ máy nhẹ nhàng, rút bớt cán bộ, giảm ngân sách chi tiêu, tăng cường lực lượng cho sản xuất, nâng cao hiệu suất công tác; tuy nhiên, phải tránh khuynh hướng quá đơn giản làm cản trở đến công tác.
Chỉ thị này thi hành cả trong Đảng và ngoài Đảng, cho tất cả các ngành, các cấp. Các cấp Đảng bộ, cơ quan, ban, ngành phải ấn định kế hoạch chu đáo, sát thực tế, làm cho việc giản chính đạt nhiều kết quả trong thực tế.
Thực hiện chỉ thị của Trung ương, ở các liên khu và các tỉnh, việc thực hiện công tác giản chính trong các cơ quan, ban, ngành đã đạt được kết quả tốt. Liên khu Việt Bắc qua hai đợt tinh giản biên chế, các cơ quan của khu đã xúc tiến mạnh mẽ việc tinh giản bộ máy, 40% cán bộ, nhân viên dư biên chế trở về địa phương lao động sản xuất và tham gia các hoạt động kháng chiến. Riêng tỉnh Thái Nguyên đã rút bớt được 1.300 cán bộ các ngành, các cấp, tiết kiệm cho công quỹ tính ra trên 1.500 tấn thóc hàng năm. Ở Liên khu IV, cuối năm 1951 đã giảm biên chế được 5.731 cán bộ (chưa kể trong lực lượng vũ trang). Do đó, hàng năm Liên khu đã tiết kiệm trên sáu nghìn tấn lương thực.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.11, tr.508-511.
- Việt Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, t.I, tr.312.
- Báo cáo tổng kết năm 1951 của Liên khu IV, lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
NGÀY 30-10
Ban Thường vụ Trung ương ra Quyết nghị Về việc kiểm duyệt tài liệu phát thanh
Đối với thế giới, đài phát thanh của ta là tiếng nói của Chính phủ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam kháng chiến, nên mọi tài liệu đưa ra phát thanh đều phải hết sức thận trọng. Từ trước đến năm 1950, việc kiểm duyệt các tài liệu phát thanh chưa được quy định rõ, nên có một số việc đáng tiếc xảy ra như làm lộ tin tức, nói sai sự thật không bình luận đầy đủ, kịp thời đúng chủ trương của Đảng.
Trước tình hình đó, ngày 30-10-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Quyết nghị Về việc kiểm duyệt tài liệu phát thanh như sau:
1. Từ nay trở đi, trong việc phát thanh tin tức, bình luận, tuyên bố, cần chú ý: theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ; nói đúng sự thật; tránh lộ bí mật; tránh sơ hở về chính trị.
2. Các bản tin quan trọng sẽ do đồng chí phụ trách thông tin kiểm duyệt.
3. Về các bài bình luận, các đồng chí phụ trách thông tin và đài phát thanh họp cùng Bí thư Đảng đoàn, chính quyền chọn lựa, nhất là đề tài thời sự cần được bình luận ngay cho sốt dẻo, phải được đồng chí phụ trách thông tin kiểm duyệt.
4. Về những bản tuyên bố cần đưa đài phát thanh của các đồng chí phụ trách trong Đảng, chính quyền, Mặt trận phải do Trung ương duyệt trước khu phát thanh.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.II, tr.514-516.
NGÀY 16-12
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc chấn chỉnh công tác thanh vận
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ năm (8-1948) và Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng, Trung ương đã nhiều lần bàn việc chấn chỉnh công tác thanh vận, nhưng công tác thanh vận trong toàn quốc vẫn bị coi nhẹ. Do đó, ngày 16-12-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc chấn chỉnh công tác thanh vận.
Bản Chỉ thị nêu rõ, trong Đảng có nhiều cấp bộ, nhiều ngành, nhiều đồng chí chưa nhận đúng vai trò và nhiệm vụ của công tác thanh vận, không chú ý đến tổ chức thanh niên, không quan tâm đến việc đào tạo cán bộ thanh niên và việc phân công công tác cho cán bộ thanh niên vẫn còn lúng túng..., nhất là ở vùng địch tạm chiếm. Trong khi đó, thực dân Pháp đã lợi dụng, chia rẽ thanh niên, ngăn cản và tàn sát những thanh niên hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc.
Để kịp thời sửa chữa những khuyết điểm trên, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đề ra phương hướng và những biện pháp cụ thể để chấn chỉnh công tác thanh vận: các cấp bộ Đảng, các ngành công tác đảng thảo luận nghiên cứu tinh thần bản chỉ thị, nghị quyết của Hội nghị cán bộ thanh niên, nhận rõ vai trò, nhiệm vụ của công tác thanh vận; cần phải tổ chức Thanh niên Cứu quốc thành một đoàn thể trung kiên, gần Đảng, thành trụ cột của Mặt trận thanh niên; các cấp bộ Đảng chú trọng hướng dẫn, chỉ đạo và phổ biến kinh nghiệm công tác thanh niên.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.II, tr.560-562.
CUỐI NĂM
Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II
Sau thắng lợi chiến dịch Biên giới, Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị Biên giới nhằm tổng kết, phổ biến và học tập kinh nghiệm. Hội nghị đã vinh dự đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi việc tự phê bình, phê bình, tổng kết, phổ biến, học tập kinh nghiệm là một việc hay, nên gây thành một tác phong chung trong toàn quân đội, chính quyền, đoàn thể. Để việc tổng kết thu được kết quả tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh có mấy ý kiến sau:
- Trong chiến đấu, tất cả cán bộ, đội viên trên dưới phải giữ nghiêm kỷ luật, triệt để thi hành mệnh lệnh cấp trên; cán bộ phải thương yêu đội viên; phải biết tôn trọng nhân dân; phải giữ gìn của công, chiến lợi phẳng phải thành thật tự phê bình và phê bình, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp, phải làm gương trước trong việc tự phê bình và phê bình.
- Trong chiến dịch này có nhiều kinh nghiệm, tốt, xấu đều có cả, cần phải tổng kết, phổ biến và học tập, tập trung vào những điểm sau đây:
1. Sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, các cấp địa phương chỉ đạo đúng đắn. Các cơ quan quân, dân, chính đoàn kết, phối hợp chặt chẽ, hành động nhất trí.
2. Chiến sĩ ta rất hăng hái, anh dũng, nổi bật lên những tấm gương chiến đấu quả cảm, quên mình vì nước.
3. Nhân dân ta giàu lòng yêu nước, không ngại hiểm nguy gian khổ, hăng hái tham gia kháng chiến.
4. Giặc chủ quan, khinh địch.
Đó là những kinh nghiệm lớn khi báo cáo tổng kết cần phải nêu rõ.
Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở và căn dặn toàn thể cán bộ, chiến sĩ ta chớ vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan khinh địch. Chúng ta phải nhớ rằng trong toàn cuộc trường kỳ kháng chiến, thì thắng lợi này mới chỉ là bước đầu. Chúng ta còn phải đánh thắng nhiều trận gay go hơn, to tát hơn nữa, mới đi đến thắng lợi hoàn toàn.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.108-112.
___________
* Theo Hoàng Quốc Việt: Những nét sơ lược về lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam, số đại biểu dự Đại hội là 400.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Trung Quốc và Liên Xô và hội đàm với Xtalin và Mao Trạch Đông theo lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ ngày 19-1-1950 đến cuối tháng 3 năm 1950.
2. Đặc biệt là chủ quan, khinh địch coi việc địch đánh chiếm đồng bằng Bắc Bộ là cuộc chuẩn bị rút quân ra biển Đông trước sự tổng phản công của ta.
3. Tề loại A: tề phản động; tề loại B: tề cầu an lừng chừng, tề loại C: tề có quan hệ với ta (BT).
4. Nay là xã Kim Nỗ (Đông Anh) (BT.)
5. Trên đầu bức thư có ghi: "Thư này phải đưa đọc tận các xã trong Liên khu, trước hết là tại các xã đã xảy ra những việc ép uổng dân như đã nêu rõ trong thư của Phó Thủ tướng. Khi đọc khắp rồi, phải báo cáo dư luận của đồng bào thế nào?".
6. Thư ngày 10-7-1949 của đồng chí Trường Chinh gửi đồng chí Nguyễn Khánh Toàn phụ trách Tiểu ban giáo dục đăng trong Giáo dục tập san của Bộ Quốc gia giáo dục, số 1-1950, tr.157.
7. Ý nói: Chiến dịch Biên giới năm 1950 còn gọi là chiến dịch Lê Hồng Phong II (BT.).
Năm 1951 TỪ NGÀY 25-12-1950 ĐẾN NGÀY 17-1-1951
Ban Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo chiến dịch Trần Hưng Đạo
Từ sau chiến dịch Biên giới, căn cứ vào sự phát triển của tình hình và trước âm mưu mới của địch, Trung ương Đảng nhận thấy đã đến lúc có điều kiện tận dụng thời cơ thuận lợi, tranh thủ thời gian, tiếp tục mở một số chiến dịch nhằm tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá kế hoạch củng cố, bình định của chúng, phát triển chiến tranh du kích, giữ vững quyền chủ động chiến lược vừa giành được trên chiến trường chính.
Sau khi cân nhắc tình hình các hướng ở chiến trường Bắc Bộ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung du). Ngày 30-11-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết nghị thành lập Đảng uỷ Mặt trận Trần Hưng Đạo.
Lực lượng tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo trên các hướng chính và phụ gồm có: hai đại đoàn là 308 và 312.
Chiến dịch diễn ra từ ngày 25-12-1950 đến ngày 17-1-1951.
Đợt I: Mở đầu chiến dịch, ngày 25-11-1950, bộ đội ta đã chặn đánh, gây cho địch thiệt hại nặng, buộc chúng phải cụm lại ở Liễn Sơn chờ quân ứng cứu. Trong ba đêm liền, từ ngày 27, 28, 29 tháng 12, bộ đội ta liên tục tiến công, đã diệt gọn 5 vị trí của địch trên phòng tuyến Vĩnh Yên và Tiên Yên, trực tiếp uy hiếp Hà Nội, Hải Phòng khiến Bộ chỉ huy Pháp ở Bắc Bộ phải lúng túng, đối phó.
Đợt 2: Theo đúng kế hoạch đã quy định, đêm ngày 12-1-1951, Trung đoàn 98 và 174 nổ súng diệt các đồn Đồng Kế, Cẩm Lý. Cả đêm ngày 13 và đến hết trưa ngày 14 tháng 1, ta mới giải quyết xong vị trí đồn Bảo Chúc, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, Chặn đánh và làm thiệt hại nặng viện binh ứng cứu tại An Thủy, buộc địch phải co cụm lại ở dãy đồi Cẩm Trạch để chống đỡ. Địch dùng phi cơ, pháo binh ném bom và bắn phá dữ dội vào đội hình của ta. Bộ đội ta đã vận dụng chiến thuật đánh gần, hình thành thế bao vây chia cắt, nhanh chóng giành thế áp đảo, sau một thời gian chống đỡ, quân địch tan vỡ và tháo chạy. Bộ đội ta được lệnh truy kích tàn quân địch sát thị xã Vĩnh Yên. Ngày 17-1-1951, chiến dịch kết thúc.
Kết quả: ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 tên địch, thu nhiều vũ khí đạn dược, giải phóng một phần phía bắc tỉnh Vĩnh Yên -Phúc Yên ở trung du, hai huyện Bình Liêu, Hoành Mô ở Đông Bắc, mở rộng vùng tự do Hải Ninh - Tiên Yên - Móng Cái; thực hiện được một phần nhiệm vụ mở rộng lương thực và phát triển chiến tranh du kích trong vùng địch hậu ở trung du và ở đồng bằng Liên khu III.
Chiến dịch Trần Hưng Đạo là chiến dịch đầu tiên ta tập trung lực lượng đánh lớn vào địa bàn trung du, là nơi địch có nhiều điều kiện hơn để phát huy thế mạnh và sở trường của chúng so với chiến trường miền núi. Tuy ta có một số khuyết điểm như mục đích chiến dịch không đạt, lực lượng ta hao tổn, song chiến dịch Trần Hưng Đạo vẫn là "một thắng lợi quan trọng, một bước tiến bộ vững chắc của bộ đội ta về kỹ thuật chiến thuật và tinh thần chiến đấu”. Chiến dịch Trần Hưng Đạo còn ghi thêm "một bước thành công trên con đường tiến tới vận động chiến của quân đội ta".
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân Hà Nội, 1994, t.II, tr.18-40.
- Báo cáo kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu xuất bản, 1963, t.l, tr.142, 143.
NGÀY 9-1
Đấu tranh của nhân dân Sài Gòn kỷ niệm ngày mất của Trần Văn Ơn
Ngày 9-1-1951, kỷ niệm một năm ngày mất của học sinh Trần Văn Ơn, một phong trào đấu tranh sôi nổi của các tầng lớp nhân dân thành phố Sài Gòn đã nổ ra. Nhiều cuộc mít tinh với hàng ngàn người được tổ chức tại các hãng MIC, MITAC, BASTOS, COFAT, nhà in, một số hãng thầu xây dựng...
Công nhân, học sinh các quận 1, 2 và 5 tập trung trước rạp Olympic1 đã mít tinh truy điệu Trần Văn Ơn. Chính quyền cho quân đến đàn áp làm 2 người chết, một số bị thương và bị bắt.
Trước hành động đàn áp dã man, ngày 12-1-1951, 2.000 công nhân các hãng EIFFEL, CARIC, Nguyễn Văn Dung đình công; công nhân Nhà đèn Sàn Gòn, Hãng SCAMA, gara Lê Dương, BASTOS, MITAC, CITROEN, SIDO hưởng ứng lãn công 15-30 phút. Công nhân còn tổ chức gửi thư lên Thủ hiến Nam phần Trần Văn Hữu lên án hành động đàn áp.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1.
NGÀY 11-1
Ban Thường vụ Trung ương ra Thông tri Về việc thi hành Chỉ thị tạm ngừng kết nạp đảng viên mới
Ngày 14-9-1950, Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị tạm ngừng kết nạp đảng viên mới. Việc thi hành được triển khai trên toàn quốc, song ở một số địa phương do chưa hiểu hết ý nghĩa của chỉ thị, trong thi hành còn có khuyết điểm như vẫn muốn tiếp tục phát triển Đảng, thậm chí cả ở những nơi chưa có cơ sở, hoặc cơ sở còn mỏng (Liên khu Việt Bắc, Nam Bộ, v.v..). Ngày 11-1-1951, Trung ương ra Thông tri Về việc thi hành Chỉ thị tạm ngừng kết nạp đảng viên mới.
Thông tri nêu rõ, tạm ngừng kết nạp đảng viên là để tập trung vào củng cố hàng ngũ, giáo dục đảng viên. Việc tạm ngừng phát triển Đảng phải được thi hành ở khắp nơi, kể cả nơi chưa có cơ sở. Đối với những trường hợp đặc biệt như những chiến sĩ công nông, Vệ quốc đoàn, bộ đội địa phương, dân quân du kích đã tỏ ra đặc biệt, hăng hái hy sinh, lập chiến công xuất sắc trong tăng gia sản xuất, ngoài mặt trận, tỏ ra là người trung thành, có ý thức đối với Đảng một cách rõ rệt thì mới được kết nạp.
Ở những vùng Công giáo, Cao đài, Hòa hảo, đô thị... nơi cơ sở Đảng còn non, hoặc chưa có, thông tri nhấn mạnh phải phát triển mạnh mẽ cơ sở quần chúng, cơ sở du kích, cử cán bộ có năng lực, tinh thần đến phụ trách vùng ấy.
Những quần chúng được thử thách trong tranh đấu, những cảm tình đã được giáo dục, cần tiếp tục dìu dắt thêm đợi đến khi có chỉ thị mới.
Thông tri chỉ rõ, tạm ngừng kết nạp đảng viên mới không phải là tạm ngừng tuyên truyền gây ảnh hưởng Đảng, trái lại phải đẩy mạnh giáo dục ảnh hưởng Đảng trong quần chúng. Trong khi thi hành chỉ thị tạm ngừng kết nạp đảng viên mới các cấp bộ Đảng phải tập trung năng lực vào củng cố Đảng, đẩy mạnh hai cuộc vận động "Phê bình và tự phê bình”, "Đào tạo cán bộ, học tập lý luận".
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.498-501.
NGÀY 16-1
Ban Thường vụ Liên khu ủy III ra kế hoạch công tác ngụy vận
Công tác ngụy vận là một trong những công tác chính vùng địch hậu. Song thời gian qua, công tác này chưa được chú trọng ở liên khu. Nhằm khắc phục những khuyết điểm trong lãnh đạo và phương pháp tranh đấu, ngày 16-1-1951, Ban Thường vụ Liên khu ủy III đề ra kế hoạch công tác ngụy vận.
Kế hoạch có những điểm chính: vận động ngụy binh và hương dũng, tổng dũng, vận động gia đình ngụy binh, phối hợp ngụy vận với tác chiến, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Vận động ngụy binh và hương dũng, tổng dũng, cần có nội dung tuyên truyền thiết thực, tác động đến tinh thần ngụy vận như gắn liền tin chiến thắng của ta với việc vạch âm mưu, sự thất bại của địch; làm cho họ hiểu rõ chính sách khoan hồng của Chính phủ. Đối với ngụy binh Công giáo, cần tuyên truyền chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của ta. Vừa tuyên truyền, ta vừa tìm cách gây nhân mối, tổ chức trong khu tạm chiếm hoặc các thành phố, các trại tân binh... Tùy vào các điều kiện chủ quan, khách quan, ta cũng có thể lãnh đạo ngụy binh tranh đấu. Đồng thời với vận động nguy binh, cần tổ chức gia đình ngụy binh tin tưởng thắng lợi của kháng chiến. Ở khu du kích hoặc vùng tự do, ta có thể đưa họ vào các đoàn thể Cứu quốc.
Các cơ quan địch vận cần giải thích cho bộ đội và dân quân, du kích hiểu tầm quan trọng của công tác ngụy vận. Trong khi tác chiến quân sự, phải có kế hoạch địch vận phối hợp: vừa đánh vừa kêu gọi, nội ứng chiến tranh (đánh địch có nhân mới làm nội công).
Ban Thường vụ Liên khu ủy chỉ rõ: các cấp ủy viên cần tăng cường lãnh đạo công tác ngụy vận, làm cho tiến kịp đà phát triển của chiến tranh du kích, tiến tới phá vỡ khối ngụy quân.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
TỪ NGÀY 11 ĐẾN NGÀY 19-2
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
Đến năm 1951, năm thứ sáu của cuộc kháng chiến, thế và lực của chiến tranh nhân dân có sự phát triển vượt bậc. Sự ủng hộ về tinh thần, vật chất của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ba nước Đông Dương đẩy kháng chiến mau tới thắng lợi hoàn toàn. Ta đã có những vùng giải phóng rộng lớn, mở được cửa thông thương quốc tế; lực lượng vũ trang có khá năng tiêu diệt bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Song, thực dân Pháp với sự trợ giúp của đế quốc Mỹ, vẫn nỗ lực tăng cường chiến tranh, gây cho ta nhiều khó khăn, phức tạp.
Nhằm giải quyết những vấn đề mới mà cách mạng đặt ra, Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập. Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho trên 76 vạn đảng viên.
Trong mười ngày làm việc, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ của Đảng, các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, quân đội nhân dân, kinh tế tài chính, văn nghệ nhân dân.
Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày (chiều ngày 11-2) là một văn kiện có giá trị thực tiễn và lý luận to lớn. Báo cáo tổng kết những kinh nghiệm phong phú của Đảng trong hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng, vạch ra những phương hướng, nhiệm vụ đưa cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Báo cáo khẳng định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài vì độc lập thống nhất, dân chủ của Đảng là đúng đắn, cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhất định thắng lợi. Báo cáo nêu hai nhiệm vụ chính của Đảng lúc này là:
1. Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
2. Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn là nhiệm vụ cấp bách. Các nhiệm vụ khác đều nhằm phục vụ nhiệm vụ cấp bách đó. Báo cáo chỉ rõ, để đưa kháng chiến đến thắng lợi, phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang và các tổ chức quần chúng đẩy mạnh thi đua yêu nước, thi hành chính sách ruộng đất ở vùng tự do, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, thành lập Mặt trận thống nhất Việt - Lào -Campuchia, đoàn kết quốc tế.
Về tổ chức Đảng, Báo cáo khẳng định: "Chúng ta phải có một Đảng công khai, tổ chức hợp với tình hình thế giới và tình hình trong nước để lãnh đạo toàn dân đấu tranh cho đến thắng lợi, Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam".
Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày (ngày 12-2) phân tích một cách hệ thống và sâu sắc toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về các chính sách của Đảng và về Đảng Lao động Việt Nam. Báo cáo phân tích xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, nêu rõ xã hội Việt Nam chứa chất nhiều mâu thuẫn, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Mâu thuẫn chính là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, trừ diệt bọn phản quốc, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, xóa bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ phản đế và phản phong có mối quan hệ khăng khít, nhưng trọng tâm của cách mạng giai đoạn hiện tại là giải phóng dân tộc.
Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng, thái độ chính trị của các giai cấp trong xã hội, Báo cáo nêu rõ sự sắp xếp lực lượng cách mạng như sau: lực lượng cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc, chủ yếu là công nhân và nông dân. Lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Báo cáo chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Căn cứ tình hình, nhiệm vụ, tính chất cách mạng, Báo cáo vạch ra 12 chính sách của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được Đại hội thảo luận và đúc kết một cách khái quát trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam. Căn cứ trách nhiệm mới của Đảng là lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo chiến tranh cách mạng, số lượng đảng viên đã phát triển, Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam có nhiều điểm sửa đổi so với Điều lệ năm 1935. Điều lệ mới quy định thời hạn dự bị của đảng viên xuất thân công nhân từ 2 tháng lên 6 tháng, của đảng viên xuất thân trung nông và tiểu tư sản từ 4 tháng lên 1 năm.
Về nhiệm vụ đảng viên, ngoài nhiệm vụ số 1 là thực hiện nghị quyết, chính sách của Đảng, Điều lệ mới bổ sung thêm nhiệm vụ hết lòng phục vụ quần chúng, học hỏi, giáo dục quần chúng; kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình; gương mẫu trong mọi công tác cách mạng. Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng phân tích kỹ vấn đề mở rộng dân chủ, tăng cường tập trung và phát triển phê bình, tự phê bình trong Đảng.
Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương Điều lệ và Tuyên ngôn của Đảng. Đại hội quyết định sẽ thành lập những tổ chức cách mạng phù hợp hoàn cảnh Lào và Campuchia. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào và Campuchia lãnh đạo kháng chiến của hai dân tộc ấy giành thắng lợi cuối cùng.
Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng do Đại hội bầu ra gồm 29 đồng chí. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu giữ chức Chủ tịch Đảng. Bộ Chính trị do Trung ương bầu gồm 7 ủy viên chính thức: đồng chí Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, một ủy viên dự khuyết là đồng chí Lê Văn Lương. Đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là một sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành mới về tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng. Đảng từ bí mật trở lại hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.3 – 495.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.153-176.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.176-177.
NGÀY 20-2
Công đoàn Mỏ Hà Tu lãnh đạo công nhân bãi công
Thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", thực dân Pháp tăng cường khai thác, vơ vét than ở các mỏ của Việt Nam. Tại Mỏ Hà Tu, chúng bắt công nhân làm thêm chuyến, làm quá giờ, nhưng không tăng lương. Anh em công nhân vô cùng căm phẫn.
Ngày 20-2-1951, dưới sự chỉ đạo của Công đoàn Mỏ, tất cả công nhân cuốc than tầng Hà Tu bãi công, với yêu sách "không làm quá tầm, tăng chuyến xe phải tăng lương".
Chủ mỏ không chịu giải quyết yêu sách của công nhân, chúng điều lính từ thị trấn Hà Tu lên đàn áp. Chúng lệnh bắt công nhân làm việc quá tầm như cũ. Chúng dọa dẫm, đàn áp, bắt 5 người. Song đội ngũ công nhân vẫn bình tĩnh, giữ vững đấu tranh.
Chủ mỏ giở thủ đoạn mua chuộc. Ngày 6-5, chúng tăng lương riêng cho bộ phận công nhân người Sán Dìu, người Dao rồi ép họ đi làm. Nhưng chúng vẫn không phá được hàng ngũ đấu tranh.
Chủ mỏ cho mật thám, cảnh binh rình mò từng gia đình để dò la, bắt bớ những người lãnh đạo đấu tranh. Lính đồn Hà Tu sục vào từng nhà công nhân. dọa ai không đi làm sẽ đuổi khỏi mỏ.
Với mọi thủ đoạn, chủ mỏ vẫn không phá được cuộc đấu tranh của công nhân. Chúng phải nhân nhượng, thực hiện yêu sách tăng lương đồng loạt cho mỗi người, mỗi ngày 0,5 đồng và mỗi ngày giảm hai chuyến xe than ở những nơi khó làm.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh: Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Quảng Ninh (1928-1955), Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh uỷ Quảng Ninh, 1980, tr.254-255.
THÁNG 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nông dân
Tháng 2-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nông dân toàn quốc, động viên tăng gia sản xuất.
Người khen ngợi nông dân, mặc dù năm trước có nhiều thiên tai, địch họa, vẫn duy trì sản xuất tốt nên lương thực vẫn đủ cung cấp cho nhân dân và bộ đội.
Người nhắc nhở: năm 1951, kháng chiến tiến mạnh hơn, nông dân phải chuẩn bị lương thực đầy đủ hơn nữa để bộ đội ăn no, đánh thắng. Chiến sĩ ở mặt trận thì thi đua giết giặc lập công, còn đồng bào hậu phương thì thi đua tăng gia sản xuất. "Mùa này nhất định là một mùa thắng lợi".
Nông hội cần phải đi sát với dân, đôn đốc, giúp đỡ dân về mọi mặt; nhà nông cũng phải giúp nhau để cùng sản xuất tốt.
Động viên phong trào thi đua ở hậu phương, Người tặng mấy câu thơ:
“Ruộng rẫy là chiến trường,
Cuốc cày là vũ khí.
Nhà nông là chiến sĩ,
Hậu phương thi đua với tiền phương".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.178-179.
NGÀY 3-3
Đảng Lao động Việt Nam ra mắt quốc dân
Ngày 3-3-1951, tại Hội nghị thống nhất Việt Minh - Liên Việt, Đảng Lao động Việt Nam chính thức ra mắt quốc dân, công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Tại buổi lễ, đồng chí Trường Chinh thay mặt Trung ương Đảng trình bày mục đích, tôn chỉ và chính cương mới của Đảng. Đồng chí nhấn mạnh: Đảng Lao động Việt Nam đứng trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nguyện đoàn kết chặt chẽ, cộng tác thân mật với các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ yêu nước để kháng chiến và kiến quốc.
Phát biểu kết thúc buổi lễ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: tóm lại mục đích của Đảng là "Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc", nhiệm vụ của Đảng là "Kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công”; chính sách của Đảng là làm cho Việt Nam "Độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường".
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thêm, về vấn đề tôn giáo và đối với các đảng phái: Đảng hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người; đối với các đảng phái, các đoàn thể trong Mặt trận dân tộc, Đảng chủ trương “Đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài, cùng nhau tiến bộ".
Ngày 7-3, Trung ương ra chỉ thị giới thiệu Đảng Lao động Việt Nam, tuyên truyền và giải thích cho nhân dân hiểu rõ tính chất giai cấp công nhân của Đảng, mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
- Báo Nhân dân, ngày 25-3-1951.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.183-184.
- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên): Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954, những sự kiện, Nxb.Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997, tr.257-258.
TỪ NGÀY 3 ĐẾN NGÀY 7-3
Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt
Sau Đại hội Đảng, Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt họp từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Ngoài số đại biểu của Đại hội Đảng, có nhiều nhân sĩ trí thức, thượng tọa, linh mục thuộc các tổ chức xã hội đã đến dự. Khách quốc tế có đồng chí Xuphanuvông (Lào) và đại diện Mặt trận Khơme.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt tham gia Đoàn Chủ tịch điều khiển Đại hội.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày việc thành lập Đảng Lao động Việt Nam, quyết định của Đảng gia nhập Mặt trận Liên Việt, nội dung chính cương và chính sách Mặt trận dân tộc thống nhất của Đảng.
Đại hội quyết định thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Mặt trận bao gồm các đoàn thể tôn giáo, đảng phái, nhân sĩ yêu nước đoàn kết đấu tranh vì mục đích chung là đánh bại thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, trừng trị Việt gian, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, góp sức bảo vệ hòa bình thế giới.
Đại hội thông qua Chính cương, Điều lệ, Tuyên ngôn của Mặt trận. Đại hội nhất trí việc xây dựng và bảo vệ khối đoàn kết giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia chống kẻ thù chung. Đại hội thảo luận Nghị quyết của Hội đồng hòa bình thế giới, nhiệt liệt hưởng ứng kiến nghị đòi ký Công ước hòa bình.
Đại hội cử ra ủy ban toàn quốc của Mặt trận gồm có 53 thành viên, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch. Đại hội suy tôn Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự Mặt trận Liên Việt.
Phát biểu tại Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: là người cùng nhân dân đấu tranh cho khối đại đoàn kết toàn dân, nay "thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai "trường xuân bất lão"…, lòng tôi sung sướng vô cùng.
Thắng lợi của Đại hội là thắng lợi chính trị to lớn của nhân dân ta. Nó củng cố và tăng cường sự đoàn kết nhất trí toàn dân, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.181-182.
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.714-717.
NGÀY 11-3
Báo Nhân dân - cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam - ra số đầu tiên
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, ngày 11-3-1951, báo Nhân dân - cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam ra số đầu tiên.
Báo có 8 trang, ra hàng tuần; về sau báo ra hàng ngày với 20.000 bản mỗi ngày.
Trên trang nhất báo đăng Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam; bài của đồng chí Trường Chinh: Hồ Chủ tịch, Người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta. Trên các trang tiếp theo, báo giới thiệu Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, bài Phong trào mua công trái của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới bút danh C.B.
Cùng với các sách báo khác trong kháng chiến, báo Nhân dân là một vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng ta. Báo là công cụ tuyên truyền, giáo dục, động viên, hướng dẫn mọi người thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945 -1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.260-261.
- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên): Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954, những sự kiện, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997, tr.259.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.186.
- Báo Nhân dân ngày 11-3-1951; ngày 11-3-1991; ngày 11-3-1999.
NGÀY 11-3
Hội nghị liên minh nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia
Ngày 11-3-1951, Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương được tổ chức tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Dự Hội nghị có đại biểu của ba Mặt trận thống nhất ba nước.
Hội nghị điểm lại những thắng lợi của nhân gần ba nước, khẳng định ý nghĩa quan trọng của sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Hội nghị quyết định những biện pháp phải thực hiện để củng cố, tăng cường quan hệ giữa nhân dân và các lực lượng vũ trang ba nước trong cuộc đấu tranh chung vì độc lập, tự do của mỗi nước.
Hội nghị ra Nghị quyết thành lập Ủy ban liên minh nhân dân Việt - Lào - Campuchia gồm đại biểu Mặt trận dân tộc thống nhất ba nước để thực hiện mục đích, chương trình hành động.
Hội nghị nhất trí thông qua Tuyên ngôn gồm những điểm lớn:
Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cố tình xâm chiếm ba nước Việt Nam, Lào Campuchia, hòng biến ba nước Đông Dương thành thuộc địa, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc.
Khối liên minh ba nước thành lập trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau nhằm đánh bại thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, trừng trị bù nhìn phản quốc, giành độc lập thật sự cho ba dân tộc, bảo vệ hòa bình thế giới.
Hội nghị kêu gọi nhân dân ba nước đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận của nước mình, làm cho khối liên minh ba nước ngày càng vững chắc, kêu gọi nhân dân toàn thế giới, nhân dân Pháp và nhân dân các dân tộc bị áp bức ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương. Hội nghị quyết định thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau. Hội nghị liên minh nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia có ý nghĩa quan trọng, góp phần tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, đẩy mạnh kháng chiến của ba dân tộc anh em, đặt cơ sở cho sự liên minh lâu dài giữa ba dân tộc.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.261-262.
- Đặc san Sự kiện nhân chứng, số 23, tháng 11-1995.
TỪ NGÀY 13 ĐẾN NGÀY 16-3
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II)
Năm 1951, Mỹ xúc tiến mở rộng chiến tranh xâm lược ở nhiều nơi trên thế giới, đồng thời tích cực giúp Pháp lấn sâu vào chiến tranh Đông Dương. Pháp tăng cường càn quét chia cắt chiến trường Nam Bộ, củng cố phòng tuyến ở Bắc Bộ. Từ ngày 13 đến ngày 16-3, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, triển khai các nhiệm vụ quân sự trong tình hình mới.
Hội nghị kiểm điểm tình hình thế giới và tình hình trong nước. Mỹ chuẩn bị chiến tranh chống Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân; phong trào bảo vệ hòa bình do Liên Xô lãnh đạo ngày càng lan rộng; tại Việt Nam, Pháp ra sức củng cố vị trí chính trị, mở rộng càn quét ở Nam Bộ, tăng cường lực lượng, phong tỏa bờ biển, phát triển chiến tranh tình báo. Hội nghị nêu bật những thắng lợi của nhân dân ta trên nhiều mặt, thắng lợi đó chủ yếu do sự đoàn kết và hết sức chiến đấu của toàn dân tộc.
Hội nghị nhấn mạnh tính chất trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh của cuộc kháng chiến. Hội nghị đề ra bốn nhiệm vụ trước mắt:
1. Nắm vững chiến lược chỉ đạo quân sự.
2. Xúc tiến công tác kinh tế tài chính.
3. Tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình.
4. Thi hành Nghị quyết của Đại hội Đảng và Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt toàn quốc.
Về quân sự, Hội nghị đề ra phương châm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta. Ở Bắc Bộ, vận động chiến là chủ yếu, các chiến trường khác đẩy nhanh du kích chiến phối hợp với chiến trường chính.
Về kinh tế, Hội nghị chỉ rõ, chính sách chung là tăng gia sản xuất, bảo đảm cung cấp tích cực thực hiện giảm chi, tiết kiệm, sửa đổi các chế độ thuế khóa cho thống nhất đấu tranh kinh tế với địch. Hội nghị nhấn mạnh, muốn giành thắng lợi trên mặt trận kinh tế tài chính, toàn Đảng phải tăng cường lãnh đạo công tác kinh tế tài chính. Hội nghị quy định bộ máy và lề lối làm việc của Trung ương Đảng, lập Trung ương Cục miền Nam.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng góp phần nâng cao ý thức kháng chiến lâu dài gian khổ, dựa vào sức mình là chính của cán bộ, nhân dân, vạch ra những nhiệm vụ quan trọng tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.505-524.
NGÀY 16-3
Liên khu ủy V Chỉ thị về công tác dân vận
Thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt”, thực dân Pháp ra sức nắm dân, giành dân để chống lại ta. Ở Tây Nguyên, chúng thực hiện những chính sách chia rẽ nhân dân, phát triển ngụy quân, gián điệp, tăng cường áp bức, phá cuộc chiến tranh nhân dân. Việc lãnh đạo tuyên truyền giáo dục cho dân hiểu rõ âm mưu địch đã được thực hiện, song còn nhiều khiếm khuyết. Ngày 16-3-1951, Liên khu ủy V Chỉ thị đẩy mạnh công tác dân vận ở Tây Nguyên.
Công tác dân vận được thực hiện theo các bước: trước hết cần tìm hiểu nhân dân, phong tục tập quán, cách sinh sống của nhân dân.
Phương châm của công tác là lấy việc cải thiện đời sống, bảo vệ tính mạng nhân dân làm gốc; các hình thức tuyên truyền, tổ chức tranh đấu phải phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân, tìm hiểu những chính sách của địch để đối phó kịp thời.
Chỉ thị chỉ rõ những nhiệm vụ chính ở Tây Nguyên là vận động nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống; hướng dẫn dân lánh địch, phát triển làng chiến đấu, giữ làng, rẫy; đào tạo cán bộ địa phương, giáo dục nhân dân.
Ở Tây Nguyên, thời gian này, địch đang xúc tiến tuyển mộ ngụy binh, thành lập những đội chuyên giữ đất Tây Nguyên. Chỉ thị nhấn mạnh, công tác dân vận bao gồm cả địch vận, tuyên truyền, giải thích cho dân, gia đình ngụy binh dẹp bỏ ý thức sợ, ghét bỏ ngụy binh, đồng thời, gây hoang mang rối loạn trong hàng ngũ địch để nội công diệt địch.
Chỉ thị nêu rõ, để làm tốt công tác dân vận, cần phải chỉnh đốn tổ chức và lề lối làm việc; xây dựng các tổ chức quần chúng theo từng thôn xã, thực hiện phương châm “chính quyền và dân vận thống nhất", xây dựng đại đội độc lập vũ trang tuyên truyền làm lực lượng nòng cốt của công tác dân vận trong lòng địch; thống nhất quân, dân, chính dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện công tác dân vận ở Tây Nguyên.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 140.
TỪ NGÀY 27-3 ĐẾN NGÀY 2-4
Hội nghị Cán bộ Nông dân Cứu quốc toàn quốc lần thứ hai
Từ sau Hội nghị Cán bộ Nông dân Cứu quốc toàn quốc lần thứ nhất (tháng 11-1949), phong trào nông dân trên cả nước có bước phát triển mới, toàn diện. Nhằm tiếp tục đánh giá tổ chức Hội Nông dân và phong trào nông dân, Ban liên lạc Nông dân toàn quốc quyết định triệu tập Hội nghị Cán bộ Nông dân Cứu quốc toàn quốc lần thứ hai. Hội nghị được tiến hành từ ngày 27-3 đến ngày 2-4-1951, tại một địa điểm ở Bắc Bộ. Hơn 100 đại biểu đại diện cho giai cấp nông dân, đại biểu Liên Việt, các đảng phái, các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận về dự Hội nghị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh vì bận công việc, không tới dự Hội nghị được, đã gửi thư tới Hội nghị.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới đưa cuộc kháng chiến đến toàn thắng, Hội nghị quán triệt chủ trương đường lối của Đảng của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, tư tưởng chỉ đạo của Trung ương về thực hiện khẩu hiệu ruộng đất trong kháng chiến; Hội nghị bàn bạc về sửa đổi một số điểm trong Điều lệ của Hội.
Sau khi nghe diễn văn khai mạc và lời phát biểu của đại biểu Liên Việt, Hội nghị vinh dự được đón Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Trường Chinh đến chúc mừng và phát biểu những ý kiến chỉ đạo quan trọng.
Tổng Bí thư dành nhiều thời gian nói rõ những điểm trong Tuyên ngôn và Chính cương của Đảng về thái độ của Đảng đối với nông dân và chính sách ruộng đất. Đồng chí nhấn mạnh: trong hoàn cảnh cả nước tập trung vào nhiệm vụ kháng chiến, Đảng vẫn coi nhiệm vụ thực hiện quyền lợi dân chủ cho nông dân "là một trong những nhiệm vụ quan trọng vào bậc nhất". Khẩu hiệu chiến lược của Đảng lúc này là "Liên minh với toàn thể nông dân, kể cả phú nông, hạn chế bóc lột phong kiến, đồng thời kéo địa chủ về phe kháng chiến, đánh đổ bọn đế quốc xâm lược và bọn Việt gian phản quốc, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân". Nhiệm vụ của tổ chức Hội nông dân là động viên nông dân tham gia sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, phát triển sản xuất, đảm bảo cung cấp cho tiền tuyến và hậu phương. Tổng Bí thư nêu những phương châm quan trọng trong việc thi hành chính sách ruộng đất. Để đẩy mạnh phong trào nông dân, Hội nghị cần "chỉnh đốn tư tưởng cho cán bộ nông dân, đề cao việc học tập chính sách để hiểu rõ chính sách, chú trọng điều tra nghiên cứu tình hình cụ thể ở nông thôn để định kế hoạch thi hành cho sát".
Trong những ngày tiếp theo, Hội nghị tập trung thảo luận, quán triệt những nhiệm vụ mới, xây dựng tổ chức Hội đáp ứng tình hình.
Hội nghị kiểm điểm và thông qua việc sửa đổi Điều lệ Hội... nghị quyết đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tích cực tham gia kháng chiến, thi hành đúng đắn chính sách ruộng đất và xây dựng Hội Nông dân Cứu quốc lớn mạnh.
- Báo Nhân dân, ngày 22-4-1951.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930 – 1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.200-204.
TỪ NGÀY 23-3 ĐẾN NGÀY 7-4
Trung ương Đảng chỉ đạo chiến dịch Đường số 18
Năm 1951, Đảng đề ra nhiệm vụ quân sự là đánh dần trung du, củng cố căn cứ địa chính, chọc thủng hành lang Đông - Tây, phát triển du kích, phá kế hoạch chiếm đóng đồng bằng Bắc Bộ của thực dân Pháp. Cuối tháng 2-1951, Bộ Tổng tư lệnh ra Mệnh lệnh mở chiến dịch Đường số 18, tức chiến dịch Hoàng Hoa Thám, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển du kích chiến tranh.
Địa bàn chiến dịch trên đường số 18, đoạn từ Phả Lại đến Uông Bí, nằm trong phạm vi ba phân khu của địch hình thành tuyến phòng thủ đường số 18, có tác dụng bảo vệ vòng ngoài cho Hải Phòng, Hải Dương và đường chiến lược số 5. Tổng số lực lượng địch trong khu vực đường số 18 là 11 tiểu đoàn.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng Đại đoàn 308, Đại đoàn 312, Trung đoàn 98, Trung đoàn 174, bốn đại đội pháo binh, hai tiểu đoàn công binh phối hợp lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch từ Uông Bí đến Bãi Thảo.
Ngày 23-3, đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng chiến dịch điện báo cáo tình hình về Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó hạ lệnh toàn mặt trận bước vào công kích.
Đêm 23-3, mở màn chiến dịch, các tiểu đoàn 23, 322 của Trung đoàn 88, Đại đoàn 308 tiến công tiêu diệt ba vị trí Lọc Nước, Đập Nước, Sống Trâu. Trong các đêm tiếp theo, ta tiến công các vị trí Chấp Khê, Bí Chợ, Mạo Khê Mỏ, Mạo Khê Phố. Ngày 31-3, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy các vị trí còn lại trên đường số 18 đã được địch tăng cường, quyết định kết thúc đợt 1. Ta giải phóng được 30km trên tuyến Mạo Khê phố Biểu Nghi. Chủ lực ta bị tiêu hao.
Cùng thời gian, trên hướng phối hợp, Đại đoàn 320 tiến công Cồn Trọ, Ngô Khê, Thanh Than (Hà Đông - Hà Nam), Đại đoàn 304 tiến công một số mục tiêu ở Vĩnh Phúc, ghìm chân, thu hút địch, không cho chúng ứng cứu cho nhau.
Đêm 4-4, bộ đội ta đồng loạt nổ súng, mở đường đợt 2. Ta đánh một loạt vị từ các đại đội địch chiếm đóng. Trung đoàn 88 đánh Bãi Thảo, Trung đoàn 209 đánh Hoàng Giám, Trung đoàn 98 đánh Hà Chiêu, Trung đoàn 102 đánh Bến Tắm.
Trên các hướng phối hợp, Trung đoàn 42 và bộ đội địa phương dân quân du kích các tỉnh Tả ngạn sông Hồng đã khôi phục được nhiều cơ sở mở lại được nhiều khu du kích ở Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình. Tại Liên khu III ở hướng Sơn Tây, Đại đoàn 320 diệt một loạt vị trí ở Phù Ổ, Cầu Trò, Ngô Tế, Đan Khê... diệt nhiều địch, thu vũ khí.
Lực lượng vũ trang Vĩnh Phúc nhân cơ hội chủ lực về hoạt động, đã đánh 60 trận, thu nhiều kết quả.
Ngày 7-4, Bộ chỉ huy quyết định kết thúc chiến dịch. Kết quả toàn chiến dịch, ta diệt 2.521 tên địch, bắt 580 tên, 39 tên ra hàng, thu 413 súng, phá hủy 89 xe quân sự.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, trong chiến dịch này, ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu. Tuy nhiên "ta đã không hoàn thành nhiệm vụ thật đầy đủ, địch thiệt hại nhưng ta bị tiêu hao". Nguyên nhân chủ yếu do ta chủ quan, đánh giá không đúng so sánh lực lượng địch, ta ở địa bàn chiến lược này.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội 1994, t.II, tr.51-63.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.330.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.178-179.
NGÀY 30-4
Trung ương ra Đề án cải tổ Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương
Ngày 3-3-1951, Đảng Lao động Việt Nam chính thức ra mắt quốc dân, công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc. Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương lúc này không thích hợp nữa. Ngày 11-4-1951, Ban trị sự Trung ương Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương gửi đến Ban trị sự chi hội các cấp Đề án cải tổ Hội nhằm đáp ứng tình hình mới.
Đề án nêu rõ, Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương sẽ cải tổ thành những “nhóm Nghiên cứu chủ nghĩa Mác" ở các địa phương. Những nhóm này không cần đặt thành hệ thống mà liên lạc mật thiết với các đảng bộ của Đảng Lao động Việt Nam, nhận sự hướng dẫn của Đảng để tiếp tục công việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Những Ban trị sự các cấp của Hội sẽ tự giải tán; đình bản báo Sự thật, nhường Nhà xuất bản Sự thật cho Đảng Lao động Việt Nam điều khiển.
Tiếp theo, trong Chỉ thị ngày 30-4-1951 về Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, Trung ương Đảng nêu rõ: Nhà xuất bản Sự thật đổi thành một Nhà xuất bản sách mácxít, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam.
Trung ương chỉ thị các đồng chí phụ trách các chi Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác nhân dịp này tuyên truyền mục đích, tôn chỉ và chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.528-529.
NGÀY 22-4
Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi phụ nữ Ngân Sơn
Ngày 22-4-1951, với bút danh C.B, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Hũ gạo kháng chiến của phụ nữ Ngân Sơn" đăng trên báo Nhân dân,khen ngợi việc làm có ý nghĩa của chị em.
Được sự giúp đỡ của Nông hội và chính quyền địa phương, Hội Phụ nữ Ngân Sơn đã hoạt động tích cực trong phong trào sản xuất, tiết kiệm. Cán bộ phụ nữ đã kiên trì vận động, khuyến khích mọi người thực hiện Hũ gạo kháng chiến. Mặc dù còn rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về lương thực nhưng phụ nữ các dân tộc Ngân Sơn (Bắc Kạn) vẫn thực hiện tiết kiệm trong từng bữa ăn. Từ tháng 1 đến tháng 3-1951, phụ nữ Ngân Sơn đã góp được 2.230 ống gạo tiết kiệm (mỗi ống là 7 lạng gạo).
Về ý nghĩa của Hũ gạo kháng chiến, bài báo viết "Đó là một cách thực hiện chữ Kiệm… Do hũ gạo kháng chiến mà mỗi ngày, mỗi bữa nhân dân nhớ đến bộ đội, bộ đội nhớ đến nhân dân, cảm tình giữa quân và dân càng thêm mặn mà.
Để thấy rõ lợi ích to lớn của công tác này, bài báo nêu một phép tính đơn giản: riêng Bắc Bộ, nếu 485 huyện làm được như Ngân Sơn thì mỗi năm tiết kiệm được 2.500 tấn gạo, đủ nuôi 125.000 người trong một tháng. Nếu các cơ quan và bộ đội đều có hũ gạo kháng chiến thì đủ nuôi 200.000 người trong một tháng; mỗi năm Chính phủ tiết kiệm được mấy trăm triệu đồng lương thực.
Bài báo nêu: để vận động nhân dân làm Hũ gạo kháng chiến, cán bộ phải giải thích cho mọi người, nhất là phụ nữ, hiểu ý nghĩa và lợi ích của công tác này. Đây là việc giản đơn, dễ làm nhưng phải làm lâu dài, bền bỉ. Cán bộ đi thu gạo phải đúng ngày, việc dùng gạo phải minh bạch. Cơ quan, địa phương, bộ đội mỗi tháng tiết kiệm được bao nhiêu phải báo cáo cho quần chúng biết.
Cuối bài báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Việc làm Hũ gạo kháng chiến rất giản đơn mà lợi ích thì to lớn. Mong rằng các cơ quan, bộ đội và địa phương đều cố gắng thi đua làm Hũ gạo kháng chiến như đồng bào Ngân Sơn".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. t.6, tr.194-196.
NGÀY 30-4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề Đảng ra công khai
Sau buổi lễ ra mắt ngày 3-3, Đảng Lao động Việt Nam đã ra công khai nhận sứ mệnh lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngày 30-4-1951, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề Đảng ra công khai.
Chỉ thị chỉ rõ: Đảng ra công khai nhằm tăng cường quyền lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, củng cố khối đoàn kết toàn dân để kháng chiến trường kỳ thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, tạo điều kiện củng cố Đảng về các mặt tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Chỉ thị nêu những việc cần làm là chuẩn bị trong nội bộ Đảng tổ chức việc nghiên cứu sơ bộ Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ, các nghị quyết khác của Đại hội Đảng; giải thích rõ mục đích việc Đảng ra công khai; tổ chức các buổi lễ ra mắt ở cấp khu, tỉnh, huyện và chi bộ.
Trung ương lưu ý vấn đề Đảng ra công khai là động cơ củng cố đại đoàn kết, tạo phấn khởi trong toàn Đảng, toàn dân, đẩy mạnh kháng chiến, song không công bố danh sách toàn thể Ban Chấp hành Đảng bộ địa phương và những cán bộ đang hoạt động, chỉ công bố một số cần thiết. Trong vùng tạm chiếm và vùng bị uy hiếp chỉ công khai nêu danh nghĩa Đảng còn tổ chức và hoạt động vẫn bí mật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.530 - 531.
NGÀY 1-5
Chính phủ ban hành Sắc lệnh thuế nông nghiệp
Thực hiện chính sách thuế khóa của Đại hội II của Đảng (dân chủ hóa thuế khóa dựa trên nguyên tắc người giàu nộp nhiều, người nghèo nộp ít sát với khả năng đóng góp của nhân dân và khuyến khích tăng gia sản xuất, đảm bảo nhu cầu của công cuộc kháng chiến và kiến quốc), ngày 1-5-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13-SL về thuế nông nghiệp.
Sắc lệnh này bãi bỏ các thứ đóng góp về nông nghiệp cho ngân sách toàn quốc và quỹ địa phương như thuế điền thổ, thóc công lương, thóc nộp cho quỹ xã, thóc đắp đường, v.v.; bãi bỏ việc mua thóc định giá; đặt chế độ thu thuế nông nghiệp bằng thóc tính theo hoa lợi.
Nguyên tắc cơ bản của thuế nông nghiệp là thu nhập nhiều phải đóng góp theo tỷ lệ cao. Biểu thuế nông nghiệp áp dụng chế độ lũy tiến: mức tối thiểu là 6% hoa lợi, tối đa là 45% hoa lợi, trung bình 18,5%. Người hưởng hoa lợi đều đóng thuế, tức là kể cả tá điền lĩnh canh ruộng đất của địa chủ cũng phải đóng thuế. Tuy nhiên, thu nhập hoa lợi của tá điền là 100 chỉ coi là 75. Địa chủ không sản xuất mà thu tô thì thu nhập 100 được tính là 125 để chịu thuế.
Thuế nông nghiệp còn căn cứ vào hoàn cảnh của mỗi gia đình, phân biệt các vùng khác nhau, như vùng có chiến tranh, căn cứ du kích thì mức thuế thấp hơn ở vùng tự do, miền núi thu nhẹ hơn miền xuôi. Thuế nông nghiệp được thu bằng thóc.
Từ khi áp dụng Sắc lệnh, thuế nông nghiệp phát huy tác dụng rõ rệt. Năm 1951, mức thu thuế nông nghiệp vượt mức thu thuế điền thổ tới 50%. Trong suốt 4 năm 1951-1954 từ Liên khu V trở ra, thuế nông nghiệp thu được 1.575.000 tấn thóc.
Nhà nước có một lượng lớn thóc gạo bảo đảm nuôi cán bộ, quân đội, bình ổn vật giá.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.608.
- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên): Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954, những sự kiện, Nxb.Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997, tr.264-265.
NGÀY 1-5
Chủ tịch Hồ Chí sinh kêu gọi đồng bào nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5
Nhân ngày 1-5, ngày Hội lao động thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời chúc mừng toàn thể nhân dân lao động. Người nhấn mạnh ngày 1-5-1951 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với cả Việt Nam và toàn thế giới.
Năm 1951, “Nhân dân lao động nước ta (công nhân, nông dân, lao động trí óc) chúc mừng chính đảng của mình, một chính đảng thật trong sạch, thật mạnh mẽ, thật yêu nước, thật cách mạng, là Đảng Lao động Việt Nam.
Từ đây, nhân dân lao động và toàn thể đồng bào ta đã đoàn kết càng đoàn kết thêm, đã hăng hái càng hăng hái thêm đã kiên quyết kháng chiến càng kiên quyết thêm đã tin tưởng về thắng lợi càng tin tưởng thêm".
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi từ ngày l-5-1951, toàn dân ta sẽ đẩy mạnh một đợt mới của phong trào Thi đua ái quốc về mọi mặt, mọi ngành. Trọng tâm thi đua là: quân đội thi đua giết giặc lập công, công nhân thi đua tăng gia sản xuất, nông dân thi đua sản xuất lương thực, trí thức thi đua sáng tác, phát minh, cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính, toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến; tiến tới Đại hội chiến sĩ thi đua kiểu mẫu toàn quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ý nghĩa quan trọng của ngày 1-5 trên thế giới, trong bối cảnh Mỹ ra sức chuẩn bị chiến tranh thế giới thứ ba, Pháp cố bám lấy chiến tranh ở Việt Nam, Liên Xô và các nước dân chủ ra sức gìn giữ hòa bình, nhân dân ta phải góp sức vào công cuộc giữ gìn hòa bình thế giới. Nhiệm vụ quốc tế của nhân dân lao động và đồng bào ta là tiêu diệt thực dân Pháp, đánh bại can thiệp Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên đồng bào ta thi đua với nhân dân các nước bạn để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.200-201.
NGÀY 6-5
Thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 15-SL thành lập Ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng có nhiệm vụ:
1. Phát hành giấy bạc ngân hàng, điều hành sự lưu thông tiền tệ.
2. Quản lý ngân quỹ quốc gia, quản lý ngoại tệ.
3. Quản lý kim dụng bằng các thể lệ hành chính.
4. Đấu tranh tiền tệ với địch.
Nguyễn Lương Bằng được bổ nhiệm giữ chức Tổng giám đốc và Lê Viết Lượng giữ chức Phó tổng giám đốc Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
Ngày 20-7-1951, theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định thành lập Kho bạc nhà nước đặt trong Ngân hàng quốc gia Việt Nam, thuộc Bộ Tài chính.
Việc thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam góp phần giải quyết những khó khăn về kinh tế - tài chính, đẩy mạnh kháng chiến. Ngân hàng lập kế hoạch cho nhân dân vay vốn để phát triển sản xuất, mở mang kinh doanh công thương nghiệp. Riêng trong hai năm 1953-1954, ngân hàng đã giúp nông dân ở 620 xã phát động giảm tô, cải cách ruộng đất; lập 8.605 quỹ vay mượn tương trợ, gồm 13 vạn gia đình với số vốn 3.370 tấn gạo và 22 triệu đồng.
- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên): Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954, những sự kiện, Nxb.Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997, tr.265-266.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.266.
- Biên niên sử hoạt động tài chính của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
NGÀY 6-5
Trung ương chủ trương tăng cường công tác tài chính
Lợi dụng khó khăn và những mặt non yếu, sơ hở của ta về cung cấp tài chính, thực dân Pháp kiểm soát gắt gao việc mang hàng từ vùng tạm chiếm ra vùng tự do, đồng thời tìm mọi cách phá giá đồng tiền của ta. Tiền tệ sụt giá, lương thực cung cấp cho quân đội chưa đầy đủ, tình hình tài chính của ta gặp nhiều khó khăn.
Ngày 6-5-1951, Trung ương ra Thông tư gửi các Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV về tăng cường công tác tài chính, đảm bảo cung cấp cho chiến tranh, trọng tâm của công tác là "tăng thu, giảm chi".
Thực hiện tăng thu, Bộ Chính trị đã quyết định bãi bỏ chế độ thuế khóa cũ đối với nông dân, cấm các đóng góp phức tạp ở địa phương, đặt ra một loại thuế nông nghiệp duy nhất, trên nguyên tắc bảo đảm cung cấp cho chiến tranh. Trung ương nêu rõ trong khi chờ thi hành thuế nông nghiệp vào vụ mùa, mỗi liên khu cần phải vay trước của dân vào vụ chiêm một số thóc theo thể lệ của Bộ Tài chính. Mức vay là:
Liên khu Việt Bắc:
- Vùng tự do 15.000 tấn cho ngân sách toàn quốc.
- Vùng tạm chiếm 3 000 tấn cho ngân sách xã.
Liên khu III: 20 000 tấn.
Liên khu IV: 40 000 tấn.
Thời gian thực hiện vay trước của dân là một tháng sau khi gặt chiêm và chuẩn bị thu thuế nông nghiệp trong vụ mùa.
Trung ương nhấn mạnh, để thực hiện tốt công tác này, các cấp ủy phải tổ chức hội nghị giải thích, học tập chính sách trong nội bộ và nhân dân, đưa một số cán bộ có năng lực về nông thôn, phối hợp với các cấp, các ngành để thực hiện. Công tác thuế nông nghiệp, vay trước trong vụ chiêm là một công tác quan trọng cấp bách, ảnh hưởng đến công cuộc kháng chiến và nền kinh tế tài chính. Trung ương nhắc nhở các cấp ủy, đảng viên hiểu rõ và thực hiện tốt nhiệm vụ.
- Tư liệu lưu Kho Lưu trữ Trung ương Đảng
NGÀY 11-5
Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu Việt Bắc lần thứ nhất
Ngày 11-5-1951, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc tiến hành Đại hội đại biểu toàn Liên khu. Dự Đại hội có gần 200 đại biểu của 16 tỉnh, hai khách mời là đồng chí Đông Phương Sóc - chiến sĩ chuyên đánh mìn ở Bắc Ninh và chị Ngô Thị Nội - nữ chiến sĩ người Thái ở Yên Bái. Đồng chí Hoàng Quốc Việt, đại diện Trung ương về dự Đại hội.
Đại hội nghiên cứu Chính cương và Điều lệ Đảng, kiểm điểm tình hình liên khu, đề ra những nhiệm vụ trong thời gian tiếp theo.
Về quân sự, Đại hội quyết định xây dựng và phát triển các lực lượng vũ trang, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống càn quét, phá tề trừ gian.
Về kinh tế tài chính, Đại hội chủ trương phát triển sản xuất nông nghiệp, công thương nghiệp. Đại hội dành hai ngày thảo luận về thuế nông nghiệp, về cách thức tạm vay trong vụ chiêm, về Ngân hàng quốc gia Việt Nam và cơ quan mậu dịch.
Đối với công tác ở những khu du kích và vùng tạm chiếm, Đại hội phê bình xu hướng cầu an của một số cán bộ trong những lúc gian khổ, ác liệt, đồng thời phê phán khuynh hướng "tả" và hữu trong lãnh đạo nhân dân. Các cấp bộ Đảng cần nắm vững phương châm công tác là đẩy mạnh phong trào của nhân dân nhằm phát triển và củng cố cơ sở của ta.
Đại hội nhấn mạnh mấy vấn đề trong công tác ở những vùng mới giải phóng: đoàn kết nhân dân, khoan hồng với những người có lỗi biết hối cải, giúp nhân dân phục hồi sản xuất.
Đại hội nêu rõ tầm quan trọng của công tác dân vận, nhằm đoàn kết toàn dân phục vụ kháng chiến.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội đề ra những nhiệm vụ cụ thể: chỉnh đốn tư tưởng, nâng cao trình độ chính trị của cán bộ, đảng viên, chấn chỉnh tổ chức và lề lối làm việc. Đại hội nhấn mạnh công tác phê bình và tự phê bình.
Sau khi thảo luận và quyết định những vấn đề trên, Đại hội bầu Liên khu ủy. Chiều ngày 20-5-1951, Đại hội bế mạc.
- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ân (Chủ biên): Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945-1954, những sự kiện, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội 1997, tr.267.
- Báo Nhân dân, ngày 14-6-1951.
NGÀY 12-5
Ban Bí thư Trung ương ra Thông tri Về tổ chức của Hội Nông dân Cứu quốc
Ngày 12-5-1951, Ban Bí thư Trung ương ra Thông tri cho các cấp bộ Đảng và các Đảng đoàn về việc không thống nhất Hội Nông dân Cứu quốc lên toàn quốc. Từ tình hình thực tế phong trào nông dân; Trung ương quyết định Hội Nông dân Cứu quốc chỉ để từ cấp khu trở xuống. Để công khai, tạm thời ở Trung ương có một ban liên lạc gọi là Ban liên lạc Nông dân toàn quốc, về Đảng có Ban Nông vận Trung ương của Đảng.
Để giải thích thắc mắc, làm cho cán bộ, quần chúng, hội viên nông dân hiểu rõ quyết định này, Trung ương nêu rõ lý do: công tác nông vận rất quan trọng, nếu thống nhất lên Trung ương, các cấp bộ Đảng sẽ xem nhẹ, khoán trắng cho các đồng chí Đảng đoàn nông dân. Hơn nữa, tình hình nông thôn mỗi nơi một khác, nếu thống nhất lên Trung ương, Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc không thể chỉ đạo sát từng địa phương Chính sách nông thôn rất quan trọng, Ban Chấp hành Nông dân Cứu quốc Trung ương khó đảm nhiệm được hết. Đảng đã công khai hoạt động, chính sách của Đảng đối với nông dân được công bố rỡ ràng, hợp với lợi ích của nông dân.
Từ đây, các cấp ủy Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào nông dân, hướng dẫn các Đảng đoàn Nông dân trong thực hiện công tác.
Tiểu ban Nông vận Trung ương có nhiệm vụ nghiên cứu tổng kết tình hình, giúp Trung ương đề ra chính sách chỉ đạo sản xuất cải cách ruộng đất, cải thiện đời sống nhân dân, tổ chức và giáo dục nông dân.
Trung ương nhấn mạnh: các khu, tỉnh liên lạc mật thiết và giúp Tiểu ban Nông vận Trung ương theo dõi tình hình nông thôn và việc thi hành chính sách của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.537-539.
NGÀY 12-5
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về nhiệm vụ và tổ chức công an
Nhằm tổ chức lại bộ máy và phân định rõ nhiệm vụ của ngành công an trong giai đoạn cách mạng mới, ngày 12-5-1951, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 5-CT/TW quy định Về nhiệm vụ và tổ chức công an.
Chỉ thị nêu rõ: nhiệm vụ của công an là bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ nền kinh tế, quân đội, nhân dân.
Từ nhiệm vụ đó, công tác của công an là chống phản động, điều tra, nghiên cứu, khám phá tổ chức và hoạt động của bọn gián điệp, các tổ chức chính trị phản động trong nước; chống sự thâm nhập của gián điệp vào mọi nơi mọi ngành, bảo vệ biên giới. Trong công tác giữ trật tự an ninh, công an điều tra, khám phá, bài trừ các tệ trộm cắp, mại dâm, thuốc phiện… kiểm soát thi hành luật lệ giao thông, các thể lệ hành chính địa phương.
Chỉ thị quy định công an không phải làm các công tác: điệp báo hay tình báo chiến lược, quân báo hay tình báo chiến thuật, địch vận, phá hoại, diệt bù nhìn, diệt tề, phục kích địch, công đồng vũ trang tuyên truyền, các việc trong 1 vùng tạm chiếm, coi giữ tù binh, quản trị nhà giam, bao vây kinh tế địch.
Nha công an trong Bộ Nội vụ có thể gồm các bộ phận: bộ phận phụ trách bảo vệ chính trị, bộ phận phụ trách công việc trị an hành chính, bộ phận nghiên cứu, văn phòng, trường học công an.
Ban Bí thư chỉ thị các cấp ủy phải cử những cán bộ có trình độ, được tin cậy vào làm công tác công an; thường xuyên lãnh đạo công tác công an; không tự ý điều động cán bộ công an đi làm việc khác.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.254-257.
TỪ NGÀY 12-5 ĐẾN NGÀY 25-6
Bộ Tư lệnh Khu 9 mở chiến dịch Sóc Trăng 2
Năm 1951 là một trong những năm khó khăn nhất của Nam Bộ. Trên địa bàn miền Tây Nam Bộ, địch tổ chức thêm những lực lượng đặc biệt chuyên trách phá và kiểm soát giao thông. Ở Sóc Trăng chúng lập các khu tự trị vũ trang trong các sóc đồng bào Khơme, tổ chức lực lượng chiếm đóng trong 10 đồn bốt lớn. Chúng ráo riết sử dụng lực lượng Cao đài, Hòa hảo phản động càn quét cướp phá tài sản, thóc gạo của nhân dân.
Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Khu 9 quyết định mở chiến dịch Sóc Trăng 2, nhằm giải phóng đồng bào Khơme đang bị kìm kẹp, mở rộng vùng giải phóng, phá hệ thống chiếm đóng của địch.
Ban chỉ huy chiến dịch được thành lập, lực lượng tham gia chiến dịch gồm Trung đoàn Tây Đô và bộ đội địa phương, dân quân du kích Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ.
Địa bàn chiến dịch ở các huyện Thạch Trị, Vĩnh Châu, Long Phú, Châu Thành tỉnh Sóc Trăng.
Đợt 1, chiến dịch mở màn ngày 13-5-1951, Tiểu đoàn 408 tiến công đồn Xã Sang. Ngày 14-5, Tiểu đoàn 410 đánh đồn Xẻo Me. Trong các đêm từ 17-5 đến 9-6, du kích, bộ đội địa phương đánh nhỏ, quấy rối tiêu hao địch, đánh địch vào càn ở xã Long Đức, gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Đợt 2, từ ngày 10-6, bắt đầu bằng chín trận đánh của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Ngày 25-6, chiến dịch kết thúc.
Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu 204 tên địch. Thắng lợi quân sự tuy không cao, song về chính trị, chiến dịch đã tạo một khí thế mới trong quần chúng. Ta gây dựng được cơ sở cách mạng trong vùng Sóc người Khơme có vũ trang ở Thành Trị và Vĩnh Châu.
- Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ân: Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945- 1954, những sự kiện,Nxb.Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1997, tr. 267-268.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.332-336.
NGÀY 14-5
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về việc tổ chức Tiểu ban tài chính của Đảng
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất về bộ máy, lề lối làm việc của Trung ương, tổ chức các cơ quan giúp việc, ngày 14-5-1951, Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết Về việc tổ chức Tiểu ban tài chính của Đảng.
Ban Tài chính Trung ương đổi tên thành "Tiểu ban Tài chính", trực thuộc Ban Bí thư. Tiểu ban gồm hai bộ phận; bộ phận Ngân sách và bộ phận Kinh doanh. Tiểu ban Tài chính có thể gồm từ ba ủy viên trở lên do Trung ương chỉ định.
Tiểu ban Tài chính có nhiệm vụ giúp Trung ương quản lý tài sản của Đảng; lập ngân sách hàng năm và thường xuyên kiểm soát việc thu, chi trong Đảng; thực hiện kế hoạch kinh doanh; xây dựng tài chính chi bộ. Tiểu ban Tài chính và Ban Kinh tế Tài chính cần liên hệ mật thiết trong các công tác, cử đại biểu dự các hội nghị, trao đổi tài liệu cần thiết.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.540-541.
NGÀY 15-5
Trung ương chủ trương bảo vệ thóc lúa
Tháng 3-1951, chỉ huy Pháp ở Bắc Bộ Đờ Linarét ra mệnh lệnh mở chiến dịch cướp phá thóc lúa. Chúng cho quân theo dõi nông dân gặt hái, kiểm soát chợ búa, giao thông, bắt phải bán thóc, nếu không, sẽ phá hết thóc lúa. Nhiều nơi, chúng đổ gạo xuống sông, xuống ao, cướp phá tàn bạo. Ngày 15-5-1951, Trung ương ra Thông tri về việc bảo vệ thóc lúa.
Trung ương nêu rõ, các cấp Đảng bộ nhân dân phải nhận thức đầy đủ về âm mưu của dịch, đặc biệt trong lúc vấn đề lương thực của quân đội ta ngày càng khó khăn. Từ đó có ý thức và kế hoạch tích cực bảo vệ thóc lúa, nhất là ở những vùng tạm chiếm và nơi gần vùng tạm chiếm.
Các cấp bộ phải chú ý nhiệm vụ bảo vệ thóc lúa quan trọng như nhiệm vụ tăng gia sản xuất, tuyên truyền cho nhân dân hiểu nhân dân tích cực phân tán, cất giấu, chuyển thóc lúa ra vùng tự do.
Trung ương nhấn mạnh, bộ đội địa phương và du kích có kế hoạch hoạt động và phá những trận giặc phá lúa, yểm hộ nhân dân gặt hái, chuyên chở thóc lúa, liên kết tác chiến, xây dựng lực lượng với việc bảo vệ thóc lúa mùa màng.
Trung ương chỉ rõ: đây là nhiệm vụ quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân việc cung cấp lương thực cho bộ đội nên các cấp phải hết sức chú ý thi hành.
- Tư liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 299B.3.
NGÀY 24-5
Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra Chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Liên khu III về nhiệm vụ của bộ đội địa phương trong chiến dịch Quang Trung
Tháng 4-1951, Trung ương Đảng mở chiến dịch Quang Trung nhằm tiêu diệt sinh lực địch, thúc đẩy chiến tranh du kích, tranh thủ nhân dân, phá khối ngụy quân của địch. Ngày 24-5, Đại tướng đã chỉ thị cho bộ đội địa phương Liên khu III về các nhiệm vụ trong chiến dịch.
Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ của Liên khu III là: trong lúc địch đang phải đối phó với lực lượng chủ lực của ta, cần hoạt động mạnh để tiêu hao lực lượng chúng tại các hướng chính là Tả ngạn, tranh thủ củng cố những cơ sở vừa bị càn quét đồng thời thúc đẩy công tác địch vận.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên, Chỉ thị nêu ra những việc cụ thể phải làm là tiêu diệt các tháp canh hương dũng bằng nội công, nguội kích, đánh những đội quân cơ động nhỏ của địch, kết hợp phá hoại những đường giao thông quan trọng (số 5, 1, 6, 22, 10, 21). Vừa tiêu diệt địch, ta cần chuẩn bị chống càn quét, tổ chức cho nhân dân giữ lúa, mở rộng công tác tuyên truyền, đặc biệt trong các gia đình ngụy binh Công giáo.
Chỉ thị giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 42 (chủ lực Tả ngạn) phối hợp với Hữu ngạn tích cực hoạt động sau chiến dịch kết thúc.
Chỉ thị nhắc nhở Liên khu, trong khi thực hiện chiến tranh du kích cần kết hợp giữa lối đánh tiêu diệt và đánh tiêu hao đề phòng các tư tưởng chủ quan, không ỷ vào chủ lực cần cố gắng khắc phục mọi khó khăn, giáo dục bộ đội thông suốt công tác dân vận.
- Tư liệu lưu tại Bộ Quốc phòng, phông số 6, HSS 401.
TỪ NGÀY 28-5 ĐẾN NGÀY 20-6
Trung ương Đảng chỉ đạo chiến dịch Hà Nam Ninh2
Đầu năm 1951, nhờ viện trợ của Mỹ, Pháp tăng nhanh được lực lượng quân sự trên chiến trường Việt Nam. Vừa phát triển lực lượng, thực dân Pháp vừa tiếp tục xây dựng tuyến công sự mới, đẩy mạnh càn quét, bình định trên khắp các chiến trường. Tiếp tục kế hoạch tiến công ở trung du và đồng bằng, ngày 20-4-1951, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Hà Nam Ninh.
Mở chiến dịch này, Trung ương Đảng nhằm tập trung một bộ phận chủ lực tiến công quân địch trên chiến trường Hữu ngạn Liên khu III, phá kế hoạch củng cố thế phòng ngự chiến lược của địch trên chiến trường Bắc Bộ.
Ngày 4-5, Đảng ủy Mặt trận Quang Trung được thành lập do Trung ương chỉ định. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư Đảng ủy, đồng thời là Tư lệnh Mặt trận Quang Trung. Ngày 6-5, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị gửi Đảng ủy chiến dịch nhắc nhở tuyệt đối không chủ quan khinh địch, cần linh hoạt trong khi vận dụng phương châm tác chiến và chiến thuật, phải thắng không chỉ về quân sự mà cả về chính trị, đẩy mạnh chiến tranh du kích và mở rộng chiến tranh nhân dân trong chiến dịch và sau khi kết thúc chiến dịch v.v..
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm các Đại đoàn 304, 308, 320 và năm liên đội pháo, một trung đoàn công binh; lực lượng vũ trang địa phương gồm bốn tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, một số đại đội bộ đội địa phương huyện và toàn bộ dân quân du kích trong địa bàn chiến dịch thuộc ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Liên khu III chuẩn bị chiến trường. Công tác hậu cần bảo đảm vật chất cho gần 50.000 bộ đội và 45.000 dân công. Nhân dân nhiều địa phương từ Việt Bắc đến Liên khu III, Liên khu IV hăng hái đóng góp sức người sức của cho chiến dịch. Đến ngày nổ súng, công tác chuẩn bị được bảo đảm đúng thời gian.
Đêm 28-5, mở đầu chiến dịch, Tiểu đoàn 79 của Trung đoàn 102, Đại đoàn 308 trên đánh Đại đội Commăngđô Phrăngxoa ở thị xã Ninh Bình tiêu diệt địch trong vòng 30 phút. Đại đoàn 304 tiêu diệt các vị trí ở Yên Mô, Yên Khánh. Đêm tiếp theo, ta tiến công hai vị trí Non Nước và Gối Hạc. Trên hướng thứ yếu, Đại đoàn 320 tiêu diệt vị trí Cảnh Linh, Võ Giăng, Hưng Công. Sau bốn ngày tác chiến, ta tiêu diệt 10 vị trí địch, trong đó có vị trí địch ở thị xã Ninh Bình.
Từ đầu tháng 6, địch tăng cường lực lượng và thay đổi bố trí. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chia đợt 2 làm hai bước. Bước l, từ ngày 1 đến ngày 7-6, ta tiến công tiêu diệt một số cứ điểm, diệt trên hai đại đội địch. Bước 2, từ ngày 8 đến ngày 20-6, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ mùa màng, củng cố và khuếch trương thắng lợi chính trị của chiến dịch phát triển binh vận.
Ở hướng Tả ngạn sông Hồng, Trung đoàn 42 cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích tiêu diệt 18 hương đồn, bức rút 12 hương đồn ở Phù Cừ, Tiên Lữ (Hưng Yên), Gia Lộc, Bình Giang (Hải Dương), Quỳnh Côi (Thái Bình).
Lực lượng vũ trang địa phương Ninh Bình, Nam Định, Hà Đông, Hà Nam phối hợp bộ đội chủ lực hoạt động mạnh mẽ ở nhiều nơi.
Căn cứ vào tình hình địch và ta, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch ngày 20-6.
Kết quả toàn chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 4.050 tên địch, thu hơn 100 súng các loại, nhiều quân trang quân dụng, phá hủy nhiều loại xe. Ta diệt 12 vị trí, bức rút nhiều vị trí khác. Bộ đội chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách dân vận, tôn giáo, địch vận, tranh thủ được lòng dân, làm cho đồng bào Công giáo hiểu thêm về kháng chiến, chính sách của Đảng và Chính phủ. Nhiều cơ sở quần chúng trong địch hậu được khôi phục, nhiều cơ sở Đảng được xây dựng lại. Chiến tranh du kích được thúc đẩy dọc sông Đáy và Hữu ngạn sông Hồng.
Bộ chỉ huy chiến dịch đã chọn mục tiêu là nơi địch yếu nhất, sơ hở nhất trong toàn bộ chiến trường Nam Liên khu. Lần đầu tiên tiến công lớn vào đồng bằng, ta còn chủ quan trong đánh giá so sánh lực lượng, chọn hướng tiến công chiến lược nên kết quả chiến dịch hạn chế.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.534-356.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, t.II, tr.66-82.
- Quân khu 3 lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.272-280.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.178-179.
NGÀY 31-5
Ban Bí thư Trung ương Đảng Chỉ thị Về tăng cường công tác tình báo
Góp phần đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới, ngày 31-5-1951, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 07-CT/TW Về tăng cường công tác tình báo.
Trung ương chỉ rõ công tác tình báo là một công tác quan trọng trong cuộc đấu tranh với địch. Trung ương quyết định thành lập ngành tình báo (chiến lược) và đặt một Ban tình báo trực thuộc Trung ương thống nhất chỉ đạo công tác tình báo, quân báo và công an.
Ngành tình báo chiến lược đặt trong Phủ Thủ tướng.
Nhiệm vụ của ngành là điều tra, nghiên cứu tình báo chiến lược về quân sự, chính trị, kinh tế, đặc vụ địch, nguy. Từ đó, Đảng có những quyết sách chủ động, kịp thời. Địa bàn hoạt động là các thành phố lớn, các vùng có tầm quan trọng chiến lược, vùng tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số… Đối tượng chính của công tác tình báo chiến lược là đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, ngụy quyền Bảo Đại. Chỉ thị nêu rõ phương châm của công tác này là "trường kỳ mai phục đi sâu từng bước", sử dụng những người có thể sử dụng được, trừng trị thủ phạm, khoan hồng người bị buộc theo, thưởng người có công.
Đảng phải hoàn toàn lãnh đạo ngành tình báo. Các cấp ủy phải tăng cường lãnh đạo, giúp đỡ công tác tình báo. Cán bộ cốt cán của ngành phải là đảng viên, trung thành với Đảng, có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ lý luận, văn hóa, kinh nghiệm xã hội.
Thực hiện chủ trương của Trung ương, Nha công an Trung ương tách Ban điệp báo sang ngành tình báo. Quân đội vẫn có Cục quân báo. Ngành công an không làm công tác tình báo chiến lược nhưng có công tác tình báo phản gián.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.257-259.
NGÀY 13-6
Trung ương ra Thông cáo phá âm mưu tổ chức "Quốc hội" bù nhìn
Tháng 3-1951, sau khi Chính phủ Trần Văn Hữu làm lễ tuyên thệ, thực dân Pháp hoàn tất việc lập chính quyền tay sai. Ở vùng tạm bị chiếm, bọn Việt gian mưu mô tổ chức Quốc hội bù nhìn, thực hiện chiêu bài "độc lập, thống nhất" giả hiệu của Pháp, Mỹ. Ngày 13-6-1951, Trung ương ra Thông cáo về việc phá mưu mô tổ chức "Quốc hội" bù nhìn của giặc.
Trung ương chủ trương vạch trần mưu mô xảo trá của giặc, các báo chí và đài phát thanh của ta lên tiếng vạch âm mưu của địch trước dư luận thế giới và nhân dân, đặc biệt là dân trong vùng tạm bị chiếm.
Nếu giặc thực hiện "Quốc hội" bù nhìn bằng bầu cử thì vận động thân sĩ và quần chúng tẩy chay, phản đối, không ra ứng cử, không đi bầu cử. Nếu chúng thực hiện chỉ định nghị sĩ thì vận động những người được chỉ định không tham gia "Quốc hội” bù nhìn.
Trung ương nhấn mạnh, cần đưa sự thật chế độ dân chủ nhân dân của ta đập lại dân chủ giả dối của địch. Cần tập trung công tác tuyên truyền vào các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn.
Trung ương nhắc nhở, các địa phương cần đặt kế hoạch thi hành sát thực tế những vùng tạm chiếm trong phạm vi của mình.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 286.
NGÀY 27-6
Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị Về việc phát hành giấy bạc ngân hàng
Sau khi Ngân hàng quốc gia Việt Nam thành lập, giấy bạc ngân hàng được phát hành thay thế giấy bạc tài chính. Ngày 27-6-1951, Ban Bí thư Trung ương chỉ thị cho các cấp bộ về việc phát hành giấy bạc ngân hàng. Chỉ thị nêu rõ:
Ngân hàng quốc gia Việt Nam thay Bộ Tài chính phát hành giấy bạc, đồng thời quản lý việc phát ra thu vào để giữ giá đồng bạc. Giấy bạc ngân hàng phát hành từ tháng 6-1951 ở Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, Liên thu IV và những nơi cần chi tiêu cho quân sự. Giấy bạc do Ngân hàng phát hành định giá 10 đồng giấy bạc Bộ Tài chính.
Trung ương chỉ rõ: các cấp ủy, cơ quan kinh tế tài chính và đảng viên phải: phổ biến rộng rãi các tài liệu của Ngân hàng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng; thực hiện triệt để tiết kiệm, giảm chi tiêu; tăng thu theo các loại thuế đã được quy định; giữ ổn định tỷ lệ giá trị giữa đồng bạc ngân hàng và đồng bạc Bộ Tài chính; có biện pháp đối phó kịp thời với mưu mô phá hoại đồng bạc của địch; cơ quan mậu dịch tăng cường bán và mua hàng của nhân dân.
Trung ương nhấn mạnh, công tác ngân hàng và công tác phát hành giấy bạc là công tác mới nên cán bộ, nhân dân phải hết sức thực hiện để giữ giá đồng bạc, giá sinh hoạt, ổn định đời sống và phát triển kinh tế.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.557-561.
