Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam đã tạo ra một bước ngoặt chiến lược, có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân bắt nguồn từ đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, được sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một nét đặc sắc trong nghệ thuật quân sự Việt Nam, biểu hiện bằng sự kết hợp chặt chẽ của lực lượng vũ trang ba thứ quân với sức mạnh chính trị của quần chúng nhân dân; thể hiện sức mạnh tổng hợp của đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tuy vậy, bên cạnh những bài học thắng lợi, Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân cũng để lại một số bài học từ những hạn chế khuyết điểm. Hơn 45 năm đã trôi qua, chúng ta càng có điều kiện nhìn nhận đánh giá một cách khách quan hơn, khoa học hơn, làm sáng tỏ một số vấn đề mới xung quanh sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn này.
Nhằm giúp bạn đọc nghiên cứu, tìm hiểu sâu hơn về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản cuốn sách Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 - giá trị lịch sử do tập thể các nhà khoa học Viện Lịch sử Đảng thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn.
Mặc dù các tác giả đã rất cố gắng, song khó tránh khỏi hạn chế, khiếm khuyết. Rất mong bạn đọc đóng góp ý kiến để lần xuất bản sau cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Đường lối độc lập tự chủ của Đảng khi quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tiến lên đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ PDF ĐƯỜNG LỐI ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ CỦA ĐẢNG KHI QUYẾT ĐỊNH TỔNG TIÊN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968, TIẾN LÊN ĐÁNH BẠI Ý CHÍ XÂM LƯỢC CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
TS. NGUYỄN DANH TIÊN*
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời, căn cứ vào đặc điểm tình hình mọi mặt, Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 nhằm giành thắng lợi quyết định. Đó “là một chủ trương chiến lược đúng đắn và sáng tạo, là một sáng kiến lịch sử của Đảng ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước"1.
Mùa Xuân năm 1965, quân chiến đấu Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh (Khu 5) và một số nơi ở miền Đông Nam Bộ. Tháng 9-1965, Sư đoàn kỵ binh bay số 1 đổ bộ vào Quy Nhơn (Bình Định), chiếm đóng An Khê (Gia Lai). Từ "nóc nhà" miền Trung Đông Dương, địch mưu tính kiểm soát đồng bằng ven biển các tỉnh Trung Trung Bộ, Tây Nguyên, uy hiếp vùng Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, ngăn chặn con đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của cách mạng Việt Nam2.
Trước sự thay đổi nhanh chóng của tình hình, đầu năm 1965, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho các chiến trường và các địa phương nỗ lực phát huy cao độ sức mạnh tại chỗ, đẩy mạnh tiến công quân sự, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, diệt kìm kẹp, giành quyền làm chủ, mở rộng thế trận của chiến tranh nhân dân, sẵn sàng đánh Mỹ. Chỉ thị nhấn mạnh: "Phải tập trung sức đánh những trận tiêu diệt lớn quân chủ lực cơ động ngụy, làm suy yếu chỗ dựa về bình định của địch, đồng thời khẩn trương xây dựng quyết tâm; chuẩn bị chu đáo, đánh thắng những trận phủ đầu quân Mỹ, tiếp tục đẩy chúng vào thế bị động, nhanh chóng đánh bại chiến tranh cục bộ của chúng"3.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo nói trên, các chiến trường và địa phương nỗ lực phát huy sức mạnh chính trị và quân sự, tiến công và nổi dậy, mở rộng địa bàn làm chủ và đã tiêu diệt một số chiến đoàn quân đội Sài Gòn ở Ba Gia -Quảng Ngãi, Đồng Xoài - Đông Nam Bộ; đồng thời, đánh những trận phủ đầu quân Mỹ như: Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi), Đất Cuốc, Bầu Bàng (Đông Nam Bộ). Đặc biệt, mùa Đông năm 1965, quân và dân ta mở chiến dịch Plâyme (Gia Lai - Tây Nguyên) tiêu diệt một chiến đoàn quân đội Sài Gòn và Tiểu đoàn 2 Mỹ thuộc Sư đoàn kỵ binh bay số 1. Cuộc chiến đấu anh dũng và thắng lợi lớn trong chiến dịch Plâyme đã bước đầu làm thay đổi chiều hướng chiến tranh. Đó là thắng lợi trong thời điểm bản lề giữa chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" bị phá sản vào bước cuối cùng và chiến lược "Chiến tranh cục bộ" mới bắt đầu Từ những trận thắng phủ đầu quân Mỹ, Đảng đi đến một kết luận quan trọng: chúng ta có khả năng đánh và đánh thắng Mỹ.
