Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bế mạc Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)

“Thưa các đồng chí Trung ương,

Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,

Sau 10 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra. Các đồng chí Ủy viên Trung ương và các đồng chí tham dự Hội nghị đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, đóng góp nhiều ý kiến trí tuệ, xác đáng vào các Báo cáo, Đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí cao thông qua Nghị quyết Hội nghị. Để bế mạc Hội nghị, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị phát biểu khái quát lại những kết quả chủ yếu đã đạt được và nhấn mạnh, làm rõ thêm một số vấn đề để thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết của Hội nghị.

Một là, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, xem xét các vấn đề một cách khách quan, khoa học, Hội nghị đã thống nhất nhận định về thực trạng kinh tế - xã hội đất nước thời gian qua và xác định quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, định hướng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho năm 2014 và 2 năm 2014 - 2015. Ban Chấp hành Trung ương ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương những nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong 3 năm qua, đã kịp thời điều chỉnh và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, biện pháp đưa kinh tế đất nước vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được nhiều kết quả tích cực, đúng hướng trên các lĩnh vực. Nổi bật nhất là đã kiềm chế được lạm phát và cơ bản ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ 18,13% năm 2011 giảm xuống khoảng 7% năm 2013. Hoạt động của hệ thống các tổ chức tài chính - tín dụng an toàn, ổn định hơn; mặt bằng lãi suất giảm dần. Dự trữ ngoại hối tăng, tỉ giá ổn định. Xuất khẩu tăng khá; cán cân thương mại được cải thiện; tỉ lệ nhập siêu giảm từ gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 xuống còn 0,4% năm 2013. Nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn an toàn. Kinh tế từng bước được phục hồi; tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức bình quân 5,6%/năm trong 3 năm 2011 - 2013; riêng năm 2013 dự kiến đạt 5,4% (cao hơn năm 2012). Sản xuất công nghiệp, xây dựng, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo từng bước được cải thiện. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục giữ được đà tăng trưởng; dịch vụ tăng trưởng khá. Trong 9 tháng đầu năm 2013, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 10,8% và có hơn 11 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại. Chất lượng tăng trưởng có mặt được cải thiện.

Trong điều kiện kinh tế và cân đối ngân sách rất khó khăn, Đảng và Nhà nước đã cố gắng chăm lo phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh. Tỉ lệ hộ nghèo tiếp tục giảm. Hệ thống bảo hiểm xã hội phát triển đồng bộ, đa dạng, đối tượng tham gia được mở rộng. Trên 98% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống của người dân nơi cư trú. Mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên lên trên 2,5 triệu người. Mạng lưới cơ sở y tế tiếp tục phát triển, chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tích cực. Thông tin truyền thông và các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao tiếp tục được quan tâm gắn với thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và chương trình xây dựng nông thôn mới. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng được tăng cường, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được bảo vệ; hoạt động đối ngoại được đẩy mạnh; vị thế của đất nước được nâng cao. Việc tiến hành ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế được toàn hệ thống chính trị quan tâm, nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện, đạt một số kết quả bước đầu.

Tuy nhiên, kinh tế - xã hội nước ta hiện vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định vững chắc; vẫn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại; nợ xấu ngân hàng còn cao, hoạt động của một số tổ chức tín dụng chưa thật an toàn; cân đối ngân sách khó khăn. Thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán còn trầm lắng. Sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng còn lớn. Khu vực công nghiệp tăng trưởng chậm lại. Sản xuất, xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực gặp khó khăn về thị trường và giá cả. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện, thậm chí có mặt còn suy giảm. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập. Kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa - thể thao, thông tin - truyền thông còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Bảo vệ chủ quyền quốc gia đứng trước nhiều thách thức. Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Khiếu kiện liên quan đến đất đai vẫn còn nhiều … Việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện 3 đột phá chiến lược mới chỉ là bước đầu, còn chậm và nhiều bất cập. Đề án tổng thể tái cấu trúc nền kinh tế chưa thực sự định hướng được cho việc tái cấu trúc các ngành, lĩnh vực trên phạm vi cả nước và các vùng, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, nhất là công nghiệp phụ trợ.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình trong nước, quốc tế, dự báo xu hướng phát triển và những khả năng có thể xảy ra, Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: Xét về tổng thể, vẫn phải kiên trì mục tiêu tổng quát do Đại hội XI của Đảng đã đề ra; song trong 2 năm còn lại của nhiệm kỳ khóa XI (2014 - 2015) phải nỗ lực hơn nữa để thực hiện mục tiêu: Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; phục hồi nhịp độ tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Bảo vệ tài nguyên, môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phòng, chống tham nhũng, lãng phí; cải thiện môi trường kinh doanh. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Riêng năm 2014, tập trung ưu tiên cao cho mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát đi đôi với tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tạo động lực, niềm tin cho người dân và doanh nghiệp.