NGÀY 29-6
Ban Thường vụ Liên khu ủy III ra Chỉ thị đối phó với việc cướp phá thóc lúa của địch
Với mục tiêu làm cho ta gặp khó khăn về kinh tế tài chính, nhân dân đói nghèo, không đủ cung cấp cho kháng chiến, ở đồng bằng Liên khu III, địch dùng mọi thủ đoạn để cướp thóc lúa, ném bom, bắn phá, tưới xăng đốt thóc, hoặc đổ thóc xuống ao... Trước hành động dã man đó, Ban Thường vụ Liên khu ủy III đã chỉ thị cho các địa phương kiên quyết chống âm mưu của địch.
Chỉ thị ra ngày 29-6-1951 nêu rõ: "Tích cực ngăn cản và phá các cuộc cướp bóc đốt phá của địch, tuyên truyền vạch những thủ đoạn và hành động dã man của chúng về việc cướp bóc, đốt phá thóc lúa của nhân dân để tố cáo tội ác chúng trước nhân dân và thế giới".
Chỉ thị đề ra kế hoạch cụ thể đối với hành động cướp bóc, phá thóc và tập trung thóc của địch.
Các cấp chính quyền giải thích cho nhân dân hiểu âm mưu của địch, tố cáo tội ác của chúng cho nhân dân và thế giới rõ, tổ chức các đơn vị nhỏ bộ đội địa phương cùng du kích canh gác cho dân thu hoạch lúa, vận động đồng bào không đi lấy thóc làng khác, cất giấu các phương tiện chuyên chở thóc, tổ chức cho dân chở thóc phân tán ra vùng tự do, không để thóc mục hỏng.
Đối với hành động tập trung thóc, ta vận động nhân dân khất lần hoặc bất đắc dĩ phải đưa thóc lên vị trí thì đưa số lượng ít. Đồng thời cần tổ chức lực lượng bắt bọn đi đong thóc và áp tải thóc, tại địa điểm tập trung thì đánh cướp lại thóc.
Chỉ thị đã vạch ra kế hoạch, biện pháp cho các cấp lãnh đạo cùng nhân dân phá âm mưu thâm độc của địch, giữ và bảo vệ nguồn lương thực phục vụ kháng chiến.
- Tư liệu du tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng.
THÁNG 7
Đại hội Giáo dục toàn quốc lần thứ nhất
Nhằm tổng kết một năm công tác giáo dục và bàn biện pháp thực hiện đường lối giáo dục của Đảng đã được chỉ ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, tháng 7-1951, ngành giáo dục đã tiến hành Đại hội Giáo dục toàn quốc.
Đại hội vinh dự nhận được Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bức thư, Người nêu rõ: "Đại hội nên kiểm thảo kỹ công tác "cải cách" về chương trình, chủ trương và cách thi hành, để tìm thấy những khuyết điểm mà sửa đổi những ưu điểm mà phát triển thêm.
Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục liên kết với đời sống của nhân dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm thế nào để phối hợp việc giáo dục của trường học với việc tuyên truyền và giáo dục chính trị chung của nhân dân".
Thực hiện lời căn dặn của Người, Đại hội Giáo dục toàn quốc đã nêu rõ nhiệm vụ của ngành giáo dục là cần phải kiên quyết xây dựng một nền giáo dục nhân dân theo ba phương châm phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân, phục vụ sản xuất. Trên cơ sở đó, Đại hội nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh công tác bổ túc văn hóa cho công nông; kết hợp chặt chẽ nhà trường với đời sống xã hội và lao động sản xuất; tăng cường bồi dưỡng tư tưởng cho cán bộ giáo dục và đào tạo cán bộ mới.
Đại hội Giáo dục toàn quốc đánh dấu một bước tiến mới trong ngành giáo dục.
Theo tinh thần của Đại hội, từ năm 1951, Nhà nước mở thêm hệ phổ thông lao động để bổ túc văn hóa chuyên tu cho chiến sĩ thi đua, cán bộ, công nhân xuất sắc, nâng cao trình độ văn hóa cho học sinh phổ thông hệ 9 năm, song thời gian học rút ngắn hơn. Với hệ này, chúng ta đã từng bước giải quyết nhu cầu của cán bộ, chiến sĩ tham gia kháng chiến không có điều kiện học chính quy.
Từ sau Đại hội, số lượng học sinh đã tăng nhanh. Năm học 1951 - 1952, ở các Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, IV, V đã có 3.482 trường phổ thông cấp I với 373.803 học sinh, 102 trường phổ thông cấp II với 36.859 học sinh, 7 trường phổ thông cấp III với 549 học sinh. So với năm 1950, số trường cấp I tăng 130%, số trường cấp II và cấp III tăng 333%. Ngoài ra, trong năm 1951 còn thanh toán nạn mù chữ cho gần 1 triệu người.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr.78-79.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t.6, tr.266.
THÁNG 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào ở Vân Nam
Một bộ phận đồng bào ta đang sinh sống ở Vân Nam (Trung Quốc) có lòng yêu nước nồng nàn, ủng hộ kháng chiến và đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
Để khen ngợi, động viên kịp thời kiều bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào ở Vân Nam. Trước hết, Người khen ngợi phụ nữ kiều bào có tinh thần học quốc ngữ, xung phong công tác quyên góp kháng chiến. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Mao Chủ tịch, Đảng Cộng sản, Chính phủ nhân dân và bà con Trung Quốc đều đối với kiều bào ta như anh em một nhà. Vậy kiều bào ta càng phải đoàn kết nội bộ, khuyên bảo nhau ủng hộ Đảng, ủng hộ Chính phủ thành thật đoàn kết với anh em Trung Hoa, học tập những đạo đức và kinh nghiệm quý báu của Trung Quốc để giúp ích cho nước nhà”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mong rằng kiều bào ta cố gắng hơn nữa để thắt chặt tình đoàn kết thân ái giữa hai dân tộc Việt - Trung.
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên đồng bào ta ở Vân Nam hăng hái công tác, tăng cường đoàn kết hơn nữa giữa nhân dân ta với nhân dân Trung Quốc.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.267-268.
NGÀY 23-7
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về công tác thu thuế nông nghiệp
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là trường kỳ, gian khổ, nên việc thu thuế nông nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt để cung cấp lương thực, phục vụ kháng chiến.
Do vậy, ngày 23-7-1951, Trung ương ra Chỉ thị gửi cho các Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV Về công tác thu thuế nông nghiệp.
Chỉ thị nêu rõ, các cấp, các ngành phải động viên toàn Đảng, toàn dân thu đúng, thu đủ thuế theo Điều lệ đã ban hành; phải tuyên truyền giáo dục giải thích sâu rộng chính sách và phương pháp thu thuế nông nghiệp cho nhân dân hiểu. Nhân công tác thu thuế để chỉnh đốn những sai lầm của cán bộ, đảng viên về tư tưởng, đảng tính, tinh thần kỷ luật.
Trong thời gian thu thuế nông nghiệp, Khu ủy phải thường xuyên báo cáo lên Trung ương về kế hoạch công tác của Khu ủy, kết quả và triển vọng của việc thu thuế. Trung ương nhấn mạnh công tác thu thuế nông nghiệp ở Liên khu Việt Bắc, Liên khu III, IV là một chiến dịch lớn cần động viên lực lượng toàn Đảng, toàn dân tham gia. Và công tác này hoàn thành sẽ đảm bảo việc cung cấp cho bộ đội, công nhân, công chức, cán bộ, tăng số thu vào ngân sách và có ảnh hưởng về mặt cung cấp kinh tế tài chính rất lớn.
Chỉ thị còn hướng dẫn kế hoạch cụ thể cho các đoàn hướng dẫn thu thuế nông nghiệp của Trung ương.
Nhiệm vụ là phải làm cho cán bộ nhân dân vùng tự do, vùng tạm chiếm hiểu rõ ý nghĩa, chính sách và phương pháp tiến hành thuế nông nghiệp, làm kế hoạch điều tra, định số thu hoạch, kết hợp "dân chủ bình nghị" để thực hiện nhiệm vụ thuế nông nghiệp do Chính phủ và Trung ương giao.
Phương châm của việc thu thuế nông nghiệp là tùy theo từng hoàn cảnh địa phương khác nhau để điều tra, định số thu hoạch.
Vùng tự do nào mà cơ sở Đảng, chính quyền và cơ sở quần chúng vững chắc thì dùng phương pháp điều tra, định sẽ thu hoạch với cách dân chủ bình nghị, cấp trên chuẩn y rồi tiến hành thu thuế (phương pháp này đã thí nghiệm ở Liên khu Việt Bắc). Đối với những vùng núi mà cơ sở Đảng, chính quyền và cơ sở quần chúng còn quá kém thì nghiên cứu tình hình cụ thể rồi dùng phương pháp điều tra và định mức thích hợp.
Vùng tạm bị chiếm cũng phải phân biệt những nơi cơ sở mạnh, yếu, sự kiểm soát của địch để lập ra phương pháp điều tra "bình sản lượng”.
Phương pháp điều tra này sẽ làm cho các cấp lãnh đạo và cán bộ tin tưởng vào việc hoàn thành thuế nông nghiệp; đào tạo được cán bộ có lý luận căn bản, trải qua công tác thực tế, làm trụ cột trong việc thu thuế nông nghiệp ở địa phương.
Trong công tác thu thuế nông nghiệp, phải động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia, cán bộ và nhân dân đoàn kết, phát huy tính tích cực của nhân dân, tránh quan lieu, mệnh lệnh trong việc thi hành.
Chính vì có sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương mà các ngành, các cấp cùng với nhân dân đã hoàn thành nghĩa vụ thuế nông nghiệp, đảm bảo cung cấp cho cuộc kháng chiến của ta.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II.3/8/7.3.
NGÀY 1-8
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho thanh niên về thi đua ái quốc
Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến các ngành, các cấp và mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên.
Nhằm động viên và định hướng cho thanh niên trong việc thi đua ái quốc, ngày 1-8-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi thanh niên.
Mở đầu bức thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi các thanh niên: Nguyễn Thị Thành, xưởng XP - Công đoàn Lê Hồng Phong, tăng năng suất 330%; Nguyễn Thị Giao Tiên, xưởng XB - Công đoàn Bông Lau, tăng năng suất hơn 200%; Nguyễn Hữu Bắc - Trung đoàn X, được bầu làm chiến sĩ anh hùng và thành tích của học sinh các trường đã thi đua tham gia việc sửa đường, công trái, bình dân học vụ, các thanh niên hăng hái giúp việc các chiến dịch, vận tải, sửa đường.
Bức thư cũng chỉ rõ, bên cạnh những thành tích đạt được thanh niên vẫn còn có những khuyết điểm trong thi đua. Để giúp thanh niên sửa chữa những khuyết điểm ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra các ý kiến:
- Thi đua ái quốc phải có phương hướng đúng và vững, tức là phải nâng cao lòng nồng nàn yêu nước và giác ngộ chính trị của mọi người. "Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức là yêu nước".
- Phải có kế hoạch cụ thể, tức là phải sao cho mỗi nhóm, mỗi người tự giác, tự động.
- Nội dung kế hoạch thiết thực, rõ ràng tránh sơ suất, đại khái, miễn cưỡng.
- Thi đua không nên thiên về một phía, phải biết kết hợp ba nhiệm vụ với nhau: tăng gia sản xuất, công việc hằng ngày và học tập.
- Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng; trước khi thi đua phải chuẩn bị đầy đủ; trong lúc thi đua phải thiết thực đôn đốc, giúp đỡ, sửa đổi; sau khi thi đua phải kiểm tra tổng kết phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém cỏi.
- Thi đua là một cách tốt, thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ, giúp đoàn kết chặt chẽ thêm. Vì vậy, phải thật thà tự phê bình và thân ái phê bình để đẩy mạnh thi đua.
- Thi đua phải lâu dài và rộng khắp, trong thi đua phải đồng thời bồi bổ lực lượng và tinh thần của quần chúng.
Phần cuối bức thư, Người căn dặn thanh niên nông dân và thanh niên trong bộ đội phải đặc biệt cố gắng "thi đua và lượm được nhiều thành tích vẻ vang".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.269-271.
NGÀY 16-8
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân dịp Cách mạng Tháng Tám và ngày Độc lập
Nhân kỷ niệm 6 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và ngày Quốc khánh của nước ta: Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào toàn quốc, kiều bào ở nước ngoài, các chiến sĩ Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Người thay mặt Chính phủ gửi lời an ủi các thương binh, cựu binh, cùng các gia đình liệt sĩ. Người kêu gọi: “Chúng ta phải nhớ ơn những chiến sĩ đã hy sinh cho cách mạng để tranh lại độc lập, đang kháng chiến anh dũng để giữ gìn độc lập".
Người cũng thay mặt Chính phủ khen ngợi và cảm ơn toàn thể quân đội đang anh dũng thi đua giết giặc lập công, giữ làng giữ nước; đồng bào công nhân, nông dân trí thức tư sản địa chủ yêu nước và tiến bộ đang thi đua tăng gia sản xuất, hăng hái kháng chiến; các cán bộ chính quyền và toàn thể không quản gian khổ thi đua làm tròn nhiệm vụ; các cụ phụ lão và các cháu nhi đồng không quản khó khăn, cố gắng giúp ích cho nước nhà. Đồng thời, Người cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với nhân dân Pháp và nhân sĩ dân chủ thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, càng yêu Tổ quốc, chúng ta càng căm thù thực dân cướp nước và bù nhìn phản quốc; càng không quên được những tội ác mà bọn chúng đã gây ra. Người kêu gọi: "đối với kẻ thù không đội trời chung ấy chúng ta phải kiên quyết kháng chiến, kháng chiến mạnh hơn nữa, mạnh hơn mãi kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn".
Người khen ngợi toàn dân ta đã có nhiều cố gắng, đất nước có nhiều tiến bộ, lực lượng kháng chiến phát triển mạnh, Chính phủ ta cũng đã thi hành những chính sách mới để bồi dưỡng sức dân, mang lại lợi ích cho kháng chiến kiến quốc.
Đồng thời, Người nhấn mạnh: "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà Tổ tiên ta đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta cách mạng thành công",... Người nhắc nhở: "quân và dân ta quyết không được chủ quan, khinh địch, quyết không nên: khi không thắng thì nản, khi thắng lợi thì kiêu. Địch càng gần ngày bị tiêu diệt thì chúng càng liều mạng, càng hung ác, càng quỷ quyệt. Chúng ta phải đề phòng cẩn thận, chuẩn bị tinh thần và lực lượng để vượt qua mọi khó khăn và đối phó kịp thời với mọi tình huống, mọi người phải cố gắng thi đua. Người tin tưởng rằng: cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định thắng lợi.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.279-282.
THÁNG 8
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ sáu
Nhằm kiểm điểm công tác và đề ra nhiệm vụ cho thời gian tới, tháng 8-1951, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ sáu được tổ chức, nhằm quán triệt và thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về nhiệm vụ và tổ chức công an.
Hội nghị đã tiến hành đánh giá những ưu và khuyết điểm của công an nhân dân từ Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ năm đến Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ sáu về các mặt: chính trị, tư tưởng, nhiệm vụ công tác, tổ chức cán bộ.
Phần công tác, Hội nghị kiểm điểm lại việc thực hiện một số phương châm công tác đã được đề ra trong Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ năm (tháng l-1950), như: "Tiêu diệt do thám địch trong lòng địch" và “bao vây vị trí địch". Hội nghị khẳng định: "Đến nay kiểm điểm lại thấy phương châm trên sai, vì nó đã làm cho cán bộ, nhân viên lúc ấy đang nặng về hành động lại càng chú trọng đến việc diệt tề, trừ gian, khủng bố cá nhân. Chủ trương "bao vây vị trí địch" cũng sai vì không phải vị trí nào cũng là xuất phát điểm quan trọng của do thám. Hơn nữa, ta lại không đủ người để bao vây như vậy và việc bao vây vị trí làm ta thiếu người để bố trí lưới phản gián ở hậu phương…".
Phần trọng tâm của Hội nghị là tiến hành thảo luận, quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 12-5-195l của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về nhiệm vụ và tổ chức công an.
Hội nghị xác định tính chất của tổ chức công an là phải bảo đảm được sự nhất trí về chuyên môn giữa trên và dưới, giữa các bộ phận công tác trong ngành với nhau, phải dựa vào quần chúng nhân dân, phát huy được khả năng của quần chúng nhân dân; về cơ cấu tổ chức: tổ chức phải trên tinh vi, dưới đơn giản, nặng về nghiệp vụ, nhẹ về hành chính, bảo đảm được bí mật, chuyên môn hóa cán bộ.
Trên cơ sở đó, Hội nghị thảo luận và nhất trí thông qua mô hình tổ chức Công an toàn quốc như sau:
- Nha Công an Trung ương.
- Sở Công an liên khu (từ Trung Bộ trở ra)
- Sở Công an Nam Trung Bộ.
- Sở Công an Nam Bộ.
- Ty công an tỉnh.
- Công an huyện.
- Công an thị xã.
- Ban công an xã.
Tổ chức Nha công an Trung ương có các bộ phận:
- Văn phòng.
- Ty chính trị bảo vệ.
- Ty trị an hành chính.
- Trường công an cung cấp.
- Một số cán bộ chỉ đạo riêng.
Cơ cấu tổ chức của Công an liên khu và tỉnh cũng có những bộ phận tương ứng. Ở liên khu có trường công an sơ cấp; ở tỉnh không có hệ thống nhà trường.
Hội nghị quy định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng bộ phận trong tổ chức công an từ trung ương đến địa phương.
Phần cuối, Hội nghị thông qua chương trình công tác một năm (từ tháng 8-1951 đến tháng 8-1952), nhấn mạnh: "Công tác chính trị bảo vệ là chính yếu, công tác trị an hành chính là thứ yếu”.
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ sáu đã quán triệt nhiệm vụ mới do Trung ương Đảng giao phó, xây dựng một mô hình tổ chức mới trong toàn quốc để thực hiện nhiệm vụ mới.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.264-266.
NGÀY 15-8
Ban Thường vụ Liên khu ủy IV ra Quyết nghị Về việc chấn chỉnh Ban Đảng vụ Liên khu ủy
Căn cứ vào chủ trương của Trung ương và nhu cầu công tác của Liên khu, ngày 15-8, Liên khu ủy IV ra quyết nghị chấn chỉnh Ban Đảng vụ Liên khu ủy.
Quyết nghị quy định những vấn đề sau:
1. Ban Đảng vụ Liên khu ủy nay đổi tên là Ban tổ chức Liên khu ủy. Nhiệm vụ của Ban tổ chức Liên khu uỷ mới là: chú trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; nghiên cứu về bộ máy, lề lối làm việc của các cơ quan quân, dân, chính, Đảng; bảo vệ Đảng; quản lý nhà trường.
2. Các tiểu ban: cán bộ, chi bộ, tổ chức bộ máy, lề lối làm việc.
Ấn định số người trong ban và các tiểu ban.
a) Ban: đồng chí Đặng Thí - Thường vụ Khu ủy làm Trưởng ban; ban viên thường trực là đồng chí Nhân, đồng chí Khiếu - khu ủy viên; cán bộ ban viên không thường trực là đồng chí Thức, đồng chí Tứ, đồng chí Bốn; Tư lệnh địa phương là đồng chí Võ Thúc Đồng; Tư lệnh Mặt trận Bình - Trị - Thiên là đồng chí Lê Tử Đồng.
b) Các tiểu ban:
- Tiểu ban cán bộ: đồng chí Đồng, đồng chí Nghị, đồng chí Thanh Hà, đồng chí Nhân làm Trưởng tiểu ban.
- Tiểu ban chi bộ: đồng chí Tấn, đồng chí Trinh, đồng chí Tứ, do đồng chí Tử làm Trưởng tiểu ban.
c) Bộ máy lề lối làm việc: đồng chí Thức, Biên và Viên- Thường trực ban.
d) Ban tổ chức Liên khu uỷ căn cứ vào nhiệm vụ trên và tình hình của các tỉnh để ấn định tổ chức và lề lối làm việc cho các Ban tổ chức, tỉnh, huyện được thích hợp.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 46, phông số 49.
NGÀY 2-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho lớp cán bộ cung cấp
Cán bộ có một vai trò quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong đó có cán bộ cung cấp.
Vì vậy, ngày 2-9-195l, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi các đồng chí giáo viên, các đồng chí cán bộ phụ trách, cán bộ học trò và Ban huấn luyện cung cấp.
Người nhấn mạnh: "Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận: Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận".
Vì vậy, Người cho rằng khi làm công việc cung cấp phải có một chính sách rõ rệt, một tư tưởng thấu suốt.
Trong thư, Người nêu lên một số điểm để cho cán bộ cung cấp nghiên cứu:
- Phải áp dụng những điều đã học cộng với kinh nghiệm của mình vào công việc thực tế một cách khôn khéo, mềm dẻo, hợp với hoàn cảnh, không nên máy móc.
- Không nên nghĩ công việc cung cấp là một việc tầm thường, vì cách mạng cũng như một bộ máy phải có phân công, người làm việc này, người làm việc khác, nhưng việc nào cũng cần thiết, cũng quan trọng.
- Cán bộ cung cấp phải làm kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính. Các cơ quan cung cấp cần phải thực hành kiểm tra, phê bình và tự phê bình.
- Nhiệm vụ chính của cán bộ cung cấp là phụng sự đại đa số bộ đội.
Phần cuối bức thư, Người nêu rõ: điều kiện cần thiết là cán bộ cung cấp phải biết rõ số người mình phụ trách cung cấp, phải có kế hoạch đầy đủ, sổ sách rành mạch phải thấy trước, lo trước, phải có sáng kiến và phải tháo vát, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính và phải khéo áp dụng những điều đã học...
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.295-297.
NGÀY 4-9
Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở một chiến dịch ở Tây Bắc
Ngày 4-9-1951, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Về việc mở chiến dịch Tây Bắc. Chỉ thị nêu rõ: "để giữ chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, Bộ Chính trị quyết định mở một chiến dịch ở Tây Bắc" nhằm: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch; phát triển chiến tranh du kích, diệt phỉ, củng cố và phát triển cơ sở nhân dân sau lưng địch. Lực lượng tham gia chiến dịch này có Đại đoàn 312, các bộ đội chủ lực, địa phương và dân quân Tây Bắc.
Trong Chỉ thị, Tổng Bí thư nhắc nhở để bảo đảm thắng lợi của chiến dịch, cần đề phòng khuynh hướng chủ quan phát sinh vì Tây Bắc là chiến trường yếu nhất của địch ở Bắc Bộ, đồng thời cũng phải đề phòng và sớm khắc phục khuynh hướng bi quan có thể nảy nở do ta gặp nhiều khó khăn vì ở Tây Bắc, địch tình phức tạp, địa hình hiểm trở, cơ sở chính trị và cơ sở vũ trang của ta tương đối kém.
Tổng Bí thư căn dặn các cấp: Phải nhận thấy việc phát động chiến tranh du kích tuy là mục đích thứ hai của chiến dịch, nhưng lại rất quan trọng, nhất là khi chủ lực rút đi; phát động chiến tranh du kích rộng khắp thì ta chẳng những duy trì được thắng lợi mà còn có thể phát huy được thắng lợi đó. Bộ đội chủ lực phải thật sự giúp đỡ các địa phương liên quan trực tiếp đến chiến dịch thực hiện nhiệm vụ, một mặt phát triển chiến tranh du kích, tích cực phục vụ chiến trường, mặt khác tiếp tục chuẩn bị thu thuế nông nghiệp. Phải đề cao công tác dân vận và ngụy vận, phải giáo dục cho cán bộ và bộ đội thấm nhuần chính sách vận động đồng bào thiểu số và vận động ngụy binh của Đảng để thi hành cho đúng, nhất là trong những vùng được giải phóng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.562-564.
NGÀY 12-9
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc dùng "gián điệp đôi"
Qua việc sử dụng gián điệp đôi của các ngành công an, quân báo, tình báo, thực tế cho thấy không có lợi cho ta mà lợi nhiều cho địch. Ngày 12-9-1951, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 18-CT/TW quy định lại nguyên tắc dùng "gián điệp đôi”.
Chỉ thị nêu rõ: từ khi ban hành chỉ thị này không một cá nhân hay tổ chức nào được liên lạc, sử dụng "gián điệp đôi” và bọn tay sai do thám cho địch.
Chỉ thị quy định: người được phép sử dụng “gián điệp đôi” phải có trình độ chính trị từ tỉnh ủy viên hay tương đương tỉnh ủy trở lên và phải trực tiếp liên lạc sử dụng, không được ủy quyền cho người khác; phụ trách công an các cấp phải nắm được các trường hợp dùng "gián điệp đôi" để theo dõi, kiểm tra; phải tôn trọng nguyên tắc bí mật; khi không dùng "gián điệp đôi" nữa hoặc khi "gián điệp đôi” đang dùng bị bắt, phản bội thì phải báo cáo ngay cho cấp ủy địa phương biết để có kế hoạch đối phó.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, công an các địa phương đã tiến hành và soát, kiểm tra lại những nhân mối, cơ sở có tính chất "gián điệp đôi", nhận xét báo cáo lên cấp ủy Đảng để xin ý kiến chỉ đạo.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.272-273.
NGÀY 20-9
Nghị quyết của Trung ương Về tổ chức Đảng trong ngành tình báo chiến lược
Cuộc kháng chiến của ta ngày càng gay go ác liệt, công tác tình báo chiến lược là một công tác đặc biệt. Vì vậy, Trung ương ra Nghị quyết Về tổ chức Đảng trong ngành tình báo chiến lược.
Trong công tác tình báo, các tổ chức cơ sở dựa vào liên hệ cá nhân chứ không có tính tập thể, các đồng chí hoạt động tình báo ở các địa phương chỉ trực tiếp nhận chỉ thị và báo cáo công tác với đồng chí phụ trách ngành tình báo ở Trung ương (trường hợp xa thì với đồng chí phụ trách tình báo do Trung ương Cục miền Nam và Liên khu uỷ V chỉ định).
Ngoài ra, ngành tình báo chiến lược còn có một số giao thông viên sống hẳn trong khu du kích hay lưu động giữa khu này với vùng tự do, có trường hợp 2, 3 giao thông viên cùng làm chung ở một đường. Vì muốn giữ bí mật nên trong thời gian làm giao thông viên cho tình báo, các đồng chí ấy cũng không tiện sinh hoạt trong một tổ chức cơ sở của Đảng.
Vì vậy, Trung ương quy định tổ chức Đảng trong ngành tình báo chiến lược như sau:
Đối với các đồng chí tình báo hoạt động trong các đô thị lớn: đồng chí phụ trách ngành tình báo chiến lược Trung ương sẽ chịu trách nhiệm với Trung ương theo dõi kiểm tra giáo dục về mặt Đảng và về việc kết nạp đảng viên mới mà các đồng chí ấy có thể giới thiệu. Trách nhiệm này sẽ giao cho Liên khu ủy V và Trung ương Cục miền Nam chỉ định.
Các đồng chí tình báo sẽ vào hoạt động ở vùng địch hay các đồng chí vùng địch ra khu tự do cũng theo quy định trên về công tác bí mật. Hồ sơ lý lịch của các đồng chí tình báo kể trên sẽ do đồng chí phụ trách ngành tình báo Trung ương hay các đồng chí phụ trách tình báo ở Liên khu V, Nam Bộ giữ và xây dựng.
Đối với các đồng chí giao thông cho tình báo hoạt động trong các khu du kích: hoặc cá nhân, hoặc thành nhóm, sẽ do đồng chí phụ trách tình báo địa phương chịu trách nhiệm sinh hoạt, kiểm tra, giáo dục về mặt Đảng, rồi báo cáo với đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Việc phát triển đảng viên mới sẽ do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy quyết định.
Đối với các đồng chí tình báo công tác ở vùng tự do, việc tổ chức và sinh hoạt sẽ theo như các cơ quan khác của Đảng.
Nghị quyết của Trung ương cũng nhấn mạnh, công tác tình báo hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta, nên các đồng chí lãnh đạo và các đồng chí hoạt động tình báo phải hết sức chú ý, gìn giữ để tránh tổn thất.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II.3/3/9.4
TỪ NGÀY 27-9 ĐẾN NGÀY 5-10
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II)
Từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã họp Hội nghị toàn thể tại Việt Bắc nhằm nhận định tình hình, kiểm điểm công tác và đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến chuyển mạnh sang giai đoạn chiến lược mới.
Về tình hình thế giới, Hội nghị nhận định: Nhân dân thế giới dưới sự lãnh đạo của Liên Xô đã cùng phe xã hội chủ nghĩa đấu tranh mạnh mẽ bảo vệ hòa bình thế giới, “ngày càng tin tưởng vào Liên Xô, thành trì của dân chủ và hòa bình thế giới"; bọn đế quốc do Mỹ cầm đầu đang ráo riết chuẩn bị chiến tranh song nội bộ chúng đang có mâu thuẫn gay gắt và vừa mới thất bại ở Triều Tiên.
Về tình hình trong nước, Hội nghị nhận định: "Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ bị tổn thất nặng nề ở Việt Nam" cho nên chúng triệt để thi hành chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, ráo riết lập một đội quân bù nhìn để chống kháng chiến, biến vùng tạm bị chiếm và vùng du kích thành hậu phương vững chắc của chúng. Để thực hiện cuộc “chiến tranh tổng lực", chúng ra sức lập khu vực không người, củng cố ngụy quyền, phát triển ngụy quân, càn quét và “bình định". Tuy nhiên, âm mưu và hành động của địch nhất định thất bại vì nó dựa trên sự áp bức và sự lừa phỉnh, mặc dù nó gây cho ta nhiều khó khăn hơn.
Kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Đảng (khóa II), Hội nghị chỉ rõ:
Về chính trị Đảng đã ra công khai, nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh Tuyên ngôn và Chính cương của Đảng nhưng còn nhiều đảng viên chưa gương mẫu; thống nhất Việt Minh và Liên Việt thành một Mặt trận Liên Việt là một chủ trương hợp thời, nhưng ta chưa nhân việc thống nhất ấy mà phát triển một cách có kế hoạch và thiết thực công tác mặt trận và dân vận; việc thành lập Ủy ban liên lạc Mặt trận Việt - Miền- Lào là một thành tích lớn trong việc đoàn kết ba dân tộc để kháng chiến chống kẻ thù chung, nhưng Ủy ban ấy chưa có ảnh hưởng rộng rãi và thiết thực trong nhân dân do việc tuyên truyền còn yếu.
Về ngoại giao, chúng ta đã thắt chặt tình hữu nghị với các nước khối xã hội chủ nghĩa và dân chủ mới, nhất là với Trung Quốc.
Về quân sự, chúng ta đã mở một thời kỳ mới trong giai đoạn chiến lược thứ hai, tiến một bước khá lớn để chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Trên chiến trường chính, sau chiến dịch Biên giới, ta đã giữ được quyền chủ động, nhưng ta chưa giành được ưu thế quân sự, chưa phá được phòng tuyến của địch, chưa thay đổi được tình thế của đồng bằng Bắc Bộ, gặp nhiều khó khăn mới trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích.
Về kinh tế - tài chính, tình hình có nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã cố gắng nhiều và thu được thành tích đầu tiên khá ít; việc thu thuế nông nghiệp đạt kết quả khá.
Căn cứ vào tình hình ta và địch, Hội nghị đã định ra ba nhiệm vụ lớn để đẩy mạnh kháng chiến tiến lên giành thắng lợi mới.
Một là, ra sức tiêu diệt sinh lực địch, tiến tới giành ưu thế quân sự, phá kế hoạch phòng ngự của địch ở Trung du Bắc Bộ.
Hai là, ra sức phá âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt", kiên quyết giành với địch những vùng nhiều của, đông người.
Ba là, củng cố và phát triển sức kháng chiến của toàn dân, toàn quốc, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc; giáo dục tư tưởng kháng chiến trường kỳ và gian khổ nhưng nhất định thắng lợi; bồi dưỡng sức dân; xây dựng và củng cố hậu phương để phục vụ cho tiền tuyến.
Ba nhiệm vụ lớn này quan hệ chặt chẽ với nhau và bao trùm toàn bộ công tác của Đảng: chính trị, quân sự, kinh tế, tuyên huấn, văn hóa, dân vận, v.v..
Hội nghị cũng đề ra những nhiệm vụ trước mắt về quân sự, vùng tạm bị chiếm và vùng du kích, kinh tế - tài chính, tuyên huấn - văn giáo, mặt trận và dân vận, bảo vệ hòa bình thế giới.
Do tầm quan trọng của những nhiệm vụ cụ thể, Hội nghị đã ra Nghị quyết không chỉ về tình hình và nhiệm vụ chung, mà cả các nghị quyết về nhiệm vụ quân sự trước mắt, về nhiệm vụ và phương châm công tác trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích, về nhiệm vụ kinh tế - tài chính trước mắt.
Hội nghị nhắc toàn thể đảng viên ghi nhớ và làm đúng những lời chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: sát dân, săn sóc lợi ích và đời sống của dân, đồng thời vận động nhân dân tích cực tham gia kháng chiến; thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tăng cường công tác nghiên cứu và công tác kiểm tra về tình hình công tác, tình hình nhân dân, tình hình địch để có những phương châm chính sách cụ thể, kịp thời, đúng đắn; học tập lý luận kết hợp với thực tiễn công tác; thật thà tự phê bình và phê bình.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.570-590.
THÁNG 10
Liên khu ủy IV ra Chỉ thị Về việc xây dựng các đoàn thể nhân dân trong thời gian thực hiện thuế nông nghiệp
Để bảo đảm cho việc thực hiện thắng lợi công tác thuế nông nghiệp, tháng 10-1951, Liên khu ủy IV ra Chỉ thị Về việc xây dựng các đoàn thể nhân dân.
Chỉ thị nêu rõ, việc xây dựng các đoàn thể nhân dân cần nắm vững lập trường giai cấp, lấy tiêu chuẩn giai cấp làm chính, mà giai cấp ở nông thôn chủ yếu là nông dân nên lấy nông dân và tổ chức Nông hội làm căn bản. Trong nông dân phải lấy bần, cố nông làm trụ cột và phát nắm vững chính sách nông thôn của Đảng.
Chỉ thị nhấn mạnh cần phải dựa vào bần, cố nông, liên minh chặt chẽ với trung nông, hợp tác với phú nông, thuyết phục địa chủ.
Đánh giá tình hình các tổ chức quần chúng ở nông thôn, Liên khu ủy cho rằng nông thôn đang có tình hình tất cả các đoàn thể đều tan rã; có nơi các đoàn thể khác tan rã, Nông hội còn, nhưng yếu ớt; có nơi các đoàn thể còn nhưng lại yếu ớt cả.
Trên cơ sở nhận định tình hình đó, Liên khu ủy chủ trương:
1. Tại những nơi các đoàn thể đều tan rã, về nguyên tắc là xây dựng đoàn thể nông dân trước; thanh niên, phụ nữ, trung niên nói chung là những nông dân đều tập trung vào Nông hội, rồi lấy Nông hội làm cơ sở để xây dựng đoàn thể Thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận. Khi đã lập được các tổ chức đoàn thể thì thành lập Ban chấp hành của các đoàn thể đó.
2. Những nơi các đoàn thể tan rã, Nông hội còn nhưng yếu: phụ nữ, thanh niên nếu đã gia nhập Nông hội rồi, mà một số lâu nay chưa sinh hoạt, thì phải vận động anh chị em ấy trở lại tham gia sinh hoạt trong Nông hội; đồng thời phân công công tác cho họ hoạt động. Còn số chưa ở trong tổ chức Nông hội thì tổ chức họ vào Nông hội, làm cho Nông hội vững lên.
3. Những nơi tất cả các đoàn thể đều còn nhưng yếu: trước hết cũng lấy việc củng cố Nông hội làm chủ yếu theo kế hoạch chung. Các đoàn thể khác (thanh niên, phụ nữ) thúc đẩy động viên những phần tử tích cực hăng hái trong việc thực hiện thuế nông nghiệp, đồng thời dìu dắt, giáo dục những phần tử kém nhiệt tình để lôi cuốn họ cùng hoạt động. Trong phong trào thuế nông nghiệp lấy công tác thực tế mà đào tạo cán bộ, lựa chọn những người hăng hái để củng cố dần dần.
Việc xây dựng các đoàn thể trong cả ba trường hợp trên đều phải dựa theo quá trình công tác thuế nông nghiệp để lựa chọn quần chúng ngoài tổ chức đưa vào tổ chức, lựa chọn quần chúng trong tổ chức hăng hái tích cực để bổ sung cán bộ.
Chỉ thị nhấn mạnh, trong phong trào thuế nông nghiệp, lấy công tác thực tế gắn liền với việc củng cố chấn chỉnh các tổ chức quần chúng của Đảng; nắm vững trọng tâm là xây dựng Nông hội, đoàn thể trụ cột ở nông thôn; cần chú ý tránh quan niệm đơn thuần cho là chỉ xây dựng Nông hội là đủ, bỏ quên các giới, cũng như quan niệm bình quân coi ngang các đoàn thể, không tập trung xây dựng đoàn thể chính là Nông hội.
Nhờ có chỉ đạo kịp thời của Liên khu ủy trong việc xây dựng, chấn chỉnh các đoàn thể quần chúng, nên các đoàn thể quần chúng cùng với các ngành, các cấp phát huy tốt vai trò của mình trong công tác thu thuế nông nghiệp. Năm 1951, Liên khu IV, chủ yếu là Thanh - Nghệ -Tĩnh đã nộp cho Nhà nước 161.714 tấn thóc. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh là những địa phương đóng góp chủ yếu về lương thực, đáp ứng yêu cầu của kháng chiến.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 59, phông 49.
NGÀY 6-11
Liên khu ủy V ra Chỉ thị Về công tác Hoa vận
Trên địa bàn Liên khu V có nhiều đồng bào Hoa kiều sinh sống. Để củng cố hơn nữa tình đoàn kết Việt - Hoa, tránh sự lợi dụng của thực dân Pháp, ngày 6-11-1951, Liên khu ủy V ra Chỉ thị Về công tác Hoa vận.
Chỉ thị nêu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của Hoa kiều ở Việt Nam là được hưởng mọi quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa như công dân Việt Nam.
Tuy nhiên, Chỉ thị cũng cho rằng việc thực hiện chủ trương này có những khó khăn nhất định. Đó là Hoa kiều chưa giác ngộ sâu sắc, lại bị phản động Pháp lợi dụng, tuyên truyền chia rẽ. Hơn nữa tinh thần quốc tế của người Hoa kiều và người Việt Nam chưa cao, nên chưa có sự đoàn kết vững chắc.
Vì vậy, Liên khu ủy V chủ trương các cấp ủy, các cán bộ, nhất là cán bộ Hoa vận, phải tổ chức nghiên cứu chỉ thị của Trung ương, của Liên khu uỷ để thấm nhuần chủ trương, chính sách của Đảng đối với Hoa kiều; chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ và đảng viên Việt - Hoa, giáo dục tinh thần quốc tế cho họ.
Trong khi làm công tác Hoa vận, các cấp phải chú ý đến vấn đề tổ chức và vấn đề chuyên nghiệp. Vấn đề tổ chức phải chú ý đến tổ chức quần chúng và tổ chức Đảng. Vấn đề chuyên nghiệp làm ít có kết quả vì tư tưởng chuyên nghiệp của một số lớn Hoa kiều khá giả chưa muốn tham gia sản xuất, tích cực lao động và một bên là chính quyền, đoàn thể, đồng bào Việt Nam chưa nhận thức đúng sự quan trọng của vấn đề nên chưa thiết thực giúp đỡ họ. Do vậy, Liên khu uỷ chủ trương chấn chỉnh sự chỉ đạo của Đảng trong công tác Hoa vận. Các cấp ủy, cán bộ, nhất là cán bộ Hoa vận phải nghiên cứu kỹ chính sách, chủ trương của Đảng đối với Hoa kiều mà rèn luyện tinh thần quốc tế trong cán bộ, đảng viên; nắm vững phương châm vận động Hoa kiều là "phục vụ lợi ích Hoa kiều kết hợp với lợi ích kháng chiến Việt Nam".
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 30, phông Liên khu V.
NGÀY 10-11
Liên khu ủy V ra Chỉ thị Chấn chỉnh và đẩy mạnh công tác tôn giáo
Tại Liên khu V, bọn phản động trong các tôn giáo vẫn tiếp tục hoạt động chống phá cách mạng. Trước tình hình đó Liên khu ủy V ra Chỉ thị Chấn chỉnh và đẩy mạnh công tác tôn giáo vận.
Chỉ thị chỉ rõ, bọn phản động tôn giáo hoạt động dưới nhiều hình thức, lúc ngấm ngầm, khi táo bạo, ở vùng tự do chúng còn lấy danh nghĩa đoàn thể tham gia Mặt trận Liên Việt để nắm tín đồ củng cố hàng ngũ, tín ngưỡng, lấy lại uy tín.
Do vậy, Liên khu ủy chỉ rõ chúng ta cần phải có thái độ dứt khoát đối phó với những thủ đoạn mới của bọn phản động, đồng thời đẩy mạnh công tác tôn giáo. Thái độ của ta đối với những thủ đoạn ấy là: việc đại biểu các tôn giáo xin vào Ủy ban Mặt trận, ta nên thừa nhận họ với danh nghĩa là cá nhân tín ngưỡng tiêu biểu, không xem họ là đại biểu của các đoàn thể tôn giáo. Chủ trương của ta đối với các đoàn thể tôn giáo: các đoàn thể tôn giáo chỉ có tính chất tín ngưỡng không có quyền tổ chức các đoàn thể quần chúng, đối với các cơ quan truyền đạo dù dưới danh hiệu gì, ta cũng nên dùng biện pháp chính quyền để giải tán không thừa nhận vào Mặt trận.
Ngoài các biện pháp trên, những vấn đề căn bản vẫn là tích cực tiến hành công tác vận động tôn giáo. Trong công tác phải đặc biệt chú ý nhận định rõ âm mưu chia rẽ của giặc, âm mưu cấu kết giữa bọn lãnh tụ phản động trong các tôn giáo và vai trò chủ động của bọn lãnh tụ Công giáo trong việc thực hiện âm mưu cấu kết ấy; phân định tính chất từng bọn phản động trong các tôn giáo và tính chất tín đồ để có chủ trương thích hợp với từng đối tượng.
Các cấp ủy phải thực hiện việc phân công phụ trách các vùng tôn giáo cho từng cấp, tổng kết những hành động phản động của từng bọn lãnh tụ để vạch cho giáo dân thấy rõ và đề cao cán bộ tôn giáo hăng hái kháng chiến, mỗi khi áp dụng một biện pháp chính quyền cần phải chuẩn bị tư tưởng cho nhân dân, giải thích chu đáo cho tín đồ và nắm vững phương châm vận động giáo dục là căn bản.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 290.
NGÀY 19-11
Thành lập Ban Cán sự Tả ngạn
Từ đầu năm 1951, địch tăng cường càn quét các tỉnh Tả ngạn, đóng thêm nhiều đồn bốt và căn cứ du kích trên các vị trí giao thông chiến lược. Để có những quyết sách kịp thời đối phó với âm mưu địch, ngày 19-11-1951, Ban Thường vụ Liên khu ủy III ra Quyết nghị thành lập Ban Cán sự Tả ngạn.
Ban Cán sự có nhiệm vụ lãnh đạo các tỉnh ủy và Mặt trận Tả ngạn. Cụ thể là? Ban Cán sự giúp đỡ các tỉnh ủy thực hiện các chủ trương của Liên khu ủy, đồng thời đôn đốc kiểm tra công tác thi hành chỉ thị, nghị quyết của các tỉnh ủy. Để Liên khu ủy có thể theo dõi sát Tả ngạn, Ban Cán sự sẽ thường xuyên có báo cáo cụ thể tình hình ở đây. Trong trường hợp khẩn cấp, Ban Cán sự sẽ chỉ đạo các tỉnh trong phạm vi đường lối của Liên khu ủy. Khi đứt liên lạc, Ban Cán sự cùng các tỉnh ủy giải quyết tình hình, sau đó tìm cách liên lạc lại về Liên khu ủy.
Quyết nghị cũng quy định phương thức làm việc của Ban Cán sự với các tỉnh ủy Tả ngạn; riêng Thành ủy Hải Phòng không phụ thuộc Ban Cán sự nhưng có trách nhiệm liên lạc với Ban Cán sự.
Theo quyết định của Ban Thường vụ Liên khu ủy III, Ban Cán sự có năm đồng chí, đồng chí Đỗ Mười là Bí thư.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 123, số 18 NQ/b.
NGÀY 24-11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch
Ngay từ đầu tháng 11, địch đã tập trung lực lượng để đánh chiếm Hòa Bình. Mục đích đánh chiếm Hòa Bình của địch nhằm cắt đường liên lạc giao thông vận tải của ta từ Việt Bắc đi các khu phía nam, bảo vệ chắc chắn cho các phòng tuyến của chúng ở tây nam Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng, gây ảnh hưởng chính trị đối với Mỹ, Anh… Nhưng đánh chiếm Chợ Bến và Hòa Bình, địch cũng gặp nhiều khó khăn, phải phân tán các đội ứng chiến của chúng trên một mặt trận rộng lớn, rừng núi hiểm trở, công sự chưa kịp xây dựng, củng cố, địch phải dùng phần lớn lực lượng Âu - Phi tinh nhuệ của chúng ở Hòa Bình, buộc phải sơ hở các mặt trận khác và sau lưng. Đây là cơ hội tốt để ta đánh địch trên các mặt trận ấy.
Vì vậy, Trung ương chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách của ta từ Liên khu IV trở ra là đánh địch trên mặt trận Chợ Bến, Hòa Bình - Hưng Hóa. Đồng thời với việc đánh địch, phải động viên lực lượng toàn dân phá kế hoạch chiếm đóng của địch, phá kế hoạch tổ chức ngụy quân, "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của chúng. Ở trung du, địch có phần sơ hở, ta phải tìm chỗ sơ hở mà đánh địch trên mặt trận chính và sau lưng địch. Ở Tả ngạn sông Hồng, chúng ta phải ra sức tăng cường sức chiến đấu cho bộ đội và dân quân, du kích. Trung ương nhắc các Đảng bộ vùng du kích và vùng tạm bị chiếm, đặc biệt từ Liên khu IV trở ra, tích cực thi hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Trung ương Đảng về công tác ở vùng du kích và vùng tạm bị chiếm. Địch thiếu quân số, nhưng địch chuyển vận rất nhanh chóng, địch lại nhờ công sự, dùng nhiều công sự và quân chiếm đóng để chống lại ta. Do đó, địch có thể dùng các đội ứng chiến của chúng mà hoạt động nhiều nơi. Cho nên chúng ta phải tỉnh táo, thực sự chuẩn bị đề phòng những cuộc tiến công sắp tới của địch vào vùng tự do ta.
Liên khu Việt Bắc phải đề phòng địch đánh rộng lên trung du và Lạng Sơn. Liên khu IV đặc biệt đề phòng địch đánh vào Thanh Hóa.
Đối với miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ, tùy hoàn cảnh, tùy công tác mà ra sức hoạt động mạnh hơn, nhất là chiến tranh du kích, để tiêu diệt địch và kìm hãm không cho chúng điều động quân ra Bắc Bộ.
Chỉ thị cũng chỉ rõ: địch chiếm Chợ Bến và Hòa Bình có gây khó khăn cho ta, nhưng cũng tạo cơ hội tốt để ta đánh địch trên mặt trận Hòa Bình và các mặt trận khác.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.594-599.
NGÀY 25-11
Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về tình hình và nhiệm vụ trước mắt ở Thượng Lào
Nghị quyết phân tích tình hình Thượng Lào thời gian này có những phát triển mới. Đó là sự cố gắng của địch để phá cơ sở kháng chiến của nhân dân Lào. Thực hiện mục đích này, quân địch đã ráo riết thực hiện chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Lào đánh người Lào và dùng mọi cách chia rẽ Lào - Việt.
Từ cuối năm 1950 đến tháng 11-1951, địch lôi kéo, mua chuộc các hạng bù nhìn để đặt chính quyền bù nhìn Lào từ trung ương đến địa phương. Chúng dùng độc lập giả hiệu để lừa phỉnh nhân dân Lào và gây uy tín cho ngụy quyền Lào. Chúng ra sức thành lập ngụy quân cùng với ngụy quyền để phá cơ sở kháng chiến, mở rộng chiến tranh gián điệp, chui vào hàng ngũ kháng chiến để phá từ trong ra.
Mục đích những hành động này của địch là phá kháng chiến Lào, nhưng địch xảo trá nói đó là để chống Việt Nam, giành độc lập cho nhân dân Lào, địch nói xấu Việt Nam xâm lược Lào, tuyên truyền chia rẽ nhân dân Lào - Việt. Ở nhiều nơi (Thượng Lào), địch thu hẹp vùng do cách mạng Lào kiểm soát, uy hiếp cơ sở kháng chiến, lung lạc cán bộ và nhân dân Lào.
Để chống lại âm mưu độc ác của địch, cán bộ, bộ đội tình nguyện Việt Nam đã cố gắng chiến đấu, tận tụy công tác vì cách mạng Lào, vì kháng chiến Lào. Nhưng ở nhiều nơi, cán bộ và bộ đội ta còn phạm nhiều khuyết điểm, cho nên chưa phá được âm mưu của địch. Căn nguyên của khuyết điểm ấy là đồng chí ta hoạt động ở Lào chưa hiểu rõ, chưa nắm vững đường lối cách mạng dân tộc giải phóng Lào.
Trước tình hình đó, Trung ương chỉ rõ hai công tác cấp bách của ta lúc này là:
Một là, phải củng cố cơ sở chính trị, quân sự, xây dựng cơ sở kinh tế ở vùng cách mạng kiểm soát, đặc biệt củng cố cơ sở ấy ở nơi cách mạng định xây dựng thành căn cứ; củng cố tổ chức mặt trận Ítxara, củng cố dân quân đội du kích xã, bộ đội địa phương. Để làm được việc này, phải chăm lo tăng gia sản xuất ở vùng cách mạng kiểm soát chăm lo đời sống nhân dân và chuẩn bị chống các cuộc càn quét các âm mưu phá hoại của địch.
Hai là, tuyên truyền sâu rộng trong vùng cách mạng kiểm soát, cố gắng tuyên truyền rộng rãi trong vùng du kích, vùng tạm bị chiếm, trong các đô thị và tuyên truyền sự đoàn kết của nhân dân Lào - Việt - Miên để kháng chiến chống thực dân Pháp, can thiệp Mỹ, giành độc lập. Phải dùng mọi tổ chức, mọi hình thức, mọi phương pháp thích hợp để từng nơi, từng lúc tiến hành công tác tuyên truyền rộng rãi.
Để tiến hành hai công tác trên, phải chuẩn bị về tư tưởng cho toàn thể cán bộ, đảng viên. Điều cốt yếu trong công tác chuẩn bị này là tổ chức những cuộc hội nghị học tập thảo luận vấn đề Miên - Lào và kiểm thảo sai lầm để bàn định kế hoạch thực hiện Nghị quyết này.
Trung ương cũng chỉ rõ về việc đặt phái đoàn liên lạc: Chính phủ Trung ương Việt Nam đặt một phái đoàn liên lạc bên Chính phủ Lào. Phái đoàn liên lạc ấy gồm ba đồng chí: đồng chí Mai Con, Tạ Xuân Thu, Đào Viết Hưng do đồng chí Mai Con làm Trưởng đoàn. Ở Trung Lào, Hạ Lào và Cao Miên mỗi nơi có một phái viên liên lạc của Ủy ban Kháng chiến hành chính các Liên khu IV, V và Nam Bộ.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II.3/2/42.1.
TỪ NGÀY 25-11-1951 ĐẾN NGÀY 23-2-1952
Trung ương Đảng chỉ đạo chiến dịch Hòa Bình
Sau một năm ra sức củng cố thế phòng ngư, tiến hành “bình định", tăng cường lực lượng, Đờ Tátxinhi cho rằng đã đến lúc phản công, giành lại quyền chủ động. Do vậy, từ ngày 9 đến ngày 14-11-1951, Đờ Tátxinhi đưa 20 tiểu đoàn gồm phần lớn lực lượng cơ động có pháo binh, cơ giới và máy bay phối hợp mở cuộc hành quân Lôtuýt (Lotus) đánh chiếm Hòa Bình.
Mở chiến dịch Hòa Bình, thực dân Pháp nhằm giành lại thế chủ động, tiêu diệt chủ lực ta, dựng lại hành lang Đông Tây, chặn đường tiếp tế của ta với chiến trường, tái lập "Xứ Mường tự trị". Do đó, chúng huy động một lực lượng lớn gồm 55% lực lượng cơ động ở Bắc Bộ (39% lực lượng cơ động toàn Đông Dương), 77% lực lượng pháo binh và 40% lực lượng công binh.
Trước âm mưu của địch, ngày 18-11-1951, Tổng quân ủy nhận định: "Cuộc tiến công của địch sẽ gây cho ta những khó khăn, nhưng cũng tạo cho ta một cơ hội tốt để tiêu diệt sinh lực của địch". Vì "địch đã mang lực lượng cơ động tinh nhuệ phân tán trên một tuyến dài đột xuất, công sự chưa vững chắc, địa hình không thuận lợi; vì phần lớn lực lượng cơ động đã tập trung vào mặt trận Hòa Bình, cho nên lực lượng của địch ở vùng địch hậu đồng bằng bị dàn mỏng”, "các vùng từ Hữu ngạn, Tả ngạn Liên khu III đến Trung du đều tương đối sơ hở hơn trước".
Căn cứ vào âm mưu của địch và thấy được thuận lợi khó khăn của ta, Tổng quân ủy quyết định mở chiến dịch Hòa Bình. Trong chiến dịch này, Tổng quân ủy huy động ba đại đoàn 308, 312, 304 vây hãm và tiêu diệt quân cơ động của địch ở mặt trận Hòa Bình, hai Đại đoàn 320, 316 phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương phá "bình định", phát triển chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, đồng bằng Bắc Bộ.
Ngày 24-11-1951, Trung ương Đảng chỉ thị phá tan cuộc hành quân của địch ra Hòa Bình và đề ra cho toàn Đảng toàn quân nhiệm vụ tiêu diệt địch trên mặt trận Hòa Bình, đồng thời động viên toàn dân phát động mạnh mẽ chiến tranh du kích, phá kế hoạch chiếm đóng, tổ chức ngụy quân, ngụy quyền của địch, khôi phục, củng cố và mở rộng các vùng du kích và căn cứ du kích.
Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, ngày 25-11, ta mở đợt tấn công địch trên mặt trận Hòa Bình. Sau ba đợt chiến đấu, ngày 23-2-1952, chiến dịch kết thúc thắng lợi. Quân ta đã tiêu diệt 22.000 tên địch (kể cả chiến trường phối hợp), bắn rơi 13 máy bay, đánh đắm 23 tàu chiến và ca nô, phá hủy 17 xe tăng, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn ở mặt trận Hòa Bình, ta giải phóng 1000km2 đất đai và 20.000 dân. Ở mặt trận sau lưng địch, ta giải phóng 4.000km2 đất đai và 2 triệu dân, mở rộng và khôi phục nhiều khu căn cứ và khu du kích.
Chiến thắng Hòa Bình là chiến thắng lớn nhất của ta từ sau chiến dịch Biên giới; nó phá tan âm mưu của địch định lập "hành lang Đông Tây" và giành lại thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Chiến thắng Hòa Bình còn là một thắng lợi lớn về chính trị, âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch bị thất bại nặng nề.
Thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình là thành công của Đảng ta trong việc chỉ đạo tiến công trên cả hai hướng chiến lược chủ yếu, kết hợp hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, kết hợp vận động chiến và du kích chiến, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng. Trong chiến dịch này, lực lượng vũ trang ta có bước tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày, về sự phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân.
Về chiến thắng của ta và thất bại của địch trong chiến dịch Hòa Bình, đồng chí Võ Nguyên Giáp viết "... nếu chúng tập trung binh lực lại thì chúng không thể kiểm soát các địa phương của ta, và nếu chúng đánh ra vùng tự do để chiếm đất đai thì binh lực của chúng lại bị phân tán. Chính vì mâu thuẫn đó mà Đờ Tátxinhi đã thất bại. Muốn đánh chiếm tỉnh Hòa Bình nhưng rốt cuộc phải bỏ tỉnh đó, trong lúc đó thì quân ta tiến sâu vào lưng địch ở Bắc Bộ và mở những vùng căn cứ du kích rộng lớn ngay trong lòng địch".
- Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.I, tr.325-335.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.140-167.
- Võ Nguyên Giáp: Chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.9.
NGÀY 30-10
Liên khu ủy III ra Nghị quyết Về việc tranh thủ nhân dân, củng cố và phát triển cơ sở
Để thi hành âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, địch ráo riết vơ vét, cướp phá của cải, bắt thanh niên, phá cơ sở với những mưu mô, thủ đoạn táo bạo. Về phía ta ngay từ đầu năm, chúng ta đã đặt vấn đề chuyển hướng các tổ chức quần chúng theo thành phần giai cấp, củng cố chấn chỉnh các tổ chức quần chúng, thống nhất lực lượng nông dân, kiểm thảo và chuyển hướng chỉ đạo cho các tỉnh nhằm củng cố và phát triển cơ sở, phục vụ chiến dịch.
Tuy nhiên, công tác này vẫn còn nhiều khuyết điểm, các cấp bộ Đảng vẫn chưa đặt vấn đề dân vận đúng tầm quan trọng của nó, coi nhẹ và khoán trắng cho cán bộ, đa số cán bộ lại chưa hiểu rõ, chưa vận dụng được chính sách vận động quần chúng của Đảng nên xa lìa quần chúng, mệnh lệnh, quan liêu...
Ngày 30-10-1951, Liên khu ủy III ra Nghi quyết Về việc tranh thủ nhân dân, củng cố và phát triển cơ sở.
Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ của Liên khu về công tác này là: Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân nhằm gây lòng căm thù giặc, giáo dục tư tưởng trường kỳ kháng chiến; chấn chỉnh các tổ chức, phát triển tổ chức thấp hợp pháp để tập hợp và giáo dục quần chúng thống nhất lực lượng nông thôn; liên hệ chặt chẽ tổ chức vũ trang và chính trị; tích cực cải thiện dân sinh, bồi dưỡng tinh thần tranh đấu cho nhân dân để đủ sức phục vụ kháng chiến thắng lợi; đào tạo cán bộ và chấn chỉnh tư tưởng, nắm vững những huấn thị của Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phương châm của công tác này là: lấy việc phục vụ quyền lợi quần chúng làm tiêu chuẩn cho việc tổ chức và tranh đấu hàng ngày; khi củng cố tổ chức căn bản phải phát trển những tổ chức thông thường, khi có những tổ chức thông thường phải phát triển và củng cố những tổ chức căn bản. Trong việc đấu tranh phải vận động một hình thức cao và thấp kết hợp với quân sự, chính trị, kinh tế võ trang, sản xuất và phải nhằm phục vụ cho cơ sở; biết kết hợp mọi hoạt động công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp với mọi hình thức tổ chức tuyên truyền và đấu tranh linh động đúng lúc, đúng chỗ, có lợi cho nhân dân kháng chiến.
Nghị quyết nêu rõ từng nhiệm vụ cụ thể của Liên khu là: tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân và coi đó là công tác nòng cốt, căn bản; gây lòng căm thù giặc và bù nhìn, tạo lòng tin tưởng ở kháng chiến, phục vụ kháng chiến, chống tuyên truyền xuyên tạc của địch..., phương pháp tuyên truyền là phân tích cho dân hiểu những hành động dã man, thâm độc của địch; chấn chỉnh các tổ chức cốt cán, thống nhất lực lượng nông thôn phát triển rộng các Hội phổ thông, lợi dụng các hình thức hợp pháp và bất hợp pháp; thống nhất lực lượng nông thôn từ cơ sở xây dựng cơ sở những nơi chưa có và bảo toàn cơ sở ở nơi đã có, củng cố các ban chấp hành, sửa đổi lề lối làm việc của Liên Việt, Liên hiệp phụ nữ, liên hệ giữa tổ chức võ trang và tổ chức chính trị, củng cố Thanh niên Cứu quốc và phong trào thiếu nhi.
Đồng thời các tỉnh phải tăng cường công tác chống bắt lính; tăng cường chấn chỉnh công tác thanh vận là công tác cốt chính chống bắt lính; gây phong trào toàn dân giữ lấy thanh niên và tìm cách phá các cuộc tuyển mộ quân của địch.
Song song với các công tác trên, Liên khu phải tích cực đấu tranh chống địch cướp phá, tập trung thóc và thu thuế, xúc tiến việc vận động giảm tức, tiếp tục vận động giảm tô và vận động lãnh đạo tăng gia sản xuất.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ118, phông Liên khu ủy III.
NGÀY 10-12
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh Đặt chế độ giữ gìn bí mật quốc gia
Giữ gìn bí mật quốc gia là một công tác vô cùng quan trọng đối với một quốc gia, nhất là trong thời chiến.
Ngày 17-11-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 154-SL quy đinh những hình phạt đối với công chức, quân nhân, dân thường làm lộ bí mật cơ quan hay công việc Chính phủ.
Bổ sung Sắc lệnh trên, ngày 10-12-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 69-SL về Đặt chế độ giữ gìn bí mật quốc gia nhằm mục đích “giữ gìn bí mật quốc gia, ngăn ngừa địch và tay sai của chúng dò xét, đánh cắp bí mật quốc gia. Đặt nhiệm vụ cho bộ đội, cơ quan, cán bộ các đoàn thể, các báo chí và nhân dân phải giữ gìn bí mật quốc gia".
Sắc lệnh quy định "Bí mật quốc gia là những việc, những tài liệu, những địa điểm và những điều gì mà để tiết lộ ra có hại cho ta, có lợi ích cho địch".
Điều 4 của Sắc lệnh ghi rõ: "Ai phạm vào một trong những tội dưới đây sẽ bị truy tố trước tòa án như tội phản quốc:
1. Cố ý tiết lộ hoặc bán bí mật quốc gia cho địch hay là cho tay sai của địch.
2. Lợi dụng bí mật quốc gia để đầu cơ lấy lợi.
3. Dò xét bí mật quốc gia, mua, lấy cắp" .
Đồng thời, Sắc lệnh cũng quy định khen thưởng những người có thành tích bảo vệ bí mật quốc gia thuộc một trong những trường hợp sau:
“l. Trong nguy nan, không chịu khuất phục địch, giữ gìn được bí mật quốc gia.
2. Gặp trường hợp khó khăn, không sợ nguy hiểm, giữ kín được bí mật quốc gia.
3. Tìm ra và bắt được những vụ tiết lộ, lợi dụng dò xét lấy cắp, mua, bán bí mật quốc gia.
4. Thấy người khác để mất hoặc để tiết lộ bí mật quốc gia đã kịp thời báo cáo cấp trên."
Để thi hành Sắc lệnh trên, cùng ngày 10-12-1951, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 136-TTg: "Ấn định phạm vi bí mật quốc gia và tổ chức giữ gìn bí mật quốc gia".
Sắc lệnh quy định phạm vi bí mật quốc gia gồm: các kế hoạch và công việc quân sự (như tài liệu về lực lượng quân ta, biên chế, trang bị, cấp dưỡng, đóng quân, hành quân, mọi việc về chuẩn bị chiến trường, chiến dịch); các bí mật về ngoại giao; các kế hoạch tài chính ngân hàng quốc gia và các bí mật về kiến thiết kinh tế, các bí mật về các nguồn lợi quốc gia; điều tra nguyên liệu, về địa chất, và bản đồ địa dư,…; các bí mật về công an, về nội địa, nhân sự, và lập pháp, tư pháp, hồ sơ, văn kiện, điện báo, thư từ sách báo, tranh ảnh, thống kê, con số, biểu đồ, mật mã, con dấu,... địa điểm các cơ quan chính quyền, quân đội, đoàn thể, việc đi lại của những cán bộ cao cấp, quân, dân, chính,...
Giữ gìn bí mật quốc gia là nhiệm vụ của toàn thể các cấp, các ngành, đoàn thể và quần chúng nhân dân.
Sắc lệnh nhấn mạnh: "cơ quan công an các cấp có nhiệm vụ giúp đỡ các người phụ trách cơ quan và các ban bảo vệ cơ quan những kế hoạch chuyên môn để tiến hành việc giữ gìn bí mật".
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.276-278.
- Học viện Chính trị -hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.5, tr.479.
NGÀY 19-12
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951
Tháng 12-1951, tại Việt Bắc, triển lãm hội họa được khai mạc. Gần 200 bức tranh có giá trị của các họa sĩ được trưng bày đã diễn tả những nét sinh hoạt, đấu tranh của nhân dân ta, đồng thời tố cáo tội ác của bọn xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ.
Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các họa sĩ. Trong bức thư Người viết: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Vì vậy, cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ văn nghệ có nhiệm vụ phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công nông binh. Để làm tròn nhiệm vụ ấy, chiến sĩ văn nghệ cần có “lập trường vững, tư tưởng đúng", tức là đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết và trước hết. Về sáng tác, Người căn dặn các họa sĩ đi sâu vào đời sống của quân đội và nhân dân, thấu hiểu và phản ánh được tinh thần anh dũng, kiên quyết của quân dân ta, đồng thời hướng dẫn và nâng cao tinh thần ấy. Nghệ thuật cũng phải tiến bộ mạnh, nên cần phải dùng phương pháp tự phê bình và phê bình để không ngừng tiến bộ. Người dạy: "Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị". Người khẳng định: tiền đồ dân tộc ta rất vẻ vang và tiền đồ nghệ thuật cũng rất rộng rãi.
Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những đường hướng đúng đắn cho sáng tác của văn nghệ nói chung và hội họa nói riêng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.368-369.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Những sự kiện lịch sử Đảng (1945-1954), Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1979, t.II, tr.276-277.
NGÀY 24-12
Chiến sĩ cách mạng Nhà tù Hỏa Lò tổ chức vượt ngục
Từ đầu năm 1951, sau những chiến thắng lớn của ta lên chiến trường, tòa án thực dân Pháp liên tiếp mở nhiều phiên tòa kết án các chiến sĩ cách mạng. Do đó, số tù nhân bị kết án tử hình tăng nhanh, nhiều người tù tử hình bị giam tới gần 10 tháng và nếu không được giảm án xuống chung thân thì sẽ bị đem đi hành quyết.
Trước tình hình cấp bách đó, tổ Đảng trại tử hình quyết định chuẩn bị tổ chức vượt ngục vào ngày 24-12- 1951. Ban lãnh đạo cuộc vượt ngục lúc đầu gồm có: Đặng Đình Kỳ tổ trưởng Đảng, Nguyễn Văn Thế (Hùng Hậu) chi ủy viên Nhà tù Hỏa Lò và Trần Minh Việt.
Sau khi Chi ủy nhà tù nhận được báo cáo của tổ Đảng trại tử hình và xin chỉ thị, Trần Hữu Thỏa và Nguyễn Ngọc Kiều được chi ủy phân công thực hiện kế hoạch trực tiếp giúp đỡ và phối hợp hành động.
Tại một cơ sở ngoại thành, đồng chí Bí thư Quận ủy nội thành Nguyễn Tiến Đức đã nhận được báo cáo đặc biệt của Chi ủy Nhà tù Hỏa Lò. Đồng chí đến một cơ sở gần Ô Cầu Dền để gặp đồng chí Trần Bi là Chính trị viên của quân đội nội thành, có biệt tài về tổ chức vượt ngục, cướp tù. Nhận nhiệm vụ quan trọng, đồng chí Trần Bi rà soát tại các đầu mối, tìm bản đồ cống ngầm và thiết lập đường dây liên lạc vào Hỏa Lò do đồng chí Băng Tâm làm đầu mối chính. Kế hoạch vượt ngục của tù tử hình đã hoàn tất chu đáo và báo cáo ra ngoài. Bí thư Quận ủy Nguyễn Tiến Đức đồng ý với việc bố trí địa điểm đón tù vượt lên, có ôtô tải bị hỏng máy, đỗ ngay lên miệng cống gần chùa Quán Sứ làm tín hiệu sẵn sàng đón tù thoát ngục qua công ngầm.
Ở bên ngoài, kế hoạch phối hợp, giúp đỡ tiền, lưỡi cưa, axít, đồng hồ bản đồ đường cống và đón tù nhân khi lên khỏi cống bằng ôtô đã hoàn tất.
Sau khi điều tra kỹ tình hình, Ban lãnh đạo trại tử hình quyết định kế hoạch cưa song sắt buồng giam, song sắt cửa hành lang vào trại tử hình và song sắt trong cống ngầm. Kế hoạch đó được bàn bạc và trao đổi, phân công cụ thể cho từng người trong trại.
Trước sự tăng cường kiểm tra, cắt gác của cai ngục và đưa cố đạo vào thăm trại ngày 20-12-1951, Ban lãnh đạo trại hội ý và quyết định tổ chức vượt ngục sớm hơn vào 7 giờ tối ngày 24-12-1951.
Quyết định kế hoạch vượt ngục của Ban lãnh đạo trại được báo cáo với Chi ủy nhà tù và được chấp thuận.
Đúng vào thời điểm quy định trên, sau khi giám thị đi kiểm tra lần đầu, mỗi người được lệnh chỉ mặc một quần lót mang theo một bộ quần áo được gói kín trong ni lông. Quần áo, đồ dùng còn lại sắp xếp gọn trước cùm rồi phủ chăn lên giống như anh em đang ngủ để đánh lừa bọn giám thị. Tù nhân thoát ngục ra được chia theo ba nhóm và khi đi trong cống ngầm phải bám sát nhau để khỏi lạc.
Thực hiện kế hoạch đã định, tất cả lần lượt, lặng lẽ xuống cống ngầm. Nhóm đầu là Vũ Đức Chính, Nguyễn Văn Thế, Minh Việt, Vũ Đình Khôi, Nguyễn Gia Thiết; rồi tiếp đến Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hữu Tài, Phạm Văn Đang, Chế Lý Trình, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Lợi, Trịnh Đình Tăng, Phạm Văn Vân, Phạm Đình Liên, Vũ Đình Quang, Đặng Văn Chuyết và người xuống cống ngầm cuối cùng là Đặng Đình Kỳ.
Mặc dù lòng cống sâu tối tăm, ẩm ướt và hôi thối, giữa đêm giá rét như cắt da thịt, các chiến sĩ tử tù vẫn cố gắng lần bước và dìu nhau dưới miệng cống để thoát ngục. Mọi người đã lên được mặt đường, song do tiến hành vượt ngục sớm hơn kế hoạch đã vạch ra, không kịp bố trí người đón tù nhân, địch phát hiện và tổ chức truy bắt số tù nhân vượt ngục. Các chiến sĩ đã chiến đấu dũng cảm, che chở cho nhau, nhường nhau thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Nhưng do bị cùm giữ lâu ngày và lại phải đối phó với lực lượng địch đông gấp bội nên chỉ có 5 chiến sĩ thoát được, 12 người bị địch bắt giam lại.
Cuộc vượt ngục của các tử tù Hỏa Lò tuy không đạt thắng lợi hoàn toàn nhưng đã làm chấn động dư luận nước ta và nước Pháp lúc đó. Cuộc vượt ngục thể hiện lòng yêu nước, trí thông minh sáng tạo, tinh thần tổ chức, ý chí quyết chiến thắng kẻ thù của các chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh vô cùng hiểm nghèo.
- Sở Văn hoá thông tin Hà Nội, Viện Lịch sử Đảng: Đấu tranh của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng tại Nhà tù Hỏa Lò(1899 - 1954), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.192-198.
THÁNG 12
Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Công giáo nhân dịp Noen
Ngày 25-12 hằng năm là ngày lễ Nôen của đồng bào Công giáo, mặc dù bận trăm công nghìn việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gửi thư chúc mừng đồng bào.
Bức thư của Người nêu lên sự khó khăn trong ngày sinh nhật Đức Chúa là do khói lửa chiến tranh của giặc Pháp gây ra. Qua đó, Người nhắc đến công lao của Đức Chúa "đã hy sinh cho tự do và bác ái”, nhưng thực dân Pháp và can thiệp Mỹ dã làm trái với lời Chúa dạy, chúng gây chiến tranh, cướp bóc tàn sát nhân dân, hòng cướp nước ta, bắt nhân dân ta làm nô lệ.
Trong thư, cùng với sự khích lệ lòng căm thù bọn cướp nước ở đồng bào Công giáo, Người còn mong rằng "đồng bào nhớ cầu nguyện cho những chiến sĩ giáo và lương đã kháng chiến anh dũng và đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Nhớ cầu nguyện cho những vị giáo sĩ và bà phước từ Bắc đến Nam, đã vì chính nghĩa thà bị giặc Pháp giết hại”.
Người mong "đồng bào đoàn kết thêm chặt chẽ trong công cuộc kháng chiến để phụng sự Đức Chúa, phụng sự Tổ quốc, và để thực hiện lời Chúa dạy: "Hòa bình cho người lành dưới thế”.
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của một người đứng đầu Đảng, Nhà nước đối với đồng bào Công giáo.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.359.
NGÀY 29-12
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về cuộc vận động chấn chỉnh Đảng
Theo yêu cầu của công tác xây dựng Đảng, ngày 29-12-1951, Ban Bí thư ra Chỉ thị Về cuộc vận động chấn chỉnh Đảng, Chỉ thị nêu rõ: Ban Chấp hành Trung ương quyết định các Đảng bộ các địa phương sẽ tiến hành một cuộc vận động chấn chỉnh Đảng, sửa chữa những khuyết điểm chính của cán bộ và đảng viên đã bộc lộ sau thời gian công tác vừa qua nhằm mục đích nâng cao trình độ tư tưởng, ý thức công tác của cán bộ và đảng viên, đồng thời chỉnh đốn tổ chức của các chi bộ nông thôn.
Chỉ thị chỉ rõ nội dung cuộc vận động chấn chỉnh Đảng gồm hai công tác chính:
Đối với cán bộ tiến hành một cuộc học tập chỉnh huấn ngắn kỳ, làm cho cán bộ nhận rõ tình hình và nhiệm vụ, do đó mà nâng cao ý thức trách nhiệm của mình, nâng cao ý thức trường kỳ gian khổ, quyết tâm khắc phục khó khăn, nâng cao ý thức chấp hành chính sách của Đảng, Chính phủ và tinh thần tự phê bình, đoàn kết thống nhất nội bộ.
Đối với đảng viên ở các chi bộ nông thôn, vừa tiến hành học tập chỉnh huấn ngắn kỳ vừa chỉnh đốn tổ chức. Học tập chỉnh huấn là để giáo dục cho đảng viên nhận rõ nhiệm vụ của mình đối với Đảng, đối với kháng chiến, với nhân dân. Chỉnh đốn tổ chức là cải thiện thành phần tổ chức của chi bộ và chi ủy, thực hiện biên chế, sắp xếp lại bộ máy và lề lối làm việc của các chi bộ.
Trung ương cho rằng hai công tác trên khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết: có chỉnh huấn cán bộ kết quả thì mới chỉnh đốn chi bộ nông thôn kết quả, có chỉnh đốn chi bộ nông thôn được tốt thì mới hoàn thành nhiệm vụ của đợt chấn chỉnh Đảng này. Song phải lấy việc chỉnh huấn cán bộ làm công tác chính đầu tiên.
Chỉ thị nhấn mạnh, cuộc vận động chấn chỉnh Đảng lần này sẽ nâng cao sức chiến đấu của Đảng, thắt chặt thêm mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.12, tr.627-629.
NGÀY 29-12
Ban Bí thư Chỉ thị cho các liên khu ủy, tỉnh ủy, thành ủy về đẩy mạnh công tác chống giặc bắt lính ở vùng tạm bị chiếm và vùng du kích
Tiến hành chiến tranh, thực dân Pháp ra sức đẩy mạnh việc thực hiện âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt". Chúng tăng cường vơ vét nhân lực, vật lực để phục vụ chiến tranh.
Nhằm chỉ đạo các địa phương chống lại âm mưu của Pháp, ngày 29-12-1951, Ban Bí thư Chỉ thị cho các liên khu ủy thành ủy, tỉnh ủy đẩy mạnh chống giặc bắt lính ở vùng tạm bị chiếm và vùng du kích.
Chỉ thị chỉ rõ, thực dân Pháp đang dùng nhiều thủ đoạn vừa tuyên truyền lừa bịp, vừa khủng bố, bắt thanh niên, công chức, sinh viên... vào ngụy binh làm bia đỡ đạn cho chúng. Vì vậy, phong trào chống bắt lính của quần chúng từ Nam chí Bắc, ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Hải Phòng, với nhiều hình thức, sáng kiến, diễn ra khá mạnh. Ban Bí thư cho rằng, tuy có nhiều cố gắng, song các cuộc đấu tranh này còn chưa có sự chỉ đạo đúng mức, thiếu sự đoàn kết đấu tranh, có khi còn mắc bẫy khiêu khích của địch.
Trước tình hình đó, Ban Bí thư chủ trương "các địa phương phải đẩy mạnh công tác chống địch bắt lính, tận dụng các nguồn nhân lực vùng địch kiểm soát "thành lực lượng kháng chiến trực tiếp và dự trữ của ta".
Để thực hiện chủ trương trên, Chỉ thị nêu rõ, các cấp bộ Đảng phải nắm bắt được kế hoạch của địch, tổ chức cho thanh niên, quần chúng đấu tranh bằng nhiều hình thức như: sơ tán, biểu tình, đánh giải vây, chống kỷ luật của địch… Cần huấn luyện cho thanh niên cách phá hoại giặc khi họ bó buộc phải vào ngụy binh. Trong khi tiến hành, các địa phương cần linh hoạt khi áp dụng các hình thức đấu tranh, phối hợp với dân vận, ngụy vận, tránh khuynh hướng đưa thanh niên ra vùng tự do hoặc đấu tranh hủy hoại thân thể.
Các liên khu ủy, tỉnh ủy, thành ủy cần đặt kế hoạch chi tiết, phù hợp với tình hình từng nơi.
- Văn kiện quân sự của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1977, t.III, tr.201-206.
THÁNG 12
Liên khu IV hưởng ứng mạnh mẽ phong trào thi đua lập công đề cao chiến sĩ trên khắp các mặt trận
Trong khi chiến thắng mùa xuân của quân dân Bình - Trị - Thiên tiêu diệt binh đoàn ứng chiến Buttin gồm 2/3 lực lượng tinh nhuệ của địch ở Bình - Trị - Thiên, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh thành công trong chiến dịch dân công, Thanh Hóa tích cực phục vụ chiến trường Bắc Bộ, nỗ lực tăng gia sản xuất và tiếp tục phục vụ tiền tuyến, Liên khu IV lãnh đạo phong trào toàn Liên khu cùng với nhân dân cả nước mở rộng lòng tin đối với Đảng, Bác Hồ. Ngay sau đó, vào tháng 12-1951, Đảng bộ Liên khu IV phát động phong trào thi đua "mùa xuân" nhằm đạt kết quả cao để chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công.
Mở đầu phong trào thi đua lập thành tích mừng Đảng Lao động Việt Nam, có nhiều đơn vị vượt năng suất như xưởng dân quân Thừa Thiên 104%, xưởng Hoàng Hữu Nam 116%, có đơn vị sản xuất như xưởng Trần Quốc Tuấn vượt năng suất 23%, xưởng giấy Đông Nam giảm 26 biên chế nhưng vẫn vượt mức 70% năng suất.
Kết quả của phong trào thi đua liên tục đã có nền nếp và đi sâu vào trong các xưởng quốc phòng, các cơ sở công nghệ và mọi ngành nghề trong Liên khu (kể cả các tập đoàn sản xuất cũng như tiểu công nghệ của tư nhân). Trong đợt thi đua này, Liên khu đã có những chiến sĩ tiêu biểu của các ngành như: kỹ nghệ quốc phòng có 277 chiến sĩ, công nghệ và tiểu công nghệ có 66 chiến sĩ, vận tải 37 chiến sĩ, lao động trí óc 133 chiến sĩ. Tiêu biểu là hai chiến sĩ già nhất và trẻ nhất: Nguyễn Đức Cáp (60 tuổi) và Trần Thị Thanh (16 tuổi).
Trên cơ sở đó, Liên khu ủy đã tổng kết thành công của phong trào thi đua trên các mặt sau:
- Phong trào đã đi đúng phương châm vừa "trao đổi nghề nghiệp" vừa đẩy mạnh tăng năng suất lao động với nội dung hình thức thi đua ngày càng phong phú. Các hoạt động tiết kiệm nguyên liệu cải tiến và đề cao sáng kiến ngày càng được đẩy mạnh.
- Phong trào thi đua đã kết hợp được kinh nghiệm sản xuất hàng ngày với kỹ thuật chuyên môn. Điều đáng chú ý nhất là các đơn vị, cơ sở sản xuất đã hướng dẫn phong trào học tập dân chủ, phát triển những sáng kiến, thảo luận ấn định mức sản xuất cho từng cá nhân.