Vào đầu mùa Xuân năm 1967, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, quân Mỹ mở chiến dịch Gianxơn Xiti với quy mô lớn nhằm tiêu diệt cơ quan kháng chiến đầu não của miền Nam và các đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, quân Mỹ vẫn chưa hiểu nhiều về đối phương. Trái lại, quân ta bước đầu hiểu địch, đã qua thử thách tinh thần và biết cách đánh Mỹ. Kết thúc chiến dịch, quân ta đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân Gianxơn Xiti của Mỹ, đánh bại âm mưu "tìm diệt" của chúng.
Trước những thất bại liên tiếp của địch và thắng lợi dồn dập của ta trên cả hai miền Nam Bắc, từ cuối năm 1966, đầu năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chủ trương mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm, vừa đàm vừa đánh; xem đó là sách lược hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị của quân và dân ta. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, họp từ ngày 23 đến 26-l-1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh trình bày Đề cương báo cáo về công tác đấu tranh ngoại giao, trong đó chỉ rõ: "Để đánh bại kẻ thù hết sức ngoan cố và xảo quyệt là đế quốc Mỹ xâm lược, ta phải giữ vững quyết tâm cao độ, nắm vững phương châm chiến lược, đồng thời phải biết cách đánh thắng địch, vận dụng sách lược khôn khéo, giành thắng lợi từng bước”4. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 cũng khẳng định: "Chúng ta tiến công địch về mặt ngoại giao bây giờ là đúng lúc" và chỉ rõ: "Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hiện nay, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường.
Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động"5.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 18, ngày 28-1-1967, Bộ Ngoại giao ra tuyên bố, khẳng định lập trường trước sau như một của nhân dân Việt Nam là kiên quyết chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do; đồng thời chỉ rõ: "Phía Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện được"6.
Tháng 5-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ kết thúc, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá tình hình, xem xét dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968. Tiếp đó, tháng 6 năm 1967, Hội nghị Bộ Chính trị đã bàn bạc rất kỹ dự thảo kế hoạch chiến lược này. Hội nghị đánh giá thắng lợi của quân và dân ta giành được trên cả hai miền Nam, Bắc là to lớn, toàn diện. Thắng lợi đó đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, đẩy Mỹ vào thế lúng túng, bị động cả về chiến lược lẫn chiến dịch.
Hội nghị còn nhận định, về phía ta, cả thế và lực đang có những tiến bộ, cho phép ta trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đẩy mạnh nỗ lực chủ quan đến mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn. Hội nghị dự kiến sẽ giành thắng lợi quyết định trong năm 1968 theo phương hướng đánh lớn. Muốn vậy, nhiệm vụ quân sự đề ra là phải tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Mỹ, làm mất khả năng tiến công của chúng, đồng thời phải tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không còn là lực lượng chiến lược trong tiến công và phòng ngự mà Mỹ dựa vào đó để tiến hành chiến tranh.
Nhằm chuẩn bị tốt nhất theo phương hướng trên, từ ngày 20 đến 24-10-1967, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược năm 1968. Đây là hội nghị rất quan trọng để vạch ra kế hoạch tiến công táo bạo "Tết Mậu Thân" lịch sử. Tại Hội nghị này, thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Văn Tiến Dũng trình bày dự thảo Kế hoạch chiến lược Đông Xuân Hè 1967-1968làm cơ sở cho Bộ Chính trị bàn bạc và thảo luận. Ngoài bản dự thảo kế hoạch trên đây, Bộ Chính trị còn dành thời gian nghe báo cáo về tình hình địch của Cục 2, về tình hình ta của Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu, về các kế hoạch tác chiến của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên vàNam Bộ. Trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ và thảo luận kỹ các báo cáo, đặc biệt là Kế hoạch Đông Xuân Hè 1967-1968 do Quân ủy Trung ương dự thảo, Bộ Chính trị chủ trương tạo một bất ngờ lớn về chiến lược đánh địch. Nhằm tạo được bất ngờ về chiến lược, Bộ Chính trị quyết định thời gian bắt đầu mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu Thân.
Sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1967, các chiến trường bắt tay chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.
Ngày 28-12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân và dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự và chỉ đạo hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, báo cáo toàn bộ Kế hoạch và quán xuyến việc thảo luận. Bộ Chính trị chủ trương: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"7. Đây là nhiệm vụ trọng đại và cấp bách. Bộ Chính trị quyết định: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định.
Bộ Chính trị dự kiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy có thể phát triển theo ba khả năng:
Một là, ta giành thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công kích và khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, ý chí xâm lược của địch bị đè bẹp, địch phải chịu thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục tiêu, yêu cầu của ta.