Trung ương yêu cầu Chính phủ, các bộ, ban, ngành và địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Kết luận của Hội nghị lần này. Khẩn trương cụ thể hóa và triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách phù hợp. Đặc biệt là, phải chú trọng triển khai một cách cụ thể, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện 3 đột phá chiến lược, coi đây là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sớm hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế và các đề án tái cơ cấu 3 lĩnh vực ưu tiên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa XI, bằng các chương trình hành động, kế hoạch, đề án cụ thể; với những mục tiêu, địa chỉ rõ ràng và lộ trình, bước đi phù hợp để vừa hỗ trợ ngay cho phục hồi tăng trưởng, vừa bảo đảm chuyển đổi mô hình phát triển nhanh, bền vững trong các năm sau.

Đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ trên cả ba phương diện: Xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về kinh tế; kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và các chủ thể kinh tế tham gia thị trường; và cơ chế vận hành nền kinh tế, trước hết là cơ chế hoạt động bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tôn trọng, phát huy đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và cơ chế thị trường đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế trên cơ sở phát huy vai trò của Nhà nước thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách xã hội, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, chủ yếu thông qua ngân sách nhà nước và các nguồn lực quốc gia khác. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Hướng mạnh các nguồn lực cho khu vực sản xuất, kinh doanh, nhất là vào lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đổi mới, tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ thị trường tài chính - tiền tệ, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô bền vững. Sớm xây dựng, phê duyệt, triển khai một số đề án Đặc khu hành chính - kinh tế nhằm tạo các cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế có tính đột phá.

Hai là, phát triển những kết quả đạt được tại Hội nghị Trung ương 6, Hội nghị lần này đã thảo luận và nhất trí ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. So với Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Nghị quyết của Hội nghị lần này đã kế thừa, bổ sung, phát triển nhiều nội dung đổi mới về nhận thức, tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện. Về nhận thức, Trung ương cho rằng, đổi mới căn bản và toàn diện là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo cùng các cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm việc thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến đổi mới các cơ sở giáo dục - đào tạo và sự tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học, ở cả Trung ương và địa phương. Đổi mới căn bản và toàn diện không có nghĩa là làm lại tất cả từ đầu mà phải kế thừa, phát triển những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, phát huy những thành tựu và kinh nghiệm tốt đã có, đồng thời bổ sung những quan điểm, tư tưởng mới, kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc làm trái quy luật, phát triển những nhân tố mới. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, đồng thời có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.

Về mục tiêu của đổi mới lần này, Trung ương chỉ rõ, phải tạo cho được chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo; khắc phục cơ bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, hết lòng phục vụ nhân dân và đất nước; có hiểu biết và kỹ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để làm chủ bản thân, sống tốt và làm việc hiệu quả. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng. Hệ thống giáo dục và đào tạo được chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và mang đậm bản sắc dân tộc.

Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, phải thực sự coi giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu giáo dục là nâng cao dân trí, phát triển năng lực công dân, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện tốt các nguyên lý giáo dục: Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, kinh doanh; lý luận gắn liền với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển phát triển giáo dục chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang phát triển theo mục tiêu vừa đáp ứng yêu cầu số lượng, vừa chú trọng nâng cao chất lượng. Chuyển hệ thống giáo dục còn cứng nhắc, thiếu tính liên thông hiện nay sang hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời. Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục - đào tạo. Phát triển hài hòa, bình đẳng, hỗ trợ lẫn nhau giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giáo dục ở các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục ở những vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Ba là, Ban Chấp hành Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau và góp ý cụ thể vào từng chương, điều và toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Một lần nữa, Trung ương hoan nghênh và cảm ơn đồng bào, chiến sĩ cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài, trong thời gian qua, tiếp tục có nhiều ý kiến đóng góp hoàn chỉnh Dự thảo. Đồng thời hoan nghênh, đánh giá cao các đại biểu Quốc hội đã phát huy vai trò và trách nhiệm của mình, đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng vào nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ghi nhận, biểu dương Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và các cơ quan chức năng đã khẩn trương, nghiêm túc tổng hợp, phân tích, tiếp thu, giải trình một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau để hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.

Trung ương cho rằng, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này cơ bản đã được hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn kỹ thuật văn bản, đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Nội dung Dự thảo đã phản ánh được ý chí và nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc. Thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Quy định rõ ràng, đúng đắn và đầy đủ về chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ; quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân; tổ chức bộ máy nhà nước... Khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để mỗi cơ quan thực thi có hiệu lực, hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp, với sự phối hợp, cộng tác chặt chẽ, tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội,... Bố cục, lời văn, kỹ thuật trình bày cơ bản đã bảo đảm được yêu cầu Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có tính ổn định lâu dài.