- Phong trào thi đua sản xuất đã kết hợp với phong trào chung của nhân dân trong chiến dịch thuế nông nghiệp. Không một ngành nào trong Liên khu là không tích cực tham gia gắn liền nhiệm vụ sản xuất với thuế nông nghiệp để thực hiện chính sách kinh tế, tài chính của Đảng và Chính phủ. Có những đơn vị tăng mức sản xuất 100 275% như xưởng Hà Huy Tập, Cao Thắng, Hoàng Văn Thụ, Lê Lợi... Phong trào thi đua có tác dụng tăng cường liên minh công nông, đoàn kết chặt chẽ hơn các tầng lớp nhân dân, phục vụ nhiều hơn cho kháng chiến. Qua phong trào thi đua, hoạt động sản xuất của các cơ quan, xí nghiệp trong Liên khu ngày càng được củng cố, lề lối làm việc được sửa đổi phù hợp với yêu cầu ngày càng lớn của cuộc kháng chiến, góp phần đưa cuộc kháng chiến của cả nước mau đến thắng lợi.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, phông Liên khu IV, ĐVBQ 203, số 49.
_____________
1. Trụ sở nhà Nghệ thuật quần chúng nằm trên đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay.
2. Còn gọi là chiến dịch Quang Trung.
Năm1952 THÁNG 1
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề ra chương trình công tác năm 1952
Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta đã bước vào năm thứ sáu với những chuyển biến quan trọng. Trong năm 1952, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Thực hiện chủ trương của Đảng và để cụ thể hoá những nhiệm vụ trong giai đoạn tới, Chính phủ đề ra chương trình công tác năm 1952 gồm những mặt sau:
1. Về quân sự: phải nâng cao chất lượng của bộ đội chủ lực, giữ vững và phát triển chiến tranh du kích, đặt công tác vận động ngụy binh thành công tác quan trọng có ý nghĩa chiến lược.
2. Về kinh tế tài chính: vận động toàn dân thực hiện kế hoạch sản xuất (và tiết kiệm), làm cho kinh tế chung phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm cung cấp cho bộ đội, đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm trong bộ đội, cơ quan, trường học. Phương châm chung là phát triển nông nghiệp, chăn nuôi một cách có kế hoạch, phát triển tiểu công nghệ và thủ công nghiệp, mậu dịch với nước bạn và cải thiện dân sinh.
Thực hiện vận động tiết kiệm trong nhân dân, trong bộ đội, cơ quan, công xưởng. Sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm, tiết kiệm của cải, nhân công, thời gian. Chống quan liêu, lãng phí, tham ô.
Xúc tiến làm kế hoạch phải từ trên xuống rồi từ dưới lên. Trên định phương châm, phương hướng, dưới góp ý kiến cho thật cụ thể, thiết thực cho từng xã, thôn, gia đình, công xưởng, cơ quan, trường học. Phải gây một cuộc vận động lớn trong nhân dân, làm cho nhân dân hết sức cố gắng thực hiện kế hoạch sản xuất.
3. Công tác nội chính: trọng tâm là đoàn kết toàn dân, động viên mọi lực lượng, dùng mọi phương pháp quyết phá tan âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "dùng người Việt đánh người Việt" của địch; phát triển công tác kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm và vùng du kích; xây dựng và phát triển bộ máy chính quyền và các đoàn thể nhân dân để tăng cường công tác dân vận. Duy trì, củng cố và phát triển chiến tranh du kích, tăng cường công tác vận động ngụy binh, phòng gian, trừ gian. Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân bằng cách thi hành chính sách đại đoàn kết của Chính phủ.
4. Ngoại giao: nhân dân Việt Nam phải đoàn kết thật chặt chẽ trong Mặt trận dân chủ hoà bình thế giới với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác. Tăng cường sự đoàn kết kháng chiến với hai dân tộc Miên - Lào. Phát triển ngoại giao nhân dân.
5. Văn hóa xã hội: chỉnh đốn và tăng cường công tác tuyên truyền, tổ chức giáo dục chính trị cho nhân dân và cán bộ, phát triển văn nghệ nhân dân để phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân. Đẩy mạnh công tác giáo dục. Phát triển y tế ở xã; kiện toàn y tế dân công. Thực hiện kế hoạch đưa thương binh về xã.
So với chương trình công tác của những năm trước, chương trình công tác năm 1952 của Chính phủ có nội dung cụ thể, thiết thực hơn, nhất là chương trình kế hoạch kinh tế tài chính. Đây là một bước tiến mới của Chính phủ nhằm mục đích tăng sức kháng chiến để đánh địch mạnh hơn, thắng địch nhiều hơn, tích trữ lực lượng, vượt qua mọi gian khổ, đưa kháng chiến tới thắng lợi cuối cùng.
- Báo Nhân dân, ngày 27-l-1952.
ĐẦU NĂM
Phong trào thi đua hưởng ứng cuộc vận động nộp thuế nông nghiệp
Phấn khởi trước thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên mặt trận Hoà Bình và các mặt trận khác, đồng bào các địa phương đã nô nức thi đua nộp thuế nông nghiệp. Huyện Định Hoá (Thái Nguyên) có sáng kiến mở Đại hội giao lương ở các xã để phát động phong trào thi đua nộp thuế và được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Đồng bào giúp đỡ nhau thu hoạch, vận chuyển, phơi khô quạt sạch, chọn thóc tốt để đóng thuế lương thực ở Tuyên Quang, Lạng Sơn, đồng bào rủ nhau sửa chữa đường thôn bản để đưa xe trâu, xe quệt vào tận nơi vận chuyển thóc. Những tổ giao lương ở Lạng Sơn, Tuyên Quang xung phong đi vận chuyển thóc đã được huy động vận chuyển ở từng thôn, từng hộ, giúp đỡ những nhà neo người, có con đi bộ đội, gia đình thương binh, tử sĩ...
Phong trào thi đua nộp thuế diễn ra rầm rộ, sôi nổi, đồng bào đã biểu lộ tinh thần giúp đỡ nhau và ý thức bảo vệ của công, nộp đâu gọn đấy, làm ngày chưa đủ, tranh thủ vận chuyển cả đêm để kịp nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước.
Sau khi nộp thuế xong, các địa phương đều tổ chức Hội nghị kiểm thảo ở từng thôn, từng xã. Trong Hội nghị, đồng bào đã mạnh dạn phê bình thái độ quan liêu của một số cán bộ hay uỷ viên Ban Thuế, một số đồng bào cũng tự phê bình khuyết điểm của mình về giấu sản lượng, khai man, nộp thóc chưa tốt… Cán bộ cũng thành thật nhận lỗi, tự phê bình nghiêm túc. Những cuộc hội nghị kiểm thảo rút kinh nghiệm kịp thời thiết thực đã góp phần củng cố tình đoàn kết ở nông thôn, giữa cán bộ và nhân dân. Đó là dịp để nhân dân phát huy lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm ủng hộ Chính phủ, thể hiện lòng tin vô hạn với Bác Hồ và tình thương yêu bộ đội đang cần sự chi viện đóng góp to lớn ở hậu phương.
- Báo Nhân dân, ngày 7-2-1952.
ĐẦU NĂM
Quân và dân trên địa bàn Tây Ninh chiến đấu dũng cảm, bảo vệ căn cứ Trung ương Cục miền Nam
Từ cuối năm 1951, theo yêu cầu chỉ đạo, Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Nam Bộ chuyển về đóng ở địa bàn Tây Ninh (lúc đó thuộc tỉnh Gia Ninh). Căn cứ địa mở rộng từ Trà Dơ, Đồng Rùm xuống vùng Tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, một phần của huyện Châu Thành và căn cứ Dương Minh Châu.
Để bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến ở Nam Bộ, thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ Gia Ninh, nhân dân các huyện Trảng Bàng, Châu Thành, Dương Minh Châu đã phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích chống lấn chiếm, bảo vệ căn cứ Bời Lời và các vùng du kích quan trọng.
Nhiều huyện, ta đã phân công cán bộ bám sát cơ sở tích cực vận động đồng bào Cao đài có võ trang ủng hộ Chính phủ kháng chiến, đi sát vùng xung quanh Toà Thánh phân hoá giáo chức, vận động binh sĩ Cao đài bỏ ngũ để tòng quân kháng chiến chống Pháp.
Đầu năm 1952, bộ đội chủ lực tỉnh phối hợp với du kích địa phương trinh sát nắm vững tình hình, tiêu diệt bốt Liên Minh, Bến Sỏi, diệt một số tên ác ôn làm cho bọn Cao đài phản động vô cùng hoảng sợ.
Để tiêu diệt khu căn cứ đầu não kháng chiến, địch đã tập trung lực lượng khoảng 20 tiểu đoàn bộ binh mở nhiều mũi tiến công vào căn cứ của ta. Đây là một trong những trận càn lớn nhất của giặc Pháp trên chiến trường Nam Bộ.
Với tinh thần quyết tâm diệt địch, bảo vệ căn cứ, du kích và bộ đội địa phương đã dũng cảm chiến đấu phá tan cuộc càn quét của địch. Quân và dân xã Ninh Thạnh, Thạnh Bình, Chơn Bà Đen cùng với bộ đội trinh sát, phục kích đã tiêu diệt nhiều xe cơ giới của địch trên các trục lộ 26, 13, tiêu diệt các bót Cầu Lộc Ninh, Cầu Xa Cách, phá hủy nhiều kho hậu cần của địch.
Do hoạt động tích cực trên các lĩnh vực đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận trên chiến trường Tây Ninh, ta đã luôn ở trong thế chủ động tiêu diệt địch, bảo vệ an toàn các cơ quan đầu não của Trung ương Cục. Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 304 thuộc phân liên khu miền Đông và bộ đội biệt động tỉnh Dầu Tiếng đã tiến công sở chỉ huy của địch tại suối Đá (Dầu Tiếng), buộc địch phải bỏ dở cuộc hành quân càn quét vào chiến khu Dương Minh Châu. Các đơn vị đóng quân tại chiến khu Dương Minh Châu tiếp tục đánh thắng cuộc càn quét mang tên "Gió lốc 2". Sau 17 ngày đêm chiến đấu, ta đã tiêu diệt 790 tên địch, bắn chìm 3 tàu, đánh hỏng 3 xe lội nước, buộc địch phải rút quân.
- Ban Tổng kết chiến tranh: Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Tây Ninh xuất bản, 1990, tr.147-154.
NGÀY 20-1
Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ trương tổ chức cho nhân dân vui Tết Nhâm Thìn 1952, đề phòng tư tưởng chủ quan khinh địch
Để tổ chức cho toàn quân và toàn dân quán triệt đẩy mạnh kháng chiến tới thắng lợi, trong dịp Tết 1952, Ban Bí thư Trung ương Đảng chủ trương tổ chức vui Tết thắng lợi Thu - Đông 1952, đồng thời tuyên truyền, giáo dục nhân dân đề cao cảnh giác, đề phòng tư tưởng chủ quan, khinh địch. Việc vui Tết cũng phải hết sức tiết kiệm, thấm nhuần tinh thần kháng chiến trường kỳ gian khổ nhưng nhất định thắng lợi, tinh thần ái quốc kết hợp chặt chẽ với tinh thần quốc tế.
Những khẩu hiệu chính được nêu cao trong dịp này là:
- Toàn dân đoàn kết.
- Thi đua giết giặc lập công, đề cao chiến sĩ.
- Đẩy mạnh chiến tranh du kích.
- Thi đua sản xuất, tiết kiệm.
- Chống bệnh quan liêu, chống tham ô, lãng phí.
Ra sức đập tan âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch.
- Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ địa phương phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể quần chúng tổ chức vui xuân cho nhân dân nhưng hết sức nâng cao cảnh giác, chống âm mưu đánh phá của địch.
Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, đoàn thể chúc đồng bào trong nước, vùng tự do, vùng tạm chiếm, vùng du kích và kiều bào ở nước ngoài vui Tết giành thắng lợi.
Người nêu lên những thuận lợi của phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước xã hội chủ nghĩa anh em khác đối với cách mạng Việt Nam. Người biểu dương những thành tích của quân và dân ta đã đạt được trên các lĩnh vực đấu tranh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Đồng thời, Người nêu lên những nhiệm vụ cụ thể để quân và dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi hơn nữa. Những nhiệm vụ đó là:
- Chúng ta đã đoàn kết, nay phải đoàn kết chặt chẽ, thật thà và rộng rãi hơn nữa. Đoàn kết toàn dân, đoàn kết với nhân dân Miên - Lào, đoàn kết với các nước bạn, đoàn kết với các dân tộc đang đấu tranh đòi độc lập, tự do và hoà bình.
- Toàn thể đồng bào phải thi đua tăng gia sản xuất để đủ ăn, đủ mặc, tức là mọi người, mọi gia đình, mọi làng, mỗi huyện, mỗi tỉnh cho đến cả nước đủ ăn, đủ mặc, nhân dân và bộ đội đủ ăn, đủ mặc để kháng chiến lâu dài. Tăng gia sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm.
- Bộ đội phải thi đua diệt giặc lập công, phong trào du kích phải được đẩy mạnh lên khắp nơi. Hễ lúc nào giặc hở là ta đánh. Giặc mò ra đâu ta đánh ở đó. Ta làm cho chúng hao mòn sứt mẻ, ta cộng thắng lợi nhỏ thành thắng lợi to. Ta đánh cho chúng không kịp thở cho đến lúc ta hoàn toàn tiêu diệt chúng. Quân đội và nhân dân ta phải tìm đủ cách chống địch bắt lính và vận động những người lầm đường đi lính cho giặc quay súng trở về với Tổ quốc.
- Chúng ta phải chống những cái gì trở ngại ta: một là chứng bệnh quan liêu giấy tờ hình thức; hai là chống bệnh tham ô; ba là chống nạn lãng phí.
Người nhắc nhở: tham ô và lãng phí đều do bệnh quan liêu mà ra. Vì vậy từ nay, toàn thể đồng bào, chiến sĩ, cán bộ phải xem quan liêu, tham ô, lãng phí là những tội lỗi đối với Tổ quốc, đối với đồng bào. Người phạm tội có lỗi đã đành, người thấy những tội ấy mà không nêu ra, cũng như có tội. Vì vậy bộ đội, cơ quan, đoàn thể và nhân dân phải tổ chức một phong trào thật thà phê bình và phê bình từ cấp trên xuống từ cấp dưới lên để cùng nhau tẩy rửa ba nạn kia, để dọn đường cho những thắng lợi mới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.11-12.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.391-395.
NGÀY 20-1
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về đẩy mạnh du kích chiến tranh trên chiến trường Bắc Bộ
Chỉ thị gồm ba phần:
1. Nhận định tình hình: Địch đánh ra Chợ Bến, Hoà Bình. Lực lượng ứng chiến hầu hết phải đưa ra chiến trường mới chiếm đóng, vì thế vùng địch hậu hết sức sơ hở. Đó là cơ hội để ta tiêu diệt địch ở mặt trận chính.
Hoạt động ở chiến trường Bắc Bộ trong hai tháng qua thu được kết quả tốt.
2. Về nhiệm vụ của đoàn thể, chính quyền, quân đội và toàn thể nhân dân trong địch hậu: "Nắm vững cơ hội thuận lợi tranh thủ thời gian, đẩy mạnh phong trào đấu tranh về mọi phương diện mục đích nhằm tăng cường lực lượng và tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân địch, phá kế hoạch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của chúng".
3. Những nhiệm vụ cụ thể, Chỉ thị nêu rõ:
- Tích cực phát triển củng cố cơ sở,
- Đẩy mạnh phong trào du kích,
- Mở rộng và củng cố căn cứ địa,
- Đẩy mạnh công tác ngụy vận.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.4-10.
NGÀY 26-1
Ban Bí thư ra Chỉ thị phát triển và củng cố các vùng du kích và căn cứ du kích tích cực chuẩn bị chống giặc càn quét
Trước thất bại liên tiếp tại mặt trận Hoà Bình, thực dân Pháp tìm mọi cách điều động lực lượng thực hiện kế hoạch càn quét vùng du kích và căn cứ du kích của ta.
Tình hình mới đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ hoạt động chiến tranh du kích trong lòng địch. Ban Bí thư nhấn mạnh những phương châm lớn của kế hoạch củng cố các vùng du kích và căn cứ du kích:
- Phát triển và củng cố phải gắn liền với nhau.
- Phải gấp rút củng cố những vùng du kích và căn cứ du kích có điều kiện giữ vững và phát triển.
- Trong chống càn quét, cần kết hợp chặt chẽ lực lượng quần chúng với lực lượng vũ trang; nắm vững và áp dụng linh động chiến thuật của ta, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền được vững chắc.
- Tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, thống nhất lãnh đạo và phối hợp đấu tranh chặt chẽ giữa các vùng du kích, căn cứ du kích. Tổ chức cơ quan bộ đội và phương thức công tác phải theo nguyên tắc "tinh binh, tinh cán" và tuyệt đối tập trung thống nhất lãnh đạo.
Ban Bí thư nhấn mạnh: chống càn quét, bảo vệ căn cứ và phát triển khu du kích cần gắn với đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, thực hiện chính sách ruộng đất, kinh tế, tài chính trong vùng du kích và căn cứ du kích. Trong đó, chính sách giảm tô, giảm tức và chia ruộng đất tịch thu của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo, cho bộ đội, du kích và gia đình thương binh, tử sĩ cần được chú ý thi hành. Tuy nhiên, phải căn cứ vào trình độ giác ngộ của nhân dân địa phương, cơ sở tổ chức của ta ở địa phương và tình hình chính trị vững chắc ở địa phương mà đặt kế hoạch cho thích hợp.
Về kinh tế, tài chính:
- Thực hành thu thuế nông nghiệp, đình chỉ mọi lạc quyên bổ bán.
- Cố gắng thực hành thống nhất quản lý về chi, thu tài chính, phòng ngừa lạm thu, lạm chi.
- Bảo vệ công thương nghiệp.
- Tự do mậu dịch, mua bán công bằng, không được định giá bán bắt buộc cho các nhà buôn nếu họ theo đúng luật lệ của Chính phủ.
Ban Bí thư yêu cầu các địa phương nêu cao cảnh giác chống tư tưởng sai lầm như: lạc quan tếu, dè dặt, bi quan, ỷ lại vào bộ đội chủ lực... Phải thấy địch tuy còn mạnh, nhưng chúng đang thua ở nhiều nơi và không tránh khỏi bị động. Ta phải tích cực chống càn quét nhỏ và những cuộc càn quét lớn trong bất kỳ tình huống nào để bảo vệ và giữ vững căn cứ du kích của ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.15-23.
ĐẦU NĂM
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về công tác văn nghệ năm 1952
Trong năm 1952, cùng với những thắng lợi to lớn trên mặt trận quân sự, kinh tế, hoạt động văn hoá văn nghệ của ta đã có bước phát triển mạnh. Nhiệm vụ chính của văn nghệ là phục vụ kháng chiến gồm có:
- Biểu dương thành tích của các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu. Lấy thành tích, đời sống, lòng yêu nước, chí căm thù, tinh thần phục vụ nhân dân, gương chiến đấu hy sinh dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân làm nội dung sáng tác, đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách của Đảng và Chính phủ về tăng gia sản xuất, tiết kiệm, thuế nông nghiệp, chỉnh quân, chỉnh Đảng…
- Tố cáo tội ác của địch đối với nhân dân ta.
- Tích cực đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá văn nghệ, chống lại văn hoá đồi trụy của địch.
Để làm tốt việc phát huy ảnh hưởng và tác dụng của văn nghệ trong giai đoạn tới, Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ của công tác văn nghệ với những nội dung mấu chốt sau:
- Cải tạo tư tưởng và bồi dưỡng chính trị cho đội ngũ văn nghệ sĩ.
- Tổ chức cho văn nghệ sĩ đi sát thực tiễn và quần chúng, phục vụ sát thực các chính sách của Đảng, Chính phủ.
- Đẩy mạnh phê bình văn nghệ.
- Kịp thời khen thưởng, động viên thành tích của văn nghệ sĩ trong phong trào chung phục vụ kháng chiến, kiến quốc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.24-27.
NGÀY 14-2
Ban Bí thư ra Chỉ thị tổ chức kỷ niệm ngày 3-3
Bản Chỉ thị nêu rõ: từ năm 1952, Trung ương quyết định lấy ngày 3 tháng 3 là ngày kỷ niệm chung:
- Ngày thành lập Đảng,
- Ngày thống nhất Việt Minh và Liên Việt,
- Ngày đoàn kết Việt - Miên – Lào.
Mục đích kỷ niệm ngày 3-3 là:
a) Củng cố mối liên hệ Đảng và quần chúng, nâng cao sức lãnh đạo của Đảng.
b) Củng cố khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết Việt – Miên – Lào.
c) Đẩy mạnh mọi mặt công tác, chủ yếu là đánh giặc, sản xuất và chống chính sách "dùng người Việt đánh người Việt" của địch.
Các cấp bộ Đảng và Mặt trận phải căn cứ vào tình hình thực tế ở đơn vị, địa phương mình, tổ chức kỷ niệm ngày 3-3 cho có ý nghĩa thiết thực bằng những công tác cụ thể chào mừng Đảng, Mặt trận và tỏ tình đoàn kết Việt - Miên - Lào.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.28-32.
NGÀY 20-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ ngành tài chính
Nhân Hội nghị của ngành tài chính được tổ chức nhằm kiểm điểm hoạt động của ngành trong những năm qua, đồng thời tiếp tục chuyển hướng hoạt động tài chính trong tình hình mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới toàn thể cán bộ ngành tài chính. Trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Năm ngoái, Chính phủ đã nâng cao công tác kinh tế tài chính và nhấn mạnh ba điểm quan trọng là:
- Tăng thu, giảm chi, thống nhất quản lý tài chính,
- Xây dựng ngân hàng và quản lý tiền tệ,
- Phát triển mậu dịch.
Công tác tài chính là then chốt, mà trọng điểm của nó là thuế nông nghiệp.
Chấn chỉnh ba công tác ấy là để chuẩn bị điều kiện thiết thực cho kế hoạch sản xuất và tiết kiệm năm nay, tức là để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc". Người nhắc nhở, trong Hội nghị này, các cán bộ nên thật thà kiểm thảo, mọi người đã nắm vững chính sách và phương châm của Chính phủ chưa? Đã đi đúng đường lối quần chúng chưa? Cách tổ chức và lề lối làm việc đã hợp lý chưa?
Với từng loại cán bộ của từng ngành như:
- Cán bộ tài chính: phải tìm rõ nguyên nhân vì sao chưa nắm vững và chưa thực hiện chính sách về thu chi của Chính phủ.
- Cán bộ mậu dịch: phải làm thế nào để ổn định giá cả và để đạt mục đích xuất nhiều hơn nhập.
- Cán bộ ngân hàng: làm thế nào nắm vững việc quản lý thu phát của chế độ kho bạc mới để giúp ngành tài chính thống nhất quản lý chi, thu để giúp ngân hàng nắm vững việc phát hành.
- Cán bộ tín dụng: phải kiểm điểm lại đã làm những gì để giúp ích nhân dân, để đẩy mạnh sản xuất.
Một điểm nữa Người yêu cầu: Cán bộ kinh tế, tài chính phụ trách nhiều tiền, của mà hoàn toàn chưa thông thạo việc quản lý tiền của ấy. Cho nên, chúng ta phải ra sức học tập quản lý tài sản quốc gia mà ngành phụ trách. Đồng thời, phải trau dồi đạo đức cách mạng: chí công vô tư, cần kiệm liêm chính, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến; dùng cách thật thà tự phê bình để tẩy trừ những thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu để cùng nhau tiến bộ.
Sau Hội nghị ngành tài chính, ngày 25-5-1952, Chủ tịch Hồ Chí Mmh ký Sắc lệnh số 92-SL quy định việc phát hành các loại giấy bạc Ngân hàng quốc gia gồm bảy loại: loại 10 đồng, loại 20 đồng, loại 50 đồng, loại 100 đồng, loại 200 đồng, loại 500 đồng, loại 1000 đồng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002, t.6, tr.415-416.
NGÀY 23-2
Chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi
Sau hơn ba tháng mở chiến dịch kể từ cuối tháng 11- 1951, ngày 23-2-1952, chiến dịch Hoà Bình đã kết thúc thắng lợi.
Bước vào chiến dịch, Tổng Quân uỷ nhận định rằng: Đánh ra Hoà Bình là một vị trí đột xuất bên ngoài phòng tuyến boongke, địch đã phân tán một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động trên một địa bàn rừng núi rộng lớn, hiểm trở, khiến cho binh lực của chúng ở đồng bằng Bắc Bộ bị dàn mỏng, thế của chúng càng sơ hở. Đây là một cơ hội hiếm có để ta tiêu diệt sinh lực địch cả trên chiến trường phía trước và vùng địch hậu, trong đó tập trung vào nhiệm vụ đánh bại cuộc hành binh của địch chiếm đóng ở Hoà Bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trước kia ta phải lừa địch ra mà đánh, nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta.
Sau ba đợt chiến đấu, quân và dân ta giải phóng một vùng rộng lớn bao gồm các huyện miền núi Ba Vì chạy suốt dọc hạ lưu sông Đà đến Hoà Bình và đường số 6 tới Xuân Mai.
Phối hợp với mặt trận Hoà Bình, các mặt trận khác ở trung du, trung châu Bắc Bộ, các Liên khu III, IV, V và Nam Bộ cũng thắng địch giòn giã. Riêng chiến trường Bắc Bộ, từ khi địch đánh ra Hoà Bình ta đã:
- Tiêu diệt 22.000 tên địch (trong đó 7.219 tên bị bắt hoặc ra hàng), 71 sĩ quan địch, 197 vị trí trong đó có 58 vị trí bị ta bức rút, 1.000 đồn hương dũng (gồm 2/3 tổng số ở Bắc Bộ).
- Phá hủy 254 xe quân sự, trong đó có 21 xe tăng; 13 máy bay, 20 đại bác, 2 tàu chiến và nhiều phương tiện, vũ khí khác.
- Thu 5.311 khẩu súng trường, 140 súng lục, 1.026 tiểu liên, 318 trung liên, 77 trọng liên và đại liên, 41 súng cối, 24 đại bác, 7 súng phóng lựu đạn,..., 105 tấn đạn và 11 tấn quân trang, quân dụng, 22.800 lít xăng, 11 máy canô và nhiều loại thuốc chữa bệnh. Nhiều đơn vị và chiến sĩ đã lập công xuất sắc. Chiến sĩ Cù Chính Lan anh dũng diệt xe tăng địch, chiến sĩ Hoàng Cầm sáng tạo kiểu bếp nấu không khói, Trung đoàn 88 Đại đoàn 308 tiêu diệt cứ điểm Tu Vũ được tặng danh hiệu Trung đoàn Tu Vũ.
Chiến thắng Hoà Bình không những là một thắng lợi lớn về quân sự mà còn là thắng lợi lớn về chính trị của quân và dân ta, giáng một đòn nặng nề vào chính sách xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Để kịp thời động viên quân và dân ta, nhân dịp mặt trận Hoà Bình thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ gửi thư khen ngợi Ban Chỉ huy mặt trận, toàn thể cán bộ quân, dân, chính hoạt động ở mặt trận Hoà Bình và toàn thể các chiến sĩ Vệ quốc quân, bộ đội địa phương và dân quân du kích, đồng bào đi dân công phục vụ chiến dịch và đồng bào địa phương đã giúp đỡ bộ đội. Người viết: "Tôi có lời an ủi đồng bào vùng mới được giải phóng và khuyên đồng bào phải tổ chức đoàn kết, lo tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống và hăng hái tham gia kháng chiến.
Thắng lợi này là do sự lãnh đạo đúng đắn và do quân dân đoàn kết nhất trí.
Tôi căn dặn cán bộ, chiến sĩ và đồng bào chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch.
So với những thắng lợi trước, thắng lợi lần này là khá to. Thắng lợi lần này đã đánh dấu một bước tiến bộ mới của bộ đội ta và đã làm cho địch phải thất bại nhục nhã trong âm mưu củng cố phòng ngự chuyển lên tiến công, nhưng bộ đội phải luôn luôn cố gắng thi đua giết giặc lập công và ra sức học tập chỉnh huấn, đồng bào phải gắng sức thi đua tăng gia sản xuất hơn nữa để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa".
Phát huy thắng lợi của chiến dịch Hoà Bình, quân và dân ta trong vùng du kích và vùng tạm chiếm cần tích cực củng cố căn cứ du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tiêu diệt sinh lực địch, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu mới của địch, làm phá sản chính sách bình định "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của chúng. Đồng thời, nhân dân ta trong các vùng tự do, vùng du kích tích cực thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến ngày càng vững mạnh để tiến lên giành thắng lợi mới.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.423-424.
- Báo Nhân dân, ngày 13-3-1952.
NGÀY 28-2
Chủ trương của Trung ương Đảng về đẩy mạnh công tác vùng địch hậu
Bị thua đau, đến ngày 23-2, địch buộc phải rút khỏi mặt trận Hoà Bình, đường số 6. Đảng ta nhận định có khả năng địch sẽ dồn lực lượng này về Liên khu III để mở những cuộc càn quét lớn trả thù ta hòng khôi phục lại những vị trí và cơ sở của chúng ở vùng địch hậu.
Với nhận định trên, Ban Bí thư chỉ đạo các địa phương trong vùng du kích, căn cứ du kích phải tích cực thực hiện phương châm công tác vùng địch hậu và kế hoạch chống càn quét nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 và Chỉ thị số 02-CT/TW, cụ thể là:
- Trong tình hình mới, trong công tác dân vận không quá thiên về chỉnh đốn tổ chức quần chúng mà việc đầu tiên phải làm là:
+ Chú trọng lãnh đạo nhân dân, đem lại quyền lợi thiết thực cho họ, giúp họ giải quyết các yêu cầu trước mắt.
+ Tích cực phối hợp chặt chẽ giữa dân quân du kích, bộ đội địa phương và đồng bào chống địch càn quét, bảo vệ sản xuất, bảo vệ nhà cửa, tài sản; chống bắt lính, bắt phu, nộp thóc, nộp tô thuế,...
+ Trong quá trình thực hiện những công tác cấp bách trên, nhân đó mà thực hiện xây dựng và chấn chỉnh tổ chức.
Trung ương nhắc các địa phương ra sức thực hiện việc củng cố vùng du kích và căn cứ du kích để chống giặc càn quét đẩy mạnh công tác dân vận là những hoạt động quan trọng hàng đầu hiện nay.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 278, phông 1952.
NGÀY 29-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi thực hành cần và kiệm
Bước vào năm 1952, hoạt động sản xuất để xây dựng thực lực kháng chiến ngày càng trở nên cấp bách. Muốn đẩy mạnh sản xuất, phải gắn với thực hành triệt để tiết kiệm trong mọi hoạt động thu, chi ngân sách.
Trong những bài nói và viết về thực hành tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên và nhân dân: "Cần là thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho nhiều. Kiệm là thi đua tiết kiệm, không lãng phí, quý trọng của công.
Nếu chỉ Kiệm mà không Cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng. Nếu Cần mà không Kiệm thì làm chừng nào, xào chừng ấy, kết quả là không lại hoàn không. Cho nên Cần và Kiệm là như tay phải và tay trái, hai tay không thể thiếu một".
Nhằm động viên mạnh mẽ phong trào sản xuất và tiết kiệm, góp phần thúc đẩy hoạt động kháng chiến phát triển vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước hăng hái hưởng ứng cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm.
Người nhấn mạnh: "Ở vùng tự do, thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là công tác trung tâm của nhân dân, của Chính phủ và của Đoàn thể. Ở vùng du kích và căn cứ du kích, đó là một công tác rất quan trọng.
Để thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, chúng ta gây một phong trào quần chúng sâu rộng và bền bỉ. Phải tuyên truyền, vận động, tổ chức lãnh đạo nhân dân hăng hái tham gia công việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Phải đặt phong trào sản xuất và tiết kiệm làm trung tâm của phong trào thi đua ái quốc. Mỗi địa phương, mỗi đơn vị, mỗi gia đình nên ký giao kèo thi đua thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm riêng cho mình để hoàn thành kế hoạch chung của Chính phủ.
Để thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm, các cơ quan, đơn vị bộ đội, nhà máy, trường học,... phải chống nạn tham ô, lãng phí. Phải sử dụng tiền của, sức lực và thời giờ của nhân dân cho hợp lý. Phải chống bệnh quan liêu vì đó là nguồn gốc của nạn tham ô, lãng phí.
Lâu nay chúng ta đòi hỏi nhân dân đóng góp. Từ đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết kiệm, để cải thiện đời sống của bộ đội và nhân dân. Chính phủ là chính phủ của dân. Như thế, nhân dân sẽ càng hăng hái đoàn kết và kháng chiến...". Người nêu khẩu hiệu: "Bộ đội thi đua giết giặc lập công”, "Nhân dân thi đua sản xuất, tiết kiệm".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.425, 440-441.
THÁNG 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Tự phê bình và phê bình” trong dịp chỉnh Đảng mùa Xuân 1952
Nhân dịp tiến hành công tác chỉnh huấn trong Đảng, với bút danh CB, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Tự phê bình và phê bình" đăng trên báo Nhân dân nhằm tuyên truyền sâu rộng hơn mục đích, phương hướng, trọng tâm, cách làm của đợt phê bình, chỉnh huấn tới toàn thể cán bộ, đảng viên.
Người viết: muốn có kết quả thiết thực thì tự phê bình và phê bình phải chú ý bốn điều sau:
- Mục đích: đoàn kết nội bộ từ trên đến dưới; làm cho công việc tiến hơn; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân; sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm ví dụ như: bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng,..
- Phương hướng: mục đích tự phê bình và phê bình thì bất cứ ở nơi nào cùng giống nhau, nhưng vì công việc khác nhau nên mỗi nơi công tác kiểm thảo có khác nhau.
- Trọng tâm: trong mỗi thời kỳ ắt có một hai công tác chính (ví dụ công tác thuế nông nghiệp, công tác tạm vay). Lúc kiểm điểm phải nhằm vào ưu và khuyết của trọng tâm ấy.
- Cách làm: phải chia làm mấy bước: đả thông tư tưởng, nghiên cứu tài liệu, kiểm thảo công việc, kiểm thảo phải khởi đầu từ cấp trên. Trong kiểm thảo phải làm cho mọi người tự động, tự giác, thật thà nêu khuyết điểm của mình, thành thật phê bình anh em. Kiểm thảo nhằm vào tư tưởng, lề lối làm việc, kết quả của công việc chứ không nhằm vào cá nhân. Kết thúc kiểm thảo là phải làm cho mọi người tăng thêm lòng tự tin, hăng hái làm tròn nhiệm vụ.
Người đã phê bình một số những thiếu sót của cán bộ, đảng viên. Đó là tư tưởng hẹp hòi, địa vị “công thần", quan liêu, mệnh lệnh, kém đoàn kết, chưa biết quý trọng của công, chưa biết quản lý của công một cách chặt chẽ, có một số cán bộ còn tham ô, hủ hoá.
Để khắc phục những thiếu sót trên, Người nhắc nhở: từ nay, những cuộc tự phê bình và phê bình cần nhằm đúng mấy điểm:
- Đoàn kết chặt chẽ cán bộ trong Đảng, ngoài Đảng và toàn dân.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần thi hành nghiêm chỉnh và triệt để chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Theo đường lối quần chúng, vượt mọi khó khăn để đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.412-415.
TỪ THÁNG 2 ĐẾN THÁNG 4
Quân và dân đồng bằng Bắc Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, chủ động chống càn, phá âm mưu bình định lấn chiếm của thực dân Pháp
Dự đoán trước tình hình địch sẽ rút khỏi Hoà Bình, tập trung lực lượng về bình định đồng bằng Bắc Bộ, nơi đông dân, nhiều của để có điều kiện củng cố lực lượng, Trung ương Đảng chỉ thị cho các địa phương phải phá tan các cuộc hành quân càn quét của địch.
Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng trong tháng 2 và 3-1953, quân dân Hải Phòng đã đánh bại cuộc hành quân của thực dân Pháp càn quét vùng Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến An. Bộ đội địa phương cùng dân quân du kích bố trí mai phục xây dựng làng chiến đấu, đào hào sâu và cắm chông mìn dày đặc, lừa địch lọt vào trận địa. Điển hình là du kích xã Đan Điền (Kiến An) đã đánh lui hàng chục đợt tấn công của địch, tiêu diệt 70 tên, hơn 100 tên khác bị thương, bắn hỏng 13 xe lội nước.
Ở Hà Nam, quân dân địa phương liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân càn quét mang tên Amphibi, Antilốp của địch đánh vào vùng Duy Tiên, Lý Nhân. Âm mưu phá hoại khu du kích đã bị phá sản. Địch đã không giải tỏa nổi các vị trí bị bao vây. Cùng với du kích và bộ đội địa phương, hơn 60.000 lượt dân công đã tham gia đào đắp 7.505 ụ trên các tuyến đường ven đê sông Hồng để sẵn sàng đánh địch.
Tại tỉnh Bắc Ninh, sau khi rút khỏi Hoà Bình, Xalăng đã vội vã tập trung các binh đoàn cơ động tiến hành càn quét ráo riết các huyện thuộc phía nam tỉnh. Trong ba tháng đầu năm 1952, địch đã mở 25 trận càn lớn nhỏ vào khu du kích. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, du kích các huyện: Gia Lương, Thuận Thành, Tiên Sơn, Quế Võ, Võ Cường và Yên Phong đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực, liên tục bẻ gãy các cuộc hành quân càn quét của địch. Nhiều trận đánh đã diễn ra ác liệt ở Quế Võ, Đô Đàn, Lang Tài, Bần Thứa, Trung Mầu, Phù Chẩn, Gia Lương. Các khu căn cứ Tiên - Quế - Võ vẫn được giữ vững.
Tại Hưng Yên, quân dân huyện Phù Cừ đã tiêu diệt nhiều đồn bốt địch, giải phóng các xã Tống Trân, Cương Chính, Nghĩa Dũng, Đình Cao, Phan Tây Hồ. Tuyến đê sông Luộc từ thị xã Hưng Yên đến La Tiến dài 20 km được giải phóng, tạo thế hoàn chỉnh cho khu du kích Phù Cừ, Tiên Lữ nối thông với khu căn cứ Nam Bắc sông Luộc, thực sự trở thành căn cứ lớn của ba tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình.
Tại Thái Bình, hai trung đoàn 48 và 52 (Đại đoàn 320) cùng lực lượng vũ trang địa phương đã chống trả thắng lợi cuộc càn quét Thuỷ Ngân của địch tại căn cứ du kích liên huyện: Thái Ninh, Kiến Xương, Tiền Hải, Vũ Xương. Kết quả, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.500 tên địch thuộc các binh đoàn cơ động GM1, GM2, GM3, GM4, GM7, bảo vệ được cơ quan lãnh đạo của tỉnh và bộ đội chủ lực đóng trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925- 1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t.I, tr.335.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh: Lịch sử Đảng bộ Bắc Ninh (1926-1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bắc Ninh xuất bản, 1998, t.I, tr.262-265.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1929-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.I, tr.263.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.598-596.
NGÀY 3-3
Uỷ ban Liên Việt toàn quốc ra Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm ngày thống nhất Việt Minh - Liên Việt
Nhân kỷ niệm một năm ngày thống nhất Việt Minh - Liên Việt thành Uỷ ban Liên Việt toàn quốc và một năm thành lập Uỷ ban liên lạc Việt -Miên - Lào, Uỷ ban Liên Việt toàn quốc ra lời kêu gọi chiến sĩ, đồng bào trong nước, nước ngoài và các hội viên trong mặt trận.
Lời kêu gọi khẳng định những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong năm qua trên nhiều lĩnh vực quan trọng về quân sự, chính trị, kinh tế. Đặc biệt, về quan hệ ngoại giao, lần đầu tiên chúng ta có đại sứ tại Trung Quốc. Sự liên lạc giữa ba nước Việt - Miên - Lào càng chặt chẽ. Hội đồng Hoà bình thế giới họp lần thứ hai đã ra nghị quyết riêng về vấn đề Việt Nam, đòi bọn xâm lược rút khỏi Việt Nam,...
Có được những thành tích to lớn đó là do chúng ta đã củng cố được khối liên minh công nông và các tầng lớp nhân dân lao động khác, chúng ta đã đoàn kết quân dân, đoàn kết nhân dân vùng tự do, vùng tạm chiếm, vùng du kích. Đoàn kết các tầng lớp trong nông thôn, đoàn kết đồng bào lương giáo, miền đồng bằng và miền núi. Đoàn kết các tầng lớp tư sản, trí thức và các tầng lớp tiến bộ khác. Chúng ta có nhiều tiến bộ trong việc chấn chỉnh tổ chức, sửa đổi lề lối làm việc, cải tạo và rèn luyện tư tưởng.
Mặc dù, cuộc kháng chiến của ta đang giành nhiều thắng lợi và nhất định thắng lợi hoàn toàn, nhưng còn phải trường kỳ và còn gặp nhiều khó khăn, gian khổ. Để giữ vững những thắng lợi vừa giành được và tiến lên giành những thắng lợi mới, Uỷ ban Liên Việt kêu gọi đồng bào, chiến sĩ tích cực thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân để phá âm mưu chia rẽ của địch, phá chính sách "dùng người Việt đánh người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch.
- Tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa trên các chiến trường để giành ưu thế quân sự trên chiến trường chính.
- Thực hiện chương trình sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ để đảm bảo nhu cầu kháng chiến và cải thiện dân sinh.
- Phối hợp mọi công tác kháng chiến với phong trào đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới, phổ biến Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Hội đồng hoà bình thế giới, thắt chặt tình hữu nghị với nhân dân Lào - Miên, phối hợp chặt chẽ với phong trào phản chiến của nhân dân Pháp, phong trào giải phóng các nước thuộc địa Pháp và các nước Đông Nam Á.
Uỷ ban kêu gọi: chúng ta quyết tiến lên làm tròn nhiệm vụ năm 1952, để tranh thủ điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị chuyển mạnh cuộc kháng chiến sang tổng phản công.
- Báo Nhân dân, ngày 3-3-1952.
NGÀY 3-3
Đảng Lao động Việt Nam ra lời kêu gọi nhân kỷ niệm ngày 3-3
Nhân kỷ niệm một năm ngày Đảng tuyên bố công khai trước quốc dân đồng bào, kỷ niệm ngày thống nhất Việt Minh - Liên Việt và ngày đoàn kết ba dân tộc Việt - Miên - Lào, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước.
Trung ương Đảng nhấn mạnh: Năm qua là một năm kháng chiến gian khổ, nhưng cũng là một năm thắng lợi vẻ vang. Đặc biệt trong ba tháng gần đây, quân và dân ta liên tiếp đánh thắng địch trên chiến trường Bắc Bộ, đánh vào thị xã Phát Diệm, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phủ Lý, Nam Định, giải phóng hoàn toàn Hoà Bình, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng hàng triệu đồng bào, mở rộng và củng cố vùng du kích và căn cứ du kích sau lưng địch, gây ảnh hưởng lớn trong toàn quốc và trên thế giới. Nhưng địch càng thất bại nặng, chúng sẽ càng tàn bạo và xảo quyệt, càng lôi kéo mọi lực lượng phản động trong nước và ngoài nước để duy trì và đẩy mạnh chiến tranh xâm lược. Để phát huy những thắng lợi vừa giành được, Đảng kêu gọi đồng bào, chiến sĩ và đảng viên ở vùng tạm bị chiếm và vùng du kích tăng cường chiến tranh du kích, củng cố căn cứ du kích, củng cố và phát triển cơ sở tổ chức của quần chúng nhân dân, chuẩn bị chống phá những trận càn quét điên cuồng của địch.
Làm những việc trên đây tức là chúng ta tích cực cầm cự và bồi dưỡng, tích trữ lực lượng, thiết thực chuẩn bị tổng phản công. Đảng nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ, đảng viên cả nước luôn nhớ rằng cuộc kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ và gian khổ, đồng thời luôn nhớ rằng: chúng ta phải tự lực cánh sinh, trông cậy vào lực lượng nhân dân để vượt mọi khó khăn, chúng ta phải bồi dưỡng và tích trữ lực lượng để giành thắng lợi cuối cùng. Đảng kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước tăng cường đoàn kết toàn dân, chống lại mọi mưu mô lừa phỉnh, chia rẽ của địch. Đặc biệt, phải chú trọng củng cố khối liên minh công nông vì khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đối với cuộc kháng chiến của các nước bạn Miên - Lào, chúng ta phải tận tâm và tích cực giúp đỡ hơn nữa. Đồng thời phải đoàn kết chặt chẽ với nhân dân lao động Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên và các nước dân chủ nhân dân khác. Kết hợp cuộc kháng chiến của chúng ta với cuộc đấu tranh của lực lượng hoà bình, dân chủ thế giới do Liên Xô lãnh đạo, bảo vệ hoà bình thế giới, chống bọn đế quốc gây chiến; kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Báo Nhân dân, ngày 3-3-1952.
NGÀY 13-3
Chính phủ gửi thư động viên đồng bào, chiến sĩ và cán bộ ở các tỉnh trung du và trung châu Bắc Bộ
Nhân những thắng lợi to lớn của quân và dân ta vừa giành được trên khắp các mặt trận, để củng cố và mở rộng vùng giải phóng, căn cứ du kích, đề phòng giặc trở lại đánh phá, càn quét, Chính phủ gửi thư động viên, nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ, cán bộ phải làm tốt ba việc sau:
- Đẩy mạnh chiến tranh du kích, tăng cường bộ đội địa phương, du kích xã, dân quân về mọi mặt, làm cho lực lượng vũ trang của nhân dân đủ sức bảo vệ tính mạng, tài sản, làng mạc của nhân dân (không nên ỷ lại vào chủ lực).
- Ra sức củng cố chính quyền nhân dân và các đoàn thể nhân dân. Chính quyền nhân dân và các đoàn thể nhân dân ngoài nhiệm vụ chính là đoàn kết và chỉ đạo nhân dân chống giặc, còn có nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân.
- Tìm mọi cách vận động ngụy binh bỏ hàng ngũ giặc trên khắp các chiến trường, quay súng đánh giặc, trở về với gia đình, với kháng chiến, với Tổ quốc.
Trong thư, Chính phủ ta nhấn mạnh: địch càng thất bại, càng tàn bạo, xảo quyệt, đồng bào, chiến sĩ không được chủ quan khinh địch phải chuẩn bị sẵn sàng để đánh thắng những trận càn quét có như thế mới thực sự củng cố vùng giải phóng và vùng căn cứ du kích.
- Báo Nhân dân, ngày 13-3-1952.
NGÀY 15-3
Hội nghị Cán bộ chính quyền toàn quốc
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, ngày 15-3-1952, Hội nghị Cán bộ chính quyền toàn quốc được triệu tập. Tham dự Hội nghị có đầy đủ đại biểu các ngành của Trung ương và đại biểu tất cả các liên khu trong toàn quốc.
Hội nghị đã thảo luận ba vấn đề lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đề ra để đẩy mạnh cuộc kháng chiến là: tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch; phá âm mưu của địch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "dùng người Việt đánh người Việt"; bồi dưỡng lực lượng của kháng chiến về mọi mặt, nhất là về mặt kinh tế.
Ngày 17-3, toàn thể Chính phủ, Ban Thường trực Quốc hội, Uỷ ban Liên Việt toàn quốc họp cùng đại biểu các ngành, các địa phương phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm, lập công, đề cao chiến sĩ năm 1952. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ buổi lễ phát động. Người nhấn mạnh những nội dung cơ bản để thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm gồm:
- Cách đặt kế hoạch phải dân chủ.
- Cách thực hiện kế hoạch phải đi đúng đường lối quần chúng nhân dân.
- Chống quan liêu, tham ô, lãng phí.
- Đẩy mạnh thi đua ái quốc (lấy tăng gia sản xuất và tiết kiệm làm nội dung chính của thi đua ái quốc).
Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đọc báo cáo về kế hoạch sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ, trong đó tập trung thực hiện những nhiệm vụ chính như:
- Phát triển kinh tế quốc dân.
- Cải thiện đời sống của nhân dân, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân.
- Tăng số thu vào công quỹ.
- Bảo đảm việc cung cấp cho bộ đội, cho tiền tuyến.
- Phát triển mậu dịch với nước bạn (nơi nào có điều kiện).
- Tăng sức đấu tranh kinh tế với địch.
Để nhân dân yên tâm và hăng hái sản xuất, Chính phủ chủ trương ban hành những chính sách sau:
- Đối với nông dân, thi hành chính sách ruộng đất, nhất là chính sách giảm tô, giảm tức.
- Hướng dẫn, khuyến khích, giúp đỡ các tầng lớp công nghiệp, thương nghiệp phát triển, kinh doanh.
- Giải quyết vấn đề nhân công cho nông nghiệp và công nghiệp, đồng thời giải quyết vấn đề dân công cho tiền tuyến.
- Giải quyết các vấn đề giá cả, thị trường, giao thông vận tải để giúp tiêu thụ các thứ hàng mà nhân dân sản xuất ra.
- Giúp nhân dân có đủ những phương tiện cần thiết để sản xuất: vốn, nguyên liệu, trang bị, dụng cụ, giống,…
- Cải tiến kỹ thuật.
- Có chính sách động viên, khen thưởng để khuyến khích sản xuất.
- Tiến tới kết hợp và thống nhất công tác thực hiện kế hoạch và công tác thi đua.
Hội nghị nhất trí với quyết định của Chính phủ về thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là công tác căn bản, trọng tâm của toàn bộ công tác kháng chiến, kiến quốc của quân và dân ta nhằm đẩy mạnh kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn.
Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư động viên các cán bộ toàn quốc. Trong thư Người đề nghị: "Các đại biểu về địa phương: Tổ chức những Ban huấn luyện ít ngày, làm cán bộ từ khu đến xã thấm nhuần chính sách sản xuất và tiết kiệm (và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu), tức là thật sự tự phê bình và phê bình.
Rồi mở một cuộc vận động giải thích tuyên truyền sâu và rộng khắp.
Rồi giúp dân đặt kế hoạch và ký kết thi đua. Mỗi đợt làm xong phải có báo cáo, khu và tỉnh gửi lên trung ương”.
- Báo Nhân dân, ngày 10-4-1952.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.446.
NGÀY 17-3
Chính phủ phát động phong trào toàn dân sản xuất, tiết kiệm
Để phát động phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm, đẩy mạnh kháng chiến, kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Thực hiện kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là bồi dưỡng và tích trữ lực lượng dồi dào để kháng chiến lâu dài, để chuẩn bị đầy đủ chuyển sang tổng phản công, để đưa kháng chiến đến hoàn toàn thắng lợi... Lâu nay, chúng ta đòi hỏi nhân dân đóng góp. Từ đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết kiệm để cải thiện đời sống của bộ đội và nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh".
Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Kế hoạch sản xuất và tiết kiệm là một kế hoạch dân chủ, nghĩa là từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, nghĩa là Chính phủ Trung ương có kế hoạch cho toàn quốc, và địa phương căn cứ theo kế hoạch toàn quốc mà đặt kế hoạch thích hợp với địa phương mình, cho đến mỗi ngành, một gia đình, mỗi người sẽ có kế hoạch riêng của mình ăn khớp với kế hoạch chung… Kế hoạch sản xuất và tiết kiệm muốn thành công cần ba điều kiện: thiên thời địa lợi, nhân hoà và nhân hoà là chính".
Người cổ vũ các phong trào thi đua và nhắc các địa phương cần theo dõi công tác tổng kết kinh nghiệm, đặc biệt kịp thời động viên, khen thưởng những cá nhân đơn vị có thành tích, thúc đẩy người lạc hậu. Người kêu gọi: "Một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấm vải phải đi thẳng đến chiến sĩ...".
Hưởng ứng chủ trương phát động đẩy mạnh sản xuất, tiết kiệm của Chính phủ, các Liên khu uỷ đều xây dựng kế hoạch sản xuất, tiết kiệm trong các tầng lớp nhân dân, đồng thời phong trào đã nhanh chóng được toàn dân hưởng ứng.
Tháng 3-1952, nhân dân các tỉnh miền Bắc đã giành 1.200.000 ngày công đào đắp 690.000 m3 đất, sửa lại đê điều bị địch phá. Liên khu Việt Bắc phá hoang, tăng diện tích 2.014 ha trồng lúa; 2.510 ha trồng bông; 1.320 ha trồng lạc; 1.131 ha trồng đỗ tương. Các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ phục hồi nghề dệt vải tấm. Sáu tháng đầu năm 1952, 8 tỉnh thuộc Liên khu Việt Bắc khai thác 1.142 tấn lâm thổ sản các loại. Các tỉnh tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh mở cuộc "đại vận động sản xuất tiết kiệm". Trong năm 1952, Nghệ An đắp 290 đoạn đê, đào 70 con mương dẫn nước vào ruộng. Ở Hà Tĩnh, 6.908 mẫu ruộng được tưới nước thoát hạn. Trong năm 1952, bộ đội Liên khu V tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống, giảm cho ngân sách 778 tấn gạo.
Ở Nam Bộ, phát động phong trào "tự lực cánh sinh về mọi mặt để đánh giặc", phong trào sản xuất tự túc ở các căn cứ địa Nam Bộ phát triển mạnh. Căn cứ miền Đông trồng được 4.000 ha lúa. Cơ quan Khu ở Đồng Tháp Mười trồng được 3.000 ha; bộ đội ở Long Châu Hà trồng hơn 100 ha; bộ đội Bà Rịa, Chợ Lớn đã tự túc được 64% lương thực. Miền Tây Nam Bộ tự túc được gạo và cá mắm cả năm 1952.
Cuộc vận động sản xuất, tiết kiệm trong cả nước đã thu được kết quả lớn. Giá cả ổn định hơn, giải quyết một phần tình hình khan hiếm lương thực. Nhà nước từng bước nắm trong tay một khối lượng lương thực, vật tư cần thiết bảo đảm cho cuộc chiến đấu ngày càng mở rộng.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.202-203.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.434-441.
NGÀY 17-4
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết về công tác tài chính, ngân hàng, mậu dịch
Công tác tài chính, ngân hàng, mậu dịch là những công tác quan trọng để thúc đẩy kinh tế kháng chiến của ta phát triển.
Bộ Chính trị chủ trương: năm 1952 phải thực hiện thăng bằng thu, chi và cương quyết không phát hành giấy bạc, nhằm ổn định vật giá, bảo đảm kế hoạch sản xuất và tiết kiệm.
Để thực hiện được chủ trương trên, cần phải quản lý tài chính thật chặt chẽ. Các cơ quan tài chính, ngân hàng, mậu dịch phải phối hợp rất chặt chẽ với nhau để đảm bảo việc thực hiện thống nhất thu chi và thăng bằng thu, chi như sau:
- Có kế hoạch thu, chi từng ba tháng, từng tháng một.
- Nghiêm khắc chế độ và kỷ luật tài chính.
- Phải thu để chi, có thu mới có chi.
- Cơ quan có nhiệm vụ thu phải thu đúng chính sách, đúng thể lệ, đúng mức, đúng kỳ hạn. Các khoản thu đều phải nộp vào công quỹ đúng thể lệ, không được chậm trễ (các cơ quan không được giữ quỹ riêng làm đọng một số tiền lớn một cách lãng phí). Phải chấp hành đúng chính sách và kỷ luật về chiến lợi phẩm.
- Chỉ được chi đúng dự trù ngân sách theo chế độ dự toán, quyết toán, cố gắng tiết kiệm trong mọi chi tiêu.
Về bình ổn vật giá: các cơ quan mậu dịch phải bình ổn giá cả các mặt hàng chính như: gạo. muối, vải; điều chỉnh bảng giá hàng công nghiệp và nông nghiệp cho đúng mức để khuyến khích sản xuất và lưu thông.
Phải đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu có lợi, tiến tới xuất nhiều hơn nhập; tích luỹ và quản lý ngoại hối (giấy bạc Đông Dương); tích cực bài trừ bọn buôn lậu và hàng hoá xa xỉ phẩm.
Trong vùng căn cứ du kích, việc quản lý tài chính, ngân hàng, mậu dịch phải tiến hành thống nhất việc thu, chi, quản lý tiền tệ, quản lý mậu dịch để phát triển kinh tế tài chính, công tác sản xuất và để đấu tranh kinh tế có hiệu quả với địch.
Gần hai tháng sau đó, ngày 8-6-1952, Trung ương Đảng tiếp tục ban hành Chỉ thị "Thực hiện thu bằng chi". Đó là những chủ trương cơ bản, cấp bách nhằm ổn định vật giá, ổn định tài chính, chống lạm phát, tạo điều kiện phát triển sản xuất, phục vụ yêu cầu ngày càng tăng của cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.54-57.
TỪ NGÀY 22 ĐẾN NGÀY 28-4
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
Để gấp rút chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào giai đoạn mới, từ ngày 22 đến ngày 28-4-1952, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại một địa điểm trong khu căn cứ cách mạng Tân Trào, Tuyên Quang.
Hội nghị thống nhất nhận định: những năm vừa qua, phe hoà bình dân chủ do Liên Xô lãnh đạo ngày càng mạnh, phe đế quốc gây chiến do Mỹ cầm đầu tuy hung hăng, nhưng nội bộ đầy những mâu thuẫn sâu sắc. Ta không khinh địch, không đánh giá thấp phe đế quốc, nhưng phải nhận rõ chỗ yếu của chúng.
Đánh giá tình hình các mặt hoạt động kháng chiến trong nước, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh cùng nhiều đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Trung ương Đảng như: Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Nguyễn Khang… đã đọc báo cáo về hoạt động xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận, về đấu tranh quân sự, về cải cách ruộng đất,… và thống nhất nhận định:
- Kháng chiến nhất định thắng lợi nhưng phải trường kỳ gian khổ, phải tự lực cánh sinh.
- So với năm ngoái, năm nay thế địch yếu đi, thế ta mạnh lên.
- Giai đoạn cầm cự tức là giai đoạn ta chuẩn bị đầy đủ để chuyển sang tổng phản công.
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt - Miên - Lào đã làm cho Pháp thiệt hại nặng nề và đang gặp nhiều khó khăn. Cho đến nay, Pháp đã hao tổn hơn l.247.610 triệu quân. Mâu thuẫn giữa Pháp và Mỹ là mâu thuẫn giữa chủ và tớ.
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi và khó khăn nêu trên, Hội nghị đã đề ra ba nhiệm vụ lớn và bốn công tác chính của năm 1952 là:
- Tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích.
- Phá chính sách "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch.
- Bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, của kháng chiến.
Ba nhiệm vụ trên phải tiến hành đồng thời. Mặt khác phải thực hiện bốn công tác chính là:
- Thực hiện kế hoạch tăng gia sản xuất, tiết kiệm, phải bồi dưỡng lực lượng cho nhân dân. Đồng thời giáo dục cho nhân dân và cán bộ tiết kiệm, chống bệnh quan liêu, lãng phí.
Giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch. Trong đó phải giữ vững và phát triển chiến tranh du kích tích cực chống càn quét, ra sức củng cố và mở rộng căn cứ du kích, đẩy mạnh cuộc đấu tranh dẻo dai ở vùng sau lưng địch.
- Chấn chỉnh quân đội, lấy chính trị làm gốc, chú trọng bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ công nông.
- Chỉnh Đảng để Đảng thật mạnh, trong sạch. Chỉnh Đảng phải làm từng bước: chỉnh đốn cán bộ rồi mới chỉnh đốn chi bộ; chỉnh đốn tư tưởng rồi chỉnh đốn tổ chức. Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Chỉnh huấn phải nhằm nâng cao trình độ tư tưởng, tẩy bỏ tư tưởng phi vô sản, thống nhất lãnh đạo, thống nhất hành động.
Hội nghị kết luận: phe hoà bình dân chủ của ta đang mạnh, các Đảng anh em giúp đỡ ta, nhân dân và bộ đội ta hăng hái, cán bộ và đảng viên ta cố gắng, đường lối của Đảng ta đúng, chúng ta có đủ điều kiện để giành thắng lợi.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.65-75.
CUỐI THÁNG 4
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đặt Đại sứ quán ở Liên Xô
Để thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, cuối tháng 4-1952, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chính thức lập Đại sứ quán ở Liên Xô và cử đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên của nước ta tại Liên bang Xô viết.
Đây là một trong những bước mở đầu quan trọng tạo điều kiện cho nhân dân hai nước hiểu biết và ủng hộ lẫn nhau trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và sự nghiệp chống xâm lược giành tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam.
- Báo Nhân dân, ngày 1-5-1952.
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
TỪ NGÀY 1 ĐẾN NGÀY 6-5
Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất
Tổng kết phong trào thi đua ái quốc năm 1951 và nêu gương những chiến sĩ thi đua có nhiều thành tích là một biện pháp tích cực để cổ vũ phong trào thi đua yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ và Đảng triệu tập Đại hội Chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất. 154 chiến sĩ tiêu biểu của các ngành công, nông, binh và lao động trí óc của cả nước được Đại hội tuyên dương đã về dự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc Đại hội. Người chỉ rõ mục đích, nội dung, phương pháp, ý nghĩa của phong trào thi đua yêu nước và nêu rõ "thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất". Người căn dặn các chiến sĩ: cố gắng tránh tự kiêu, tự đại, xa rời quần chúng và đẩy mạnh phong trào thi đua hơn nữa, thực hiện khẩu hiệu: "Người người thi đua, ngành ngành thi đua. Ta nhất định thắng. Địch nhất định thua".
Tại Đại hội, đồng chí Trường Chinh thay mặt Đảng Lao động Việt Nam đọc lời chào mừng và đọc báo cáo "Phong trào thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng mới", phân tích nội dung chủ nghĩa anh hùng mới, phương châm, nhiệm vụ thi đua và vạch rõ những tư tưởng sai lầm, cần khắc phục trong quá trình thi đua.
Đại hội đã long trọng tuyên dương bốn Anh hùng: Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Cù Chính Lan và ba Anh hùng tiêu biểu cho công, nông và lao động trí óc gồm các đồng chí: Trần Đại Nghĩa, Ngô Gia Khảm, Hoàng Hanh. Đại hội nói lên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, anh hùng tập thể của quân và dân ta, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua ái quốc của toàn dân lên một bước mới.
- Báo Nhân dân, ngày 19-5-1952.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.469-476.
NGÀY 11-5
Trung ương Đảng khai giảng lớp chỉnh Đảng đầu tiên
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 11-5-1952, Trung ương mở lớp chỉnh Đảng đầu tiên. Khai mạc lớp học, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Trung ương rất mong rằng trong cuộc chỉnh huấn này, các đồng chí cố gắng thi đua học tập, rèn luyện để trở nên những cán bộ gương mẫu, xứng đáng với lòng trông mong, tin cậy của Đảng, của Chính phủ, của quân đội và của nhân dân, trở nên những chiến sĩ đắc lực nhất trong sự nghiệp xây dựng Đảng và giúp Đảng đưa kháng chiến thắng lợi, kiến quốc đến thành công”.
Kết quả từ tháng 5-1952 đến tháng 6-1953, các cấp đã tổ chức học cho 12.000 cán bộ thuộc các cơ quan trung ương, liên khu và tỉnh về tình hình, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, chính sách ruộng đất của Đảng, xác định lập trường kiên định của giai cấp công nhân, giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, chống quan liêu, lãng phí, tham ô.
Cuộc chỉnh huấn toàn diện và sâu rộng của Đảng đã góp phần củng cố, nâng cao lập trường chính trị và quyết tâm chiến đấu của toàn Đảng, quyết tâm đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta đến thắng lợi hoàn toàn.
- Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.197-198.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.6, tr.480.
NGÀY 11-5
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại buổi lễ khai mạc lớp chỉnh Đảng Trung ương khoá I
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba (4-1952) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đặt công tác chỉnh Đảng, chỉnh quân là công tác trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang. Ngày 11-5, Trung ương Đảng khai giảng lớp chỉnh Đảng Trung ương khoá I. Yêu cầu của đợt chỉnh Đảng là nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp và giác ngộ dân tộc, củng cố lập trường vô sản cho cán bộ, đảng viên; thống nhất tư tưởng và hành động, chống các biểu hiện hữu khuynh và tả khuynh. Nhân dịp khai mạc lớp chỉnh Đảng cho cán bộ Trung ương khoá I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự và huấn thị những nội dung quan trọng của đợt chỉnh huấn.
Người nói: "Đảng ta đã lãnh đạo giai cấp và nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giải phóng dân ta khỏi ách thực dân và chế độ quân chủ, xây dựng chính quyền nhân dân.
Ngày nay, nhiệm vụ của Đảng ta là đoàn kết và lãnh đạo giai cấp cùng nhân dân kháng chiến kiến quốc. Đó là một nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang, chỉ có Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm được.
Đảng ta có chủ nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất. Có đường lối và chính sách đúng nhất. Có cơ sở ở khắp cả nước. Có những cán bộ và những đảng viên tận tuỵ, hy sinh vô cùng oanh liệt.
Nhưng vì điều kiện khó khăn, số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi, cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, không phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hoá khá nặng, v.v.".
Người nhấn mạnh: "Là một đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu.
Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm trọn nhiệm vụ của Đảng".
Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản.
Nếu chúng ta chỉnh Đảng thành công thì nó sẽ khuếch trương những thắng lợi về quân sự chính trị, kinh tế, v.v..
Do chỉnh Đảng mà Đảng rèn luyện chỉnh đốn và tăng cường đội ngũ của mình, để giữ vững “trường kỳ kháng chiến" và chuẩn bị đầy đủ lực lượng chuyển sang tổng phản công. Người đề nghị: "Chỉnh Đảng phải có trọng tâm: chỉnh đốn tư tưởng mới chỉnh đốn tổ chức. Chỉnh huấn cán bộ rồi mới chỉnh huấn toàn thể đảng viên".
Người nhắc nhở: nhiệm vụ của các đồng chí dự lớp chỉnh Đảng đầu tiên này là: thành khẩn học tập, thật thà tự phê bình và phê bình, hấp thụ thêm kinh nghiệm và đạo đức cách mạng, Sau khi chỉnh huấn xong thì thi đua giúp Trung ương chỉnh huấn toàn Đảng, toàn quân và chỉnh đốn công tác quần chúng.
Người căn dặn: "cán bộ quyết định mọi việc". Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thắng hay bại, một phần lớn là do tư tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí. Trong lớp chỉnh Đảng này, các đồng chí cố gắng thi đua học tập, rèn luyện để trở thành những cán bộ gương mẫu, xứng đáng với lòng trông mong tin cậy của Đảng và Chính phủ, của quân đội và của nhân dân; trở nên những chiến sĩ đắc lực nhất trong sự nghiệp xây dựng Đảng và giúp Đảng ta đưa kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.479-481.
NGÀY 24-5
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về thành lập Khu Tả ngạn sông Hồng
Do sự phát triển và những yêu cầu mới của tình hình vùng địch hậu ở Tả ngạn sông Hồng, đồng thời do vị trí địa lý quan trọng của khu du kích Tả ngạn, căn cứ vào yêu cầu tăng cường công tác chỉ đạo đấu tranh ở vùng sau lưng địch thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung ương Đảng quyết định thành lập khu Tả ngạn sông Hồng. Quyết định ghi rõ:
- Tách Tả ngạn ra khỏi Liên khu III và lập Tả ngạn thành một khu gọi là Khu Tả ngạn sông Hồng.
- Khu Tả ngạn đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh.
- Liên khu III và Liên khu Việt Bắc có nhiệm vụ giúp đỡ khu Tả ngạn về giao thông liên lạc, về huấn luyện cán bộ và nhiều việc khác.
- Chỉ định đồng chí Đỗ Mười làm Bí thư Khu uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính khu, Chính uỷ và Bộ Tư lệnh khu.
Ngày 6-9-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cử các thành viên vào Uỷ ban Kháng chiến hành chính Khu Tả ngạn sông Hồng gồm: Đỗ Mười, Chủ tịch; Nguyễn Năng Hách, Phó chủ tịch; Đặng Tính, Uỷ viên; Bùi Hướng Chất, Uỷ viên.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.187-188.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.614.
THÁNG 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đắp đê, hộ đê bảo vệ mùa màng
Đề phòng nạn lũ lụt và phòng giặc tăng cường phá hoại đê điều của ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào vùng trung châu Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ phải tiến hành đắp đê và chuẩn bị hộ đê với nhiệm vụ trọng tâm:
- Đánh giặc để giữ làng, giữ nước.
- Đắp đê, hộ đê để bảo vệ mùa màng.
- Đồng bào nên tỉnh táo đề phòng âm mưu phá đê của địch.
Người kêu gọi toàn dân:
- Đặt kế hoạch cho sát với tình hình của mỗi địa phương.
- Động viên mọi người thi đua thực hiện đầy đủ kế hoạch đó.
- Phải phối hợp chặt chẽ giữa quân, dân, chính để thống nhất hành động và lãnh đạo kiên quyết.
- Bình tĩnh trong mọi trường hợp.
Người động viên đồng bào về những thành tích thắng lũ bảo vệ đê điều trong năm trước và nêu quyết tâm giữ vững truyền thống thắng giặc lụt.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.482.
THÁNG 5
Cuộc chỉnh huấn chính trị đầu tiên trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chuẩn bị bước vào Thu - Đông 1952, bắt đầu từ tháng 5-1952, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Tổng quân uỷ, tất cả các đơn vị chủ lực tiến hành chỉnh huấn chính trị "một cuộc vận động học tập chính trị tập trung nhất, rộng lớn nhất kể từ ngày thành lập quân đội”. Tiếp đó, chấn chỉnh tổ chức biên chế, trang bị và chỉnh huấn quân sự. Nội dung huấn luyện quân sự bao gồm năm kỹ thuật lớn, chiến thuật đánh cứ điểm có dưới một tiểu đoàn địch, chiến thuật vận động đánh quân ứng chiến lớn. Cán bộ từ cấp đại đội trở lên học tài liệu "Mấy vấn đề cách mạng Việt Nam", cán bộ trung đội, tiểu đội, chiến sĩ học các tài liệu: "Quân đội nhân dân Việt Nam", "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi".
Phương châm và phương pháp chỉnh huấn là phát huy tự do tư tưởng, liên hệ lý luận với thực tế, liên hệ nhận thức mới với nhận thức cũ, thảo luận phân rõ đúng sai, thực hành tự phê bình và phê bình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. Chỉnh huấn chính trị đã bước đầu nâng cao giác ngộ giai cấp cho quân đội ta, làm cho cán bộ và chiến sĩ hiểu rõ mục tiêu chính trị của cuộc chiến đấu, phân rõ ranh giới giữa thù, bạn và ta, hiểu rõ bản chất và nhiệm vụ quân đội nhân dân, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần quốc tế, tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, quyết tâm chiến đấu đến cùng vì thắng lợi của cách mạng.
Đi đôi với chỉnh huấn chính trị, quân đội bước vào thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về tổ chức Đảng trong bộ đội chủ lực thay thế chế độ chính uỷ “tối hậu quyết định" bằng chế độ lãnh đạo tập thể, thống nhất của Đảng về mọi mặt. Trung ương Đảng quy định rõ hệ thống tổ chức Đảng các cấp trong toàn dân, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp uỷ. Sau chỉnh huấn chính trị mùa hè 1952, quân đội ta chấn chỉnh tổ chức, biên chế và trang bị nhằm phát huy sức mạnh chiến đấu, làm cho quân đội đảm đương được nhiệm vụ tác chiến ngày càng nặng nề, quy mô tác chiến ngày càng lớn.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.141-142.
TỪ NGÀY 20-5 ĐẾN NGÀY 2-6
Liên khu uỷ III triệu tập Hội nghị bàn về chủ trương mở rộng kết quả thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình và thi hành Nghị quyết của Trung ương về lập Khu Tả ngạn sông Hồng
Để tiếp tục triển khai chủ trương của Trung ương Đảng về phát huy chiến thắng Hoà Bình, chống địch càn quét lấn chiếm, làm thất bại âm mưu bình định vùng sau lưng địch, từ ngày 20-5 đến ngày 2-6-1952, Liên khu uỷ III đã triệu tập Hội nghị Cán bộ mở rộng.
Hội nghị đã nhận định tình hình như sau: "từ sau chiến dịch Hoà Bình, địch vội vàng tập trung lực lượng sẵn có, bổ sung quân ngụy, tăng viện từ miền Nam và miền Trung ra, từ Pháp sang. Chúng dồn mọi khả năng vào hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ để đối phó với hoạt động của ta, nhằm cứu vãn tình thế khó khăn của chúng. Ở Liên khu III, chúng mở nhiều cuộc càn quét trên chiến trường địch hậu hòng tiêu diệt một bộ phận chủ lực của ta, hoặc xua chủ lực của ta ra khỏi địch hậu; bắt thanh niên bổ sung quân số, đóng thêm một số vị trí dọc tuyến giao thông hòng lấy lại ảnh hưởng sau thất bại chiến dịch Hoà Bình.
Chúng chủ trương rút kinh nghiệm và thay đổi chiến thuật càn quét. Trong các trận "Xe lội nước" ở Hà Nam, "Thuỷ ngân" ở Thái Bình, chúng dùng lực lượng lớn để bao vây ta, càn quét trên diện rộng, hòng dồn lực lượng ta vào những túi nhỏ để tiêu diệt. Trên thực tế với kiểu càn này, chúng vẫn bị thất bại nặng nề.
Sau cuộc càn quét ở bắc trung du và bắc sông Luộc, chúng thay đổi thành các cuộc càn luân chuyển của từng 1,2 trung đoàn phối hợp với phi pháo đánh vào vùng nghi có quân chủ lực hòng cất vó bộ đội ta…”.
Những cuộc càn quét trên của địch có gây cho ta nhiều khó khăn, bị tiêu hao một phần lực lượng. Chúng bắt được 1 vạn thanh niên đi lính để đưa đi đóng tại nhiều vị trí dọc các tuyến đường giao thông Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định, Hà Đông, các khu căn cứ du kích của ta bị thu hẹp. Tuy nhiên, địch đã không đạt được mục đích là đẩy chủ lực ta ra ngoài.
Ngoài ra, địch còn ráo riết tăng cường phòng ngự, nhất là xây dựng vành đai an toàn quanh các thị xã và ven các đường giao thông. Chúng dồn làng, đuổi dân, lập khu trắng ven sông Hồng, sông Đà (từ Trung Hà đến thị xã Sơn Tây), nhiều quãng đường ven quốc lộ số 1, 5, 17, 39, rào dây thép gai ven đường số 5.
Về phía ta: bộ đội chủ lực ở mặt trận chính diện đã phá vỡ phòng tuyến sông Đà, bao vây địch và đánh bật chúng ra khỏi thị xã Hoà Bình, phối hợp cho hoạt động ở ngoại tuyến, Đại đoàn 320 cùng với lực lượng vũ trang nhân dân địa phương đã phát động mạnh cuộc chiến đấu ở nội tuyến. Kết quả, trong ba tháng chiến dịch, ta tiêu diệt trên 1 vạn sinh lực địch, bức rút 796 vị trí, phục hồi và mở rộng 20 khu du kích và căn cứ du kích rộng 3.563 km2. Về chỉ đạo chiến thuật, ta đã vận dụng được phương châm linh hoạt ở chiến trường địch hậu nhằm vào chỗ yếu của địch như phương châm vây điểm diệt điểm, diệt điểm phá điểm, kết hợp uy hiếp quân sự với vận động chính trị rộng rãi.
Sau chiến dịch Hoà Bình, Trung ương Đảng và Liên khu uỷ III nhận định: địch sẽ quay về càn quét vùng đồng bằng nên tích cực chỉ đạo giữ vững cuộc chiến tranh du kích ở địch hậu. Một bộ phận chủ lực để ở lại địch hậu cùng địa phương củng cố và phát triển các căn cứ du kích, tích cực chống càn quét. Kết quả là: bộ đội liên khu đã anh dũng chiến đấu chống lại những cuộc càn quét lớn của địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, diệt 17 đại đội ở Hà Nam, trận “Thuỷ ngân" ở Thái Bình diệt 2.000 tên, giữ vững hầu hết các căn cứ du kích và mở rộng thêm (bắc Nghĩa Hưng, Nam Định). Ta đã tuyển mộ được hai vạn tân binh (riêng Hưng Yên tuyển được 3.000 thanh niên ở ven đường số 5). Đại đoàn 320 được bổ sung thêm quân số. Ngoài ra, khu kiện toàn được 2 trung đoàn. Bộ đội địa phương được củng cố lại. Dân quân du kích cũng phát triển tới 10 vạn người.
Về chính trị: thực hiện chủ trương của Trung ương và Liên khu uỷ, ta đã phá được âm mưu lập "Xứ Mường tự trị" của địch. Cán bộ địa phương đã kiểm thảo kịp thời những sai lầm của chính sách dân tộc. Tổ chức Đại hội nhân dân Hoà Bình để huy động nhân dân tham gia kháng chiến. Các đoàn thể quần chúng được phục hồi và phát triển. Công tác địch vận được Liên khu uỷ đặc biệt chú ý. Nhiều địa phương đã phối hợp với hoạt động quân sự bao vây uy hiếp bức hàng tới hàng trăm vị trí địch. Có nơi, cả đại đội địch ra hàng. Dùng nội ứng đánh nhiều đơn vị biết kích tinh nhuệ của địch như đội biệt kích Wendenberg, Rusconi,...
Về xây dựng Đảng, Hội nghị đánh giá: từ sau chiến thắng Hoà Bình, ta đã đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở Đảng ở các khu căn cứ du kích, nhiều đảng viên trước nằm im đã xin trở lại công tác. Mặt khác, ta đã phá hầu hết ngụy quyền xã, gây cho địch nhiều khó khăn trong âm mưu bình định đồng bằng hiện nay. Cán bộ đã bám sát được dân, chấm dứt tình trạng phải chiến đấu ly hương.
Sau khi kiểm điểm tình hình phong trào toàn Liên khu III, đầu tháng 5-1952, Liên khu uỷ đã ra quyết nghị thi hành Nghị quyết của Trung ương về việc thành lập Khu Tả ngạn sông Hồng gồm năm tỉnh: Hải Phòng, Hải Dương, Kiến An, Hưng Yên, Thái Bình.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 197, Liên khu uỷ III, phông 47.
NGÀY 5-6
Ban Bí thư ra Chỉ thị Đẩy mạnh cuộc vận động đấu tranh chống đế quốc Mỹ dùng chiến tranh vi trùng ở Triều Tiên và Đông Bắc Trung Quốc
Trước hành động xâm lược trắng trợn của đế quốc Mỹ tại Triều Tiên, nhất là việc sử dụng vũ khí vi trùng ở Triều Tiên và Đông Bắc Trung Quốc, Đảng và nhân dân Việt Nam vô cùng căm phẫn lên án tội ác trên của đế quốc Mỹ.
Để có hành động thiết thực đấu tranh ngăn chặn tội ác của bọn đế quốc, Đảng ta chủ trương phối hợp với phong trào nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới chống đế quốc Mỹ. Cụ thể là: vận động các đoàn thể quần chúng, các đơn vị bộ đội, trường học, các giới trí thức, khoa học,.. mít tinh, biểu tình phản đối và tố cáo đế quốc Mỹ, gửi kiến nghị lên Uỷ ban Bảo vệ hoà bình thế giới. Công tác vận động quần chúng đấu tranh phải gắn liền với những hoạt động chính trị, quân sự của ta như: thực hiện kế hoạch tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tiêu diệt sinh lực địch,...
Trong cuộc vận động này, phải làm cho nhân dân căm thù giặc Mỹ, không sợ Mỹ, củng cố khối đoàn kết để xây dựng, phát triển lực lượng kháng chiến. Đây là một hoạt động có ý nghĩa thiết thực của Đảng và nhân dân Việt Nam bày tỏ tình đoàn kết với nhân dân thế giới, chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hoà bình thế giới và trong nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.201-203.
NGÀY 14-6
Bổ sung, sửa đổi Điều lệ thuế nông nghiệp
Để thực hiện đầy đủ chính sách thuế nông nghiệp, đảm bảo nhu cầu kháng chiến, thực hành việc đóng góp công bằng hợp lý, khuyến khích sản xuất và để giảm nhẹ một phần sự đóng góp cho nông dân, Chính phủ đã căn cứ vào số liệu và xem xét mức thu thuế nông nghiệp của năm 1951 và đầu năm 1952. Ngày 14-6-1952, Chính phủ ký bổ sung, sủa đổi một số điểm trong Điều lệ tạm thời thuế nông nghiệp.
Những điểm sửa đổi là:
1- Nâng cao mức khởi điểm đánh thuế, sửa lại biểu thuế, giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân. Khởi điểm đánh thuế năm 1951 là 61 kg, năm 1952 là 71 kg. Những nông hộ thu hoạch hằng năm bình quân mỗi nhân khẩu chưa được 71 kg sẽ được miễn thuế.
Biểu thuế cũng được sửa đổi. Thuế suất bậc thấp nhất là 5% chứ không phải là 6%. Cụ thể:
- Từ bậc 1 đến bậc 7, thuế suất giảm hơn 2%.
- Từ bậc 8 đến bậc 32, thuế suất giảm 4%.
- Từ bậc 33 đến bậc 37, thuế suất giảm 2%.
- Từ bậc 38 và bậc 39, thuế suất giảm 1%.
Việc nâng khởi điểm đánh thuế và sửa lại biểu thuế nông nghiệp sát với khả năng của từng nông hộ giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân, tăng dự trữ về hậu cần lương thực, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của cuộc kháng chiến.