Hai là, tuy ta giành thắng lợi quan trọng nhiều nơi nhưng địch vẫn còn lực lượng dựa vào những căn cứ lớn và tăng thêm lực lượng từ ngoài vào phản công giành lại những vị trí quan trọng và các đô thị lớn, nhất là Sài Gòn để tiếp tục chiến đấu với ta.
Ba là, Mỹ tăng cường nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, sang Lào và Campuchia hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh, gỡ thế đang thua của chúng. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: ta phải nỗ lực phi thường giành thắng lợi cao nhất theo khả năng một, nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng chủ động đối phó với khả năng hai, khả năng ba, tuy ít.
Tháng 1-1968, để giữ bí mật ý đồ chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương tiến hành cuộc họp ở Kim Bôi, Hòa Bình để thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967. Hội nghị phân tích sâu sắc, toàn diện các vấn đề Bộ Chính trị nêu ra, tính kỹ các phương án, cuối cùng Trung ương nhất trí với Bộ Chính trị và lấy đó làm Nghị quyết Trung ương lần thứ 14. Phát biểu trong Hội nghị, đồng chí Trường Chinh cho đây là một sáng tạo lớn của Đảng.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng và thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Thà hy sinh tất cả chứ bất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ", đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân), quân và dân miền Nam từ Trị Thiên đến Khu 5 và Nam Bộ đã tiến công và nổi dậy đồng loạt nhằm vào các thành phố, thị xã, nhất là các hang ổ của địch ở Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, các căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng, kho tàng lớn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền, gây cho địch tổn thất lớn và choáng váng, đối phó bị động, lúng túng ở tất cả các vùng chiến lược, nhiều nơi ta đánh chiếm và làm chủ được nhiều ngày.
Ở Huế, ta hoàn toàn làm chủ thành phố, tổ chức chính quyền cách mạng, chiếm giữ 25 ngày, đánh lui hàng trăm đợt phản kích của địch. Ở Sài Gòn - Gia Định, sào huyệt của quân cướp nước và lũ bán nước, quân và dân ta đánh vào nhiều mục tiêu quan trọng như tòa Đại sứ Mỹ, dinh “Gia Long”, Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn... là những nơi đề xướng và điều hành mọi tội ác chiến tranh chống nhân dân, chống cách mạng; nơi thực thi những tội ác man rợ là các bộ tư lệnh, sở chỉ huy hành quân từ cấp quân khu xuống đến cấp trung đoàn của cả quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân chư hầu. Đánh phá làm tê liệt nhiều hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, làm ngưng trệ việc vận chuyển và thông tin liên lạc của địch trong nhiều ngày, nhiều giờ. Phối hợp chặt chẽ với tiến công, đội quân chính trị hùng hậu của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị nổi dậy mạnh mẽ, lật đổ bộ máy chính quyền địch, phá ách kìm kẹp của chúng ở nhiều nơi, san bằng hàng loạt "ấp chiến lược", giành quyền làm chủ nhiều vùng rộng lớn, xây dựng và củng cố hậu phương trực tiếp, mở rộng địa bàn của ta.
Thắng lợi lớn nhất và quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là ta đã làm đảo lộn chiến lược chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ, một đế quốc giàu mạnh nhất, làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của chúng. Trong chiến tranh, thắng lợi ở quy mô chiến dịch, chiến thuật là rất quan trọng, song chỉ khi làm đảo lộn kế hoạch chiến lược chiến tranh của đối phương mới tạo được chuyển biến lớn, thay đổi cục diện chiến trường. Đó là vấn đề có tính quy luật thuộc nghệ thuật chỉ đạo và điều hành chiến tranh, có tác động lớn đến tiến trình và kết cục cuộc chiến tranh. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của chúng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Thắng lợi oanh liệt Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đưa tới kết cục, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, quân Mỹ bị đánh bại trong một cuộc chiến tranh với Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé ở cách xa nước Mỹ.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đồng thời đã tác động trực tiếp đến đời sống chính trị, tinh thần nước Mỹ, làm cho làn sóng phảnđối chiến tranh xâm lược trong nhân dân Mỹ lên cao chưa từng thấy, trở thành một cuộc chiến tranh trong lòng nước Mỹ. Không còn sự lựa chọn nào khác, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn buộc phải tuyên bố đơn phương ngừng bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với tìm giải pháp kết thúc chiến tranh và không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ hai.
"Kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chứng tỏ Đảng ta không máy móc, mà luôn luôn có những phát kiến chiến lược lớn, luôn luôn sáng tạo trong chủ trương cũng như trong chỉ đạo toàn dân, toàn quân hành động"8. Đánh giá về sự kiện Mậu Thân 1968, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III) trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) sau ngày toàn thắng đã nêu rõ: "…Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Paris"9.