Ngay sau Hội nghị này, Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và các cơ quan chức năng cần khẩn trương tiếp thu ý kiến của Trung ương hoàn chỉnh toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 6 sắp tới. Việc hoàn thiện Dự thảo và trình Quốc hội xem xét, ban hành Hiến pháp sửa đổi cần tiếp tục được tiến hành một cách chặt chẽ, khoa học, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy và tổ chức Đảng; chú trọng công tác thông tin tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng chống phá, xuyên tạc. Đồng thời cần sớm có chương trình, kế hoạch triển khai thực thi Hiến pháp mới, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách; kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội. Tiến hành đổi mới hệ thống chính trị từng bước vững chắc, đồng bộ với đổi mới kinh tế như nhiều nhiệm kỳ Đại hội của Đảng đã đề ra.

Bốn là, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Ban Chấp hành Trung ương nhất trí cho rằng: 10 năm qua, trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều biến động rất phức tạp, đất nước gặp nhiều khó khăn gay gắt, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá nước ta, nhưng với sự nỗ lực phấn đấu cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã giữ vững được ổn định chính trị và môi trường hòa bình để phát triển đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước.

Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. So với 10 năm trước, tình hình thế giới và khu vực đã có nhiều thay đổi sâu sắc, có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Đông Nam Á trở thành địa bàn cạnh tranh quyết liệt về thị trường và tài nguyên; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển đảo diễn biến phức tạp. Đã xuất hiện một số loại hình chiến tranh kiểu mới, như chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, sử dụng sức mạnh mềm thông qua các hoạt động kinh tế, ngoại giao, văn hóa kết hợp với "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ... hết sức nguy hiểm. Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh kết quả, thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, làm xuất hiện những vấn đề phức tạp mới ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế ngày càng bộc lộ rõ và gay gắt. Những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cùng với sự xuống cấp của các giá trị văn hóa, tình trạng phân cực giàu nghèo, khiếu kiện đông người,... có xu hướng ngày càng tăng. Các nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo không những không giảm mà có mặt còn trầm trọng hơn.

Phải thấy hết những tình hình đó để có quyết tâm và biện pháp nâng cao cảnh giác, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Ban Chấp hành Trung ương khẳng định, phải tiếp tục thực hiện những mục tiêu, quan điểm, phương hướng, phương châm chỉ đạo mà Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX đã đề ra, đồng thời bổ sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới. Nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của cha ông ta: "Dựng nước đi đôi với giữ nước"; "giữ nước từ khi nước chưa nguy"; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nghĩa là, làm sao cho kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất. Trung ương đặc biệt nhấn mạnh, phải luôn luôn giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tiếp tục nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm trước mắt, cần phấn đấu tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục những hạn chế yéu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến, tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Sớm đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng khó khăn hiện nay, phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác; phòng, chống có hiệu quả các nguy cơ chiến tranh, xung đột trên các hướng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố; hình thành tổ chức chính trị đối lập; bảo đảm an ninh trên các lĩnh vực; kiềm chế sự gia tăng tội phạm, tạo chuyển biến rõ rệt về trật tự, an toàn xã hội.

Năm là, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thống nhất quyết định thành lập 5 Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XII của Đảng gồm: Tiểu ban Văn kiện, Tiểu ban Kinh tế - xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự; và Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội. Khi xem xét, quyết định thành lập các Tiểu ban, Trung ương đã thảo luận, cho ý kiến điều chỉnh về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ và nhân sự cụ thể của từng Tiểu ban; coi đây là công việc khởi đầu cho quá trình chuẩn bị Đại hội XII của Đảng. Các Tiểu ban cần khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch để sớm đi vào hoạt động, bảo đảm chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt là, Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Kinh tế - Xã hội cần tăng cường phối hợp với các cơ quan nghiên cứu, tham mưu của Đảng và Nhà nước, chắt lọc, kế thừa kết quả tổng kết 30 năm đổi mới để đề xuất với Đại hội XII của Đảng những chủ trương, chính sách, biện pháp đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc hơn, tạo xung lực mới cho phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương cũng đã thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến vào dự thảo Quy chế bầu cử trong Đảng. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị chỉ đạo việc tiếp thu ý kiến Trung ương, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện dự thảo Quy chế để trình Hội nghị Trung ương 9 khóa XI thông qua.

Thưa các đồng chí,

Hội nghị của chúng ta đã thành công tốt đẹp. Các quyết sách Trung ương đề ra lần này đều rất hệ trọng, có tầm ảnh hưởng to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng giáo dục - đào tạo, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự trường tồn của đất nước ta, chế độ ta. Vì vậy, mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý hãy nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện và lãnh đạo tổ chức thực hiện thật tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này cùng với Nghị quyết Đại hội XI và các Nghị quyết khác của Trung ương.

Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hoàn thành tốt trọng trách trước Đảng, trước nhân dân và đất nước.

Xin trân trọng cảm ơn”./.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website