2- Thu thuế hoa lợi nương rẫy, nhưng chỉ đánh thuế nhẹ nghĩa là thu hoạch 100 kg thì chỉ tính thuế 75 kg.
3- Giảm thuế và miễn thuế cho những nông hộ bị thiên tai, vì chiến sự mà khả năng đóng góp bị sút kém hoặc tạm thời bị mất (nếu bị thiệt hại tới 70% thì miễn hẳn).
4- Những trường hợp tham gia công tác mà buộc phải phát canh cũng được xem xét cụ thể có thể giảm hoặc miễn theo mùa vụ.
5- Thi hành thuế nông nghiệp trong vùng căn cứ du kích có điều chỉnh như sau: thuế ở vùng căn cứ du kích thì thu bằng 75% ở vùng tự do, còn ở vùng du kích vẫn thu 50%.
Những sửa đổi trong điều lệ thuế nông nghiệp nêu trên thể hiện sự quan tâm của Đảng, Chính phủ tới nông dân, nhất là nông dân nghèo, góp phần động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phong trào sản xuất nông nghiệp, thực hành tiết kiệm, phấn đấu hoàn thành mức thuế nông nghiệp năm 1952, góp phần bồi dưỡng và chuẩn bị lực lượng để tiến công và phản công.
- Báo Nhân dân, ngày 17-7-1952.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.613.
TỪ NGÀY 23 ĐẾN NGÀY 27-6
Hội nghị Uỷ ban Liên Việt toàn quốc lần thứ ba
Nhằm mục đích kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, Hội nghị Uỷ ban Liên Việt toàn quốc lần thứ ba được triệu tập từ ngày 23 đến ngày 27-6-1952. Đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Mặt trận đọc báo cáo. Đồng chí Trường Chinh đọc tham luận về hai vấn đề: củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và ý kiến về sửa đổi một số điểm trong 10 điểm ghi nhớ của Hội Liên Việt. Hội nghị ra quyết định về những công tác cụ thể của Mặt trận, trong đó có những nhiệm vụ nổi bật là:
- Đẩy mạnh kế hoạch sản xuất, tiết kiệm năm 1952 của Chính phủ, khuyến khích và tổ chức các nhà doanh nghiệp phát triển công thương nghiệp, kết hợp với việc đóng thuế nông nghiệp và công thương nghiệp đầy đủ, ít và nhanh.
- Tăng cường công tác sau lưng địch, chống địch bắt lính, vận động ngụy binh, giữ vững và phát triển chiến tranh du kích, củng cố và phát triển cơ sở Mặt trận Liên Việt.
- Ra sức động viên nhân dân phục vụ tiền tuyến, thực hiện đúng mực điều lệ dân công của Chính phủ và tiếp tục đưa thương binh về xã.
- Tăng cường đoàn kết toàn dân, củng cố liên minh công nông và lao động trí óc làm cho cơ sở của Mặt trận thật vững chắc.
- Tăng cường đoàn kết với nhân dân Miên - Lào.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, phát động phong trào học tập các chiến sĩ thi đua.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Uỷ ban Liên Việt toàn quốc lần thứ ba, các tầng lớp nhân dân từ Bắc chí Nam đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi trong chiến đấu và trong lao động sản xuất, quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến thắng lợi.
- Báo Nhân dân, ngày 10-7-1952.
THÁNG 6
Chiến tranh du kích tiếp tục phát triển trong vùng sau lưng địch
Mặc dù thất bại tại Chiến dịch Hoà Bình, thực dân Pháp ngoan cố âm mưu mở rộng bình định lấn chiếm các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Cuộc chiến đấu trong vùng sau lưng địch ngày càng gay go ác liệt. Nhưng, với đà phấn khởi, quân và dân ta ở nhiều địa phương đã đánh bại các cuộc càn quét của địch, khiến chúng ngày càng thêm lúng túng, bị động.
Ở Bắc Bộ, từ ngày 28-5 đến 8-6, quân dân ta đã liên tiếp chống càn thắng lợi, phá hoại đường sá, phục kích những đội tuần tiễu, tiêu diệt nhiều vị trí địch. Tại Kiến An (Hải Phòng), ta bao vây, tiến công vị trí Trung Lãng diệt 10 tên, kêu hàng 100 tên địch. Ngày 17-6, quân ta phục kích một đoàn xe vận tải ở Phượng Tường - Phù Anh (Hưng Yên), diệt 38 lính Âu - Phi, bắt 20 tên lính Âu - Phi và nguỵ binh, giải thoát 60 đồng bào bị giặc bắt đi phu. Ngày 26-6, 4 tiểu đoàn ứng chiến của địch càn quét vùng Nhuận Ốc, Quyết Trung, Ninh Bình bị bộ đội địa phương và dân quân du kích chặn đánh, tiêu diệt 450 tên. Ngày 28-6, bộ đội địa phương và dân quân du kích Quảng Yên đánh lui 2.000 tên địch càn quét vào Kinh Môn.
Địch tổ chức bình định, càn quét mạnh, song chiến tranh du kích ở vùng đồng bằng Bắc Bộ liên tục phát triển. Ý thức chống càn của nhân dân vùng du kích và căn cứ du kích càng rõ. Không một ai tiếc công, tiếc của, ai ai cũng tích cực chuẩn bị chống càn. Một mặt triệt để cất giấu thóc lúa, của cải, vừa đào hào, đắp ụ, tổ chức xây dựng làng chiến đấu. Tại các thôn Là Gàng (Hải Dương), Đại Vị, La Mật, Quế Ổ, Chúc Ổ (Bắc Ninh), Văn Hội (bắc sông Luộc), mặc dù bị địch bắn phá, ném bom ác liệt song quân và dân ta đã kiên quyết bám trụ đánh bật nhiều đợt phản kích của địch.
Ở Bình - Trị - Thiên, du kích và bộ đội địa phương Thuận Hoá, bắc Quảng Bình đã tiêu diệt 3.636 tên địch.
Ở Liên khu V, sau khi quét sạch ba tiểu đoàn bộ binh của địch ở Ba Tơ - Sơn Hà (Quảng Ngãi), ngày 23-6, ta tiến công khu Mường Mán (Tây Nguyên), san phẳng ba vị trí và hai tháp canh, diệt gọn một đại đội địch trong đó có một tiểu đội Âu - Phi.
Ở Nam Bộ, trong ba tháng, quân ta tiêu diệt 3.125 tên, làm bị thương 1.578 tên, bắt sống 130 tên, bắn rơi hai máy bay, phá hủy 1 máy bay và nhiều phương tiện vũ khí địch.
Ở vùng Đồng Tháp Mười, bộ đội tiêu diệt 150 tên. Ngày 17-6, ta tấn công một trường huấn luyện binh sĩ địch ở Bình Đức, tiêu diệt ban chỉ huy và giải tán một đại đội ngụy binh.
Những thắng lợi trên mặt trận đấu tranh chống càn quét trên khắp các chiến trường thuộc vùng sau lưng địch đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa bộ đội và nhân dân, đồng thời làm cho địch ngày càng lâm vào thế bị động lúng túng.
- Báo Nhân dân ngày 17-7-1952.
THÁNG 6
Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết Về tổ chức Đảng trong bộ đội chủ lực
Nghị quyết gồm ba phần:
Phần thứ nhất: Tổ chức Đảng ở các cấp.
- Các Đảng bộ trong bộ đội chủ lực tổ chức theo đúng nguyên tắc dân chủ tập trung của Đảng như Điều lệ Đảng đã quy định.
- Hệ thống tổ chức được quy định như sau:
+ Ở đại đội có hội nghị toàn thể chi bộ và ban chấp hành chi bộ (chi uỷ).
+ Ở tiểu đoàn có đại hội đại biểu tiểu đoàn và ban chấp hành tiểu đoàn (tiểu đoàn uỷ).
+ Ở trung đoàn và đại đoàn có đại hội đại biểu mỗi cấp và ban chấp hành tương đương.
+ Ở các trường, nếu nhỏ thì có hội nghị toàn thể chi bộ trong trường và ban chấp hành chi bộ (chi uỷ), nếu lớn thì có đại hội đại biểu toàn trường và ban chấp hành nhà trường (hiệu uỷ).
+ Ở các cơ quan đoàn bộ: nếu nhỏ thì hội nghị toàn thể chi bộ trong cơ quan và có chi uỷ, nếu lớn, có từ hai chi bộ trở lên thì có đại hội đại biểu cơ quan và ban chấp hành liên chi. Ở đại đoàn bộ hoặc các Tổng cục thuộc Bộ Tổng tư lệnh, nếu có nhiều liên chi thì có đại hội đại biểu toàn cơ quan và ban chấp hành đại đoàn bộ, tổng cục...
+ Trong phạm vi toàn quân, có Tổng quân uỷ do Trung ương chỉ định, đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Bộ Chính trị kiêm Trung ương quân uỷ hội.
+ Khi có chiến dịch lớn và cần thiết, thì sẽ lâm thời tổ chức ra Đảng uỷ Mặt trận Trung ương chỉ định.
Nghị quyết quy định trách nhiệm, quyền hạn của các hội nghị và đại hội mỗi cấp, tuổi đảng của các cấp uỷ viên, nhiệm kỳ của các cấp uỷ, ban thường vụ và thời gian khai hội.
Phần thứ hai: Nhiệm vụ và quyền hạn.
- Giữa hai kỳ hội nghị toàn thể đảng viên hay đại hội đại biểu thì cơ quan cao nhất là ban chấp hành của mỗi cấp.
- Nhiệm vụ của các ban chấp hành có quy định cụ thể:
+ Ở các đơn vị, nhà trường.
+ Cấp uỷ cơ quan đoàn bộ.
+ Cấp uỷ cơ quan từ đại đoàn trở lên.
Phần thứ ba: Quan hệ của cấp uỷ với thủ trưởng, cơ quan quân chính và cấp uỷ địa phương.
Nghị quyết nêu rõ quan hệ giữa cấp uỷ với chính phủ và đoàn trưởng cùng cấp, với các cơ quan giúp việc, trong bộ đội với các cấp uỷ địa phương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.189-194.
THÁNG 6
Quân và dân Bình - Trị - Thiên đẩy mạnh chiến tranh du kích chống địch càn quét, bảo vệ mùa màng
Sau chiến dịch Lê Lai năm 1950, phong trào du kích chiến tranh ở Bình - Trị - Thiên có bước phát triển mạnh. Tới Thu Đông 1951, quán triệt Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công tác ở vùng sau lưng địch, Liên khu uỷ IV đã kiểm điểm thiếu sót trong việc vận dụng phương châm đánh du kích với biểu hiện là ham đánh lớn và không chắc thắng. Sau khi chấn chỉnh, hoạt động chiến tranh du kích ở Bình - Trị - Thiên được đẩy mạnh, trình độ tác chiến của lực lượng du kích được nâng lên một bước quan trọng.
Tháng 3-1952, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt các vị trí Vạn Kim, Nam Tây, Nam Đồng, đánh viện trên đường 74, tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn ứng chiến lính Angiêri ở Quảng Trị. Sau đó, ta tiêu diệt tiếp các vị trí Sơn Tùng, Nam Dương, đánh viện trên đường số 1, tiêu diệt một đại đội địch ở Thừa Thiên. Đầu tháng 4, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã chống càn quét thắng lợi, giáng cho địch những đòn nặng, mở rộng thêm khu du kích. Những chiến thắng của ta ở Hương Cần, La Khê (Thừa Thiên), Sen Bàng (Quảng Bình), Ba Đồn (bắc Quảng Bình), Dương Hoà (Thừa Thiên) làm cho địch thêm lúng túng. Trong vòng 6 tháng, quân và dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt, bắt sống, làm bị thương 6.500 tên địch, tiêu diệt 14 vị trí, 31 tháp canh, bức rút 3 vị trí và 28 tháp canh, thu một số lớn vũ khí, đạn dược, giải phóng 3 vạn đồng bào bị giặc bắt.
Kết quả hoạt động đấu tranh du kích, chống càn quét của quân dân Bình - Trị - Thiên đã tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực địch, giam chân, kiềm chế địch, gây cho chúng nhiều khó khăn trong thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", phá một phần âm mưu chia rẽ lương giáo ở những địa phương trên. Đi đôi với thắng lợi quân sự, công tác địch vận, đặc biệt công tác vận động ngụy binh đã thu nhiều kết quả. Đã có hơn 700 ngụy binh giác ngộ, quay về với kháng chiến.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động quân sự của Đảng bộ và chính quyền ở Bình - Trị - Thiên vẫn còn khuyết điểm, nhất là chưa khắc phục được bệnh hình thức, ham ăn to đánh lớn, thiếu kiên quyết phát động nhân dân chống càn quét. Trong việc lãnh đạo phong trào có lúc có địa phương còn nặng đấu tranh quân sự, nhẹ đấu tranh chính trị, kinh tế. Việc bồi dưỡng lực lượng dân quân du kích chưa liên tục. Đó là những vấn đề đặt ra cho quân và dân Bình - Trị - Thiên cần kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm để đẩy mạnh hoạt động đấu tranh mọi mặt góp phần vào thắng lợi chung của toàn quốc.
- Báo Nhân dân, ngày 13-11-1952.
NGÀY 14-7
Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về huy động dân công
Để đẩy mạnh việc huy động nhân lực phục vụ tiền tuyến, ngày 14-7-1952, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về huy động dân công. Tiếp đó, Ban Dân công ở các tỉnh cũng được thành lập. Việc điều khiển gom lương, vận chuyển chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực, vật lực địa phương do Ban Cung cấp tiền phương đảm nhiệm.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, trong chiến dịch Tây Bắc, ta đã dự kiến huy động 35.000 người, chủ yếu làm nhiệm vụ vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến. Trong chiến dịch này, nhân dân đã cung cấp 9.360 tấn gạo, 164 tấn muối, 195 tấn thịt, 71 tấn thực phẩm khác và 33 tấn đạn, cứu chữa cho 535 thương, bệnh binh, cùng với việc huy động trên thực tế 194.400 lượt dân công.
Công tác dân công ngày càng trở nên cấp bách và góp phần to lớn vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành nhiều thời gian động viên cán bộ, chiến sĩ hậu cần.
- Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.206.
NGÀY 14-7
Thư của Bộ Chính trị gửi đồng chí Hoàng Anh và các đồng chí trong Liên khu uỷ IV
Theo dõi những hoạt động chống Cộng sản, chống lại kháng chiến của bọn phản động đội lốt Công giáo gây ra các vụ ở Xã Đoài, Hưng Yên, Bộ Chính trị nhận định:
Ở Việt Nam có hơn hai triệu tín đồ Công giáo. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều biết rằng sức mạnh của ta là ở nhân dân, ưu thế của ta là ở dân tộc đoàn kết kháng chiến. Do đó, địch chủ trương: truyền đạo mê hoặc quần chúng và tranh thủ quần chúng, gây cơ sở trong nhân dân để cố bám lấy nước ta. Dùng lối giảng đạo để nhồi sọ tín đồ, làm cho tín đồ không nhận rõ kẻ thù chính của dân tộc và của chính họ là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cùng bọn Việt gian tay sai bù nhìn, không nhận rõ: muốn được độc lập, tự do (tín ngưỡng) và hạnh phúc phải làm cách mạng, phải kháng chiến. Chúng xúi tín đồ chống lại Cộng sản, hòng cô lập Cộng sản, cô lập lực lượng lãnh đạo kháng chiến; lôi kéo tín đồ tổ chức những cuộc chống lại chính sách của Đảng và Chính phủ, quấy rối hậu phương của ta,…
Ngày 9-11-1951, Giăng Đuylây, Ngô Đình Thục, Lê Hữu Từ cùng 10 giám mục người ngoại quốc và người Việt Nam họp ở Hà Nội ra một bức thư chung, mục đích là phân định ranh giới giữa Công giáo và Cộng sản, kêu gọi tín đồ Công giáo chống Cộng sản, bất hợp tác với Cộng sản,… Riêng ở Khu IV, bọn phản động trong Công giáo đánh Cộng sản ở Nghi Lộc, Diễn Châu, giết công an xã Hưng Yên, Nghệ An cuối năm 1951; tổ chức quần chúng Công giáo biểu tình phản đối Uỷ ban Kháng chiến hành chính địa phương và toà án nhân dân ở Hương Khê, Hà Tĩnh đầu năm 1952, rào chặt các làng Công giáo, thành lập những đội "cảm tử", tổ chức canh gác, hà hiếp, khủng bố nhân dân, cản trở việc thu thuế nông nghiệp ở rải rác nhiều nơi thuộc Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Sau vụ nhảy dù Phát Diệm, thực dân Pháp cho một bọn phản động trong Công giáo đứng ra lôi kéo bọn phản động thành lập "Mặt trận chống cộng”, ra khẩu hiệu "liên tôn chống cộng”, kể cả những phần tử phản động trong đạo Phật. Đó là một mưu mô vô cùng thâm độc của đế quốc Mỹ, chúng ta cần phải cảnh giác phá tan mưu mô thâm độc đó.
Bộ Chính trị nêu lên nguyên nhân yếu kém của công tác vận động Công giáo là do ta chưa nhận rõ đầy đủ âm mưu thâm độc của địch, thiếu cảnh giác và phần nhiều bị động trước âm mưu phá hoại của địch. Có nơi chưa phân biệt rõ bạn, thù, còn tư tưởng thành kiến với đồng bào Công giáo. Không đứng trên lập trường giai cấp mà nhận rõ tính chất của bọn phản động trong Công giáo là tay sai của bọn địa chủ phong kiến và đế quốc, còn tuyệt đại đa số quần chúng tín đồ Công giáo là nông dân; không tin tưởng ở quần chúng Công giáo, có hiện tượng vi phạm tín ngưỡng... Ở Liên khu IV, tình hình vụ Hưng Yên đã tạm yên nhưng căn bản vấn đề Công giáo Liên khu IV vẫn chưa được giải quyết. Trước lực lượng quân đội của ta, bọn phản động trong Công giáo tạm rút vào hoạt động bí mật, ngụy trang để chờ dịp nổi dậy.
Bộ Chính trị yêu cầu Liên khu IV cần thực hiện các nhiệm vụ:
- Tích cực vận động giáo dân; tuyên truyền, giải thích, vạch mặt bọn phản động trong Công giáo là tay sai của Pháp - Mỹ; ra sức tranh thủ quần chúng giáo dân, nhất là bần, cố nông.
- Kịp thời trừng trị bọn phản động, phát động quần chúng nhân dân tố khổ để buộc tội bọn phản động, truy bắt những tên còn lẩn trốn.
- Liên khu cần tổ chức Hội nghị kiểm điểm ra kinh nghiệm về công tác vận động giáo dân để nhân dân hiểu đúng và tin tưởng vào chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Nắm vững phương châm và chính sách trong đó phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân nhưng đồng thời cảnh giác trừng trị kịp thời bọn phản động lợi dụng tôn giáo để phản nước hại dân, coi công tác vận động tín đồ Công giáo là một bộ phận của công tác dân vận và công tác mặt trận của Đảng.
Việc đối phó với bọn phản động trong tôn giáo ở vùng tự do, chính quyền dân chủ nhân dân vừa phải dùng biện pháp chính trị vừa dùng biện pháp quân sự nhưng chính trị là thường xuyên.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 287, phông 1952 Trung ương.
NGÀY 17-7
Ban Bí thư ra Nghị quyết thành lập Khu Tây Bắc
Tây Bắc là một vùng rừng núi đất rộng người thưa, phần lớn nằm trong vùng bị địch tạm chiếm. Tây Bắc có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Xuất phát từ tầm quan trọng của Tây Bắc đối với cách mạng cả nước, Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Khu Tây Bắc gồm bốn tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Khu uỷ Tây Bắc là lãnh đạo quân, dân, chính và Đảng bộ Tây Bắc thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ đề ra. Trung ương Đảng xác định rõ những công tác chính hiện tại của Khu Tây Bắc là: Khu uỷ phải hướng trọng tâm công tác vào việc chuẩn bị chiến trường, đồng thời tích cực xây dựng các căn cứ du kích và thu hồi các vùng được giải phóng.
- Chuẩn bị cơ sở chính trị, các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, nhất là ở những vùng xung yếu.
- Điều tra và nắm vững tình hình địch.
- Chuẩn bị nhân lực, vật lực để phục vụ tiền tuyến.
- Ra sức đào tạo cán bộ địa phương.
- Thực hiện chính sách dân tộc thiểu số của Đảng và chính sách trong các vùng căn cứ và vùng giải phóng.
- Chấn chỉnh tổ chức Đảng cơ sở, chú trọng giải quyết vấn đề tư tưởng cán bộ kịp đáp ứng với bước chuyển biến của tình hình.
Cùng với Khu Việt Bắc, Khu Tây Bắc ra đời đáp ứng yêu cầu cụ thể về chỉ đạo của Đảng và các cấp bộ Đảng đối với cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.210-213
NGÀY 27-7
Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Bộ trưởng Bộ Thương binh, cựu binh nhân ngày thương binh, tử sĩ
Mỗi năm, đến ngày 27-7, nhân dân ta làm lễ kỷ niệm để nhớ đến các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, những người đã hy sinh cả tính mạng và một phần xương máu để bảo vệ Tổ quốc. Nhân ngày này, cùng với đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thăm hỏi, động viên thương binh, bệnh binh và gửi một tháng lương để giúp đỡ họ.
Trong thư, Người động viên đồng bào các xã ở Thanh Hoá, Phú Thọ đã hết lòng đón thương binh về làng, tạo điều kiện giúp đỡ thương binh ổn định cuộc sống.
Người nêu một số ý kiến sau với đồng bào cả nước:
- Nên coi công tác thương, bệnh binh là một nghĩa vụ của nhân dân đối với những chiến sĩ bị thương, bị bệnh trong chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, không nên coi đó là một việc "làm phúc”.
- Trong khi đón thương binh, bệnh binh về xã thì chính quyền, đoàn thể địa phương (trước hết là Nông hội, phụ nữ, thanh niên) cần phải tổ chức sẵn sàng việc giúp đỡ cho thương, bệnh binh sớm tự túc dần cuộc sống về tinh thần và vật chất.
- Xã nào có ruộng công và khéo tổ chức thì đều có thể giúp.
Còn về phần các đồng chí thương binh, bệnh binh, Người căn dặn:
- Phải hoà mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân, tránh phiền nhiễu nhân dân.
- Phải tránh tâm lý “công thần” coi thường lao động, coi thường kỷ luật.
- Chớ bi quan chán nản, phải luôn luôn cố gắng.
Trước kia, các đồng chí đã xung phong diệt giặc thì ngày nay, tuỳ điều kiện mà xung phong tăng gia sản xuất. Đồng bào sẵn sàng giúp, Chính phủ nâng đỡ, nếu có quyết tâm thì các đồng chí nhất định dần dần tự túc được.
Bức thư của Người có tác dụng cổ vũ động viên to lớn đồng bào, chiến sĩ cả nước, nhất là đối với thương binh, bệnh binh, cố gắng theo sức của mình góp phần nhỏ bé vào chiến thắng chung của dân tộc.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.532-533
THÁNG 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ đạo hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên phát triển công thương nghiệp
Chủ trương của Đảng và Chính phủ ta trong giai đoạn này là tích cực phát triển công thương nghiệp, động viên, khuyến khích các giới công thương nghiệp, đẩy mạnh hoạt động sản xuất hàng hoá, vật phẩm tiêu dùng để góp phần vào giải quyết những yêu cầu bức xúc của mặt trận và đời sống tiêu dùng của nhân dân.
Muốn phát triển sản xuất công thương nghiệp cần có chính sách đoàn kết, cởi mở trên mặt trận kinh tế. Hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, đặc biệt là ở thị xã, có giới công thương nghiệp đang phát triển.
Để thi hành chủ trương của Đảng và Chính phủ về phát triển công thương nghiệp Việt Nam, các cấp Đảng bộ hai tỉnh trên có nhiệm vụ tích cực vận động các giới hữu sản kinh doanh và hết sức giúp đỡ các tổ chức có liên quan tới công tác vận động như Liên hiệp công đoàn, Đảng Dân chủ,...
Đây là một chủ trương đúng đắn vừa có tác dụng kích thích sản xuất công thương, vừa tranh thủ đoàn kết mở rộng mặt trận đối với các giới tư sản đi theo kháng chiến.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 300, phông 1952.
THÁNG 7
Hội nghị Chiến tranh du kích Bắc Bộ
Để kịp thời rút kinh nghiệm, thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh ở vùng địch hậu phát triển mạnh, Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ đã mở Hội nghị Chiến tranh du kích Bắc Bộ. Nhiều đại biểu của các ngành, các địa phương thuộc vùng sau lưng địch và đại biểu các tỉnh Bình - Trị - Thiên, Liên khu V đã tham dự.
Hội nghị đã tổng kết kinh nghiệm chống càn của nhiều địa phương tiêu biểu, phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và khẳng định vai trò của bộ đội địa phương, dân quân du kích trong việc tiêu diệt sinh lực địch, góp phần đánh bại âm mưu bình định lấn chiếm của địch. Hội nghị cũng giải quyết một số vấn đề cụ thể thống nhất lãnh đạo, biên chế tổ chức và công tác cung cấp cho lực lượng vũ trang.
Nhân Hội nghị tổng kết phong trào chiến tranh du kích vùng sau lưng địch, Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự và phát biểu ý kiến. Người đã biểu dương khen ngợi. "Các cô các chú ở đây đều cố gắng, có thành tích, gian khổ, người nhiều người ít. Đó là điều đáng khen. Nhưng nên nhớ thành tích đó không phải là thành tích của riêng ai mà là chung của bộ đội, của đồng bào... Từ chiến dịch Hoà Bình đến giờ, so sánh tình hình du kích vùng sau lưng địch năm nay với năm ngoái thì đã phát triển khá hơn nhiều, nhất là đồng bào và cán bộ tự tin mình có thể thắng được địch. Đó là rất đúng, là một điều thay đổi rất tốt”.
Sau khi nêu một số ưu, khuyết điểm của phong trào du kích trong năm qua, Người nêu lên một số nhiệm vụ:
- Trước hết nội bộ, tức là quân, dân, chính, Đảng phải đoàn kết chặt chẽ, có việc gì phải bàn tính kỹ lưỡng. Tư tưởng, hành động phải thống nhất, phải giúp đỡ nhau, thành thực phê bình và tự phê bình để cùng nhau tiến bộ.
- Phải nghiên cứu kỹ, áp dụng đúng và triệt để thi hành những chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương, Chính phủ.
- Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám lấy dân là làm sao cho được lòng dân, được dân tin, dân mến, dân yêu. Được như vậy thì bất kể việc gì khó cũng làm được cả và nhất định thắng lợi.
- Bộ đội chủ lực trong vùng địch hậu có nhiệm vụ giúp đỡ bộ đội địa phương và dân quân du kích về tổ chức huấn luyện mọi mặt, giúp đỡ chứ không bao biện. Hơn nữa, phải giúp đỡ cả nhân dân... phải biết chiến thuật du kích chứ không chính quy như ở ngoài. Tuyệt đối chớ có ham ăn to, đánh to, trừ những hoàn cảnh chắc thắng 100%.
- Mục đích của du kích chiến cũng không phải là ăn to, đánh lớn mà phải tỉa dần, đánh làm sao cho địch ăn không ngon, ngủ không yên, không thở được, bị hao mòn về tinh thần và vật chất rồi đi đến chỗ bị tiêu diệt.
Người căn dặn: nếu các cô các chú các địa phương sửa chữa được những khuyết điểm, làm đúng như những điều Bác nói ở trên thì nhất định thắng lợi. Về địa phương các cô, các chú phải nói với anh em, với đồng bào thi đua về mọi mặt: đánh giặc lập công, tổ chức ngụy vận, địch vận, tăng gia sản xuất và tiết kiệm, "thực túc binh cường”...
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.6, tr.522-526.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, 1999, tr.126.
TỪ THÁNG 7 ĐẾN THÁNG 9
Cuộc đấu tranh của đồng bào Công giáo chống hoạt động của bọn phản động đội lốt tôn giáo
Đi đôi với việc lập phòng tuyến boongke, đẩy mạnh việc bình định vùng tạm chiếm, thực dân Pháp còn ra sức phát triển và củng cố ngụy quyền nông thôn, lập tổ chức phản động "hương dõng”, “hương đồn", giúp đỡ lực lượng vũ trang của bọn phản động đội lốt tôn giáo chống phá cách mạng.
Đầu tháng 5-1952, bọn phản động đội lốt Thiên Chúa giáo do tên Giăng Đulây cầm đầu đã viết thư kêu gọi đồng bào Công giáo chống lại kháng chiến. Lợi dụng những sơ hở của ta trong vận động đồng bào Thiên Chúa giáo, lợi dụng những khó khăn trong thực hiện chính sách thuế nông nghiệp để vu cáo, nói xấu cán bộ, đảng viên; dùng thẩm quyền khống chế, doạ nạt các tín đồ và lòng tin của họ để chia rẽ khối đoàn kết kháng chiến của dân tộc ta.
Bức thư của G.Đulây đã bộc lộ rõ âm mưu phản động trắng trợn của thực dân Pháp. Nó gây một làn sóng phản đối rộng rãi trong đại đa số đồng bào Công giáo cả nước. Uỷ ban liên lạc Công giáo kháng chiến Liên khu III đã bóc trần âm mưu của bè lũ phản động do G. Đulây cầm đầu và chỉ rõ: đó là mưu đồ chống phá cách mạng của Pháp-Mỹ, vận động đồng bào giáo hữu tẩy chay thư đó.
Trong vùng sau lưng địch, đồng bào Công giáo họp hội nghị tố cáo tội ác đẫm máu của những tên linh mục phản động như cha Khâm, cha Quỳnh, cha Đệ, cha Phi, đả đảo G. Đulây. Ngay ở Phát Diệm cũng có nhiều Chánh trưởng, Trùm trưởng cực lực lên án bọn phản động.
Làn sóng đấu tranh phản đối bọn phản động đội lốt tôn giáo đã làm sáng tỏ lòng trung thành và niềm tin tưởng của đồng bào Công giáo đối với đức Chúa và với cách mạng, đồng thời thể hiện thái độ cương quyết của đại bộ phận giáo dân yêu nước, chống lại bọn phản động, bảo vệ kháng chiến.
- Báo Nhân dân, ngày 11-9-1952.
NGÀY 15-8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng bổ sung Chỉ thị số 37 Về chính sách ruộng đất
Sau một thời gian thi hành Chỉ thị số 37 Về thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng một số địa phương đã có biểu hiện lệch lạc, sai lầm.
Đồng thời với việc ban hành chính sách thuế nông nghiệp, đòi hỏi cần có sự bổ sung, điều chỉnh chính sách ruộng đất cho phù hợp với yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến.
Nội dung được điều chỉnh bao gồm:
- Về giảm tô, giảm tức là tiến hành giảm từ khi nông dân đòi giảm trở về sau, không phải giảm ngược lại cả các vụ trước. Không nên đặt mức giảm tô khác nhau cho địa chủ, phú nông, trung nông. Ai phát canh ruộng đất cũng phải giảm tô. Giảm tô là căn cứ vào địa tô hồitrước Cách mạng Tháng Tám mà giảm đi 25%, địa chủ chỉ được hưởng nhiều nhất là 1/3 số hoa lợi của ruộng đất. Giảm tô là chính, giảm tức là phụ.
- Vấn đề tạm cấp ruộng đất của địa chủ và Việt gian: Thời hạn tạm cấp kéo dài hơn từ 5 năm tăng lên 10 năm và chỉ để lại một số ít diện tích trồng cây công nghiệp, hoặc trồng lúa thí nghiệm còn lại chia hết cho nông dân, tuyệt đối không được giữ lại làm quỹ cho chính quyền địa phương. Cần sửa chữa ngay những sai lầm, khuyết điểm thiếu công bằng trong quá trình tạm cấp cho nông dân và có chính sách động viên giúp đỡ họ để họ có đủ điều kiện cấy trồng.
- Việc sử dụng ruộng công cần công khai, đảm bảo công bằng trên cơ sở có lợi cho nông dân, có lợi cho sản xuất và thực hiện được đoàn kết kháng chiến.
- Về việc phát triển các đoàn đổi công, hợp công là những hình thức phổ biến thích hợp nhất hiện nay. Không nên tổ chức những hợp tác xã nông nghiệp quy mô lớn vì chưa có điều kiện. Việc tổ chức đổi công phải trên nguyên tắc: đơn giản, tự nguyện mọi người đều có lợi. Mục đích là để giải quyết vấn đề nhân công, giúp đỡ nhau sản xuất và thi đua tăng gia sản xuất.
Những sửa đổi bổ sung nêu trên đều nhằm mục đích thực hiện tốt sách lược của Đảng đối với các tầng lớp nông thôn. Đó là: phải dựa vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên minh với phú nông, lôi kéo hoặc trung lập một số địa chủ, đánh đổ đế quốc và đại địa chủ phản động. Việc vận dụng đường lối của Đảng phải dựa vào lực lượng, tổ chức và trình độ của nhân dân, phải bàn bạc với dân chống quan liêu, mệnh lệnh mà làm sai chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.221-240.
NGÀY 16-8
Ban Bí thư ra Chỉ thị Thi hành chính sách dân tộc thiểu số ở Khu QT (Quang Trung)
Trung ương Đảng ta nhận định: khu QT bao gồm một số huyện của hai tỉnh Cao Bằng và Bắt Kạn như: Hà Quảng, Hoà An, Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ Rã, Bạch Thông, Chợ Đồn. Là một địa bàn gồm nhiều dân tộc thiểu số rất phức tạp và lạc hậu, cần nghiên cứu kỹ những đặc điểm và hoàn cảnh khác nhau giữa các khu vực tạm bị chiếm và khu vực tự do ở QT để thi hành cho đúng chính sách cụ thể của Đảng đối với các dân tộc thiểu số.
Để thực hiện tốt chính sách của Đảng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, Trung ương Đảng xác định những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Ra sức tuyên truyền, giáo dục tinh thần đoàn kết kháng chiến và lòng yêu nước của các dân tộc thiểu số làm cho đồng bào tin tưởng vào kháng chiến nhất định thắng lợi. Đồng thời tổ chức những cuộc tố khổ ở những nơi mới được giải phóng để đồng bào vạch rõ tội ác và mưu mô chia rẽ dân tộc của Pháp trong thời gian chúng chiếm đóng; đề cao tinh thần căm thù của đồng bào với bọn xâm lược và bè lũ tay sai Việt gian bán nước.
- Phải căn cứ vào trình độ của quần chúng mà đặt ra những hình thức tổ chức như lập tổ chức Liên Việt, Hội Nông dân Cứu quốc, dân quân du kích xã, v.v..
- Đẩy mạnh cuộc vận động sản xuất và tiết kiệm. Tích cực giải quyết vốn, hạt giống, nông cụ cho đồng bào, giúp đỡ để đồng bào có điều kiện đẩy mạnh sản xuất và hăng hái đóng thuế nông nghiệp cho Chính phủ.
- Tổ chức mậu dịch ở những nơi chưa có, tổ chức tiếp tế muối, vải v.v. cho đồng bào.
- Phát triển Bình dân học vụ, dạy cho đồng bào biết đọc biết viết; dạy kèm cả chữ phổ thông và chữ dân tộc.
Trong vùng tạm bị địch chiếm có diện tích lớn, nhiệm vụ chính của ta ở đây là tuyên truyền, tổ chức, giáo dục đồng bào thiểu số làm cho họ đoàn kết chặt chẽ để đấu tranh chống bọn xâm lược và tay sai, bảo vệ quyền lợi hàng ngày và mở rộng cuộc đấu tranh võ trang cùng đồng bào toàn quốc đẩy mạnh kháng chiến giành độc lập. Phương châm công tác của ta là: giữ vững cơ sở, tích trữ lương thực, chờ thời cơ tốt nổi dậy. Việc lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày phải căn cứ vào trình độ giác ngộ của quần chúng và tương quan lực lượng giữa ta và địch để quyết định hình thức đấu tranh cho thích hợp: từ hình thức đấu tranh thấp chuyển dần lên đấu tranh vũ trang.
Trong những vùng mới giải phóng phải tổ chức thành lập Uỷ ban Kháng chiến hành chính các cấp để giải quyết những vấn đề cấp thiết thuộc đời sống của nhân dân; xét xử ngay những bọn Việt gian phản quốc nhưng không được bắn giết bừa bãi. Chưa tiến hành giảm tô, giảm tức mà phải trải qua các khâu chuẩn bị thật đầy đủ và sẽ có hướng dẫn cụ thể của Trung ương. Thuyết phục nhân dân từng bước xoá bỏ các tập tục phong kiến, tập quán lạc hậu và từng bước xây dựng cuộc sống mới.
Cần tổ chức bộ đội địa phương một cách có kế hoạch, nhưng thận trọng đối với những quần chúng có trình độ giác ngộ thấp kém về chính trị, dễ bị bọn phìa tạo lợi dụng làm công cụ để củng cố địa vị của chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.241-256.
NGÀY 28-8
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về công tác thuế nông nghiệp vụ mùa năm 1952
Hoạt động thuế nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của ta trong các vùng tự do, vùng căn cứ du kích nhằm đảm bảo tăng nguồn thu, phục vụ kháng chiến. Sau khi ban hành và sửa đổi các chế độ thuế khoá, nhất là thuế nông nghiệp, từ tháng 8-1952, Trung ương Đảng yêu cầu các liên khu cần nắm vững những công tác lớn sau:
- Điều tra định sản và chỉnh lý cho đúng sản lượng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý, khuyến khích sản xuất, bảo đảm nhu cầu cho kháng chiến.
- Tổ chức thu nhanh gọn. Thuế vụ mùa 1952 sẽ thu một phần bằng thóc, một phần bằng tiền. Tuyệt đối không được dùng quan liêu mệnh lệnh phân bổ như trước. Trên cơ sở mức đã định và có căn cứ dân chủ cần quyết tâm thu cho kỳ được. Đó là trách nhiệm và kỷ luật.
Công tác thu thuế nông nghiệp là một cuộc vận động nông dân nộp đủ số thuế trong thời gian quy định. Thóc phải đủ khô, thóc tốt, bảo quản kỹ, tránh hư hao. Việc thu bằng tiền phải định giá sát với thị trường để nhân dân yên tâm, phấn khởi, hăng hái sản xuất. Phải tổ chức kiểm tra thật chặt chẽ, tránh tham ô, lãng phí.
Chỉ thị đã nêu lại hai điều căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ thuế nông nghiệp là:
- Việc thu thuế nông nghiệp phải coi như là một chiến dịch, phải tập trung lực lượng và cố gắng vượt bậc để đưa chiến dịch này đến thắng lợi.
- Cán bộ phải dựa vào dân, đi sát với dân và làm gương mẫu cho dân theo.
Quá trình thực hiện chính sách thuế nông nghiệp là quá trình đấu tranh giai cấp gay go giữa giai cấp địa chủ, phú nông với nông dân lao động. Qua thuế nông nghiệp, Nhà nước đã tập trung được một số lương thực cần thiết bảo đảm cung cấp cho tiền tuyến, góp phần bình ổn giá cả của nhiều mặt hàng trên thị trường.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.288-291.
THÁNG 8
Bộ Chính trị ra Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số của Đảng
Bộ Chính trị Trung ương Đảng vạch rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp trong việc cấu kết chặt chẽ với bọn phản động lang đạo, phìa tạo ở địa phương, thẳng tay đàn áp, bóc lột đồng bào các dân tộc thiểu số. Đặc biệt, chúng ra sức dùng chính sách lừa bịp, chia rẽ xúi giục hận thù giữa các dân tộc, giữa đồng bào các dân tộc với đồng bào Kinh hòng phá hoại chính sách đại đoàn kết chống thực dân xâm lược của Đảng và Chính phủ ta. Vừa qua, chúng xúc tiến lập lại xứ Mường, xứ Thái, xứ Nùng, xứ Tây Kỳ “tự trị" nhằm mục đích vơ vét sức người, sức của của đồng bào ta, phá hoại công cuộc kháng chiến.
Bộ Chính trị cũng chỉ ra một số thiếu sót trong công tác vận động dân tộc thiểu số. Đó là những biểu hiện coi nhẹ công tác đoàn kết các dân tộc, coi thường âm mưu chia rẽ của địch, công tác vận động lệch một chiều, chưa có biện pháp tích cực giúp đỡ đồng bào dân tộc cải thiện đời sống, đội ngũ cán bộ dân tộc còn thiếu…
Để khắc phục nhanh những thiếu sót trên, Trung ương Đảng ta chỉ rõ: Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những công tác quan trọng vào bậc nhất của Đảng, Mặt trận, Chính phủ nhằm đẩy mạnh chính sách đại đoàn kết các dân tộc vào công cuộc chống thực dân, đế quốc.
Nội dung của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số được xác định một cách toàn diện cả về chính trị, quân sự, xây dựng kinh tế, xây dựng văn hoá và nếp sống mới. Bộ Chính trị nhấn mạnh: mọi hoạt động đều phải nhằm vào việc tập trung lực lượng toàn dân đoàn kết kháng chiến, tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh bại bọn can thiệp Mỹ, đánh đổ bọn Việt gian bù nhìn, giành độc lập tự do cho tất cả các dân tộc Việt Nam. Phương châm vận động tuyên truyền là: thật thà đoàn kết, nắm vững quần chúng cơ bản, chủ yếu là nông dân, phát triển lực lượng tiến bộ, lôi kéo những phần tử ở lớp trên, cô lập và đánh bại bọn phản động, bọn theo Pháp chống lại nhân dân.
Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc cần phải chú ý làm tốt các nhiệm vụ: lôi kéo tầng lớp trên, vận dụng đúng chính sách đối với ngụy binh và gia đình ngụy binh; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, tích cực đào tạo cán bộ vùng dân tộc, về kinh tế ta chưa chủ trương thủ tiêu chế độ phong kiến ở miền núi mà chỉ hạn chế nó một cách từ từ, cần phải làm có trọng điểm; phải tôn trọng tiếng nói và chữ viết của đồng bào, vận động bỏ nếp sống lạc hậu; về quân sự cần phát triển dân quân du kích để tham gia tiễu phỉ giữ làng; ra sức xây dựng và phát triển Đảng trong đồng bào các dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.259-282.
THÁNG 8
Bộ phim "Việt Nam kháng chiến" ra đời, một cố gắng lớn của điện ảnh Việt Nam
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn hoá, văn nghệ phục vụ nhiệm vụ kháng chiến, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các nghệ sĩ điện ảnh Trung Quốc, sau 7 tháng lao động nghiêm túc, bộ phim "Việt Nam kháng chiến" được hoàn thành. Đây là tác phẩm điện ảnh đầu tiên nói về những năm đầu của cuộc kháng chiến bền bỉ, kiên cường của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Bộ phim đã được trình chiếu ở các vùng căn cứ kháng chiến và được đem chiếu ở thủ đô các nước bạn nhằm tăng thêm sự hiểu biết và sự ủng hộ giúp đỡ của các nước đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Trong điều kiện khó khăn gian khổ của kháng chiến, thành công của bộ phim đã đóng góp phần quan trọng đánh dấu bước phát triển của văn hoá, văn nghệ phục vụ kháng chiến.
- Báo Nhân dân, ngày 18-9-1952.
NGÀY 9-9
Chủ tịch Hồ Chí kinh nói chuyện tại Hội nghị Cán bộ chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc
Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về phương châm tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu tìm sơ hở của địch mà đánh, ta đã quyết định mở cuộc tấn công vào Tây Bắc. Để quán triệt mục tiêu, nhiệm vụ chiến dịch, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Cán bộ vào ngày 9-9-1952. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự Hội nghị. Tại Hội nghị này, Người xác định mục đích của chiến dịch Tây Bắc lần này là:
- Tiêu diệt sinh lực địch.
- Tranh thủ nhân dân.
- Giải phóng đất đai.
Nhiệm vụ chính là phải tiêu diệt sinh lực địch. Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó; quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ, nghĩa là trong thái độ, trong tư tưởng, trong hành động, trong chiến đấu, bất kỳ một việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của hậu phương phục vụ chiến dịch: “Thực túc thì binh cường. Anh em bên cung cấp phải có quyết tâm để có đủ lượng thực, vũ khí cho bộ đội. Còn bên bộ đội thì phải có quyết tâm… Chính sách đối với đồng bào thiểu số, Chính phủ đã có quy định, các chú và bộ đội phải làm đúng. Đó là một cách tranh thủ nhân dân để phá tan âm mưu của địch “lấy người Việt hại người Việt". Phải làm cho mỗi chiến sĩ là một người tuyên truyền. Các chú phải làm thế nào khi mình đến thì đồng bào hoan nghênh, khi đóng quân thì đồng bào vui vẻ giúp đỡ, khi mình đi thì đồng bào quyến luyến...".
Bác treo giải thưởng 1 triệu đồng cho bộ đội để phát động đợt thi đua trong thời gian từ ngày 2-9 đến ngày 19-12. Số tiền tuy nhỏ nhưng giá trị của nó to vì do tay Bác tự làm ra. Đơn vị nào lập công trước, ngoài phần thưởng 1 triệu đồng ấy còn có giải thưởng khác nữa.
Bác nói: "Chẳng những quân đội đi giết giặc lập công mới anh hùng, mà cán bộ cung cấp ra sức phục vụ cũng là anh hùng. Trong mỗi người các chú đều có mầm anh hùng: các chú phát triển nó lên".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.558-562.
NGÀY 9-9
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công bố Tám điều mệnh lệnh đối với các vùng mới giải phóng
Hoạt động xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng giữ một vị trí chiến lược trong hoạt động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Ngày 1-10-1952, Chính phủ công bố Tám điều mệnh lệnh như sau:
- Bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân.
- Bảo vệ nghề nghiệp làm ăn của nhân dân.
- Tịch thu tài sản của giặc Pháp và bọn phản quốc.
- Bảo vệ đền chùa, nhà thờ, trường học, nhà thương và các cơ quan văn hoá xã hội khác.
- Thưởng người có công, phạt người có tội.
- Giữ gìn trật tự và trị an xã hội.
- Các tổ chức quần chúng trong nhân dân đặc biệt là nông dân cần phải được củng cố và phát triển.
- Bảo vệ tính mạng, tài sản của kiều dân nước ngoài.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.564-567.
TỪ NGÀY 14 ĐẾN NGÀY 17-9
Hội nghị Cán bộ Liên minh nhân dân Việt-Miên-Lào lần thứ nhất
Sau 18 tháng thành lập Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào đoàn kết kháng chiến, Uỷ ban liên lạc đã triệu tập Hội nghị Cán bộ lần thứ nhất để kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết của Hội nghị Liên minh tháng 3-1951, củng cố hơn nữa tình đoàn kết kháng chiến của ba dân tộc.
Hội nghị được tổ chức tại một địa điểm thuộc căn cứ Việt Bắc. Thành phần Hội nghị gồm: đại biểu Neo Lào - Ítxala cùng cán bộ tình nguyện Việt Nam hoạt động ở các khu Thượng, Trung và Hạ Lào; đại biểu các đoàn thể trong Mặt trận như công đoàn, nông dân, thanh niên, phụ nữ, Đảng Dân chủ và Xã hội. Đại biểu Miên không kịp đến dự Hội nghị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời khai mạc Hội nghị. Người nói: Việt Nam đoàn kết chặt chẽ, Lào đoàn kết chặt chẽ, Miên đoàn kết chặt chẽ, cả ba nước đoàn kết chặt chẽ thì nhất định sẽ đánh tan Pháp - Mỹ, giành hoàn toàn độc lập và tự do. Đoàn kết nổi dậy đấu tranh là đoàn kết trong tình thân, đoàn kết trong hành động, đoàn kết trong đấu tranh chứ không phải đoàn kết ngoài miệng.
Người thay mặt Chính phủ và Mặt trận nhân dân Việt Nam tuyên bố: “Chính phủ, Mặt trận và nhân dân Việt Nam ra sức hết lòng, thành thực giúp đỡ Mặt trận nhân dân Lào một cách không có điều kiện... Kháng chiến của Việt Miên - Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công thì Miên, Lào mới thắng lợi và Miên, Lào có thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi. Việt - Miên - Lào như anh em ruột thịt trong một nhà".
Đồng chí Hoàng Quốc Việt đọc báo cáo kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết của Hội nghị Liên minh Việt - Miên - Lào, đề ra hành động chung của ba Mặt trận và chuẩn bị cuộc Đại hội đại biểu của ba Mặt trận để động viên nhân dân ba nước thúc đẩy kháng chiến thắng lợi. Đồng chí nhấn mạnh: thời gian qua, chấp 'hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ và chiến sĩ Việt Nam đã cùng với cán bộ, chiến sĩ, nhân dân Lào đồng cam cộng khổ lăn lộn xây dựng cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang cùng nhau dẻo dai chống địch ở khắp Thượng, Trung và Hạ Lào.
Đoàn đại biểu Lào - Ítxala phát biểu nói lên bước phát triển mới và thắng lợi của cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của mặt trận Neo Lào - Ítxala và sự giúp đỡ của nhân dân và quân tình nguyện Việt Nam trong những năm qua. Hội nghị đã thống nhất hành động nêu rõ quyết tâmcủa ba dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện trên tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản để giành thắng lợi hoàn toàn.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II 3/121/7.6.
NGÀY 15-9
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tiếp tục mở rộng thắng lợi của Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu
Thực hiện chủ trương chuyển mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn tổng phản công, Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn quốc được tổ chức hồi tháng 5-1952. Đại hội có tác dụng cổ vũ phong trào thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong toàn quân toàn dân hăng hái thi đua sản xuất, giết giặc lập công. Để phát động một phong trào học tập các anh hùng, chiến sĩ thi đua sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Trung ương Đảng chủ trương mở rộng tuyên truyền đề cao chiến sĩ, đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc trong sản xuất và chiến đấu. Cuộc vận động tuyên truyền học tập gương chiến đấu lao động sản xuất được tiến hành sâu rộng khắp nông thôn, thành thị trong làng xã, xí nghiệp, đơn vị bộ đội cơ quan, trường học, trong đó nổi lên các phong trào học tập La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Giáp Văn Khương trong bộ đội; phong trào Ngô Gia Khảm, Cao Viết Bảo trong công nhân; phong trào Nguyễn Thị Chiến trong vùng sau lưng địch, phong trào Hoàng Hanh và Trịnh Xuân Bái trong nông dân,… Trung ương Đảng ta yêu cầu các ngành, các cấp phải coi việc tuyên truyền, bồi dưỡng anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu phải là nhiệm vụ thường xuyên hàng ngày, nhằm tăng thêm sự đoàn kết tương trợ giữa các anh hùng của các ngành, các giới. Trong quá trình bồi dưỡng anh hùng, chiến sĩ thi đua phải chú ý cả hai mặt tinh thần và vật chất. Tích cực phát triển Đảng trong các chiến sĩ thi đua.
Các khu, tỉnh cần theo dõi chặt chẽ công tác thi đua, kịp thời tổng kết thi đua trong các ngành, các giới, các tổ chức để nhân rộng điển hình tiên tiến ở địa phương mình, phát động phong trào hăng hái thi đua cống hiến nhiều nhân lực, vật lực cho cuộc kháng chiến tới thắng lợi.
Sau khi có Chỉ thị này, ngày 22-9-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 119-SL truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho Đại đội trưởng Trần Cừ và đồng chí Nguyễn Văn Thân, giao thông viên Ty Bưu điện Hải Phòng, vì đã lập công xuất sắc trong phong trào thi đua giết giặc lập công.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.292-300.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.615.
NGÀY 18-9
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Nam Bộ kháng chiến
Cùng với nhân dân cả nước đẩy mạnh hoạt động kháng chiến, đồng bào và chiến sĩ miền Nam đã giành nhiều thắng lợi to lớn về nhiều mặt. Nhân kỷ niệm 6 năm ngày Nam Bộ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước.
Người nói: "Nam Bộ kháng chiến trước nhất. Chịu đựng gian khổ lâu nhất. Lại cách xa Chính phủ Trung ương nhất. Hoàn cảnh rất khó khăn. Nhưng sức kháng chiến ngày càng mạnh mẽ và có nhiều thành tích rất oanh liệt vẻ vang.
Đó là vì đồng bào và bộ đội có lòng yêu nước rất nồng nàn, chí căm hờn quân giặc rất sâu sắc, lòng tin tưởng vào thắng lợi rất vững bền. Cho nên càng gian khổ, lại càng hăng hái. Chính như câu tục ngữ nói: lửa thử vàng, gian nan thử sức.
Dù ở xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ rất gần Nam Bộ.
Tôi theo dõi từng giờ, từng phút cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào, chiến sĩ và cán bộ ta.
Từ cuối năm 1950 đến nay, tại mặt trận chính là Bắc Bộ, địch luôn luôn thất bại, ta liên tiếp thắng lợi, phong trào du kích ngày càng phát triển. Những thành tích ấy là thành tích chung, mà đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ đã góp phần.
Kháng chiến phải trường kỳ và gian khổ. Điều đó là chắc chắn. Kháng chiến nhất định thắng lợi. Điều đó cũng là chắc chắn”.
Người căn dặn: "Đồng bào, chiến sĩ và cán bộ ta phải luôn luôn tỉnh táo, đã cố gắng cần phải cố gắng thêm, đã đoàn kết cần phải đoàn kết thêm. Nhân dân, bộ đội và cán bộ phải đồng tâm nhất trí, kết thành một khối. Phải kiên quyết vượt mọi khó khăn, đánh mạnh vào kẻ thù chung là giặc Pháp, bọn can thiệp Mỹ và lũ bù nhìn chó săn của chúng, phá tan chính sách của địch dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, để chuẩn bị đầy đủ điều kiện chuyển mạnh sang tổng phản công".
Bác gửi lời thăm toàn thể đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ, các anh em thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, toàn thể chính quyền, các đoàn thể, các chiến sĩ thi đua, các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên, nhi đồng.
"Kháng chiến nhất định thắng lợi!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!".
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.569-570.
NGÀY 28-9
Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Về mở chiến dịch Quang Trung
Do vị trí của chiến khu QT có tầm quan trọng đặc biệt trong việc chuẩn bị cho chiến trường Tây Bắc, Trung ương Đảng đã nêu rõ mục tiêu của chiến dịch QT là:
“- Tiêu diệt sinh lực địch,
- Tranh thủ nhân dân,
- Giải phóng một bộ phận đất đai có tính chất quan trọng về chiến lược".
Nhằm mục đích thực hiện các mục tiêu trên của chiến dịch, Trung ương quyết định tập trung binh lực, vật lực, giành cho được toàn thắng. Đây là một chiến trường yếu hơn hết ở Bắc Bộ, thành phần nguỵ binh nhiều, bố trí tương đối phân tán, địa hình có nhiều thuận lợi cho ta.
Trung ương đề nghị những công tác trước mắt là:
- Phổ biến sâu rộng ý nghĩa và mục đích của chiến dịch trong quân đội và nhân dân để xây dựng quyết tâm vượt mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ.
- Triệt để chấp hành mệnh lệnh, khẩn trương tích cực tiêu diệt địch.
- Tăng cường chỉ đạo công tác cung cấp hậu cần cho bộ đội, dân công.
- Thực hiện tốt công tác dân vận và kỷ luật quân đội, mệnh lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng về chính sách dân tộc thiểu số. Phải chú trọng công tác vận động nguỵ binh, nắm vững tình hình địch và áp dụng phương châm tác chiến một cách linh hoạt, kịp thời.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.304-306.
NGÀY 1-10
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho cán bộ, chiến sĩ và dân công tham gia chiến dịch Tây Bắc
Trong quá trình chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian quan tâm tới công tác chuẩn bị chiến dịch.
Chuẩn bị cho mở màn chiến dịch, ngày 1-10-1952, Người gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ: "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng. Các chú phải đánh cho thắng.
Tất cả các chú, cán bộ cũng như chiến sĩ đều phải:
- Quyết tâm chiến đấu, triệt để chấp hành mệnh lệnh.
- Bền bỉ dẻo dai, vượt qua mọi gian khổ, khắc phục mọi khó khăn.
- Thương dân, trọng dân và tốt với dân.
- Tiêu diệt thật nhiều địch, giành cho được toàn thắng".
Cùng ngày, Người gửi thư cho dân công ở mặt trận Tây Bắc, căn dặn:
“- Quyết tâm làm tròn nhiệm vụ phục vụ bộ đội.
- Bền bỉ dẻo dai, vượt qua mọi gian khổ, khắc phục mọi khó khăn.
- Đảm bảo việc cung cấp đầy đủ cho bộ đội.
- Cùng bộ đội giành toàn thắng cho chiến dịch" .
Được sự động viên, cổ vũ của Người, ngày 14-10-1952, chiến dịch Tây Bắc đã mở màn và giành thắng lợi to lớn.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.573-574.
NGÀY 14-10
Ban Bí thư ra Chỉ thị về Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng sau lưng địch
Sau thắng lợi Hoà Bình, phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong vùng sau lưng địch phát triển mạnh, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ. Trước phong trào vùng địch hậu có chiều hướng phát triển mạnh, địch đẩy mạnh thi hành chính sách “bình định và chiêu an" nhằm củng cố hậu phương, xúc tiến nhanh âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt". Một mặt, địch dùng quân sự ra sức càn quét dã man, triệt hạ làng mạc, giết hại nhân dân, đốt phá thóc lúa, bắn giết trâu bò... Mặt khác, chúng ra sức phỉnh phờ, lừa bịp, nêu cao lý tưởng "quốc gia độc lập thống nhất" giả hiệu, "hội đồng quốc gia lâm thời", "cải cách ruộng đất", tăng cường đầu độc nhân dân bằng sách báo phản động, đồi truỵ, lưu manh hoá thanh niên, đề cao nguỵ quân, nguỵ quyền và đề cao viện trợ Mỹ.
Trong khi địch đối phó quyết liệt bằng âm mưu, thủ đoạn thâm độc, nhiều nơi công tác tuyên truyền của Đảng còn bị động chưa nhằm trúng địch. Để khắc phục tình trạng trên, Trung ương Đảng xác định: "công tác ở vùng sau lưng địch là một trong những công tác quan trọng của Đảng, nhiệm vụ chính là phá tan mưu mô thâm độc của địch "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", tranh thủ nhân dân, bồi dưỡng lực lượng ta, làm thất bại chính sách "bình định và chiêu an" của chúng, thiết thực chuẩn bị cho tổng phản công.
Phương châm công tác tuyên truyền của ta trong vùng sau lưng địch là: kết hợp công tác cổ động rộng rãi và giáo dục ăn sâu, tuyên truyền thích hợp với từng nơi, từng lúc, nhằm đúng hai mặt khủng bố và lừa bịp của địch mà đánh thật mạnh để tranh thủ nhân dân ở vùng sau lưng địch. Công tác tuyên truyền phải có tính xác thực, tiến công, thiết thực, linh hoạt và tập trung.
Những công tác cụ thể của hoạt động tuyên truyền bao gồm:
- Thường xuyên và kịp thời vạch tội ác, mưu mô lừa bịp của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bọn Việt gian phản quốc, đề cao tinh thần cảnh giác, chống xu hướng lạc quan tếu, động viên nhân dân tích cực đấu tranh chống địch. Cần nêu cao gương chiến đấu hy sinh anh dũng của ta như: các đồng chí Bùi Thị Cúc, Nguyễn Thị Chiên...
- Kịp thời phổ biến, tuyên truyền thắng lợi của nhân dân ta trên khắp các mặt trận và thành tích xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước Liên Xô, Trung Quốc; thắng lợi của nhân dân Triều Tiên và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
- Dựa vào áp lực và sức mạnh của kháng chiến của nhân dân để đẩy mạnh công tác nguỵ vận, địch vận, động viên tinh thần phản chiến của binh lính Âu - Phi, hàng binh Pháp, làm tan rã hàng ngũ binh lính địch. Động viên cán bộ đảng viên, bộ đội và nhân dân làm tốt công tác hậu cần phục vụ tiền tuyến.
- Trong vùng tạm bị chiếm cần triệt để lợi dụng phương pháp tổ chức hợp pháp và nửa hợp pháp để tiến hành công tác tuyên truyền vận động nhưng căn bản vẫn là không được làm bộc lộ lực lượng ta.
Trung ương Đảng yêu cầu Đảng bộ các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh cần thống nhất về phương châm hành động và giữ vững chế độ báo cáo xin ý kiến của cấp trên.
Để phục vụ tốt công tác tuyên truyền, tháng 10-1952 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 122-SL đặt bộ phận nhà in và phát hành trong Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thành một doanh nghiệp quốc gia lấy tên là Nhà in quốc gia.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.l3, tr. 320-329.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.615.
TỪ NGÀY 14-10 ĐẾN NGÀY 10-12
Chiến dịch Tây Bắc thắng lợi
Thực hiện chủ trương chuyển hướng tiến công chiến lược từ tháng 4-1952, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị xúc tiến công tác chuẩn bị chiến dịch với quyết tâm tiêu diệt địch, giải phóng Tây Bắc.
Ngày 9-9-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị phổ biến kế hoạch chiến dịch Tây Bắc, Người nói: "Trung ương Đảng và Tổng quân uỷ đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến,và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi".
Cùng ngày, Trung ương Đảng quyết định thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, chỉ định đồng chí Võ Nguyên Giáp - Chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm chính trị, đồng chí Nguyễn Thanh Bình - Chủ nhiệm cung cấp.
Mục đích của chiến dịch Tây Bắc nhằm: tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đồng bào Tây Bắc khỏi ách áp bức của giặc, giải phóng một bộ phận đất đai của Tây Bắc. Phối hợp với chiến trường chính Tây Bắc, quân ta còn mở các mặt trận ở đồng bằng và các tỉnh vùng sau lưng địch.
Ở hướng chính, Bộ Tổng tư lệnh sử dụng các Đại đoàn bộ binh 308, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351, Trung đoàn bộ binh 148 và lực lượng vũ trang địa phương đánh địch ở Tây Bắc. Hai Đại đoàn bộ binh 320, 304 hoạt động nghi binh và phối hợp ở vùng sau lưng địch. Các tỉnh từ Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra huy động 35.000 dân công cùng các đơn vị công binh sửa đường và vận tải tiếp tế.
Ngày 14-10-1952, chiến dịch mở màn và cuối tháng 11-1952 chiến dịch kết thúc. Tại mặt trận Tây Bắc, quân ta tiêu diệt 6.029 tên, tiêu diệt và chiếm lại 85 vị trí địch, thu 3.785 khẩu súng, 90 vô tuyến điện, 1.450 dù, bắn rơi 6 máy bay, giải phóng 28.500 km2 gồm 25 vạn dân, trong đó có thị xã Sơn La được giải phóng ngày 22-11-1952. Tại mặt trận Phú Thọ, quân ta tiêu diệt: 1.884 tên, phá hủy 43 xe cơ giới, thu 133 súng các loại, một xe tăng 18 tấn, 16 xe vận tải, quét sạch quân địch khỏi Phú Thọ ngày 25-11-1952.
Ở mặt trận sau lưng địch, quân ta tiêu diệt và bắt sống 5.877 tên, thu 2.037 súng các loại.
Thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị, kinh tế. Với chiến thắng Tây Bắc, tương quan lực lượng trên chiến trường thay đổi có lợi cho ta.
Ngày 29-1-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ biểu dương cán bộ, chiến sĩ, dân công tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu góp phần tạo nên thắng lợi to lớn của chiến dịch Tây Bắc.
Sau chiến dịch này, quân và dân ta kịp thời rút kinh nghiệm và bắt tay vào xây dựng củng cố vùng giải phóng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.558.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, t.II, tr.230-234.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999, tr.129.
NGÀY 18-1
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc bảo vệ thiếu nhi
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, xuất hiện nhiều gương thiếu nhi dũng cảm tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu góp sức nhỏ bé của mình vào sự nghiệp kháng chiến của dân tộc.
Tuy nhiên, thực dân Pháp và bọn tay sai đã tăng cường chiếm đóng, bình định và đàn áp nhân dân trong vùng tạm chiếm. Trong các cuộc đánh phá tàn sát đồng bào ta, chúng đã bắn giết chủ yếu người già, phụ nữ, trẻ em, gây nhiều tội ác cực kỳ dã man nhằm hủy diệt giống nòi Việt Nam.
Công tác bảo vệ thiếu nhi ở các địa phương chưa có nền nếp. Để làm tốt nhiệm vụ chăm lo giáo dục, bảo vệ thiếu nhi, động viên các em hăng hái tham gia đánh giặc cứu nước, cuối tháng 7-1952, Hội nghị Bảo vệ thiếu nhi toàn quốc được khai mạc. Trung ương Đảng chỉ đạo các cấp uỷ Đảng địa phương cần xác định rõ: công tác bảo vệ thiếu nhi không tách rời những công tác hàng ngày, là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng, Chính phủ và nhân dân trong cuộc kháng chiến và kiến quốc. Do đó, các cấp Đảng bộ cần chỉ đạo việc tuyên truyền sâu rộng ý thức bảo vệ thiếu nhi, phối hợp chặt chẽ giữa các đoàn thể, các ngành của Chính phủ và toàn thể nhân dân thực hiện chăm lo, bảo vệ đời sống, sức khoẻ và giáo dục thiếu nhi thành những người chủ tương lai của đất nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.334-336.
NGÀY 12-11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc Địch đánh lên Phú Thọ và nhiệm vụ của ta
Bị thua đau ở Nghĩa Lộ, Sơn La, Lai Châu và nhiều nơi khác bị uy hiếp dữ dội, ngày 29-10-1952, địch tập trung đại bộ phận lực lượng cơ động ở Bắc Bộ từ trung du và Việt Trì theo đường sông và đường bộ đánh lên Phú Thọ. Đây là một cuộc phản công của địch có tính chất bị động để đối phó với ta.
Trung ương Đảng ta nhận định: đánh lên Phú Thọ, địch cốt nhằm cắt đứt đường tiếp tế vận chuyển lương thực, vũ khí của ta hòng phá kế hoạch của ta ở mặt trận chính và che giấu những thất bại của chúng ở Tả ngạn sông Đà. Đồng thời, chúng tăng cường phá mùa màng, lùng sục những kho tàng, công xưởng của ta, tiến hành bắt lính và ngăn chặn các tuyến giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với các liên khu III, IV.
Cuộc phản công của địch có gây cho ta ít nhiều khó khăn nhưng không ảnh hưởng lớn tới mặt trận chính của ta ở Tây Bắc vì ta chủ động đối phó. Lợi dụng khi dồn lên Phú Thọ, nhất định địch buộc phải sơ hở sau lưng. Do đó, đây là một dịp khá thuận lợi cho quân và dân ta ở vùng sau lưng địch phát triển chiến tranh du kích.
Căn cứ vào những nhận định trên, Trung ương Đảng đã xác định nhiệm vụ của ta là phải tích cực phá tan kế hoạch của địch đánh lên Phú Thọ, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch, phối hợp tác chiến đắc lực với mặt trận chính.
Nhiệm vụ cụ thể là:
- Ở Phú Thọ, phải thống nhất chỉ huy lực lượng bộ đội chủ lực, địa phương, dân quân, du kích: ra sức bám sát địch, phá hoại, đánh phục kích các đường giao thông thủy, bộ; tập kích các vị trí pháo binh và đánh cạnh sườn địch để kiềm chế tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch. Đồng thời ra sức bảo vệ, giúp đỡ nhân dân gặt hái, cất giấu thóc lúa và phân tán nhanh các kho tàng, công binh xưởng, giữ gìn lực lượng của ta.
- Ở Tuyên Quang và Yên Bái là nơi địch có thể đánh tới cần phải tích cực chuẩn bị đánh địch động viên và giúp đỡ nhân dân gặt nhanh cất kỹ; các kho tàng, cơ xưởng gần các đường sông và đường bộ mà địch có thể tiến quân cần phải phân tán vào sâu trong nội địa và bảo đảm an toàn.
- Ở các vùng sau lưng địch, cần tận dụng cơ hội tốt, lợi dụng những sơ hở của địch để đẩy mạnh chiến tranh du kích, phục hồi các cơ sở bị càn quét trong thời gian qua, mở rộng các khu du kích và căn cứ du kích. Phải chú trọng tiêu diệt cho được "đội quân thứ hành chính lưu động vì đó là lợi khí trong thực hiện âm mưu "bình định chiêu an" của địch.
Cần nắm vững phương châm: đánh nhỏ, ăn chắc, liên tục chiến đấu trong thời gian dài; kết hợp tác chiến với địch vận, ngụy vận, phá hoại, bảo vệ mùa màng, thu thuế nông nghiệp và tranh thủ quần chúng.
Việc Đảng ta xác định sớm âm mưu của địch và có kế hoạch chủ động đối phó mọi mặt đã tạo điều kiện thuận lợi để quân và dân ta phá tan kế hoạch đánh lên Phú Thọ của địch, góp phần quan trọng vào thắng lợi ở mặt trận Yên Bái.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.340-343
THÁNG 11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về tích cực thực hiện thống nhất lãnh đạo ở các vùng sau lưng địch
Thống nhất lãnh đạo là một trong những nguyên tắc căn bản của Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức để chỉ đạo toàn diện hoạt động kháng chiến, đặc biệt đối với các vùng sau lưng địch, nơi mà địch đang tập trung kết hợp các lực lượng quân sự, chính trị, kinh tế để thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Đảng ta nêu rõ mục đích của thống nhất lãnh đạo là để:
- Tránh tình trạng lủng củng về sự thực hiện các chủ trương công tác của Đảng tại các cấp, các ngành.
- Tập trung mọi lực lượng quân, dân, chính, đảng chĩa mũi nhọn vào địch; đồng thời buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó với ta.
- Đảm bảo bí mật và giải quyết mau chóng các công tác cần kíp.
- Bộ máy tổ chức phải nhẹ nhàng, đơn giản thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh du kích.
Nhằm thực hiện các mục đích nêu trên, Trung ương Đảng quy định những vấn đề lớn cần giải quyết để thực hiện thống nhất về lãnh đạo của Đảng như sau:
- Quan hệ về lãnh đạo giữa cấp uỷ trên và cấp uỷ dưới, giữa cấp uỷ và các ngành, giữa ngành dọc cấp trên và ngành dọc cấp dưới phải đảm bảo thống nhất chặt chẽ, thông suốt về đường lối. Liên khu uỷ, tỉnh uỷ là cơ quan có trách nhiệm chính bảo đảm sự thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo tới cấp dưới.
- Muốn cho chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất tổ chức bộ máy phải hợp lý gọn, nhẹ, bí mật, đi sát thực tế các địa phương. Chấm dứt tình trạng "tản cư" của cơ quan và cán bộ. Các đồng chí bí thư các cấp uỷ cần trực tiếp phụ trách quân sự để có sự phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động quân sự với các hoạt động khác.
- Phải tăng cường thống nhất lãnh đạo ở thôn (làng cũ). Coi trọng xây dựng chi bộ thôn làm nòng cốt để chỉ đạo và kiểm tra các mặt hoạt động.
- Việc thống nhất lãnh đạo tại các vùng tạm chiếm cần phải thực hiện ở các vùng sau lưng địch, nhằm giải quyết những vấn đề cần thiết để tổ chức thống nhất lãnh đạo ở vùng du kích và căn cứ du kích.
Trung ương Đảng cũng quy định cụ thể:
Cấp uỷ Đảng ở địa phương nào là cơ quan lãnh đạo cao nhất của địa phương đó và phải liên đới chịu trách nhiệm với cấp uỷ cấp trên và với Trung ương.
Về thống nhất lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với các cấp uỷ trong đơn vị bộ đội chủ lực ở địa phương như sau:
- Đại đoàn về một khu thì đặt dưới sự thống nhất lãnh đạo của khu uỷ.
- Trung đoàn về một tỉnh thì đặt dưới sự thống nhất lãnh đạo của tỉnh uỷ.
- Tiểu đoàn, đại đội về một huyện thì đặt dưới sự thống nhất lãnh đạo của huyện uỷ.
Các đơn vị sẽ bầu ra Ban chỉ huy tại các cấp đó.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.361-371
NGÀY 23-11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về công tác của ngành công an
Trong những năm đầu kháng chiến, nhiệm vụ tổ chức công an đã được quy định trong Chỉ thị số 5-CT/TW. Do yêu cầu ngày càng lớn về bảo vệ Đảng, chính quyền, quân đội bảo vệ nhân dân, Trung ương Đảng quyết định bổ sung nhiệm vụ, sửa đổi tổ chức của công an và tăng cường công tác công an như sau:
Nhiệm vụ của ngành công an trong giai đoạn mới là:
a) Đẩy mạnh hoạt động đấu tranh chống gián điệp, phản động:
- Điều tra, khám phá tổ chức và hoạt động của bọn gián điệp, bọn phá hoại trong nước và quốc tế.
- Điều tra, nghiên cứu tổ chức và hoạt động của những tổ chức chính trị phản động trong nước.
- Bảo vệ biên giới chống gián điệp quốc tế, đặc vụ, thổ phỉ.
- Bảo vệ các cơ quan của Đảng, của chính quyền, của quân đội, công an, chống xâm nhập của gián điệp.
- Bảo vệ kinh tế, bảo vệ các cơ sở kinh tế quốc dân như hầm mỏ, xí nghiệp, đường xá cầu cống, giao thông vận tải,…
b) Giữ gìn trật tự, an ninh:
- Tích cực tham gia lãnh đạo, chỉ đạo công tác điều tra, khám phá các ổ trộm cướp mại dâm rượu lậu, theo dõi những hành động có hại đến trị an của xã hội.
- Giữ trật tự, an ninh, vệ sinh cho nhân dân ở các nơi đông đúc, kiểm soát sự thi hành các luật lệ đi đường các thể lệ hành chính bổ sung.
Căn cứ vào tình hình mới, Nghị quyết bổ sung thêm:
- Việc bảo vệ võ trang trong các cơ quan đầu não từ Trung ương tới liên khu uỷ, tỉnh uỷ.
- Phụ trách việc quản trị nhà giam, giáo dục cải tạo phạm nhân.
c) Về tổ chức ngành công an:
- Ở các cấp bộ Đảng: đồng chí phụ trách công an phải trực tiếp là cấp uỷ viên. Công tác công an sẽ do cấp uỷ mỗi cấp trực tiếp chỉ đạo; ở Trung ương là Bộ Chính trị.
- Đối với chính quyền, Nha Công an sẽ tách khỏi Bộ Nội vụ thành một bộ trong Chính phủ.
Các cấp uỷ phải tăng cường công tác lãnh đạo công an, phải chú ý sử dụng công an cho đúng với chức năng nhiệm vụ, phải hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra công tác và bồi dưỡng cán bộ cho ngành công an đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II3/3/23.4.
NGÀY 25- 11
Ban Bí thư ra Thông tri Về việc điều tra nông thôn
Để tăng cường sức mạnh mọi mặt cho cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng quyết định thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Trước hết, Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc điều tra tình hình hoạt động nông dân, nông thôn để chuẩn bị mở đợt phát động phong trào quần chúng rộng rãi vào đầu năm 1953.
Mục đích của cuộc điều tra là chuẩn bị đợt phát động quần chúng rộng rãi trong nông thôn, thi hành triệt để chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến nhằm đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực phong kiến, đồng thời giành ưu thế chính trị của nông dân và của Đảng, đoàn kết nhân dân, đẩy mạnh sản xuất và kháng chiến.
Yêu cầu của công tác điều tra nhằm làm rõ: quan hệ bóc lột ở nông thôn, tình hình thi hành chính sách ruộng đất và vấn đề giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian, chia công điền, công thổ, hoạt động của các phần tử Việt gian phản động ở nông thôn.
Việc điều tra lần này phải làm gấp xong trước tháng 5-1953 và phải do các khu uỷ, tỉnh uỷ trực tiếp phụ trách. Những nơi có thể chọn làm điển hình (Thái Nguyên, Phú Thọ, Lạng Sơn, Thái Bình, Ninh Bình, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An) cần có những số liệu chính xác đầu tiên vào tháng 1-1953.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.347-350.
THÁNG 11
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về vấn đề đấu tranh mậu dịch với địch
Đấu tranh mậu dịch với địch là một hoạt động quan trọng trong đấu tranh nhằm phá chính sách bao vây kinh tế của địch; góp phần giữ giá đồng bạc Việt Nam; khai thác lưu thông hàng hoá phục vụ hoạt động thu chi ngân sách cho kháng chiến; tích cực khơi luồng bán lâm thổ sản vào vùng địch; chống hàng lậu của vùng địch bán sang vùng ta.
Để đẩy mạnh thực hiện đấu tranh mậu dịch với địch có hiệu quả, Trung ương Đảng xác định, trong thời gian tới công tác đấu tranh mậu dịch của ta cần tập trung vào hai nhiệm vụ lớn:
- Chống phong tỏa của địch đối với hàng của ta, đồng thời tích cực khơi luồng bán hàng của ta vào vùng địch tạm chiếm. Muốn làm tốt nhiệm vụ trên chúng ta cần có thái độ đúng với thương nhân, tranh thủ, hướng dẫn, giáo dục, tổ chức họ, giúp đỡ để họ yên tâm mang hàng lâm thổ sản của ta bán vào vùng địch. Đồng thời tranh thủ giáo dục, tổ chức nhân dân ở vùng xuất nhập khẩu, nhất là nhân dân ở vùng địch, đồng tình giúp đỡ ta khơi luồng và mua lâm thổ sản qua hàng rào phong tỏa của địch.
- Công tác chống buôn lậu, bảo vệ sản xuất của ta đang trở thành nhiệm vụ cấp bách. Chính phủ sẽ điều chỉnh lại thuế nhập khẩu nhằm mục đích bảo vệ sản xuất ở vùng ta, nhất là đối với loại hàng ta khuyến khích, cần kiểm soát chặt chẽ hàng lậu, giáo dục nhân dân không dùng hàng ngoại, chỉ dùng hàng nội trên tinh thần tự lực cánh sinh, bảo vệ hàng nội hoá.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.357-360.
NGÀY 22-12
Ban Bí thư Trung ương Đảng Chỉ thị các cấp Đảng bộ địa phương tham gia xây dựng quân đội nhân dân
Lãnh đạo quân sự là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của Đảng trong toàn bộ công tác lãnh đạo kháng chiến. Tuy nhiên, nhiều cấp Đảng bộ địa phương còn ít chú ý tham gia xây dựng quân đội. Có địa phương còn phó mặc cho cán bộ quân sự về công tác tuyển quân, công tác thương, bệnh binh.
Trên đà phát triển của cuộc kháng chiến, việc xây dựng quân đội lớn mạnh thực sự của nhân dân do Đảng ta lãnh đạo càng trở nên cần thiết để đảm bảo cuộc kháng chiến mau chóng thắng lợi. Đảng ta xác định rõ cho các cấp Đảng bộ địa phương có nhiệm vụ phải tích cực tham gia xây dựng lực lượng vũ trang trên tất cả các lĩnh vực sau:
- Đảm bảo việc tuyển lựa tân binh phải có kết quả. Trên cơ sở vận động, giáo dục, giác ngộ thanh niên: nghĩa vụ đối với Tổ quốc là của nhân dân để toàn dân có trách nhiệm xây dựng quân đội.
- Có chính sách và sự quan tâm đúng đối với thương bệnh binh về làng để họ tiếp tục đóng góp vào công cuộc kháng chiến ở địa phương.
- Tăng cường giáo dục, giúp đỡ động viên những thanh niên kém giác ngộ để họ trở lại mặt trận chiến đấu.
- Có chính sách đúng đối với các gia đình quân nhân, tử sĩ đặc biệt là những quyền lợi về chính sách ruộng đất để thanh niên yên tâm lên đường nhập ngũ.
Thực hiện đúng những nhiệm vụ nêu trên là góp phần tích cực vào việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng lãnh đạo.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.13, tr.377-383.
CUỐI NĂM
Chủ trương của Đảng về tích cực bồi dưỡng công nhân, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập Anh hừng Ngô Gia Khảm
Nhằm thiết thực bồi dưỡng công nhân trong quá trình sản xuất ở các xí nghiệp, từ năm 1950, nhiều cơ quan, xí nghiệp đã tiến hành thưởng năng suất, coi trọng sáng kiến cải tiến kỹ thuật, từng bước cải thiện đời sống cho công nhân. Tuy nhiên, những chính sách của Đảng, Chính phủ chưa được quán triệt sâu rộng trong các xí nghiệp, nhà máy. Từ đầu năm 1952, Đảng, Chính phủ chủ trương gắn phong trào thi đua học tập Anh hùng Ngô Gia Khảm với việc thiết thực bồi dưỡng công nhân thông qua những biện pháp sau:
- Thi hành đúng Điều lệ của Chính phủ về cấp phát tiền, gạo, muối, vải cho công nhân. Công đoàn đứng ra vận chuyển và phân phối cho công nhân.
- Tiếp tục thực hiện áp dụng thưởng năng suất để bồi dưỡng công nhân và kích thích thi đua sản xuất.
- Thanh toán xong lương và cấp phí còn thiếu của công nhân. Cấp phát lúc nào thì tính giá gạo theo giá thị trường lúc đó.
- Nghiên cứu một chế độ hợp lý, công bằng, thống nhất trong tất cả các xí nghiệp quốc doanh. Thực hiện thu thập ý kiến đóng góp dân chủ của công nhân vừa có lợi cho người công nhân, vừa có lợi cho kháng chiến.
- Trong các xí nghiệp tư nhân: tiến hành chính sách sản xuất tư bản đều có lợi, cải tiến tổ chức đời sống tập thể cho người lao động.