Sau 45 năm nhìn lại, chúng ta càng thấy rõ đường lối độc lập, tự chủ và đầy tính sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, một quyết định có tính bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến nhằm tiến lên đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù. Bài học đó đến nay vẹn nguyên giá trị, rất cần được chắt lọc và vận dụng sáng tạo trong thời kỳ mới. Qua đó, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, nhằm tạo nên sức mạnh to lớn để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
_____________
* Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Nxb. Quân đội nhân dân Hà Nội, 1998, tr.47.
2. Sau khi đứng chân ở các địa bàn chiến lược quan trọng nói trên, quân Mỹ khẩn trương xây dựng các căn cứ quân sự, có sân bay và đường vận chuyển, công sự chiến đấu và hàng rào dây thép gai kiên cố, đồng thời tung máy bay và các là lượng trinh sát tìm kiếm mục tiêu, sẵn sàng ra quân “tiêu diệt” các cơ quan chỉ huy, các đơn vị chủ lực Quân giải phóng.
3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Sđd, tr.60.
4. Đề cương báo Hội nghị Trung ương ngày 23-1-1967, dẫn trong Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.28, tr.124, 125.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.28, tr.174.
6. Hồ Khang: Tết Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.82.
7. Xem Hồ Khang: Tết Mậu Thân 1968 -Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Sđd, tr.95.
8. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Sđd, tr. 265.
9. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.17-18.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 - quyết định có ý nghĩa chiến lược trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968 - QUYẾT ĐỊNH CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
TS. TRỊNH THỊ HỒNG HẠNH*
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, gian khổ và bi hùng có những chiến công vang dội được khẳng định là những mốc son đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến, đánh dấu bước phát triển cao trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện có tầm vóc như thế.
Nhà sử học nổi tiếng của Mỹ về chiến tranh Việt Nam Gabriel Kolko đã viết: “Cuộc tiến công Tết 1968 là sự phát triển phức tạp và quan trọng nhất của chiến tranh Việt Nam”1, “Cuộc tiến công đã đem lại tất cả những quá trình này đến đỉnh điểm và theo quan điểm này. Cộng sản đã đạt tới một lợi thế quyết định trong toàn bộ cuộc chiến đấu của họ”2.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm đảo lộn thế chiến lược của quân Mỹ, tạo bước ngoặt quyết định cho cuộc kháng chiến. Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ", buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán ở Paris, chấm dứt ném bom không điều kiện mở đầu thời kỳ xuống thang chiến tranh. Đây là quyết sách đầy sáng tạo trong chỉ đạo chiến lược của Đảng, thể hiện đường lối chiến tranh cách mạng độc lập, tự chủ.
1. Sáng suốt lường định tình hình, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ ngay từ đầu
Khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Đảng đã lường định tình huống Mỹ có thể đưa quân vào trực tiếp tham chiến. Tháng 1-1961, trong chỉ thị Về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị đã dự kiến: Khả năng vũ trang can thiệp (đem quân vào) của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai vào miền Nam bằng hình thức và quy mô nào đó cũng là vấn đề quan trọng phải theo dõi và tìm cách để hạn chế, đề phòng và chuẩn bị kịp thời đối phó. Tháng 12-1963, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9, Đảng nhận định: Để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của nhân dân, đế quốc Mỹ không phải chỉ dùng chiến tranh đặc biệt. Trong những điều kiện nhất định, chúng có thể dùng "chiến tranh cục bộ".
Can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, đế quốc Mỹ áp dụng những chiến lược, chiến thuật mới nhất nhằm đàn áp phong trào giải phóng dân tộc. Thời kỳ 1960-1968, Đảng Dân chủ lên cầm quyền ở Mỹ, đưa ra học thuyết “Phản ứng linh hoạt” với ba loại chiến tranh, trong đó "Chiến tranh đặc biệt" và "Chiến tranh cục bộ" là hai loại "Chiến tranh hạn chế", chĩa mũi nhọn vào phong trào giải phóng dân tộc mà Việt Nam là nơi thí nghiệm đầu tiên. Đi theo lý thuyết “leo thang chiến tranh”, tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh quân sự, sau khi thất bại trong "Chiến tranh đặc biệt", Tổng thống Giônxơn đã quyết định leo nấc thang: "Chiến tranh cục bộ", nhằm “tìm lấy một thắng lợi về quân sự" bằng cách sử dụng những lực lượng quân sự khổng lồ với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất lúc bấy giờ (trừ vũ khí hạt nhân). Tư tưởng cơ bản của Giônxơn là “Chiến tranh tiêu hao”, nghĩa là với hoả lực tối đa, áp đảo của Mỹ, cách mạng Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là đầu hàng vô điều kiện. Hai gọng kìm "Tìm - diệt" và "Bình định nông thôn" của "Chiến tranh cục bộ" mà chủ yếu là gọng kìm "Tìm - diệt" với hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Cuộc "Chiến tranh phá hoại" ở miền Bắc (1965-1968) cũng không phải là cuộc chiến tranh riêng biệt, mà là một bộ phận phối hợp của “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Việt Nam. Tướng Oétmolen, Tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam luôn tin tưởng rằng, chừng nào tổn thất của “đối phương” còn lớn hơn tổn thất của "đồng minh" thì cuộc chiến tranh cuối cùng rồi sẽ thắng3.
Khi đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" giữa năm 1965, một loạt vấn đề mới đặt ra phải giải quyết: cục diện chiến tranh sẽ phát triển như thế nào? Tính chất, mục đích, hình thức chiến tranh có gì thay đổi? Ta có thể đánh thắng đế quốc Mỹ không? Ta quyết thắng và thắng như thế nào? Đường lối, phương châm, quyết tâm có gì thay đổi?
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (tháng 12-1965) phân tích sâu sắc tình hình trong nước, quốc tế, những thuận lợi cũng như khó khăn thách thức, thảo luận, nhất trí ta có thể hạn chế và thắng địch trên chiến trường miền Nam; giữ vững và quán triệt phương châm đánh địch bằng cả quân sự và chính trị. Đánh giá đế quốc Mỹ theo quan điểm biện chứng và khoa học. Vấn đề "Ta sẽ thắng như thế nào" được Hội nghị Trung ương thảo luận kỹ. Đảng không chủ trương về quân sự phải tiêu diệt toàn bộ quân Mỹ, mà chủ trương làm thất bại chính sách xâm lược, đè bẹp ý chí xâm lược, Mỹ phải chịu thua với những điều kiện nhất định, cuối cùng phải rút khỏi miền Nam.
Hội nghị Trung ương lần thứ 12 hạ quyết tâm: "…kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, kiên quyết chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng"4. Đây là một quyết định có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện tư tưởng chiến lược tiến công, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trước thử thách sống còn của vận mệnh dân tộc.
Phương châm chiến lược của chiến tranh cách mạng ở miền Nam được Trung ương xác định là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhưng đánh lâu dài không có nghĩa là đánh kéo dài. Phương hướng chỉ đạo chiến lược phải nỗ lực phấn đấu giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn, bỏ lỡ thời cơ là sai lầm. Chuẩn bị mọi điều kiện vật chất và tinh thần, đồng thời chỉ đạo các chiến trường tạo thế mới, lực mới, tiến dần từng bước tới cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
2. Quyết tâm chiến lược chuẩn xác, sáng tạo, táo bạo
Quá trình phát triển từ quyết tâm chung là giành thắng lợi quyết định đến quyết tâm cụ thể của Tổng tiến công chiến lược Xuân Mậu Thân 1968 trải qua thời gian tương đối dài. Trong quá trình đó, thực tế chiến trường cho thấy không chỉ riêng ta, mà đế quốc Mỹ cũng có ý định thắng lớn để giành ưu thế và thoát ra khỏi tình thế bị động chiến lược. Trong quá trình đó, biện pháp chiến lược nhằm thực hiện quyết tâm giành thắng lợi quyết định ngày càng rõ hơn, cụ thể hơn. Thời điểm khi quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam tiến hành chiến tranh cục bộ với mức độ ác liệt nhất, ở cấp hoạch định chiến lược, Đảng ta hình thành hai quan điểm lớn:
Quan điểm thứ nhất: muốn đánh đổ ngụy quân, ngụy quyền và đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, thì phải tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa từng phần, tiến lên đánh thẳng vào cơ quan đầu não địch để giải quyết chiến tranh.
Quan điểm thứ hai: trong chiến tranh cục bộ, phải dùng quả đấm chủ lực là chủ yếu để giải quyết thắng - thua trên chiến trường, đặc biệt phải có những trận quyết chiến chiến lược cuối cùng để kết thúc chiến tranh.
Thắng lợi quân sự của ta trước hai cuộc phản công chiến lược mùa khô còn làm thất bại một bước quan trọng chương trình “bình định" của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, thắng lợi trước cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai 1966-1967, trong đó tiêu biểu là làm thất bại ba cuộc hành quân lớn Attơnborơ, Xêđaphôn, Gianxơn Xin, cho thấy sự phá sản sâu xa trong quan điểm chiến lược chiến tranh của Mỹ. Cabốt Lốt (Henry Cabot Lodge), cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, trước khi về hưu (4-1967) đã nhận xét khá đúng về sự thất bại của chiến lược chiến tranh của Mỹ: "Westmoreland đang áp dụng chiến thuật thời Chiến tranh thế giới thứ hai đối phó với một cuộc chiến canh du kích hiện đại và ông ấy không có khả năng kết hợp những biến đổi chính trị vào trong tư duy chiến lược của mình"5.