- Phát động phong trào đẩy mạnh sản xuất, tự cải thiện đời sống sinh hoạt, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, không trông chờ ỷ lại vào Chính phủ
Thực hiện tốt các biện pháp trên là thiết thực đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất của ngành công nghiệp phục vụ kháng chiến mà tấm gương học tập là Anh hùng Ngô Gia Khảm.
Trong dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 126-SL và Sắc lệnh số 128-SL về cho phép ban hành Điều lệ về doanh nghiệp quốc gia và việc thành lập các Uỷ ban quản lý xí nghiệp quốc gia nhằm đầy mạnh phong trào lao động sản xuất trong các xí nghiệp của Nhà nước.
- Báo Nhân dân, ngày 4-12-1952.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.615.
Năm 1953 NGÀY 6-1
Ban Bí thư ra Thông cáo về thắng lợi của ta ở Tây Bắc
Thu Đông năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai Tây Bắc và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Sau hai tháng chiến đấu, ta đã chiến thắng địch ở Tây Bắc. Nhằm khuếch trương thắng lợi này và kịp thời đề ra những nhiệm vụ cần thiết cho các địa phương, Ban Bí thư ra Thông cáo "Về việc chúng ta thắng lớn ở Tây Bắc".
Thông cáo nêu lên những thắng lợi to lớn của ta ở Tây Bắc: địch bị tiêu diệt 13.800 tên ở cả hai mặt trận Tây Bắc và đồng bằng, nhiều tiểu đoàn, đại đội thuộc các binh đoàn cơ động của địch bị diệt gọn; hầu hết quân ngụy người địa phương, chỗ dựa của địch để chiếm đóng Tây Bắc, bị tan rã; tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), năm huyện phía nam Lai Châu và vùng tạm chiếm của tỉnh Yên Bái rộng 28.500 km2 với 25 vạn dân được giải phóng; căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố thêm vững chắc.
Thắng lợi của ta ở Tây Bắc đã phá được phần lớn “Xứ Thái tự trị" của giặc và ảnh hưởng chung đến chiến trường toàn quốc, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển mạnh ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Đồng thời, thắng lợi Tây Bắc cũng ảnh hưởng sâu rộng tới phong trào kháng chiến của Lào, nhất là ở Thượng Lào.
Thông cáo chỉ rõ nguyên nhân thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, quân và dân ta đã giữ được bí mật và đánh bất ngờ làm cho địch lúng túng đối phó. Hơn nữa, sau chỉnh huấn chính trị, bộ đội ta tích cực chịu đựng gian khổ, quyết tiêu diệt địch. Thắng lợi còn do thực hiện đúng chính sách dân tộc thiểu số của Đảng và 8 điều mệnh lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cơ sở cho công tác chính trị của ta huy động nhân dân địa phương ủng hộ kháng chiến. Do vậy, ta đã phát huy được tối đa sự giúp đỡ của nhân dân các tỉnh phục vụ chiến dịch với 5 triệu ngày công và vận chuyển hơn 6.000 tấn gạo chuyển ra tiền tuyến. Thông cáo còn nêu lên nhiệm vụ của quân và dân ta sau chiến dịch: ta đã thắng lợi lớn, nhưng địch chưa hoàn toàn bị tiêu diệt ở Tây Bắc, chúng còn âm mưu giành lại thắng lợi của ta. Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta sau chiến dịch là khẩn trương bổ sung và củng cố các đơn vị bộ đội vừa tham chiếu ở Tây Bắc, mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến dịch để giáo dục bộ đội sửa chữa khuyết điểm. Vùng mới giải phóng phải có kế hoạch cụ thể để giữ vững và phát triển phong trào, tranh thủ và bồi dưỡng lực lượng nhân dân. Vùng trung du và đồng bằng phải ra sức khuếch trương thắng lợi, đẩy mạnh tuyên truyền thắng lợi trong toàn quốc. Các cấp uỷ địa phương cần kiểm điểm việc huy động dân công và động viên vật lực phục vụ tiền tuyến để rút bài học kinh nghiệm cho công tác về sau.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.1-6.
THÁNG 1
Ban Cán sự Trung Lào ra Nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1953
Nhằm đẩy mạnh công tác ở Trung Lào, tăng cường quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng, hai dân tộc, hoàn thành thắng lợi các mặt công tác trong năm 1953, tháng 1-1953, Ban Cán sự Trung Lào ra Nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1953.
Ban Cán sự kiểm điểm về tình hình công tác năm 1952: đã thực hiện được kế hoạch tuyên truyền góp phần thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào; đã củng cố, xây dựng được mặt trận... Tuy vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo còn mắc nhiều khuyết điểm: coi nhẹ công tác giáo dục cán bộ; coi nhẹ việc xây dựng cơ sở dân quân du kích; việc tranh thủ nhân dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến không được đề ra đúng tầm quan trọng; đối với địch còn chủ quan, khinh địch hoặc là đánh giá quá cao sức mạnh của chúng.
Để khắc phục tình trạng đó, căn cứ vào tình hình địch, tình hình phong trào, tư tưởng và tổ chức của ta, Ban Cán sự Trung Lào đã đề ra hai nhiệm vụ trong năm 1953.
Tiến hành chỉnh Đảng, chỉnh quân có kết quả.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và củng cố cơ sở.
Trên cơ sở hai nhiệm vụ do, Ban đề ra công tác cụ thể là:
- Tăng cường công tác đào tạo cán bộ nhằm bồi dưỡng về nhận thức chính trị và đạo đức cách mạng. Phương pháp tiến hành bằng cách tích cực mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn.
- Xây dựng mặt trận và chính quyền vững mạnh để lãnh đạo nhân dân dấu tranh chống địch.
- Tăng gia sản xuất để bồi dưỡng lực lượng nhân dân đấu tranh chống địch áp bức, bóc lột để bảo vệ lợi ích nhân dân.
- Xây dựng lực lượng võ trang, bán võ trang, phát triển chiến tranh du kích.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
- Tiến hành chỉnh đốn Đảng và chỉnh quân. Nội dung chỉnh Đảng phải theo đúng mục đích, yêu cầu trong kế hoạch chỉnh Đảng và Trung ương về: nâng cao lập trường tư tưởng làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ đặc điểm, tính chất trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh của cách mạng hai nước Lào - Việt; khắc phục các tư tưởng cầu an, ngại gian khổ, hy sinh...
- Lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 300, phông số 49.
NGÀY 9-1
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về việc động viên nhân lực, vật lực phục vụ mặt trận
Để giành những thắng lợi to lớn hơn nữa cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta trong giai đoạn phản công và tấn công, ngày 9-1-1953, Ban Bí thư ra Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ để động viên nhân lực vật lực phục vụ mặt trận.
Căn cứ vào kinh nghiệm trước đây, Trung ương nhắc nhở các liên khu và các tỉnh đặc biệt chú ý đánh thông tư tưởng cán bộ của ngành, các cấp về sự quan trọng và cấp bách của công tác phục vụ này để đảm bảo thắng lợi mới của cuộc kháng chiến. Đồng thời, các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải giải thích và thực hiện đầy đủ khẩu hiệu tất cả để chiến thắng, tất cả cho tiền tuyến".
Chỉ thị nêu rõ yêu cầu của việc cung cấp mặt trận gồm mấy điểm sau:
Về dân công: việc cung cấp số dân công cần thiết trong thời gian sắp tới là việc trọng yếu bậc nhất. Đó cũng là một việc gay go, vì mới đây một số lớn đồng bào đi dân công vừa về địa phương có người tinh thần phấn khởi, nhưng còn một số tinh thần chán nản. Cho nên cán bộ các cấp liên khu và tỉnh cần phải giải thích sâu rộng trong nhân dân để họ tự giác ra sức phục vụ kháng chiến, đồng thời phải giúp đỡ gia đình có người ra tiền tuyến về mặt sản xuất. Chỉ thị lưu ý rằng các đảng viên phải đặc biệt gương mẫu trong công tác dân công.
Về gạo, phải phụ trách việc xay giã và đưa đủ số gạo cần thiết trong thời gian đã định.
Về sửa đường, công tác này nặng và gấp hơn trước nên sửa đường là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của các liên khu và tỉnh.
Về các phương tiện vận tải, các tỉnh phải chuẩn bị động viên theo thể lệ đã quy định.
Vì các công tác cấp bách đó, Trung ương quyết định đối với toàn liên khu hoặc một số tỉnh thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận, phụ trách toàn bộ công tác cung cấp mặt trận về nhân lực, vật lực Hội đồng cung cấp Mặt trận sẽ làm việc dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ thị của Ban Bí thư đã kịp thời vận động các cấp, các ngành huy động được nhân lực, vật lực phục vụ cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.7-9.
NGÀY 15-1
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về việc phá cuộc "tuyển cử” của bù nhìn
Theo lệnh của đế quốc Pháp - Mỹ, chính quyền Bảo Đại, Nguyễn Văn Tâm vừa quyết định tổ chức những cuộc “tuyển cử" để lập ra các "Hội đồng hàng xã và thị xã" rồi tiến tới lập "Hội đồng hàng tỉnh" và "tuyển cử quốc hội bù nhìn". Ngày 25-1-1953, chúng định mở "tuyển cử" ở các xã và các thành phố trong vùng tạm bị chiếm khắp Bắc - Trung - Nam.
Trung ương nhận định rằng, đây là một thủ đoạn lừa gạt phỉnh phờ nhân dân của bè lũ bù nhìn để che đậy chính sách phát xít của chúng là đàn áp khủng bố dã man, cướp bóc, vơ vét nhân lực, vật lực của nhân dân hòng thực hiện mưu mô "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", "dùng người Việt đánh người Việt".
Vì vậy, để phá âm mưu của địch, Ban Bí thư chỉ thị các cấp bộ đảng trong vùng sau lưng địch cần làm những việc sau:
Các cấp phải giải thích cho quần chúng hiểu rõ mưu mô lừa phỉnh của địch, vận động quần chúng tẩy chay mọi cuộc "tuyển cử" của chúng, đồng thời đề cao chính quyền dân chủ nhân dân của ta.
Mỗi xã, mỗi khu phố cần có kế hoạch tuyên truyền cụ thể, nội dung tuyên truyền cần nhấn mạnh: địch dùng “tuyển cử” để điều tra biết rõ người trong xã, trong phố, sau này bắt lính cho dễ.
Chỉ thị nêu rõ phương châm và hình thức đấu tranh cho các cấp.
Phương châm chung: Trong vùng du kích thì dùng mọi cách phá cuộc "tuyển cử" của địch.
Vùng tạm bị chiếm, tuỳ theo điều kiện cơ sở mạnh, yếu khác nhau mà vận động quần chúng tẩy chay, phá rối, làm khó khăn cho cuộc "tuyển cử".
Trong những thành phố và thôn quê tạm bị chiếm mà cơ sở ta yếu thì vừa vận động quần chúng tẩy chay, vừa có thể cho một vài người của ta không bị lộ mặt ra tranh cử để lợi dụng hoạt động "hợp pháp" làm lợi cho kháng chiến và phá rối địch trong các cuộc họp của hội đồng và quốc hội bù nhìn.
Về hình thức đấu tranh: tuỳ từng nơi để dùng hình thức mềm dẻo, linh động để tẩy chay, phá "tuyển cử" nhưng nguyên tắc phải bảo toàn cơ sở, không bộc lộ lực lượng.
Vùng du kích thì vận động quần chúng không đi bầu, rải truyền đơn, kẻ khẩu hiệu, du kích hoạt động quấy rối làm cho địch không dám về tổ chức "tuyển cử"...
Sau khi cuộc tuyển cử kết thúc, công tác tuyên truyền của ta cần tiếp tục vạch rõ âm mưu gian dối của địch và vạch đi ác xấu xa của những tên tay sai trong các Hội đồng để làm mất ảnh hưởng của những tên ấy trong nhân dân.
Đối với những người của ta đưa ra hoặc những người khác có cảm tình với kháng chiến được trúng cử, ta phải tuỳ hoàn cảnh của địa phương, tuỳ năng lực và tinh thần của họ mà giao công tác cho họ để giúp kháng chiến. Ta cần có liên lạc bí mật, thường xuyên với họ, giáo dục họ giữ vững lập trường, đừng để họ bị bọn địch lôi kéo, Nhận được Chỉ thị này, các khu uỷ và tỉnh uỷ phổ biến ngay xuống chi bộ để thi hành.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.10-13.
TỪ NGÀY 25 ĐẾN NGÀY 30-1
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) quyết định thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất trong kháng chiến
Đáp ứng nguyện vọng của đông đảo quần chúng nông dân về ruộng đất và góp phần đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi, Hội nghị lần thứ tư của Trung ương đã họp từ ngày 25 đến ngày 30-1-1953.
Hội nghị bổ sung và thông qua báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của đồng chí Trường Chinh về tình hình và nhiệm vụ công tác năm 1953. Hội nghị cũng thông qua bản Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về chính sách ruộng đất.
Đối với chính sách của đảng về vấn đề ruộng đất từ kháng chiến đến đầu năm 1953, Hội nghị nhận thấy rằng: chúng ta chưa nắm vững nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ là phản đế và phản phong kiến, chưa thấy rõ lực lượng căn bản của cách mạng là nông dân. Cho nên, chính sách ruộng đất của Đảng chưa thật đúng để tuỳ hoàn cảnh mà thực hiện nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ. Chúng ta cũng chưa nắm vững tính chất cuộc kháng chiến là trường kỳ và gian khổ, nên chúng ta chưa kiên quyết dựa vào lực lượng cách mạng của quần chúng nông dân chưa triệt để phát huy lực lượng to lớn ấy để kháng chiến. Điều đó đã ảnh hưởng đến công tác xây dựng Đảng, quân đội, mặt trận, chính quyền về mặt tư tưởng và tổ chức.
Căn cứ vào nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, vào yêu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định:
Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và bọn đế quốc xâm lược khác, xoá bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân.
Để tiến tới thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, trong năm 1953, chúng ta phải phóng tay phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia lại công điền, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân, chủ yếu là triệt để giảm tô, thoả mãn bước đầu yêu cầu chính đáng về kinh tế của nông dân, chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn Nông hội, chính quyền và Mặt trận. Về mặt tư tưởng và tổ chức, đập tan uy thế chính trị của địa chủ phong kiến, giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn.
Trung ương Đảng nhấn mạnh công tác phát động quần chúng năm 1953 là một bước cần thiết để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất. Để tiến hành công tác đó chúng ta phải đặc biệt chú trọng đánh thông tư tưởng cho cán bộ và đảng viên trong Đảng tuyên truyền giải thích sâu rộng cho quần chúng.
Nghị quyết Hội nghị cũng chỉ rõ, mặc dù bị thất bại nặng, địch ngày càng tăng cường lực lượng và công sự để chiếm giữ các đô thị lớn các vùng chiến lược quan trọng.
Vì vậy phương châm chiến lược của ta là tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán và tiêu diệt lực lượng địch, mở rộng vùng tự do.
Để thực hiện nhiệm vụ quân sự ấy, chúng ta phải tăng cường quân đội về mọi mặt. Chúng ta phải đảm bảo cung cấp cho bộ đội và thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận. Về tác chiến và chỉnh quân, phương châm tác chiến là: vận động chiến là chính, công kiên chiến là phụ. Trên các chiến trường Trung và Nam thì du kích chiến là chính.
Hội nghị cho rằng, vì những nhiệm vụ quan trọng trên, trong năm 1953, chúng ta phải làm năm công tác chính sau:
1. Phát động quần chúng, tất cả các công tác khác đều phải kết hợp và phục vụ công tác ấy.
2. Tăng cường sự chỉ đạo chiến tranh của Đảng, đẩy mạnh công tác chỉnh quân và tác chiến để tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
3. Về kinh tế tài chính, phải tổ chức và lãnh đạo cuộc vận động sản xuất kết hợp với phát động quần chúng. Phải tăng cường công tác mậu dịch, ngân hàng, đấu tranh kinh tế với địch, chống quan liêu, tham ô, lãng phí.
4. Về công tác sau lưng địch, tiếp tục tăng cường về mọi mặt phát triển chiến tranh du kích, chống và phá càn quét để củng cố và mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích, phá âm mưu địch xây dựng ngụy quân, ngụy quyền, chống địch phá hoại.
5. Về chỉnh Đảng, kết hợp với công tác phát động quần chúng để chỉnh đốn chi bộ xã, tiếp tục chỉnh huấn cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh, phải chấn chỉnh tổ chức, tư tưởng, tác phong của Đảng để thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ và công tác quan trọng trên.
Hội nghị lần thứ tư (khoá II) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong việc kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ cách mạng phản đế và phản phong.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.14-135.
NGÀY 31-1
Liên khu uỷ V ra Chỉ thị về việc thi hành chính sách ruộng đất ở vùng địch hậu và vùng giáp ranh Quảng Nam
Ngày 8-1-1953, Liên khu uỷ V đã có Chỉ thị về công tác giảm tô và chia công điền, công thổ nói chung. Đến ngày 31-l-1953, Liên khu uỷ tiếp tục ra Chỉ thị nói rõ thêm về việc thi hành chính sách ruộng đất ở vùng địch hậu và vùng giáp ranh Quảng Nam.
Về vấn đề giảm tô, ở vùng du kích, căn cứ du kích, vùng tạm bị chiếm, mọi việc lúc này đều phải nhằm lợi ích trước mắt là đoàn kết kháng chiến. Ở những vùng này, nếu nông dân trước đây đã đòi giảm tô, giảm tức được rồi, nay địa chủ dựa vào thế lực của giặc Pháp bắt nông dân nộp tô cao như cũ, hoặc đòi lại số tô tức đã giảm, tuỳ điều kiện cụ thể mà lãnh đạo nông dân đấu tranh bằng nhiều hình thức thích hợp để bảo vệ những quyền lợi đã giành được, đồng thời bảo toàn và phát triển cơ sở.
Đối với vùng du kích như Điện Bàn, có nhiều nơi đã giảm đúng mức, nên vận động giữ mức ấy lại.
Đối với vùng tạm bị chiếm trước khi đã giảm tô như Điện Phong (Điện Bàn), Đại Hoà (Đại Lộc), nhiều điền chủ giảm ít lãi, hoặc không giảm thì tuỳ hoàn cảnh mà lãnh đạo đấu tranh.
Vùng giáp ranh như Đại Lộc, Duy Xuyên là những vùng có nhiều địa chủ lớn mà công tác giảm tô lại kém nhất trong tỉnh nên cấp uỷ tỉnh cần thành lập một đoàn cán bộ để giúp đỡ.
Về quân cấp công điền: vùng địch hậu Quảng Nam là vùng rất nhiều công điền, công thổ, công tác quân cấp công điền rất quan trọng. Khác với việc giảm tô, bất kỳ ở vùng du kích hay tạm bị chiếm đều có thể lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi quân cấp công điền, công thổ. Việc này phải đảm bảo các nguyên tắc: có lợi cho đoàn kết nông thôn, công bằng hợp lý, lợi cho tăng gia sản xuất, kết hợp chặt chẽ với việc bảo vệ sản xuất, chống địch cướp phá.
Việc quân cấp công điền, công thổ được tiến hành cho các đối tượng: đối với đồng bào ở vùng địch hậu tản cư vào vùng tự do nên vận động địa phương nơi họ tản cư, bình nghị nhân dân để cấp công điền cho họ.
Đối với ngụy quyền thực sự theo giặc thì không chia, đối với số bị bắt buộc thì trên cơ sở ý kiến của nhân dân để xử trí như đối với ngụy quân.
Đối với số dân vùng du kích, vùng căn cứ hay vùng tạm bị chiếm đi làm ăn ở đô thị mỗi năm chỉ về một, hai lần thì cũng chia cho họ.
Đối với dân quân du kích, cần được ưu tiên cho họ vì họ chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn.
Ngoài việc giảm tô và quân cấp công điền, công thổ cần xúc tiến việc tạm chia ruộng đất Việt gian vắng chủ, sử dụng hợp lý đất hoang, giải quyết quyền hưởng ruộng đất khai phá trên các vùng như Hoà Khương để cho nhân dân yên tâm khai khẩn.
Chỉ thị nhấn mạnh, thi hành chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến nhằm mục đích bồi dưỡng lực lượng nhân dân, đặc biệt là nông dân để họ hăng hái kháng chiến.
Thực hiện chỉ thị của Liên khu uỷ V, Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô. Chỉ hai vụ tháng 3 và tháng 8, địa chủ phải trả lại cho nông dân gần 4.500 tấn thóc và trên 6 triệu đồng.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 9, phông Liên khu uỷ V
ĐẦU NĂM 1953
Nông dân Khu Tả ngạn sông Hồng đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (tháng l-1953) và Chỉ thị 14 của Khu uỷ Tả ngạn, đầu năm 1953, Tỉnh uỷ các tỉnh Khu Tả ngạn sông Hồng tiến hành hội nghị cán bộ, đề ra phương châm lãnh đạo nông dân đòi triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia ruộng đất.
Tại Thái Bình, từ sau Hội nghị tháng 3-1953, phong trào đấu tranh đòi giảm tô, giảm tức vụ mùa đạt kết quả khá lớn. Với mức giảm 50%, nông dân đã đòi giảm được gần 160.000 thùng thóc vụ chiêm. Nông dân cũng đòi xoá bỏ khoản công tô, công sưu, xoá nhiều món nợ vô lý trước đây. Đồng thời, chính quyền địa phương cũng tịch thu tất cả ruộng đất của địa chủ, Việt gian, tạm quản đất của địa chủ vắng mặt để cấp và giao cho gần 40.000 hộ nông dân cày cấy.
Dưới sự giúp đỡ của cán bộ khu, đầu năm 1953, tỉnh Hưng Yên đã thực hiện thí điểm ở ấp Đành, xã Minh Tân.
Qua đấu tranh, nông dân Hưng Yên được tạm giao hơn 19.000 mẫu ruộng và được chia gần 1.600.000 kg thóc. Ở Hải Dương, vụ chiêm năm 1953, nông dân đòi giảm tô được 506.000 kg thóc, được tạm cấp hơn 20.000 mẫu ruộng, ngoài ra xoá và hoãn nợ hàng trăm ngàn cân thóc, hàng chục nghìn đồng Đông Dương.
Đảng bộ Kiến An phát động nông dân vùng du kích đấu tranh giảm tô từ 25% đến 70-80%, vùng tạm chiếm trên dưới 25%. Nông dân được học tập về chính sách ruộng đất của Đảng. Trong vụ chiêm, huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo giảm tô được 141 tấn thóc; giảm tức, xoá và giảm khoảng 200 món nợ, mang lại cho nông dân 23.000 kg thóc; 11.673 hộ nông dân nghèo được chia ruộng đất.
Mặc dù phạm những sai lầm về sách lược: không phân biệt phú nông, địa chủ tiến bộ với địa chủ phản động, có nơi dùng đấu tố, nhục hình, tịch thu nhiều ruộng đất của nhà thờ,... vi phạm chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng, song cuộc vận động giảm tô, giảm tức, tạm chia và cấp ruộng đất cho nông dân của các tỉnh Khu Tả ngạn sông Hồng đã động viên nông dân hăng hái sản xuất, gia nhập nông hội, tin tưởng vào Đảng và kháng chiến.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t.I.
- Lịch sử Đảng bộ Hải Hưng (1927-1954), Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Hưng xuất bản, 1990, t.I.
- Những sự kiện lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình (1945- 1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thái Bình, 1989.
TỪ NGÀY 5-2 ĐẾN NGÀY 18-3
Hội nghị Nông vận và dân vận toàn quốc
Ngày 5-2-1953, Hội nghị Nông vận và dân vận toàn quốc khai mạc. Dự Hội nghị có 225 đại biểu nông dân trong tổng số 344 đại biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh đã tới dự.
Hội nghị chỉ rõ vai trò to lớn của nông dân trong cách mạng dân tộc dân chủ, coi cách mạng dân tộc dân chủ là cách mạng nông dân và cơ sở của nó là ruộng đất, nông dân là động lực trong cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Hàng triệu chiến sĩ nông dân khi đã giác ngộ thì họ là những chiến sĩ quyết chiến quyết thắng.
Hội nghị nêu rõ: chính sách ruộng đất của Đảng chưa được thi hành triệt để, chưa nhận rõ vai trò của nông dân và chưa chú ý đến quyền lợi của nông dân, quá nhân nhượng đối với địa chủ, không dám phóng tay phát động quần chúng.
Hội nghị nghe báo cáo và thảo luận về sự lãnh đạo công tác nông vận ở khu, tỉnh. Báo cáo nêu rõ, lãnh đạo công tác nông vận tuy đã đi vào cụ thể, đã chú ý giải quyết khó khăn cho nông dân, nhưng lãnh đạo thiếu kịp thời, nhiều nơi còn ít chú ý giải quyết quyền lợi cho bần, cố nông, nhiều phong trào chỉ trên hình thức, tình trạng cơ sở trắng còn nhiều...
Cuối cùng, Hội nghị nhất trí cần nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công nhân và đường lối quần chúng lãnh đạo nông dân trong kháng chiến và kiến quốc.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng ĐVBQ3, phông Trung ương.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, t.7, tr.25-29.
- Báo Nhân dân, ngày 21-5-1953.
NGÀY 16-2
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh đổi Nha Công an Việt Nam thành Thứ Bộ Công an
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề, ngày 16-2-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141-SL đổi Nha Công an Việt Nam thành Thứ Bộ Công an.
Sắc lệnh ghi rõ nhiệm vụ của Thứ Bộ Công an là: Chống gián điệp, phản động ở trong nước để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ quân đội nhân dân, bảo vệ các đoàn thể nhân dân, bảo vệ kinh tế quốc dân, bảo vệ biên giới, chống đặc vụ và gián điệp quốc tế, bài trừ lưu manh trộm cướp, bài trừ các tệ nạn xã hội và giữ trật tự, an ninh trong nhân dân.
Đồng thời, Sắc lệnh quy định tổ chức bộ máy của Thứ Bộ Công an: Văn phòng Thứ Bộ, Vụ bảo vệ chính trị, Vụ trị an hành chính, Phòng nhân sự, Vụ chấp pháp, Cục cảnh vệ, Trường công an.
Thứ Bộ Công an do một thứ trưởng phụ trách. Đồng chí Trần Quốc Hoàn, Uỷ viên Trung ương Đảng, được cử giữ chức Thứ trưởng Thứ Bộ Công an.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.328.
THÁNG 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về vấn đề phát động quần chúng nông dân trong giảm tô
Trong Hội nghị Cán bộ Liên hiệp Phụ nữ toàn quốc họp vào tháng 3-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới dự và nói chuyện về vấn đề phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, muốn phát động được quần chúng nhân dân cán bộ phải hiểu rõ, thấm nhuần đường lối của Đảng, Chính phủ, phải gần gũi quần chúng, chính quyền phải trong sạch, chi bộ phải được chỉnh đốn, nông hội phải thu hút được đa số bần, cố, trung nông. Phát động quần chúng giảm tô phải đi đôi với việc phát động nhân dân thi đua tăng gia sản xuất, thi đua đóng thuế nông nghiệp, đi dân công, tổ chức tổ đổi công... để nâng cao đời sống nhân dân, thiết thực đóng góp cho kháng chiến.
Tại Hội nghị, Người căn dặn: phát động quần chúng giảm tô, đồng thời phải tăng cường và tổ chức các cơ quan bạo lực cách mạng như công an xã, dân quân, để chống lại sự phản kháng của những phần tử ngoan cố.
Người cũng phê phán những lệch lạc trong phát động quần chúng như: cán bộ mặc cảm về thành phần xuất thân, tịch thu một cách vô nguyên tắc tài sản của nhân dân, đấu tranh sai đối tượng, hành động thái quá làm tổn hại đến quyền dân chủ của dân.
Người căn dặn cán bộ nữ về phương pháp, cách thức vận động nhân dân, động viên cán bộ nữ tích cực tham gia cuộc vận động, kết hợp vận động với phát triển phong trào để chỉnh đốn tổ chức.
Người nhấn mạnh rằng, phát động quần chúng thành công thì nông dân có được ruộng đất, được ấm no và phụ nữ được giải phóng.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.52-57.
TỪ NGÀY 8 ĐẾN NGÀY 3-5
Chiến dịch Thượng Lào
Sau thất bại nặng ở Tây Bắc, thực dân Pháp vội tăng cường lực lượng phòng thủ Thượng Lào, xây dựng thị xã Sầm Nưa thành một tập đoàn cứ điểm, đặt dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy Pháp ở miền Bắc Đông Dương.
Tháng 4-1953, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Ítxala quyết định phái Quân đội nhân dân Việt Nam sang cùng với Quân giải phóng Pa thét Lào mở chiến dịch Thượng Lào, tiến công Sầm Nưa.
Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai, xây dựng và mở rộng các căn cứ du kích, tạo điều kiện đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.
Ngày 8-4-1953, chiến dịch bắt đầu. Bộ đội Việt Nam và Quân giải phóng Pa thét Lào tiến theo ba cánh: Cánh chủ yếu gồm các Đại đoàn 308, 312, 316 theo đường số 6 sang Sầm Nưa; cánh thứ hai, Đại đoàn 304 từ Nghệ An theo đường số 7 lên Xiêng Khoảng chặn đường rút của địch ở Sầm Nưa xuống; cánh thứ ba, Trung đoàn 148 từ Điện Biên Phủ tiến xuống phía bắc Sầm Nưa, uy hiếp Luồng Phrabăng.
Trong chiến dịch Thượng Lào, lực lượng ta gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ. Đường hành quân, đường tiếp tế xa hơn chiến dịch Tây Bắc. Rừng núi Thượng Lào trùng trùng điệp điệp, thời tiết thay đổi luôn, bộ đội hành quân liên tục. Nhưng mọi khó khăn, gian khổ không làm sờn lòng cán bộ, chiến sĩ Lào - Việt.
Sau gần 1 tháng chiến đấu anh dũng, chiến dịch Thượng Lào kết thúc thắng lợi, ba tiểu đoàn và 11 đại đội địch (bằng một phần năm tổng số binh lực của địch ở Lào) bị tiêu diệt; toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phôngxalỳ bằng một phần năm diện tích nước Lào) với trên 30 vạn dân được giải phóng. Căn cứ kháng chiến của nước Lào được mở rộng, nối liền với vùng tự do của Việt Nam.
Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào là thắng lợi của tinh thần quốc tế vô sản cao cả, thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt - Lào, giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng Pa thét Lào chống kẻ thù chung.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.369-370.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, t.II, tr.238-247.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.187.
TỪ THÁNG 4 ĐẾN THÁNG 5
Quân và dân Khu Tả ngạn sông Hồng phối hợp chiến đấu với chiến dịch Thượng Lào
Tháng 4-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ mở chiến dịch tiến công địch ở Sầm Nưa (Thượng Lào), phối hợp với quân và dân Lào chống kẻ thù chung. Ngay trong và sau khi chiến dịch kết thúc thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Khu uỷ Tả ngạn, quân và dân các tỉnh Thái Bình, Kiến An, Hưng Yên, Hải Dương đã đẩy mạnh hoạt động phối hợp với chiến trường chính.
Trong 2 tháng 4 và 5-1953, các lực lượng vũ trang Thái Bình đã tiến hành nhiều trận tập kích, phục kích, chống càn quét ở Phụ Dực, Đông Quan, Vũ Tiên... Tiêu biểu là trận tiêu diệt khu quân sự Quỳnh Lang ngày 4-4-1953 của Trung đoàn 50, chủ lực khu và bộ đội địa phương, bắt và diệt hàng trăm tên địch, trả thù cho đồng bào Thái Bình bị giết hại ở đây.
Hạ tuần tháng 4-1953, sau một thời gian chuẩn bị mọi mặt, xây dựng kế hoạch tác chiến, dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn và Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, bộ đội Kiến An tập kích vào thị xã. Sau gần một giờ chiến đấu anh dũng, lực lượng ta tiến công Kiến An đã làm chủ hoàn toàn tỉnh lỵ, sau đó tổ chức chống càn tại thôn Đại Điền. Chiến thắng Kiến An - Đại Điền đã khích lệ quân dân Tả ngạn đẩy mạnh đấu tranh làm rối loạn hậu phương của địch.
Tại Hưng Yên, ngày 10-5, sau khi đã chuẩn bị kỹ càng kế hoạch, công sự ngay gần đồn địch, bộ đội địa phương tập kích căn cứ Bần Yên Phú, vùng tề, căn cứ hậu phương của binh đoàn GM3.
Các mũi tấn công đồng loạt nổ bộc phá, diệt hết các hoả điểm, ném thủ pháo, lựu đạn nơi địch kháng cự. Sau chưa đầy nửa giờ, ta diệt hơn 100 tên địch, chiếm toàn bộ kho tàng của hậu cứ binh đoàn cơ động, thu hơn 3.000 súng các loại.
Chiến thắng đó đã cổ vũ mạnh mẽ quân và dân địch hậu, đánh dấu sự trưởng thành của bộ đội tỉnh Hưng Yên.
Cũng trong tháng 5, Đại đội S20 Hải Dương đánh địa lôi phá một đoàn tàu chở lính, diệt 340 tên địch, hủy 240 tấn đạn dược tại Cẩm Giàng. Một đơn vị cua Trung đoàn 42 phục kích trên đường 17, diệt 1 đại đội địch.
Trong hai tháng 4 và 5-1953, các lực lượng chủ lực Tả ngạn đã cùng quân và dân các địa phương đánh nhiều trận tập kích, phục kích, diệt đồn, đánh viện, đặc biệt các trận luồn sâu, triệt phá cơ sở hậu cần chiến lược của địch, cùng cả nước khuếch trương chiến thắng Thượng Lào, đẩy mạnh đấu tranh vùng sau lưng địch.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927-1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t.I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Hải Dương (1928-1954), 1997, t.I.
TỪ THÁNG 4 ĐẾN THÁNG 12
Nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá động viên phục vụ mặt trận Lào
Tháng 4-1953, Quân tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh cùng với nhân dân Thanh Hoá được giao nhiệm vụ phục vụ cho chiến dịch Thượng Lào và chiến dịch Trung Lào.
Sửa đường, bắc cầu, huy động và vận chuyển lương thực, thực phẩm, tải thương, cứu thương cho chiến trường 400-500km đường trường núi non hiểm trở và hết sức rộng lớn từ Thượng Lào tới Đông Bắc Campuchia là một thử thách hết sức gay go và quyết liệt đối với nhân dân Nghệ - Tĩnh. Những người nông dân Nghệ - Tĩnh, già có, trẻ có, trai có, gái có đã trao lại ruộng vườn cho người thân để lên đường phục vụ tiền tuyến.
Tình đoàn kết chiến đấu keo sơn đã giúp người nông dân Nghệ An, Hà Tĩnh vượt qua khó khăn, hiểm nghèo, bom đạn và bệnh tật. Vì vậy, nông dân hai tỉnh đã huy động được hàng vạn tấn gạo, xe thồ, hai vác ra mặt trận.
Hàng triệu ngày công được huy động để sửa đường, làm cầu và phục vụ tải thương. Trong chiến dịch Thượng Lào, Nghệ An huy động 72.440 dân công sửa 170 km đường, làm 100 cầu, vận chuyển 700 tấn gạo, lương thực, thực phẩm. Trong năm 1953, Nghệ An huy động được 5 triệu ngày công.
Thanh Hoá đã huy động được 114.000 dân công dài hạn, 149.000 dân công ngắn hạn, 2.000 xe đạp thồ, 1.300 thuyền, 180 con ngựa, 8 xe ô tô, 8.000 tấn gạo, hàng chục tấn muối, cá, thịt, rau...
Trong chiến dịch Trung Lào, Nghệ An đã nhanh chóng thực hiện kế hoạch được giao. Hơn 20.000 dân công bộ và thuyền, gần 1.500 xe đạp thồ của Nghệ An là lực lượng chủ yếu phục vụ trung tuyến và hoả tuyến. Hà Tĩnh đóng góp 28.300 người trực tiếp phục vụ trên đất Lào. Bình quân mỗi dân công của Hà Tĩnh phục vụ hơn 2,5 tháng. Ngoài ra, Hà Tĩnh còn cung cấp 3.409 tấn gạo, 154 tấn muối, 2.102 con trâu, bò, cấp phát 50 tấn vũ khí đạn dược.
Trong chiến thắng Thượng Lào, Trung Lào, năm 1953, có công sức, mồ hôi của những người dân Thanh - Nghệ - Tĩnh. Mồ hôi, công sức, tiền của của họ đã góp phần thắt chặt thêm truyền thống đoàn kết chiến đấu keo sơn Việt – Lào.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930-1954), Thanh Hoá, 1991.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ An: Lịch sử Đảng bộ Nghệ An (1930-1954), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.I.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.1.
NGÀY 7-4
Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị về việc vận động tín đồ Hoà hảo
Thực dân Pháp triệt để lợi dụng tôn giáo, trong đó có đạo Hoà hảo là tôn giáo lớn với hàng triệu tín đồ, để chia rẽ khối đoàn kết toàn dân thực hiện chính sách "chia để trị" của chúng.
Để hướng dẫn các địa phương thực hiện đúng đắn các chính sách tôn giáo, ngày 7-4-1953, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Về việc vận động khối Hoà hảo". Trong Chỉ thị, Trung ương Cục nhận định: "Hoà hảo là một trong những tôn giáo phát triển có đông tín đồ ở miền Nam. Phần đông tín đồ và lãnh tụ Hoà hảo là nông dân, có tinh thần yêu nước chống ngoại xâm. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân Hoà hảo ở nhiều nơi cùng nổi dậy cướp chính quyền. Khi Pháp quay lại xâm chiếm Nam Bộ, cơ sở ta tạm thời tan rã, Đảng ta không nắm được khối nông dân trong Hoà hảo theo đường lối của Đảng”. Trung ương Cục nêu rõ: khối Hoà hảo đã có tinh thần cách mạng chống Pháp nhưng ta không thấy đặc tính ấy nên từ đầu kháng chiến không biết lôi kéo họ, đoàn kết họ, chĩa mũi nhọn vào đế quốc và phong kiến phản động. Các cấp, các ngành ở địa phương chưa thấy hết âm mưu thâm độc của đế quốc trong việc lợi dụng Hoà hảo, còn phạm sai lầm "tả khuynh", cục bộ một chiều, không thấy toàn diện vấn đề là đoàn kết tôn giáo và tầm quan trọng của việc tranh thủ tầng lớp trên trong khối Hoà hảo; trong khi giải quyết vấn đề chỉ dùng quân sự mà không vận động chính trị. Như vậy "ta đã đẩy khối nông dân Hoà hảo chống lại ta, đó là khuyết điểm căn bản".
Từ nhận định trên, Trung ương Cục đề ra chủ trương: phải tranh thủ các tầng lớp nhân dân Hoà hảo chủ yếu là nông dân để phá tan âm mưu chia rẽ thâm độc của thực dân Pháp, thực hiện đại đoàn kết để chống đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ và bọn phản động tay sai. Phương châm của cuộc vận động là: "Dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên minh với phú nông, trung lập hoặc lôi kéo một số địa chủ”.
Về hoạt động quân sự, phải làm tan rã hàng ngũ ngụy quân, tranh thủ thêm những người không tuân thủ cấp trên, thực hiện đoàn kết chống Pháp với phương châm “Dùng chính trị vận động lôi kéo và tạm thời trung lập từng bộ phận”.
Trung ương Cục nhấn mạnh, công tác vận động đồng bào tín đồ Hoà hảo vẫn phải đặt dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, phải chọn những cán bộ có năng lực và được giáo dục để nắm vững phương châm chính sách của Đảng về vấn đề Hoà hảo.
Chỉ thị của Trung ương Cục đã đánh giá đúng bản chất giai cấp của Hoà hảo, đồng thời kiểm điểm những sai lầm, thiếu sót của ta đối với đồng bào theo đạo, vạch ra đường lối chính sách đoàn kết đối với giáo phái Hoà hảo trong kháng chiến.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 289, phông Trung ương Cục.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học ứng an: Công an nhân án Việt Nam. lịch sử bản niên 0945-1954), Nxb. Công an nhân dân. Hà Nội, 1994, tr.336-338.
NGÀY 16-4
Liên khu uỷ IV ra Chỉ thị về công tác bảo vệ Đảng
Trước những âm mưu chính trị ngày càng thâm độc của kẻ thù, để góp phần dập tắt tư tưởng cầu an, cơ hội và tư lợi của một số cán bộ và có kế hoạch bảo vệ tương đối đầy đủ từ trên xuống dưới; đồng thời để đảm bảo việc thi hành chính sách của Đảng và thống nhất đoàn kết nội bộ, ngày 16-4-1953, Thường vụ Liên khu uỷ IV ra Chỉ thị về công tác bảo vệ Đảng yêu cầu các tỉnh uỷ, liên chi, chi bộ báo cáo cho Thường vụ Liên khu uỷ IV những việc cụ thể:
1. Những vụ xảy ra hoặc có nhiều nghi vấn trong các địa phương hay các cơ quan: hiện tượng tổ chức, cơ sở có hiểm nguy; chủ trương, chính sách của Đảng bị xuyên tạc; nội bộ lủng củng, bè phái. Đối với cá nhân cần nêu rõ: tên tuổi, quê quán, thành phần, phụ trách công tác gì; hoàn cảnh của Đảng; quá trình hoạt động có gì sai lầm, những hiện tượng đã khám phá ra hay còn nghi vấn. Riêng Thanh - Nghệ - Tĩnh, báo cáo thêm một số cán bộ bị phong trào đấu tranh truy kích phát hiện ra; nhận xét âm mưu của địch và sự chú ý của ta.
2. Chỉ rõ những địa phương không giữ đúng nguyên tắc sinh hoạt và sự liên lạc đã xảy ra việc gì? Tác hại như thế nào?
3. Tinh thần thực hiện nội quy bảo vệ cơ quan, chú ý mục giữ gìn tài liệu, phổ biến tài liệu đã đảm bảo nguyên tắc chưa hoặc xảy ra việc gì?
4. Sự chú ý của các cấp trong việc bảo vệ Đảng và đã có kế hoạch gì tiến hành?
5. Các tỉnh uỷ phải lựa chọn một số cán bộ trong Ban tổ chức có tín nhiệm, lý lịch trong sạch, thành phần trung kiên, liên chi và chi bộ cử 1 đồng chí trong Thường vụ cùng với điều kiện để phụ trách đặc biệt công tác bảo vệ Đảng.
Chỉ thị nhấn mạnh, những công việc trên phải báo cáo Liên khu uỷ trước ngày 15-4-1953 (Quảng trị, Thừa Thiên đến ngày 25-4); đồng thời các tỉnh uỷ, liên chi, chi bộ phải báo cáo những việc bất thường đặc biệt xảy ra.
- Tư liệu lưu tại Kho lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 68, phông số 49.
NGÀY 22 - 4
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về mười điều kỷ luật của cán bộ trong khi thi hành chính sách ruộng đất
Để hướng dẫn cán bộ thực hiện chính sách ruộng đất, ngày 22-4-1953, Trung ương đề ra mười điều kỷ luật của cán bộ trong khi thi hành chính sách ruộng đất.
Đối với nông dân:
1. Nhận rõ ranh giới địch, bạn, ta, không được gây bè phái trong nông thôn, chia rẽ nội bộ nông dân.
2. Không được xâm phạm đến quyền lợi của nông dân, phải tôn trọng tự do, tín ngưỡng, phong tục tập quán của nông dân.
3. Chí công vô tư, không được tham ô, lãng phí những thứ nông dân do đấu tranh mà giành được.
4. Thực hiện "ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với nông dân). Nắm vững chủ trương dựa vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông trong nông thôn.
5. Phục tùng nghị quyết của Nông hội, tôn trọng ý kiến nông dân, mọi việc cần bàn bạc với quần chúng, tiếp thu nông dân phê bình.
Đối với địa chủ:
6. Tuyệt đối không được đứng về phía địa chủ, bao bọc, che chở cho địa chủ, vào hùa với địa chủ mà kêu ca, thông đồng với địa chủ cản trở nông dân đấu tranh.
7. Căn cứ vào pháp luật của Chính phủ, lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp, thẳng tay trừng trị bọn Việt gian, phản động và cường hào gian ác nhưng tuyệt đối cấm bắt ẩu, đánh ẩu, giữ ẩu.
Đối với nội bộ:
8. Thực hiện dân chủ tập trung, mở rộng dân chủ nội bộ, phục tùng kỷ luật của quân đội, phục tùng đồng chí phụ trách.
9. Phục tùng sự lãnh đạo cấp trên, không được tự ý đặt ra chính sách, gặp việc khó giải quyết phải xin chỉ thị cấp trên.
10. Theo đúng chế độ báo cáo, không được giấu giếm tình hình, che đậy sai lầm.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.14, tr.171-172.
NGÀY 24-4
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về việc phát động quần chúng thực hiện giảm tô, giảm tức trong năm 1953
Ngày 24-4-1953, Trung ương Đảng ra Chỉ thị hướng dẫn công tác phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động.
Chỉ thị nêu rõ mục đích phát động quần chúng là đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực kinh tế của bọn phong kiến, đập tan thế lực chính trị của phong kiến, thoả mãn một phần yêu cầu kinh tế của nông dân và giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động, củng cố liên minh công nông, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến. Nội dung của phát động quần chúng là tổ chức và giáo dục nông dân lao động, đoàn kết đấu tranh đánh đổ Việt gian, phản động và cường hào gian ác, triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp, của Việt gian phản động và ruộng đất công cho nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng, sử dụng hợp lý ruộng đất vắng chủ.
Phương châm phát động quần chúng là dựa vào quần chúng đông đảo, vận động quần chúng đấu tranh đập tan thế lực chính trị phong kiến, làm yếu thế lực kinh tế phong kiến, tổ chức quần chúng tích cực sản xuất và tham gia kháng chiến.
Trung ương nói rõ sách lược của Đảng đối với các tầng lớp ở nông thôn là dựa vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông.
Đối với địa chủ thì đập tan thế lực chính trị và làm yếu thế lực kinh tế, phân biệt địa chủ lớn, địa chủ vừa, địa chủ nhỏ, loại tuân theo pháp luật và loại không tuân theo pháp luật mà định thái độ đối xử khác nhau.
Đối với việt gian, phản động, cường hào gian ác thì kiên quyết đánh đổ.
Về phương pháp tiến hành phát động quần chúng, phát động quần chúng có kế hoạch, từng bước một, có lãnh đạo; đối với từng vùng khác nhau thì yêu cầu và cách làm cũng khác nhau, chủ yếu là phát động quần chúng ở vùng tự do.
Trung ương nhấn mạnh, để làm tốt công tác phát động quần chúng, cần kiên quyết chống mọi tư tưởng ngăn trở phát động quần chúng như sợ quần chúng đấu tranh sẽ vỡ đoàn kết, sợ địa chủ phản kháng gây ra tình trạng hỗn loạn ở nông thôn, bi quan trước tình hình cơ sở kém, không dám mạnh dạn phát động quần chúng...
Cuối cùng, Chỉ thị nêu rõ những chính sách cần nắm vững trong khi phát động quần chúng như việc chia ruộng đất xử lý những thứ đấu tranh được, không xâm phạm đến công thương nghiệp, có chính sách đối với những người có ít ruộng đất phát canh và chính sách đối với phú nông.
Chỉ thị của Trung ương đã kịp thời cổ vũ quần chúng nông dân đứng lên giành lại quyền lợi về kinh tế, chính trị, đập tan thế lực của phong kiến và bọn phản động.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, đợt thí điểm thực hiện giảm tô, giảm tức ở sáu xã thuộc Phổ Yên, Thái Nguyên đã thu được kết quả:
Về kinh tế, đã làm suy yếu thế lực kinh tế của địa chủ, đem lại nhiều quyền lợi cho nông dân. Qua đấu tranh, ta đã thu được: 1.819 mẫu ruộng, thoái tô được 405 tấn 9 tạ 45 kg, 4.070 hộ gia đình được thoái tô, thu được 379 tấn 9 tạ 77 kg thóc, 41 cái nhà, 70 con trâu, các đồ đạc khác thu được trị giá 9.044.700đ và có 944 hộ, 3.645 khẩu được chia ruộng đất.
Về tổ chức, đã chỉnh đốn 6 chi bộ, khai trừ 153 đảng viên, bầu lại các ban chi ủy mới, trong đó, thành phần bần cố nông chiếm 53%, trung nông 44%, tiểu tư sản 3%. Chính quyền, đoàn thể cũng được chỉnh đốn, củng cố lại. Nông dân phấn khởi, hăng hái gia nhập Nông hội.
Tuy nhiên, trong đợt thí điểm ở sáu xã cũng đã bộc lộ một số khuyết điểm: khi phát động quần chúng thực hiện giảm tô, do nóng vội, thiếu kiên nhẫn giáo dục quần chúng nên một số cán bộ bao biện làm thay và mệnh lệnh đối với quần chúng; diện đấu tranh quá rộng; không phân hoá địa chủ để tập trung đánh mạnh vào những tên đầu sỏ; trình độ giác ngộ giai cấp của nông dân chưa cao, còn có hiện tượng e dè sợ địa chủ; việc thanh toán và chia những thứ thu được còn tự tư tự lợi, thanh toán quá hạn độ, chưa đúng chính sách,...
- Tư liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, hồ sơ 1337, phông Phủ Thủ tướng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.173-l96.
TỪ NGÀY 27 ĐẾN NGÀY 29-4
Liên khu uỷ Việt Bắc phát động quần chúng thực hiện giảm tô, giảm tức
Từ ngày 27 đến ngày 29-4-1953, Hội nghị Thường vụ Liên khu uỷ Việt Bắc họp bàn về công tác phát động quần chúng.
Hội nghị nghe báo cáo về việc phát động quần chúng và tổ chức lãnh đạo thí điểm ở các xã Đồng Bẩm, Dân Chủ, Phú Xuân, Nha Lộng, Đức Liên, Đồng Tiến (Phổ Yên, Thái Nguyên) và ba xã Hợp Tiến, Đào Quản, Hưng Đạo thuộc tỉnh Bắc Giang.
Sau một thời gian thực hiện phát động quần chúng có nhiều tiến triển, các đội công tác đã xuống xã, mỗi đội có 30 - 40 cán bộ. Các lớp học phát động quần chúng được mở với lớp Bắc Giang 79 học viên, lớp Thái Nguyên 138 học viên phần lớn là cán bộ xã, lớp Lạng Sơn 7 học viên, lớp Quảng Yên 6 học viên, lớp Phú Thọ 30 học viên, lớp Tuyên Quang 8 học viên.
Ở các lớp học, học viên có tư tưởng tin, thương, sợ địa chủ. Một số đồng chí cho rằng địa chủ cũng có tinh thần ái quốc cần đoàn kết để kháng chiến và một số lo cho địa chủ không đủ khả năng để thoái tô, sợ địa chủ chạy theo Pháp. Học viên không tin vào lực lượng và khả năng bần, cố nông vì cho rằng bần, cố nông văn hoá kém, lạc hậu, ít năng lực, chậm chạp, coi thường khả năng đóng góp của bần, cố nông. Học viên vẫn còn lẫn lộn giữa ta, bạn, thù nên có lúc tả lúc hữu như không muốn bắt phú nông thoái tô vì sợ không trung lập được họ và động đến trung nông lớp trên. Có đồng chí chưa nhận rõ ta là ai, có đồng chí nói "từ trước đến nay tôi cứ tưởng là vào Đảng của nông dân".
Phần lớp học viên không nhận rõ mục đích, ý nghĩa chính trị của cuộc phát động quần chúng thực hiện giảm tô, giam tức mà chỉ nhìn về mặt kinh tế đơn thuần.
Sau một thời gian học tập, đa số anh em ở các lớp đã nhận thức rõ sự cấu kết chặt chẽ giữa đế quốc phong kiến, nhận thức được lực lượng to lớn của cách mạng là nông dân, muốn kháng chiến thắng lợi phải bồi dưỡng cho nông dân và phải dựa vào bần, cố nông. Học viên thấy được nhiệm vụ phát động quần chúng là quan trọng.
Tuy nhiên, trong các lớp học vẫn tồn tại một số vấn đề, đó là học viên chưa căm thù sâu sắc giai cấp địa chủ, phân định giai cấp còn lẫn lộn giữa trung nông lớp trên và phú nông, giữa phú nông và tiểu địa chủ.
Hội nghị cũng sơ kết những kết quả của việc phát động quần chúng ở Đồng Bẩm và Dân Chủ. Hai xã đã phát động được quần chúng hăng hái đấu tranh và thu được một số kết quả nhất định về kinh tế và chính trị, làm yếu một phần thế lực của địa chủ. Cán bộ đã đi sâu vào quần chúng, phát động được một số bần, cố nông lạc hậu.
Tuy vậy, trong quá trình phát động vẫn còn một số khuyết điểm, đó là việc chấp hành sách lược và chính sách chưa thực sự dựa vào bần cố nông, đoàn kết trung nông chưa chặt chẽ, đả kích địa chủ không mạnh, đụng chạm cả đến phú nông, đến công thương nghiệp, bắt bớ và tịch biên vô nguyên tắc.
Cán bộ không chú trọng đi sâu phát động tư tưởng quần chúng nông dân nên họ còn lạc hậu, ý thức giác ngộ giai cấp và chính trị còn thấp.
Trong khi phát động quần chúng, cán bộ còn quan liêu, mệnh lệnh, ý thức kỷ luật và tổ chức kém.
Sau khi sơ kết việc thực hiện phát động quần chúng ở các xã đã phát động, Hội nghị còn nhận định về tình hình chung ngoài các xã thí điểm.
Về nông dân, gần đây ở các xã đã tự động nổ ra đấu tranh tố khổ với địa chủ, 3.000 nông dân xã Quang Trung đấu tranh với vợ chồng Cự Phách đòi thoái tô, 800 nông dân xã Thanh Sơn (Lục Ngạn) đấu tranh đòi thoái tô và bồi thường của chiếm đoạt...
Địa chủ và các tầng lớp khác còn giấu giếm của cải, phân tán ruộng đất, chuẩn bị "dinh tê" như Chánh Triệu, Đào Kỷ, phản tuyên truyền chính sách làm hoang mang trung nông, mua chuộc tá điền, giả vờ nghèo khổ. Một số phú nông, trung nông hoang mang, muốn đòi trâu, ruộng về, không cho làm rẽ.
Qua thực tế, Hội nghị nhận xét rằng, những cuộc đấu tranh lúc đầu đều có chủ trương và lãnh đạo của cán bộ xã được huyện thông qua. Về chủ trương thì đúng nhưng khi làm thì sai, phong trào phần nhiều dựa vào trung nông, có cuộc đấu tranh do bọn phú nông nói xấu lãnh đạo.
Cuối cùng, Hội nghị quyết định thành lập Ban ruộng đất gồm 7 đồng chí, lập Toà án nhân dân Phú Thọ, Thái Nguyên. Hội nghị cho rằng cần phải giữ vững phong trào không để tự phát, đối với địa chủ hiến ruộng thì không nhận ruộng hiến của địa chủ.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ C, phông Liên khu uỷ Việt Bắc.
NGÀY 4-5
Bộ Chính trị ra Chỉ thị Về mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng
Ngày 4-5-1953, Bộ Chính trị Chỉ thị cho các cấp cần chú ý hơn nữa Về mấy vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng.
Vấn đề thứ nhất là, trừng trị những địa chủ phản động và gian ác. Trong cuộc phát động quần chúng này sẽ phải xử tử một số địa chủ phản động hoặc gian ác. Nhưng khi bị xử, ta chú ý đến số người bị xử sẽ không nên quá nhiều, vì nếu như vậy sẽ khó giành được sự đồng tình của quần chúng. Việc xử phải nhằm trừng trị những tên phản động đầu sỏ nhất, có nhiều tội ác nhất, đã phạm tội ác giết hại nhân dân, phá hoại cách mạng và bị nhân dân oán ghét. Đối với những địa chủ trẻ tuổi có học thức, hy vọng cải tạo được hoặc địa chủ tham gia bộ đội mà phạm tội thì nếu được quần chúng đồng ý đổi ra phạt tù.
Đối với những phạm nhân đặc biệt, thủ lĩnh hoặc phần tử thuộc tầng lớp trên trong dân tộc thiểu số, cha cố, thủ lĩnh trong tôn giáo, nhân sĩ dân chủ và ngoại kiều thì thuộc diện Trung ương xử.
Trung ương sẽ lập một Uỷ ban xử trí gồm 5 uỷ viên (l đồng chí trong cấp uỷ Đảng, 1 đồng chí trong chính quyền, 1 đồng chí công an, 1 đồng chí trong tư pháp, 1 đồng chí trong Nông hội).
Vấn đề thứ hai là, yêu cầu về mức thoái tô, thanh toán dây dưa tiền công, cần theo đúng sách lược đối xử khác nhau đối với các hạng địa chủ. Về nguyên tắc không nên yêu cầu đòi hỏi cho được 100%, chỉ cần 50 -60%.
Đối với vấn đề con nuôi, vợ lẽ trong các gia đình địa chủ, phú nông không nên gây thành phong trào bỏ gia đình địa chủ, phú nông, đòi thanh toán tiền công.
Vấn đề thứ ba là, tước vũ khí của địa chủ. Phát động quần chúng là một cuộc đấu tranh gay go. Kinh nghiệm cho thấy nếu ta không tước vũ khí của địa chủ và nếu nông dân không nắm vững vũ trang ở nông thôn thì sẽ xảy ra những việc đáng tiếc.
Vì chưa có điều kiện nên Chính phủ chưa ra lệnh tước vũ khí của địa chủ ở mọi nơi mà chỉ ở những nơi phát động quần chúng thì nhất thiết phải tước vũ khí của địa chủ. Thu vũ khí, phải thực hiện khẩu hiệu "thu súng của địa chủ, vũ trang dân chúng, tham gia kháng chiến, bảo vệ quê nhà"1. Vì vậy, phải tiến hành các bước sau: vũ khí của địa chủ thì tịch thu không bồi thường, vũ khí của phú nông sẽ do chính quyền địa phương trưng dụng, vũ khí của nông dân thì phải kê khai,…
Chỉ thị còn chỉ rõ, muốn phát động quần chúng thắng lợi phải có lực lượng quần chúng tổ chức, đặc biệt phải chú trọng tổ chức Nông hội. Yêu cầu tổ chức của cuộc phát động quần chúng là số quần chúng vào tổ chức phải chiếm được 30% nhân khẩu toàn thôn.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.201-206.
NGÀY 7 - 5
Liên khu uỷ Việt Bắc chỉnh đốn những sai lầm trong công tác phát động quần chúng
Để khắc phục tình trạng sai lầm trong công tác phát động quần chúng, ngày 7-5-1953, Liên khu uỷ Việt Bắc ra chỉ thị chỉnh đốn những sai lầm đó.
Chỉ thị đã chỉ ra các sai lầm của các tỉnh là: Về phong trào nông dân, ở Bắc Giang, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc... đã tự động nổ ra nhiều cuộc đấu tranh tố khổ với địa chủ. Một mặt, ta phải nhận thấy rằng những cuộc đấu tranh tự động đó biểu lộ mâu thuẫn sâu sắc giữa địa chủ với nông dân và tinh thần đấu tranh của nông dân đang lên. Nhưng mặt khác, những cuộc đấu tranh này đều thiếu sự chuẩn bị, không theo đúng kế hoạch chỉ đạo để quần chúng và cán bộ tự động đấu tranh.
Do không nắm vững mục đích và phạm vi, lại thiếu lãnh đạo chặt chẽ, cho nên có những cuộc đấu tranh lúc đầu chỉ chủ trương đòi giảm tô, làm quy chế lĩnh canh với mức bình thường, nhưng trong khi đấu tranh do phong trào quần chúng tự phát nên chuyển thành những cuộc đấu tranh tố khổ đòi thoái tô, thoái tiền công. Những cuộc đấu tranh đó, có vụ do những phần tử không trong sạch và cường hào có tội với nông dân nhân nguyện vọng của quần chúng đứng lên lãnh đạo đấu tranh hòng mua chuộc nông dân, lợi dụng trả thù cá nhân. Có vụ đấu tranh với những tên địa chủ có tham gia vào các ngành, cấp ở trung ương, liên khu đã không xin chỉ thị của Trung ương.
Nhìn chung những cuộc đấu tranh này, về mặt chính trị chưa giáo dục phát động được tư tưởng của nông dân, đoàn kết nông dân, chưa đánh tan được uy thế chính trị của địa chủ, đấu lung tung làm cho trung nông, phú nông hoang mang, bọn địa chủ lợi dụng phản tuyên truyền.
Về kinh tế: có tên địa chủ thanh toán ít nhiều, có tên tuy hứa thanh toán nhưng lại khai gia tài hết cả không còn gì.
Về phía địa chủ: chúng tìm cách phân tán tài sản, phân chia gia tài cho con cháu, mua chuộc nông dân, chạy vào vùng địch, đe doạ nông dân gây dư luận hoang mang. Sở dĩ có tình trạng trên là do việc lãnh đạo tư tưởng cán bộ thiếu chặt chẽ, một số đông cán bộ nhất là cấp xã, huyện nóng ruột, việc giáo dục cho nông dân không chu đáo không làm cho quần chúng hiểu rõ chính sách, tỉnh uỷ chỉ đạo quan liêu, ý thức tổ chức kém.
Trước tình hình đó, Liên khu uỷ chỉ thị các cấp phải nắm vững sách lược theo đúng phương pháp trong công tác phát động quần chúng đả thông tư tưởng cán bộ, làm cho họ thấy công tác phát động quần chúng là mới mẻ, phức tạp cần chuẩn bị chu đáo. Trừ những nơi thí điểm, các nơi khác ra sức tiến hành chuẩn bị tuyên truyền phổ biến chính sách giáo dục nông dân, làm cho nông dân hiểu rõ chính sách của Đảng, giải thích chính sách để trung, phú nông đỡ hoang mang. Các tỉnh phải sơ bộ chấn chỉnh bộ máy xã, tỉnh uỷ và huyện uỷ phải lãnh đạo chặt chẽ để kịp thời đối phó, ngăn ngừa những cuộc đấu tranh tự động.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 958-C5, Phông Liên khu Việt Bắc.
NGÀY 12-5
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về phòng đói và cứu đói
Trong những năm 1953-1954, ở một số địa phương, nạn đói diễn ra thường xuyên và có nơi đã trở nên nghiêm trọng như các tỉnh vùng tự do Liên khu V, Liên khu IV và vùng mới giải phóng Tây Bắc...
Trước tình hình đó, Ban Bí thư ra Chỉ thị Về công tác phòng đói và cứu đói.
Chỉ thị chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến nạn đói:
Nguyên nhân khách quan trọng yếu nhất đã gây ra nạn đói là do địch phá hoại kinh tế, mùa màng, lương thực của ta, chúng phá đập, cống, phá đê, càn quét cướp thóc gạo. Ở vùng tự do và căn cứ du kích, chúng gây ra nạn đói là để phá chính sách tăng gia sản xuất đảm bảo cung cấp của ta. Ở vùng du kích và tạm bị chiếm, địch gây ra nạn đói cốt để tuyển mộ ngụy binh. Đồng thời, thiên tai liên tiếp xảy ra, gây ra hạn hán, lũ lụt làm mất mùa.
Nguyên nhân không kém phần quan trọng là chế độ bóc lột của địa chủ phong kiến ở thôn quê đối với nông dân. Mấy năm gần đây trong tháng ba ngày tám, một số địa chủ và phú nông không cho dân vay mượn hoặc thừa lúc dân nghèo túng cho vay nặng lãi hơn.
Chỉ thị cho rằng, những nguyên nhân khách quan kể trên có một ảnh hưởng nhất định đối với nạn đói. Nhưng, Chỉ thị nhấn mạnh rằng, nguyên nhân chủ quan để xảy ra nạn đói lại nghiêm trọng hơn. Vì vậy, chúng ta phải nhận rõ những khuyết điểm chủ quan để nhận thức đúng về công tác phòng đói, cứu đói và tích cực sửa chữa, cải tiến công tác.
Các tỉnh phải tích cực phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm. Trong việc chống nạn đói thì việc phòng đói là căn bản, mà biện pháp phòng đói quan trọng nhất là phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Trung ương nhắc các địa phương thi hành đúng kế hoạch sản xuất, tiết kiệm của Chính phủ, chú trọng sản xuất lương thực (lúa, ngô, khoai, sắn...), phải kết hợp công tác tăng gia sản xuất và tiết kiệm với công tác phát động quần chúng nói chung và thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ.
Các tỉnh đặc biệt chú ý phát triển sản xuất đi đôi với bảo vệ sản xuất, chuẩn bị đối phó một cách thích hợp với mọi thủ đoạn phá hoại của địch; ra sức chống thiên tai; triệt để thi hành các chỉ thị của Chính phủ về phòng hạn, chống hạn, phòng lụt, bảo vệ rừng; phát triển xã dân tín dụng; quỹ nghĩa thương và các tổ đổi công hợp công để phát triển sản xuất.
Đối với công tác cứu đói, Trung ương cho rằng tích cực phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm thì căn bản sẽ tránh được nạn đói. Ở nơi nào xảy ra nạn đói thì phải ra sức cứu đói với phương châm chung là kiên quyết lấy chỗ có, người có để cứu chỗ đói, người đói.
Nhiệm vụ cụ thể của công tác này là phát động, tổ chức quần chúng vay thóc gạo của địa chủ, phú nông. Nguyên tắc vay thóc gạo là thuyết phục đi đôi với bắt buộc. Đồng thời đình chỉ việc nộp tô và trả nợ (vốn và lãi) cho địa chủ và phú nông, xuất thóc phụ thu quỹ xã, thóc quỹ thương cho dân vay và các cửa hàng mậu dịch quốc doanh điều vận thóc gạo bán cho dân, đồng thời mua lâm thổ sản của dân.
Trung ương chỉ rõ, phải làm cho việc cứu đói thành một phong trào quần chúng, phải động viên, tổ chức, lãnh đạo quần chúng phát huy dân chủ, phát huy tích cực của quần chúng để dựa trên lực lượng quần chúng mà tiến hành việc cứu đói cho quần chúng. Phải chống lại tác phong quan liêu, chỉ dựa vào biện pháp hành chính trong việc cứu đói.
Vì vậy, Trung ương chỉ ra nhiệm vụ của cấp uỷ Đảng ở những nơi có nạn đói là: Việc phòng đói và cứu đói là một công tác chính trị quan trọng, các cấp uỷ phải đặc biệt quan tâm đến công tác đó và chịu trách nhiệm trước Trung ương về việc phòng đói và cứu đói trong địa phương mình.
Các Cấp uỷ Đảng và chính quyền phải nắm vững tình hình sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nguy cơ thiên tai và địch hoạ để định kế hoạch phòng đói và cứu đói cho kịp thời.
Ở những nơi xảy ra nạn đói, phải thực hiện "cứu đói như cứu lửa" và phải tổ chức ra những ban cứu đói đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban Kháng chiến hành chính.
Chỉ thị của Ban Bí thư đã có tác dụng nhanh chóng thúc đẩy các cấp, các ngành ổn định, phát triển sản xuất, kịp thời cứu đói và phòng đói.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.207-213.
NGÀY 26-5
Nghị quyết của Khu uỷ Tả ngạn về việc thống nhất lãnh đạo ở các vùng sau lưng địch
Thống nhất lãnh đạo ở các vùng sau lưng địch là một trong những nguyên tắc căn bản của Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức. Bất cứ ở đâu, ở những vùng sau lưng địch hay vùng tự do, ở ngành công tác nào cũng phải chấp hành triệt để. Đặc biệt đối với vùng sau lưng địch, nơi địch đang tập trung và kết hợp mọi lực lượng quân sự, chính trị và kinh tế để thực hiện âm mưu bình định "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, "dùng người Việt đánh người Việt”, thì nguyên tắc thống nhất lãnh đạo lại càng trở nên vô cùng quan trọng.
Vì vậy, Khu uỷ đề ra việc thống nhất lãnh đạo ở các vùng sau lưng địch để tránh tình trạng lủng củng về sự thực hiện các chủ trương, đường lối công tác của Đảng tại các cấp các ngành, tập trung mọi lực lượng quân, dân chính, Đảng chĩa vào địch, đồng thời buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó với ta, đảm bảo bí mật và phải được nhẹ nhàng, đơn giản, thích hợp với hoàn cảnh chiến tranh du kích.
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ để thống nhất lãnh đạo công tác vùng sau lưng địch là: phải có sự thống nhất lãnh đạo, mà muốn có sự thống nhất lãnh đạo phải thống nhất tư tưởng, tư tưởng có thông suốt từ trên xuống dưới, từ trong Đảng ra ngoài nhân dân, cán bộ, đảng viên có nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ thì việc thống nhất lãnh đạo mới có kết quả. Hơn nữa, phải có sự thống nhất lãnh đạo giữa các cấp uỷ các cấp, giữa cấp uỷ và các ngành, giữa các ngành dọc, giữa các ngành trong dân vận...
Tô chức bộ máy hợp lý, nhất là bộ máy quân, dân, chính, Đảng phải gọn nhẹ và bí mật để luôn bám sát địa phương trong mọi trường hợp.
Tăng cường thống nhất lãnh đạo ở thôn: Kinh nghiệm mấy năm vừa qua tại các vùng sau lưng địch, thấy rằng trong hoàn cảnh chiến tranh các xã mới của ta không nắm sát được tình hình các thôn, về thực tế địch đã lấy thôn làm đơn vị cơ sở để đánh ta và ta cũng đã phải dựa vác thôn để chống địch. Để thống nhất lãnh đạo thì phải tổ chức lại cách làm việc và sắp xếp lại cán bộ ở xã để đơn giản xã và tăng cường cho cán bộ.
Dưới thôn, cần có sự thống nhất liên hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa tổ chức này với tổ chức khác.
Kết hợp việc xây dựng tổ chức với việc thực hiện nhiệm vụ, chính sách: Công tác này phải được coi trọng để việc tổ chức gọn nhẹ nhưng vẫn đảm bảo được công việc địa phương, làm tốt nhiệm vụ, chính sách của Đảng, của khu.
Ngoài ra, Nghị quyết chỉ rõ đối với vùng tạm chiếm, cần thống nhất lãnh đạo để tránh sự lợi dụng của bọn phản động.
Nghị quyết cho rằng, để thực hiện thống nhất sự lãnh đạo, trước hết, chúng ta cần nhận rõ sự quan trọng của vấn đề, kiểm điểm lại những khuyết điểm cũ chấn chỉnh lề lối làm việc và tổ chức cho thích hợp với công tác bí mật và hoàn cảnh ở các vùng sau lưng địch.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 33, phông khu Tả ngạn
THÁNG 5
Tổng Quân uỷ ra Nghị quyết về chỉnh quân chính trị
Nhằm nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp của bộ đội lên một bước và làm cho tổ chức bộ đội được củng cố, trong sạch, đề cao sức chiến đấu của bộ đội, để bộ đội trở thành một lực lượng lớn mạnh kiên quyết ủng hộ chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, tháng 5-1953, Tổng Quân uỷ ra Nghị quyết về chỉnh quân chính trị.
Nghị quyết chỉ rõ nội dung học tập là chính sách phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất của Đảng. Phương châm chung là nghiêm túc, thận trọng, lấy việc giáo dục làm chính, kết hợp với việc kiểm tra, điều chỉnh có trọng điểm.
Ngày 23-6-1953, lớp chỉnh quân chính trị cho cán bộ trung cấp, cao cấp do Tổng Quân uỷ trực tiếp phụ trách tiến hành tại Việt Bắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị cho lớp học, Người nói: "Mục đích chỉnh quân là làm cho quân đội ta thành một quân đội nhân dân cách mạng quyết chiến quyết thắng.
Vì rằng: dù có bao nhiêu khí giới tinh xảo mà người (nói chung cả cán bộ và chiến sĩ) không có lập trường vững, quan điểm đúng, tinh thần trong sạch, một lòng một dạ phục vụ nhân dân thì súng đó cũng bỏ đi".
Tháng 7, tháng 8-1953, cán bộ sơ cấp và chiến sĩ tiến hành chỉnh quân. Qua học tập, những cán bộ, chiến sĩ xuất thân từ nông dân lao động đã vươn lên mạnh mẽ về tư tưởng, phát huy tinh thần làm chủ, xoá bỏ mọi ảnh hưởng tự ti. Những cán bộ, chiến sĩ xuất thân từ gia đình thành phần bóc lột quyết tâm "thay xương đổi cốt", kiên quyết vứt bỏ ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp bóc lột, đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để cải tạo mình thành cán bộ, chiến sĩ tốt.
Việc giáo dục chính trị đã nung nấu thêm lòng căm thù giặc, tăng thêm lòng yêu nước, yêu nhân dân lao động, củng cố chặt chẽ sự đoàn kết nội bộ. Nhờ có nội dung giai cấp rõ rệt, các mặt hoạt động công tác chính trị càng trở nên sâu sắc, phong phú.
Chỉnh quân chính trị là một cuộc vận động giáo dục lớn của quân đội ta. Nó làm cho quân đội ta được nâng cao một bước về giác ngộ giai cấp và về trình độ hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin.
Qua chỉnh quân chính trị, sức mạnh về tư tưởng và tổ chức của quân đội ta được tăng lên.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.282-283.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính tri, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.378-380.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.135.
NGÀY 30-5
Khu uỷ Tả ngạn ra Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ công tác Công giáo vận
Nhằm vận động giáo dân đi theo kháng chiến, chống lại chính sách "dùng người Việt đánh người Việt”, "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", ngày 30-5-1953, Khu uỷ Tả ngạn ra Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ công tác Công giáo vận.
Nghị quyết chỉ rõ, thực dân Pháp câu kết với cha cố để phá hoại ta thông qua việc tổ chức liên tiếp các cuộc chầu lễ, tăng giờ cầu nguyện, tổ chức rước lớn... Chúng còn lừa bịp giáo dân, phao tin đồn nhảm làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với sự nghiệp kháng chiến.
Trước những hành động phá hoại đó, Khu uỷ Tả ngạn đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vạch trần âm mưu, hành động lừa bịp của giặc và bọn phản động đội lốt tôn giáo. Đồng thời khu cũng đã lãnh đạo giáo dân đòi và bảo vệ quyền lợi, đạt nhiều kết quả.
Khu tiến hành chia lại công điền và tạm cấp ruộng đất của Việt gian vắng chủ cho giáo dân nghèo, đòi nhà chung giảm tô. Đi đôi với công tác tuyên truyền giáo dục và lãnh đạo đấu tranh, khu đã tiến hành công tác chấn chỉnh, củng cố tổ chức quân dân chính trong vùng Công giáo và phát triển các hình thức tổ chức quần chúng để thu hút giáo dân. Tuy đạt được kết quả, nhưng công tác vận động giáo dân vẫn còn khuyết điểm: công tác vận động nặng về hình thức, sôi nổi bề ngoài, không chú trọng đi sâu giáo dục giáo dân và xây dựng cơ sở, không chú trọng nghiên cứu kỹ những âm mưu lớn của địch để đặt kế hoạch đối phó kịp thời; cán bộ vận động giáo dân còn thành kiến và ngại đi sâu vào vùng Công giáo...
Trước tình hình đó, Nghị quyết của Khu uỷ đã đề ra kế hoạch xây dựng cơ sở vùng Công giáo.
Đó là cần phải tiến hành công tác điều tra, cán bộ chú ý điều tra tình hình và hoạt động của địch, của các phần tử phản động đội lốt tôn giáo để bố trí công tác của cán bộ ta cho thích hợp. Điều tra tìm những mâu thuẫn giữa cha cố với quần chúng giáo dân để khơi lòng căm thù của giáo dân, mâu thuẫn giữa địa chủ cường hào Công giáo với giáo dân, điều tra tìm những thắc mắc nguyện vọng của quần chúng để tìm cách giải quyết.
Đồng thời với công tác điều tra, phải tiến hành công tác tuyên truyền giáo dục.
Tuyên truyền trong khu phải chú ý đến các chính sách tôn giáo, đoàn kết giáo dân và nhất là chính sách ruộng đất, qua đó đề cao vai trò của Đảng, nông dân trong cuộc kháng chiến.
Sau khi tuyên truyền giáo dục, cán bộ tiến hành tổ chức giáo dân với các hình thức tổ chức tuỳ theo từng vùng, vùng tạm chiếm thì dưới hình thức gia đình yêu nước, vùng du kích thì dùng tổ chức chính quyền, dân quân du kích để tập hợp giáo dân.
Nghị quyết nhấn mạnh rằng, công tác Công giáo vận hết sức quan trọng trong việc củng cố đoàn kết góp phần kháng chiến nên các tỉnh phải cải tiến tổ chức, sắp xếp bộ máy cho hoàn thiện để làm tốt công tác này.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng ĐVBQ 33, phông khu Tả ngạn.
NGÀY 10-6
Bộ Chính trị ra Chỉ thị Hướng dẫn các Đoàn uỷ, Liên khu uỷ về công tác phát động quần chúng
Để giải đáp những yêu cầu của các địa phương, Trung ương ra chỉ thị gửi cho các đoàn uỷ đoàn công tác phát động quần chúng và các Liên khu uỷ.
Chỉ thị chỉ rõ từng vấn đề như sau:
Đối với những nơi chưa phát động quần chúng, nếu địa chủ và phú nông tự ý xin thoái tô và thoái tiền công quỵt thì chưa vận động. Nhưng căn cứ vào báo cáo của một vài địa phương thì ở nhiều xã trong những vùng chưa phát động quần chúng, có một số địa chủ và phú nông sợ bị đấu, đã tự ý thoái tô và thoái tiền công quỵt với nông dân. Nên chủ trương của ta là vẫn không vận động thoái tô và thoái tiền công quỵt ở những nơi chưa phát động quần chúng. Địa chủ hay phú nông nào muốn xin thoái tô và thoái tiền công quỵt phải trình Nông hội xã.
Bất cứ địa chủ lớn hay nhỏ, nếu tự ý xin thoái thì đều được thoái, không nên chỉ nhận cho địa chủ nhỏ thoái mà thôi. Đồng thời, Chỉ thị cũng nêu rõ thời gian thoái tiền công là: công quỵt là chỉ kể những ngày công mà nông dân phải làm cho địa chủ, như cày bừa, cấy gặt hoặc phục dịch trong nhà địa chủ, những ngày công tu sửa đường xá, cầu cống, chợ búa… trong ấp, trong xã thì không kể vào tiền công quỵt.
Thời gian thoái tiền công quỵt chỉ tính từ năm 1949 đến năm 1953, cũng như thời gian thoái tô.
Về vấn đề thoái tô trâu bò, Trung ương chủ trương không thoái tô trâu, lý do là phải tập trung lực lượng làm nhiệm vụ chính là giảm tô.
Vấn đề sung công rừng, nên thực hiện theo Sắc lệnh ruộng đất. Khi thi hành, các địa phương nên nhận rằng những điều quy định đó chủ yếu nhằm núi rừng, đồi bỏ hoang của địa chủ. Nếu sung công một cách máy móc sẽ đụng chạm cả đến quyền lợi của nông dân.
Đối với vấn đề thu thuế nông nghiệp vụ chiêm năm 1953 ở các thí điểm, Trung ương xét thấy rằng, đối với những thuế của địa chủ dây dưa những vụ trước, ở những thí điểm, nếu cần chính phủ có thể tạm hoãn việc bắt thanh toán, nhường cho nông dân đòi thoái tô và thoát tiền công trước. Nhưng với thuế vụ chiêm này thì không thể hoãn, vì nếu hoãn sẽ không bảo đảm được cung cấp, ngân sách sẽ bị ảnh hưởng, mặc dầu số thí điểm không nhiều, sẽ làm "đầu têu” cho các nơi chưa phát động quần chúng và cho cả những nơi phát động quần chúng sau này và bọn địa chủ có thể lợi dụng việc hoãn thu thuế đó mà dây dưa thuế.
Đối với vấn đề về mức yêu cầu tổ chức trong phát động quần chúng, Trung ương quy định rằng, trong phát động quần chúng, mức yêu cầu về tổ chức là 30% so với nhân số toàn thôn (trừ người già, người ốm và trẻ con) đối với tổ chức nông hội. Đồng thời, Chỉ thị cũng nêu rõ quyền hạn của các đoàn và đội công tác phát động quần chúng tại Liên khu Việt Bắc, Liên khu IV do Trung ương trực tiếp lãnh đạo. Các đoàn đó trực tiếp liên lạc với Liên khu uỷ. Về mọi chủ trương, đường lối ở những xã thí điểm, Trung ương chỉ thị thẳng cho các đoàn, các đoàn chỉ thị thẳng cho các đội. Trong công tác, nếu có ý kiến khác nhau giữa Đoàn uỷ và Liên khu uỷ thì làm theo ý kiến của đoàn, song đoàn phải báo cáo lên Trung ương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.223-231.
NGÀY 15-6
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về việc lãnh đạo công tác làm cầu, đường giao thông vận tải
Để đáp ứng nhu cầu kháng chiến trong giai đoạn tiến công và phản công, ngày 15-6-1953, Ban Bí thư ra Chỉ thị gửi cho các cấp, các ngành về việc lãnh đạo công tác làm cầu, đường giao thông vận tải.
Chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ của ngành giao thông vận tải là phải làm những đường tốt, cần thiết để đảm bảo việc vận chuyển quân sự, bớt gánh nặng vận chuyển cho dân, đồng thời cũng để mở rộng việc vận chuyển kinh tế.
Do đó, cấp uỷ Liên khu Việt Bắc và các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Liên khu IV và tỉnh Thanh Hoá, Liên khu III và tỉnh Hoà Bình, phải tăng cường việc lãnh đạo công tác làm đường, cầu, điều động những cán bộ tích cực, có năng lực phụ trách các công tác ấy để thực hiện cho kỳ được kế hoạch của Trung ương.
Cấp uỷ những tỉnh trên phải làm những việc sau:
Phải trực tiếp phụ trách công tác làm đường, cầu, cử cán bộ có năng lực phụ trách công tác này và chịu trách nhiệm trực tiếp với tỉnh uỷ (nếu có tỉnh uỷ viên thì càng tốt). Tỉnh uỷ phải hằng ngày theo dõi, lãnh đạo công tác làm đường, cầu và có kế hoạch kiểm tra cho chu đáo. Hằng tháng phải có kế hoạch cụ thể về công tác làm đường, cầu.
Phải cho một số cán bộ có năng lực hoặc một tỉnh uỷ viên tham gia vào cơ quan chuyên môn để trực tiếp phụ trách công tác làm cầu, đường.
Phải giúp đỡ cơ quan chuyên môn giải quyết mọi khó khăn như huy động dân cày, tiếp tế gạo, mua hoặc là dụng cụ bố trí cán bộ vào các công trường, kiểm tra và đôn đốc cán bộ chuyên môn...
Phải chú ý việc phòng gian, bảo vệ đường, cầu, phà, phải lãnh đạo công an, bộ đội địa phương tổ chức việc phòng gian, bảo vệ, tổ chức nhân dân hai bên đường tham gia bảo vệ cầu, đường.
Chỉ thị lưu ý, gặp lúc địch tăng cường phá hoại, các tỉnh phải có kế hoạch bảo đảm vận chuyển, đường xá thông suốt. Phải chấn chỉnh các bến phà, thêm cán bộ chính trị vào công tác phà, giáo dục người chở phà, chở thuyền ở các bến.
Trung ương nhấn mạnh, vì mấy tháng mùa khô vừa qua công việc làm đường chậm và kém, nên phải tranh thủ những tháng tới với tinh thần tích cực, khẩn trương.
Quán triệt Chỉ thị của Trung ương, trong suốt thời gian cuối của cuộc kháng chiến, các liên khu, các tỉnh, các cấp các ngành và quần chúng nhân dân đã khẩn trương, tích cực với nhiệt tình cao nhất để làm và bảo vệ cầu, đường thông suốt.
Năm 1953, mặc dù địch đánh phá ác liệt, nhưng chúng ta đã làm mới được 156 km, sửa chữa, tu bổ đưa vào hoạt động thêm 2.075 km đường bộ.
Các tập đoàn vận tải của nhân dân cũng được Chính phủ khuyến khích phát triển. Chỉ tính từ Liên khu IV trở ra đã có 34 công đoàn thuyền, 216 tập đoàn vận tải thô sơ, 1 tập đoàn ô tô. Phương tiện vận tải chủ yếu trên đường thuỷ là thuyền, trên đường bộ là xe súc vật kéo và xe đạp. Lực lượng xe đạp thồ phát triển nhanh chóng: ở Phú Thọ năm 1953 có 616 chiếc, Thái Nguyên 700 chiếc. Năm 1953, Hội đồng cung cấp mặt trận đã huy động được 12.400 xe đạp thồ của đồng bào Việt Bắc phục vụ các chiến dịch. Nhờ huy động được lực lượng vận tải của toàn dân mà trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã hoàn thành được khối lượng vận chuyển gấp 36 lần chiến dịch Biên giới. Ngoài ô tô, ta đã sử dụng 11.800 thuyền mảng, ca nô, gần 21.000 xe đạp thồ, trên 26 vạn dân công, góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội 1997, tr.64.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.243-245.
NGÀY 15-6
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về chính sách đối với ngụy binh
Để phá tan âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt” của địch, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về chính sách đối với ngụy binh.
Chỉ thị chỉ rõ nhiệm vụ của công tác nguỵ vận là phá tan âm mưu địch "dùng người Việt đánh người Việt", thực hiện phương châm làm suy yếu địch và bồi dưỡng sinh lực ta. Cụ thể là: mở rộng sự tuyên truyền vào hàng ngũ nguỵ quân, vạch rõ tội ác của đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ và bọn bù nhìn bán nước, khêu gợi ý thức giai cấp của những người bị áp bức, bóc lột và tinh thần dân tộc của ngụy binh kết hợp tấn công quân sự với phát động quần chúng nông dân và các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân khác để làm suy yếu và tan rã hàng ngũ ngụy binh. Chỉ thị nêu lên chính sách đối với từng loại ngụy binh như sau:
Ngụy binh phản chiến, là ngụy binh tự nguyện quay về hàng ngũ kháng chiến, tự động bỏ hàng ngũ giặc về với bộ đội ta hoặc cứ ở trong nguy quân nhưng liên lạc giúp đỡ kháng chiến. Chính sách của ta là khen thưởng, ưu đãi họ về vật chất, khuyến khích họ về tinh thần, giúp họ đóng góp nhiều hơn cho cách mạng.
Đối với những người phản chiến lẻ tẻ, sau khi thẩm tra lý lịch sẽ tuỳ năng lực mà sắp xếp công việc cho thích hợp. Đối với những đơn vị phản chiến thì lúc đầu để nguyên tổ chức cũ, cử cán bộ vào giúp đỡ họ học tập quân sự, chính trị.
Đối với ngụy binh đầu hàng, tức là những ngụy binh tự động hạ vũ khí dưới áp lực quân sự và chính trị của ta hoặc trước sự tấn công của quân đội ta, chúng ta phải đối xử tử tế nếu họ đem theo vũ khí, tài liệu quân sự quan trọng và không bị nhân dân oán ghét thì khen thưởng họ. Đối với ngụy binh bỏ hàng ngũ giặc trở về nhà, nếu không bí mật làm tay sai cho giặc thì đều được hoan nghênh và che chở.
Đối với tù binh ngụy, là những ngụy binh bị bắt và bị tước vũ khí tại trận, chính sách của ta là không giết, không làm nhục, không ngược đãi họ và cứu chữa những người bị thương.
Đối với hương dũng, tổng dũng, hương vệ, bảo an, phải căn cứ vào tình hình cụ thể mà giải quyết cho thích hợp. Phân biệt bọn cầm đầu, bọn có nhiều tội ác, bọn làm tay sai cho giặc với những người bị bắt buộc, bị lừa bịp hoặc vì kế sinh nhai mà làm hương dũng, tổng dũng, hương vệ cho địch và ngụy. Nói chung vẫn là lôi kéo, giác ngộ và thu hút những quần chúng xuất thân từ công nông, song cảnh giác trước âm mưu trá hàng của bọn tay sai địch, ngụy. Đối với gia đình ngụy binh, nếu không làm tay sai cho giặc thì cũng xem như những gia đình công dân khác. Họ cũng được hưởng mọi quyền lợi về kinh tế, chính trị... Ngụy binh thuộc nông dân nghèo cũng được chia ruộng đất, những người đi làm ngụy binh không được tính vào nhân khẩu nông hội trong việc đóng thuế nông nghiệp.
Chỉ thị nhấn mạnh, trong khi chấp hành chính sách đối với các hạng ngụy binh cần đề cao tinh thần cảnh giác chính trị, đề phòng bọn gián điệp lợi dụng để phá hoại cách mạng.
Những chính sách đúng đắn của Đảng đối với ngụy binh, đã làm cho những người lầm đường lạc lối hiểu được việc làm sai trái của họ và thức tỉnh họ quay về với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.217-222.
NGÀY 13-7
Trung ương Đảng ra Nghị quyết về một số vấn đề đối với giai cấp địa chủ
Cuộc phát động quần chúng đòi giảm tô, thực hiện giảm tức đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Vì vậy, Trung ương đã ra nghị quyết nói rõ về những vấn đề đó, nhất là vấn đề đối với giai cấp địa chủ.
Về vấn đề giải thích chính sách cho địa chủ: Từ lúc bắt đầu phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất tới tháng 7-1953, trong những xã thí điểm và xã ngoài thí điểm luôn luôn có những địa chủ tự tử và phá hoại sản xuất, phần lớn là địa chủ nhỏ (ở Phú Thọ và Thanh Hoá). Nguyên nhân chính là vì cán bộ không nắm vững chính sách dựa vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, trung lập phú nông, phân biệt đối đãi với các hạng địa chủ, nên diện đấu tranh quá rộng, nhiều người sợ tội, sợ bị nhục hình phải tự tử.
Vì vậy, các Liên khu uỷ, Đoàn uỷ và các đội công tác cần chú ý giải thích chính sách cho địa chủ, phú nông, làm cho địa chủ hiểu rõ chính sách mà thi hành, không tìm cách chống lại, tranh thủ được đa số, cô lập thiểu số, chia rẽ mặt trận của giai cấp địa chủ.
Vấn đề áp dụng quyền chống án của những người bị xét xử ở các toà án nhân dân đặc biệt, Nghị quyết cho rằng các đoàn, đội công tác phải tuân theo Sắc lệnh 15C-SL, không nên sửa Sắc lệnh, phải để quyền chống án của bị can.
Đối với vấn đề xử án ở các Toà án nhân dân đặc biệt: Qua một vụ đấu tranh ở hai xã Đồng Bẩm và Dân Chủ, toà án nhân dân đặc biệt ở đó đã xử 2 án tử hình và 18 án tù từ 2 năm đến chung thân. Vì ta chưa có tiêu chuẩn xử án nên nơi xử nặng, nơi nhẹ quá. Vì vậy, Trung ương đề ra mấy nguyên tắc khi xử án: phạm tội sau Cách mạng Tháng Tám xử nghiêm hơn tội trước cách mạng, tội chính trị xử nghiêm hơn tội kinh tế, tội giết người xử nghiêm hơn tội bóc lột...
Lúc xử cũng cần xem xét mọi mặt, cốt làm cho nông dân hăng hái và đập tan uy thế địa chủ, phải tuỳ từng trường hợp mà xử trí cho thích đáng.
Về vấn đề địa chủ gán ruộng hoặc tịch thu ruộng đất của địa chủ để thanh toán thuế, Trung ương chỉ thị cho các địa phương không được cho địa chủ gán ruộng hoặc tịch thu ruộng đất của địa chủ để thanh toán thuế phải đưa vấn đề địa chủ chạy thuế ra trước quần chúng, bắt chúng nộp bằng thóc hoặc tiền hay dùng pháp luật để trừng trị.
Đối với địa chủ tự ý trả ruộng hoặc giao canh, ta chủ trương: nếu địa chủ bỏ ruộng hoang hoặc không thu tô thì tá điền cứ tiếp tục cày cấy, hưởng hoa lợi và nộp thuế nông nghiệp. Địa chủ sợ đấu trả ruộng đất hoặc mua rẻ ruộng đất đã chiếm đoạt của nông dân phải qua Hội nghị nông dân xem xét điều cốt yếu là chỉ cho nông dân thấy rõ thủ đoạn của địa chủ là trốn đấu tranh và trốn thuế nông nghiệp. Đối với vấn đề nhận ruộng hiến của một số người được chiếu cố, chủ trương chung của Trung ương là không khuyến khích hiến ruộng và không nhận ruộng hiến để ngăn ngừa thủ đoạn trốn tránh đấu tranh của địa chủ và để cho nông dân khỏi thắc mắc: nông dân thì muốn đấu, Chính phủ và đoàn thể lại nhận ruộng hiến.
Hơn nữa nhận ruộng hiến chia cho nông dân là một cách hoà bình để cải cách một phần ruộng đất, không làm cho nông dân giác ngộ quyền lợi giai cấp. Nhưng chúng ta cũng cần chiếu cố một số thân sĩ, gia đình có công che giấu cán bộ trước cách mạng ở vùng tự do nếu họ muốn hiến ruộng mà nông dân muốn nhận để cày cấy thì nên đồng ý.
Về vấn đề thủ đoạn của cha cố trốn tránh đấu tranh: ở một số địa phương, có một số linh mục vì có tội phản động sợ bị trừng trị hoặc sợ quần chúng đấu tranh đã bỏ vùng căn cứ du kích, vùng tự do chạy vào vùng tạm bị chiếm (Phú Thọ 1 linh mục, Hải Dương 6 linh mục, Nam Định 8 linh mục, Thanh Nghệ 12 linh mục, Ninh Bình 25 tu sĩ...).
Đối với vấn đề này, Trung ương chỉ rõ: đối với cha cố cũng như địa chủ cần giải thích chính sách ruộng đất cho họ hiểu để tranh thủ phần tử kháng chiến, cô lập bọn đầu sỏ phản động. Nếu nhà chung thi hành lối giao canh (giao ruộng cho tá điền cày cấy không thu tô) thì nông hội tuyên bố ai cầy người ấy hưởng và nộp thuế nông nghiệp.
Nghị quyết Trung ương quyết định thi hành kỷ luật đối với cán bộ một số nơi để xảy ra những cuộc đấu tranh tự phát ở Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Ninh Bình, Hoà Bình, Hải Dương… Đồng thời Nghị quyết cũng chỉ ra nguyên nhân đấu tranh tự phát một phần do bọn cường hào gây nên để làm sai lạc đường lối đấu tranh (Bắc Giang, Tuyên Quang), một phần cán bộ xã, huyện, tỉnh tự ý phát động quần chúng (Tuyên Quang, Ninh Bình, Hải Dương, Hoà Bình...).
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 12, phông Trung ương.
NGÀY 16-7
Ban Bí thư ra Thông tri Về việc các Đảng bộ địa phương ra công khai
Sau Đại hội Đảng tháng 2-1951, Đảng ta ra công khai hoạt động, công bố Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ của Đảng. Trung ương đã tổ chức lễ ra mắt nhân dân trong dịp Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt toàn quốc. Nhưng nhiều địa phương không nhận rõ mục đích, ý nghĩa việc Đảng ra hoạt động công khai, nên chỉ tổ chức những buổi lễ ra mắt một cách hình thức, có nơi gây ra dư luận xấu trong quần chúng. Vì vậy, Trung ương đã có chỉ thị ngừng việc tổ chức lễ ra mắt ở các địa phương. Hội nghị Cán bộ tổ chức toàn quốc họp tháng 3-1953 đã quyết định kết hợp chỉnh đốn chi bộ với phát động quần chúng và sau phát động quần chúng ở vùng tự do, chi bộ nào chỉnh đốn xong thì sẽ ra hoạt động công khai. Do vậy, Ban Bí thư chỉ thị, các đảng bộ địa phương chưa chính thức ra mắt quần chúng thì cần chuẩn bị cán bộ để ra mắt.
Điều cần chú ý là việc giới thiệu những đồng chí đại diện của Đảng bộ địa phương phải đi đôi với việc tuyên truyền, giải thích, phổ biến chính sách của Đảng. Trong các cơ quan chính quyền, quân sự, mặt trận, đoàn thể quần chúng phải có đại diện của Đảng bộ địa phương hoặc những cán bộ có trình độ chính trị, có uy tín đem đường lối, chính sách của Đảng bàn bạc, giải thích cho người ngoài Đảng hiểu rõ và họ góp ý kiến và tự nguyện chấp hành. Khi quyết định những chủ trương, chính sách quan trọng của địa phương cần bàn bạc, lắng nghe ý kiến quần chúng. Khi một cơ quan đảng hoặc cán bộ địa phương mắc sai lầm, phải có người đại diện Đảng đứng ra công khai tự phê bình trước quần chúng. Những cán bộ, đảng viên đại diện của Đảng bộ địa phương được giới thiệu ra công khai phải được lựa chọn cẩn thận.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.262-263.
NGÀY 15-6
Chủ trương Trung ương Đảng về đấu tranh chống địch phá giá đồng Đông Dương
Thực dân Pháp ra sức đeo đuổi chính sách chiến tranh xâm lược Việt - Miên - Lào, nên tài chính ngày càng kiệt quệ. Chính phủ Pháp phải lạm phát giấy bạc Pháp và giấy bạc Đông Dương, bóc lột nhân dân Pháp, nhân dân vùng tạm chiếm Việt - Miên – Lào. Vì lạm phát nên thực dân Pháp buộc phải phá giá đồng bạc Đông Dương với mục đích cướp bóc thật nhiều của cải nhân dân vùng tạm bị chiếm Việt - Miên- Lào để đeo đuổi chiến tranh xâm lược, để làm giàu thêm cho bọn tư bản Pháp và tư sản mại bản Việt Nam.
Việc phá giá đồng Đông Dương làm cho nhân dân vùng sau lưng địch thêm bần cùng để Pháp dễ dàng bắt lính. Việc này không những có hại đến nhân dân vùng sau lưng địch mà ảnh hưởng đến vật giá vùng tự do và ảnh hưởng một phần đến ngân sách Chính phủ ta.
Chỉ thị chỉ rõ đối sách của ta là phải tuyên truyền vạch mặt địch, làm cho nhân dân ta căm thù Pháp và bù nhìn, biến căm thù thành hành động để giành lấy thắng lợi trong các cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế và chính trị ở vùng sau lưng địch. Giải thích cho nhân dân thấy rõ những khó khăn của địch về mặt tài chính là kết quả thất bại của Pháp và thắng lợi của ta. Vạch rõ mặt Bảo Đại, Nguyễn Văn Tâm đồng lõa với đế quốc để ăn cướp tài sản của nhân dân ta.
Về vận động và tổ chức đấu tranh ở vùng sau lưng địch: Vận động công nhân, viên chức trong vùng địch đòi tăng lương và chống thải hồi viên chức, vận động binh lính địch chủ yếu là ngụy binh đòi tăng lương, vận động nông dân đấu tranh đòi tăng giá nông phẩm. Trong vận động kết hợp với việc chống địch bắt lính và tăng thuế, lãnh đạo đấu tranh phải triệt để lợi dụng những hình thức đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp, đảm bảo giữ gìn và mở rộng cơ sở ta.
Về đấu tranh tiền tệ và đấu tranh xuất nhập khẩu, phải nắm vững tình hình diễn biến của giá trị tiền Đông Dương trên thị trường để đạt tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền ta và tiền địch sát với thực tế, tránh thoát ly quần chúng, thị trường. Phải nắm vững diễn biến giá cả trên thị trường ở vùng địch, vùng sát địch và vùng tự do để tranh thủ mua vào bán ra có lợi, mua hàng ta cần dùng, bán mạnh lâm thổ sản với mục đích đẩy mạnh sản xuất ở vùng tự do.
Việc đấu tranh tiền tệ, phải mở rộng phạm vi đồng bạc của ta thu hẹp dần trận địa của đồng tiền địch. Tiền địch có khuynh hướng sẽ mất giá nhiều hơn, cho nên tránh tích luỹ tiền địch.
Trung ương cũng chỉ rõ việc tổ chức để tìm hiểu một cách chính xác, đầy đủ và nhanh chóng mọi chính sách, hành động, thủ đoạn của địch về kinh tế tài chính và biến chuyển về kinh tế tài chính là rất cần thiết cho cuộc đấu tranh của ta nên các cấp uỷ và Ban kinh tế liên khu, tỉnh phải coi đó là một công tác quan trọng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.235-242.
NGÀY 25-7
Khu uỷ Tả ngạn ra Nghị quyết về chống giặc bắt lính
Để đẩy mạnh xâm lược nước ta, thực dân Pháp thâm độc thi hành kế hoạch "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, trong đó việc tranh thủ thanh niên, bắt thanh niên của ta bổ sung cho quân số hao hụt là một vấn đề mà địch tiến hành rất quyết liệt.
Nghị quyết chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn của địch trong việc bắt lính: ở vùng tạm chiếm nông thôn, địch ra sức truỵ lạc hoá thanh niên mà điển hình là tỉnh Kiến An, chúng khuyến khích thanh niên chụp ảnh, đi guốc, mua sắm quần áo… Cùng với truỵ lạc hoá, địch bần cùng hoá thanh niên bằng cách vơ vét bóc lột thuế đinh điền, đảm phụ quốc phòng, công phiếu quốc gia… Chúng còn gây tâm lý cầu an cho thanh niên, dụ dỗ, doạ nạt và cưỡng ép thanh niên. Tất cả những hoạt động đó của địch nhằm đè bẹp hoạt động của ta thực hiện chính sách bình định, bảo vệ ngụy quyền, tranh thủ lực lượng thanh niên, đào tạo thành lực lượng hậu bị của chúng. Thủ đoạn bắt lính của địch làm cho thanh niên khiếp nhược, hoang mang, sợ chiến đấu và ỷ lại.
Trước tình hình đó, các tỉnh đã đẩy mạnh đấu tranh chống địch bắt lính, giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên, vạch trần thủ đoạn dã man của địch. Nhưng công tác này vẫn còn nhiều khuyết điểm. Năm 1950, việc đấu tranh còn nặng về phía quân sự, đấu tranh chống bắt lính chưa kết hợp với đấu tranh mọi mặt, đấu tranh không kết hợp với xây dựng tổ chức, củng cố và phát triển cơ sở, có nơi ngại đấu tranh vì cơ sở yếu ớt, coi thường chỉ đạo đấu tranh chống bắt lính, có tư tưởng đấu tranh sợ bị lộ...
Vì vậy, Nghị quyết của Khu uỷ đã đề ra nhiệm vụ chống bắt lính cho các tỉnh và cho từng vùng. Ở vùng tạm chiếm, tích cực lãnh đạo thanh niên và nhân dân đấu tranh chống bắt lính thường xuyên, không kể địch bắt nhiều hay ít và địa phương nào cũng phải lãnh đạo đấu tranh đến cùng. Vùng du kích phải đẩy mạnh việc bảo vệ thanh niên, không để cho thanh niên sa vào tay địch.
Nhiệm vụ cụ thể là giáo dục cho thanh niên và nhân dân nhận rõ âm mưu bắt lính của địch.
Giáo dục cho nhân dân và thanh niên, chú trọng giáo dục thanh niên, phụ nữ tinh thần đoàn kết chiến đấu tự bảo vệ mình, tẩy trừ mọi tư tưởng trụy lạc, lãng mạn. Giáo dục ý thức giai cấp, nêu rõ sự bóc lột, đàn áp, sự câu kết của địa chủ với đế quốc.
Đồng thời, phải tuyên truyền mạnh mẽ để kịp thời vạch rõ và đập tan thủ đoạn lừa bịp, phản tuyên truyền, dụ dỗ của địch; phổ biến các cuộc đấu tranh chống bắt lính thắng lợi và các kinh nghiệm đấu tranh cho nhân dân và thanh niên học tập, nêu cao chiến thắng của ta, thất bại của địch. Khi đấu tranh phải nêu rõ khẩu hiệu "Cương quyết không đi ngụy binh, làm bia đỡ đạn", "đi ngụy binh là nhục"... Công tác chống bắt lính ở vùng căn cứ du kích là chống phá càn kết hợp với sản xuất, thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, ở vùng tạm chiếm chống bắt lính phải kết hợp với công tác chống áp bức, bóc lột, chống văn hoá nô dịch và ngụy vận.
Nghị quyết cũng nhận định rằng, công tác chống bắt lính của ta từ năm 1950 đến năm 1953 có tiến bộ, song vẫn còn yếu trước sự trắng trợn của địch. Vì vậy, các cấp uỷ Đảng, các ngành phải tăng cường lãnh đạo đấu tranh chống bắt lính, vận động nhân dân, thanh niên đoàn kết, nêu cao tinh thần yêu nước căm thù giặc, cương quyết không đi lính.
Thực hiện Nghị quyết của Khu uỷ, các tỉnh Tả ngạn đẩy mạnh công tác ngụy vận và đấu tranh chống bắt lính.
Trong vùng tạm bị chiếm, ngoài những cuộc đấu tranh lẻ tẻ khu phát động được hơn 50 cuộc tranh đấu có tổ chức, có cuộc huy động hàng ngàn người tham gia, vận động được nhiều đợt tòng quân, động viên thanh niên đi bộ đội và tham gia du kích. Ở Tiên Lãng và Vĩnh Bảo, khu đã động viên được hơn 100 thanh niên Công giáo tòng quân và 500 thanh niên Công giáo vào du kích chiến đấu. Hàng ngàn giáo dân đi đòi chồng con, gọi được gần 200 ngụy binh về với kháng chiến. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Khu Tả ngạn phát động phong trào “chăm chỉ làm ăn" trong toàn khu, nhằm chống âm mưu truỵ lạc hoá, bần cùng hoá, phản động hóa thanh niên, đưa thanh niên về với ruộng đồng, làm ăn lương thiện. Tỉnh đoàn, Thành đoàn Hải Phòng đã gây được phong trào "cam kết chống giặc bắt lính" được thanh niên và nhân dân tích cực hưởng ứng.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 33, phông khu Tả ngạn.
- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5, 1999, tr.16.
NGÀY 30-7
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về công tác kinh tế tài chính và sản xuất tiết kiệm
Công tác kinh tế, tài chính, ngân hàng, mậu dịch của ta mấy năm qua có nhiều tiến triển, chúng ta đã xây dựng được cơ sở để thực hiện dự trù ngân sách, ổn định tiền tệ, bình ổn vật giá. Kế hoạch thực hiện sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ đề ra cho các ngành, các cấp cũng đạt được kết quả nhất định, nhưng mức sản xuất chung không tăng, đời sống của nhân dân chưa được cải thiện.
Trước tình hình đó, Trung ương đã tiến hành kiểm điểm lãnh đạo và đề ra phương hướng công tác kinh tế, tài chính cho những năm sau.
Căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế tài chính, phát triển sản xuất là bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, của kháng chiến, xây dựng cơ sở vật chất cho kháng chiến và kiến quốc. Trung ương chỉ ra rằng, công tác sản xuất là công tác trung tâm bậc nhất của vùng tự do, nơi chưa phát động quần chúng. Ở nơi phát động quần chúng thì phát động quần chúng với sản xuất. Phương châm sản xuất mà sản xuất nông nghiệp là chính phải chú trọng sản xuất lúa, các hoa màu có chất bột để đủ ăn và có dự trữ phòng thiên tai, địch hoạ. Đó là phương châm căn bản để đảm bảo cấp lương thực cho nhân dân, bộ đội, mặt trận và để phòng đói. Về thủ công nghiệp và tiểu công nghệ, coi thủ công nghiệp là chính, nhất là thủ công nghiệp gia đình.
Lãnh đạo và tổ chức nhân dân sản xuất là nhiệm vụ của cơ quan phụ trách chính quyền và Đảng từ trung ương đến xã. Cho nên, cơ quan phụ trách của chính quyền và Đảng phải xác định lại cho đúng nhiệm vụ của mình đối với công tác sản xuất, đối với việc cải thiện đời sống của nhân dân, bộ đội, cán bộ, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, phát triển nền kinh tế tài chính chung, xây dựng cơ sở vật chất cho kháng chiến và kiến quốc. Phải nhận thức đúng nhiệm vụ và phải kiện toàn ban kinh tế, cơ quan canh nông, công thương, các ngành, các đoàn thể quần chúng nhất là nông hội và công đoàn.
Về công tác kinh tế tài chính, đặc biệt là công tác thu thuế phải thực hiện đúng chính sách và đúng mức, sửa chữa khuyết điểm của cán bộ trong công tác thu thuế. Để đảm bảo cung cấp cho kháng chiến, đồng thời giảm nhẹ sự đóng góp của tầng lớp sản xuất nhỏ của nhân dân lao động nghèo, Trung ương và Hội đồng Chính phủ đã quyết định: về thuế nông nghiệp nâng khởi điểm từ 71 kg lên 81 kg, hạ mức phụ thu cho quỹ xã từ 20% xuống 15% sẽ thu cho Chính phủ.
Về thuế thương nghiệp, phải giảm nhẹ cho người sản xuất nhỏ. Trung ương nhắc các cơ quan phụ trách và cán bộ các ngành, các cấp nhận thức cho đúng chính sách của Đảng và Chính phủ về đảm phụ chính sách thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp là công bằng, hợp lý và có tác dụng khuyến khích sản xuất.
Về đấu tranh tiền tệ với địch phải chú trọng vào tình hình quân sự, chính trị, kinh tế tài chính chung.
Đối với công tác bình ổn vật giá, phải tiếp tục giữ vững giá gạo tiến tới hạ dần giá gạo ở nơi còn quá cao, giữ mức chênh lệch hợp lý giữa giá gạo và các giá hàng khác.
Công tác dân công vận tải và cầu đường có nhiều tiến bộ nhưng giá vận tải còn quá cao, phải điều hoà cho hợp lý.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.264-276.
NGÀY 9-8
Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về chỉnh đốn công tác phát động quần chúng
Khi phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng, nhằm triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, một số nơi có những sai lầm, lệch lạc. Do đó, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết để chỉnh đốn công tác phát động quần chúng.
Bộ Chính trị nhận định rằng, đợt thí điểm phát động quần chúng đã mang lại một phần lợi ích cho nông dân, nông dân giành được ưu thế chính trị. Tuy nhiên, qua các đợt phát động quần chúng, khuyết điểm rõ nhất là chưa nhận rõ đối tượng cần đấu tranh, một số cán bộ chưa thật tin ở bần cố nông.
Vì vậy, Bộ Chính trị nêu rõ: phải đấu tranh chống đế quốc và chống địa chủ, liên hiệp với phú nông, trong đấu tranh phải dựa vào chính quyền cấp trên nhiều hơn làm cho nông dân thật sự làm chủ nông thôn. Do đó, phải tin tưởng họ, giáo dục và thực sự phát huy tác dụng của họ và thoả mãn một cách thích đáng quyền lợi của họ. Đối với phú nông, bảo tồn kinh tế của họ, nhưng không được nắm quyền lãnh đạo. Cần vận dụng sách lược đấu tranh với địa chủ không vơ đũa cả nắm.
Bộ Chính trị còn nhấn mạnh mục đích, yêu cầu, nội dung của đợt phát động này chỉ là bước chuẩn bị để tiến lên cải cách ruộng đất. Nghị quyết cũng đề ra giới hạn cụ thể của những yêu sách về giảm tô, thoát tô, về chia quyền lợi, về diện tích để khám và xét xử địa chủ phạm pháp.
Trong phương pháp phát động quần chúng, Nghị quyết chỉ ra rằng, Chính phủ, các cấp chính quyền cần tham gia việc thanh toán những vụ án chính trị đặc biệt. Phương pháp chủ yếu là: tuyên truyền, giáo dục, tổ chức học tập, sơ bộ chấn chỉnh các tổ chức ở xã, đấu ngã cường hào và tổng kết kinh nghiệm.
Nghị quyết của Bộ Chính trị Về chỉnh đốn công tác phát động quần chúng đã kịp thời uốn nắn những sai lầm, lệch lạc trong phát động quần chúng nông dân - đội quân chủ lực cách mạng tiến hành cải cách ruộng đất.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.277-293.
NGÀY 15-8
Liên khu uỷ V ra Chỉ thị về phòng đói, cứu đói ở vùng thượng du
Đồng bào thượng du hàng năm bị đói từ 4-5 tháng và nạn đói năm 1953 có 10.000 người ở vùng giáp ranh bị đói.
Trước tình hình đó, Liên khu uỷ ra Chỉ thị, chỉ rõ nguyên nhân của nạn đói.
Nguyên nhân khách quan trọng yếu gây ra nạn đói là do địch cướp phá, càn quét, giết hại gia súc ở vùng giáp ranh và vùng du kích, là do địch bắt lính, bắt xâu, lấy thuế nặng nề, bần cùng hoá nhân dân ở vùng tạm bị chiếm. Hơn nữa, thiên tai xảy ra liên tiếp làm cho hạn hán, lụt lội mất mùa, nhưng chủ yếu vẫn là do địch hoạ.
Khuyết điểm của khu trong việc để nạn đói xảy ra là thiếu tinh thần trách nhiệm đối với nhân dân, không quan tâm đến đời sống nhân dân.
Vì vậy, Liên khu uỷ nhận định công tác phòng đói, cứu đói trở thành công tác chính, cấp bách và thường xuyên ở vùng thượng du.
Thực hiện công tác này là cứu đói cấp tốc với phương châm chung là: "kiên quyết lấy chỗ có, người có, giúp chỗ đói”. Nhưng công tác phòng đói vẫn là căn bản. Phòng đói là phát triển sản xuất thực hành tiết kiệm, đồng thời phải phát triển công tác mậu dịch, phòng bệnh cho nhân dân.
Công tác trung tâm trước mắt của vùng sau lưng địch là tăng gia sản xuất, phát triển du kích chiến tranh, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống áp bức, bóc lột của địch. Liên khu uỷ chỉ rõ, các cấp phải quan niệm công tác cứu chống đói là một công tác chính trị to lớn để thực hiện triệt để.
Quán triệt Chỉ thị của Liên khu uỷ, Quảng Ngãi tăng gia sản xuất để phòng, chống đói. Các tổ chức hội đồng canh, nông đoàn, các tổ vòng công, tổ sản xuất… đã tạo điều kiện cho nông dân nghèo giúp nhau điều hoà dân công, trâu bò, nông cụ, giống… để giữ vững và phát triển sản xuất.
Tại Gia Lai, năm 1953, nạn đói xảy ra trầm trọng ở vùng mới giải phóng An Khê, Đakbớt, do bị địch dồn dân và bị kìm kẹp gắt gao trong khu dồn, dân không sản xuất được. Đầu năm 1953, đã có hàng chục người chết đói ở vùng này, Tỉnh uỷ, huyện uỷ đã tập trung chỉ đạo cứu đói và chữa bệnh đi đôi với tăng gia sản xuất, vận động nhân dân vùng căn cứ giúp dân vùng mới giải phóng để sản xuất. Cán bộ, bộ đội chia sẻ phần lương thực thực phẩm của mình giúp dân, cùng ăn cháo, ăn rau với dân, giúp dân sản xuất.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 89, phông Liên khu V.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ Quảng Ngãi (1945-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai: Lịch sử Đảng bộ Gia Lai (1945-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
NGÀY 18-8
Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định thành lập Khu tiếp vận miền Nam Liên khu IV
Xét nhu cầu thực tế, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV, ngày 18-8-1953, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 299-TTg thành lập Khu tiếp vận miền Nam.
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập tại Liên khu IV kể từ ngày 1-7-1953, Khu tiếp vận miền Nam đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV. Khu tiếp vận miền Nam có nhiệm vụ:
- Vận chuyển các thứ quân dụng phẩm, tài liệu hàng hoá của các cơ quan chính phủ và đoàn thể.
- Đưa đón cán bộ giữa trung ương và các khu, các tỉnh miền Bắc với Bình - Trị - Thiên, miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Nghị định còn quy định việc trả cước phí. Riêng Bộ Quốc phòng không phải trả cước phí trong năm 1953.
- Khu tiếp vận miền Nam do một Giám đốc và một Phó giám đốc điều khiển.
- Phòng tiếp vận miền Nam thuộc Bộ Quốc phòng nay sáp nhập vào Khu tiếp vận miền Nam Liên khu IV. Việc biên chế và chi tiết tổ chức Khu tiếp vận miền Nam Liên khu IV do Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV căn cứ vào nhu cầu công việc mà quy định. Nhân viên giúp việc Khu tiếp vận miền Nam Liên khu IV do Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV bổ nhiệm.
- Tư liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, phông Phủ Thủ tướng, hồ sơ A3 - Q7.
NGÀY 20-8
Liên khu uỷ V ra Nghị quyết Về công tác địch vận, nguỵ vận
Trước tình hình địch bắt lính ồ ạt để bổ sung cho quân số thiếu hụt của chúng, Liên khu uỷ V ra Nghị quyết Về công tác địch vận, nguỵ vận, vạch rõ thủ đoạn của địch và chỉ ra những nhiệm vụ của Liên khu.
Từ đầu năm 1952 đến tháng 8-1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ra sức xây dựng đội quân "quốc gia giả hiệu” thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Từ một vạn quân cuối năm 1951 tăng lên 16 vạn và dự định đến cuối năm 1953 là 20 vạn.
Riêng tại Liên khu V, từ đầu năm 1952, địch dùng mọi thủ đoạn để bắt lính nhằm bần cùng hoá nhân dân, tuyên truyền, lừa bịp với luận điệu “độc lập" giả hiệu và "chống cộng". Phương châm bắt lính của địch là cưỡng bách, khủng bố, đàn áp, đi đôi với dụ dỗ, mua chuộc, bắt ồ ạt, đi đôi với bắt lẻ tẻ (trong vòng 6 tháng đầu năm 1953, địch bắt 8.000 thanh niên).
Trước tình hình đó, các cấp uỷ Đảng trong Liên khu đã tích cực tuyên truyền giáo dục tranh thủ nguỵ binh đi sâu vận động các lực lượng vũ trang và bán vũ trang địa phương làm yếu thế lực tề nguỵ. Tuy vậy trong công tác này, Liên khu vẫn còn nhiều khuyết điểm, đấu tranh chống bắt lính chưa rộng rãi, chưa lãnh đạo và chưa thấm nhuần phương châm chiến lược của Liên khu "du kích chiến là chính".
Vì vậy, Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ công tác địch vận, ngụy vận của Liên khu trong năm tới là:
Phải nhận rõ công tác địch, ngụy vận góp phần thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng của Trung ương: tiêu diệt sinh lực địch, phát triển du kích chiến tranh, bồi dưỡng lực lượng nông dân, lực lượng kháng chiến. Cho nên, công tác địch, ngụy vận của Liên khu cần biết kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ lâu dài (tranh thủ chính trị trong binh lính địch làm suy yếu và tan rã hàng ngũ địch) với nhiệm vụ trước mắt là phục vụ có kết quả cho chống càn quét, chống biệt kích, chống áp bức, bóc lột, bắt người cướp của của địch, bảo vệ tài sản tính mạng của nông dân, góp phần xây dựng cơ sở, phát trển du kích chiến tranh.
Thực hiện Nghị quyết của Liên khu uỷ V, Tỉnh uỷ Quảng Nam - Đà Nẵng đã tổ chức cho thanh niên học tập, thực hiện khẩu hiệu “dứt khoát đấu tranh, không chịu đi lính cho giặc”. Cán bộ đoàn thể về các vùng xung yếu, giáo dục, vận động các gia đình chống địch bắt lính. Đoàn thanh niên các xã Hoà Nhơn, Hoà Thắng, Hoà Tiến, Hoà Phương, Hoà Quý, tổ chức 19 lớp học cho 900 thanh niên. Học xong, thanh niên cam kết, hứa hẹn sẽ kiên quyết chống địch bắt lính. Phong trào chống bắt lính trong năm 1953 phát triển mạnh mẽ, nhất là trong hè 1953, mọi tầng lớp nhân dân trong vùng tạm chiếm đều tham gia. Nhiều bà mẹ nằm trên đường ray xe lửa, không cho địch chở con, em mình ra Huế huấn luyện. Công nhân Đà Nẵng xé cạc (căn cước), không để cho địch bắt lính. Nhiều em thiếu nhi ở Điện Bàn níu kéo người thân không cho địch bắt đi lính. Phong trào đấu tranh chống bắt lính lan rộng khắp các vùng. Trong năm 1953, trước sức đấu tranh của nhân dân, địch buộc phải thả 1.103 thanh niên trở về với gia đình, 1.182 lính nguỵ đã bỏ hàng ngũ địch về với nhân dân.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 9, phông Liên khu uỷ V.
TỪ NGÀY 27 ĐẾN NGÀY 29-8
Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an
Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nặng nề của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong kỳ họp từ ngày 27 đến ngày 29-8-1953, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết nhấn mạnh việc tăng cường công an về tổ chức cán bộ, quyết định đổi Thứ Bộ Công an thành Bộ Công an. Đồng chí Trần Quốc Hoàn được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Công an.
Lúc mới thành lập, Bộ Công an vẫn giữ nguyên hệ thống tổ chức của Thứ Bộ Công an.
Đây là bước phát triển mới về mặt tổ chức và xây dựng lực lượng của ngành công an đáp ứng tình hình và nhiệm vụ trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.352.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.302.
THÁNG 8
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về chấn chỉnh công tác tuyên huấn
Ban tuyên huấn các cấp chưa nhận rõ nhiệm vụ của Ban và các bộ phận trong Ban và chưa sắp xếp cán bộ hợp lý nên còn lúng túng. Các cấp uỷ đảng và các cơ quan đảng phụ trách các ngành quân, dân, chính phần nhiều còn coi nhẹ công tác tuyên huấn, chưa lãnh đạo chặt chẽ, ít chú ý bồi dưỡng cán bộ tuyên huấn.
Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Về chấn chỉnh công tác tuyên huấn. Nghị quyết nêu rõ: chấn chỉnh công tác tuyên huấn phải chú trọng những điểm sau: cần nhận rõ trong việc chấn chỉnh tổ chức tuyên huấn, việc cải tạo cán bộ tổ chức tuyên huấn là mấu chốt việc chấn chỉnh bộ máy tuyên huấn phải làm từng bước và có kế hoạch; các tổ chức tuyên huấn cần chú ý tăng cường và mở rộng mối liên hệ với quần chúng, trước hết nên đẩy mạnh việc thí nghiệm lưới tuyên truyền của Đảng trong nhân dân ở vùng tự do; bảo đảm mối liên hệ mật thiết giữa các cơ quan tuyên, văn, huấn, giáo, giữa Ban tuyên huấn các ngành và các cấp…
Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ của Ban tuyên huấn Đảng là giúp các cấp uỷ lãnh đạo công tác tuyên huấn. Cụ thể là phải căn cứ vào chủ trương quân sự của Đảng trong mọi thời kỳ mà vạch nhiệm vụ, phương châm công tác tuyên huấn cho các cấp, đặt kế hoạch phối hợp các ngành tuyên, văn, huấn, giáo. Theo dõi, kiểm tra và phê bình công tác tuyên văn, huấn, giáo ở các cấp để báo cáo đều với cấp uỷ tỉnh công tác tuyên huấn, tình hình tư tưởng của nhân dân và đảng viên. Các cấp uỷ đảng, các cơ quan phụ trách của Đảng trong quân đội và các đoàn thể đều phải thường xuyên lãnh đạo công tác tuyên huấn, chấm dứt tình trạng khoán trắng cho một số đồng chí phụ trách tuyên huấn.
Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ rõ cơ cấu của Ban tuyên huấn các cấp và lề lối làm việc của Ban tuyên giáo.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.14, tr.315-319.
THÁNG 9
Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chủ trương tác chiến Đông Xuân 1953-1954
Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp bàn về chủ trương tác chiến Đông Xuân 1953-1954.
Sau khi nghe Tổng Quân uỷ báo cáo tình hình địch, ta và trình bày hai phương án tác chiến Đông Xuân 1953-1954, Bộ Chính trị khẳng định sự đúng đắn của phương hướng chiến lược mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1-1953 đã vạch ra và phê chuẩn phương án thứ hai của Tổng Quân uỷ.
Với phương án đó, ta không đánh lớn vào đồng bằng, vì chiến trường đồng bằng có nhiều thuận lợi cho địch, mà đánh vào Tây Bắc và Lào là nơi địch yếu nhưng chúng không thể bỏ. Đưa bộ đội chủ lực lên hướng đó, tuy có khó khăn lớn về tiếp tế, nhưng ta buộc địch phải phân tán lực lượng, tạo điều kiện tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh hoạt động trên khắp các chiến trường sau lưng địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.
Bộ Chính trị thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 với những nội dung sau:
Trên chiến trường miền Bắc: sử dụng một bộ phận chủ lực tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch còn chiếm đóng Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Khu Tây Bắc, phối hợp với Quân giải phóng Lào tiến công vào hướng Trung Lào, tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng. Bố trí một lực lượng bộ đội chủ lực để sẵn sàng tiêu diệt địch nếu chúng tăng viện lên Tây Bắc hoặc đánh sâu vào Việt Bắc. Ở hướng đồng bằng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố và phát triển các căn cứ du kích và khu du kích.
Trên chiến trường miền Nam: tập trung phần lớn chủ lực của Liên khu V mở rộng cuộc tiến công lên chiến trường miền núi Tây nguyên ra sức tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một bộ phận đất đai.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích, tăng cường hoạt động đánh nhỏ ăn chắc, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực địch, đẩy mạnh nguỵ vận, mở rộng các căn cứ du kích và du kích.
Điều quan trọng trong kế hoạch tác chiến Đông Xuân của ta là khắc phục mọi khó khăn, sử dụng mọi biện pháp, giữ vững chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán, phá vỡ khối cơ động tập trung của chúng, điều động từng bộ phận chủ lực của chúng ra những hướng khác nhau rồi chọn những hướng thuận lợi cho ta mà tiêu diệt chúng.
Sự đúng đắn sáng tạo của Trung ương Đảng trong kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi to lớn của cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân và dân ta.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 138.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.192-193.
NGÀY 7-9
Bộ Chính trị ra Chỉ thị chỉ đạo tiến hành phát động quần chúng giảm tô
Ngày 7-9-1953, Bộ Chính trị ra Chỉ thị Về bước tiến, phương pháp và yêu cầu cụ thể trong phát động quần chúng giảm tô.
Chỉ thị chỉ rõ mục tiêu chung của giai đoạn giảm tô là để chuẩn bị điều kiện cho cuộc cải cách ruộng đất. Yêu cầu cụ thể của giai đoạn giảm tô là sơ bộ phát động quần chúng giành ưu thế chính trị cho nông dân, sơ bộ làm yếu thế lực kinh tế của địa chủ phong kiến, mang lại một phần quyền lợi thiết thực cho nông dân...
Căn cứ vào đặc điểm căn bản của Việt Nam, yêu cầu căn bản trong cuộc phát động quần chúng, mục tiêu chung và yêu cầu cụ thể trong giai đoạn giảm tô, căn cứ vào bài học kinh nghiệm trong đợt thí điểm giảm tô trước đó và tinh thần của Hội nghị Bộ Chính trị từ ngày 8, 9-8-1953, Trung ương định rõ cuộc phát động quần chúng trong giai đoạn giảm tô chia làm năm bước. Phương pháp công tác cụ thể và yêu cầu cụ thể của năm bước đó như sau:
Bước thứ nhất là tuyên truyền, giáo dục và bắt rễ.
Tuyên truyền: Triệu tập những cuộc họp cần thiết, công khai tuyên truyền chính sách giảm tô và mục đích chuẩn bị cải cách ruộng đất...
Giáo dục: Đối tượng giáo dục là chi bộ đảng. Giáo dục chính sách ruộng đất và nhiệm vụ đảng viên đối với phát động quần chúng rồi kiểm thảo việc chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ từ trước đến tháng 9-1953.
Bắt rễ: Giữ vững phương pháp bắt rễ, xâu chuỗi và coi đó là một trong những quy luật khách quan không thể lay chuyển được của phát động quần chúng.
Thời gian của bước thứ nhất là 10 ngày.
Bước thứ hai là triệu tập cuộc hội nghị học tập của những rễ, lựa chọn đối tượng đấu tranh. Sau khi tìm được rễ thì tập trung ở xã trọng điểm, chủ yếu là để cho họ học tập. Hội nghị học tập này do quỹ xã đài thọ và kéo dài 10 ngày.
Bước thứ ba là tổ chức xâu chuỗi, sơ bộ cải tạo tổ chức. Bước này cũng được tiến hành trong 10 ngày.
Bước thứ tư là đánh đổ cường hào gian ác, chia những thứ đấu tranh được. Sau khi chuẩn bị đầy đủ (như bồi dưỡng khổ chủ, thu thập tài liệu về tội ác của những tên bị đấu, tìm sẵn chứng người, chứng vật và tổ chức hội trường...) tức thì mở rộng đấu lý, đấu pháp với những tên cường hào đã chọn để đấu. Đấu xong, sẽ tiến hành chia những thứ đấu được. Bước này tiến hành từ 10-15 ngày.
Bước thứ năm là chỉnh đốn tổ chức giáo dục quần chúng chia lại xã. Sau khi chia những thứ đấu tranh được thì chuyển vào việc chỉnh đốn tổ chức và lấy việc chỉnh đốn chi bộ đảng làm chính.
Chỉ thị nhấn mạnh, năm bước công tác nói trên đều không được trở ngại đến việc sản xuất của nông dân và cũng để cho cuộc vận động giảm tô tiến hành được đều mà không trở ngại cho việc phục vụ tiền tuyến, trước hết phải đảm bảo việc động viên sức người, sức của phục vụ tiền tuyến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.320-333.
NGÀY 11-9
Bộ Công an Chỉ thị cán bộ công an tham gia công tác phát động quần chúng cải cách ruộng đất
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về cải cách ruộng đất, ngày 11-9-1953, Bộ trưởng Bộ Công an ra Chỉ thị số 531/P4 "Về việc cho cán bộ công an tham gia vào các đội công tác phát động quần chúng".
Chỉ thị nhấn mạnh nhiệm vụ của cán bộ tham gia các đội phát động quần chúng là ngoài công tác chung của đội giao còn phải biết sử dụng những kiến thức chuyên môn để vận dụng công tác.
Chỉ thị quy định nhiệm vụ cụ thể của cán bộ tham gia các đội công tác phát động quần chúng là:
- Chấn chỉnh công an xã: điều tra phát hiện những người không đủ tiêu chuẩn trong công an xã để đề nghị thay thế, tổ chức cho công an xã học tập những nhiệm vụ cần thiết như kiểm soát, canh gác, khám xét, quản chế và bảo vệ các cuộc đấu tranh của nhân dân.
- Điều tra thu thập tài liệu: vận dụng nghiệp vụ trinh sát, hỏi cung, toạ đàm để thu thập tài liệu phục vụ cho công tác đánh địch.
- Kiểm soát và canh gác bọn địa chủ, cường hào gian ác để phát hiện những âm mưu hoạt động chống đối, phân tán tài sản của chúng.
- Bảo vệ các cuộc đấu tranh, các cuộc mít tinh của nông dân, các phiên toà xét xử bọn địa chủ và bọn phản động.
- Xây dựng và huấn luyện công an xã để có đủ trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ hoàn thành nhiệm vụ giao cho.
Cùng ngày 11-9-1953, Bộ trưởng Bộ Công an ra Chỉ thị số 533/P4 “Về việc kết hợp với cuộc phát động quần chúng”, nêu rõ công an ty và huyện "phải đưa cán bộ cốt cán đi tham gia vào các đội phát động”.
Thực hiện Chỉ thị trên, công an các địa phương, đơn vị đã huy động 963 cán bộ tham gia phát động quần chúng cải cách ruộng đất, Bộ Công an đã ban hành 9 điều kỷ luật đối với cán bộ công an làm công tác này.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.352-354.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.315-316.
THÁNG 9
Tổng Quân uỷ quyết định chỉnh huấn quân sự
Sau chỉnh quân chính trị, từ tháng 9-1953, quân đội ta bước vào chỉnh huấn quân sự.
Tổng Quân uỷ chỉ rõ: trong chỉnh huấn quân sự, phải nâng cao trình độ công kiên, đồng thời phải nâng cao trình độ vận động; không những phải thông thạo động tác cơ bản mà phải khéo léo ứng dụng, không những phải thông thạo đánh đêm mà quen đánh cả ban ngày, không những đánh kẻ địch ở dưới đất mà đánh kẻ địch có phi, pháo phối hợp.
Quán triệt quyết định của Tổng Quân uỷ, bộ đội ta quyết tâm học tập và rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật. Tính đảng, tính tư tưởng được quán triệt trong nội dung huấn luyện. Mọi người luyện tập một cách thực sự coi "thao trường, giảng đường như chiến trường", coi "huấn luyện trọng như chiến đấu'. Việc huấn luyện quân sự được thực hiện với tinh thần "tích cực, khẩn trương, phụ trách như khi ra trận". Cán bộ, chiến sĩ ra sức suy nghĩ, ôn luyện để đánh chắc thắng các trận khó khăn, phức tạp hơn, ra sức rèn luyện tác phong chiến đấu dũng mãnh của tổ chiến đấu Khương, Lục, Xá, tác phong chỉ huy kiên quyết, linh hoạt của Anh hùng Quân đội Nguyễn Quốc Trị. Nhiều đơn vị bộ binh, pháo binh đã vượt mức yêu cầu về kỹ thuật bắn các loại súng. Trên cơ sở thống nhất tư tưởng, nhiều đơn vị đã nâng cao được trình độ tổ chức chỉ huy hiệp đồng trong đánh công kiên và đánh vận động
Chỉnh huấn quân sự đã nâng cao khả năng chiến đấu hiệp đồng binh chủng của bộ đội ta, nâng cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật, tác phong chiến đấu, chỉ huy của cán bộ, chiến sĩ.
Chỉnh huấn quân sự đã thực sự chuẩn bị cho bộ đội “dùng vận động chiến linh hoạt, để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch" và "công kiên chiến từng bộ phận" để tranh lấy từng cứ điểm, từng thị trấn "đánh ăn chắc, mở rộng vùng tự do".
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.283-284.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.381.
NGÀY 21-10
Chủ trương Trung ương về chống địch đánh ra vùng tự do Liên khu III và Thanh Hoá
Ngày 15, 16-10-1953, địch đánh ra vùng tự do Liên khu III, đồng thời đổ bộ một vài nơi trên bờ biển Thanh Hoá với mục đích phá hoại hậu phương kháng chiến, làm đảo lộn kế hoạch Thu Đông của ta và giành một thắng lợi để tuyên truyền khoe khoang "đã giành được chủ động”. Trước tình hình đó, Ban Bí thư nêu rõ cách đối phó của ta là:
Ở mặt trận chính diện, tạo cơ hội phục kích quân địch, tiêu diệt chúng trong khi vận động, không nên đánh thẳng trước mặt địch. Đồng thời, lợi dụng khi địch mới đóng quân chúng chưa kịp củng cố trận địa mà tập kích, tiêu diệt địch, kết hợp việc đánh địch với việc bảo vệ mùa màng, tài sản và tính mạng của nhân dân, bảo vệ thanh niên, phân tán kho tàng và sơ tán những nơi tập trung đông người.
Ở mặt trận sau lưng địch thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phải hết sức lợi dụng khi địch sơ hở để mở rộng chiến tranh du kích, tuỳ điều kiện thuận lợi tiêu diệt từng vị trí nhỏ và vị trí trung bình của địch. Ra sức ngụy vận, kết hợp tác chiến với nguỵ vận, làm tan rã một phần tinh thần binh lính ngụy.
Cần theo dõi thật sát tình hình địch đề phòng địch rút nhanh ở nơi này để tiến công nơi kia. Những chiến trường xa (Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ) thì tuỳ điều kiện và khả năng mà ra sức hoạt động để chia sẻ lực lượng địch, không cho chúng tập trung để đánh vùng tự do Liên khu III và Liên khu IV.
Những vùng phát động quần chúng có thể bị uy hiếp cần có kế hoạch đề phòng địch tấn công. Những xã phát động quần chúng gần bờ biển và đường giao thông lớn phải chuẩn bị sẵn sàng trước khi địch đến thì cho rời ngay số địa chủ phản động, cường hào gian ác đầu sỏ vào sâu nội địa, giam giữ cẩn thận những tên phản động và gian ác nhất ở nơi xa địch. Đối với những địa chủ thường, bắt phải tản cư, không cho ở lại địa phương.
Nói chung các xã phát động quần chúng, nếu còn xa địch thì cứ đấu tranh theo kế hoạch đã định. Song, khi địch sắp đến gần thì phải kịp thời chuyển hướng tiến công, nếu cần thì có thể tạm đình chỉ cuộc đấu tranh đòi giảm tô, đổi cuộc phát động quần chúng chống địa chủ thành cuộc phát động quần chúng chống địch nguỵ, giữ làng, giữ nhà.
Về tuyên truyền: cần vạch rõ âm mưu của địch trong cuộc tấn công này. Chỉ rõ cho đồng bào biết ta không chủ quan, khinh địch, nhưng cuộc tấn công này của địch không tỏ ra địch mạnh mà sự thật căn bản địch vẫn bị động.
Cuối cùng, thông báo cho rằng tình hình chiến sự còn đang diễn biến, Trung ương chỉ nhấn mạnh một vài nét chính về tình hình quân sự hiện thời của Liên khu IV để các đảng bộ nhận định cho đúng, đồng thời nêu một vài nhiệm vụ cần kíp để các khu và ngành có quan hệ trực tiếp thị hành kịp thời.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.336-340.
NGÀY 24-10
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri Về việc thống nhất chế độ thanh toán, dự toán của các cơ quan dân, chính, đảng
Việc thực hiện nghị quyết phân cấp quản lý của Trung ương, các cấp bộ đảng, dân và Bộ Tài chính còn gặp trở ngại trong việc lập kế hoạch chi tiêu cụ thể, báo cáo thanh toán và tiêu chuẩn cấp phí có những điểm chưa thống nhất. Trước tình hình đó, ngày 24-10-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá II) ra Thông tri số 81 quy định việc dự toán, thanh toán của các cơ quan dân, chính, đảng.
Thông tri nêu rõ các quy định như sau:
- Kể từ khi ra Thông tri này, kinh phí hoạt động của các đoàn thể, các đảng bộ Chính phủ trợ cấp đều phải làm dự toán báo cáo thanh toán theo thể lệ hiện hành của Bộ Tài chính.
- Các cấp uỷ Đảng lập dự toán, lĩnh tiền và thanh toán thẳng với cơ quan tài chính Nhà nước cùng cấp. Các cơ quan trực thuộc Trung ương lập dự toán, lĩnh tiền và thanh toán thẳng với Bộ Tài chính (trừ một số cơ quan chưa có điều kiện tách riêng thì vẫn làm việc trực tiếp với Văn phòng Trung ương).
- Việc xét chi tiết các khoản chi tiêu của các cấp uỷ, nhất là những khoản chi tiêu đặc biệt của Đảng, do các cấp uỷ chịu trách nhiệm là chính. Trường hợp đặc biệt phải xét tại chỗ, Đảng đoàn chính quyền sẽ báo với khu, tỉnh hoặc thành uỷ để phối hợp tiến hành.
- Các cấp bộ đảng phải lập kế hoạch chi tiêu cho mỗi tháng hoặc quý, gửi cho cơ quan tài chính nhà nước cùng cấp để định kế hoạch cấp phát.
- Những tiêu chuẩn cấp phí đã thống nhất giữa các cơ quan dân, chính, đảng, nhất luật phải theo thể lệ hiện hành của Bộ Tài chính.
Đồng thời, Thông tri cũng chỉ rõ, các cơ quan đảng từ huyện lên đến trung ương trở thành đơn vị dự toán cấp 1 của cơ quan tài chính nhà nước cùng cấp như các cơ quan chính quyền.
- Ban Tài chính - Quản trị Trung ương: Biên niên sử hoạt động tài chính của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.141.
NGÀY 9-11
Bộ Chính trị ra Chỉ thị Về tích cực chuẩn bị phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do
Sau những thất bại liên tiếp ở Tây Bắc và Thượng Lào, thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn cố gắng kéo dài chiến tranh xâm lược. Âm mưu của chúng là một mặt ra sức càn quét vùng sau lưng chúng và vùng du kích, mặt khác cố mở những cuộc tiến công ra các vùng tự do để phá hoại nhân lực, vật lực, phá hoại kế hoạch tác chiến và cuộc phát động quần chúng của ta.
Trước tình hình đó, Trung ương chỉ thị cho các Đảng bộ địa phương phải tích cực chuẩn bị để phá âm mưu địch, tuyên truyền giải thích sâu rộng trong Đảng, bộ đội, cán bộ, nhân dân nhận rõ âm mưu địch, đồng thời chống tư tưởng chủ quan khinh địch, tin tưởng ở khả năng của địa phương mình. Nhiệm vụ bảo vệ địa phương nào chủ yếu phải do lực lượng địa phương nơi ấy phụ trách, bộ đội chủ lực phải tập trung tác chiến, không thể phân tán để bảo vệ các địa phương. Xúc tiến việc xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích theo Nghị quyết của Hội nghị cán bộ bộ đội địa phương và dân quân du kích vùng tự do và Chỉ thị ngày 11-8-1953 của Tổng quân uỷ. Các tỉnh phải có kế hoạch tác chiến cụ thể, phải nắm vững các tỉnh đội, có kế hoạch cho bộ đội và nhân dân trừ gian, kế hoạch bảo vệ tính mệnh, tài sản của nhân dân, bảo vệ kho tàng, công xưởng, cơ quan, trường học.
Các đoàn công tác phát động quần chúng phải đặt việc củng cố lực lượng vũ trang địa phương thành một việc quan trọng trong công tác phát động quần chúng. Cán bộ phải bám sát nhân dân, không được bỏ nhân dân, khi nào địch rút lại tiếp tục cuộc vận động giảm tô.
Chỉ thị cũng chỉ rõ phải tăng cường sự chỉ đạo thống nhất của cấp uỷ. Trong lúc này các địa phương đang có nhiều công tác quan trọng như: công tác phát động quần chúng, phục vụ tiền tuyến chuẩn bị phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do, thu thuế nông nghiệp… Song, cần nhận rõ việc phục vụ tiền tuyến và việc chuẩn bị để phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do là hai nhiệm vụ trọng yếu cấp thiết hơn hết và quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, trong việc phân phối lực lượng khi địch chưa đánh ra, nếu gặp khó khăn phải đặt nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến lên trên hết.
Nhiệm vụ chuẩn bị để phá âm mưu địch đánh ra vùng tự do là rất nặng nề. Để đảm bảo nhiệm vụ đó, cấp uỷ phải tăng cường sự chỉ đạo thống nhất, phải có kế hoạch cụ thể dựa trên sự phán đoán tương đối cụ thể về âm mưu địch. Cần chú ý sơ tán, bảo vệ những tài liệu, kho tàng, vũ khí, đạn dược... Các cấp cần nắm vững tình hình địch và theo dõi chiến sự, tuyên truyền thắng lợi của ta, trừng trị những phần tử phao tin đồn nhảm.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.349-355.
NGÀY 9-11
Ban Bí thư ra Thông tri Về nhiệm vụ cung cấp cho mặt trận
Nhiệm vụ cung cấp cho bộ đội và tiền tuyến là một công tác quan trọng. Vì vậy, Ban Bí thư đã thông tri gửi các Liên khu uỷ Việt Bắc, Liên khu uỷ III và IV quán triệt nhiệm vụ này và thực hiện có kết quả hơn.
Về cung cấp: Các khu cần chú trọng gạo và thịt, nhất là Khu Tây Bắc, việc gặt hái, xay giã, thu thuế, vận chuyển là việc quan trọng quyết định hoàn thành nhiệm vụ. Vì Khu Tây Bắc có khó khăn nên Khu Việt Bắc và Khu IV càng phát tích cực giúp đỡ. Trong việc cung cấp thực phẩm cần giữ gìn phẩm chất khỏi bị hư hỏng, chống lãng phí.
Về vận chuyển: Cần phải tăng cường các loại xe cộ, thuyền bè để tiết kiệm sức dân, nơi nào có điều kiện dùng xe đạp thì cố gắng dùng. Đồng thời, chúng ta cũng phải chú trọng công tác dân công, coi công tác dân công là công tác chính trị nên cốt yếu phải có đảng viên, quần chúng tốt làm nòng cốt. Đối với các vùng đồng bào thiểu số, cơ sở yếu thiếu cán bộ, phải tìm cho được phần tử tích cực và giúp đỡ, hướng dẫn họ trong công tác.
Đối với công tác cầu đường, các khu phải nắm vững vấn đề này vì nó là vấn đề có tính chất quyết định. Trong thời gian vận chuyển, nhất định không để cho địch cắt đứt giao thông.
Về tổ chức bộ máy, Hội đồng cung cấp mặt trận phải được cố định về tổ chức, cố định cán bộ phụ trách. Khi ra tiền tuyến phải có tổ chức và sinh hoạt đảng để tất cả cán bộ và đảng viên trở thành nòng cốt trong việc lãnh đạo, làm gương mẫu thúc đẩy quần chúng. Đặc biệt trong việc phục vụ tiền tuyến, phải chống lãng phí, tham ô. Công tác phục vụ tiền tuyến phải khẩn trương, phải chịu đựng gian khổ, tích cực đấu tranh, cảnh giác với địch, phải biết tiết kiệm sức dân, đề cao tinh thần chiến đấu, coi trọng tuyên truyền giáo dục.
Quán triệt nhiệm vụ của Ban Bí thư, các liên khu đã ra sức động viên nhân dân khắc phục khó khăn, vận chuyển hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược ra chiến trường để phục vụ cho bộ đội đánh thắng đế quốc Pháp xâm lược.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 344-348.
NGÀY 10-11
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong phát động quần chúng
Công tác chỉnh đốn chi bộ ở mấy xã thí điểm phát động quần chúng vừa qua đã thu được ít nhiều thành tích như nâng cao một phần tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên, loại được một số phần tử xấu và đưa những đảng viên tốt vào cơ quan chỉ đạo của chi bộ. Nhưng công tác chỉnh đốn chi bộ vừa qua vẫn còn khuyết điểm lớn là chi bộ chưa đóng vai trò lãnh đạo ở xã sau khi phát động quần chúng. Nguyên nhân của khuyết điểm trên là do cán bộ tham gia công tác phát động quần chúng chưa thấy rõ sự quan trọng của việc chỉnh đốn chi bộ, coi nhẹ công tác này, chưa nắm vững phương châm, kế hoạch chỉnh đốn chi bộ.
Căn cứ vào yêu cầu của phát động quần chúng và những khuyết điểm nói trên, Trung ương ra chỉ thị nhấn mạnh và sửa đổi một số điểm về công tác chỉnh đốn chi bộ nông thôn.
Chỉ thị nói rõ mục đích và yêu cầu chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong phát động quần chúng là: trong phát động quần chúng giảm tô sơ bộ, làm cho cơ sở của Đảng được trong sạch và vững mạnh để phục vụ phát động quần chúng thắng lợi và để chuẩn bị điều kiện cho cải cách ruộng đất sau này.
Yêu cầu của chỉnh đốn chi bộ về tư tưởng, làm cho đảng viên phân biệt rõ ranh giới giữa ta và địch. Về tổ chức, đảng viên cũng phải phân biệt ranh giới đó và khai trừ ra khỏi Đảng những phần tử Việt gian phản động, cường hào gian ác làm cho chi bộ được tương đối trong sạch.
Cần chia loại chi bộ để định phương châm chỉnh đốn thích hợp và sử dụng chi bộ đúng mức trong công tác phát động quần chúng. Hiện thời, ở nông thôn có ba loại chi bộ căn bản tốt có thể dựa vào để bắt rễ, xâu chuỗi lãnh đạo phong trào. Loại chi bộ có đại đa số đảng viên tốt và loại chi bộ căn bản xấu.
Chỉ thị nêu rõ chính sách đối với từng hạng đảng viên:
Đối với đảng viên xấu trong quá trình phát động và chỉnh đốn chi bộ cần phải xử trí và khai trừ ra khỏi Đảng như: phần tử nội gián, phần tử đầu hàng phản bội, những đảng viên tham gia các tổ chức phản động đã phá hoại cách mạng, làm hại nhân dân, phần tử xuất thân trong giai cấp bóc lột và những người phạm pháp, gây tổn thất cho Đảng, cho dân. Trong năm loại này thì phải nghiêm khắc đối với bốn loại nói chung. Khi xử trí, các đội công tác phải kiên quyết và thận trọng.
Đối với những đảng viên kém, những đảng viên thành phần tốt, lịch sử trong sạch nhưng trình độ giác ngộ thấp, công tác lười biếng không khai trừ đảng tịch mà cần tăng cường giáo dục.
Đối với đảng viên tốt, phải đặc biệt chú ý bồi dưỡng họ và đưa họ vào cơ quan chỉ đạo của chi bộ, nông hội, chính quyền.
Chỉnh đốn chi bộ nông thôn là để phục vụ cho cuộc phát động quần chúng và cần phải kết hợp mật thiết với cuộc phát động quần chúng. Vì vậy, cần giáo dục, chấn chỉnh chi bộ theo nội dung, yêu cầu từng bước của cuộc phát động quần chúng.
Để cho công tác chỉnh đốn chi bộ nông thôn trong phát động quần chúng được thực hiện đúng và có kế hoạch tốt, các đoàn uỷ đoàn công tác cần nhận rõ nhiệm vụ của mình, tăng cường chỉ đạo công tác chỉnh đốn chi bộ, kiểm tra đôn đốc các đội công tác về việc thực hiện chỉnh đốn chi bộ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.356-364.
TỪ NGÀY 14 ĐẾN NGÀY 23-11
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 23-11-1953 với gần 200 đại biểu trong nước tới dự. Hội nghị đã nghe và thảo luận báo cáo của đồng chí Hồ Chí Minh về "Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất"; báo cáo của đồng chí Trường Chinh về "Thực hiện cải cách ruộng đất".
Hội nghị còn nghe tham luận của đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương.
Trong Báo cáo "Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất", Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phe đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ đang thất bại khắp nơi, thế của Mỹ ngày càng yếu, kinh tế Mỹ ngày càng khủng hoảng. Các đế quốc phụ thuộc vào Mỹ ngày càng khó khăn về kinh tế và chính trị, nội bộ phe đế quốc ngày càng mâu thuẫn sâu sắc. Phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô ngày càng lớn mạnh.
Về tình hình thực dân Pháp, do bị thất bại nặng nề trên khắp các chiến trường, thực dân Pháp đang gặp nhiều khó khăn về quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính và ngày càng sa lầy ở Việt Nam. Song, chúng vẫn chưa chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam và ngày càng phụ thuộc vào đế quốc Mỹ. Vì vậy, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc kháng chiến của ba dân tộc Đông Dương. Về phía ta, ta đã giành được chủ động trên chiến trường chính, chiến tranh du kích phát triển mạnh; Mặt trận Liên Việt ngày càng được củng cố và mở rộng; khối đoàn kết của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào – Campuchia ngày càng củng cố. So sánh về mọi mặt thì thấy rõ thế địch ngày càng kém, thế ta ngày thêm mạnh.
Để bồi dưỡng lực lượng kháng chiến và đẩy mạnh cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, chúng ta phải thực hiện cải cách ruộng đất, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến, chấm dứt tình trạng bần cùng, lạc hậu của nông dân, phát động mạnh mẽ lực lượng to lớn của nông dân phát triển sản xuất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm trong năm 1953 là ra sức đánh giặc trên các chiến trường, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đập tan âm mưu quân sự mới của địch; phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất.
Chủ trương phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất thực hiện khẩu hiệu "người cày ruộng” trong cuộc kháng chiến là một chủ trương đúng đắn, đã thúc đẩy tinh thần kháng chiến của hàng triệu nông dân lao động; củng cố khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.369-498.
NGÀY 25-11
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra Chỉ thị về việc chuẩn bị đánh địch ra vùng tự do
Nhằm chủ động ngăn chặn âm mưu đánh ra vùng tự do, ngày 25-11-1953, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã ra Chỉ thị về việc chuẩn bị đánh địch ra vùng tự do.
Nhận định âm mưu của địch, Chỉ thị nhấn mạnh: sắp tới địch có thể sử dụng 15-18 tiểu đoàn, có binh chủng phối hợp, thọc sâu ra vùng tự do ở hướng mà ta sơ hở nhằm phá hoại nhân, vật lực và cuộc phát động quần chúng của ta. Đồng thời, địch sẽ tăng cường hoạt động gián điệp, phối hợp với những đợt đánh thăm dò ra các vùng giáp ranh, thả thổ phỉ quấy rối hậu phương và oanh tạc những mục tiêu quan trọng (đường giao thông, kho tàng cơ sở kinh tế của ta...).
Để kịp thời ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của địch, Chỉ thị nêu rõ: đối với vùng tự do, các địa phương phải tích cực chuẩn bị về tư tưởng cũng như về tổ chức, lấy lực lượng địa phương làm chính, có kế hoạch đối phó để khi địch đánh ra sẽ tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch, hạn chế những thiệt hại do chúng gây ra. Phối hợp với chủ lực tiêu diệt địch ở hướng chính.
Chỉ thị nêu rõ ba nhiệm vụ quân sự cho các vùng tự do của tất cả các liên khu: tích cực đánh địch ra khu tự do, tiêu diệt và tiêu hao từng bộ phận địch: bảo vệ cơ sở, kho tàng, bảo vệ cầu đường; bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân.
Bộ Tổng tư lệnh nhấn mạnh ba nhiệm vụ trên liên quan mật thiết với nhau nhưng chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ tích cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch và có như thế, ta mới chủ động đánh địch, hạn chế thiệt hại do chúng gây ra.
- Tư liệu lưu tại Bộ Quốc phòng, hồ sơ 533, ký hiệu T.1/16.
NGÀY 26-11
Hội nghị Uỷ ban Liên Việt toàn quốc lần thứ năm
Hội nghị Uỷ ban Liên Việt toàn quốc họp mở rộng từ ngày 26 đến ngày 28-11-1953 tại Việt Bắc với sự tham dự đông đảo đại biểu các chính đảng, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo trong toàn quốc.
Mở đầu Hội nghị, đồng chí Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Uỷ ban Liên Việt toàn quốc đọc diễn văn khai mạc. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đọc Báo cáo "Cương lĩnh của Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề ruộng đất".
Sau ba ngày làm việc khẩn trương, Hội nghị đã quyết nghị:
Đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền, giải phóng dân tộc, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất nông nghiệp, mở đường phát triển công thương nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân.
Hội nghị đã hoàn toàn tán thành Cương lĩnh ruộng đất và chính sách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam.
Cuối cùng, Hội nghị kêu gọi các chính đảng, các đoàn thể và toàn thể công dân Việt Nam yêu nước ủng hộ Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân tích cực tham gia cải cách ruộng đất để đẩy mạnh và hoàn thành sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của nhân dân ta.
- Báo Nhân dân, ngày 21-12-1953.
NGÀY 26-11
Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời nhà báo Thuỵ Điển về cuộc chiến tranh ở Việt Nam
Ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời những câu hỏi của chủ bút báo Étpơrétxen (Expressen), Thuỵ Điển về vấn đề chiến tranh ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: "Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống xâm lược chính để bảo vệ quyền độc lập và quyền tự do được sống hoà bình". Nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam tiếp tục cuộc kháng chiến cứu nước đến thắng lợi. Nhưng nếu Chính phủ Pháp “muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó". Cơ sở của cuộc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam.
Ngày 27-12-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri Về lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch với nhà báo Thuỵ Điển. Thông tri nêu rõ nhân dân Pháp và nhân dân thế giới nhiệt liệt hoan nghênh lời tuyên bố đó, vì nó nói lên nguyện vọng tha thiết của họ, vì lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời nói của chính nghĩa và hoà bình. Nó đã góp phần đẩy mạnh phong trào hoà bình ở Pháp và thế giới. Nhưng chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng hoà bình sẽ đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hoà bình cũng như độc lập phải đấu tranh một cách gian khổ mới giành được. Ta phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn nữa thì địch mới chịu nhận thương lượng để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng quyền tự do, độc lập của dân tộc ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr.517-519, 553-561.
NGÀY 27-11
Ban Bí thư ra Thông tri về việc chỉnh đốn bộ máy và biên chế của các cơ quan dân, chính, Đảng các cấp sau chỉnh huấn cơ quan
Sau chỉnh huấn cơ quan, cán bộ và nhân viên trong các ngành dân, chính, Đảng đã được nâng cao tư tưởng, tinh thần, trách nhiệm đối với công tác. Nhưng về mặt tổ chức cơ quan còn một số khuyết điểm làm ảnh hưởng đến hiệu suất công tác và phát huy năng lực sáng kiến của cán bộ, nhân viên.
Vì vậy, Trung ương quyết nghị phải tiến hành chỉnh đốn bộ máy và biên chế cho các cơ quan.
Thông tri nêu rõ mục đích, ý nghĩa của việc chỉnh đốn bộ máy và biên chế các cơ quan dân, chính, Đảng là làm cho sự phân công, phân nhiệm vụ giữa các cơ quan được rành mạch, hợp lý, làm cho cán bộ nâng cao hiệu suất công tác và các cơ quan giữ được tính chất tinh giản nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Phương châm của công tác này là: đối với sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan, bộ phận nếu có chỗ chưa rõ, chưa được hợp lý thì căn cứ vào kinh nghiệm thực tế nêu ra rồi đề nghị Trung ương quy định lại.
Về số lượng biên chế và tỷ lệ dùng nhân viên thì căn cứ vào tình hình chung, nhu cầu công tác, hoàn cảnh kháng chiến và khả năng ngân sách mà định ra.
Về phương pháp tiến hành có thể chia làm ba bước: bước chuẩn bị, bước tiến hành và bước tổng kết.
Thông tri chỉ rõ cơ cấu và nhiệm vụ của Ban phụ trách chỉnh đốn bộ máy và biên chế các cơ quan dân, chính, Đảng, Trung ương gồm ba đồng chí: Nguyễn Đức Tâm (Ban Tổ chức Trung ương), Hoàng Tùng (Văn phòng Trung ương), Nguyễn Văn Phương (Ban Mặt trận Trung ương).
Ban này có nhiệm vụ thực hiện chủ trương chỉnh đốn bộ máy và biên chế ở các cơ quan dân, chính, Đảng Trung ương và giúp Trung ương theo dõi, lãnh đạo việc thực hiện chủ trương ấy ở các cấp.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II3/35.3.
THÁNG 11
Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam
Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất đã thảo luận chính sách cải cách ruộng đất dựa trên Cương lĩnh cải cách ruộng đất của Đảng do Hội nghị Trung ương tháng 1 năm 1953 dự thảo. Sau Hội nghị, bản dự thảo đó đã được bổ sung thành Cương lĩnh ruộng đất chính thức của Đảng.
Bản Cương lĩnh nêu rõ: Để cải thiện đời sống cho nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ, đánh đổ ngụy quyền, hoàn toàn giải phóng dân tộc; để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến quốc, cần phải xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, làm cho người cày có ruộng.
Chỉ có thực hiện "người cày có ruộng”, động viên hàng chục triệu nông dân hăng hái tham gia kháng chiến, thì kháng chiến mới hoàn toàn thắng lợi, cách mạng chắc chắn thành công.
Vì vậy, Đảng Lao động Việt Nam ra Cương lĩnh ruộng đất. Cương lĩnh gồm 23 điều như sau:
1. Tịch thu toàn bộ ruộng đất và tài sản của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác.
2. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của bọn Việt gian phản quốc.
3. Tịch thu hoặc trưng thu (tuỳ tội nặng nhẹ) ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của địa chủ phản động và cường hào gian ác.
4. Trưng thu ruộng đất công và ruộng đất nửa công, nửa tư bao gồm ruộng phe, ruộng giáp, ruộng tư văn, tư võ ruộng các đoàn thể, v.v..
5. Trưng thu hoặc trưng mua (tuỳ trường hợp) ruộng đất của các tôn giáo.
6. Tịch thu ruộng đất, trâu bò, nông cụ và tài sản khác của ngoại kiều hợp tác với đế quốc xâm lược và ngụy quyền. Trưng mua ruộng đất, trâu bò, nông cụ của những địa chủ ngoại kiều khác.
7. Trưng mua ruộng đất, trâu bò, nông cụ của địa chủ kháng chiến và địa chủ thường; địa chủ kháng chiến, nhân sĩ dân chủ được chiếu cố một cách thích đáng. Giá tiền và cách trả tiền do Chính phủ quy định.
8. Xoá bỏ nợ mà nông dân lao động và những người thuộc tầng lớp nghèo ở nông thôn vay của địa chủ.
9. Xoá bỏ độc quyền của đế quốc và phong kiến về mặt biển và khúc sông.
10. Không đụng đến ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản khác của phú nông.
11. Kiên quyết bảo hộ ruộng đất, trâu bò, nông cụ, nhà cửa và tài sản khác của trung nông.
12. Bảo hộ công nghiệp và thương nghiệp. Không đụng đến công thương nghiệp của địa chủ kháng chiến và địa chủ thường và những đất đai trực tiếp dùng vào công thương nghiệp của họ.
13. Không đụng đến ruộng của những người có ít ruộng đất phải phát canh vì tham gia công tác kháng chiến, vì thiếu sức lao động hoặc vì bận làm nghề khác.
14. Ruộng đất, trâu bò, nông cụ, v.v. tịch thu, trưng thu và trưng mua đều chia hẳn cho nông dân không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất; họ được quyền sở hữu vĩnh viễn những thứ được chia và không phải trả tiền.
15. Lấy xã làm đơn vị chia ruộng đất và theo đầu người mà chia một cách công bằng.
16. Liệt sĩ, quân nhân cách mạng, thương binh, bệnh binh, cán bộ, nhân viên phục vụ kháng chiến và gia đình họ ở nông thôn không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất đều được chia ruộng đất. Liệt sĩ, quân nhân cách mạng, thương binh, bệnh binh được ưu đãi trong khi chia.
17. Khi tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất để lại cho địa chủ (trừ những người bị tù từ trên 5 năm trở lên) và gia đình họ một phần ruộng đất tương đương với phần ruộng đất được chia của nông dân.
18. Gia đình nguỵ binh thuộc thành phần nông dân lao động không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất thì được chia ruộng đất. Nguỵ binh cũng được một phần ruộng đất nhưng khi họ chưa bỏ hàng ngũ nguỵ quân trở về với Tổ quốc thì ruộng đất ấy do Uỷ ban Kháng chiến hành chính hay Nông hội xã quản lý.