Đây là "thắng lợi có tầm quan trọng rất lớn về chính trị và quân sự, về chiến lược và chiến thuật. Đó là thắng lợi đối với hiệp đầu của chiến lược chiến tranh cục bộ"6. Những thắng lợi này đã khiến đế quốc Mỹ "bị một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ"7, đẩy Mỹ vào thế bị động. Trên thế giới, quỹ bị cô lập chưa từng thấy, cả những đồng minh gần gũi của Mỹ cũng không ủng hộ chính sách chiến tranh xâm lược Việt Nam"8.
Tuy nhiên, đến thời gian này, tình hình trên chiến trường rất phức tạp. Mỹ có 1 triệu 20 vạn quân, ta có hơn 270.000 chủ lực và bộ đội địa phương. Phía Mỹ không đạt được những mục tiêu chiến lược như dự tính ban đầu, nhưng vẫn còn binh lực lớn và chưa sẵn sàng xuống thang chiến tranh. Ta thắng lớn nhưng chưa làm chuyển biến cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta.
Đối với Cách mạng miền Nam, ta phải tổ chức được những đợt hoạt động, những cuộc tiến công quy mô chiến lược đủ sức làm xoay chuyển cục diện chiến trường, giáng một đòn mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ, kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện để đấu tranh ngoại giao thực hiện hai mục tiêu chủ yếu: Buộc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam9.
Thực hiện mục tiêu đó, tháng 4-1967, ngay sau khi cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của quân Mỹ kết thúc, Bộ Chính trị đã họp xem xét dự thảo kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968. Cuộc họp đưa ra chủ trương chiến lược chuyển cuộc kháng chiến lên một bước mới.
Tháng 6-1967, Hội nghị Bộ Chính trị tiếp tục họp, bàn bạc kỹ dự thảo chiến lược. Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1967-1968 được hình thành, nhằm mục đích tận dụng tình thế mới, khi đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến lui đều khó, lại phải tập trung vào cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ, với điểm cốt lõi: giành thắng lợi quyết định không phải "bằng cách đánh thông thường mà phải tìm cách đánh khác để đập tan ý chí tiếp tục chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ hiểu rằng, không thể thắng được dân tộc Việt Nam bằng vũ khí và bom đạn"10.
Tháng 10-1967, trong các ngày từ 20 đến 24, Bộ Chính trị họp bàn cụ thể hơn về chủ trương và kế hoạch chiến lược Đông - Xuân - Hè 1967-1968. Bộ Chính trị đã bàn thảo, tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng. Phương thức tiến công mới, táo bạo bất ngờ và đồng loạt đánh mạnh vào các đô thị trên toàn miền Nam được lựa chọn. Để bảo đảm phương án đã định giành thắng lợi cao nhất, toàn bộ ý định chiến lược được giữ bí mật nghiêm ngặt11.
Bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1967, các đồng chí phụ trách chiến trường ra báo cáo tình hình, thống nhất cao với chủ trương và cách đánh mới này.
Đầu tháng 12-1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt, tiếp tục thảo luận, quyết định chính thức kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân, dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự và chỉ đạo hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trì.
Như vậy, phải mất nhiều tháng nghiên cứu, trao đổi, bàn bạc với các chiến trường, các đồng chí lãnh đạo và chỉ huy quân sự cấp cao, các địa phương, vừa gian khổ, tạo thế, tạo lực, mới đi đến khẳng định một quyết tâm: kết hợp hai đòn tiến công và nổi dậy, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng lực lượng quân sự Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đánh đổ chính quyền các cấp của địch, làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta hơn nữa; trên cơ sở đó làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh; đồng thời, thực hiện sách lược mềm dẻo, lôi kéo và làm tan rã quân đội Sài Gòn, mở đường cho Mỹ rút ra mà không mất thể diện.
Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp, thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị quyết định thực hiện Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đây là Quyết tâm chiến lược sáng tạo, táo bạo.
Hội nghị Trung ương 14 chỉ rõ: Cuộc kháng chiến của ta lúc này đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn12. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược13... Địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định14.
Mục tiêu chiến lược là giáng cho địch một đòn thật mạnh và hiểm, bất ngờ và đồng loạt, làm cho Mỹ phải lung lay ý chí xâm lược, tạo nên sự thay đổi cơ bản cục diện chiến tranh có lợi cho ta.
Đó là một cách đánh chưa từng diễn ra trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cũng hiếm có trong lịch sử chiến tranh cách mạng, khiến cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn không thể lường tới. Bộ Chính trị không những chỉ ra thời cơ chiến lược đã xuất hiện, mà còn quyết định một phương thức tiến công, một cách đánh mới đầy hiệu quả. Đó là đánh vào ý chí xâm lược của đối phương bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng miền Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự chính trị, ngoại giao, nhằm vào toàn bộ mục tiêu hiểm yếu của địch trên chiến trường, đặc biệt là bằng cách đánh hiểm và đánh vào thời điểm nhạy cảm nhất trong đời sống chính trị nước Mỹ, năm vận động bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ mới.
Yêu cầu hàng đầu của cuộc tiến công này vẫn là tiêu diệt nhiều địch, nhưng có nhiều nội dung mới khác hẳn trước: Hướng tiến công chủ yếu: không phải là rừng núi và nông thôn, mà là đô thị, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế. Đánh vào đây là nơi rất hiểm và nhạy cảm nhất, chỗ mạnh nhất cũng là nơi địch đang có sơ hở, có thể do đó tạo một thôi động lớn. Mục tiêu tiến công chủ yếu: không phải là các tập đoàn quân chủ lực địch, mà nhằm các cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Không gian tiến công: không chỉ một vài vùng, mà toàn Miền, quy mô rộng lớn nhất từ trước đến nay. Thời gian tiến công: không vào các thời điểm thông thường mò - đúng giữa đêm giao thừa Tết Nguyên đán, lúc bất ngờ nhất. Phương châm đánh địch: kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, ở cả ba vùng chiến lược...
3. Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tạo bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Cuộc Tổng tiến công diễn ra trong tình hình địch đã leo thang đến đỉnh cao, trong khi tướng Oétmolen đang chuẩn bị đợt tiến công thứ ba sau hai mùa khô, trước mắt đang khẩn trương cứu nguy cho căn cứ Khe Sanh, ở đó 2/5 lực lượng chiến đấu Mỹ đã bị vây hãm và tiến đánh trong một cuộc nghi binh của ta nhằm đánh lạc hướng quân địch15. Như Oétmolen dự kiến, đây sẽ là một Điện Biên Phủ mới, Tổng thống Hoa Kỳ yêu cầu Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam cam đoan không được để mất Khe Sanh16. Trong khi chúng ta không chủ trương tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Khe Sanh.
Công tác chuẩn bị cho cuộc tiến công được tiến hành khẩn trương, bí mật. Đúng đêm giao thừa Tết Mậu Thân (đêm 29 rạng ngày 30-l-1968), ta đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn Miền. Trong đợt tiến công này, ta làm nên những trận gây chấn động lớn như đánh Tòa đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, 25 ngày làm chủ thành phố Huế. Từ ngày 10 đến 17-2, đã có 543 lính Mỹ bỏ mạng, là tuần thương vong cao nhất. Trên chiến trường, lần đầu tiên ta đưa chiến tranh vào hàng loạt hậu cứ của địch - nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch trong nhiều tuần, nhiều tháng, làm thương vong nặng nề cả quân số và phương tiện chiến tranh của địch.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã đánh thẳng vào ý chí của giới cầm quyền Mỹ, làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của quân Mỹ, làm rung chuyển nước Mỹ. Tết Mậu Thân cho thấy chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa không thể nhanh chóng đủ khả năng đứng vững một cách độc lập để "chống Cộng". Mỹ căng thẳng không biết chiến tranh Việt Nam bao giờ kết thúc, bằng cách nào, tăng quân đến bao giờ.
Ngày 25-3-1968, Tổng thống Mỹ mời 14 nhà chiến lược hoạch định chính sách của Mỹ họp ở Bộ Ngoại giao để xem xét về cuộc chiến tranh: 11 người không tán thành tăng thêm quân Mỹ, đòi rút quân về; chỉ có 3 người muốn tiếp tục chiến tranh17.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải “xuống thang” chiến tranh ngay lúc leo thang cao nhất, phải chuyển từ chiến lược tiến công (tìm - diệt) sang chiến lược phòng ngự, phải hạn chế ném bom rồi ngừng hẳn việc ném bom ở miền Bắc và bước vào bàn hội đàm Paris với ta. Ta có điều kiện mở mặt trận tiến công mới về ngoại giao, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”. Như thực tế đã chứng tỏ, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã tạo bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tuy nhiên, mục tiêu khởi nghĩa ở các địa phương không đạt được như dự tính. Thực tế đã không diễn ra tổng khởi nghĩa như kế hoạch dự kiến18. Do ta đề ra yêu cầu quá cao cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Ta thiệt hại nặng: đa số tiểu đoàn mũi nhọn vào chỉ còn 40-50% rút ra. Lực lượng biệt động Sài Gòn tổn thất 80%. Năm 1968 ta tổn thất trên 111.000 cán bộ lực lượng vũ trang, đảng viên, quần chúng19.