19. Những rừng nhỏ, ao hồ đầm, đất hoang, vườn cây ăn quả nếu có thể chia, đều chia cho nông dân.
20. Những đồn điền canh tác bằng máy, hoặc những đồn điền trồng cà phê, cao su, v.v. theo kỹ thuật tiến bộ, các trại thí nghiệm, những hầm mỏ, những nơi có cổ tích lịch sử, v.v. thì không chia mà do chính quyền quản lý.
21. Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần chúng theo đúng đường lối chung của Đảng ở nông thôn: dựa hẳn vào bần, cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.
22. Chính quyền sẽ thành lập Uỷ ban cải cách ruộng đất từ cấp trung ương đến cấp tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của chính quyền, những Uỷ ban này có nhiệm vụ lãnh đạo cụ thể phong trào quần chúng, thực hiện cải cách ruộng đất. Ở cấp xã, nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng đấu tranh thực hiện cải cách ruộng đất thuộc về Hội nghị đại biểu nông dân và Ban Chấp hành Nông hội.
23. Cương lĩnh này định cho toàn quốc, những vùng tự do có đủ điều kiện thì thi hành trước, các vùng khác chưa đủ điều kiện thì thi hành sau. Đối với những vùng dân tộc thiểu số sẽ có quy định riêng.
Cương lĩnh ruộng đất của Đảng ra đời đánh dấu bước trưởng thành của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đến thắng lợi.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.14, tr.499-503.
TỪ NGÀY 1 ĐẾN NGÀY 4-12
Quốc hội khoá 1 kỳ họp thứ ba thông qua Luật cải cách ruộng đất
Để thực hiện nhiệm vụ cải cách ruộng đất, theo đề nghị của Chính phủ, Ban Thường vụ Quốc hội đã quyết định triệu tập Quốc hội kỳ họp thứ ba tại Việt Bắc từ ngày 1 đến ngày 4-12-1953. Kỳ họp thứ ba của Quốc hội có 166 đại biểu về dự, trong đó Bắc Bộ có 94 đại biểu, Trung Bộ có 62 đại biểu, Nam Bộ có 10 đại biểu.
Trong diễn văn khai mạc, Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội Tôn Đức Thắng nêu rõ Quốc hội họp trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến đã lớn mạnh, "thế ta mạnh hơn thế giặc", ta đang tiến tới một giai đoạn đề ra dự án Luật cải cách ruộng đất. Đó là một quyết sách để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi, là một nhiệm vụ căn bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Với tầm quan trọng đó, quyết sách này phải được Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao, thay mặt toàn dân thông qua.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ trình bày trước Quốc hội bản Báo cáo "Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất".
Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đọc báo cáo của Chính phủ về thành tích kháng chiến và thảo luận về Luật cải cách ruộng đất.
Đỗ Đức Dục, Trưởng tiểu ban xét dự án Luật cải cách ruộng đất đọc báo cáo và đề nghị Quốc hội thông qua toàn bộ Luật cải cách ruộng đất vì nó phù hợp với lợi ích kháng chiến và nguyện vọng của nhân dân.
Ngày 4-12-1953, toàn thể Quốc hội biểu quyết nhất trí tán thành Luật cải cách ruộng đất.
Trong kỳ họp này, Quốc hội cũng lần lượt thông qua Nghị quyết tín nhiệm của Chính phủ, Nghị quyết biểu dương các đại biểu Quốc hội đã từ trần vì nước, Nghị quyết truất quyền đại biểu Quốc hội của những đại biểu rời bỏ nhiệm vụ kháng chiến.
Ngày 4-12-1953, kỳ họp thứ ba Quốc hội bế mạc. Đây là kỳ họp có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đáp ứng ý chí, nguyện vọng của quần chúng nông dân. Quốc hội đã quyết định một quốc sách quan hệ đến thắng lợi của kháng chiến, đến hạnh phúc của toàn dân và thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960),Nxb.Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tr.135-136.
NGÀY 4-12
Luật cải cách ruộng đất
Ngày 4-12-1953, trong kỳ họp thứ ba của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các đại biểu đã biểu quyết nhất trí tán thành Luật cải cách ruộng đất.
Đến ngày 19-12-1953, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Sắc lệnh số 197-SL ban bố "Luật Cải cách ruộng đất".
Luật cải cách ruộng đất có 5 chương, 38 điều khoản. Điều 1 ghi rõ mục đích và ý nghĩa cải cách ruộng đất là: Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ để thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển; để cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân - lực lượng của kháng chiến; đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc.
Luật cải cách ruộng đất đã quy định các điều khoản về tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất; về cách chia ruộng đất; về cơ quan chấp hành và phương pháp thực hiện cải cách ruộng đất và điều khoản thi hành. Luật cải cách ruộng đất được ban hành là cơ sở và sức mạnh pháp lý để thực hiện triệt để khẩu hiệu người cày có ruộng.
Phát biểu tại kỳ họp thứ ba của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp tình hợp lý. Chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đến đồng bào địa chủ. Ngoài ra chúng ta cũng chiếu cố đến đồng bào công thương nghiệp, chiếu cố cán bộ, công nhân, nhân dân lao động khác và đồng bào tản cư.
Chúng ta cũng chiếu cố các chiến sĩ hy sinh xương máu để bảo vệ đất nước, chúng ta cũng chiếu cố chiến sĩ đã hy sinh một phần xương máu hay tính mạng cho Tổ quốc, đó là thương binh và gia đình tử sĩ”.
- Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn phòng Quốc hội: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960),Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.136-137.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.186-187.
NGÀY 5-12
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về mấy vấn đề cần chú ý trong việc phát động quần chúng giảm tô vùng dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh
Trong đợt 1 và đợt 2, chúng ta đã phát động quần chúng ở một số xã có dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh. Trong 40 xã phát động quần chúng ở Thái Nguyên và Bắc Giang đợt 2 thì gần 20 xã có dân tộc thiểu số. Phát động quần chúng ở những xã đó thấy phát hiện nhiều vấn đề phức tạp, không hoàn toàn giống những xã thuần người Kinh. Vì vậy, Ban Bí thư ra Chỉ thị Về mấy vấn đề cần chú ý trong việc phát động quần chúng giảm tô vùng dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh.
Chỉ thị cho rằng, các cấp phải thấm nhuần chính sách dân tộc để "kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn" đi sâu phát động quần chúng các dân tộc đoàn kết đấu tranh.
Căn cứ vào sự phát triển của cuộc vận động, kinh nghiệm của các đợt, Trung ương nhấn mạnh các Đoàn uỷ, đội công tác phải thực hiện tốt các công tác sau:
Cuộc vận động giảm tô ở những vùng dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh nhất định phải có cán bộ dân tộc thiểu số tham gia và cần giáo dục cho tất cả cán bộ thấm nhuần chính sách dân tộc.
Trong công tác tuyên truyền và giáo dục, không những phải tuyên truyền chính sách giảm tô mà còn phải tuyên truyền chính sách dân tộc nữa. Khi bắt rễ, xâu chuỗi. cần phân biệt bắt rễ trong từng dân tộc và khi chia những thứ đấu tranh được cần chiếu cố đến người thiểu số trước.
Trong khi phát động quần chúng, cán bộ cần khắc phục tư tưởng bình quân giữa các dân tộc, tư tưởng dân tộc tự trọng, dân tộc lớn... để thực hiện công tác tốt phát huy truyền thống dân tộc.
Nhờ có Chỉ thị của Trung ương, trong quá trình phát động quần chúng giảm tô vùng dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh, các đoàn, đội công tác đã tránh được xích mích, mâu thuẫn, giữ vững đoàn kết dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tòan tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 527-536.
NGÀY 6-12
Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
Ngay sau khi địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất ở chiến trường Đông Dương, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị nhận định:
Về địch: Điện Biên Phủ sẽ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có cái yếu cơ bản là bị cô lập, mọi việc tiếp viện, tiếp tế đều dựa vào đường không.
Về ta: Với chất lượng được nâng cao trong chỉnh huấn, chỉnh quân, với kinh nghiệm sẵn có và sự tiến bộ về trang bị kỹ thuật, quân đội ta có thể đánh được tập đoàn cứ điểm. Vấn đề đường xá, tiếp tế cho chiến dịch là một khó khăn lớn, nhưng với quyết tâm của toàn Đảng, cả hậu phương đang chuyển động mạnh trong cách mạng ruộng đất sẽ tập trung toàn lực chi viện cho tiền tuyến và phục vụ chiến dịch đánh thắng.
Trên cơ sở những chủ trương lớn của Trung ương Đảng trong Đông Xuân 1953-1954, xuất phát từ tình hình địch, ta và những nguyên tắc cơ bản về chỉ đạo tác chiến tiêu diệt sinh lực địch và đánh chắc thắng, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân uỷ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội được chỉ thị trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng uỷ chiến dịch.
Về phương châm chiến dịch, trong thời gian đầu, khi quân địch mới nhảy dù xuống, lực lượng chưa được tăng cường, bố trí còn sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố, ta có dự kiến tranh thủ thời gian, lợi dụng những cơ sở của địch để "đánh nhanh giải quyết nhanh”. Quán triệt tư tưởng cơ bản "đánh chắc thắng” của Trung ương Đảng, Bộ chỉ huy mặt trận đã kịp thời chuyển phương châm chiến dịch từ "đánh nhanh giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc". Nội dung kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ gồm một loạt trận công kiên, tiêu diệt mỗi lần một số trung tâm đề kháng của địch, hình thành và thắt chặt vòng vây, hạn chế đi đến triệt để hẳn nguồn tiếp tế và tiếp viện của địch, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch. Chiến dịch gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn l: Tiêu diệt các trung tâm đề kháng ngoại vi.
Giai đoạn 2: Tiêu diệt khu vực phòng ngự then chốt của phân khu trung tâm, chiếm lĩnh sân bay, từng bước thắt chặt vòng vây, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, thu hẹp không phận của địch, triệt hẳn nguồn tiếp viện và tiếp tế. Giai đoạn 3: Tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch.
Từ đầu tháng 12-1953, công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được ráo riết tiến hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: "Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được".
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.197.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994. t.II.
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.5, tr.403.
TỪ NGÀY 7 ĐẾN NGÀY 15-12
Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tám quán triệt nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Chính phủ là "đánh giặc và cải cách ruộng đất”
Để đáp ứng nhiệm vụ kháng chiến và cải cách ruộng đất của Đảng, từ ngày 7 đến ngày 15-12-1953, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tám họp tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang dưới sự chủ trì của đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn.
Hội nghị kiểm điểm việc thực hiện chương trình công tác năm 1953 và ra nghị quyết về nhiệm vụ công tác năm 1954.
Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ của lực lượng công an là:
Ở nơi phát động quần chúng giảm tô hay cải cách ruộng đất, kết hợp với phát động quần chúng trấn áp bọn gián điệp, phản động cường hào gian ác và biệt kích, thổ phỉ, củng cố trị an nông thôn, bảo vệ giao thông vận chuyển, công xưởng, kho tàng, cơ quan, bảo vệ an toàn hậu phương đồng thời chỉnh đốn công an xã, rèn luyện cán bộ.
Ở nơi chưa phát động quần chúng, đánh bọn gián điệp, phản động, biệt kích, thổ phỉ, bảo vệ giao thông vận chuyển, kho tàng, công xưởng, cơ quan để củng cố khu mới giải phóng, bảo vệ an toàn hậu phương và củng cố khu căn cứ du kích, mở rộng vùng du kích.
Cả hai nơi đều phải tiếp tục chỉnh đốn tổ chức, đào tạo cán bộ, nâng cao tư tưởng chính sách, tăng cường học tập nghiệp vụ, sửa đổi lối làm việc.
Về công tác trinh sát, Nghị quyết nhận xét: hiện thời công tác trinh sát còn kém, cán bộ thiếu tư tưởng trinh sát nên chưa nắm được tình hình địch.
Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết chỉ rõ: "Kiên quyết cử cán bộ có năng lực chuyên trách công tác trinh sát xây dựng lực lượng cốt cán cho đầy đủ, luôn luôn bồi dưỡng họ trong công tác thực tế... phối hợp chặt chẽ với phát động quần chúng, với đấu tranh quân sự và kinh tế, với các ngành khác…".
Về công tác đánh thổ phỉ, biệt kích, Nghị quyết ghi: phải “nhẫn nại, bền bỉ, giáo dục, vận động, tổ chức và lãnh đạo nhân dân tiêu trừ thổ phỉ củng cố khu mới giải phóng, bảo vệ an toàn vùng hậu phương…”.
Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tám còn đề cập đến công an biên phòng củng cố khu mới giải phóng, tăng cường công tác công an trong vùng địch hậu, tăng cường công tác chấp pháp.
Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ tám có tác dụng to lớn đối với nhiệm vụ cải cách ruộng đất và kháng chiến của Đảng ta. Lực lượng cán bộ công an đã phát huy sức mạnh của mình vào việc trấn áp bọn địa chủ, cường hào phản động, đồng thời góp phần vào việc bảo vệ hậu phương vững chắc.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.317-319.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.357-361.
NGÀY 12-12
Quân ta tiến công địch ở Lai Châu
Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị ung ương Đảng, ngày 12-2-1953, quân ta tiến công địch ở Lai Châu mở màn cuộc tấn công Đông Xuân 1953-1954.
Ngày 7-2-1953, bị ta uy hiếp mạnh địch ở thị trấn Lai Châu rút về Hà Nội và Điện Biên Phủ bằng máy bay. Các đơn vị bộ đội đang hành quân được lệnh chuyển sang truy kích, bao vây tiêu diệt địch không cho chúng tập trung về Điện Biên Phủ và không cho địch ở Điện Biên Phủ rút chạy. Đại đoàn 308 cấp tốc hành quân, tăng thêm lực lượng bao vây địch ở Điện Biên Phủ. Trung đoàn 36 tạt sang Pom Lót (phía nam Điện Biên Phủ) chặn không cho địch chạy sang Lào.
Đại đoàn 316 được giao nhiệm vụ tiến công giải phóng thị trấn Lai Châu, chặn địch không cho chúng rút về Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn 439 (E148) được lệnh hành quân bằng xe cơ giới theo đường số 41 đánh thẳng vào thị trấn Lai Châu. Rạng sáng ngày 11-12-1953, bộ đội ta nổ súng tấn công đồn Pa Ham cách thị trấn Lai Châu 32 Km, tiêu diệt 2 đại đội địch, gọi hàng 2 đại đội khác. Hai tiểu đoàn địch đóng ở đèo Clavô (nay là đèo Xá Tổng) nghe tin đồn Pa Ham thất thủ, một số binh lính liền bỏ chạy về thị trấn. Được bộ đội địa phương giúp sức và du kích dẫn đường, bộ đội chủ lực lần lượt nổ súng đánh vào các vị trí: cầu sắt, sân bay, đồi thấp, đồi cao, tiêu diệt một đại đội địch, bức hàng một đại đội, số còn lại bỏ chạy về phía Điện Biên.
Đến 2h sáng ngày 12-12-1953, Tiểu đoàn 439 đã cắm cờ ở vị trí trung tâm của địch. Thị trấn Lai Châu được giải phóng.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.313.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lai Châu: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu (1945- 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.1.
TỪ NGÀY 21 ĐẾN NGÀY 25-12
Tiến công địch ở Trung Lào
Nhằm tiêu diệt một phần sinh lực địch, củng cố và mở rộng vùng căn cứ, thu hút, phân tán địch, tạo điều kiện cho hướng khác tấn công tiêu diệt địch, ngày 21-12-1953, bộ đội Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến công vào Trung Lào.
Ở Trung Lào, địch đã được tăng cường gần hai trung đoàn cơ động, các vị trí án ngữ ngăn chặn quân ta từ phía đông đánh sang đã trở thành những vị trí lớn do quân cơ động đóng giữ.
Đồng chí Hoàng Sâm và Trần Quý Hai được cử tham gia Bộ chỉ huy Mặt trận Trung, Hạ Lào.
Ngay trong đêm 21-12-1953, Tiểu đoàn 274 và 328 (Đại đoàn 325) tranh thủ lúc địch đang củng cố công sự, bất ngờ tập kích đồn Khăm He, tiêu diệt nhanh chóng Tiểu đoàn lính Âu - Phi và một đại đội pháo binh địch. Trận Khăm He giáng một đòn mạnh mẽ vào tinh thần binh lính địch ở Trung Lào. Ngày 22-12-1953, Trung đoàn 66 (Đại đoàn 304) chuẩn bị tiến công các vị trí Mụ Giạ, Ba Na Phào, quân địch rút chạy. Tiểu đoàn 782 (Trung đoàn 66) của ta chạy bộ đuổi địch rút lui bằng cơ giới, nhanh chóng bơi qua sông Sê Bang Phai tiêu diệt cả Tiểu đoàn số 2 thuộc bộ binh thuộc địa RTM, bắt sống 40 tên ở Pa Cuội.
Chỉ trong 3 ngày, 3 tiểu đoàn lính Âu - Phi cơ động và 1 tiểu đoàn pháo binh gồm 2.200 tên bị tiêu diệt. Quân địch hoảng hốt bỏ cả phòng tuyến tháo chạy.
Ngày 25-12-1953, Liên quân Lào - Việt tiến đến sông Mê Kông, giải phóng thị xã Thà Khẹt. Tiếp đó, lợi dụng sơ hở của địch, Trung đoàn 66 mở một loạt cuộc tiến công tiêu diệt các vị trí Hiu Xìu, Đồng Hến, Pha Lan, Mường Phía, cắt đường số 9 và giải phóng miền Đông Xavannakhét.
Tích cực, chủ động, linh hoạt, hai Trung đoàn 66, 101 đã cùng Quân giải phóng Pa thét Lào áp đảo quân địch, giải phóng hầu hết vùng Trung Lào rộng lớn.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.319-320.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.396-397.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.198.
CUỐI NĂM
Phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Việt Nam
Từ cuối năm 1953, phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Tại Angiêri, công nhân Angiêri liên tiếp đình công không chịu khuân vác cho các tàu Pháp chở vũ khí sang Đông Dương.
Hội nghị cấp thủ tướng của năm nước Ấn Độ, Xrilanca, Mianma, Inđônêxia, Pakixtan họp tại Côlômbô công bố kiến nghị 6 điểm nhằm giải quyết hoà bình ở Đông Dương.
Tháng 10-1953, Đại hội Công đoàn thế giới lần thứ III quyết định lấy ngày 19-12-1953 làm ngày đoàn kết với nhân dân Việt Nam đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Đặc biệt là phong trào đòi thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh, chấm dứt cuộc chiến tranh bẩn thỉu ở Đông Dương, do Đảng Cộng sản Pháp lãnh đạo đã diễn ra sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân Pháp, nhất là trong công nhân và thanh niên Pháp.
Trước sức mạnh đoàn kết đấu tranh của nhân dân yêu chuộng hoà bình và dân chủ trên thế giới và thái độ kiên quyết của Liên Xô trong Hội nghị ngoại trưởng bốn nước họp ở Béclin từ ngày 25-1 đến ngày 18-2-1954, Mỹ, Anh, Pháp đã phải đồng ý triệu tập Hội nghị Giơnevơ để bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.132-134.
TRONG NĂM
Nghị quyết của Trung ương về kế hoạch chỉnh huấn cơ quan
Từ đầu năm 1952-1953, số cán bộ được chỉnh huấn theo kế hoạch chỉnh đảng các cấp mới chỉ là các cán bộ cốt cán của các cấp, ngành. Số cán bộ còn lại cả trong và ngoài Đảng chưa được chỉnh huấn rất nhiều. Một số cán bộ tuy được thử thách trong kháng chiến nhưng vẫn còn nhiều tư tưởng sai lầm, quan liêu, mệnh lệnh làm trái chính sách của Đảng, Chính phủ. Tình trạng đó làm cho các cơ quan quân, dân, chính, Đảng các cấp không được trong sạch và cản trở đến việc chấp hành chính sách của Đảng.
Vì vậy, sau đợt chỉnh huấn cán bộ cốt cán, Trung ương thấy rằng cần tiến hành chỉnh huấn cơ quan các cấp, các ngành từ trung ương đến huyện cho cả cán bộ, nhân viên trong và ngoài Đảng.
Mục đích của cuộc chỉnh huấn này là nâng cao tư tưởng sau đó kết hợp chỉnh đốn tổ chức, cải tiến tác phong. Yêu cầu của việc nâng cao tư tưởng chủ yếu là khắc phục tư tưởng địa chủ, đồng thời kết hợp khắc phục tư tưởng tiểu tư sản và các tư tưởng sai lầm khác.
Phương châm của việc chỉnh huấn cơ quan lấy việc nâng cao tư tưởng làm chính, kết hợp với chỉnh đốn tổ chức và tác phong. Lấy chỉnh huấn cán bộ làm chính, kết hợp với việc giáo dục, nâng cao giác ngộ cho công nhân và nhân viên, đề cao tinh thần thực sự cầu thị, tự giác sửa chữa sai lầm, triệt để mở rộng dân chủ, đề cao phê bình và tự phê bình; yêu cầu đối với đảng viên thì nghiêm khắc hơn đối với người ngoài Đảng.
Nghị quyết nêu rõ phương pháp và kế hoạch chỉnh huấn là: cán bộ các cơ quan từ trung ương đến liên khu, tỉnh, huyện đều phải tổ chức học tập từ 75-80 ngày theo bốn bước cụ thể.
Nội dung học tập: Học các vấn đề về cách mạng Việt Nam, tình hình nhiệm vụ và chính sách phát động quần chúng học cách làm một đảng viên và làm một cán bộ tốt.
Các tỉnh vùng tạm bị chiếm và miền ngược học tập phương châm công tác vùng địch và chính sách dân tộc thiểu số.
Về vấn đề tổ chức và lãnh đạo chỉnh huấn cơ quan, Nghị quyết nêu: ở cấp trung ương và liên khu lấy cơ quan làm đơn vị, thành lập Ban học uỷ cơ quan. Nhiều cơ quan liền nhau, thành lập Ban học uỷ khu vực, trên có Tổng học uỷ. Các lớp của tỉnh mở cho cán bộ tỉnh và huyện, do tỉnh uỷ trực tiếp phụ trách.
Nghị quyết chỉ rõ, các cơ quan chỉ đạo chỉnh huấn luôn phải nắm vững tình hình, tổng kết và trao đổi kinh nghiệm, uốn nắn lệch lạc có thể xảy ra. Phải nắm trọng điểm, cho người đi kiểm tra để việc chỉ đạo được sát, phải quy định một chế độ báo cáo và xin chỉ thị nghiêm ngặt.
Kế hoạch chỉnh huấn cơ quan của Trung ương đã được các cấp các ngành thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, đã tạo ra được một đội ngũ cán bộ cốt cán, trong sạch, sẵn sàng cống hiến cho kháng chiến.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II3/2/49a.5.
TRONG NĂM
Nghị quyết của Trung ương về vấn đề phát triển đảng
Trong hơn hai năm tạm ngừng phát triển Đảng, qua các cuộc đấu tranh chống giặc, qua việc chấp hành những chính sách của Đảng và Chính phủ, trong quần chúng đã xuất hiện nhiều tấm gương tích cực. Trong cuộc phát động quần chúng sắp tới, chắc chắn số quần chúng tích cực càng xuất hiện nhiều hơn nữa. Đảng ta cần kết nạp vào Đảng những phần tử tốt ấy để cải biến thành phần của Đảng, để tăng cường sức chiến đấu của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng.
Bởi vậy, Trung ương ra Nghị quyết về vấn đề phát triển đảng. Nghị quyết nêu rõ phương châm và hướng phát triển là: để tránh mắc lại những sai lầm nghiêm trọng trước đây, công tác phát triển đảng phải thấu suốt đường lối tổ chức của đảng, phải theo đúng phương châm“có lãnh đạo thận trọng, từng người một". Chỉ sau khi đã chỉnh đốn chi bộ, mới có thể phát triển đảng nhằm những thành phần sau: công nhân, nông dân (không kể phú nông), phần tử trí thức cách mạng và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Phải đảm bảo số đảng viên mới được kết nạp đa số thuộc thành phần công nhân, bần, cố nông.
Ở những chi bộ vùng sau lưng địch đã sơ bộ chỉnh đốn xong, cũng có thể phát triển đảng, nhưng phải thận trọng.
Trung ương chỉ ra phương pháp và những bước của sự phát triển Đảng: Trước hết phải thông qua các cuộc đấu tranh của quần chúng để tìm ra những phần tử tích cực, bồi dưỡng họ để kết nạp, tiến hành tìm hiểu, giáo dục các phần tử đó, làm cho họ hiểu về Đảng. Sau khi đã tìm hiểu và giáo dục kỹ, nếu họ yêu cầu vào Đảng và xét thấy họ có đủ điều kiện thì có thể giới thiệu.
Người vào Đảng phải làm giấy xin vào Đảng, báo cáo rõ lý lịch của mình với chi bộ, chi bộ xét, nếu đồng ý thì đề nghị lên cấp trên chuẩn y. Sau khi cấp trên đã chuẩn y mới làm lễ kết nạp vào Đảng.
Về lãnh đạo phát triển đảng, Nghị quyết nêu rõ: Trước hết các cấp bộ đảng phải tiến hành giáo dục trong các chi bộ về công tác phát triển Đảng, làm cho chi bộ hiểu rõ mục đích, ý nghĩa, phương châm, phương pháp của việc phát triển đảng là nhiệm vụ của mỗi một chi bộ, mỗi một đảng viên. Các cấp uỷ và Ban tổ chức các cấp phải trông nom về công tác phát triển đảng, luôn luôn phái người kiểm tra, tổng kết kinh nghiệm và kịp thời sửa chữa các sai lệch. Nghiêm khắc chống lối phát triển vì cảm tình, để đối phó, chỉ chú ý đến năng lực hoặc một vài thành tích công tác mà không điều tra kỹ về lịch sử, không chú ý giáo dục. Chống khuynh hướng vì ngừng phát triển đã lâu, thấy số lượng đảng viên sút kém mà sốt ruột muốn phát triển nhanh. Chống hiện tượng buông trôi, không lãnh đạo, không nắm vững đường lối giai cấp.
Cấp huyện cần đào tạo một số tổ chức viên. Nhiệm vụ của tổ chức viên là trực tiếp xuống chi bộ, gặp gỡ xem xét lại những người do chi bộ định kết nạp để giúp huyện uỷ chuẩn y. Điều kiện của một tổ chức viên là thành phần tốt, tư tưởng tốt, tác phong tốt, có kinh nghiệm về xây dựng đảng.
Các cấp uỷ và Ban tổ chức các cấp phải báo cáo và xin chỉ thị chặt chẽ về công tác phát triển đảng. Những người thuộc giai cấp bóc lột đầu hàng, phản động, mất quyền công dân thì không kết nạp vào Đảng.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II.3/2/49a.4.
NĂM 1953
Bộ Chính trị ra Nghị quyết về công tác ở Nam Bộ
Bộ Chính trị nhận thấy nhiều mặt công tác ở Nam Bộ còn kém, sự chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam chưa chặt chẽ nên Trung ương ra Nghị quyết về công tác Nam Bộ. Nghị quyết chỉ rõ sự giúp đỡ của Trung ương đối với Nam Bộ thiếu sót nhiều, trung ương cần phải tăng cường chỉ đạo công tác đối với Nam Bộ. Muốn cho việc chỉ đạo của Trung ương được sát, một phần do Trung ương cố gắng nhưng Trung ương Cục cũng cần giúp Trung ương kiểm soát tình hình và những khó khăn ở Nam Bộ một cách toàn diện.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Bộ Chính trị quyết định: Đối với từng công tác, Trung ương đặt ra một số câu hỏi về tình hình và cách giải quyết của Trung ương Cục, đồng thời cũng đề ra một số nguyên tắc và phương châm chung để Trung ương Cục thảo luận và cho ý kiến. Sau đó căn cứ vào tình hình cụ thể do Trung ương Cục báo cáo, kết hợp ý kiến của Trung ương Cục với ý kiến của Trung ương mà giải quyết từng công tác. Tổng Quân uỷ chuẩn bị gửi Nam Bộ một số ý kiến có tính chất nguyên tắc về phương châm xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa và tác chiến, đồng thời cũng đề ra một số câu hỏi về tình hình.
Các đồng chí phụ trách các công tác chính quyền, kinh tế tài chính, phát động quần chúng, Đảng vụ, tuyên huấn, mặt trận, đoàn thể, công tác sau lưng địch... chuẩn bị những vấn đề của ngành mình cần hỏi Nam Bộ và những phương châm nhiệm vụ công tác cần giữ và tập trung về Ban Bí thư để gửi đi.
- Tư liệu lưu tại Viện Lịch sử Đảng, ký hiệu II3/2/49a.3.
NĂM 1953
Quân và dân Khu Tả ngạn đấu tranh chống càn
Cùng với hàng loạt các hoạt động quân sự sau khi thất bại trong các chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc, thực dân Pháp tăng cường càn quét các tỉnh Tả ngạn.
Tại Thái Bình, nhằm cứu nguy cho một loạt vị trí đang bị vây hãm, tăng cường phòng thủ thị xã, đối phó với bộ đội chủ lực, đầu tháng 1-1953, thực dân Pháp mở hai cuộc càn lớn "con Sâu” và "con Cóc", càn quét khắp các huyện. Huy động vào hai cuộc càn, địch sử dụng ba binh đoàn cơ động (GM3, GM4, GM5), một tiểu đoàn dù, một tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến, cùng máy bay, tàu chiến, chia nhỏ thành các mũi đi giải vây vị trí. Củng cố tuyến đường 10, đường 39, địch cho đổi lực lượng chiếm đóng ở một số cứ điểm, kết hợp với đánh vị trí, địch cho quân càn quét vào Kiến Xương, Vũ Tiên, Đông Quan, Thái Ninh, Quỳnh Côi, Phụ Dục, hợp thế bao vây, tập trung phi pháo, oanh tạc, tiêu diệt chủ lực ta.
Quân và dân Thái Bình đã chủ động lập kế hoạch phá càn. Ở hai miền nam và bắc sông Trà Lý, các Ban chỉ huy chống càn được thành lập. Khi địch tiến đánh Vũ Tiên, Kiến Xương, Ban chỉ đạo miền Nam cử cán bộ ra miền Bắc phổ biến lối đánh của địch và kinh nghiệm chống càn của quân và dân các địa phương. Do vậy, địch đi đến đâu cũng mắc phải lưới lửa của các lực lượng vũ trang. Bộ đội, du kích tổ chức đánh thành từng tổ ba người, sẵn sàng chiến đấu ở mọi nơi. Với phương châm "đánh nhỏ, ăn chắc", “đánh địch bằng mọi thứ vũ khí”, các lực lượng vũ trang vừa phá càn, vừa tránh càn.
Hơn 20 ngày càn quét với lực lượng quân sự mạnh, địch chỉ giải vây được một số đồn bốt, đóng thêm một số vị trí, song bị thiệt hại nặng nề, 1.100 tên địch bị tiêu diệt, 500 tên bị thương và bị bắt, 15 xe quân sự bị phá.
Tại Hưng Yên, Hải Dương từ ngày 27-1 đến ngày 12-2-1953, du kích hai tỉnh đã anh dũng chống càn.
Nhằm đối phó với các hoạt động đánh phá “khu bình định mới” của ta ở Thanh Hà, đồng thời phá phong trào du kích chiến tranh ở Hải Dương, Hưng Yên, tìm diệt Trung đoàn 42, thực dân Pháp mở cuộc càn quét mang tên Noócmăngdi (Mormandic) vào nam Ân Thi, Tiên Lữ, Phù Cừ, Thanh Miện, nam Bình Giang, tây Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ.
Địch huy động ba binh đoàn cơ động (số 3,4,5) và hai tiểu đoàn bổ trợ (BMS), tiến công ba đợt, lùng diệt lực lượng ta trong phạm vi hẹp, liên tục chuyển mục tiêu hòng tạo ưu thế tuyệt đối, buộc ta phải giao chiến bị động. Trái với dự kiến của địch, phát hiện chúng tổ chức càn quét quy mô, Trung đoàn 42 đã cùng dân quân du kích, bộ đội địa phương hai tỉnh bám địa bàn, liên tục tập kích, phục kích, đánh tiêu hao, tiêu diệt địch. Cả ba đợt, ta đã tiêu diệt và làm bị thương gần 600 tên địch. Tuy nhiên, trong trận càn này, Đại đội 126 và 77 đã mắc vòng vây, lực lượng bị thiệt hại nặng.
Ngày 21-4-1953, bộ đội tỉnh Kiến An cùng nhân dân Đại Điền chống địch càn quét. Khoảng 11 giờ 30 phút, địch cho 2 tiểu đội bao vây chặt thôn Đại Điền, có ca nô, trực chiến trên sông, cùng máy bay và pháo binh yểm trợ nhằm tiêu diệt chủ lực ta, địch bắn đạn xuống Đại Điền hàng tiếng đồng hồ, nhà cửa, vườn tược, súc vật bị cháy, nhiều người dân bị chết. Sát cánh cùng nhân dân thôn Đại Điền, bộ đội Kiến An và Tiên Lãng đã chiến đấu quyết liệt, đẩy lùi ba đợt xung phong của địch, giữ vững trận địa tiêu diệt 200 tên địch.
Ngày 7 và ngày 8-12-1953, sau khi bị các lực lượng vũ trang ta tiêu diệt vị trí Phương Điếm và đại bại trong chi viện cho vị trí này trên đường 17, địch đã huy động trên 2.400 quân thuộc Binh đoàn cơ động GM3 có 7 xe tăng, 16 pháo 105 và 75 ly yểm hộ đánh vào các xã Trùng Khánh, Yết Kiêu, Liên Hồng, Thống Nhất thuộc phía bắc huyện Gia Lộc (Hải Dương). Tấn công Gia Lộc, thực dân Pháp nhằm xua giãn lực lượng ta, khủng bố nhân dân, tiêu diệt bộ đội chủ lực, triệt phá mùa màng của nhân dân, làm giảm ý nghĩa chiến thắng Phương Điếm và trận phục kích đánh viện trên đường 17 của ta, đồng thời muốn lấy lại tinh thần binh lính đóng tại các vị trí trên đường 17, 20, đường số 5 và thị xã Hải Dương. Được sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ, quân và dân địa phương đã chủ động chống càn, tiêu diệt 104 tên địch.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Hưng: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hải Hưng (1927-1954), Hải Hưng, 1990, t. I.
- Quân khu 3, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr. 418.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình (1927-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
_____________
1. Văn kiện Đảng toàn tập ghi “thu sung của dân, vũ trang dân chúng…” là để đảm bảo sách lược đoàn kết ở nông thôn. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.14, tr.204
Năm 1954 ĐẦU NĂM
Quân và dân ta mở cuộc tiến công địch ở đồng bằng Bắc Bộ
Đồng bằng Bắc Bộ là địa bàn chiến lược rất quan trọng đối với thực dân Pháp. Đây là nơi địch tăng cường lực lượng về mọi mặt hòng bảo vệ "cái then cửa của vùng Đông Nam Á” và chuẩn bị điều kiện để phản công, tiêu diệt chủ lực ta, giành lại thế chủ động chiến lược.
Nhằm phá tan âm mưu chiến lược của thực dân Pháp, tháng 1-1954, sau khi phá vỡ phòng tuyến địch ở sông Đáy, chủ lực ta đã tiến vào đồng bằng Bắc Bộ, cùng với bộ đội địa phương và du kích liên tục tiến công địch trên hầu khắp các vùng xung yếu, tiêu diệt hàng loạt vị trí quan trọng của địch.
Tháng 2-1954, Đại đội 45 và Đại đội 91, bộ đội tỉnh thọc sâu, vận động nhanh, đánh địch đóng quân tại Trà Trung và Hành Thiện (Xuân Trường - Nam Định). Ngày 6-2-1954, quân và dân Hà Nam tiêu diệt vị trí Hoàng Đan, vị trí Kinh Thanh, chặn đánh địch ở Phù Lão, giết và làm bị thương 400 tên địch. Quân và dân các địa phương tiêu diệt các vị trí La Tiến, Dị Sử, Nghĩa Lộ (Hưng Yên), Từ Sơn (Bắc Ninh) và bức địch phải rút bỏ hàng loạt vị trí quan trọng khác ở Cầu Bố (Bắc Giang), Diêm Điền, Cao Mại (Thái Bình), Kinh Môn (Hải Dương), Phù Lưu Tế (Hà Đông)… Các khu căn cứ của ta ở Tả ngạn, Hữu ngạn sông Hồng được mở rộng.
Chỉ trong hai tháng (từ ngày 12-12-1953 đến ngày 15-2-1954), lực lượng vũ trang địa phương đã đánh 8 trận lớn trên sông Hồng, sông Đáy, sông Đào, sông Thái Bình, bắn cháy và đánh chìm 40 tàu chiến và ca nô, diệt 15 đại đội địch. Trên đường số 5, quân ta đánh đổ nhiều đoàn tàu địch. Ở nhiều nơi, nhân dân vũ trang nổi dậy cùng bộ đội, du kích bao vây các đồn bốt.
Hoạt động của quân và dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ không những đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, mà còn kìm giữ được lực lượng cơ động của chúng ở đồng bằng, hỗ trợ đắc lực cho quân ta tiến công tiêu diệt địch trên các chiến trường khác, góp phần vào thắng lợi to lớn chung của ta trong Đông Xuân 1953-1954 và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994. t.1, tr.401.
NGÀY 24-1
Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị "Kịp thời khuếch trương những chiến thắng quan trọng về quân sự và chính trị để hoàn thành nhiệm vụ trung tâm"
Phần đầu Chỉ thị, Trung ương Cục chỉ rõ, sau thất bại liên tiếp, thực dân Pháp cử tướng Nava sang Đông Dương để thực hiện âm mưu quân sự mới của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hòng giành lại thế chủ động chiến lược trên chiến trường. Nhưng chúng chẳng những không thực hiện được mưu đồ đó mà còn bị động trước hoạt động của ta, bị quân và dân ta đánh cho nhiều đòn nặng nề.
Phối hợp với chiến trường Việt Nam, Quân giải phóng Lào chặn đánh địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại ở Thượng Lào và đánh vào đường số 12, tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch dự định đưa đến chi viện Trung Lào.
Lo tập trung đối phó ở chiến trường chính nên địch đã để sơ hở ở chiến trường Nam Bộ và Trung Bộ. Ở Trung Bộ, ta đánh địch và chống càn thắng lợi. Ở Nam Bộ, ta chủ động mở rộng chiến dịch ngụy vận phối hợp với tác chiến trên toàn chiến trường. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở khắp nơi.
Địch tập trung càn quét đồng bằng Bắc Bộ, không đạt mục đích và thất bại nặng nề; củng cố Lai Châu không xong lại bị ta tiêu diệt, tăng cường quân cơ động giữ Trung Lào nhưng không giữ nổi lại bị Quân giải phóng Lào tiêu diệt một bộ phận quan trọng, buộc phải rút lui khỏi Thà Khẹc làm cho chiến trường Đông Dương bị cắt làm đôi.
Chỉ thị cũng nêu rõ bên cạnh những thắng lợi về quân sự ta giành được những thắng lợi về chính trị rất quan trọng. Hội nghị toàn quốc của Đảng và Quốc hội quyết định tiến hành cải cách ruộng đất, làm cho quân và dân ta càng thêm phấn khởi, hăng hái chiến đấu.
Tình hình chính trị của địch đầy mâu thuẫn và rối ren. Phong trào hoà bình đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam ở Pháp và trên toàn thế giới đang lên cao, làm cho thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hoang mang lo sợ.
Trước tình hình chung có nhiều thuận lợi, Trung ương Cục chỉ thị phải kịp thời khuếch trương những thắng lợi, tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho nhân dân phấn khởi, tin tưởng. Ra sức khắc phục những tư tưởng chủ quan, cầu an, bị động, đề cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khó khăn, tỉnh táo đề phòng, chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ với chiến trường Bắc Bộ và Trung Lào.
Trung ương Cục nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh và hoàn thành công tác trung tâm là địch vận ngụy vận và chống bắt lính, kết hợp với cơ sở nhân dân, phát triển chiến tranh du kích trong các vùng du kích và tạm bị chiếm. Trong các vùng căn cứ du kích, đẩy mạnh việc thực hiện công tác trung tâm là chống càn, thu thuế nông nghiệp và xây dựng Đảng, xây dựng quân đội.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 20, phông Trung ương.
NGÀY 26-1
Liên quân Lào-Việt tiến công địch ở Thượng Lào
Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, tạo điều kiện đẩy mạnh mọi công việc chuẩn bị tiến công Điện Biên Phủ, ngày 26-1-1954, Liên quân Lào - Việt mở cuộc tiến công địch ở lưu vực sông Nậm Hu, Thượng Lào.
Trước đó một ngày, quân địch bỏ phòng tuyến rút về hướng Mường Sài và Luông Phrabăng. Liên quân Lào - Việt đã kịp thời truy kích, đuổi địch tới tận Mường Khoa, diệt gần hai tiểu đoàn địch, trong đó có một tiểu đoàn lính lê dương bị diệt gọn. Một cánh quân khác tiến công tiêu diệt địch ở Mường Ngòi, Nậm Ngà và truy kích tàn quân địch tới tận sông Mê Kông, cách Luông Phrabăng 15 km.
Trong năm ngày chiến đấu và truy kích trên chặng đường dài hơn 200km, Liên quân Lào - Việt đã tiêu diệt 17 đại đội địch, trong đó có một tiểu đoàn lính lê dương. Phòng tuyến sông Nậm Hu, "con đường liên lạc chiến lược" của địch với Điện Biên Phủ bị đập nát. Thừa thắng, Liên quân Lào - Việt tiến lên phía bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phôngxalỳ. Căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào mở rộng thêm gần một vạn kilômét vuông. Khu giải phóng Sầm Nưa của Lào nối liền với Khu Tây Bắc của Việt Nam.
Tiến công địch ở Thượng Lào, Liên quân Việt - Lào đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng chiến lược quan trọng, uy hiếp địch trên toàn bộ chiến trường Đông Dương, cô lập địch ở Điện Biên Phủ, tạo điều kiện để tập trung lực lượng chủ lực ta ở hướng chủ yếu, đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.341-356.
NGÀY 26-1
Bộ Chính trị ra Chỉ thị về công tác ở những xã đã phát động quần chúng giảm tô
Ngày 26-1-1954, Bộ Chính trị ra Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ về công tác ở những xã đã phát động quần chúng giảm tô.
Nội dung Chỉ thị nhấn mạnh đề phòng âm mưu của địa chủ; bảo vệ và giúp đỡ cốt cán mới được cất nhắc trong phong trào; đảng viên và chi uỷ phải thật thà đoàn kết với những cốt cán ngoài Đảng trong Nông hội; bước đầu chỉnh đốn cấp huyện, có kế hoạch cho các huyện uỷ tham gia phát động quần chúng. Đặc biệt chú trọng công tác giáo dục nông dân tăng cường đoàn kết, ổn định việc tăng gia sản xuất, quan tâm đến đời sống hằng ngày của quần chúng để đẩy mạnh mọi công tác kháng chiến và sửa đổi lề lối làm việc.
Qua hai đợt vận động, từ Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra, 401 xã cũ đã phát động quần chúng giảm tô.
Ở những xã đã phát động quần chúng giảm tô, nói chung, Việt gian phản động, cường hào gian ác đã bị đánh đổ, thế lực kinh tế, chính trị của giai cấp địa chủ đã bị suy yếu. Ta đã bước đầu giành được ưu thế chính trị cho nông dân lao động, thoả mãn một phần yêu cầu kinh tế của nông dân. Các tổ chức quân, dân, chính, Đảng ở nông thôn bước đầu được chỉnh đốn. Sau khi giảm tô, thoái tô, nông dân hăng hái sản xuất, phong trào đổi công giúp nhau làm ăn, phục vụ kháng chiến phát triển mạnh. Công tác thuế nông nghiệp, đi dân công, tòng quân, học tập văn hoá... đều được đẩy mạnh.
Đó là những thành tích lớn mà chúng ta cần giữ vững, song căn cứ vào tình hình một số xã, đặc biệt là những xã đang thí nghiệm cải cách ruộng đất thì thấy rằng: Sau khi đội công tác rút đi, cuộc đấu tranh giai cấp ở những xã đã phát động quần chúng giảm tô, không phải tạm ngừng hoặc giảm sút mà trái lại càng gay go, quyết liệt. Ở đó, bọn địa chủ đang dùng mọi cách để phản công lại nông dân. Chúng tiếp tục dùng những thủ đoạn mềm dẻo để mua chuộc nông dân, gây ra xích mích giữa bần, cố, trung nông để chia rẽ hàng ngũ nông dân. Thủ đoạn thâm độc nhất là chúng lợi dụng quần chúng để đấu tranh với quần chúng, lợi dụng những người có quan hệ với chúng trong các cơ quan lãnh đạo của ta, nhất là trong chi uỷ để đả kích những người xuất sắc.
Cuộc phản công của địa chủ cốt làm yếu lực lượng mới của nông dân, dìm hoặc lật đổ những cốt cán bần, cố nông mới được cất nhắc vào các cơ quan lãnh đạo.
Tình hình các xã đã phát động quần chúng giảm tô về cơ bản là giống nhau. Đó là việc chỉnh đốn chi bộ đảng trong vận động giảm tô mới là bước đầu, trong chi bộ vẫn còn phần tử không trong sạch. Bọn địa chủ đang ra sức lợi dụng những phần tử đó để mua chuộc. Hơn nữa, trong mấy đợt vừa qua, các huyện uỷ phần nhiều không tham gia phát động quần chúng giảm tô cũng là nguyên nhân làm cho một số cốt cán không được bảo vệ.
Trước tình hình đó, nhiệm vụ chủ yếu của các cấp uỷ Đảng ở những nơi đã phát động quần chúng giảm tô là phải công khai tuyên truyền, vạch rõ những âm mưu của giai cấp địa chủ, nâng đỡ những cốt cán bần cố nông, kiên quyết đánh tan sự phản công của địa chủ, thúc đẩy sản xuất và chuẩn bị cải cách ruộng đất.
Muốn thực hiện nhiệm vụ đó, các cấp uỷ đảng phải ủng hộ những phần tử cốt cán ở nông thôn, không được tự tiện điều động hoặc cách chức họ. Vì chi bộ đảng chưa được chỉnh đốn triệt để nên từ sau giảm tô đến cải cách ruộng đất, chi bộ đảng ở nông thôn chưa thể là hạt nhân lãnh đạo mà chi uỷ phải bàn bạc với Nông hội để giải quyết công việc. Ở những tỉnh nào mà phần lớn các xã đã phát động quần chúng giảm tô, liên khu uỷ và tỉnh uỷ phải có kế hoạch chỉnh đốn các huyện uỷ.
Các cấp cũng phải luôn luôn tăng cường đoàn kết nông thôn, giáo dục nông dân, đề phòng giai cấp địa chủ phản công hòng chia rẽ và làm yếu lực lượng nông dân.
Về sản xuất, việc phát triển tổ đổi công phải cẩn thận, đơn giản, tự giác, đổi công nhằm mục đích giải quyết những khó khăn về sản xuất chứ chưa phải để phát triển sản xuất.
Đối với công tác kháng chiến, phát động quần chúng giảm tô thực hiện cải cách ruộng đất trước mắt nhằm cải thiện đời sống nông dân và đẩy mạnh kháng chiến. Ta phải đảm bảo mọi công tác kháng chiến động viên sức người, sức của phục vụ cho tiền tuyến.
Các cấp phải sửa đổi lề lối làm việc, điều chỉnh cán bộ hợp lý, chống tư tưởng nóng vội, mệnh lệnh, cưỡng bức.
Chỉ thị nhấn mạnh, việc giữ gìn và củng cố phong trào những xã đã phát động quần chúng giảm tô là việc rất quan trọng. Các cấp uỷ đều phải tỉnh táo và ra sức giúp đỡ bồi dưỡng lực lượng đang lên của quần chúng, chuẩn bị tốt cho thực hiện cải cách ruộng đất.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.4-13.
TỪ NGÀY 27-1 ĐẾN NGÀY 17-2
Quân ta tiến công địch ở bắc Tây Nguyên
Ngày 20-1-1954, địch huy động sáu binh đoàn cơ động có thuỷ quân, không quân yểm hộ tiến công vào Phú Yên, mở đầu đợt thứ nhất của chiến dịch Átlăng (Atlante), hòng chiếm đóng toàn bộ vùng tự do của ta ở Liên khu V.
Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chỉ thị của Ban Thường vụ Liên khu uỷ V, ngày 27-1-1954, quân và dân Liên khu V chủ động mở cuộc tiến công địch ở bắc Tây Nguyên, đánh và tiêu diệt ba cứ điểm Măng Đen, Công Bray, Măng Bút. Hệ thống phòng ngự của địch ở bắc Tây Nguyên bị cắt làm đôi. Bộ đội ta tiến lên phía bắc tiêu diệt các đồn còn lại và tiến xuống phía nam uy hiếp thị xã Kom Tum.
Ngày 28-1-1954, lực lượng ta tập kích vào thị xã Plâyku tiêu diệt hàng trăm tên địch. Ngày 5-2, ta giải phóng thị xã Kon Tum, quét sạch quân địch ở bắc Tây Nguyên, giải phóng một vùng đất đai rộng 16.000 km với 20 vạn dân, bảo vệ vùng tự do Phú Yên - Bình Định. Địch phải ngừng cuộc tiến công ở Phú Yên và điều một số đơn vị cơ động tăng cường cho thị xã Plâyku và nam Tây Nguyên. Lực lượng cơ động chiến lược của địch tiếp tục bị phân tán.
Cuộc tiến công của ta vào bắc Tây Nguyên đã thu được thắng lợi lớn, làm cho địch thêm lúng túng bị động, một bộ phận sinh lực địch bị tiêu diệt và góp phần quan trọng vào thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân dân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.399-400.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 141.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.468.
NGÀY 8-2
Bộ Chính trị ra Chỉ thị về động viên quân đội và nhân dân tiếp tục đánh giặc và phục vụ tiền tuyến
Từ khi bắt đầu Thu Đông 1953 đến đầu năm 1954, trên khắp các chiến trường toàn quốc và chiến trường Lào - Miên quân ta hoạt động mạnh và đều, đã tiêu diệt trên 2 vạn rưỡi quân địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, thu nhiều vũ khí. Hoạt động của ta làm cho địch lún sâu vào thế bị động, phải phân tán lực lượng cơ động để đối phó.
Để tiếp tục thu nhiều thắng lợi mới, nắm vững cơ hội tốt, nhân đà thắng lợi của ta, Bộ Chính trị quyết định phải động viên quân đội và nhân dân tiếp tục đánh giặc và phục vụ tiền tuyến.
Vì vậy, Bộ Chính trị chủ trương Đảng uỷ và cán bộ chỉ huy các cấp của quân đội phải nhận rõ tình hình, thấm nhuần sâu sắc chủ trương quân sự của Trung ương, nhận rõ nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang của quân đội, phát huy truyền thống khắc phục khó khăn, vượt mọi gian khổ, liên tục chiến đấu anh dũng, ra sức thực hiện thắng lợi chủ trương quân sự của Trung ương và kế hoạch tác chiến của Tổng Quân uỷ.
Đảng uỷ các cấp cần phải nhận rõ chủ trương quân sự của Trung ương, phải đặt nhiệm vụ tác chiến và phục vụ tiền tuyến là nhiệm vụ trung tâm thứ nhất trong mọi công tác lúc này quyết tâm huy động nhân lực, vật lực để phục vụ tiền tuyến. Đồng thời kết hợp chặt chẽ việc phục vụ tiền tuyến với phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất và tăng gia sản xuất.
Nơi nào có vùng mới giải phóng thì phải kết hợp giữa tác chiến với củng cố vùng giải phóng về mọi mặt như đào tạo cán bộ xây dựng lực lượng vũ trang, phục hồi sản xuất giúp tiền tuyến đánh giặc...
Đảng uỷ và các cấp chỉ huy quân đội và dân quân du kích ở vùng sau lưng địch phải ra sức mở rộng chiến tranh du kích kết hợp với việc tích cực chống địch bắt lính, phá kế hoạch bổ sung quân số của địch, triệt để lợi dụng sơ hở của địch để tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng và củng cố vùng căn cứ du kích, thu hẹp vùng tạm bị chiếm.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.14-16.
NGÀY 8-2
Trung ương Đảng ra Chỉ thị về tuyển mộ tân binh năm 1954
Nhằm động viên lực lượng xây dựng lực lượng vũ trang, ngày 8-2-1954, Trung ương Đảng ra Chỉ thị về tuyển mộ tân binh.
Trung ương đã có chỉ thị cho các cấp về tuyển mộ tân binh trong năm 1954 và các địa phương đã tiến bộ nhiều trong việc tuyển mộ tân binh. Tuy nhiên, việc tuyển mộ vẫn còn nhiều khuyết điểm như dùng lối ép buộc, nơi nào dễ thì lấy nhiều, nơi nào khó như vùng sau lưng địch, vùng mới giải phóng, vùng đồng bào Công giáo thì không khắc phục khó khăn để vận động cho đủ quân số, khi tuyên truyền không nói rõ nghĩa vụ tòng quân, nhiều đảng viên thanh niên chưa xung phong gương mẫu...
"Việc tuyển mộ tân binh năm nay nhiều hơn mọi năm" nên Trung ương chỉ rõ các liên khu uỷ và khu uỷ cần định kế hoạch cụ thể về việc tuyển mộ tân binh. Kết hợp việc tuyển mộ tân binh với công tác nguỵ vận và có thể giáo dục tù binh, hàng binh, rồi chọn lọc những người thuộc thành phần cơ bản vào bộ đội ta.
Các cấp cần đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục nghĩa vụ tòng quân cho thanh niên, kể cả thanh niên ở vùng tự do và vùng sau lưng địch. Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam và Ban chính trị tỉnh đội có nhiệm vụ cùng các cấp uỷ Đảng tiến hành công tác này. Chú ý hơn nữa việc đề cao địa vị người quân nhân cách mạng trong xã hội. Thi hành đúng chính sách đối với thương binh, bệnh binh và gia đình quân nhân, liệt sĩ. Sửa chữa những khuyết điểm để tuyển mộ quân binh cho tốt.
Chỉ thị của Trung ương Đảng đã kịp thời động viên, cổ vũ các thanh niên lên đường tòng quân nhập ngũ, đáp ứng được yêu cầu của cuộc kháng chiến.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 289, phông Trung ương.
NGÀY 20-2
Ban Bí thư ra Chỉ thị tăng cường lãnh đạo công tác công an
Trong những năm qua, các cấp uỷ đã tăng cường lãnh đạo công tác công an kết hợp phát động quần chúng giảm tô trừng trị Việt gian, gián điệp và bọn địa chủ cường hào ác bá. Nhưng việc lãnh đạo công tác công an của các cấp cũng còn nhiều thiếu sót. Nhiều cấp uỷ Đảng chưa thật sự coi trọng công tác công an, có hiện tượng khoán cho đồng chí phụ trách công an. Do đó, công tác chỉ đạo đã mắc sai lầm phạm đến chính sách của Đảng, gây ảnh hưởng không tốt trong nhân dân.
Để chấm dứt tình trạng nói trên và đẩy mạnh công tác đấu tranh chống gián điệp, biệt kích, thổ phỉ, Việt gian phản động, Trung ương Chỉ thị các cấp uỷ Đảng phải thực hiện các công tác sau:
Theo dõi, nghiên cứu tình hình chính trị ở địa phương, nghiên cứu và nắm vững những chính sách bắt người, giam giữ, xét xử và chính sách tiễu phỉ, chống biệt kích nêu trong chương trình công tác công an năm 1954 để chỉ đạo công tác công an cho sát và đúng. Phải chú ý lãnh đạo công tác công an kết hợp chặt chẽ với phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.
Các cấp uỷ phải trực tiếp chỉ đạo hướng dẫn việc củng cố tổ chức, giáo dục rèn luyện cán bộ công an các cấp. Điều cho ngành công an những cán bộ có năng lực, làm cho bộ máy công an được trong sạch và thực sự là công cụ sắc bén của Đảng đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại của địch. Đối với đồng chí phụ trách công an phải để họ chuyên trách không được điều động luôn, hoặc giao cho nhiều việc khác.
Trung ương nhấn mạnh rằng, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đang ra sức tăng cường chiến tranh gián điệp, tăng cường biệt kích để phá hoại ta, nên ta phải tăng cường công tác công an để đối phó kịp thời với địch, làm tròn nhiệm vụ bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền tuyến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.24-26.
TỪ NGÀY 20 ĐẾN NGÀY 27-2
Hội nghị Cán bộ Đảng bộ Liên khu IV bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm 1954
Bị thất bại liên tiếp và nặng nề trên khắp các chiến trường, địch càng lún sâu vào thế bị động. Để cứu vãn tình thế đó, Mỹ, Pháp ráo riết thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt", "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Ở Bình - Trị - Thiên, chúng tăng cường càn quét và mở rộng phạm vi chiếm đóng, dồn làng, tập trung dân... Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, chúng tăng cường phá hoại sản xuất, phá hậu phương ta và câu kết với địa chủ phong kiến và tay sai phản động để chống lại chính quyền kháng chiến.
Trước tình hình đó, Hội nghị Cán bộ Đảng bộ Liên khu IV đã họp để đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ cần thiết.
Hội nghị đánh giá những thành tích mà quân và dân Liên khu IV đã đạt được, đặc biệt là ở Bình - Trị - Thiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh.
Mặc dù vậy, trong thời gian qua, Liên khu uỷ cũng đã phạm một số sai lầm trong lãnh đạo du kích chiến tranh ở Bình - Trị - Thiên, vì không nắm vững phương châm đấu tranh vùng sau lưng địch, không quán triệt chính sách đoàn kết nhân dân chống giặc nên gây nhiều tổn hại cho phong trào. Trong xây dựng lực lượng, bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền tuyến ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, thu thuế nông nghiệp, Liên khu uỷ đã phạm nhiều sai lầm về chính sách và nguyên tắc để kẻ thù lợi dụng phá ta.
Căn cứ vào những nhiệm vụ trung tâm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên, Hội nghị đã chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể của Liên khu IV.
Về quân sự, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang về mọi mặt, chủ yếu là xây dựng chủ lực tập trung, nâng cao chất lượng các tiểu đoàn tỉnh, các đại đội huyện, ra sức củng cố và phát triển các đội du kích xã. Về tác chiến, ở Bình - Trị - Thiên, tiếp tục tổ chức học tập và phổ biến Nghị quyết Hội nghị địch hậu Bắc Bộ và Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Bình - Trị - Thiên của Liên khu. Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, phải sẵn sàng đánh địch bất cứ lúc nào, phá các cuộc tập kích lớn nhỏ của địch ở ven biển, ở vùng giáp địch như Nga Sơn, Hà Trung, tích cực tiêu diệt bọn biệt kích nhảy dù và tăng cường vận động quần chúng phòng gian, bảo mật.
Liên khu IV phải phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách ruộng đất. Để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ này, ở cấp khu và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh, phải thành lập ban cải cách ruộng đất để giúp cấp uỷ chỉ đạo việc phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Giảm tô và cải cách ruộng đất ở tỉnh nào thì tỉnh uỷ địa phương phải tự túc cán bộ. Ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, địa phương nào thực hiện phát động quần chúng giảm tô hoặc cải cách ruộng đất thì công tác chính là phát động quần chúng giảm tô hoặc cải cách ruộng đất, song phải kết hợp chặt chẽ với việc phục vụ tiền tuyến, bảo vệ hậu phương, sản xuất nông nghiệp. Đối với các xã đã phát động quần chúng giảm tô, phải tiếp tục củng cố mọi mặt để chuẩn bị cải cách ruộng đất. Ở Bình - Trị - Thiên (trừ bắc Quảng Bình) không phát động quần chúng giảm tô, các vùng căn cứ vẫn tiến hành giảm tô như thường lệ.
Về kinh tế tài chính, phương châm và nhiệm vụ chung của ngành kinh tế tài chính là phối hợp với phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, ra sức khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, đảm bảo lương thực cho nhân dân và cung cấp cho kháng chiến, đẩy mạnh hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 12, phông Liên khu IV.
NGÀY 22-2
Bộ Chính trị Chỉ thị Ra sức phá tan âm mưu đẩy mạnh chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp - Mỹ
Sau những thất bại nặng nề của Pháp ở Việt Nam, nhất là trong Thu Đông 1952 và mùa Xuân 1953, thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức đã định ra kế hoạch Nava nhằm mục đích bình định các vùng sau lưng địch ở đồng bằng, tăng cường xây dựng ngụy quân, tấn công vùng tự do của ta. Đến đầu năm 1954, sau những thắng lợi của ta trên chiến trường Việt - Miên - Lào, kế hoạch Nava đã bước đầu bị thất bại.
Trước những thất bại đó, đế quốc Mỹ ra sức thúc đẩy thực dân Pháp tiếp tục chiến tranh và tiến thêm một bước trong việc can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, từ chỗ giúp tiền, vũ khí, kế hoạch cho thực dân Pháp, Mỹ tiến đến chỗ trực tiếp can thiệp một cách trắng trợn vào chiến tranh Đông Dương.
Gần đây, Mỹ cho máy bay ném bom bắn giết quân và dân Việt - Lào. Chúng đưa sang Việt Nam 200 sĩ quan và lính không quân. Ngoài ra, chúng còn dùng một nửa quân của chúng ở Thái Bình Dương để phong toả bờ biển Việt Nam và dùng quân Thái Lan "giúp Pháp", thực hiện chính sách thâm độc “dùng người châu Á đánh người châu Á”.
Việc đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Đông Dương càng làm cho nhân dân Việt - Miên - Lào thêm căm thù thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Do đó, nhân dân Việt - Miên - Lào càng đoàn kết kháng chiến, quyết tâm tiêu diệt bọn xâm lược.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị để chỉ rõ công tác trước mắt của chúng ta trong tình hình hiện thời.
Công tác trung tâm trước mắt của toàn thể quân và dân ta là tập trung lực lượng đánh thắng địch trong những trận sắp tới, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn nữa, làm cho kế hoạch Nava của Pháp - Mỹ hoàn toàn thất bại.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền chống Mỹ can thiệp vào chiến trường Việt - Miên - Lào, kịp thời vạch rõ âm mưu và hành động can thiệp của đế quốc Mỹ. Đồng thời khắc phục tư tưởng sợ Mỹ, coi thường chủ trương can thiệp của Mỹ và tư tưởng ảo tưởng hoà bình, ỷ lại vào phong trào hoà bình thế giới.
Ở vùng tự do, phải thực hiện cho được kế hoạch phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, kết hợp với phục vụ tiền tuyến và đẩy mạnh sản xuất.
Ở vùng mới giải phóng, phải ra sức củng cố mọi mặt công tác, đào tạo cán bộ địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và tổ chức giáo dục quần chúng thực hiện chính sách của Đảng.
Ở vùng sau lưng địch, phải nhân đà thắng lợi của quân ta trên chiến trường để mở rộng tuyên truyền chống Mỹ can thiệp, đẩy mạnh chiến tranh du kích, chống bắt lính…
Chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã kịp thời vạch rõ âm mưu xâm lược của đế quốc Pháp, Mỹ, nâng cao sự cảnh giác, lòng căm thù và sức chiến đấu của quân dân Việt Miên - Lào.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.29-34.
NGÀY 26-2
Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn phát động đợt tiến công nhằm vào hệ thống vận chuyển chiến lược của địch
Để phối hợp với các chiến trường trong cả nước, nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 26-2-1954, Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn chủ động phát động một đợt tiến công nhằm vào hệ thống vận chuyển chiến lược của địch, trọng điểm là đường số 5, tuyến đường sắt và các sân bay, kho tàng, nằm sâu trong vùng địch kiểm soát.
Sau thắng lợi vang dội ở sân bay Cát Bi, được sự chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ, quân dân Tả ngạn đã dồn dập mở nhiều đợt tổng công kích đánh phá đường số 5 và các tuyến vận chuyển chiến lược địch.
Từ sau khi có chỉ thị của Khu uỷ, Bộ Tư lệnh Khu Tả ngạn, phong trào đánh phá, tiêu diệt địch của quân dân Tả ngạn trở nên sôi nổi, mạnh mẽ.
Trong đợt tổng công kích từ ngày 11 đến ngày 16-3-1954, Trung đoàn 42 - chủ lực khu cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích đường số 5 tiêu diệt 13 vị trí của địch, bức rút 9 vị trí khác và tổ chức phục kích trên đường số 5 đoạn Ba Na - Như Quỳnh, diệt gọn 1 đoàn xe quân sự của địch gồm 17 chiếc, đánh mìn ở Văn Lâm lật đổ một đoàn tàu quân sự.
Từ ngày 22-3 đến ngày 2-4-1954, Tỉnh uỷ Kiến An, Hải Dương, Hưng Yên huy động hàng vạn đồng bào phá đường xá bóc dỡ hàng chục nghìn mét đường ray trên một đoạn đường dài 70 km, làm tê liệt giao thông địch hàng tuần lễ. Đồng thời, các đơn vị bộ đội và du kích trong toàn Khu Tả ngạn liên tiếp tập kích, phục kích, công đồn, diệt viện. Tiêu biểu là trận cường tập tiêu diệt cứ điểm Đức Mậu, bức hàng các vị trí Mua Đông, An Xá, bức rút các vị trí Tây Nam, Nam An ở Thái Bình ngày 23-3-1954 và trận vận động phục kích ngày 2-4-1954, tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn Âu - Phi thuộc Binh đoàn cơ động số 3 đang trên đường từ Hải Phòng về Hà Nội để tăng viện cho Điện Biên Phủ.
Các đợt tiến công, công kích phá hoại, tiêu diệt địch của quân và dân Tả ngạn đã góp phần tiêu hao địch, tạo điều kiện cho quân ta trên các chiến trường.
- Hội đồng Chỉ đạo biên soạn công trình Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng: Lịch sử kháng chiến chống Pháp Khu Tả ngạn sông Hồng 1945-1955, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.418-425.
- Quân khu 3, lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.472-473.
THÁNG 2
Nhân dân ta đấu tranh chống giặc bắt phụ nữ đi lính
Càng thất bại nặng nề, quân số của địch càng thiếu hụt chúng ráo riết bắt thanh niên vào lính trong đó có cả phụ nữ.
Cùng với những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, bắt hội tề, lập danh sách phụ nữ để bắt dần với luận điệu lừa bịp “nam nữ bình quyền"; "phụ nữ đi lính được cung cấp đầy đủ, được nhiều lương”; chúng còn dùng thủ đoạn cưỡng bức như đón bắt dọc đường, càn vào các thôn xóm để bắt…
Nhận rõ bộ mặt giả nhân giả nghĩa của địch, nhân dân ta đặc biệt là chị em đã anh dũng đấu tranh chống lại địch một cách quyết liệt, không khoan nhượng.
Ở Tiên Du (Bắc Ninh), địch bắt hơn 50 phụ nữ vào trại. Chị em kiên quyết đấu tranh; không mặc áo lính, chống địch cưỡng hiếp, không cầm súng tập và bằng mọi cách bỏ trốn. Cùng với chị em trong trại, các bà, các chị bên ngoài đã kết hợp đấu tranh, khiến địch không duy trì được đội nữ binh.
Ở Kiến An, bà con tập trung kéo lên đồn đấu tranh quyết liệt, đòi địch phải thả 28 phụ nữ chúng vừa bắt.
Ở Quảng Yên, ngày 6-1-1954, 300 tên địch về các làng lùng sục bắt đi 15 phụ nữ. Chị em bị bắt cùng bà con trong các thôn xóm lân cận đã đoàn kết đấu tranh với địch. Cuộc giằng co quyết liệt diễn ra, chị em bị bắt đã lợi dụng chạy trốn.
Phong trào đấu tranh phá âm mưu bắt phụ nữ đi lính phát triển mạnh mẽ ở vùng sau lưng địch làm thất bại âm mưu củng cố quân ngụy của chính phủ bù nhìn.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu Trung ương Đảng, ĐVBQ 289.
TỪ NGÀY 4 ĐẾN NGÀY 7-3
Quân dân ta tiến công sân bay Gia Lâm (Hà Nội) và sân bay Cát Bi (Hải Phòng)
Để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ và phá huỷ phương tiện chiến tranh của Pháp, Tổng Quân uỷ chỉ đạo cho bộ đội ta tiến công tập kích sân bay Gia Lâm và sân bay Cát Bi.
Sân bay Gia Lâm (Hà Nội) là một trong những sân bay lớn của Pháp ở Đông Dương. Để bảo vệ sân bay và vùng phụ cận, địch tập trung 1.000 quân đóng dọc đường số 5, sát sân bay và bố trí một hệ thống hàng rào dây thép gai, lô cốt dày đặc, canh phòng cẩn mật.
Đêm mồng 3 rạng ngày 4-3-1954, quân ta đã mưu trí, dũng cảm đánh vào sân bay Gia Lâm phá huỷ 18 máy bay các loại, 1 kho xăng và 2 máy phát điện của địch.
Sân bay Cát Bi (Hải Phòng) cũng là một trong những sân bay quân sự quan trọng của giặc Pháp ở chiến trường Đông Dương. Địch tập trung ở đây nhiều máy bay và vũ khí.
Đêm ngày 6 rạng ngày 7-3-1954, quân ta đột nhập vào sân bay Cát Bi, phá huỷ hoàn toàn 60 máy bay địch gồm 38 máy bay phóng pháo kiểu B26, 10 máy bay khu trục, 3 máy bay vận tải, 9 máy bay lên thẳng.
Hai căn cứ không quân chủ yếu của địch có nhiệm vụ tiếp tế vận tải và bắn phá yểm trợ cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị thiệt hại nặng.
Chiến thắng của ta ở sân bay Gia Lâm và Cát Bi làm cho lực lượng không quân của địch bị suy yếu nghiêm trọng và tinh thần quân giặc hoang mang bối rối. Đây là những chiến công xuất sắc trực tiếp góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân dân ta.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng (1925-1955), Nxb. Hải Phòng, 1991, t.I.
- Thành uỷ Hà Nội: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hà Nội (1926-1954), Nxb. Hà Nội, 1989.
NGÀY 9-3
Ban Bí thư ra Thông tri về việc đón thương binh về xã
Để giúp cho thương binh về xã kịp thời cày cấy, Ban Bí thư đã ra Thông tri gửi các cấp uỷ về việc đón thương binh trong năm 1954.
Thông tri chỉ rõ, trong năm 1954, sẽ đưa thương binh về xã làm hai lân và phân phối số thương binh cho các tỉnh như sau: Thái Nguyên 250 người, Bắc Giang 100 người, Tuyên Quang 60 người, Phú Thọ 450 người, Vĩnh Phúc 100 người, Yên Bái 80 người, Ninh Bình 100 người, Thanh Hoá 600 người, Nghệ An 300 người, Hà Tĩnh 250 người.
Ban Bí thư chỉ thị các tỉnh tạm lấy ruộng đất nửa công, nửa tư, ruộng đất công hoặc ruộng đất tịch thu của Việt gian chia cho thương binh. Sau này, khi thực hiện cải cách ruộng đất sẽ chia chính thức cho họ. Ban Bí thư cũng nói rõ nếu chờ cải cách ruộng đất mới đón thương binh về xã thì số thương binh ở trại đông quá, việc cung cấp gặp nhiều khó khăn.
Ban Bí thư nhắc nhở các liên khu uỷ, tỉnh uỷ căn cứ vào tình hình địa phương mình mà phân phối thương binh về xã cho kịp thời vụ.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 302, phông Trung ương.
NGÀY 9-3
Ban Bí thư ra Chỉ thị về đấu tranh chống địch bắt lính
Nhằm thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", thực dân Pháp và can thiệp Mỹ tăng cường bắt lính với quy mô rộng lớn để bổ sung số lính bị tiêu diệt, xây dựng cho chính quyền bù nhìn một lực lượng quân sự và hòng làm cho cơ sở kháng chiến và sản xuất của ta bị suy yếu. Vì vậy, ngày 9-3-1954, Ban Bí thư ra Chỉ thị về đấu tranh chống địch bắt lính.
Chỉ thị nêu tình hình trong những năm gần đây địch tăng cường bắt lính: năm 1953, chúng đã tổ chức được trên 50 tiểu đoàn khinh quân và trên 100 đại đội địa phương quân. Riêng ở Bắc Bộ, chúng bắt trên 6 vạn thanh niên, đưa tổng số ngụy quân chính quy lên 20 vạn. Năm 1954, địch dự định bắt trong toàn quốc 8 vạn thanh niên vào khinh quân, đồng thời mở rộng địa phương quân. Địch dùng mọi thủ đoạn dã man để bắt lính, chúng bắt cả thanh niên dưới 18 tuổi, bắt phụ nữ làm lính và mật thám.
Trước tình hình đó, Trung ương chỉ thị rằng việc phá kế hoạch bắt lính là một nhiệm vụ quân sự và chính trị quan trọng của ta bên cạnh nhiệm vụ tác chiến. Chống địch bắt lính thắng lợi có tác dụng góp phần vào việc đánh bại thực dân Pháp và can thiệp Mỹ và giữ gìn được lực lượng để ta tiến lên đánh địch.
Để đẩy mạnh phong trào chống bắt lính ở vùng sau lưng địch và vùng bị tạm chiếm, các cấp uỷ phải nhận rõ mưu mô của địch; phải tuyên truyền rộng rãi việc chống bắt lính, vạch rõ âm mưu thâm độc của địch trong việc “dùng người Việt đánh người Việt", đưa thanh niên đi làm bia đỡ đạn cho chúng, vạch rõ những luận điệu độc lập giả hiệu của đế quốc và chính quyền bù nhìn, đề phòng tư tưởng chủ quan của nhân dân và cán bộ xem thường sự nguy hiểm của nguỵ binh và địa phương quân.
Trong khi tuyên truyền, cũng nêu rõ những thắng lợi của ta và khó khăn, thất bại của địch, giáo dục rộng rãi lòng yêu nước căm thù giặc cho thanh niên nam, nữ đi lính.
Ở những thành thị tạm bị chiếm, nhiệm vụ trung tâm là chống địch bắt thanh niên đi lính.
Ở những vùng sau lưng địch, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống địch bắt lính, động viên tổ chức thanh niên tham gia du kích, chuẩn bị chống địch càn quét.
Cần nhân đà chiến thắng của ta mà đẩy mạnh việc vận động ngụy binh. Các cấp, các cán bộ, chiến sĩ phải thi hành đúng chính sách của Đảng, Chính phủ đối với ngụy binh, hàng binh, phải nghiêm khắc và thi hành kỷ luật đối với những người cố ý làm sai chính sách.
Chống địch bắt lính là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết, nên Trung ương chỉ thị các Ban tuyên huấn, Ban chấp hành thanh niên, phụ nữ, Ban địch vận ở mỗi cấp phải có kế hoạch tổ chức cụ thể để vận động và tổ chức đấu tranh chống địch bắt lính ở địa phương.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.43-47.
NGÀY 18 – 3
Liên khu uỷ IV ra Chỉ thị về vận động binh lính địch và đấu tranh chống bắt lính
Trong thời gian qua, quân và dân Liên khu IV đã tiêu diệt hàng chục vị trí lô cốt địch và binh lính địch. Càng bị đánh mạnh, địch càng phải rút bớt lực lượng ở các chiến trường khác tập trung đối phó với ta ở chiến trường chính và càng ra sức bắt thanh niên đi lính để bù vào lỗ hổng đó.
Để phá tan âm mưu của địch, phối hợp một cách có hiệu quả với chiến trường chính, ngoài việc đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh và mọi mặt đấu tranh của nhân dân ở vùng sau lưng địch với một tinh thần khẩn trương nhất, đồng thời thi hành chủ trương chống bắt lính của Ban Bí thư, Liên khu IV chỉ thị cho các cấp uỷ, các cơ quan phải ra sức đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận và phong trào đấu tranh chống bắt lính.
Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận, tuyên truyền những chiến thắng của ta vào hàng ngũ binh lính địch để làm cho binh lính hoang mang dao động, phải ra sức tuyên truyền cho binh lính địch thấy rõ chính sách khoan hồng của Chính phủ ta và âm mưu thâm độc của kẻ địch để vận động binh lính không chịu ra trận, làm nội công cho ta, bỏ súng về làng, trở về với kháng chiến. Đồng thời, chúng ta cũng tích cực tổ chức và lãnh đạo nhân dân, nhất là thanh niên và phụ nữ chống giặc bắt lính.
Càng bị tổn thất nặng nề, giặc càng ra sức bắt thanh niên nam, nữ đi lính một cách trắng trợn. Vì vậy, chúng ta phải tuyên truyền giải thích để cho nhân dân thấy rằng đi lính cho giặc là trái với truyền thống dân tộc. Phải động viên thanh niên nam, nữ tích cực đấu tranh, ở vùng du kích và căn cứ du kích, phải vận động thanh niên tham gia du kích đánh giặc giữ làng, thà chết chứ không chịu đi lính cho giặc.
Đồng thời, phải thực hiện tốt chính sách tù, hàng binh của Đảng và Chính phủ, kết hợp chặt chẽ với việc giáo dục tù, hàng binh.
Cuối cùng, Chỉ thị nhấn mạnh phá kế hoạch xây dựng ngụy quân của giặc, chủ yếu là phải đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống bắt lính và đẩy mạnh công tác ngụy vận, phải gây thành một phong trào đấu tranh liên tục và rộng rãi trong quần chúng.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 62, phông Liên khu IV.
TỪ NGÀY 19-3 ĐẾN NGÀY 31-3
Phong trào đấu tranh quân sự tiêu diệt địch của quân và dân Liên khu IV
Hoà cùng cuộc chiến đấu của nhân dân cả nước trên chiến trường chính, nửa cuối tháng 3-1954, nhân dân Liên khu IV đã đồng loạt tấn công địch.
Tại Quảng Bình, bộ đội địa phương đã đánh địch 265 trận, tiêu diệt 763 tên làm bị thương 137 tên, bắt sống 66 tên, thu 104 súng, 14.407 viên đạn các loại, phá 16 xe và 4 lô cốt.
Lực lượng du kích đã đánh địch 217 trận, trong đó có 2 trận chống càn, tiêu diệt 58 tên địch, làm bị thương 56 tên, bắt 18 tên gián điệp, phối hợp với các đơn vị chủ lực diệt 3 vị trí, 2 lô cốt, phá 4 xe vận tải, cắt 14 km dây điện thoại, huy động 18 vạn ngày công phục vụ tiền tuyến.
Công tác địch vận được đẩy mạnh với việc rải 24.000 truyền đơn, 370 lần gọi loa, 10 cuộc võ trang tuyên truyền địch vận. Đáng chú ý là quân và dân trong tỉnh đã vận động làm cuộc binh biến đồn Lộc Đại, tranh thủ được 5 tên nguỵ làm nội ứng, lôi kéo 150 người khác bỏ về nhà.
Trên địa bàn Thừa Thiên Huế, quân và dân trong tỉnh thực hiện mục tiêu đẩy mạnh tiến công tiêu hao tiêu diệt, kìm chân địch, không cho chúng rảnh tay đối phó với các chiến trường chính.
Quân và dân Thừa Thiên - Huế đã đánh 202 trận, trong đó có 32 trận chống càn, tiêu diệt 1.569 tên, làm bị thương 362 tên, bắt sống 272 tên, phá huỷ 25 xe, 45 đầu máy và 80 toa xe lửa, thu 472 súng, phá 14 cầu, cắt 29 km dây điện thoại.
Đấu tranh địch vận được đẩy lên một bước: rải 13 vạn truyền đơn, tổ chức 35 vụ đấu tranh (14 vụ có lãnh đạo), vận động ngụy binh ra hàng được 1.469 người, vận động 1.734 gia đình ngụy binh và 421 gia đình đi đòi chồng con về.
Tại Quảng Trị, nhân dân đã rải 5 vạn truyền đơn địch vận và 302 lần gọi loa, giáo dục 2.514 gia đình ngụy binh, lôi kéo 599 nguỵ binh về với kháng chiến; tiến hành 1 vụ nội ứng, 1 vụ binh biến, thu 121 súng trường, 12 tiểu liên...; giải tán 700 hương vệ ở Hướng Hoá, thu 305 súng các loại.
Tại Hà Tĩnh, trong tháng 3, vào các ngày 1, 2, 10, 11, 18, 25, 26, địch đã chín lần ném bom vào các huyện Hương Khê, Hương Sơn, Thạch Hà, Kỳ Anh, Cẩm Xuyên... phá huỷ 20 ngôi nhà, giết hại 6 người. Trước tình hình đó, quân và dân Hà Tĩnh đã tăng cường công tác quân sự, đảm bảo an toàn người và của; đồng thời, đẩy mạnh công tác sản xuất, phục vụ chiến đấu. Lực lượng quân sự tỉnh đã tăng cường huấn luyện cách bố trí bom, mìn cho du kích và cán bộ xã đội ở 13/16 xã thuộc huyện Kỳ Anh, 9/21 xã thuộc huyện Đức Thọ, 12/14 xã thuộc huyện Hương Sơn; huy động 532 thanh niên phục vụ tiền tuyến, thành lập Đại đội chủ lực cầu đường vào ngày 23-3-1954 với quân số 186 người.
Hoạt động quân sự của các tỉnh thuộc Liên khu IV vào nửa cuối tháng 3-1954 đã thiết thực bảo vệ hậu phương và tăng sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của quân và dân cả nước.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 68, phông 49.
NGÀY 20-3
Bộ Chính trị ra Chỉ thị về một số vấn đề cần chú ý trong phát động quần chúng giảm tô đợt 4
Cuộc vận động giảm tô đợt 3 đã căn bản hoàn thành. Ta đã tiến lên một bước trong việc nâng cao trình độ tư tưởng và lãnh đạo của cán bộ, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho đợt 4 phát động quần chúng giảm tô.
Căn cứ vào tình hình đợt 4, Trung ương ra Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ III, IV, Việt Bắc và các tỉnh chỉ rõ cần lưu ý tăng cường lãnh đạo tư tưởng cán bộ, khắc phục tư tưởng tự mãn và tư tưởng sợ khó khăn, gian khổ.
Tư tưởng tự mãn đã phát sinh trong cán bộ, làm mất cảnh giác chính trị của cán bộ khiến họ không nhìn thấy cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay go, phức tạp. Do đó, họ chủ quan, khinh địch, không tỉnh táo, khiến cho địch lợi dụng phá hoại ta. Tư tưởng này cũng làm giảm bớt tinh thần tích cực và trí sáng tạo trong công tác không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng và chính sách của Chính phủ.
Tư tưởng sợ khó khăn, gian khổ của một số cán bộ rất phổ biến, họ muốn được nghỉ ngơi, ngại công tác ở vùng dân tộc thiểu số, không kiên nhẫn hết lòng phục vụ nhân dân.
Các cấp uỷ Đảng phải giáo dục cán bộ xây dựng quan điểm giai cấp cho dứt khoát. Muốn phát động quần chúng giảm tô phải bắt rễ xâu chuỗi, không dựa vào chi bộ sẵn có. Trong bắt rễ xâu chuỗi, cần dựa vào đông đảo quần chúng bần, cố nông, bắt rễ phải vạch rõ ranh giới giữa bần, cố nông và địa chủ, xây dựng tổ chức vững mạnh của giai cấp nông dân chống lại phong kiến.
Kinh nghiệm chứng tỏ rằng việc bắt được rễ bần, cố nông tốt là mấu chốt quan trọng nhất trong việc phát động quần chúng thực hiện giảm tô. Đó là khâu quyết định việc cải tạo cấp lãnh đạo xã, xây dựng cốt cán lãnh đạo bần, cố nông và làm cho thành phần lãnh đạo ở nông thôn được trong sạch.
Các khu uỷ, tỉnh uỷ và đoàn uỷ cần tăng cường lãnh đạo công tác, dựa hẳn vào bần, cố nông để bắt rễ sâu chuỗi phát động quần chúng, tăng cường chỉnh đốn chi bộ, thấu suốt chính sách dân tộc, đảm bảo thực hiện đoàn kết dân tộc, tiếp tục nâng cao tư tưởng và tác phong của cán bộ… Đồng thời, cũng phải tăng cường công tác kiểm tra và tăng cường chế độ báo cáo, xin chỉ thị cấp trên.
Bộ Chính trị Trung ương Đảng chỉ rõ: nhờ kinh nghiệm của ba đợt trước, cuộc vận động giảm tô đợt 4 có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có không ít khó khăn. Các cấp uỷ Đảng phải phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn để thực hiện cho tốt giảm tô đợt 4.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.57-64.
TỪ NGÀY 20 ĐẾN NGÀY 24-3
Hội nghị lần thứ năm Liên khu uỷ V về nhiệm vụ năm 1954
Từ ngày 20 đến ngày 24-3-1954, Hội nghị lần thứ năm Liên khu uỷ V đã họp để phân tích tình hình thế giới trong nước và Liên khu, đồng thời chỉ rõ những nhiệm vụ của Liên khu trong năm 1954.
Trên thế giới, phe hoà bình dân chủ do Liên Xô lãnh đạo ngày càng lớn mạnh, phe đế quốc gặp nhiều thất bại và đang âm mưu tiếp tục gây chiến.
Trong nước, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đang tích cực thực hiện kế hoạch Nava nhằm bình định các vùng sau lưng địch, mở rộng nguỵ quân, tập trung lực lượng để giành thế chủ động.
Trong khi đó, tình hình Liên khu V có nhiều biến đổi. Từ giữa năm 1953, địch tích cực củng cố vùng địch hậu, nhất là ở Tây Nguyên phát triển nguỵ quân và tập trung lực lượng cơ động mở rộng chiếm đóng vùng tự do duyên hải. Bắt đầu từ ngày 20-l-1954, chúng thực hiện kế hoạch đánh chiếm vùng tự do. Đảng bộ quân và dân Liên khu V đã tích cực đánh địch và giành được những thắng lợi to lớn về quân sự, bồi dưỡng được một phần lực lượng nhân dân và lực lượng kháng chiến nhất là ở vùng tự do; giải quyết nạn đói, phục hồi sản xuất nông nghiệp, phục hồi dần tiểu thủ công nghiệp, cải thiện một phần đời sống nhân dân, công chức, bộ đội nhờ thi hành chính sách ruộng đất.
Thành tích đáng kể là về mặt quân sự. Từ tháng 12-1953 đến tháng 3-1954, trên các chiến trường trong Liên khu, ta đã tiêu diệt hơn 10.000 tên địch, thu 2.000 súng các loại. Riêng ở chiến trường bắc Tây Nguyên, ta tiêu diệt 2.342 tên địch, giải tán phần lớn các ổ vũ trang, phá hệ thống nguỵ quyền, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng khu du kích và căn cứ ở Tây Nguyên.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện, Liên khu vẫn còn mắc một số khuyết điểm. Đó là không chuyển hướng kịp thời nhận thức của ta với âm mưu địch tích cực và khẩn trương đánh chiếm vùng tự do Liên khu để củng cố miền Nam. Về thực hiện chính sách ruộng đất, Liên khu còn có những sai lầm, nhất là trong việc giảm tô. Về kinh tế tài chính, Liên khu thiếu chú trọng vận động sản xuất ở vùng núi, vùng căn cứ, mậu dịch, ngân hàng chưa thiết thực phục vụ sản xuất.
Trước tình hình đó, Hội nghị nhận định âm mưu địch và nhiệm vụ của ta.
Địch có thể mở rộng chiếm đóng ra các tỉnh tự do còn lại trong một thời gian ngắn nữa. Vì vậy, nhiệm vụ của Liên khu lúc này là "ra sức đánh giặc và chuẩn bị đánh giặc". Cụ thể là: ra sức tiêu diệt địch, phát triển lực lượng, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích, thu hẹp vùng tạm chiếm; tích cực xây dựng, bảo vệ và mở rộng căn cứ địa, ra sức xây dựng vùng mới giải phóng về mọi mặt, đủ sức chống lại địch nếu chúng đánh chiếm trở lại, tiến lên thành vùng căn cứ vững chắc để tiếp tục mở rộng vào vùng chiến lược quan trọng, đồng thời ra sức bảo vệ vùng tự do, bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng kháng chiến để có đủ điều kiện duy trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến lâu dài.
Hội nghị cho rằng, để thực hiện các nhiệm vụ trên, Liên khu phải đẩy mạnh công tác quân sự, kinh tế, tài chính và công tác khác.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 40, phông Liên khu V.
TỪ THÁNG 3 ĐẾN THÁNG 7
Quân và dân ta trên các chiến trường đẩy mạnh hoạt động phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ
Nhằm phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ, quân và dân ta ở các chiến trường trên toàn quốc liên tục tiến công địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại.
Tại Nam Bộ, Tiểu đoàn 302 phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia diệt một số vị trí địch, mở rộng vùng giải phóng ở các tỉnh phía đông Camphuchia. Đại đội đặc công 205 tập kích kho bom Phú Thọ Hoà (Sài Gòn), thiêu huỷ gần 10.000 tấn bom và thuốc nổ, 10 triệu lít xăng dầu, diệt một đại đội lính Âu - Phi. Tiểu đoàn 303 (Thủ Biên) phối hợp với bộ đội địa phương diệt một đại đội lính commăngđô, thu toàn bộ vũ khí. Đại đội 65 và Đại đội Lê Hồng Phong (Bến Cát) diệt một đại đội địch tại đồn Bến Tranh. Đại đội 55 và Đại đội Nguyễn An Ninh (Lái Thiêu) diệt một trung đội địch tại đồn Cây Trắc. Đội đặc công Rừng Sác bắn chìm ba tàu lính chở Pháp trên sông Lòng Tàu.
Tại Trung Bộ, lực lượng vũ trang Liên khu V đánh bại cuộc càn Átlăng 2 của địch. Trung đoàn 96 vận động phục kích diệt Binh đoàn cơ động GMIOO trên đường số 19.
Tại đồng bằng Bắc Bộ, Trung đoàn 42 (Liên khu III) phục kích trên đường số 5 (Bần Yên Nhân, Hưng Yên), diệt 315 tên thuộc Binh đoàn cơ động số 3. Các trung đoàn 52,48 (Đại đoàn 320) phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh hoạt động ở Nam Định, diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch. Các tiểu đoàn 400,353,375 (Trung đoàn 9, Đại đoàn 304) phối hợp với bộ đội địa phương và du kích hoạt động mạnh ở Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông...
Hoạt động của quân và dân ta trên các chiến trường có tác dụng to lớn trong việc tiêu hao, tiêu diệt địch, phối hợp có hiệu quả với chiến trường Điện Biên Phủ.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.145.
NGÀY 26-3
Ban Bí thư ra Chỉ thị về đẩy mạnh công tác ở vùng tạm bị chiếm
Hội nghị Giơnevơ sẽ họp bàn về đình chỉ chiến tranh ở Đông Dương. Đó là một thắng lợi lớn của lực lượng hoà bình và dân chủ thế giới và cũng là thắng lợi to lớn của ta. Thắng lợi ấy làm cho nhân dân ta ở vùng tạm bị chiếm phấn khởi. Thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và chính quyền bù nhìn đang ra sức tiếp tục chiến tranh xâm lược, tuyên truyền xuyên tạc về Hội nghị Giơnevơ và chúng cũng ra sức chống giữ Điện Biên Phủ, càn quét các vùng du kích ở đồng bằng, đánh ra vùng tự do Liên khu và đẩy mạnh việc xây dựng thêm nguỵ quân và cướp bóc dân ta ở vùng tạm bị chiếm.
Trung ương chỉ rõ nhiệm vụ của ta ở vùng tạm bị chiếm là tuyên truyền, vận động, tổ chức các tầng lớp nhân dân đấu tranh mạnh mẽ chống Pháp, chống bắt lính, bắt phu, vơ vét tài sản của nhân dân. Đồng thời, ủng hộ Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đòi độc lập thực sự, chuẩn bị ủng hộ lập trường của phái đoàn ta tại Hội nghị Giơnevơ.
Công tác trung tâm của ta ở vùng tạm bị chiếm là chống địch bắt lính, ra sức đẩy mạnh công tác vận động rộng rãi các loại nguỵ binh, làm tan rã hàng ngũ chúng, làm cho phong trào vận động ngụy binh thành một phong trào quần chúng thu hút được đông đảo nhân dân tham gia, nhất là gia đình nguỵ binh; đặc biệt chú trọng tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân vùng tạm bị chiếm đấu tranh chống thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và ủng hộ Chính phủ ta.
Những cuộc vận động trên cần gắn với những khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi hàng ngày của quần chúng. Chỉ thị chỉ rõ, trong việc tuyên truyền vận động cần tránh cô độc, hẹp hòi. Về hình thức tổ chức và đấu tranh thì phải tuỳ hoàn cảnh và trình độ của quần chúng, thực lực của phong trào và chủ trương cho thích hợp. Nói chung phải lợi dụng mọi khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp, từ hình thức đấu tranh thấp mà tiến dần lên. Phải ra sức vận động quần chúng đấu tranh bằng mọi cách, song trong bất cứ trường hợp nào cũng phải nghĩ đến việc bảo toàn cơ sở, bảo toàn cán bộ không để cho bọn khiêu thích lợi dụng phá hoại.
Khẩu hiệu tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh là chống bắt lính, chống đánh thuế nặng, chống đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, đòi độc lập thống nhất và tích cực ủng hộ lập trường của phái đoàn ta tại Hội nghị Giơnevơ.
Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ thị các cấp uỷ địa phương vùng tạm bị chiếm cần nghiên cứu kỹ Chỉ thị này để thực hiện.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.65-69.
THÁNG 3
Cuộc đấu tranh của trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam
Phối hợp với cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược, can thiệp Mỹ và bè lũ tay sai, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, các nhà trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn đã ra "Tuyên ngôn hoà bình" nhiệt liệt hưởng ứng cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương và yêu cầu Quốc hội cùng Chính phủ Pháp ra lệnh cho quân đội viễn chinh ngừng chiến ở Đông Dương để có thể tiến tới một giải pháp hoà bình có lợi cho hai dân tộc Pháp - Việt.
Tiếng nói đấu tranh của trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân nhằm giành hoà bình cho dân tộc.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (1930-1954), sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, t.1, tr.349.
- Báo Nhân dân, ra ngày 6-5-1954.
THÁNG 4
Hội nghị mở rộng Ban Thường trực Uỷ ban Liên Việt toàn quốc phát động phong trào chống đế quốc Mỹ
Tháng 4-1954, Hội nghị mở rộng Ban Thường trực Uỷ ban Liên Việt toàn quốc họp và quyết định hai vấn đề quan trọng, ủng hộ việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ và phát động phong trào toàn quốc chống đế quốc Mỹ can thiệp vào chiến tranh Đông Dương.
Hội nghị cực lực lên án đế quốc Mỹ phá hoại kết quả của Hội nghị Béclin, can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương, làm cho tình hình thế giới thêm căng thẳng. Hội nghị nhận định, kẻ thù chính của phong trào hoà bình thế giới hiện nay là đế quốc Mỹ và đếquốc Mỹ cũng là trở lực lớn ngăn cản việc giải quyết hoà bình vấn đề Đông Dương.
Sau Hội nghị, một phong trào mạnh mẽ của nhân dân ta và nhân dân thế giới đã diễn ra chống đế quốc Mỹ xâm lược Đông Dương.
- Báo Nhân dân, ra ngày 16-4-1954.
NGÀY 19-4
Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tiếp tục thấu triệt phương châm "đánh chắc, tiến chắc" để giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ
Chiến dịch Điện Biên Phủ đang đi vào giai đoạn gay go quyết liệt. Vì vậy, ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tiếp tục thấu triệt phương châm "đánh chắc, tiến chắc" để giành toàn thắng cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nghị quyết nêu rõ: hai đợt tiến công của ta ở Điện Biên Phủ đều thắng lợi, tạo ra những thuận lợi căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng vì một số cán bộ mắc khuyết điểm chủ quan khinh địch, tinh thần trách nhiệm không đầy đủ, tác phong quan liêu, đại khái, cho nên đã gây ra ít nhiều tổn thất không cần thiết và hạn chế một phần thắng lợi.
Nghị quyết nhấn mạnh, chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa rất lớn đối với trong nước và thế giới, ta phải kiên quyết giành toàn thắng cho chiến dịch này. Vì vậy, các cấp chỉ huy và toàn thể cán bộ phải nhận rõ những thắng lợi của hai đợt tấn công vừa qua, nhận rõ khả năng của quân đội và nhân dân ta hiện nay có thể thắng địch, đồng thời phải nhận rõ những khó khăn của ta. Ra sức đề cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước bộ đội và Đảng, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm vừa qua, tiếp tục thấu triệt phương châm "đánh chắc, tiến chắc”, khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ giành toàn thắng cho chiến dịch.
Cuối cùng, Nghị quyết khẳng định toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ quyết tâm đem toàn lực chi viện cho chiến dịch, góp phần xứng đáng cùng quân đội, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.87-89.
NGÀY 29 - 4
Đồng chí Võ Nguyên Giáp - Bí thư Quân uỷ Trung ương Báo cáo về công tác tư tưởng ở mặt trận Điện Biên Phủ
Hai đợt tiến công của quân ta ở mặt trận Điện Biên Phủ đều giành thắng lợi. Tuy vậy do cuộc chiến đấu liên tục, kéo dài và ác liệt, khó khăn về cung cấp tiếp tế cũng tăng thêm, nên đã phát sinh hiện tượng hữu khuynh tiêu cực trong cán bộ, chiến sĩ ta.
Trước tình hình đó, chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, ngày 29-4-1954, Tổng Quân uỷ triệu tập Hội nghị các Bí thư Đại đoàn uỷ và các đồng chí phụ trách các tổng cục để kiểm điểm và chấn chỉnh tư tưởng chỉ đạo, chủ yếu là để khắc phục tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, nhằm đảm bảo cho chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Thay mặt Tổng Quân uỷ, đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc bản báo cáo “kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, xây dựng tinh thần tích cực cách mạng và tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh, đảm bảo toàn thắng cho chiến dịch".
Phần thứ nhất, đồng chí Võ Nguyên Giáp nêu rõ, trong hai đợt tác chiến vừa qua và trận đánh chiếm sân bay, chúng ta đã tiêu diệt hai phần năm sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và thu hẹp không phận của địch, tạo điều kiện cơ bản giành toàn thắng cho chiến dịch. Nhưng hiện còn một trở ngại rất lớn, rất nguy hiểm ngăn cản chúng ta thực hiện nhiệm vụ đó. Đó là "tư tưởng hữu khuynh tiêu cực nghiêm trọng hiện đang hoành hành trong các cấp uỷ và cán bộ chúng ta".
Phần thứ hai, đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ rõ "tư tưởng hữu khuynh tiêu cực là tư tưởng hủ bại, phi vô sản, chống lại tư tưởng của Đảng và của quân đội, ngăn cản quân đội hoàn thành nhiệm vụ”. Tư tưởng đó thường biểu lộ dưới hai hình thức: một là, dao động, sợ khổ, sợ khó, sợ thương vong, sợ tiêu hao, mệt mỏi, đứng trước khó khăn thì thiếu tinh thần khắc phục, đối với địch thì thiếu tinh thần tích cực tiêu diệt địch, hai là, chủ quan khinh địch, chủ quan tự mãn, quan liêu đại khái. Cả hai hình thức đó của tư tưởng hữu khuynh tiêu cực đều tồn tại trong quân đội ta. Biểu hiện cụ thể, nghiêm trọng là thiếu tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh cấp trên; không nắm vững chính sách cán bộ; chấp hành kỷ luật không nghiêm; không chú trọng phát triển Đảng và dựa vào cơ sở của Đảng để động viên và lãnh đạo bộ đội chiến đấu.
Trong phần thứ ba, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phân tích sâu sắc nguyên nhân chủ yếu làm cho tư tưởng hữu khuynh tiêu cực còn tồn tại nghiêm trọng trong Đảng và trong quân đội ta và chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, phát huy tinh thần tích cực cách mạng và nâng cao quyết tâm tiêu diệt địch bằng phương pháp tự phê bình và phê bình từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên, bồi dưỡng và phát huy tư tưởng tích cực cách mạng, đề cao tinh thần trách nhiệm và quyết tâm tiêu diệt địch, làm cho toàn thể cán bộ và chiến sĩ trong Đảng, ngoài Đảng đều phải tin tưởng, phấn khởi đoàn kết, quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Toàn thể cán bộ và đảng viên ở các đơn vị và cơ quan ở mặt trận Điện Biên Phủ phải nhận rõ vinh dự và trách nhiệm nặng nề trong chiến dịch lịch sử này, đồng thời làm cho toàn thể chiến sĩ thấu triệt quyết tâm của Trung ương, tích cực phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng và chịu đựng gian khổ giành toàn thắng cho chiến dịch".
Sau Hội nghị, một đợt sinh hoạt chính trị được tiến hành sâu rộng từ trên xuống dưới, trong Đảng và ngoài Đảng, từ cán bộ đến chiến sĩ trong các đơn vị trên toàn mặt trận. Tư tưởng hữu khuynh tiêu cực được đẩy lùi, tiếp thêm sức mạnh mới cho quân ta trước khi bước vào đợt chiến đấu quyết liệt.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.344-345.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.431.
NĂM 1954
Phong trào hậu phương chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ
Bước vào Đông Xuân 1953-1954, với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, hậu phương cả nước sôi nổi trong phong trào chi viện cho tiền tuyến. Đặc biệt là cuộc ra quân hùng hậu của hậu phương miền Bắc chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ vào đầu năm 1954.
Sức người, sức của từ mọi nẻo của hậu phương đổ vào chiến trường. Hàng chục vạn chiến sĩ nông dân, chân trèo, vai vác, vượt qua bom đạn, bệnh tật hiểm nghèo, vận chuyển lương thực, súng đạn, thuốc men cho mặt trận với hơn 18 triệu ngày công, 25 nghìn tấn gạo được huy động từ những xóm thôn của đồng bào Bắc Bộ ngược lên Tây Bắc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Hàng vạn thanh niên xung phong, hầu hết là thanh niên nông dân phối hợp cùng công binh anh dũng mở hàng nghìn cây số đường vận tải, 11.800 thuyền bè, trên 20 nghìn xe đạp thồ, 500 ngựa thồ và hàng nghìn xe trâu bò đã được huy động phục vụ chiến dịch.
Tại Tây Bắc, nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng, các tỉnh động viên toàn thể cán bộ và nhân dân huy động mọi khả năng về nhân lực, vật lực của địa phương cung cấp cho tiền tuyến.
Mặc dù là vùng địch tạm chiếm nhưng phong trào ủng hộ kháng chiến của nhân dân Tây Bắc rất sôi nổi. Riêng Lai Châu đã đảm bảo giao thông thường xuyên thông suốt trên đường số 13, số 41. Đồng thời, nhân dân Lai Châu đã huy động được 2.666 tấn gạo, 226 tấn thịt, 120 tấn rau xanh, 16.973 dân công, 348 ngựa thồ, 58 thuyền mảng, 24.070 cây gỗ các loại để chống lầy và làm đường cho xe. Châu Điện Biên - nơi tuyến lửa ác liệt, cuộc sống của đồng bào còn nhiều khó khăn thiếu thốn nhưng cũng góp được 555 tấn gạo, 36 tấn thịt, 105 tấn rau xanh và 18.000 ngày công. Ở châu Mường Tè, nơi phỉ hoạt động ráo riết, nhân dân cũng đóng góp cho mặt trận 76 tấn gạo, 2.700 ngày công, 43 con ngựa thồ và 14 thuyền mảng.
Được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ bảo đảm giao thông thông suốt trên đường số 13, từ ngày 20-11-1953, quân và dân các dân tộc Yên Bái đã vượt qua khó khăn gian khổ, khai thác được hơn 3 vạn mét khối đá, rải được trên 16 vạn mét vuông đường, đào hơn 6 vạn mét rãnh thoát nước, huy động được 27.657 dân công đi phục vụ, vận chuyển 22.270 tấn hàng hoá.
Nhân dân các dân tộc Tây Bắc không chỉ chăm lo cho bộ đội từ cái kim sợi chỉ, viên thuốc chữa bệnh, mà đồng thời còn động viên tinh thần các chiến sĩ ở mặt trận. Riêng nhân dân tỉnh Phú Thọ đã gửi hơn 2 vạn lá thư cùng nhiều tặng phẩm, 1.000 bộ quần áo, 175 áo rét, 31 chăn các loại, 61 cái màn, 1.516 viên thuốc ký ninh, 800 viên thuốc cảm.
Kết quả, toàn khu Tây Bắc đã cung cấp cho chiến dịch 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt.
Tại Liên khu Việt Bắc, nhân dân ở các vùng tự do vừa ra sức bảo vệ hậu phương, vừa ra sức cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến. Tỉnh Thái Nguyên đã đóng góp 3051 tấn thóc, 31.041.I41 đồng, 2.215 bộ quần áo trị giá 1.075.000 đồng, mua công phiếu kháng chiến 1.299.000 đồng, ủng hộ bộ đội địa phương và thương binh 21.027.733 đồng và 604 tấn thóc. Tỉnh Tuyên Quang đã đưa ra mặt trận 829 tấn gạo, 43 tấn thóc, 7 tấn rau và 305.612 ngày công phục vụ chiến dịch.
Tại Liên khu IV, các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh có những nỗ lực vượt bậc trong việc cung cấp cho Điện Biên Phủ. Nhân dân Liên khu không kể ngày đêm, không kể bom đạn ác liệt, đã nỗ lực tham gia vận tải, cứu thương trong suốt thời gian dài của chiến dịch. Riêng tỉnh Thanh Hoá đã huy động được 3.530 xe đạp thồ, 1.126 thuyền các loại, 31 ô tô, 180 xe bò, 42 xe ngựa, vận chuyển 10 nghìn tấn gạo và hàng chục tấn súng đạn. Nhân dân Thanh Hoá xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Thanh Hoá "Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó".
Nhân dân Liên khu IV đóng góp cho chiến dịch Điện Biên Phủ 4.361 tấn gạo, 355 tấn thực phẩm, 2.000 con lợn, 325 con trâu bò và hàng nghìn ngày công.
Mặc dù phải đương đầu với nạn đói, nhưng Liên khu uỷ V lãnh đạo nhân dân vừa khắc phục khó khăn do nạn đói gây ra, vừa đảm bảo cung cấp cho chiến dịch gần 3.000 tấn gạo.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ có phần đóng góp vô cùng to lớn của đồng bào của cả nước.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.400.
- Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:Chiến thắng Điện Biên Phủ - mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.214-216.
- Bộ Quốc phòng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945-1975), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr.59.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1930-1954), Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hoá, 1991.
THÁNG 5
Phong trào giúp đỡ gia đình có người đi dân công phục vụ tiền tuyến
Càng gần đến ngày thắng lợi, yêu cầu về sức người, sức của cho kháng chiến càng cao. Hàng chục vạn nam, nữ thanh niên tình nguyện tạm thời rời thôn xóm, gia đình, đồng ruộng, nô nức ra phục vụ ngoài tiền tuyến. Người ở nhà, ngoài công việc của mình, còn có trách nhiệm trong phần việc của những người ra đi. Những cử chỉ, những tấm lòng thương yêu cao quý của những người ở lại nơi ruộng đồng đối với người ra đi đã trở thành phong trào rộng rãi ở hậu phương.
Người có công giúp công, người có của giúp của, các cụ già giúp trông coi con cháu cho người ra tiền tuyến. Các em thiếu nhi giúp chăn trâu cắt cỏ. Từ những việc lớn như sửa nhà, sinh đẻ đến các việc nhỏ như gánh nước, gánh phân, các gia đình có người đi dân công đều được bà con chân tình giúp đỡ. Tính đến tháng 5-1954, Thanh Hoá đã giúp các gia đình có người đi dân công được 67.122 ngày công, 12.331 công trâu bò, cấy giúp 1.609 mẫu lúa, làm giúp 369 mẫu hoa màu. Hà Tĩnh, chỉ trong 3 xã, đã giúp 305 ngày công. Đồng bào Quảng Ngãi đã giúp 22.818 ngày công, 2.108 công trâu bò và 1.133 gánh phân.
Cảm động hơn, đồng bào Phú Thọ, Thái Nguyên, Thanh Hoá không quản đường xá xa xôi đã cử đại biểu mang quà của hậu phương từ cách xa 500-600 km đến tận tay những dân công ngoài mặt trận.
Phong trào giúp đỡ gia đình dân công ở hậu phương là những cử chỉ cao đẹp, biểu lộ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết gắn bó keo sơn để đạt được mục đích chung, là nguồn lực quan trọng tạo nên sức mạnh chiến thắng của quân dân ta.
- Bộ Tư lệnh Quân khu 2, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Quân và dân Tây Bắc với chiến thắng Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.274.
TỪ THÁNG 11-1953 ĐẾN THÁNG 7-1954
Công tác đảm bảo hậu cần cho chiến dịch Điện Biên Phủ
Chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch lớn và vô cùng quan trọng, nên việc cung cấp cho chiến dịch là một công tác to lớn và nặng nề.
Bảo đảm hậu cần cho chiến dịch trong điều kiện rất khó khăn: chiến trường ở xa hậu phương tới 500-600 km, trên địa hình rừng núi hiểm trở, đường vận tải cơ giới đã hư hỏng, không có đường thuỷ, thời tiết khí hậu thất thường, dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn lạc hậu.
Đứng trước những khó khăn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm: "Toàn dân, toàn Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này".
Để khắc phục khó khăn, đáp ứng nhu cầu hậu cần chiến dịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương: Huy động tại chỗ và tích cực vận chuyển từ hậu phương ra tiền tuyến. Thực hiện phương châm đó, trong chiến dịch Điện Biên Phủ chúng ta đã tiến hành một cuộc vận động nhân dân chi viện tiền tuyến lớn lao chưa từng có trong kháng chiến chống Pháp, đã huy động một khối lượng lớn sức người, sức của ở cả vùng tạm bị địch chiếm, vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Việt Bắc và đặc biệt là Tây Bắc - hậu phương hậu cần tại chỗ của chiến dịch.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng” trong thời gian 210 ngày (từ tháng 11-1953 đến tháng 7-1954), ta đã đảm bảo cung cấp cho chiến dịch về mọi mặt bao gồm:
- Quân số hậu cần chiến dịch: 3.168 người, phân bố trong 7 đội điều trị, 1 đội vận tải ô tô 446 xe, binh trạm 18 và trạm điều chỉnh giao thông, kho quân nhu, quân khí.
- Lực lượng tăng cường có: 4 tiểu đoàn công binh sửa đường, 2 đại đội thông tin, 2 tiểu đoàn 37mm (24 khẩu) và đại đội 12,7mm.
- Lực lượng dân công 261.453 người với 3 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, 500 ngựa thồ.
- Lương thực, thực phẩm cung cấp trong chiến dịch: 25.056 tấn gạo (trong đó Việt Bắc: 5.229 tấn, Liên khu III: 1.464 tấn, Liên khu IV: 9.052 tấn, Tây Bắc: 7.331 tấn, khu vực Nậm Hu và Thượng Lào 2.000 tấn), 907 tấn thịt (Việt Bắc: 454 tấn, Liên khu III: 64 tấn, Tây Bắc: 389 tấn), 917 tấn các loại thực phẩm khác, 1.860 lít dầu ăn và 280 kg mỡ, 71 tấn quân trang, 1.783 tấn xăng dầu, 55 tấn thuốc và dụng cụ quân y, đã điều trị cho 10.130 thương binh và bệnh binh, 30.759 tấn vũ khí đạn dược.
- Chiến thắng Điện Biên Phủ - Cột mốc vàng lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.356-358.
CUỐI NĂM 1953 ĐẾN THÁNG 5-1954
Hoạt động của công an nhân dân trong thời gian chuẩn bị và diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ
Ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho 6 tiểu đoàn nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm. Chúng coi Điện Biên Phủ là "ngã tư chiến lược quan trọng”, vị trí then chốt làm bàn đạp chiếm lại Tây Bắc và che chở cho Thượng Lào.
Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là một chiến dịch lớn có tầm chiến lược. Do đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải dốc mọi khả năng, lực lượng giành thắng lợi.
Công an nhân dân được giao nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ chiến dịch. Nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa chiến lược của chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Công an xác định bảo vệ chiến dịch là nhiệm vụ trọng tâm của công tác công an trong thời kỳ này.
Từ những kinh nghiệm bảo vệ chiến dịch trước, ngành công an đã lập ra Ban công an tiền phương nằm trong Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương. Ở một số tỉnh thuộc Tây Bắc cũng thành lập Ban công an tiền phương cấp tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ chỉ đạo công tác bảo vệ chiến dịch.
Nhiệm vụ cụ thể của Ban công an tiền phương là trực tiếp bảo vệ hoạt động của các lực lượng, các ngành tham gia chiến dịch, bảo vệ dân công, bảo vệ giao thông vận chuyển, bảo vệ kho tàng, bảo vệ các cuộc hành quân, trú quân của bộ đội.
Đội ngũ dân công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ trên 26 vạn người được huy động từng đợt. Công tác bảo vệ dân công rất khó khăn. Trước hết phải bảo đảm sự trong sạch về chính trị đội ngũ dân công. Công an các địa phương góp phần cùng các cấp chính quyền tiến hành lựa chọn, xét duyệt những người đủ tiêu chuẩn đi dân công.
Lực lượng phương tiện vận tải và phục vụ giao thông vận tải trong chiến dịch Điện Biên Phủ rất lớn bao gồm 628 xe ô tô, 11.800 thuyền bè các loại, gần 21.000 xe đạp thồ và nhiều phương tiện khác. Các tuyến đường vận chuyển dài hàng vạn kilômét lại khó khăn hiểm trở, kẻ địch chú trọng nắm tình hình về hoạt động giao thông vận chuyển của ta, tăng cường gián điệp, gây cơ sở điều tra thu thập tin tức tình bào và tung gián điệp, biệt kích hoạt động phá hoại đường xá, cầu cống. Công an phối hợp với các ngành tổ chức tốt công tác bảo vệ giao thông vận chuyển. Trên các tuyến đường quan trọng có các trạm kiểm soát người và phương tiện qua lại, các đội tuần tra vũ trang. Ngoài ra, lực lượng công an còn kiểm tra hành chính phát hiện kẻ gian, người lạ mặt, quản lý chặt chẽ hàng cơm, quán trọ hai bên đường.
Ở các trọng điểm giao thông như ngã ba, ngã tư, đèo, cầu phà… công an tổ chức các trạm báo động phòng không; điều hoà và phân tán các phương tiện vận chuyển.
Trong công tác bảo vệ kho tàng, trạm trung chuyển, công an tiền phương phối hợp với bộ phận quân nhu, hậu cần quân đội kiểm tra, lựa chọn những người giữ kho, có lý lịch trong sạch, rõ ràng, có phẩm chất chính trị tốt và đạo đức liêm khiết. Các đồn, trạm công an phối hợp với dân quân địa phương tuần tra, canh gác kho tàng, phát hiện biệt kích hoặc phần tử xấu hoạt động phá hoại. Ở các địa phương như Mường Vạc, Yên Châu, Hát Lót, Cò Nòi, Tạ Khoa (Sơn La), Tuần Giáo (Lai Châu), Suối Rút, Tu Vũ (Hoà Bình)… là những nơi có nhiều kho tàng, trạm trung chuyển, nhân dân đã tích cực thực hiện phong trào "phòng gian bảo mật" tham gia tuần tra canh gác.
Được sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự ủng hộ tích cực của nhân dân, lực lượng công an đã diệt và bắt hầu hết các toán gián điệp, biệt kích do địch tung xuống điều tra, phá hoại cầu cống, trục đường, phương tiện giao thông vận chuyển. Để bảo vệ tốt lực lượng vũ trang tham gia chiến dịch, lực lượng công an phối hợp với Cục bảo vệ quân đội tiến hành thuần khiết nội bộ; đảm bảo nguyên tắc "vũ khí nằm trong tay người tin cậy". Trong các cuộc hành quân trú quân của bộ đội, lực lượng công an tham gia bảo vệ đã làm trong sạch địa bàn, chủ động điều chuyển những đối tượng hiềm nghi, những phần tử tề ngụy… khỏi những địa điểm mà bộ đội sắp hành quân qua hoặc sẽ nghỉ chân.
Công an còn vận động nhân dân địa phương thực hiện khẩu hiệu "ba không” giữ bí mật, che phòng cho bộ đội, tổ chức tuần tra canh gác phát hiện do thám gián điệp.
Ngày 7-5-1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Trong thắng lợi vĩ đại đó, Công an nhân dân Việt Nam đã góp phần xứng đáng trong công tác bảo vệ chiến dịch.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.379-384.
- Bộ Nội vụ, Viện Khoa học Công an: Lịch sử Công an nhân dân Việt Nam (1945-1954), sơ thảo, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.319-329.
TỪ NGÀY 13-3 ĐẾN NGÀY 7-5
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới Lào - Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng. Đối với đế quốc Pháp - Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á.
Thấy rõ vị trí quan trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Lực lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ.
Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là "một tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "một pháo đài bất khả xâm phạm". Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta.
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.
Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: "Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận.
Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.
Với khẩu hiệu "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ta đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch.
Đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch. Trong đợt tiến công mở đầu này, Phan Đình Giót đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến lên tiêu diệt địch.
Ngày 16-3-1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Ngày 30-3-1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu trung tâm.
Đánh vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.
Để tăng cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập "đổ bộ ào ạt vào Đông Dương".
Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Bộ đội ta đã có những cố gắng phi thường, chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công rực rỡ. Tuy vậy, do cuộc chiến đấu liên tục, kéo dài và ác liệt, khó khăn về cung cấp tiếp tế cũng tăng thêm nên đã phát sinh tư tưởng tiêu cực, ngại thương vong, mệt mỏi.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, một đợt sinh hoạt chính trị được tiến hành sâu rộng từ các cấp uỷ đến chi bộ, từ cán bộ đến chiến sĩ trong tất cả các đơn vị trên toàn mặt trận. Tư tưởng hữu khuynh tiêu cực bị phê phán sâu sắc tinh thần triệt để cách mạng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng được phát huy mạnh mẽ.
Ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.
Ngày 4-5-1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.
Ngày 7-5-1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, gồm 21 tiểu đoàn, trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh cơ động chiến lược, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 353 sĩ quan từ thiếu uý đến thiếu tá, 16 trung tá và đại tá, 1 thiếu tướng. Tổng cộng, số lượng địch bị tiêu diệt và bắt sống tại Điện Biên Phủ bằng 4% quân số địch ở Đông Dương, 20% lính Âu - Phi. Ta hy sinh 4.200 đồng chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí.
Ta thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các loại.
Tại các chiến trường phối hợp trong toàn quốc, ta tiêu diệt 126.070 tên địch.
Đây là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của quân đội ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ, anh dũng của nhân dân ta. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói lọi vào lịch sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam.
Trong con mắt của các học giả nước ngoài, "Điện Biên Phủ là trận Vanmy của các dân tộc da màu”, "trên thế giới, trận Oatéclô cũng ít có tiếng vang hơn. Điện Biên Phủ thất thủ đã gây ra những nỗi kinh hoàng ghê gớm, báo hiệu sự tan rã của các thuộc địa và sự cáo chung của nền cộng hoà. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn đang âm vang”.
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.5, tr.403.
- Chiến thắng Điện Biên Phủ - mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp (1945- 1954), Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.390-440.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.143-144.
- Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam:Chiến thắng Điện Biên Phủ - mốc vàng lịch sử chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.847.
- Jules Rây: Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1984, tr.284.
TỪ NGÀY 8-5 ĐẾN NGÀY 21-7
Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao của Chính phủ ta.
Với cố gắng của Liên Xô trong việc chủ động vận động Mỹ, Anh, Pháp họp hội nghị năm nước có Trung Quốc tham gia để bàn cách giảm tình hình căng thẳng ở Đông Dương, ngày 18-2-1954, bốn nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp ở Béclin ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị Giơnevơ.
Ngày 4-5-1954, nhận lời mời của hai Chính phủ Liên Xô và Trung Quốc, đoàn đại biểu Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đến Giơnevơ tham dự Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi bị đại bại ở Điện Biên Phủ, Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng với sự tham dự của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mỹ, Anh và ba đoàn đại diện của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia1.
Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng - Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ ta trình bày lập trường tám điểm:
1- Pháp phải công nhận chủ quyền, độc lập của Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam và chủ quyền, độc lập của hai nước Lào, Campuchia.
2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội ngoại quốc ra khỏi ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do ở ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pathét Lào và Campuchia xem xét vấn đề gia nhập Liên hiệp Pháp.
5- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pathét Lào và Campuchia công nhận quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp, quan hệ kinh tế giữa ba nước với Pháp sẽ được quy định trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng quyền lợi lẫn nhau.
6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với bên kia trong chiến tranh.
7- Trao đổi tù binh.
8- Ngừng bắn toàn Đông Dương.
Trải qua 7 phiên họp toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn rất căng thẳng và phức tạp, nhưng với tinh thần chủ động và cố gắng của Chính phủ ta, ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết. Âm mưu phá hoại Hội nghị Giơnevơ của đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp hòng kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược Đông Dương đã thất bại.
Hội nghị đã công bố bản Tuyên ngôn chính trị và Hiệp định đình chiến ở Đông Dương, thừa nhận và tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia, quy định quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương và ở mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thực hiện thống nhất đất nước. Bản Tuyên bố chung ghi rõ ở Việt Nam “đường ranh giới về quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi như là một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ”. Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam bao gồm 6 chương, 47 điều, ngoài ra còn có phụ bản kèm theo nói rõ thêm về "giới tuyến quân sự tạm thời, khu phi quân sự và các khu đóng quân tạm thời".
Hiệp định Giơnevơ phản ánh xu thế chung của các nước lớn trong tình hình quốc tế lúc đó. Nó đã góp phần cùng với chiến thắng của các cuộc tiến công Đông Xuân 1953-1954 trên toàn chiến trường cả nước và ba nước Đông Dương, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Đông Dương. Các nước tham gia Hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, Lào và Việt Nam.
Với thắng lợi của ta ở Hội nghị Giơnevơ, hoà bình được lập lại ở Đông Dương, nhân dân miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, đó là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam.
- Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.143-l63.
NGÀY 8 VÀ NGÀY 9 - 5
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng gửi thư khen bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc sau thắng lợi vẻ vang ở Điện Biên Phủ
Sau khi chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang.
Mở đầu bức thư, Người nhắc nhở: "Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng lợi mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh lại độc lập, thống nhất, dân chủ, hoà bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn".
Ngày 9-5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công ở mặt trận Điện Biên Phủ và căn dặn toàn quân và toàn dân ta phải sẵn sàng phá tan âm mưu mới của địch, không vì thắng lợi to lớn mà chủ quan khinh địch, phải ra sức học tập những kinh nghiệm quý báu của chiến dịch này để tiến lên hoàn thành những nhiệm vụ mới.
Sự khen ngợi kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đang đã làm cho bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc thêm phấn khởi và tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.94.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.272.
NGÀY 13-5
Đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc Nhật lệnh trong lễ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ
Nhân dịp lễ chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 13-5-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đọc Nhật lệnh chào mừng trận đại thắng Điện Biên Phủ, tuyên dương công trạng của toàn thể Quân đội nhân dân Việt Nam, các đơn vị đã chiến thắng ở Điện Biên Phủ.
Bản Nhật lệnh nêu rõ thắng lợi ở Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử kháng chiến của quân và dân ta.
Sau khi phân tích những nguyên nhân thắng lợi, bản Nhật lệnh nhấn mạnh: Toàn thể cán bộ, chiến sĩ trên mặt trận Điện Biên Phủ và trên khắp chiến trường toàn quốc phải nhận rõ ý nghĩa to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ, đồng thời phải nhận rõ âm mưu thâm độc của bọn hiếu chiến Pháp và can thiệp Mỹ, tuyệt đối không chủ quan, tự mãn, khinh địch, kiên quyết chiến đấu chống mọi âm mưu mới của địch. Nỗ lực học tập kinh nghiệm quý báu của chiến dịch Điện Biên Phủ ra sức phát huy tinh thần chiến đấu tích cực dũng cảm, gan dạ bền bỉ của người "chiến sĩ Điện Biên", để nâng cao sức chiến đấu của quân đội ta, làm cho quân đội ta trở thành một quân đội vô địch. Tích cực chiến đấu để củng cố và khuếch trương thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, tiến tới những thắng lợi mới rực rỡ hơn.
Đại tướng đã trao cho toàn thể các đơn vị chiến thắng lá cờ "Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cán bộ, chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ.
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr.416.
NGÀY 25-5
Đợt I cải cách ruộng đất
Phát huy những thắng lợi đã đạt được trong đợt thí điểm cải cách ruộng đất, ngày 25-5-1954, Trung ương Đảng quyết định tiến hành đợt I cải cách ruộng đất.
Đợt I cải cách ruộng đất diễn ra ở 47 xã thuộc các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình (Thái Nguyên) và 6 xã thuộc huyện Nông Cống (Thanh Hoá) với số dân là 109.675 người.
Nhờ có kinh nghiệm của đợt thí điểm, ngay từ lúc đặt chân xuống các xã, các đội công tác vừa tích cực vận động tuyên truyền rộng rãi chính sách cải cách ruộng đất trong quần chúng nông dân, vừa đi sâu để tìm hiểu tình hình nông thôn, đặc biệt là nắm tình hình tổ chức ở xã. Các đội công tác đã họp với chi uỷ chi bộ các xã để bước đầu nắm tình hình, giải thích chính sách, động viên cán bộ, đảng viên tích cực tham gia cuộc phát động quần chúng. Tiếp theo là các cuộc họp quân dân, chính, Đảng, chú trọng đến thanh niên, phụ nữ để nắm bắt tình hình giải quyết thắc mắc. Nhiều cuộc họp quần chúng rộng rãi, những cuộc mít tinh toàn xã được tổ chức, tư tưởng nông dân được phát động, khí thế quần chúng lên cao.
Sau gần 4 tháng thực hiện, đợt I cải cách ruộng đất đã thu dược kết quả sau: bằng ba biện pháp tịch thu, trưng thu, trưng mua, ta đã thu về hơn 24.865 mẫu ruộng đất, 2.529 con trâu bò, 5.067 nông cụ, 153.392 kg thóc và nhiều nhà cửa chia cho nông dân nghèo; các tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng được chấn chỉnh, uy thế chính trị và quyền làm chủ nông thôn của nông dân lao động đã được xác lập.
Ngày 12-9-1954, Hội nghị Tổng kết cải cách ruộng đất đợt I đánh giá: sau hơn 100 ngày đấu tranh kiên trì, gay go, phức tạp, cuộc cải cách ruộng đất đợt I đã thắng lợi. Trong Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương thành tích của đoàn cán bộ cải cách ruộng đất, đồng thời chỉ ra những thiếu sót cần khắc phục để làm tốt hơn trong các đợt sau: "Phải biết phân hoá địa chủ. Giai cấp địa chủ là kẻ thù của nông dân nhưng họ không phải là thống nhất. Nếu biết phân hoá địa chủ thì công việc sẽ dễ dàng hơn. Lúc học điểm đó thì nhiều cán bộ cho là hiểu rồi, nhưng lúc làm thì sai. Có người có tư tưởng "thà tả hơn hữu”, thế là không đúng. Tả cũng tếu mà hữu cũng tếu. Phải biết nắm vững chính sách, biết dựa vào quần chúng; biết phân hoá địa chủ... Có một số cán bộ cũ tự kiêu, tự đại, cậy mình đã đi phát động vài đợt rồi, không chịu nghiên cứu chỉ thị cấp trên, lơ là giúp cán bộ mới. Các cô các chú nên nhớ: vì tình hình thay đổi luôn, nếu không học tập thì thoái bộ, thoái bộ thì không thể thành công”.
- Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.347.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.353-355.
- Báo Nhân Dân, ngày 11 và 17-9-1954.
TỪ NGÀY 26-5 ĐẾN NGÀY 3-7
Hội nghị Du kích chiến tranh Liên khu V
Từ ngày 26-5 đến ngày 3-7-1954, Hội nghị Du kích chiến tranh Liên khu V đã họp, nhận định tình hình và đề ra phương châm công tác vùng sau lưng địch.
Hội nghị cho rằng, địch vẫn tiếp tục đánh ra vùng tự do, nên nhiệm vụ của Liên khu vẫn là: "Ra sức đánh giặc và chuẩn bị đánh giặc". Nhiệm vụ chủ yếu là tranh thủ tiêu diệt địch, đẩy mạnh du kích chiến tranh, ra sức địch nguỵ vận, chống bắt lính và tăng cường phát triển lực lượng vũ trang và bán vũ trang.
Nhiệm vụ cụ thể mỗi vùng như sau:
Vùng tự do và vùng mới giải phóng ra sức sản xuất tiết kiệm, động viên phục vụ tiền tuyến, tăng cường bố phòng và chuẩn bị mọi mặt để chống địch chiếm đóng.
Vùng địch mới chiếm phải ra sức đánh địch, phát triển chiến tranh du kích, đẩy mạnh sản xuất và bảo vệ sản xuất.
Vùng sau lưng địch, đẩy mạnh đấu tranh, đẩy toàn bộ phong trào đấu tranh lên một bước cao hơn, chủ yếu là phát triển chiến tranh du kích, mở rộng vùng du kích, thu hẹp vùng tạm chiếm.
Vùng đô thị phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục quần chúng đấu tranh chống bắt lính, bắt phu.
Nắm vững đường lối, phương châm công tác vùng sau lưng địch. Coi công tác vùng sau lưng địch là một bộ phận công tác trọng yếu của Đảng nhằm phá tan chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, nhằm giữ gìn và phát triển lực lượng ta, tiêu hao, tiêu diệt một phần sinh lực địch. Công tác này có ba việc chính: dân vận, ngụy vận và du kích chiến tranh. Ba công tác này có liên quan mật thiết và lấy công tác dân vận làm gốc.
Hội nghị nêu ra những công tác chính sau:
Tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang. Xây dựng lực lượng vũ trang chủ yếu là xây dựng dân quân du kích vì dân quân du kích là lực lượng chiến lược của chiến tranh du kích, là một tổ chức quân sự có sinh hoạt chặt chẽ, vững mạnh ở thôn, xã có nhiệm vụ trực tiếp đánh giặc bảo vệ địa phương, đồng thời là nguồn bổ sung rộng lớn cho bộ đội địa phương. Việc xây dựng dân quân du kích phải do cấp uỷ Đảng trực tiếp lãnh đạo, phải làm cho chi bộ trở thành vai trò nòng cốt và các đoàn thể quần chúng làm hậu thuẫn.
Xây dựng dân quân du kích phải chú trọng chỉnh đốn tổ chức, tăng cường giáo dục chính trị, quân sự, kiện toàn cơ quan phụ trách...
Đồng thời với công tác này, Liên khu phải ra sức chống bắt lính, tăng cường công tác địch, ngụy vận.
Công tác chống bắt lính và địch, nguỵ vận vô cùng quan trọng, nên địch, nguỵ vận là nhiệm vụ chiến lược, chống bắt lính là nhiệm vụ chính trị, quân sự quan trọng bên cạnh nhiệm vụ tác chiến và là công tác trung tâm ở vùng tạm bị chiếm.
Cần phải thường xuyên tuyên truyền giáo dục thanh niên về âm mưu bắt lính của giặc và nhiệm vụ chống bắt lính của ta.
Song song với chống bắt lính, Liên khu phải tích cực chống và phá càn. Càn quét và chống càn quét là hình thức đấu tranh chủ yếu giữa ta và địch ở địch hậu nên muốn chống và phá càn, Liên khu phải dựa vào dân, phải thấm nhuần tư tưởng du kích chiến tranh, tích cực tiến công tiêu diệt địch.
Bên cạnh những công tác đó, Liên khu cần chú trọng tích cực sản xuất và bảo vệ sản xuất.
Cuộc kháng chiến của ta là trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh nên phải bồi dưỡng lực lượng nhân dân mà thiết thực nhất là lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất. Muốn lãnh đạo sản xuất, phải phát động tinh thần hăng hái thi đua sản xuất, lựa chọn cán bộ tốt phụ trách sản xuất và phải chú ý đến vấn đề sản xuất tự túc của bộ đội, du kích, cơ quan, thi hành chính sách ruộng đất.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 253, phông Liên khu uỷ V.
TỪ NGÀY 5 ĐẾN NGÀY 8-6
Phiên họp đầu tiên của Uỷ ban Cải cách ruộng đất Trung ương
Phiên họp đầu tiên của Uỷ ban Cải cách ruộng đất Trung ương diễn ra từ ngày 5 đến ngày 8-6-1954.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe báo cáo về bốn đợt phát động quần chúng giảm tô, báo cáo về đợt thí nghiệm cải cách ruộng đất ở sáu xã thuộc tỉnh Thái Nguyên. Các đại biểu cũng đã nghe và thảo luận hai văn kiện quan trọng: "Điều lệ tạm thời quy định thành phần giai cấp ở nông thôn" và "Những quy định tạm thời để thi hành cải cách ruộng đất".
Báo cáo về bốn đợt phát động quần chúng giảm tô nêu rõ: qua bốn đợt phát động quần chúng giảm tô tiến hành trong 631 xã bao gồm 2.500.000 nhân khẩu, thu 19.000 tấn thóc quả thực, chia cho 11 vạn gia đình, tịch thu của địa chủ, Việt gian phản động 11.720 mẫu ruộng đất, 2.127 trâu bò chia cho nông dân.
- Báo Nhân Dân, ngày 19-6 đến ngày 21-6-1954.
NGÀY 17-6
Cuộc biểu tình tuần hành của nhân dân thành phố Huế
Ngày 17-6-1954, gần 2 vạn nhân dân thành phố Huế biểu tình, tuần hành hoan nghênh Hội nghị Giơnevơ bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, lên án thực dân Pháp và đế quốc Mỹ âm mưu mở rộng, kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Thực dân Pháp và tay sai huy động cả lực lượng cơ giới và xe phun nước đến đàn áp cuộc biểu tình, nhưng chúng vẫn không phá vỡ nổi. Trước khí thế đấu tranh sôi sục của quần chúng, một số lớn ngụy binh và cảnh sát bù nhìn đã cùng tham gia cuộc biểu tình, tuần hành của nhân dân.
Cuộc biểu tình tuần hành của nhân dân thành phố Huế đã có sức cổ vũ lớn nhân dân trong cả nước đấu tranh lên án thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
- Ban Chấp hành Đảng bộ Thừa Thiên - Huế: Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên - Huế (1930-1954), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.I.
NGÀY 29-6
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về nhiệm vụ khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp năm 1954
Nước ta đang ở trong hoàn cảnh kháng chiến ngày một khẩn trương và phong trào phát động quần chúng đã được mở rộng. Tăng gia sản xuất là một trong ba công tác có tầm quan trọng đặc biệt trong những ngày cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Do đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Về nhiệm vụ khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp trong năm 1954, nhằm ổn định tình hình sản xuất của nông dân, phát triển sản xuất, đảm bảo cung cấp cho kháng chiến.
Trung ương Đảng nêu rõ yêu cầu và nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp trong năm 1954 là phải đảm bảo sản xuất đều đặn, làm cho mùa màng được tốt. Trước hết, các cấp cần phải tuyên truyền sâu rộng 10 chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Trong kháng chiến và cải cách ruộng đất, 10 chính sách đó là khâu chính để ổn định tình hình sản xuất của nông dân, đề cao tính tích cực sán xuất của họ. Bởi vậy phải đề cao tuyên truyền rộng rãi 10 chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp cho quần chúng. Phải đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ. Nước ta mưa nhiều nắng lắm, sâu bọ dễ sinh nở phá hoại mùa màng. Đối với thiên tai địch họa, cơ quan lãnh đạo các cấp phải thực hành phương châm: khi chưa có tai hoạ thì đề phòng, khi có tai hoạ thì cứu chữa.
Phải làm cho hết ruộng hoang: vì địch quấy rối và phá hoại nên ruộng hoang của ta còn nhiều. Cày cấy cho hết ruộng hoang là một mấu chốt chính của việc tăng gia sản xuất nông nghiệp.
Ba nhiệm vụ nói trên đều là những nhiệm vụ chính để khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp trong năm 1954. Ngoài ra, các địa phương còn phải căn cứ vào các điều kiện khác nhau về đất đai, thời tiết để đề ra nhiệm vụ cụ thể trong sản xuất của địa phương mình.
Trung ương Đảng cũng nói rõ, muốn làm tròn nhiệm vụ khôi phục, duy trì và phát triển sản xuất nông nghiệp, cần kết hợp chặt chẽ công tác kháng chiến, cải cách ruộng đất và tăng gia sản xuất.
Trong chiến tranh, sản xuất nhất định bị thiệt hại, nhưng không có chiến tranh cách mạng thì không thể đảm bảo cho nông dân sản xuất tự do. Chiến tranh cách mạng bảo vệ sản xuất, lấy sản xuất để cung cấp cho chiến tranh cách mạng. Vậy phải chú trọng bảo vệ sản xuất, ra sức chống địch phá hoại, hết sức tiết kiệm sức người, sức của trong khi động viên nhân dân phục vụ kháng chiến.
Việc kết hợp ba công tác kháng chiến, cải cách ruộng đất và sản xuất cũng biểu hiện ở chỗ bố trí công tác và sử dụng lực lượng cán bộ. Việc sử dụng lực lượng cán bộ phải lấy cán bộ ngành canh nông, nông hội làm chính.
Cuối cùng, Trung ương Đảng cho rằng, muốn thấu triệt được nhiệm vụ khôi phục, duy trì và phát triển sản xuất trong hoàn cảnh kháng chiến và cải cách ruộng đất phải chống tư tưởng chờ đợi, tiêu cực, đợi kháng chiến và cải cách ruộng đất xong mới ra sức sản xuất.
Chỉ thị của Trung ương Đảng đã kịp thời hướng dẫn các ngành, các cấp chú trọng sản xuất nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.134-140.
NGÀY 1-7
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về công tác tiếp thu và quản lý các thành phố và thị trấn mới được giải phóng
Sau thắng lợi Đông Xuân 1953-1954, nhất là sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quân địch đã rút lui khỏi khu miền nam đồng bằng Bắc Bộ bao gồm một số thành phố và thị xã quan trọng. Trước thế mạnh của ta, địch còn có thể rút một số thị xã nữa. Mục đích cuộc rút quân lớn của địch là để bảo toàn lực lượng, giữ vững những vùng chiến lược quan trọng, chủ yếu là Hà Nội, Hải Phòng và đường số 5, chờ quân tăng viện và thời cơ để tiến công lấy lại những vùng đã mất.
Để bảo hộ các thành phố mới giải phóng, ngày 1-7 và ngày 3-7, Trung ương chỉ thị các liên khu uỷ và tỉnh uỷ: Phương châm chung của ta đối với các thành phố mới thu hồi là giữ gìn thành phố, ổn định, duy trì, khôi phục và xây dựng các công tác trong thành phố, phát huy tác dụng của thành phố để giúp vào việc cung cấp cho kháng chiến, giúp cho nền kinh tế vùng tự do của ta được phồn thịnh.
Bởi vậy, ta không áp dụng phương châm tiêu thổ, sơ tán, phá hoại các thành phố, ta cần giáo dục kỹ bộ đội, cán bộ và nhân viên công tác khi vào thành phố, làm cho mọi người nhận rõ tác dụng quan trọng của việc bảo hộ những thành phố mới thu hồi.
Trong khi thực hiện công tác này phải chú ý phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực vi phạm tài sản của công, tư tưởng hẹp hòi, chủ quan khinh địch.
Nội dung chủ yếu chính sách của Đảng đối với thành phố là: trước hết phải ổn định lòng dân, tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ vì sao địch phải rút, nhấn mạnh đó là một thắng lợi quan trọng của ta, làm cho mọi người phấn khởi và tin tưởng vào Chính phủ và quân đội ta. Tuyên truyền sâu rộng phương châm kiên quyết bảo hộ thành phố.
Các thành phố phải phục hồi trật tự cách mạng, trước hết phải phục hồi các nhà máy đèn, máy nước, ty bưu điện và các công trình công cộng khác.
Đối với những nhân viên của địch, ta chủ trương các nhân viên của ngụy quyền cũ, cảnh sát cũ giữ nguyên chức vụ của họ, kêu gọi họ phục tùng mệnh lệnh của Chính phủ. Ta chỉ tập trung lực lượng đánh vào những tên hiện đang hoạt động chống cách mạng, chống kháng chiến. Thu đổi và bài trừ tiền địch và tiền bù nhìn, khôi phục các nghề nghiệp và công ăn việc làm cho mọi người, bảo hộ tự do tín ngưỡng, tính mạng, tài sản của ngoại kiều.
Đối với những thành phố mới thu hồi thuộc loại trung bình phải thực hiện chế độ quản trị quân sự. Khi mới thu hồi, việc quản trị quân sự trong các thành phố ấy lúc đầu phải do cơ quan chỉ huy của bộ đội vào thành đảm nhiệm, sau đó ta sẽ tổ chức ra Uỷ ban Quân chính và Uỷ ban Kháng chiến hành chính.
Chỉ thị nói rõ rằng, vì Trung ương chưa hiểu rõ tình hình cụ thể của những thành phố mới thu hồi và đó lại là một công tác mới nên ta chưa có kinh nghiệm, nên đây mới chỉ là những vấn đề thuộc phương châm và nguyên tắc. Để bảo đảm cho công tác ở các thành phố mới thu hồi đạt được kết quả tốt, các cấp uỷ cần phải khắc phục tình trạng vô kỷ luật, vô chính phủ của một số đơn vị và cán bộ, phải thực hiện thật nghiêm chế độ báo cáo và xin chỉ thị cấp khu, Trung ương, đồng thời phải tổ chức tổng kết kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm cho kịp thời.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.141-152.
NGÀY 5-7
Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Đề phòng "tả" khuynh làm lộ lực lượng, đẩy mạnh phong trào vùng tạm bị chiếm tiến lên từng bước vững chắc
Ngày 5-7-1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Đề phòng "tả" khuynh, làm lộ lực lượng, đẩy mạnh phong trào vùng tạm bị chiếm tiến lên từng bước vững chắc.
Chỉ thị nêu rõ phong trào của nhân dân ở vùng tạm bị chiếm đang trên đà phát triển mạnh, song cũng có những lệch lạc có tính chất "tả" khuynh, manh động. Nguyên nhân của những hành động "tả" khuynh, manh động và nôn nóng vội vàng là do quần chúng căm thù đế quốc và Việt gian sâu sắc, nhưng chủ yếu là do cán bộ non kém, sẵn có bệnh "tả" khuynh mạo hiểm nên dễ theo đuôi quần chúng, không lường được những khó khăn khi bị địch khủng bố. Mầm mống "tả" khuynh, manh động cần được phòng ngừa ngay để cho phong trào vùng bị tạm chiếm tiến triển một cách thuận lợi.
Chỉ thị nêu ra những điều kiện căn bản để mở rộng phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân trong vùng tạm bị chiếm. Đó là nhân dân và quân đội ta vừa thu được những thắng lợi vĩ đại về quân sự, nhất là thắng lợi ở Điện Biên Phủ và ở nhiều vùng quan trọng ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ; lập trường của đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơnevơ được đông đảo nhân dân vùng tạm bị chiếm ủng hộ; thái độ hiếu chiến, ngoan cố phá hoại việc lập lại hoà bình ở Đông Dương của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ bị các tầng lớp nhân dân căm phẫn.
Để đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng trong vùng tạm bị chiếm, Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp chỉ đạo công tác vùng tạm bị chiếm phải nghiên cứu và nắm vững những vấn đề sau:
Phải nắm vững tính chất của phong trào, là phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương để biểu thị tinh thần đoàn kết, sức mạnh và nguyện vọng của mình, làm hậu thuẫn trực tiếp cho đấu tranh ngoại giao.
Phải nắm vững sách lược đấu tranh là đoàn kết tuyệt đại đa số nhân dân yêu nước, yêu hoà bình thành một mặt trận rộng rãi, tranh thủ sự đồng tình của nguỵ quân, nguy quyền, lính Âu - Phi và tất cả những người Pháp ở Đông Dương tán thành chấm dứt chiến tranh.
Những khẩu hiệu nêu ra trong từng cuộc đấu tranh phải cụ thể, thích hợp với trình độ đông đảo của quần chúng ở mỗi nơi mỗi lúc. Phải căn cứ vào trình độ giác ngộ của quần chúng ở mỗi nơi, mỗi lúc mà vận dụng hình thức đấu tranh cho phù hợp. Đấu tranh lập lại hoà bìnhvà chống địch bắt lính là yêu cầu chủ yếu của quần chúng. Ta phải luôn luôn tỉnh táo, giữ gìn lực lượng, đề phòng "tả" khuynh, manh động, tránh rụt rè, hữu khuynh, tiêu cực không mạnh dạn nắm thời cơ mở rộng phong trào quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, t.15, tr.153-161.
TỪ NGÀY 15 ĐẾN NGÀY 17-7
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (mở rộng) bàn về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi bước đầu về ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ sáu.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã nghe và thảo luận các báo cáo: báo cáo "Tình hình mới và nhiệm vụ mới" của Chủ tịch Hồ Chí Minh; báo cáo "Để hoàn thành nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác trước mắt" của đồng chí Trường Chinh và báo cáo "Sự tiến triển của Hội nghị Giơnevơ" của đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Hội nghị nhận định, sau chín năm kháng chiến anh dũng, quân đội và nhân dân ta thu được nhiều thắng lợi lớn, lực lượng của ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Phong trào hoà bình thế giới và phong trào đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông nương của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới lên cao. Thực dân Pháp ngày càng suy yếu và lệ thuộc vào Mỹ; đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Đông Dương, âm mưu biến Đông Dương thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng ở Đông Nam châu Á. Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương.
Trước tình hình mới, Hội nghị quyết định phương châm và sách lược đấu tranh của toàn Đảng và toàn dân ta trong giai đoạn mới là chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và thế lực hiếu chiến Pháp dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu thực hiện hoà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ hòng kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương. Củng cố hoà bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng đó, phải tăng cường củng cố khối liên minh công nông, cơ sở vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân và mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc Mỹ, bọn hiếu chiến Pháp và bè lũ tay sai của chúng.
Hội nghị hoàn toàn tán thành 3 nhiệm vụ và 10 công tác trước mắt do đồng chí Hồ Chí Minh đề ra:
3 nhiệm vụ đó là:
1. Tranh thủ và củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước.
2. Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
3. Tiếp tục thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng", ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện kiến thiế nước nhà.
10 công tác trước mắt là:
1- Thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân về tình hình và nhiệm vụ mới.
2- Tăng cường lãnh đạo đấu tranh ngoại giao.
3- Ra sức tăng cường lực lượng của quân đội nhân dân.
4- Tiếp thu vùng mới giải phóng, đặc biệt là tiếp thu và quản lý các thành thị.
5- Chuyển hướng công tác trong vùng địch tạm đóng quân.
6- Tiếp tục củng cố vùng tự do cũ.
7- Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất.
8- Tăng cường công tác kinh tế tài chính và chuẩn bị điều kiện để xây dựng đất nước.
9- Giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia.
10- Tiếp tục công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là trong vùng mới giải phóng.
Hội nghị nhấn mạnh, cũng như kháng chiến, đấu tranh để giành lấy và củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước là một quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ và phức tạp. Chúng ta phải luôn tỉnh táo trước mọi âm mưu của đế quốc Mỹ, các thế lực hiếu chiến Pháp và bè lũ phản động quốc tế.
Chúng ta kiên quyết đấu tranh đến cùng, không ngừng bồi dưỡng lực lượng và nâng cao tinh thần chiến đấu, nắm vững ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang trong giai đoạn trước mắt.
Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa quan trọng trước bước ngoặt mới lịch sử cách mạng nước ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.162-227.
NGÀY 19-7
Trung ương Cục ra Chỉ thị về đấu tranh chống Ngô Đình Diệm lập chính phủ bù nhìn
Thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt - Miên - Lào và phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp buộc các thế lực hiếu chiến Pháp và can thiệp Mỹ phải đàm phán hòa bình ở Hội nghị Giơnevơ. Mặc dù vậy, chúng đang tìm mọi cách để cản trở việc ngừng bắn ở Đông Dương. Việc đưa Ngô Đình Diệm, tay sai nguy hiểm của Mỹ, lập chính phủ bù nhìn là âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ. Song, để lừa bịp dư luận, Ngô Đình Diệm lại tuyên truyền rằng chính phủ của y "không ở phe Nga, cũng không ở phe Mỹ", thực hiện cải cách dân chủ...
vì vậy, Trung ương Cục ra chỉ thị gửi các cấp Đảng bộ nêu rõ nhiệm vụ:
- Tuyên truyền vạch mặt Chính phủ phản động Ngô Đình Diệm, nhất là ở vùng đô thị và vùng tạm bị chiếm.
- Giải thích cho nhân dân thấy rõ Ngô Đình Diệm là tay sai nguy hiểm nhất của Mỹ.
- Nơi nào có phong trào phát triển mạnh có thể nêu khẩu hiệu "Đả đảo Bảo Đại, Ngô Đình Diệm".
- Đối với trí thức "trùm chăn", vận động họ không nên cộng tác với Diệm.
Các cấp nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Trung ương Cục để đập tan luận điệu lừa bịp của bọn tay sai phản động.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 32, phông Trung ương Cục
NGÀY 20-7
Trung ương Cục chỉ đạo đấu tranh ở vùng tạm bị chiếm
Trong lúc này ở vùng tạm bị chiếm, nhất là các đô thị đang có sự chuyển biến lớn trong quảng đại quần chúng. Một mặt, quần chúng vui mừng phấn khởi trước thắng lợi của ta ở Hội nghị Giơnevơ, mặt khác, đồng bào hết sức căm thù bọn Pháp và bọn phản động vì chúng đã tiến hành bắt lính, giết người, cướp của.
Để theo kịp tình hình và khắc phục những khuyết điểm trong công tác đô thị, Trung ương Cục ra Chỉ thị "phát động phong trào hoà bình".
Chỉ thị chỉ rõ các bước tiến hành vận động phong trào đòi hoà bình như sau:
Về tính chất phong trào, đây là phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương, đấu tranh chống bắt lính, chống sưu thuế, nhằm mục đích chung chống địch kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương.
Về sách lược đấu tranh, đoàn kết tuyệt đối đa số nhân dân yêu nước với ý muốn hoà bình thành một mặt trận rộng rãi đấu tranh đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Đối tượng đấu tranh là thế lực hiếu chiến Pháp, can thiệp Mỹ và Việt gian tay sai.
Khẩu hiệu đấu tranh chính là: “Ngừng bắn và lập lại hoà bình ở Đông Dương", "Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và hoà bình muôn năm", "Chống bắt lính, phản đối tổng động viên"...
Trong lúc phát động quần chúng đấu tranh, phải hướng dẫn quần chúng vận dụng các hình thức đấu tranh cho thích hợp, tuỳ vào trình độ giác ngộ mỗi nơi, mỗi lúc và tránh cưỡng ép xa rời quần chúng.
Bên cạnh việc phát động quần chúng đấu tranh, Chỉ thị còn nêu lên nhiệm vụ phát triển, củng cố Đảng và các tổ chức quần chúng. Trong khi vận động, cần chú ý bám sát các phần tử tích cực, trung kiên, tuyên truyền, giáo dục đưa vào các tổ chức quần chúng, tích cực gây dựng cơ sở bí mật trong quần chúng, đưa ra khỏi Đảng, khỏi tổ chức quần chúng những phần tử cầu an, dao động… Khi tiến hành vận động quần chúng phải nắm rõ thời cơ, cảnh giác với âm mưu khiêu khích của địch.
Chỉ thị thể hiện sự nhạy bén, kịp thời của Trung ương Cục trong việc nắm bắt tình hình và vận động quần chúng đấu tranh, đem lại những thắng lợi nhất định cho phong trào cách mạng và quyền lợi cho quần chúng.
- Tư liệu lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng, ĐVBQ 32, phông Trung ương Cục.
NGÀY 22-7
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn chiến trường Đông Dương
Thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, ngày 22- 7-1954, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh ngừng bắn trên toàn chiến trường Đông Dương.
Mệnh lệnh nêu rõ: ở Bắc Bộ, lệnh ngừng bắn bắt đầu có hiệu lực ngày 27-7; ở Trung Bộ, ngày l-8; ở Lào ngày 6- 8; ở Campuchia ngày 7-8 và ở Nam Bộ là ngày 11-8-1954.
Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích trên toàn chiến trường đã nghiêm chỉnh thực hiện lệnh ngừng bắn.
- Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.1, tr.435.
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t.II, tr.479).
- Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: 55 năm Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.147.
TỪ THÁNG 7-1954 ĐẾN ĐẦU NĂM 1955
Chính quyền cách mạng tiến hành chia cấp ruộng đất, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nông dân vùng giải phóng và vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, nhân dân trong các vùng giải phóng, vùng tự do được sống trong hoà bình. Ở các vùng giải phóng Nam Bộ và vùng tự do Liên khu V, nhân dân đã tập trung liên hoan kéo dài 2, 3 ngày. Nhiều ngả đường tràn ngập cờ đỏ sao vàng, ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, các địa phương còn tổ chức tu sửa, viếng mộ những người có công với nước, thăm hỏi gia đình thương binh, liệt sĩ...
Tranh thủ thời gian trước khi chính quyền địch tiếp quản (theo Hiệp định), chính quyền nhân dân các cấp ở Nam Bộ và Khu V đẩy mạnh chia cấp ruộng đất cho nông dân, nâng tổng số ruộng đất đã chia cho đồng bào lên 750.490 ha cho 1.299.000 hộ nông dân. Chính quyền nhiều địa phương đã phân phối các kho thóc, muối dự trữ cho đồng bào ở vùng thiếu đói, trong đó, Khu V đã cấp phát cho đồng bào 330 tấn gạo, 11.500 mét vải, 600 con bò và hàng ngàn giạ muối.
Công tác khôi phục sản xuất được tiến hành hết sức khẩn trương. Tại Cà Mau, được chính quyền giúp vốn, bộ đội giúp công, nông dân nhanh chóng cấy hết toàn bộ diện tích bị bỏ hoang trước đây. Ở Quảng Ngãi, Bình Định, nông dân đã sớm sửa chữa lại những ngôi nhà bị địch tàn phá, xây dựng trường học, nghĩa trang liệt sĩ, sửa đường, đắp đập, nạo vét mương máng tưới tiêu cho hàng vạn hécta lúa và hoa màu.
Thời gian chuyển giao chính quyền tuy ngắn, nhưng nông dân miền Nam đã tích cực, chủ động giành lại những thành quả cơ bản của cách mạng về cho mình, đồng thời sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ những thành quả đó.
- Hội Nông dân Việt Nam: Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.342.
TỪ THÁNG 7-1954 ĐẾN ĐẦU NĂM 1955
Đảng bộ và nhân dân Nam Trung Bộ đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ, tập kết, chuyển quân ra miền Bắc
Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Nhân dân Nam Trung Bộ đứng lên đấu tranh đòi Pháp phải thi hành Hiệp định.
Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ và quy định của Hội nghị Trung Giã, ở Nam Trung Bộ, địch tiếp quản và ta rút quân ở các tỉnh Tây Nguyên, bắc Quảng Nam, Phú Yên sau ngừng bắn 30 ngày. Từ Quảng Nam đến sông Trà Khúc và các tỉnh cực Nam sau ngừng bắn 80 ngày. Từ sông Trà Khúc đến sông Vệ ( tỉnh Quảng Ngãi) sau ngừng bắn 100 ngày và vùng còn lại từ nam tỉnh Quảng Ngãi và toàn tỉnh Bình Định 300 ngày.
Về tập kết lực lượng vũ trang, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu chủ trương nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định đình chiến, thực hiện đúng thời gian tập kết rút quân, đồng thời vẫn có kế hoạch sẵn sàng đối phó nếu địch phản bội Hiệp định, tấn công ta. Cán bộ, chiến sĩ tranh thủ làm công tác tuyên truyền, giải thích cho nhân dân về việc ký hiệp định, động viên nhân dân giữ vững niềm tin tiếp tục đấu tranh đòi thi hành hiệp định thống nhất nước nhà. Đối với các kho quân nhu lớn (gạo, muối, quần áo) còn lại, giao cấp ủy địa phương phân phối, ủng hộ đồng bào khó khăn. Nơi đóng quân, bộ đội tranh thủ giúp dân sửa chữa trường học, nhà cửa, làm thủy điện.
Cán bộ, chiến sĩ chấp hành nghiêm túc lệnh ngừng bắn, tập kết quân. Bộ đội cực Nam tuy ở xa vẫn mang vác hết súng đạn, đi bộ hàng chục ngày, khiêng thương bệnh binh về đến địa điểm tập kết (Hàm Tân - Xuyên Mộc) đúng thời gian.
Sau ngày ngừng bắn, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Trung Bộ và Bộ Tư lệnh Quân khu V tổ chức hai cuộc mít tinh lớn ở Gò Su (Quảng Ngãi) và sân bay Phù Cát (Bình Định) có bộ đội diễu binh, đông đảo nhân dân diễu hành, phát huy khí thế chiến thắng, động viên quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ở các tỉnh, đều diễn ra các cuộc mít tinh, liên hoan chia tay giữa quân với dân. Hàng vạn đồng bào các vùng căn cứ, vùng tạm bị chiếm, vùng đối phương mới tiếp quản nô nức về dự mít tinh. Nhiều bà mẹ, người vợ, người yêu suốt mấy năm không gặp mặt người thân nay vượt qua đồn bốt địch ra vùng tự do tìm gặp, lưu luyến chia tay, kẻ xuống tàu ra Bắc, người ở lại quê nhà tiếp tục đấu tranh hứa hẹn gặp lại nhau ngày thống nhất nước nhà.
Đầu năm 1955, trong vùng tập kết 300 ngày ở Bình Định, nam Quảng Ngãi, Bộ Tư lệnh Quân khu phát động chiến dịch "Dân vận" huy động bộ đội giúp dân dựng lại nhà cửa, làm trường học, xây dựng nghĩa trang liệt sĩ, làm thủy lợi.
Bộ đội ở Quảng Ngãi, Bình Định giúp dân đắp đê, tưới lúa, giúp đồng bào quần áo, vải vóc, thuốc men để cứu đói, chữa bệnh.
Bộ Tư lệnh Liên khu V đã tổ chức trao trả tù binh cho Pháp, giao cho Pháp 800 tù binh Âu - Phi và 1.000 tù binh ngụy. Việc làm này có ảnh hưởng tốt đối với người trong hàng ngũ địch và nhân dân địa phương.
Ở bến cảng Quy Nhơn, tàu của Ba Lan và Liên Xô đã giúp ta chở 40.000 cán bộ, chiến sĩ quân đội ra Bắc. Số cán bộ dân, Đảng, chính quyền, thanh niên xung phong và nhân dân tập kết ra miền Bắc gần 2 vạn.
Việc tập kết, chuyển quân ở Nam Trung Bộ đã được thực hiện đúng kế hoạch và thời gian quy định.
- Viện Lịch sử, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975 ), Hà Nội, 1992, tr.227-231.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quặng Ngãi (1945-1975), Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
NGÀY 22-7
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết
Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết đánh dấu một bước ngoặt lịch sử đối với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ của dân tộc ta. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tới toàn thể đồng bào, cán bộ và chiến sĩ trong cả nước.
Lời kêu gọi của Người đặc biệt nhấn mạnh tới tình hình cách mạng miền Nam. Thay mặt Đảng và Chính phủ, Người khẳng định một cách dứt khoát rằng "Trung - Nam - Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng”.
Người rất thông cảm với những hy sinh, mất mát và cũng rất tin tưởng vào tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường của đồng bào miền Nam: "Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước lên trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc".
Người nhắc nhở đồng bào miền Nam và cả nước: "Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ”.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm, đường lối và sức mạnh cách mạng của dân tộc ta trong suốt cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ trong những năm sau đó.
- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.322.
NGÀY 30-7
Ban Bí thư ra Chỉ thị Về việc chấp hành lệnh đình chiến
Trung ương và Tổng Quân ủy đã ra chỉ thị và mệnh lệnh ngừng bắn và đình chiến. Các cấp ủy cùng với các cơ quan chỉ huy bộ đội ở các địa phương phải nghiêm chỉnh chấp hành để tránh xảy ra ngăn trở, gây ảnh hưởng xấu về chính trị, làm cho bọn phá hoại đình chiến mượn cớ gây khó khăn.
Để thực hiện tốt việc đình chiến, Ban Bí thư Chỉ thị cho các cấp chấp hành lệnh đình chiến.
Chỉ thị nêu rõ, các cấp ủy phải làm tốt những điều sau:
Đảm bảo thi hành mệnh lệnh đình chiến ở địa phương mình được nhanh chóng.
Không để xảy ra những hành động cản trở việc quân đội Pháp rút vào những địa điểm tập trung hoặc di chuyển, vì nếu ta gây ra khó khăn thì bọn khiêu khích sẽ lấy đó để kéo dài thời hạn tập trung và rút quân và sẽ làm khó dễ đối với việc di chuyển của bộ đội ta.
Đối với những cuộc đấu tranh của quần chúng đòi chồng con, ta phải lãnh đạo và giai thích cho quần chúng biết việc chính hiện nay là để cho quân Pháp rút đi càng sớm càng tốt không nên để xảy ra xô xát. Việc quần chúng đòi chồng con hiện nay nên làm khéo léo.
Ở những vùng Pháp đóng quân, khi có đại biểu của Bộ Tổng tư lệnh ta trong Ủy ban liên hợp đến, không nên tổ chức biểu tình đón tiếp. Tránh làm lộ lực lượng, không có lợi cho việc duy trì và phát triển cơ sở của ta về sau.
Thực dân Pháp đang chuẩn bị đưa một số dân vào Nam, ta phải giải thích cho quần chúng hiểu rõ âm mưu địch muốn chia rẽ dân tộc, gây hành động phá hoại hiệp định đình chiến, cản trở thống nhất.
Phần cuối, Chỉ thị nhấn mạnh các cấp ủy cần phổ biến cho toàn thể cán bộ, đảng viên nơi có quân Pháp đóng để thi hành cho đúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr.248-250.
____________
1. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà yêu cầu có hai đại diện của hai chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia - Đoàn Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ đề nghị, nhưng đoàn Mỹ và Pháp không chấp nhận.
Trụ sở: 1A Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Email:congdcsvn@vptw.dcs.vn