Khuyết điểm của ta là chậm chuyển hướng chiến lược về nông thôn nên bị tổn thất nặng nề. Thế và lực của cuộc kháng chiến bị suy giảm ởcả ba vùng chiến lược, tình hình kéo dài cả năm 1969 đến năm 1970. Nhìn lại diễn biến và kết quả của đợt 2(5-1968) và đợt 3 năm 1968 "chúng ta đã mắc một số khuyết điểm, chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó, nhất là sau đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta, cho nên đã gặp khó khăn trong một thời gian. Mặc dù có những khuyết điểm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 vẫn giữ một vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ”20.
Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968 cùng diễn biến lịch sử sau đó đã chứng minh rằng, sự lựa chọn chiến lược này của Đảng là cực kỳ nhạy bén, táo bạo và chính xác. Để thực hiện quyết tâm chiến lược, quân ta đã có những nỗ lực thần kỳ, nổi bật nhất là đã tạo ra được sự bí mật, bất ngờ cao độ về cả hướng tiến công chính, thời điểm, quy mô, cường độ và chiến thuật tiến công. Sự bất ngờ này chẳng những làm nên những thắng lợi quân sự to lớn trong đợt tiến công Tết Mậu Thân mà còn góp phần "nhân đôi" ảnh hưởng chính trị và ngoại giao của cuộc tổng tiến công, làm rung động Toà Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và nhân dân Mỹ. Hiệu quả trong những năm tiếp theo cho thấy Tết Mậu Thân vượt qua tầm nhận thức của người khởi thảo, đánh “trúng huyệt”, làm chấn động nước Mỹ. "Tết Mậu Thân" là một trong những sáng tạo lớn, độc lập, tự chủ trong đường lối chiến tranh cách mạng của Đảng.
__________
* Viện Lịch sự Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Gabriel Kolko: Anatony of a War, Nxb. Pantheon Books, New York, 1985, p. 303.
2. Gabriel Kolko: Anatony of a War, Nxb. Pantheon Books, New York, 1985, p. 303.
3. Xem Giôdép A. Amtơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr.227 (bản dịch của Nguyễn Tấn Cưu).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.26, tr. 635.
5. James Olson and Randy Roberts, Where the Domino fell: American and Vietnam 1945 - 1975, Nxb. St Martin’s Press, New York, 1996, tr. 1969.
6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t.28, tr.89, 89, 116.
9. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.28, tr.122.
10. Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.11, tr.205-207.
11. Phương thức tiến công này không đưa ra bàn bạc ở Trung ương, trong Bộ Tổng Tham mưu, chỉ ai được phân công làm kế hoạch mới biết về phương thức tiến công mới này.
12, 13, 14. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.29, tr. 47, 47, 50.
15. Giữa năm 1966, Quân ủy Trung ương quyết định mở mặt trận mới: Đường số 9 - Bắc Quảng Trị, mục đích là tạo mặt trận rừng núi mới hút chủ lực địch. Mỹ phải đưa 2 trong số 7 sư đoàn lên chiến trường này, vì thế ta có thể hạn chế tối đa chỗ mạnh quân Mỹ, nhưng lại phát huy tối đa sở trường đánh rừng núi của chủ lực ta. Mở mặt trận đường số 9 phá vỡ ý định đưa quân vào đồng bằng sông Cửu Long, phá kế hoạch mở rộng chiến tranh ra Quân khu 4 ở miền Bắc.
16. Mỹ đánh giá đây là bẫy rất khôn ngoan của "Cộng sản". Đây là đòn nghi binh rất thành công của ta, kể cả về ngoại giao. Ta hút bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ vào một khu vực cho có 4% dân để đánh bất ngờ vào đô thị.
17. Xem bài Nguyễn Đình Ước, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1-2003; và Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008, bài tổng hợp từ tài liệu Mỹ của Thiếu tướng Nguyễn Đôn Tự, tr.613.
18. Trong các nghị quyết của Trung ương Đảng đều chủ trương Tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nhưng nên thực tế diễn ra là Tổng tiến công và nổi dậy như Đại hội Đảng IV kết luận.
19. Xem Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (1954-1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.II, tr.411.
20. Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 (tháng 10-973). Xem thêm: Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 23-4-1994, số 215 –BBK/BCT
Trụ sở: 1A Hùng Vương, Ba Đình, Hà Nội
Email:congdcsvn@vptw.dcs.vn